Nhà văn Thanh Châu từ trần mang theoi bí ẩn TTKH xuống mồ!
Ct.Ly 12.05.2007 04:40:42 (permalink)
#1
    Ngọc Lý 12.05.2007 12:45:52 (permalink)
    .

    Mời các bạn đọc "Tuyển tập truyện ngắn Thanh Châu" do anh Hùng mang vào Thư Viện Việt Nam Thư Quán:

    http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nqn3n31n343tq83a3q3m3237nvn#phandau

    Trong những màu đỏ của thế hệ vừa qua, có lẽ màu hoa ti gôn là lãng mạn và thắm thiết nhất.


     
     

    hoa "ti gôn"
     
     


    Hoa "Tigôn" bà đầm! "Tigôn" bà đầm! "ơi dê" bà đầm! Cái "chợ hoa" ở phố Tràng Tiền, cạnh Hồ Gươm, làm tăng vẻ tươi thắm, mỹ miều cho Hà thành nhiều lắm. Một buổi sáng mùa thu, không gì thú bằng đứng nhìn những thiếu nữ đẹp như hoa, tha thướt đi chọn hoa, những người đàn bà Pháp áo màu rực rỡ đi qua lại đó, một đôi khi, một vài chàng trai trẻ nữa, có lúc người ta còn thấy cả những ông già cũng đến đó "hỏi thăm hoa". Thực là một cảnh tượng tưng bừng, trẻ trung gợi cảm. Tiếng mời chào của các cô hàng hoa vui vẻ như lưu luyến khách, ríu rít như chim họp chuyện buổi mai:

    - "Ơi dê" bà đầm! "Viôlét" bà đầm!

    Mỗi mùa lại một tên hoa: hết sen thì đến cúc, thược dược, hết trà lại đến cẩm nhung, huệ trắng, hướng dương..., những cái tên êm ái như tên thiếu nữ. Nhưng có ai nghĩ rằng: những bông hoa mà các cô hàng tươi trẻ buộc gói nhanh thoăn thoắt, đưa trả khách mua, những bông hoa đó sẽ về đâu? Có những bông sẽ được cắm vào những chiếc lọ pha lê quý giá, đặt trong một gian phòng khách êm đềm, được những bà nội trợ nhẹ tay sắp đặt cho có vẻ dễ thương, để mong làm đẹp lòng người chồng sắp sửa ở những chỗ làm ăn vất vả trở về, mệt nhọc. Có những bông sẽ được lọt vào tay những chàng trẻ tuổi, những thiếu nữ mới biết yêu, những bông đó thực là có diễm phúc, vì chúng nó sẽ được nâng niu, trân trọng, quý báu vô vàn, chúng nó sẽ được để bên giường ngủ, trên bàn học. Và lúc tàn rồi, người ta cũng không nỡ vứt nó ra ngoài rãnh, người ta sẽ bỏ cánh hoa rơi vào hộp mà cất kỹ dưới đáy hòm, trong góc tủ, để lúc "già rồi" hay đến lúc hết "yêu nhau" người ta mới lục ra để mà rỏ lệ vào đấy..., như trong tiểu thuyết. Cũng có những bông đi ra ngoài nghĩa địa, mang đi bởi những bàn tay gầy, trắng, của những người đàn bà góa đương còn trẻ, để đặt lên mồ của những ông chồng bất hạnh, và để nhắc cho những ông chồng ấy hiểu rằng: "Em chẳng bao giờ quên anh được... nhưng, đời đẹp lắm! Em sắp lấy chồng đây!" Lại cũng có những bông hoa đã an ủi được nhiều linh hồn cô quạnh, linh hồn khắc khoải của những kẻ chung tình đến chết vẫn còn yêu, những kẻ vì yêu mà chết!

    Như những bông hoa "Tigôn" mà họa sư Lê Chất đã đặt trên mồ Mai Hạnh, đã cắm trong phòng vẽ suốt một mùa thu.


    * * *


    Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, họa sư Lê cũng không quên mua một bó "Tigôn". Đó là cái thói quen của họa sư mà không một người bạn hay một người học trò nào thân là không biết rõ. Đến mùa hoa "Tigôn" nở nhiều nhất, thì trong nhà họa sư Lê, người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác nữa. Và có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem thực kỹ càng, người ta sẽ phải cho lời nhận xét của họa sư là đúng: "Hoa "Tigôn" hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuộm máu đào.
     
    Rồi người ta phải tự hỏi thầm:
    - Tại sao họa sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây...


    * * *


    Một buổi trưa - hồi đó Lê Chất 24 tuổi, còn là một họa sĩ nghèo mới ở trường ra - một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà thành, họa sĩ Chất rẽ vào làng Mọc với cái giá vẽ buộc trước xe. Người thiếu niên ấy vừa huýt sáo vừa đi tìm cảnh đẹp. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ yêu kiều chàng mới gặp chiều qua.

    Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ trông ra dáng biệt thự của một vị hưu quan dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe lại, và nghển cổ nhìn qua một cái hàng rào cây xanh tối um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, chàng thấy một thiếu nữ đương đứng trên một chiếc ghế cao, với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một lớp da hung hung khỏe mạnh, thứ da được phơi nắng của những cô gái nhỏ. Hai má người ấy đỏ hồng, vài sợi tóc tỏa trên vừng trán. Cảnh "con gái hái hoa" ấy như một bức tranh linh động, khiến thiếu niên họa sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Cái khuôn mặt đều đặn: một vẻ đẹp cao quý vô cùng, nhất là đôi môi có một nét vẽ lạ, mà Lê Chất chưa được trông thấy ở khuôn mặt một người thiếu nữ cùng nòi giống bao giờ. Lớp môi trên mỏng, thực mỏng như là có một bàn tay cố ý làm ra thế, còn môi dưới thì chề ra, hơi sưng sưng, như một thứ quả chín ngon lành khiến ai trông thấy cũng phải thèm thuồng ao ước. Đó là thứ nhan sắc rất hiếm hoi, người ta trông thấy một lần là phải ghi sâu trong tâm tưởng. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ những dây hoa leo trên giàn, đã để cho Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi nàng bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt ra đường, trông thấy có người đứng nhìn mình mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng con người bất lịch sự.

    Nhưng từ đó, hôm nào họa sĩ cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động thấy bóng chàng là lẩn vào nhà. Lê Chất được gặp nàng vài lần nữa rồi thôi, mà ngôi nhà hình như không có chủ nhân ở nữa, ngày nào cũng chỉ thấy có một ông lão già cuốc cỏ ở trong vườn.

    Rõ lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ ấy. Chàng cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Chàng vẽ nhiều bức "croquis" trong tập "album" của chàng để ghi lấy những nét đẹp của người mình mơ màng..., rồi dần dần cũng quên nàng...


    * * *


    Lê Chất đã nổi tiếng. Thày học cũ của chàng vì mến tài chàng đã đưa chàng lên một địa vị mà nhiều kẻ phải ghen. Tranh của chàng được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán giá rất cao. Là vì Lê Chất đã biết bỏ lối phong cảnh để vẽ người, tranh vẽ người của chàng, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn chàng tặng chàng cái tên: "Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp". Chàng đã trở nên giàu có, ăn mặc rất sang, và rất khó tính, chàng đã đứng tuổi, đã lâu chàng không còn là gã họa sĩ nghèo, vui tươi, huýt sáo đi tìm cảnh đẹp quanh vùng lân cận Hà thành, giá vẽ buộc trên xe nữa.

    Một mùa lạnh, Lê Chất đi vẽ ở vùng Vân Nam phủ, trong một bữa tiệc khiêu vũ ở tòa lãnh sự Pháp, chàng trông thấy một thiếu phụ An Nam đẹp, một vẻ đẹp buồn có dáng cao kỳ, kiêu ngạo. Chàng nhớ ra là đã gặp người ấy một lần. ở đâu? Bỗng nhiên Lê Chất rùng mình. Tám năm rồi, nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Lê Chất nhờ một người bạn quen giới thiệu: thiếu phụ là vợ một viên chức trong tòa lãnh sự, nói tiếng Pháp rất thông.
     
    Trong một bản "tango", đột nhiên Lê Chất hỏi thiếu phụ:
    - Bà vẫn thích hoa "Tigôn" chứ?
    Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:
    - Ông nói gì, tôi không được hiểu.
    - Có lẽ bà đã quên cả Hà thành..., làng Mọc..., cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa...
    Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:
    - Có phải ông là cái anh chàng họa sĩ vẫn thường rình tôi ngày trước đó không? Thảo nào mới nhìn thấy ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu. Tám, chín năm rồi đấy! Thế mà chúng ta còn nhận được nhau.

    Mai Hạnh - tên thiếu phụ rất buồn rầu ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn nữa, nàng đã lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà nàng, cuộc đời rất bằng phẳng nơi đất khách. Đến giờ, gặp được người cùng xứ, - người đó lại dự vào dĩ vãng tươi đẹp của nàng - một họa sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Nàng thường đến chỗ chàng ở trọ thăm chàng, và thuận ngồi cho chàng vẽ một bức tranh.

    Một buổi sáng, hai người đi thăm một cảnh chùa Tàu cheo leo trên một đỉnh núi, Lê Chất nói với nàng:
    - Tôi biết thể nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì tôi vẫn không bao giờ quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành một đôi bạn mà thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?
    Mai Hạnh, giọng run run và mặt tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất lại. Lê Chất ôm lấy nàng, nàng không cưỡng:
    - Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu...

    Thế là, hai người như sống trong một cơn mê. Mai Hạnh cố chống chọi lại với ái tình. Lê Chất thì lo ngại, tính toán, như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng người yêu trốn đi Nhật Bản, chàng không cần gì danh dự, chức nghiệp, dư luận của đời nữa. Khi mà người ta yêu thì còn có cần gì? Mai Hạnh thì yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại. Nhưng sau nàng cũng nhận lời.

    Lê Chất đã sắp đặt xong mọi việc, chàng trở về Hà Nội, lo lót, lấy được giấy đi, tiền bạc, đồ dùng đi xa đã sẵn sàng cả, thì phút cuối cùng, chàng nhận được một bức thư:

    "Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không thể theo anh. Đừng giận em, tội nghiệp! Em không phải là hạng đàn bà có thể vượt hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ tâm thày mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai... em thấy rằng: "Nếu chúng ta đi với nhau, chưa chắc chúng ta đã sung sướng". Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hi sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì thực chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết sẽ không bao giờ tự an ủi được bởi em đã làm hỏng đời em nếu em chẳng theo anh...".

    Trong thư, một dây hoa "Tigôn" nhỏ ép rơi ra: Những nụ hoa chúm chím hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, đỏ hồng như nhuộm máu đào. Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa và khóc, nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực: chàng đi du lịch xứ Phù Tang có mỗi một mình.

    Bốn năm sau, một hôm họa sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Chàng mở ra xem thì ra của người chồng Mai Hạnh báo tin rằng nàng đã chết. Họa sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa "Tigôn" màu máu đào, hình quả tim vỡ làm mấy mảnh. Rồi trở về Hà Nội, chàng mới sực nhớ ra rằng quên không hỏi để xem Mai Hạnh chết vì sầu muộn, hay vì một cơn cảm, sốt... chết về một bệnh gì?

    Ngày nay, họa sư Lê Chất đã già rồi, nhưng cứ đến mùa hoa "Tigôn" nở nhiều nhất, không buổi sáng nào họa sư quên mua một ôm về để thay cho hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.

    Tiểu thuyết thứ bảy, 9-1937.


    Nguồn: Hùng
    Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
    vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.05.2007 12:59:51 bởi Ngọc Lý >
    #2
      Thiếu Lang 13.05.2009 15:11:40 (permalink)
      Xin góp thêm thông tin về Hai sắc hoa Tigôn, bài của chị Thụy Khuê, nhà phê bình văn học của RFI, trên www.rfi.fr/vietnamien


      Huyền thoại TTKH và Hai sắc hoa ty gôn   Thụy Khuê
      Bài đăng ngày 13/04/2009 Cập nhật lần cuối ngày  13/04/2009 16:02 TU
      Hai loại ti gôn hồng và trắng

      Hai sắc hoa ty gôn, huyền thoại lãng mạn gắn bó với Thâm Tâm, một trong những nhà thơ tài hoa mệnh yểu thời tiền chiến. TTKh hay Thâm Tâm là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và đem hình ảnh "hoa ty gôn" vào trong thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. In bài
      Gửi bài
      Bình luận bài
      Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ. 
      Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn :  
      - Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
      - Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
      - Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).

      Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám tháng sau.

      Hoa ti gôn với hai sắc hồng và trằng


      Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:

      Anh chép bài thơ tự trái tim
      Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
      Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
      Yên ủi anh và để tặng em.
       
      Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ?
       
      Giọt lệ tương tư mới
       
      Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôngiọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tượng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành "cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ :
       
      Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
      Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
      Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
      Tôi chờ người đến với yêu đương.
       
      Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
      Dải đường xa vút bóng chiều phong,
      Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
      Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
       
      Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
      Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
      Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ,
      Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"
       
      Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
      Cánh hoa tan tác của sinh ly,
      Cho nên cười đáp:"Màu hoa trắng
      Là chút long trong chẳng biến suy."
       
      Đâu biết lần đi một lỡ làng,
      Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
      Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
      Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
       
      Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
      Lòng tôi còn giá đến bao giờ
      Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
      Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
       
      Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
      Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
      Mà từng thu chết, từng thu chết,
      Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
       
      Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
      Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
      Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
      Và đỏ như màu máu thắm pha !
       
      Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
      Một mùa thu trước rất xa xôi...
      Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
      Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
       
      Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
      Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
      Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
      Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
       
      Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
      Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
      Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
      Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)

      Người ấy
       
      Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người tình trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy.

      Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và hình ảnh "hoa ty gôn" vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, người đàn bà có chồng những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ :

      Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
      Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
      Mà từng thu chết, từng thu chết,
      Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
       
      TTKh là ai ?
       
      Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ hơn về cuộc tình này :

      Ở lại vườn Thanh có một mình
      Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
      Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
      Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
       
      và nhất là hai câu cuối :

      Biết đâu tôi một tâm hồn héo
      Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

      Vườn Thanhchồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?

      Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt :

      Ngoài trời mưa gió xôn xao
      Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
      Ai đem lễ giáo giam em
      Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.
       
      Bài thơ cuối cùng có những câu gần như khó hiểu:

      Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
      Mà viết tình em được ích gì ?
       
      Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:

      Là giết đời nhau đấy biết không ?
      Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
      Giận anh em viết dòng dư lệ
      Là chút dư hương điệu cuối cùng.
       
      Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền thoại.

      Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:
      ...
      Tiếng xe trong vết bụi hồng
      Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
      Tiếng xe trong xác pháo xưa,
      Nàng đi có bốn bài thơ trở về
      Tiếng xe mở lối vu qui
      Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
      Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
      Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
      Từ ngày đàn chia đường tơ
      Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
      Kéo dài một chiếc áo len
      Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
      Nàng còn gỡ mãi trên tay,
      Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
       Góp hai thứ tóc đôi đầu,
       Sao còn đan nối những câu tâm tình?
      Khánh ơi còn hỏi gì anh?
      Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng."
      ....

      Thâm Tâm nhắc đến người yêu tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ Thâm Tâm - Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm ?

      Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) ... và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh.

      Lập luận của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng 

      Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ nhất về cái mà hai ông gọi là "Nghi án TTKH và Thâm Tâm". Trong bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên báo chí, văn đàn từ năm 38 đến 68 của các ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là Thâm Tâm. Người lại quả quyết  TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm.

      Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Quảng Ngãi: "Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm. Giả  thuyết này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Quảng Ngãi và vườn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.

      Ông Thạch Hồ và ông Y Châu đều cho biết: TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân (giả thuyết này phù hợp với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này).

      Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định hoàn toàn.

      Nhưng có ba giả thuyết đáng chú ý :

      - Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông,  số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công Tâm cho biết: TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gônBài thơ thứ nhất.

      - Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa khuyên lơn. Chính trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký tên TTKh.

      - Nhưng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh Đào lại đưa ra một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào kết luận rằng Thâm Tâm xứng đáng là "người ấy" của TTKh.

      Sau khi đưa ra các luận chứng và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến,  kết luận :

      TTKh. không thể là sản phẩm tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần thơ lâm ly như thế thì người khác không thể viết thay được. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người có thể là đôi tri kỷ nhưng không thể cùng là một người. Các tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi án trên một huyền thoại.

       
      Sự xác định của Nguyễn Vỹ
       
      Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.

      Trang bià quyển Văn Thi Sĩ Tiền Chiến và bài viết về TTKh của nhà thơ Nguyễn Vỹ
      (Nguồn : thinhanquangngai.worldpress.com)


      Như chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.

      Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thât về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây :

      Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.

      Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
      Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".

      Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà Nội.

      Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.

      Câu chuyện tình

      Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.

      Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.

      Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.

      Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.

      Hoa ti gôn hồng (antigonon leptopus)
      (Nguồn : Wikipedia/JM Garg)

      Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại : hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.

      Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.

      Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm.

      Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.

      Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà.

      Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.

      Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm... Tuấn Trình nhận được  bức thư của người yêu, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).

      Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "người nghệ sĩ tài hoa son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... Cuối thư ký tắt Kh.

      Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.

      Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.

      Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.

      Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo.

      Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.

      Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu :

      Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
      Mà viết tình em được ích gì ?
       
      Bài thơ đan áo nay rao bán
      Cho khắp người đời thóc mách xem.
      Là giết đời nhau đấy biết không ?
      Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
      Giận anh em viết dòng dư lệ
      Là chút dư hương điệu cuối cùng.
      Từ nay anh hãy bán thơ anh
      Còn để yên tôi với một mình
       
      Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở :

      Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
      Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
      Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
      Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.

      Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: người ấyhoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ TTKH.
       

      * Phụ lục
       
      Bài thơ thứ nhất – TTKh (2)
       
      Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
      Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
      Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
      Êm ái trao tôi một vết thương.
      Tai ác ngờ đâu gió lại qua
      Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
      Thổi tan tâm điệu du dương trước
      Và tiễn người đi bến cát xa.
      Ở lại vườn Thanh có một mình
      Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
      Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
      Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
      Và một ngày kia tôi phải yêu
      Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
      Những cô áo đỏ sang nhà khác
      Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
      Từ đấy không mong không dám hẹn
      Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
      Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
      Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
      Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
      Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
      Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
      Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
      Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
      Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
      Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
      Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
      Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
      Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
      “Cố quên đi nhé câm mà nín
      Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
      Tôi run sợ viết lặng im nghe
      Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
      Như tiếng chân người len lén đến
      Song đời nào dám gặp ai về.
      Tuy thế tôi tin vẫn có người
      Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
      Biết đâu tôi một tâm hồn héo
      Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

      Đan áo cho chồng – TTKh (3)
       
      Chị ơi, nếu chị đã yêu
      Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
      Đã xa hẳn quãng đời hương
      Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
      Hay chăng chị mỗi chiều đông
      Đáng thương những kẻ có chồng như em
      Vẫn còn giá lạnh trong tim
      Đan đi đan lại áo len cho chồng
      Con chim ai nhốt trong lồng
      Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
      Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
      Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
      Tháng ngày miễn cưỡng em đan
      Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
      Như con chim nhốt trong lồng
      Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
      Ngoài trời hoa nắng xôn xao
      Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
      Ai đem lễ giáo giam em
      Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
      Lòng em khổ lắm chị ơi
      Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
      Quang cảnh lạ, tháng năm dài
      Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình. 

      Bài thơ cuối cùng – TTKh (4)
       
      Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ ?
      Một mùa thu cũ một lòng đau...
      Ba năm ví biết anh còn nhớ,
      Em đã câm lời có nói đâu!
      Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
      Càng khơi càng thấy lụy từng khi
      Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
      Mà viết tình em được ích gì?
      Chỉ có ba người đã đọc riêng
      Bài thơ "đan áo" của chồng em
      Bài thơ "đan áo" nay rao bán
      Cho khắp người đời thóc mách xem...
      Là giết đời nhau đấy biết không ?
      ...Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
      Giận anh, em viết dòng dư lệ,
      Là chút dư hương điệu cuối cùng!
      Từ nay anh hãy bán thơ anh
      Còn để yên tôi với một mình
      Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
      Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
      Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
      Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
      Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
      Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
      Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
      Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
      Nếu không yên được thì tôi ... chết
      Đêm hỡi, làm sao tối thế này ?
      Năm lại năm qua cứ muốn yên
      Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
      Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
      Lại chính là anh? anh của em!
      Tôi biết làm sao được hỡi trời?
      Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
      Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
       Sợ quá đi, anh... "có một người"!…


      Gửi T.T. Kh. – Thâm Tâm (5)

      Các anh hãy uống thật say,
      Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
      Giờ hình như quá nửa đêm ?
      Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
      Hơi đàn buồn như trời mưa
      Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
      Giờ hình như ở ngoài trời
      Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi.
       
      Hồn tôi lờ mờ sương khuya
      Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
      Vâng, tôi biết có một người
      Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
      Ðể hôm sau khóc trong lòng
      Vâng tôi có biết cánh đồng thời gian
      Hôm nay rụng hết lá vàng
      Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
      Tiếng xe trong vết bụi hồng
      Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
      Tiếng xe trong xác pháo xưa,
      Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
      Tiếng xe mở lối vu qui
      Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời !
      Miệng chồng Khánh gắn trên môi
      Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
      Từ ngày đàn chia đường tơ
      Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
      Kéo dài một chiếc áo len
      Tơ càng đứt mối, nàng càng nối giây.
      Nàng còn gỡ mãi trên tay
      Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
      Góp hai thứ tóc đôi đầu,
      Sao còn đan nối những câu tâm tình ?
      Từng năm từng đứa con non
      Mỉm cười vá kín vết thương lại lành.
      Khánh ơi còn hỏi gì anh?
      Xưa tình đã vỡ, nay tình lại nguyên
      Em về đan mối tơ duyên
      Vào tà áo mới, đừng tìm duyên xưa.
      Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
      Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
      Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
      Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha.
      Nhắc làm chi chuyện đôi ta
      Cuộc đời anh đã phong ba dập vùi...
       
      Hãy vui lên các anh ơi
      Nàng đi, tôi gọi hồn tôi trở về
      Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
      Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều
      Giờ hình như gió thổi nhiều
      Những loài "hoa máu" đã gieo nốt đời.
      Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
      Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh ?
      Sá chi những chuyện tâm tình
      Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay.

      -------------------------------------------------------------------------

      (1) Hai sắc hoa ty gôn - TTKH (Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937)
      (2) Tiểu thuyết thứ bảy, số 182 ra ngày  20-11-1937)
      (3) Phụ nữ thời đàm
      (4) Tiểu thuyết thứ bảy, số 217, 23/07/1938)
      (5) Tiểu thuyết thứ bảy, số 307, 04/05/1940)
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2009 20:27:58 bởi Ct.Ly >
      #3
        Ct.Ly 13.05.2009 16:38:27 (permalink)
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9