Hoa bèo còn gọi là hoa lục bình đúng hong...chớ H nghĩ bèo như là mí cái lá bèo mà mùa mưa hay có để cho vịt nó ăn đó
Đúng rùi, hoặc cho heo ăn sống hoặc có thể nấu cháo cho heo ăn
"Vai Trò Của Thực Vật Trong Ðời Sống Văn Hóa Việt Nam Và Ðông Nam", phần "Chữa bệnh": "Thực vật vừa là thức ăn, lại vừa là kho tàng thuốc chữa bệnh thần diệu và vô tận. Xung quanh ta, hầu như không có thứ cỏ cây nào lại không có tác dụng chữa một bệnh nào đấy: bèo tấm làm ra mồ hôi; bèo cái chữa mụn nhọt; quả khế có tác dụng giã độc, trị ngã nước và sốt rét; ăn một quả chuối hột có tác dụng bằng uống một viên thuốc trị sạn thận… Cùng một thứ cỏ cây, mỗi bộ phận lại có những dược tính khác nhau: vỏ quả cau trị thủy thũng, lợi tiểu; hạt cau trị giun sán, đầy bụng, tả lỵ… Cùng một bộ phận, mỗi cách sử dụng, chế biến cũng cho những dược tính khác nhau nữa: lá trầu không hơ nóng đắp lên rốn chữa đau bụng, đầy hơi, ợ hơi; vò nát bọc trong miếng vải nhúng nước sôi chà xát hai bên sống lưng có tác dụng đánh gió, thông khí, đuổi tà khí, trị cảm mạo; nấu nước tắm trị rôm sảy, ghẻ ngứa; vò nát đắp lên mụn nhọt là mụn nhọt tiêu tan; vò lấy nước ngậm trong miệng chữa viêm nha chu…
Trong dân gian, xông giải cảm là cách chữa bệnh bằng cây lá cực kỳ phổ biến và hiệu nghiệm: Ði đâu về bị cảm nắng, cảm lạnh chỉ cần lấy củ sả, lá tre, lá bưởi, lá chanh, lá ngải, kinh giới…, mỗi loại một ít cho vào nồi nước đun sôi rồi ngồi trùm chăn vừa xông vừa khoắng cho hơi nóng bốc đều cho cả người toát mồ hôi đầm đìa là khỏi. Xông không chỉ có tác dụng trị cảm: bí đại tiểu tiện có thể dùng bồ kết cho vào nồi đốt cháy xông vào hậu môn; bị trĩ nên dùng lá kinh giới đun lấy nước xông và rửa; trĩ mũi dùng hạt nhãn đốt lên, dùng ống trúc dẫn khói xông vào mũi…
Sách Nam dược thần hiệu của nhà sư Tuệ Tĩnh sống vào tk. 14 thống kê được 499 vị thuốc cổ truyền và 82 vị thuốc mới phát hiện. Chống lại tệ sùng bái Trung Hoa đang có khuynh hướng lan tràn lúc bấy giờ, Tuệ Tĩnh chủ trương: “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt” và: “Thiên thư riêng định cõi trời Nam, Thổ sản khác nhiều Bắc quốc”. Ðến tk 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã dành 7/28 tập trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh của mình để bàn về dược, trong đó 2 tập chuyên về các vị thuốc [5] và 5 tập chuyên về các đơn thuốc.
Cho đến nay, ở Việt Nam đã phát hiện được 1.863 loài cây thuốc của 238 họ thực vật (3/4 trong số đó mọc hoang). Riêng chữa một số bệnh thông thường như cảm sốt đã có 253 cây, ỉa chảy 242 cây, kiết lị 237 cây, tiêu độc 249 cây, ho viêm họng 282 cây, tê thấp 238 cây, điều kinh 113 cây [Lê Ðình Phái 1996, tr. 37-38].
Vì thực vật trước hết là nguồn lương thực, thực phẩm, cho nên người Việt luôn chú trọng kết hợp ăn uống và chữa bệnh: uống nước vối dễ tiêu, ăn ý dĩ chống sốt rét, lá mơ đúc trứng trị kiết lỵ, cháo đậu xanh giải độc, ăn trầu ấm người và chống sâu răng… Sách Nữ công thắng lãm của Lê Hữu Trác nêu ra 82 cách làm các loại bánh, 35 cách làm mứt kẹo, 16 loại xôi, 9 loại tương hành - tất cả đều có tác dụng chữa bệnh.
Bánh tro, theo cách làm do Lê Hữu Trác ghi lại gồm: cành lá rạ phỏng, cây vừng khô, lá tầm gửi, vỏ cây xoan (sầu đâu), vỏ bưởi, cám nếp - tất cả đốt thành tro, ngâm nước khoảng 15 ngày, gạn sạch, rồi đem ngâm gạo nếp trong 5 trống canh, sau đó lấy gạo gói bánh, nấu trong nước chứa 1 phần nước tro, 2 phần nước lã, cho thêm măng tre đập dập. Theo hiểu biết hiện nay thì: rạ phỏng có kháng sinh; vừng bổ trung, nhuận tràng, điều hòa ngũ tạng, chữa nóng âm ỉ; tầm gửi trị phong, tê lạnh; vỏ xoan sát trùng, trừ giun sán, trị lỵ, đau ruột; vỏ bưởi trừ đờm, thông hơi, chữa đau bụng; cám hạ khí, thông ruột, dễ tiêu, chữa nghẹn ợ; măng tre bổ trung, điều hòa dạ dày, mát tim, tiêu đờm, bớt bốc nóng… [Văn Tạo 1979, tr. 115-116].
Có một số loại cây ở Ðông Nam Á (chủ yếu là họ lan) qua tinh luyện đã trở thành những thứ thuốc huyền thoại được biết dưới tên gọi là bùa ngải. Huỳnh Liên Tử trong cuốn Tìm hiểu ngải nghệ huyền bí [SG, 1968] đã kể lại những mẩu chuyện ly kỳ về các loại: bạch đại ngải, phù phấn ngải (ở rừng Campuchia); mê tâm ngải (ở rừng Thất Sơn, Nam Bộ); huyết nhân ngải (ở rừng Bố Trạch, Quảng Bình); ngải độc (ở rừng Lai Châu); mai hoa xà vương ngải (một loại lan ở rừng Tô Châu, Trung Quốc); ngải cầu tài (một loại hoàng lan ở rừng Lào); diệt độc ngải… Ðược biết, tại vườn thuốc nhà ông Trần Văn Thức ở Ðào Xá (Tam Thanh, Phú Thọ) có một chậu ngải giải sầu (giúp quên đi những nỗi lo) thuộc họ lan đất rất hiệu nghiệm [Huyền Nam 1986].
Không phải ngẫu nhiên mà người phương Bắc thường nhận xét với một chút ghen tỵ rằng người Việt ta ngồi trên đống thuốc. Lê Quý Ðôn viết trong Vân đài loại ngữ [1973, tr. 498]: “Sản vật tốt, phần nhiều sản xuất ở phương Nam. Có nhiều thứ hương dược (thuốc có mùi thơm), hoa quả, cây rau, mà Trung Quốc không có. Từ đời Hán, người ta khai thác Giao Chỉ, sưu tầm những thứ của quý lạ, rồi sau các thứ kì hương, hoặc sinh ở ngoài biển, hoặc sinh ở trong đất, đem bày la liệt ở thiên phủ (cung vua)”. Do trong dân có bệnh sùng thuốc bắc, nên nhiều ông thầy lang tuy dùng thuốc nam, nhưng vẫn phải xưng là thuốc bắc thì con bệnh mới tin, hoặc dùng thuốc nam là chính và chế thêm một vài vị thuốc bắc. Cho nên tục ngữ ta mới có câu: “Thuốc Nam đánh giặc, thuốc Bắc lấy tiền”. "
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/4112/DF2F181939884C08B4FEBA49F7306D83.jpg[/image]
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/4112/46C78291DD214FE48D8BF7CC5BDAC2C8.jpg[/image]
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/4112/74BA5AB5EBFF4F4F97CE53E658E868F6.jpg[/image]
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/4112/796D769A4C1047EEB563C921444D4D3C.jpg[/image]