Tạp bút
Trần Huy Thuận 30.11.2007 08:29:37 (permalink)
            
 ngang qua
CUỘC CHƠI
tạp bút
TRẦN HUY THUẬN
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NAM ĐỊNH 2008
 
 
 
 
 
 
 
CHÂN DUNG TỰ HỌA
 
1.

Mệnh "Thành đầu thổ",
mà ở rìa làng.
Cầm tinh "Hổ vàng,
nhát ngang "thỏ đế"
!
 
2.

Chẳng chút bạc vàng tặng các con
Chẳng nhà mặt phố, chẳng lầu son
Cũng không võ sỹ, không văn sỹ
Chỉ chiếc thân còm thích véo von!..

 
3.

Có gì?
Chẳng có gì đâu
“Hai bàn tay trắng” cũng đâu của mình?
Còng là vay của Tạo sinh
Cũng hoàn cát bụi, chút tình Hoá Công!
 
Trần Huy Thuận
 
 
 
 
MẤY LỜI NÓI TRƯỚC
 
Mộng đời ai tỉnh trước ta?
Bình sinh, ta cũng rõ là cuộc chơi!”
TÀO MẠT

Bút vẫn chưa mòn, xin cứ viết
Trí còn chưa cạn, thử sức chơi!
THAO LÂM
 
 
               Mê viết lách từ nhỏ, nhưng đến già vẫn không “thành danh”! Tuy cũng được báo này báo nọ đăng tải, tặng giải; nhưng không chuyên viết về một thể tài hay một đề tài nào. Toàn là gặp đâu viết đấy, hứng lúc nào viết lúc ấy, trăn trở điều gì viết điều ấy, viết cả chính luận cho báo Nhân Dân, viết cả điều tra chống tham nhũng cho báo Lao Động, rồi chuyện cười cho Tuổi Trẻ Cười, bài cho báo Khoa học và đời sống, tiểu phẩm cho báo Nông nghiệp Việt Nam và báo Đại Đoàn Kết. Gần đây hơn, có bài đăng trên mấy trang web “văn nghệ đồng bằng sông Cửu Long”, “Thanh tra Chính phủ”, “Dân Trí”...
             Bây giờ tập hợp lại một số bài tâm đắc, tự đặt cho cái tên “tạp bút” Ngang qua cuộc chơi. Trong quá trình tập hợp, có bài để nguyên như lúc báo đăng, có bài sửa chữa đôi chút, bổ xung đôi chút.
             Nhưng tại sao lại Ngang qua cuộc chơi?
             Bởi vì, nói như Tào Mạt[1] tiên sinh: “cuộc đời này chẳng qua cũng chỉ là một cuộc chơi”. Vâng! Đời là một cuộc chơi. Nhưng đáng tiếc, kể từ lúc chưa ngộ ra cho đến lúc chợt tỉnh, mình vẫn không sao (hay không có cơ hội?) nhập được vào cuộc chơi đầy may rủi này, mà chỉ là kẻ đi ngang qua mà thôi!
             Tập tạp bút này cũng là một thứ trò chơi (chắc là lần chơi cuối cùng!), trong cái cuộc chơi lớn, trên một cái sân khấu lớn – cái “cõi tạm” này. Nơi mà mỗi con người chúng ta, dù thích hay không thích, dù vô tình hay hữu ý; đều đã, đang sắm một vai: một vai chính diện hay một vai phản diện!..
             Vai gì rồi cũng đến hồi kết thúc, ấy là lúc tấm màn sân khấu cuộc đời từ từ hạ, từ từ khép lại!... Cuộc chơi chấm dứt, “cát bụi lại trở về cát bụi” – chỉ điều đó là chân lý, chỉ điều đó là vĩnh viễn!
 
Nam Định, xuân Mậu Tý 2008
TRẦN HUY THUẬN
 
 
 
 
 
NÓI THẲNG
VÀ NGHE NÓI THẲNG!
 
"Kẻ sĩ, người trí thức
mà không nói được tiếng nói
của chính mình,...
thì suy cho cùng, nào có khác gì
con sáo bị cụt mất đầu lưỡi đâu?"
(Giáo sư Tương Lai)
"Lời nói thật thà có thể bị buộc tội
Lời nịnh hót dối lừa
có thể được tuyên dương"
(Nhà thơ Nguyễn Duy)

"Dân chủ" là tiêu chí hàng đầu để xếp hạng văn minh đối với một đất nước. Nhưng biểu hiện đầu tiên của "Dân chủ" lại chính là "Tự do". Cho nên có thể nói: Tự do là khát vọng lớn nhất của con người mọi thời đại (Bác Hồ nói: "Không có gì quý hơn độc lập tự do"). Trong đó, tự do nói lên sự thật, nói thẳng sự thật, được bầy tỏ suy nghĩ của mình, ước muốn của mình,... chính là khát vọng thường trực!
Nhưng, "Nói thẳng sự thật" - tưởng dễ mà khó! Đâu phải cứ muốn nói thẳng là ta có thể nói thẳng được? Người "thấy sao nói thế", người "nghe sao nói vậy", cứ nghĩ mình là "người thẳng thắn", hoá ra không phải như vậy! Bởi "thấy" và "nghe" là những hành vi dễ nhất mà mỗi người có thể làm được, ngoại trừ những người "khiếm thị, khiếm thính" (nhưng những người này lại thường có "linh cảm" đặc biệt mà người "sáng mắt, sáng tai" không dễ gì "qua mặt"!). "Thấy" và "nghe" mới chỉ là nhận ra cái vẻ bề ngoài, cái hình thức của sự vụ - mà ai cũng hiểu, hình thức nhiều khi không phản ảnh đúng bản chất nội dung. "Thấy" phải bằng đôi mắt tinh tường, "nghe" phải được nghe "bằng cả hai tai"!
Ngược với "thấy sao nói thế, nghe sao nói vậy" là loại người "thấy rõ mười mươi" mà không giám nói, "nghe rõ mồn một" mà giả điếc làm ngơ!
Cho nên, "thấy" và "nghe" chỉ là bước đầu tiên để nhận thức bản chất: bước thu thập thông tin. Bởi vì "nói thẳng" bao giờ cũng đi đôi với "nói thật", nên vấn đề nhận thức đúng bản chất mới là điều vô cùng quan thiết. Muốn vậy, trước tiên phải có kiến thức về lĩnh vực mình muốn nói. Cùng với kiến thức, là tư duy khoa học, là biết đánh giá một cách toàn diện, khách quan - đừng như lũ "thầy bói xem voi"; đồng thời phải xuất phát từ một cái "tâm trong sáng" - để "thẳng không thành cong", để "méo không hoá tròn", để "bé không xé ra to", để "to không vo thành bé"!...
Nhận thức đúng bản chất - cần thiết, nhưng chưa đủ! Còn phải có dũng khí dám nói sự thật, đừng để "miếng thịt bịt miệng"! (Cần nói thêm rằng, không dám nói sự thật không chỉ là hành vi của kẻ hèn yếu, mà nhiều khi còn đồng nghĩa với "ngậm miệng ăn tiền" –Thực tế cuộc sông không hiếm kẻ tiến thân rất nhanh bằng con đường "ngậm miệng": "ngậm hàm thì tiến"!  Dân gian đã nói như thế!). Đáng buồn là tình trạng thiếu dũng khí nói sự thật lại là tình trạng phổ biến. Ngay đến ở Quốc hôi, cơ quan quyền lực cao nhât, cũng rơi vào tình trạng đó: Tại phiên họp Thường vụ Quốc hội (khoá XI) ngày 3 tháng 5 năm 2006, khi bàn vè vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch Nguyễn Văn An đã phải nói: "... chúng ta chưa làm cho các đại biểu QH có dũng khí, sự mạnh dạn để giám nói..." (Báo Thanh Niên số 124 ngày 4/5/2006).
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, không phải lúc nào cũng được phép... nói đúng sự thật! Một bác sỹ, khi phát hiện ca bệnh hiểm nghèo, có nên nói trực tiếp sự thật đó với bệnh nhân không? – "Không" trong trường hợp này, nhiều khi lại là đạo đức nghề nghiệp cần thiết đối với một lương y! Vấn đề là ở chỗ: Không phải "sự thật" nào cũng nên nói; nhưng một khi đã có thể nói, thì phải nói đúng sự thật! Đấy có thể coi là những "tiêu chí" để đánh giá phẩm chất một "người-biết-nói-thẳng".
 
&&&
 
Có "người-biết-nói-thẳng" không thôi, chưa đủ, còn cần phải có "người-biết-nghe-nói-thẳng".
Không phải ai ai cũng muốn nghe lời nói thẳng, bởi "trung ngôn nghịch nhĩ" (tuy bề ngoài, người nào cũng tỏ ra sẵn sàng nghe nói thẳng, nói thật!). Mặt khác, không phải ai đó tuyên bố sẵn sàng nghe nói thẳng nói thật, sẽ lập tức được đáp ứng!
Một người muốn nghe người khác nói lên sự thật, người đó mới chỉ là "người-dám-nghe-nói-thẳng" – Vâng! Rất đáng trân trọng! Nhưng chỉ... "dám" không thôi thì chưa đủ. Người muốn nghe lời nói thẳng, trước hết, dù ở cương vị nào, người đó cũng phải có được phẩm chất cần thiết như những "tiêu chí" đã nêu đối với "người-biết-nói-thẳng" (thậm chí còn phải ở mức cao hơn), nhất là sự dũng cảm (đặc biệt là khi điều được nghe lại đụng chạm đến... người thân, đến chính bản thân!) - Để không bị "nhầm', bị "lừa", bị "bẫy",... Người nghe còn phải có "kinh nghiệm nghe" lại phải biết đích thân kiểm tra tính đúng đắn của những điều nghe được ấy. Người như thế, có thể đặt cho cái tên là "người-biết-nghe-nói-thẳng" hoặc "người-nghe-nói-thẳng-được"!
Như vậy, thực tế tồn tại một "lô-gic" sau: "người-biết-nói-thẳng", khi có dịp được nói thẳng, người đó sẽ đủ tự tin để "nói-thẳng-được"! Tương tự, người muốn nghe nói thẳng, chỉ thật sự được nghe, khi người đó... "nghe-nói-thẳng-được", tức là khi "biết-nghe-nói-thẳng"!
Một Đất nước phát triển, một Xã hội dân chủ và văn minh, rất cần những "người-biết-nói-thẳng" - được nói thẳng! Càng rất cần những "người-nghe-nói-thẳng-được" - được nghe nói thẳng! Đó chính là mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Và đó cũng là cái gốc của nền "văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Thật vậy! Làm sao có thể được coi là một nước văn minh, dân chủ, khi trong nước đó, "người-biết-nói-thật" và "người-nghe-nói-thật-được", chỉ như lá mùa thu?!.
 
LTS Dân trí - Biết “nói thẳng” và biết “nghe nói thẳng” là biểu hiện của một xã hội văn minh. Nhưng việc biết “nói thẳng” và biết “nghe nói thẳng” quả thật không đơn giản mà đòi hỏi cả trình độ và đức độ của người nói và người nghe.
Đúng như tác giả bài viết trên đây đã luận bàn, cái cần “nói thẳng” ở đây chính là “nói thẳng sự thật”. Mà muốn nhìn rõ sự thật và nói đúng sự thật thì luôn phải xem xét sự việc một cách toàn diện, với thái độ khách quan và động cơ đúng đắn.
Muốn nói đúng sự thật, nhiều khi còn đòi hỏi người nói có đức tính cương trực, giám chịu trách nhiệm trước chính kiến của mình, không lo bị thiệt, bị trù úm hoặc bị hãm hại.
Nhìn lại đời xưa, nhiều ông quan thanh liêm, chính trực đã có dũng khí như vậy khi dâng sớ lên vua bày tỏ chính kiến của mình mặc dù biết rằng không đúng ý vua nhưng không sợ bị trị tội. Trong những đời vua thịnh trị, cũng không ít những ông vua biết nghe những lời nói ngược, biết lấy lợi ích của muôn dân làm trọng.
Ngày nay, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới mạnh mẽ và toàn diện. Việc biết “nói thẳng” và biết “nghe nói thẳng” có điều kiện thuận lợi để phát huy, trở thành động lực mạnh mẽ phát triển đất nước trong thời kỳ mới, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền văn minh của nhân loại.
 
Dantri.com.vn (10 giờ 49 ngày 19/12/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
9 TÁC DỤNG CỦA NGẬM MIỆNG!
       Có một câu ca xưa: “Người khôn ăn nói nửa chừng / để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Vâng! Mới chỉ “ăn nói nửa chừng” mà còn thế, thì khi “người khôn” ngậm hẳn miệng lại, chắc “tác dụng” của nó còn lớn to lắm! Đúng thế, người đời đã “tổng kết” được tới... 9 tác dụng của việc ngậm miệng cơ đấy. Xin được lần lượt kể ra đây:
      
       Phòng bệnh: Đông y có câu: “Bệnh từ miệng mà vào”. Do đó, thường xuyên ngậm miệng, chắc sẽ ít khi mắc bệnh, đặc biệt là bệnh cúm gia cầm H5N1 (!).
       Trừ họa: Các Cụ dậy: “Họa từ miệng mà ra”. Vậy rõ ràng nếu ta luôn ngậm miệng thì không bao giờ gặp “họa đến thân”!
       Ai không may ăn phải quả đắng: Cách sử lý tốt nhất là hãy “ngậm bồ hòn làm ngọt”!
       Muốn ai đó say đắm mê mẩn: Không gì bằng cho người đó... “ngậm tiền”; vì dân gian có câu: “ngậm tiền thì hám”!
       Muốn nhanh chóng tiến thân: tốt nhất là nên “ngậm hàm”, vì người đời đã tổng kết: “ngậm hàm thì tiến”!
       Nếu vô tình bắt gặp một hành vi sai trái nào đó của sếp, ví sếp đang ... ôm nữ thư ký chẳng hạn, ta cần lờ như không trông thấy, đồng thời sau đó còn phải vĩnh viễn...”ngậm tăm”; thậm chí phải “câm như hến”!
       Là vợ sếp mà phát hiện sếp có... “bồ”; là chồng sếp mà bị sếp ... cắm sừng: Cách ứng sử đúng đắn nhất, khôn ngoan nhất thời buổi này là, hãy “ngậm đắng nuốt cay”; thậm chí còn phải... im “thin thít như thịt nấu đông” nữa! Làm như thế không chỉ nhằm giữ yên hạnh phúc gia đình, mà chính còn để... bảo toàn “nguồn thu nhập” lớn nhất của chính mình. Bởi lệ xưa nay là “có chức ắt có quyền, có quyền ắt có ...tiền”!
       Gặp trường hợp cơ quan đang có chuyện... tranh chấp quyền lực giữa các sếp: người “tỉnh táo” là người biết... “ngậm hột thị” trước mọi câu hỏi về quan điểm đối với bên nọ, bên kia. Cách tốt nhất mà nhiều người đã áp dụng thành công là bên nào ta cũng ... khen. Bên này ta khen tốt thì bên kia ta khen hay! Bên này ta khen “năng động” thì bên kia ta khen “linh hoạt”! Bên này ta bảo “sáng tạo”, bên kia ta nói “rất hiện đại”!... Như thế sẽ tránh được những nguy hiểm có thể xẩy ra, khi mọi sự chưa... ngã ngũ!
       Để vu khống hãm hại đối thủ: Không gì tốt bằng là... “ngậm máu phun người”!...

Vanchuongviet.org (15/12/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NÓI VÀ LÀM
"Nói phải đi đôi với làm" là một đòi hỏi mang tính xã hội. Không phải riêng bây giờ, mà xưa đã thế và sau này vẫn thế. Từ "Thần dân" đến vua quan, từ kẻ bị lãnh đạo đến người lãnh đạo,... đều phải luôn luôn ghi nhớ: "nói phải đi đôi với làm"! Một khi ai đó đã "nói không đi đôi với làm", thì sớm muộn, người đó cũng bị mất lòng tin nơi dân chúng.
Nhưng tại sao nói lại cứ thường không đi đôi với làm? Điều dễ hiểu này ai cũng biết, đó là vì "nói" bao giờ cũng dễ hơn "làm". Nói "dễ" vì "nói" do cái lưỡi phụ trách; còn "làm khó", vì "làm" thuộc thẩm quyền đôi tay và cơ bắp! "Nói dễ", vì "lời nói gió bay", vì "nói trước quên sau", vì "nói đâu bỏ đấy" và vì "lời nói không mất tiền mua",... Nhưng, hãy cảnh giác! Lão Tử đẫ từng dậy: "Lời nói có thể tin được thì nghe không hay; lời nói nghe hay thì không thể tin được!". Nhưng sợ nhất có lẽ là "người biết - không nói, người nói - không biết"!
Như vậy, chúng ta không chỉ cần biết sợ và đừng cả tin vào mọi lời nói, mà còn phải ghi nhớ: "chính vì "nói dễ" nên đôi khi nó rất nguy hiểm. Cha ông ta đã từng căn dặn: "lời nói đọi máu" đấy sao?!.
Vậy đấy, lời nói tuy là việc đơn giản – trẻ con, người lớn,... nếu không bị khuyết tật bộ phận thanh quản, đều có thể nói những gì muốn nói. Nhưng tác dụng trong cuộc sống xã hội của lời nói thì không hề đơn giản chút nào. "Lời nói như dao chém đá", không dễ phủi phui được đâu! Đến đây, ta lại rút ra một điều: "nói dễ" thật, nhưng không phải lúc nào cũng dễ. Cho nên chớ có "nói bừa", "nói ẩu", "nói ngon, nói ngọt", nói cho xong chuyện, và nhất là chớ có ... "nói lời lại nuốt lời", trừ phi anh không còn là người tự trọng!
"Làm khó", vì làm phải tốn sức, tốn công, thậm chí phải "quên mình", phải "hy sinh",... Tốn sức, tốn công thì nhiều người có thể làm được. Nhưng "hy sinh, quên mình", mới là thử thách khó vượt qua! Mà ở đời, những việc quan trọng nhất, lại thường đòi hỏi người thực hiện phải... hy sinh, phải quên mình! Giám hy sinh thì việc khó trở thành dễ. Đó là chân lý vậy! Chiến đấu chống ngoại xâm, phải cầm chắc có thể hy sinh xương máu. Chấp nhận rồi, thì "cái chết nhẹ tựa lông hồng"; gian nan, nguy hiểm đến mấy, cũng dễ dàng vượt qua! Cuộc chiến đấu với "nội xâm" (nạn tham nhũng), khó hơn nhiều, đòi hỏi sự hy sinh lớn lao hơn nhiều. Vì đó là cuộc chiến với người sống bên ta, với đồng đội, đồng chí,... thậm chí với chính bản thân ta - nhằm loại trừ nạn sâu mọt đục khoét, đang làm băng hoại giá trị đạo đức, lối sống; làm mục ruỗng xã hội!

Qua thế, đủ thấy rằng, "nói" dễ hơn "làm" thật, nhưng "nói" cũng có cái khó của nói; "làm" có cái dễ của làm! Vâng! "nói phải đi đôi với làm", điều ấy ai cũng thường nghe, ai cũng hiểu và ai... cũng nói được – mà làm thì mới khó làm sao?!.

Vanchuongviet.org (15/12/2007)
 




CÁI TAI VÀ VĂN HÓA NGHE
       Người lành mạnh, người bình thường: nghe bằng hai tai.
       Người có đủ hai tai lành lặn, nhưng chỉ có một tai làm việc, dân gian gọi là người chuyên có... "nghe một tai!". Cái tai "chuyên môn hóa" ấy, chỉ rặt nghe các "đệ tử ruột", không nghe ai khác, không nghe ý kiến khác ngoài ý kiến tâng bốc ca ngợi mình!
       "Trung ngôn, nghịch nhĩ" - Những lời nói thẳng làm nhiều "sếp" nghe "không lọt lỗ tai"!
       Nghe chưa ra đầu ra đuôi gì đã... "phán", là người "nghe chưa thủng lỗ tai"!
       Người sợ liên lụy trách nhiệm thì dù thiên hạ nói gì cũng ... ngô nghê giả điếc!
       Cũng có người bị gọi là "tai lành tai điếc", mặc dù anh ta chẳng ... điếc chút nào cả. Đó là loại người có tính tầm phào; nghe đấy mà đâu có nghe? Đầu óc còn để tận đâu đâu!
       "Nghe" cho có nghe, "nghe" mà chả nghe gì cả, "nghe đâu bỏ đấy",.. là những cách "nghe" của không ít quan chức làm công tác "tiếp dân", mắc bệnh lãnh cảm!
       Dân "đội đơn" kêu khản cả giọng mà "quan" làm như không nghe thấy gì, đích thị quan ấy bị "điếc lòi tai".
       Kẻ thích "đưa chuyện làm quà", thường mới "nghe hơi nồi chõ", đã lê la "buôn chuyện" khắp nơi, được người đương thời gọi là ... "buôn dưa lê"!
       Dự "hội thảo khoa học" mà có người mặt cứ ngây ra như "mặt ngỗng ỉa", chẳng hiểu "mô tê" gì cả, chẳng khác chi... "vịt nghe sấm"!
       Mấy anh chàng có tính hão huyền, thường hay "nằm mộng nghe kèn"!
       Đem tâm sự nói với người vô tâm, chẳng khác gì đem "đàn gẩy tai trâu", thà "vạch đầu gối ra mà nói", còn hơn!
       Kẻ "lười chẩy thây" thường "điếc tai: làm, sáng tai: họ"!
       Người thô lỗ thì nói cứ như... "đấm vào tai" người nghe! Hiền như Bụt cũng phát tức. Kẻ khôn ngoan bao giờ cũng nhẹ nhàng "nói ngon nói ngọt", nói như "rót mật vào tai". Đặc biệt, nếu dùng cách nói này với "sếp", thì dễ đưa "sếp" ... lên mây lắm. Rồi thì muốn gì, "sếp" cũng sẵn sàng "chiều", ngay cả lúc ấy ta có đề nghị "sếp" ký giấy bán... cầu long Biên", "sếp" cũng ký! (Bởi xưa có câu: "nói ngon nói ngọt, lọt đến xương" mà!..
       Tai luôn luôn vểnh lên nghe ngóng chuyện người khác, đích thị là tai của kẻ hay "kiếm chuyện" rồi! Nói thế thôi chứ, một khi đã bị "vạch mặt chỉ tên", những kẻ này cũng dễ "cụp tai" như "chó cụp đuôi" thôi!
       "Trên bảo, dưới không nghe" là căn bệnh "yếu sinh lý" của đấng mày râu; nhưng thời nay, cum từ ấy còn được dùng để ám chỉ cảnh kỷ cương không nghiêm, cảnh "cá mè một lứa", không ai bảo được ai; hoặc cũng để nói về tình trạng "người trên ở chẳng chính ngôi, để cho người dưới chúng tôi hõn hào!", như dân gian thường nói!
       Thế đấy! Có đôi tai lành lặn để nghe; nhưng nghe như thế nào, lại không phải là chuyện đơn giản!..   
           LTS Dân trí - Trong cuộc sống, có những việc thật đơn giản, bởi từ xưa đến nay, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đã là như vậy. Trẻ em từ ba tháng tuổi đã biết “hóng chuyện” tức là đã biết nghe… Tạo hóa sinh ra đôi tai là để nghe, vậy thì có điều gì đáng bàn. Nhưng sau những lời bàn có vẻ “tầm phào” của tác giả bài viết trên đây có ẩn chứa những điều đáng suy ngẫm. 
Sinh ra ở đời, mọi người đều có hai tai, nhưng không phải ai cũng biết lắng nghe bằng cả hai tai, cả những ý kiến khen và chê mình, cả những ý kiến giống mình và khác mình, và có thái độ ứng xử đúng. Biết lắng nghe như vậy mới đích thực là người có “văn hóa nghe”.
       Càng những người có quyền cao đức trong càng phải lắng nghe ý kiến của nhân dân với sự trân trọng bằng “cả hai tai” để thấy rõ sự thật và biết rõ nguyện vọng của nhân dân, chỉ có như vậy mới làm tròn được vai trò là người “công bộc” của nhân dân mà Bác Hồ đã từng căn dặn.
Dantri.com.vn (29/12/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
TẢN MẠN CHUYỆN
 CÁI MẮT – CÁI MŨI – CÁI TAI
               Khi có điều chướng mắt, không muốn nhìn, người ta quay mặt đi hoặc nhắm nghiền mắt lại! Đấy là cách sử sự thông thường. Còn khi điều chướng mắt ấy lại diễn ra hàng ngày, thậm chí hàng giờ, thì làm sao có thể quay mặt đi hoặc nhắm mắt mãi mãi được? Vậy là phải tính nước chuyển nhà, chuyển nơi làm việc – một “nước” đi không hề đơn giản; vì nhẽ, đâu phải cứ muốn chuyển là chuyển ngay được? Thế là đành đi đến quyết định tiêu cực: thôi, coi như mình không trông thấy hoặc coi như chẳng có gì diễn ra chung quanh ta cả! Quá lắm thì tự coi như mình đã mù! Thế là xong!..
              Khi môi trường bốc mùi khó chịu, người ta bịt mũi lại! Nhưng cũng giống như trường hợp “nhìn”, nếu cái đầu mối phát sinh ra mùi đó lại ở kề kề cạnh ta, thì chẳng ai có khả năng bịt mũi suốt ngày này sang tháng khác được! Thế thì phải làm thế nào? Chả thế nào ngoài cách... này: dọn đi nơi khác – vâng, dọn đi nơi khác! Không chịu, thì đành... nút hai lỗ mũi lại, vô hiệu hóa cái khả năng “ngửi” mà trời đã phú cho nó đi; để có thể “chung sống với...  cái mùi xú uế” cạnh ta!
              Khi tiếng ồn vượt quá mức chịu đựng, người ta bịt tai lại! Khi bị xúc phạm, người ta cũng bịt tai, hoặc phản đòn bằng cách cũng dùng lời lẽ “đầu đường só chợ” của đối thủ, để... xúc phạm lại đối thủ! Quá nữa, mà kẻ xúc phạm lại yếu hơn mình, thì tốt nhất là... bịt mồm nó lại, dán băng keo vào miệng nó như cái cô giáo mầm non nọ đã làm – khỏi phải dài dòng tranh luận, phân tích cho nó mất thời gian! Đến thế mà đối thủ vẫn chưa chịu thua, thì phải dùng vũ lực – các cụ dậy rồi: “già đòn, non nhẽ”!
              Nhưng “tiếng ồn” nằm ngay sát vách ta, nó không phát ra từ những cái mồm sinh học, mà nó là tiếng máy, tiếng còi xe,.. thì các cách trên đều bó tay!
-        Có cách đấy!
-        Cách gì?
-        Tự chọc vào tai cho điếc đi!
Nghe ghê quá! Nghe “tiêu cực” quá! Nhưng trong cuộc sồng thường nhật, nhiều khi mục tiêu “lợi nhuận” đã đẩy các “ông chủ” đến việc bất chấp tất cả. Và rồi cũng do lợi nhuận, có những “nhà chức trách”... phải “quên” luôn bổn phận ăn lương của mình, bất chấp điều gì sẽ xẩy ra đối với môi trường sống của cộng đồng: một nhà hàng karaôke ông ổng thâu đêm; hoặc một vị thuyết giáo chuyên “tra tấn” đám cử tọa toàn bằng những ý tưởng sáo rỗng, cũ mèm! Một ca sĩ uốn éo với bộ y phục... hở hang đến mức không thể hở hang hơn nữa; hoặc một “sếp nhớn” thản nhiên ôm nữ nhân viên của mình ngay tại văn phòng, ngay trong thời gian “tám giờ vàng ngọc”! Một dòng nước nhiễm độc từ nhà máy nọ, thải vào khu dân cư; hoặc một vụ án “treo” bôc mùi rác rưởi bao che, làm dư luận bất bình, phẫn uất!
Vậy thì trong những trường hợp như thế, cái “ý tưởng” tiêu cực: làm cho mắt mù đi; làm cho tai điếc đi; hoặc làm cho mũi tịt đi chắc không thể không trở thành hiện thực?!!
             
Vanchuongviet.org (23/1/2008)

 
 
 
 
THỞ!
       Dối với động vật nói chung, con người nói riêng, "thở" là một loại hoạt động để tồn tại - Một khi ta còn thở, cho dù là thở "thoi thóp", là ta còn tồn tại. Ngừng thở là lúc sự sống đã kết thúc!
       Nhưng ở đời, "thở cũng có sự phân biệt đẳng cấp đấy: "thở hổn hển", "thở phì phò", "thở bở hơi tai", "thở không ra hơi",... là những kiểu thở của người lao động chân tay, của các vận động viên thể dục thể thao - những người phải đem sức lực, cơ bắp của mình ra để đổi lấy áo cơm! "Thở dài thườn thượt", "thở vắn than dài" hoặc rất khó thở, là kiểu thở của người không kiếm ra tiền, hay không kiếm ra ... quyền! Còn "tức thở", "nghẹt thở" là kiểu thở của người dân bị oan ức, kêu "không thấu trời"!..
       Khi những kẻ bị "đồng tiền bịt miệng", thường thở ra những mùi..."không ai ngửi được!”.
       Với các "quan", đặc biệt là các "quan tham", thì kiểu thở có khác (xưa nay, dân gian thường nói: "miệng nhà quan có gang, có thép" mà lị!). "Thở ra đã thấy hơi tiền" - kiểu thở phổ biến nhất của loại quan "hành dân là chính". Với các quan nhờ lợi dụng chức quyền, vừa "trúng mánh" lớn trót lọt; hoặc bị "bể mánh" nhưng chưa bị đệ tử khai ra quan là "người đứng đằng sau", là kẻ "bảo kê"; thì "thở phào" là cách thể hiện rõ nhất của
họ! Còn với "quan" không "chạy" thoát, bị "bể mánh", phải chấp nhận tra tay vào còng, thì lúc ấy, quan chỉ còn nước thở..."hắt ra"!
       Cuối cùng, chúng ta cần phân biệt hai cum từ "tắc thở" với "tắt thở". "Tắt thở" là ngừng thở hoàn toàn, là chêt, là ra đi vĩnh viẽn, là "sang thế giới bên kia",...Còn "tắc thở" là do bị "tắc họng"; mà tắc họng thì có nhiều nguyên nhân: Do "nuốt không trôi", do được cấp dưới ... "đấm họng" nhiều quá; hoặc còn do "ngậm miệng (ăn tiền)" quá lâu!

Tắc thở, nếu không được mổ xẻ cứu chữa kịp thời, tất sẽ dẫn đến... "tắt thở”, đương nhiên!..  
         
Vanchuongviet.org (25/5/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CAO BÁ QUÁT
 ĐÃ TỪNG... NGỬI VĂN!
          Cao Bá Quát, con người mà cuộc đời chỉ có thể "cúi đầu trước hoa mai" (Nhất sinh đề thủ bái Mai hoa), đã từng... “ngửi” văn?[font=.vntime] Điều nghe có vẻ khó tin, nhưng lại là có thật! Chuyện như sau:
       Bấy giờ ở Huế, Tùng Thiện Vương (con thứ mười của vua Minh Mạng), là một thi nhân nỗi tiếng, cùng một số "Thi bá" (đa phần là các Hoàng thân, Quốc thích) lập ra "Thi xã Mạc Vân". Thơ của các nhà thơ "Thi xã" được lan truyền, nổi tiếng khắp trong Nam, ngoài Bắc, chẳng kém gì "Hội Tao đàn" thời vua Lê Thánh tông xưa. Vậy mà Cao Bá quát đã từng viết rằng:
"Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An"
       Ôi! Đem cái mùi... thum thủm của con thuyền chở mắm xứ Nghệ ví với câu thơ Thi xã Mạc vân, thì không còn gì quá quắt hơn!..
       Lại nữa, vào năm 1851, vua nhà Thanh là Hàm long băng hà. Nhận được tin, vua Tự đức truyền cho các Quan đại thần, làm câu đối để gửi phúng. Câu đối làm xong, cần người chữ đẹp để thể hiện. Cao Bá Quát được triệu vào viết, vì ông vốn nổi tiếng chữ đẹp như "phượng múa rồng bay".
       Sau khi trải tấm vóc lên mặt kỷ, Cao Bá Quát một tay cầm bút viết, một tay... bưng mũi! Các Quan thấy lạ, hỏi "sao kỳ quặc vậy?!.". Ông thủng thẳng trả lời, không một chút e ngại:
       - Văn này, phải viết cách này mới xứng!..
 
Báo Đại đoàn kết (1995)
 



CHIẾC THANG
:
           Nhân loại - theo các nấc thang văn minh - đã sáng tạo ra biết bao loại thang để trèo lên cao được dễ dàng (và đương nhiên, cũng để thuận lợi khi từ trên cao, muốn... xuống thấp!). Nhưng chung quanh cái thang, cũng có nhiều chuyện buồn, vui muốn nói.
           Tuổi thanh xuân tôi, có một kỷ niệm nhớ đời: Năm ấy, tôi từ quê lên Hà Nội để dự thi vào học trường "Bách Nghệ". Sau phần thi lý thuyết trôi chẩy, tôi bước sang phần thi thực hành. Trong phòng thi lúc ấy, chỉ có giám thị và tôi. Sau khi kiểm tra tên, tuổi, người giám thị lặng lẽ đưa cho tôi một cái búa và một cái đinh năm phân, rồi hất hàm chỉ vào chiếc thang tre đang đặt chênh vênh cạnh bức tường trước mặt: "Anh trèo lên thang, đóng chiếc đinh này vào tường!". Tôi đi đến bên chiếc thang, lưỡng lự giây lát, rồi trèo lên thang với một quyết tâm đầy quả cảm thường thấy ở tuổi trẻ! Nhưng chỉ đợi tôi vừa đặt một bàn chân lên bậc thang thứ nhất, người giám thị đã ra hiệu bảo tôi dừng lại và tuyên bố cuộc thi thực hành kết thúc! Tôi sững sờ nhìn người giám thị, không hiểu điều gì đã xẩy ra? Nhưng ông ta đã lạnh lùng đọc tên gọi thí sinh tiếp theo vào phòng thi. Mãi sau này tôi mới biết, mình bị loại vì "thiếu ý thức an toàn trong lao động": Thang chưa đặt lại ngay ngắn, trèo lên rất có thể bị đổ ngã, thế mà tôi lại tưởng người ta muốn tôi thể hiện sự "dũng cảm", nên đã "hung hăng thể hiện mình"! Ôi! Đây là trường đào tạo thợ, chứ đâu phải trường tuyển diễn viên xiếc?!.
         Tuổi trung niên, tôi lại gặp một trường hợp khác liên quan đến cái thang: lần này không phải thang tre mà là thang tự hành (loại thang điện có nhiều bậc, chỉ cần đứng lên một bậc, thang sẽ tự chuyển động đưa mình lên hoặc xuống). Năm ấy, tôi được đi tham quan nước ngoài, khi đến một siêu thị, gặp loại thang đó lần đầu. Khi thấy mọi người bước lên, chả đắn đo gì, tôi cũng nhanh nhảu lên theo. Nhưng đặt chân lên bậc thang rồi, tôi mới giật mình, toàn thân tôi cứ muốn ngửa ra phía sau. Hoảng quá, tôi vội nắm lấy tay vịn, đồng thời cố giữ thăng bằng cơ thẻ, để khỏi bị ngã!
         Tết năm nay, tôi bước sang tuổi bẩy nhăm, con cháu túm vào lo mừng thọ. Thôi thì theo nhẽ đời, cũng phải để cho chúng khoe khoang cái sự hiếu thảo với thiên hạ, mà mình cũng được tiếng thơm! Tiệc tùng xong, khách khứa ra về hết, tôi gọi anh con cả lại bảo: " Anh cả này, từ đầu năm đén giờ, thầy thấy trong mình có gì đó khang khác. Anh cũng nên bàn với các em anh về "việc đại sự" của thầy đi là vừa. Trước tiên thầy đề nghị, anh nên dọn dẹp cái phòng nhỏ dưới tầng trệt, rồi chuyển cái giường của thầy trên gác xuống. Phòng nhỡ thầy có mệnh hệ nào, chiếc cầu thang nhà mình hẹp thế, không thể khiêng thầy xuống được đâu. Chớ để xẩy ra như ông bạn già của thầy, con cháu phải cưa thang đi, rồi dùng chão thòng lọng thả xuống, trông tội nghiệp lắm!".

         Than ôi! Sự đời là thế, cái việc lên, xuống thang, tưởng đơn giản, hóa chẳng đơn giản chút nào!..
        
LTS Dân trí - Văn chương của các cụ ta ngày xưa, nhất là thơ, “ý tại ngôn ngoại” nhiều lắm. Vẫn kế thừa cái truyền thống văn chương ấy, tác giả viết bài trên đây nói chuyện “chiếc thang” với những “kỷ niệm” nhỏ nhoi trong đời mình và lo xa (mà biết đâu chả là rất gần) về cái sự “xuống thang” cuối cùng trong đời mình làm sao cho chu tất và khỏi để lại sự lo lắng phiền lụy cho con cháu. Qua đấy có thể thấy nhân vật chính trong câu chuyện này là người có “văn hóa sống”.
Nếu suy ngẫm thêm một chút, hiểu chuyện “lên thang” hay “xuống thang” theo nghĩa rộng, sâu xa hơn, thì quả thật đâu có đơn giản chút nào, phải là người có nhân cách, có đầy đủ lòng tự trọng mới biết xử thế cho phải đạo làm người, để lại tấm gương cho con cháu noi theo.

Dantri.com.vn (23/01/2008)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
BÀN VỀ BÁT HƯƠNG
Ở CÁC CƠ QUAN CÔNG QUYỀN

Truyền thống người Việt Nam ta, dù sang hay hèn; dù giầu hay nghèo, nhà nào cũng có bát hương. Trước là cúng Thổ công, sau là thờ Gia tiên. Các nhà kinh doanh buôn bán còn có thêm ban thờ Thần tài! Ngày rằm, mồng một hàng tháng, gia chủ thường có nén nhang thơm, ly nước lã, đĩa hoa quả... "gọi là chút lòng thành, kính dâng Thần linh, Tổ tiên chứng giám!..".
       Gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta còn được biết, một số cựu chiến binh – trong đó có cả một vị tướng – bên cạnh ban thờ gia tiên của mình, còn lập ban thờ các đồng đội, đồng chí đã hy sinh vì Tổ quốc! Nghĩa cử đó thật cảm động, thật đáng làm tấm gương soi chung cho nhiều thế hệ!
       Nhưng bên cạnh nét đẹp đáng trân trọng đó, dư luận xã hội cũng đã và đang quan tâm đến một hiện tượng thiếu bình thường trong việc thờ cúng. Đó là việc xuất hiện ngày càng nhiều bát hương ở văn phòng các cơ quan Nhà nước, kể cả các cơ quan của ...Đảng! Chuyện kể rằng, tại một tỉnh nọ, có một "sếp lớn", khi thuyên chuyển công tác, việc đầu tiên và quan trọng nhất mà "sếp" quan tâm, không phải là đống hồ sơ, tài liệu, chỉ thị, nghị quyết; mà là... "bát hương"! Thậm tệ hơn khi xẩy ra chuyện cán bộ cấp dưới đã đặt bát hương đó không đúng hướng mà "sếp" đã nhờ thầy cúng cao tay chọn cho, đã bị "sếp" mắng cho một trận "tơi bời khói lửa"!.. Thật xấu hổ khi biết đấy lạ là ... "sếp to" của Tỉnh!..
       Vậy nhưng, xin có một câu hỏi: các "sếp" này thờ cúng ai thế nhỉ? Thờ Tổ tiên sếp thì không phải, vì công sở đâu phải là nhà riêng của .. sếp? Có người nói họ thờ các ..."quan". Nhưng là quan nào? Hẳn không phải là các "quan bề trên" đã "khuất núi" – làm gì có chuyện tình nghĩa nhường ấy! Thời buổi "thực dụng" như hiện nay, các "sếp-trên" chỉ cần mất chức hay về hưu, thì loại cấp dưới này đã ... "quên sếp đi" từ lâu rồi! - Vậy chẳng lẽ họ thờ các quan... đang chức? Điều này càng không phải. Với loại "quan lớn" này, họ có "cúng" đấy, cúng thường xuyên là đằng khác. Nhưng không phải bằng hương hoa, nước lã; mà bằng ... đô la Mỹ chính tẩy, bằng xe hơi đời mới hoặc bằng biệt thự hiện đại cơ!...
       Vậy thì cuối cùng họ thờ "quan" nào?
       Xin thưa, đó là họ thờ "quan thần tài" đấy – quan này vốn xuất thân từ trung Quốc, đã được "Việt Nam hóa" từ nhiều đời nay. Vì họ hiểu rằng, các quan trên đương chức, dù có "mạnh", có "quyền lực đầy mình", có tài "ho ra bạc, khạc ra tiền"... thì trước sau cũng không thoát khỏi quy luật nghiệt ngã: "quan nhất thời..."! Quan lớn về, quan lớn lại đi! Chỉ có quan Thần tài mới tồn tại vĩnh cửu để chăm lo, phù hộ độ trì cho tham vọng lâu dài, không có tận cùng của họ!
       Đến đây, đành phải mạn phép linh hồn nhà thơ trào phúng đất "Non Côi sông Vị", nhại lại mấy vần thơ nổi tiếng của ông:
"...Lẳng lặng mà nghe "sếp " cúng...quan":
Mỗi năm mỗi chức, mỗi giầu sang!
Phen này ông quyết buôn... hương, nến
Chỉ bán cho quan cũng... đắt hàng!.."        

Dantri.com.vn (24/12/2007)
 
 
 
 
 
CHIẾC GHẾ VÀ VĂN HÓA NGỒI

Con người mới sinh ra vốn chỉ biết nằm, chưa biết ngồi. Lớn lên một chút, bắt đầu học lẫy, học bò rồi học ngồi. Ngồi vững mới học đứng, học đi. Đi đứng vững vàng rồi, con người lại trở lại làm quen với sự... ngồi: ngồi ăn, ngồi học, ngồi chơi, ngồi làm việc, ngồi dậy học, ngồi làm lãnh đạo, ngồi chỉ huy thiên hạ,...Gần như có tới phân nửa thời gian trong cuộc đời mỗi chúng ta, giành cho... ngồi!
Từ xa xưa, cái sự ăn đã thường gắn chặt với cái sự ngồi: "ăn trông nồi, ngồi trông hướng", "ăn trên ngồi chốc". Sự gắn bó đó có lẽ bởi chỗ ngồi nhiều khi là tiền đề, là điều kiện, là môi trường,... cho cái sự ... ăn!
Nhưng gắn bó chặt chẽ nhất với sự "ngồi", chắc chắn vẫn phải là ... cái ghế! Không có ghế, người ta chỉ còn nước ngồi... bệt xuống đất!
Ghế cũng có đẳng cấp của ghế: Đơn sơ, giản dị, bình dân là chiếc "ghế đẩu". Loại ghế này có mặt nhiều nhất ở các ngôi nhà của những người nghèo. Nhà giầu thì dùng "xa-lông". Loại ghế này không chỉ có chỗ ngồi êm ái, mà còn có cả chỗ dựa lưng vững chắc. Sang trọng và "thời thượng" là bộ "xa-lông" Tầu làm bằng đủ thứ gỗ quý, được khảm trai, có tay vịn khuỳnh ra như ngai vàng của các vua chúa ngày xưa và được tạo nên bởi những người thợ lão luyện. Ôi! thật thoải mái khi được ngồi trên những bộ xa-lông như thế!..
Thông thường, muốn có ghế ngồi trong nhà, chủ nhân phải bỏ "tiền túi" ra mua, hoặc phải bỏ công sức ra đóng. Cũng rất thông thường, với người có chức có tước, thì chả cần mua, cũng chả cần đóng, ghế vẫn cứ tự tìm đến, thậm chí tranh nhau tìm đến nữa là đằng khác!
            Nhưng có loại ghế phải được đề bạt hoặc thăng chức, mới được ngồi, đó là ghế "sếp" - một dạng "công sản quốc gia"! Loại ghế này, về danh nghĩa thì không mất tiền mua, nhưng đôi khi lại phải "mua" bằng rất nhiều tiền, bằng nhiều cách khác nhau.   
            Có một thực tế khá phổ biến chung quanh cái ghế công quyền: Khi chỉ mới phong thanh có tin ai đó chuẩn bị rời ghế để về hưu, thì cái ghế ấy đã không còn hoàn toàn là của anh ta nữa rồi! Không chỉ người kế nhiệm anh nghĩ thế, mà có khá nhiều người trong cũng như ngoài cơ quan, nghĩ thế! Quả là một thực tế đáng buồn về "nhân tình thế thái" của thời buổi kinh tế thị trường đầy đua tranh và cám dỗ này! Cái đạo lý "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" hình như đã lỗi thời! Đấy là chưa kể đến những chuyện diến ra đằng sau ... bóng của những cái ghế quyền lực. Tại đấy, đôi khi... ngập ngụa mùi phấn son; mùi tanh tưởi gươm giáo, súng ống; cùng rất nhiều mùi tởm lợm khác: nịnh hót, xúc xiểm, lường gạt, phản trắc,...
Lại có chuyện ngược lại: có những cái ghế, đáng ra không nên ngồi nữa, thậm chí không được phép ngồi nữa; mà vẫn có người vẫn cố ý... ngồi, bằng rất nhiều cách, từ chữa giảm tuổi đến chạy vạy nơi này, nơi kia để được ngồi thêm, dù chỉ là mấy tháng! Không chỉ ngồi ì, ngồi lì; còn sẵn sàng trơ trén, ban phát những "lời vàng, ý ngọc", bất chấp sự thờ ơ lạnh nhạt của cử tọa!
              Lại có loại người đã thực sự rời bỏ ghế rồi, mà cứ như người bị bệnh "mộng du": vẫn tìm mọi cách ngồi vào cái ghế thời đương chức! Họ thực sự quên mình vốn là "dân thường", đã trở về làm "thường dân" rồi!
Hãy ngồi đúng chỗ! Xưa có câu: "y phục xứng kỳ đức", nay cũng nên thêm: "ghế xứng kỳ tài"!
Quả rằng, khi nói cái ghế ở công sở cũng là "công sản quốc gia" thì có vẻ "chấp nhặt quá". cho nên gần đây, thiên hạ chỉ nói nhiều đến những là "biệt thự công", "xe ô tô công",...Nhưng xin thưa rằng, cái ghế là vật dụng nhỏ nhoi còn tham, còn khó rời bỏ, thì nói làm chi đến cái...lớn?!.
Bé, muốn ngồi vững phải tập ngồi. Còn người lớn thì sao? Lâu nay chúng ta hay nói đến từ "nô bộc", cán bộ là "nô bộc của dân"! Nhưng cứ ngồi lên cái "ghế nô bộc" là nhiều người quên ngay! Hàng ngày ăn lương dân, ở nhà dân, đi xe dân,... mà cứ nghĩ mình đang ở trên dân, cứ tưởng mình thuộc một tầng lớp khác, được "Trời" cho cái quyền... ban phát ân huệ với dân! Cho nên, không chỉ bé mới phải học ngồi, mà người lớn, muốn thực sự làm nô bộc của dân, cũng phải học... ngồi! Nhà nước cần phải nhanh chóng tổ chức những lớp học như thế!
Cái lẽ thứ hai khiến người lớn cũng phải học ngồi, ấy là "ăn trông nồi, ngồi trông hướng" – cha ông ta đã dậy thế! "Ghế trên ngồi tót sỗ sàng" (Kiều-Nguyễn Du), không phải là kiểu ngồi của người có học!
Nhưng bây giờ ít người muốn học ngồi lắm! Không muốn vì lẽ: dưới "cái nhìn lợi nhuận", thì "cái ăn", "cái ngồi" thuộc phạm trù... "thời cơ". Cứ dềnh dang hết "trông nồi" lại "trông hướng" thì còn đâu là cơ hội?!. "Ăn trên ngồi chốc" mới thức sự là điều cần phải phấn đấu!
 
LTS Dân trí - Nếu bình tâm mà suy ngẫm thì vấn đề mà tác giả bài viết trên đây phản ánh một phần sự thật trong đời sống hôm nay, nó là mặt trái đua tranh không lành mạnh trong cơ chế thị trường để giành lấy và cố giữ cái ghế lãnh đạo ở cấp này, cấp nọ vì mục đích lợi lộc cá nhân.
Nhưng suy cho cùng thì thời nào cũng có người quân tử, kẻ tiểu nhân, người ngay - kẻ gian. Những kẻ hám chức quyền, danh lợi hoàn toàn không xứng đáng với nhân cách và sĩ khí truyền thống của người Việt Nam ta. Nhìn lại đời xưa, không thiếu những ông quan thanh liêm, chính trực sẵn sàng treo ấn từ quan để lui về quê nhà làm nghề dạy học và bốc thuốc cứu người.
Ngày nay cũng không thiếu những vị tài năng, chính trực như vậy. Có thể lấy ví dụ như các vị được phong tặng Anh hùng lao động vì những thành tựu lao động thật đáng kính nể sau khi đã rời chức vụ lãnh đạo hàng chục năm. Đấy phải chăng là những con người không coi trọng “chiếc ghế lãnh đạo” và rất có “văn hóa ngồi” theo cách biểu đạt của tác giả bài viết trên đây?!

Vanchuongviet.org (18/5/2007)
- Dantri.com.vn (16 giờ 05 ngày 30/11/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
TẮM GỘI!
Tắm và gội gắn chặt với con người ta từ lúc sơ sinh, trưởng thành và đến tận lúc kết thúc cuộc đời.
Khi một đứa bé vừa lọt lòng mẹ, công việc đầu tiên đối với nó là bà đỡ cho nó đi tắm gội.
Quá trình sống ở trên đời, không ai là không thường xuyên tắm gội; ngày một hai lần hoặc vài ba ngày một lần, tùy người chăm hay lười; nhưng tuyệt đối không ai sống mà không hề tắm gội!
Việc tắm gội cũng có đôi ba đường. Khi người ta còn trẻ, hễ vào đến "toilet" là mở ngay vòi "sen" cho nước xối từ đỉnh đầu xối xuống. Khoan khoái lắm! Với người già, chớ có cùng một lúc vừa tắm vừa gội đầu, nguy hiểm vô cùng! Thậm chí bác sỹ còn khuyên các cụ cao tuổi, mỗi lần tắm, phải tắm bằng nước ấm; đồng thời nên tắm từ dưới chân tắm dần lên, chớ có đột ngột dội thẳng nước vào người, cho dù đó là nước ấm.
Nhưng vấn đề cốt lõi muốn bàn ở đây không phải là "tắm trước hay gội trước?" hoặc "tắm bộ phận nào trước, bộ phận nào sau?"; mà là ... có thật sự tắm gội không? Có thật sự muốn làm sạch bản thân mình hay không? Tắm mà không mạnh tay kì cọ, sợ đau chỗ này chỗ nọ, chỉ dội nước qua loa "chiếu lệ"; tắm bộ phận này, để lại bộ phận kia; thì chưa thể gọi là người ... sạch sẽ được! Sớm, muộn cái cơ thể không được tắm gội sạch sẽ cho lắm ấy, cũng sẽ ... bốc mùi, cho dù anh (hay chị) có ngụy trang bằng bất cứ loại nước hoa hảo hạng nào!.. Tắm như thế, cũng ví như công việc chống tham nhũng mà làm có tính cách nửa vời, “nửa đời nửa đoạn”!
Đã tắm gội là phải dùng nước sạch thì cơ thể mới thực sự sạch sẽ, mới không sợ mắc bệnh ngoài da. Ngâm mình trong bùn ở một nơi nào đó, có thể có tác dụng chữa một vài căn bệnh. Nhưng ngâm bùn xong, nhất thiết phải tắm lại bằng nước sạch ngay. Hiển nhiên, một con người vấy đầy bùn, không bao giờ là một con người bình thường!
Tắm gội lúc sống là chuyện bình thường rồi. Thế còn khi chết? Theo sách "Thọ mai gia lễ", từ thuở xa xưa, cha ông chúng ta đã có tục lệ: khi một người qua đời, lễ đầu tiên phải làm cho người đó, chính là lễ "mộc dục", tức lễ tắm gội. Việc tắm gội lúc ấy nhằm mục đích "tẩy sạch bụi trần", giúp linh hồn người chết thanh thoát về "thế giới bên kia". Đó chính là lần tắm gội cuối cùng của mỗi một con người, mỗi một kiếp sống!
Sống phải sạch sẽ! Chết cũng phải sạch sẽ! Đấy chính là đặc trưng khác biệt giữa con người và con vật. Đấy cũng là truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam chúng ta!..
 
 Vanchuongviet.org (28/11/2007)

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
TẠI SAO BẮT TRẺ QUỲ?
Đôi đầu gối tím bầm của 1 học sinh lớp 3 ở Hải Phòng vì bị cô giáo phạt lết bằng đầu gối quanh lớp 100 lần.    (ảnh :Thanh Niên).
              “ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi”: đó là câu ca trong dân gian nói về quá trình phát triển tự nhiên của một đứa trẻ - buổi đầu đời của mỗi một con người. Trong quá trình ấy, không, tuyệt nhiên không có trạng thái “QUỲ”.
                   Ấy vậy mà khi lớn lên, chính con người, lại bắt con người... quỳ! Không thuộc bài: quỳ! Không nghe lời người lớn: quỳ! Quỳ trên nền gạch thôi chưa đủ, còn bắt quỳ lên gai mít, quỳ giữa trời nắng chang chang![2] (gần đây, cá biệt có cô giáo còn áp dụng cả biện pháp... bịt miệng trẻ bằng băng keo nữa! – Thật khủng khiếp, thật man rợ!..).Trưởng thành, con người lại dậy nhau kinh nghiệm sống: muốn tồn tại, muốn tiến thân, phải biết... quỳ - không phải “quỳ theo nghĩa đen”, mà là “quỳ theo nghĩa bóng”! Người ta gọi những người có được những địa vị không bằng thực tài của chính họ như thế, là những người “biết đi bằng đầu gối”. Không chỉ đi, họ còn biết “uốn gối” nữa! (động thái này, thì các bác sỹ chuyên khoa chỉnh hình cũng phải chào thua!). Những người khảng khái, những người có tư chất – những người đích thực, thì trước bạo lực, thậm chí trước kẻ thù, cũng quyết không chùng gối! Nhà thơ Hữu Loan sinh thời đã từng viết: “Thế quỳ, thế đội, thế bò; gặp thời thế, thế mà chẳng thế!”. Trong trường hợp này, “quỳ” hay “đội” hay “bò”, đều là những hành vi giống nhau về mục tiêu, giống nhau về lối sống!
Trong các loài động vật, hình như chỉ có con voi, con trâu, con bò là phải quỳ trước khi đứng dậy - Chắc vì các con vật này to xác quá so với sức mang của đôi chân chúng? Con chó tiếng thế, lại không có động tác ấy, ngay cả lúc chó đang nằm ngửa, khi đã đứng là đứng dậy liền!
Nhưng nói thế, hoàn toàn không có nghĩa cứ quỳ là xấu cả: Trong phong tục nhiều nước, người ta có thói quen hơi khuỵu gối xuống một chút, khi gặp cấp trên, gặp người lớn tuổi. Đấy là một kiểu chào hỏi -  một ứng sử hoàn toàn mang tính văn hóa! Trong lĩnh vực quân sự, có tư thế “Quỳ bắn” - một trong những động tác bắn súng khi luyện tập, thi đấu thể thao cũng như trong chiến đấu. Quỳ bắn rõ ràng là một TƯ THẾ ĐẸP, DŨNG MÃNH, tư thế của người anh hùng. Nhiều nước đã đựng tượng tư thế này của con người.
Thưa các nhà giáo dục! Vì tương lai tươi đẹp của thế hệ Trẻ, xin các vị chỉ dậy cho trò của mình quỳ bắn trong những giờ luyện tập quân sự. Nhất quyết không bắt chúng quỳ - dù đó là quỳ theo nghĩa đen hay quỳ theo nghĩa bóng; trong bất kì hoàn cảnh nào, với bất cứ lý do nào! Phải coi việc bắt học trò quỳ, cũng là một hành vi bạo hành giáo dục, bạo ngược con người!
 
LTS Dân trí - Con người sinh ra là để đứng thẳng trên đôi chân của mình (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng). Chính điều này đã phân biệt và phân rõ ranh giới giữa loài người với các loài thú bốn chân. Quy luật tạo hóa sinh ra đã là như vậy. Quy luật sinh tồn trong một xã hội văn minh lấy dân chủ và bình đẳng làm nền tảng cũng là như vậy.
Làm cha, làm mẹ cũng như làm nhiệm vụ “trồng người” của các thầy cô giáo luôn có trách nhiệm dạy dỗ cho con em mình, học trò mình luôn biết đứng thẳng trên chính đôi chân của mình, không biết chùng gối luồn lọt nịnh bợ, càng không bao giờ biết qùy gối trước bất kỳ một thế lực nào!
Phải dạy con em mình, học trò mình từ tuổi còn thơ cái chân lý hiển nhiên nói trên. Đừng bao giờ xúc phạm đến nhân cách trẻ. Đấy là điều mọi người lớn phải tự răn mình!

Dantri.com.vn (10 giờ 23 ngày18/12/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ĐỨNG và ĐI
Dứng và Đi bằng hai chân, là hành vi đánh dấu sự tiến hóa đặc biệt của con người. Vậy mà người ta vẫn phải nhắc nhau: “Hãy đứng (hoặc hãy đi) bằng chính đôi chân của mình!” Thế có nghĩa là, trong thực tế vẫn có kẻ (lành lặn hẳn hoi), đứng và đi bằng chân người khác.
            Đứng và Đi luôn luôn khăng khít với nhau. Không ai đứng mãi một chỗ - đứng như thế có ngày ngã qụy, bởi chồn chân mỏi gối; cũng không ai đi mãi, đi mãi tất phải dừng -  không thì cũng chẳng còn hơi sức đâu mà đi. Người ta có thể đi bộ liên tục nhiều tiếng đồng hồ, nhưng chẳng mấy ai đứng yên một chỗ nổi một tiếng! Đứng rồi Đi, Đi rồi lại Đứng; hai trạng thái ấy cứ thế luân phiên, kế tiếp nhau trong suốt quá trình sống của mỗi người, trừ trường hợp bị bại liệt.
    Đứng không phải là sự tùy tiện, mà cũng phải tuân theo pháp luật. Có những nơi không nên đứng, không được đứng. Có khu vực cấm đỗ xe cơ giới, mà cứ phớt lờ, cho xe đỗ, là vi phạm pháp luật. Có chỗ chẳng cấm, nhưng xét thấy chẳng nên đứng, nên dừng, thì cũng lặng lẽ mà đi đi; chứ đứng lại, e bị coi là người thiếu văn hóa.
Đi - càng phải tuân theo pháp luật: phải đi đúng làn đường dành cho mình; cho dù đi bằng chính "đôi chân của mình" hay đi bằng các phương tiện cơ giới. Vượt đèn đỏ hoặc vượt ra ngoài các hàng cọc tiêu, giải phân cách... sớm muộn sẽ gây tai nạn, sẽ rơi xuống sông, xuống vực. Nghĩa là không được vô phép tắc theo kiểu: "đường ta, ta cứ đi".
Đứng cũng có nhiều "thế" khác nhau: Đứng thăng bằng trên dây là thế đứng chênh vênh, chỉ những nghệ sỹ xiếc mới dám làm. Đứng trên vai người khác lại là thế đứng không của riêng nghệ sỹ xiếc, mà người thường nhiều khi cũng áp dụng. Không chỉ đứng, bọn người này còn sẵn sàng đạp lên vai, lên đầu, lên cổ đồng đội để đi tới.
    "Đứng dạng chân chèo", "đứng tấn", là những thế đứng chắc khỏe của người lao động và của các võ sỹ. Nhưng đứng một cách thực sự chắc khỏe, dạng chân chèo cũng chẳng bằng, đứng tấn cũng xin thua; đó chính là cách đứng... dựa vào thế người trên nhiều quyền thế.
    Đứng núi này trông núi nọ, là kiểu đứng thể hiện sự tham lam, không tự đánh giá được mình.
    Đứng quay lưng lại thực tế, quay lưng lại nỗi bất hạnh của đồng loại, là thái độ đứng vô trách nhiệm.
    Người tự trọng và biết tôn trọng người khác, mỗi lần sắp đi đâu đó, thường đứng trước gương để chải tóc và sửa soạn y phục cho chỉnh tề.
    Đứng trước ngã tư đường đời, người khôn ngoan bao giờ cũng thận trọng lựa chọn trước mọi quyết định...
Hành vi Đứng còn gắn với thái độ ứng xử nữa: Đứng thắp hương trước ban thờ gia tiên, cần nhất là lòng thành kính chứ không phải mâm cao cỗ đầy. Đứng trước Nhân dân cần sự trân trọng. Đứng trước bề trên phải cung kính lễ độ; trước bề dưới phải ân cần chu đáo. Không ỷ quyền thế, tùy tiện huơ chân múa tay, nhất là trước đám đông dân chúng.
    Mỗi bước đi, thường có mục đích; vừa thận trọng vừa quyết đoán, giống như người chơi cờ: có nước tiến, có nước đi ngang, thậm chí có nước tạm lùi, "lùi một bước để tiến nhiều bước". "Bước đi vô định" hoặc "Nhắm mắt đưa chân" thì sớm muộn cũng gặp tai họa.
Bây giờ ra đường, nhiều bạn trẻ hễ ngồi lên xe là rất thích phóng nhanh và vượt lên trước người khác, cho dù người ấy là ông già bà cả. Vượt thì cũng được thôi, nhưng vượt theo kiểu chèn trước mũi xe người khác; vượt và rẽ ngang mà không thèm có tín hiệu báo trước, thì gây tai nạn là cái khó tránh khỏi. Gây chuyện rồi, đáng nhẽ phải dừng lại cứu hoặc xin lỗi người bị nạn, thì nhiều bạn trẻ lại phóng xe đi và cười hô hố.
    Xem thế đủ thấy: Tư chất của mỗi một con người thể hiện qua Đứng và Đi! Một khi đã không đàng hoàng trong đi và đứng, thì không thể đàng hoàng trong cư xử, trong ý thức và trong hành động. Một người ĐI, ĐỨNG ĐÀNG HOÀNG, thì bao giờ phong cách sống cũng ĐÀNG HOÀNG. Nói cách khác, muốn biết một người nào đó có phải là con người ĐÀNG HOÀNG hay không, hãy quan sát anh ta ĐI, ĐỨNG có ĐÀNG HOÀNG hay không!
Chúng ta tập đứng, tập đi từ tám, chín tháng tuổi. Lớn lên, lại đi đó đi đây, trong nước, ngoài nước có cả; ấy vậy mà đến già, có khi vẫn phạm lỗi trong ĐI, ĐỨNG; chưa biết ĐI, ĐỨNG thế nào cho phải phép! Quả có thế, xin thưa!.. 
 LTS Dân trí - Trong các loài động vật có vú, quả thật chỉ có loài người mới biết đi và đứng bằng đôi chân vững chãi của mình. Đấy là hành vi đẹp, phân biệt loài người đã tiến hóa tới chỗ có bộ óc phát triển cao, tức là có trí tuệ, khác hẳn với mọi loài thú.
Tạo hóa đã cho con người cái đặc ân có sự tiến hóa đó. Nhưng việc biết phát huy cái ưu thế “trời cho” ấy đến đâu lại tùy thuộc vào quá trình học tập, rèn luyện cũng như thái độ, trách nhiệm trước cuộc sống của mỗi con người.
Bàn về cách Đi cách Đứng của tác giả bài viết trên đây thực chất là bàn về phong cách sống và thái độ sống của mỗi người sinh ra ở đời mà trước hết thể hiện ở cách đi đứng, cách ứng xử. Đấy là cách chiêm nghiệm qua kinh nghiệm thực tế của những con người từng trải.

Dantri.com.vn (14 giờ 57 ngày26/12/2007)



BẰNG CHỨNG

Nói đến tội phạm, dù đó là tội phạm dân sự, hình sự hay quân sự,... trước hết phải nói đến “bằng chứng”. Không có bằng chứng thì không thể quy tội cho bất kì ai. Đó là Pháp luật!
Nhưng trong thực tế cuộc sống, không phải lúc nào và người nào cũng có được bằng chứng (đặc biệt khi người đó chỉ là dân thường). Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, nếu cứ đợi tìm được bằng chứng, có khi một vụ án nhỏ lại trở thành một vụ án lớn.
Xin dẫn lại đây câu chuyện cổ. Xưa có chú học trò, lần đầu từ quê lên phố tỉnh chơi. Đêm ấy chú ngủ lại một quán trọ, định để sáng mai đi xem chợ phiên. Không may, sáng sớm hôm sau, nhà trọ phát hiện ra bị mất trộm. Người ta nghi cho chú. Thế là chú học trò tội nghiệp bị quan huyện ra lệnh bắt nhốt lại để điều tra. Sau một ngày bị giam giữ, tra xét, quan huyện mới tìm ra được thủ phạm chính; chú học trò được minh oan và thả ra. Hôm sau đi học, chú tức tưởi kể lại sự vụ với Thầy giáo và bạn bè. Tưởng thầy sẽ thông cảm, ai dè, sau khi im lặng lắng nghe toàn bộ câu chuyện, ông thầy bèn ra lệnh phạt trò đó mười roi. Chú học trò ngoan ngoãn leo lên nằm úp mặt xuống tấm phản chờ trận đòn mà lòng hoang mang vô kể. Chúng bạn đồng môn cũng lấy làm ngạc nhiên trước quyết định của người thầy giáo già:
- Thưa thầy! Trò này vô tội, sao lại bị đòn ạ?!.
 Thầy giáo từ tốn giải thích:
- Đúng là trò này vô tội. Nhưng tại sao trong nhà trọ đêm ấy có bao nhiêu người, mà người ta chỉ ngờ mỗi mình nó ăn cắp? Thầy đánh đây là đánh cái tội đã không có được tác phong của con người chính trực, để người đời hiểu lầm! Trò này cần rút ra bài học nhớ đời để chăm lo chỉnh đốn tư cách đi đứng, nói năng,... Nếu không, ta e rằng sau này vào đời, nó còn gặp nhiều điều hàm oan lớn hơn nữa!
Vậy đấy! không chỉ là không có bằng chứng, mà chú học trò trong chuyện xưa còn thực sự vô tội. Người thầy giáo làng ngày ấy đã dậy cho tất cả học sinh của thầy một bài học giá trị, bài học về sự giữ gìn tư chất, tác phong trong sinh hoạt, học tập, làm việc. Để sao cho luôn luôn có được một phong thái đàng hoàng, không để dư luận kêu ca, chê trách, nghi vấn,...
Có lẽ bài học đó vẫn hoàn toàn còn nguyên giá trị thực tế, không chỉ cho tuổi học trò, mà còn cho rất nhiều người, nhất là những người đang làm nhiệm vụ công bộc với dân.
Trước khi đưa ra câu hỏi: “bằng chứng đâu?” – khi nhận được đơn thư tố cáo; xin hãy tự hỏi: “Tại sao có chuyện nghi ngờ ấy? Tại sao là mình, là người ấy, mà không phải là người khác?”. Đó mới chính là cách ứng sử đúng đắn và hợp lòng dân nhất!
 
LTS Dân trí - Câu chuyên thầy dạy trò đời xưa quả thật có ý nghĩa sâu sắc cho đến đời nay. Tư cách, phẩm chất con người thường biểu hiện ra hành động, tác phong và cách ứng xử. Mọi người biết tự trọng đều giữ phép lịch sự từ cách ăn mặc, đi đứng, nói năng, nhất là trong cách ứng xử không để cho ai chê trách, đàm tiếu.
Những người làm việc ở các cơ quan công quyền, được mệnh danh là “công bộc của dân” càng cần có tác phong chuẩn mực, luôn biết lắng nghe ý kiến nhân dân phản ảnh và biết cách xử sự có tình, có lý, chỉ có như vậy mới được dân tin, dân yêu.

Dantri.com.vn (19 giờ 33 ngày 5/12/2007)





CÁN BỘ THỜI NAY:

 Nô bộc hay Phụ mẫu
            
 
Chúng ta thường nói: “cán bộ là đầy tớ” của nhân dân! Câu này có xuất sứ từ chế độ Phong kiến. Đạo Khổng, đạo Nho dậy: Quan là “nô bộc” của Dân. Suốt mấy nghìn năm lịch sử, không biết bao nhiêu triều đình phong kiến Á Đông đã tuân theo điều răn dậy ấy! Nhưng không chỉ có một vế “nô bộc”, Triều đình phong kiến còn định nghĩa: Quan là “Phụ mẫu” của Dân! Như vậy “Quan” vừa phải là người tận tụy làm việc cho Dân
(như một nô bộc); vừa phải đàng hoàng, gương mẫu trước Dân
(như cha mẹ của Dân)!
                   Từ một dân tộc bị nô lệ dưới ách đô hộ của ngoại bang, được Cách Mạng giải phóng, vươn lên thành Chủ nhân đất nước; người Dân còn ý thức được một điều hệ trọng: từ nay, không còn chế độ quan lại hạch sách nhũng nhiễu dân lành. Cán bộ Cách Mạng là những người làm việc công tâm; vì cuộc sống, vì lợi ích chính đáng của Dân mà phục vụ hết lòng! Còn vấn đề... “cán bộ là đầy tớ của Dân” thì hình như trong thực tế, đại bộ phận dân chúng cũng chỉ cho đấy là một “cách nói” dân chủ, thể hiện sự ưu việt đặc thù của Chế độ xã hội mới; hơn là cho đấy là hiện thực! Không phải là không tin, mà cái chính là, ngay cả trong thời đang còn “sẻ cửa sẻ nhà” nuôi Cán bộ hoạt động bí mật, Dân cũng không mong, và cũng không cần Cán bộ phải “hạ mình” đến mức ... nô lệ như vậy!
                   Phải chăng lâu nay vì chúng ta chỉ nhấn mạnh cái vế phục vụ (“nô bộc – đầy tớ”), mà xấy ra tình trạng, một bộ phận cán bộ đã biến chất thành những tên – vẫn là đầy tớ đấy, nhưng là thứ đầy tớ lưu manh, ăn hiếp, ăn cắp, thậm chí ăn cướp của Dân!?!
                   Vậy thì nên hiểu người cán bộ Cách Mạng là gì đối với Dân? Theo thiển nghĩ của tôi, cán bộ, cấp nào cũng vậy, đều là viên chức Nhà nước – viên chức cấp thấp và viên chức cấp cao. Là viên chức thì trước hết phải hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách, theo luật pháp; đồng thời phải hiểu được điều cốt lõi này: đồng lương anh nhận hàng tháng, căn nhà anh ở hàng ngày, miếng cơm (cỗ) anh ăn hàng bữa, chiếc xe anh thường xuyên dùng,... thẩy đều của Dân đóng góp từ mồ hôi nước mắt, hai sương một nắng mà có! Cái chức, cái “ghế” cũng do Dân bầu, Đảng cử. Phải làm việc như thế nào cho xứng đáng, là trách nhiệm và lương tâm của mỗi người!
                   Không cần làm “đầy tớ”, chỉ cần làm tròn lương tâm, trách nhiệm và đúng pháp luật! Đừng cho mình là tầng lớp cao hơn Dân; hoặc nhầm tưởng mình giống như vua quan phong kiến, lúc nào cũng chỉ muốn làm cha  làm mẹ Dân!
          LTS Dân trí - Muốn có cách ứng xử đúng, phải đạo lý với mọi người, trước hết phải biết mình là ai, ở vị trí nào hay chính xác hơn là ở vị thế nào? Nếu cán bộ các cơ quan công quyền thấy rõ chức trách nhiệm vụ của mình là làm mọi việc cần thiết để phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, như ý Bác Hồ đã từng căn dặn, thì chắc chắn những cán bộ đó được dân tin dân quý.
Tiếc rằng không ít cán bộ ở các cơ quan công quyền thường chỉ thấy mình là người có quyền, càng không bao giờ nghĩ được rằng đồng lương mình hưởng là do nhân dân đóng góp. Chính vì lẽ đó nên thường có thái độ cửa quyền, hách dịch đối với nhân dân đến xin giấy tờ hoặc làm những thủ tục cần thiết trong cuộc sống.
Công cuộc cải cách hành chính mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính đang được đẩy mạnh chắc chắn sẽ giảm bớt đầu mối phải xin xỏ cũng như xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của mỗi vị trí cán bộ trong các cơ quan công quyền, đồng thời quy định rõ thái độ và những phép tắc xử sự khi làm việc. Điều đó không những nhằm khắc phục tệ quan liêu, hách dịch đối với dân mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho giới kinh doanh ở trong nước cũng như nước ngoài.

Dantri.com.vn (9/1/2008)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
KÊ KHAI VÀ CÔNG KHAI
Làm sao mà cái việc “kê khai” và “công khai” tài sản công chức Nhà nước ta lại cứ khó khăn đến thế?!.
Xưa các Cụ dậy: “cây ngay không sợ chết đứng!”; thế thì vì lẽ gì, mà các vị quan chức ta cứ né tránh mãi như vậy? Cái công việc kê khai và công khai ấy thực ra rất bình thường, rất đơn giản: Vì lẽ, nếu chỉ là một viên chức “quèn” thôi, thì việc thống kê tài sản của ông ta hết bao lăm thời gian, công sức? Kê rồi thì công khai “toẹt ra” trước mọi người, có gì mà phải ngại, bởi đó là tài sản chính đáng do công sức mình và gia đình mình làm ra? Người ở diện phải kê khai mà băn khoăn, đã đành; người có trách nhiệm thay mặt dân, đưa việc đó thành quy chế, luật lệ - cũng ngại luôn, thì thật không sao lý giải nổi! Thế mà chúng ta cứ luôn mồm nói: “Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra”!
            Chúng ta còn thường xuyên nói rất hay: Dân làm chủ, Cán bộ là nô bộc. Vậy mà ông chủ lại không được quyền hỏi xem, nô bộc của mình có những tài sản gì, là cớ làm sao?
            Thực ra, bản thân cụm từ ”kê khai” đã bao hàm cả hai nội dung “kê” và “khai” rồi. Một khi đã nói “kê khai” một vấn đề gì, tất phải ngầm hiểu vấn đề đó phải được công khai! Kê mà không công khai, là “kiểm kê” – một công việc thường niên ở các cơ quan, doanh nghiệp; không công khai rộng rãi, nhưng vẫn phải báo cáo với cấp có thẩm quyền. “Kê” mà chỉ “khai nội bộ”, khai trong phạm vi hẹp, cũng dễ trở thành ... khai trong  “cánh hẩu” với nhau!  Cần phải khẳng định rằng, “kê” mà không “khai”, cũng chẳng khác gì “khai” mà không “kê” – nghĩa là đều vô nghĩa như nhau! Tách nội dung “kê” ra khỏi nội dung “khai”, chỉ là một trò chơi chữ. Chơi chữ cả với Dân là điều không thể chấp nhận được!
            Công khai là gốc của minh bạch. Đã không minh bạch thì đừng nói đến chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền đã nói bên hành lang Quốc hội: “... đã công khai minh bạch thì không có chuyện gì có thể giấu diếm được mắt người Dân” (Báo Thanh Tra số 89 ngày 7/11/2006).
            Như vậy, vấn đề cốt lõi của “kê khai” là phải giải đáp được cùng một lúc hai câu hỏi: “kê khai để làm gì?” và “kê khai với ai?”. Và câu trả lời đúng đắn nhất, chỉ có thể là: Kê khai phải nhằm vào mục tiêu ngăn chặn hành vi lợi dụng chức quyền tham nhũng của một bộ phận cán bộ có chức có quyền; và do vậy, việc kê khai phải đặt dưới sự giám sát của Nhân dân.
 
            “Kê” phải đi đôi với “khai” – không thể hiểu khác, càng không thể làm khác!
           
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
“ĐOÀN KẾT:
 CHÚNG TA LÀ SỨC MẠNH!”
       
     
Khi Bác Hồ nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”, chúng ta đều hiểu rằng: Đoàn kết là cái gốc của thành công.
                  Cũng nói về vấn đề này, từ xa xưa dân gian có câu: “thuận vợ thuận chồng, biển đông tát cạn – thuận bè thuận bạn, tát cạn biển đông”. Vậy là câu ca dao cổ này đã dậy cho ta thêm một tác dụng nữa: Đoàn kết là động lực của thành công!
                  Nhưng, Đoàn kết chỉ thực sự là cái gốc, là động lực của thành công, khi đó là thứ Đoàn kết thực lòng; Đoàn kết mang tính chiến lược, chứ không mang tính chiến thuật (tiếc thay, người ta lại hay lạm dụng cái chiến thuật này trong ứng xử với đồng bào, đồng chí!).
                  Trong thực tế lịch sử Dân tộc ta, “Đoàn kết” không chỉ là cái gốc, là động lực; mà Đoàn kết còn là mục tiêu của cuộc sống nữa: thương yêu, đùm bọc trong tình đồng loại, trong “tình làng nghĩa xóm”,... vốn là truyền thống nhiều đời của Con Người Việt Nam. Đó chính là tầm cao hơn của Đoàn kết; là tính xã hội rộng nhất, tính nhân văn sâu sắc nhât, tính không vụ lợi rõ rệt nhất và cũng là tình Người cao cả nhất!
                  Và mục tiêu Đoàn kết chỉ và chỉ thực hiện được trong môi trường Dân chủ, Bình đẳng; đương nhiên là Dân chủ thật sự, Bình đẳng thật sự. Dân chủ, Bình đẳng là điều kiện tiên quyết để có Đoàn kết. Không có Dân chủ thì không thể có Bình đẳng; không có Dân chủ, Bình đẳng thì không thể có Đoàn kết. Đó là chân lý vĩnh cửu! Không ai khác, chính Bác Hồ đã từng nhấn mạnh trong “Di Chúc”: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng”.
                   Tư tưởng Dân chủ của Đẩng và Bác Hồ trước hết cần được thể hiện trong tất cả các hoạt động của Quốc Hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhân Dân. Tiếc rằng cho đến nay, điều đó chưa thực hiện được là bao! Chúng ta hãy nghe tâm sự của giáo sư Nguyễn Lân Dũng, vị đại biểu quốc hội nổi tiếng “giám nói”, khi phóng viên báo Dân Trí phỏng vấn ông (ngày 8 tháng 1 năm 2008):
  PV: - Ông có thể cho những ví dụ cụ thể về sự chưa dân chủ trong hoạt động Quốc hội?
Đại biểu Nguyễn Lân Dũng: - Không ít đâu. Ví như việc bầu các chức danh chẳng hạn. Khi không có số dư thì không có sự lựa chọn nào khác mà không có sự lựa chọn khác thì sao gọi là dân chủ được? Tôi biết rằng khi có người được đề cử xin rút khỏi danh sách đề cử thì nhẽ ra phải được Quốc hội thảo luận có đồng ý cho rút hay không? Rồi việc dự thảo các văn bản luật lại giao cho các Bộ, Ngành chủ trì thì làm sao tránh khỏi sự chủ quan và phiến diện? Cũng cần nói thêm là cho đến giờ, chưa có một luật nào được  soạn thảo từ ý kiến của Đại biểu Quốc hội, chưa có đại biểu nào phát hiện được một vụ tiêu cực        
cụ thể nào và cũng chưa lần nào Quốc hội thực hiện được việc bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với những chức danh do Quốc hội phê chuẩn. Điều này rõ ràng là luật chưa đi vào cuộc sống và cũng không thể nói những hiện tượng nêu trên đã là thực sự dân chủ.
 
Nhưng, công bằng mà nói, chính ngay một số vị đại biểu Quốc Hội, nhiều khi cũng không thực thi quyền dân chủ của mình trong vai trò đại diện cho Dân, nói lên tiếng nói dân chủ của Cử tri.  Tại phiên họp Thường vụ Quốc hội (khoá XI) ngày 3 tháng 5 năm 2006, Chủ tịch Nguyễn Văn An đã phải nói: “... chúng ta chưa làm cho các đại biểu QH có dũng khí, sự mạnh dạn để giám nói...” (Báo Thanh Niên số 124 ngày 4/5/2006). Làm sao mà người “đại diện cho quyền lực của Dân” lại yếu đuối đến thế? Khi Cử tri tín nhiệm bầu một người vào Quốc Hội, thì nhất định người đó phải có đủ trình độ kiến thức và sự dũng cảm cần thiết, để nói được tiếng nói của Dân, thực thi quyền lực của Dân trong việc giám sát các hoạt động của Chính phủ. Không làm được như thế thì tham gia Quốc hội để làm gì? Đại biểu Quốc Hội là phải biết “giơ tay” biểu quyết, tức là biết thể hiện chính-kiến-của-cử-tri. Nhưng trước khi “giơ tay”, cần phải biết thảo luận, tranh luận để tìm ra chân lý của vấn đề. Nếu không, sẽ chỉ là một dạng khác của... “nghị gật”! Một Quốc Hội sáng suốt, phải là một Quốc Hội tập hợp được trí tuệ của tất cả mọi đại biểu quốc Hội, của Cử tri – tức là của Nhân dân; theo nguyên tắc: “Dân biết, Dân bàn” – nguyên tắc cơ bản của DÂN CHỦ do Đảng ta đề ra từ gần nửa thế kỷ nay!
Mặt khác, công việc điều khiển các cuộc thảo luận, tranh luận ở Quốc Hội, phải mang tính định hướng tư duy, chứ không áp đặt tư duy. Càng không thể là thầy giáo hướng dẫn học trò thảo luận bài học! Đấy chính là Dân chủ trong hoạt động Quốc hội!
           Đến đây, cũng cần nhắc lại một chút Lịch sử: ở nước ta, người đề cập và hô hào sớm nhất vấn đề Dân quyền, chính là cụ Phan Tây Hồ. Theo cụ, “Dân chủ vừa là phương pháp để tự cường, vừa là cứu cánh, là mục đích tự nó nữa”. Cái lý để cụ Phan coi trọng Dân chủ là: “Quốc tương hưng tắc thỉnh chư Dân!”.  Điều đó chứng minh cuộc đấu tranh cho Dân chủ ở nước ta đã được các bậc Cách mạng tiền bối chú trọng từ rất sớm. “Dân chủ’ chính là mục tiêu đầu tiên, trước hết của cuộc đấu tranh giải phóng Dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc.
                  Không phải ngẫu nhiên khi cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Bác Hồ lại đặt tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Trong đó, yếu tố Dân chủ được đặt lên trước tiên!
                  Một chế độ Dân chủ trong một nền Cộng hòa, là sự đảm bảo chắc chắn cho một Nhà nước Độc lập và một cuộc sống Tự do Hạnh phúc cho Nhân dân, ít nhất cũng là điều đúng đắn ở thời điểm ấy.
                 
                  Dân chủ để Đoàn kết, Đoàn kết trong Dân chủ - đó là kỳ vọng hàng đầu mang tính thời đại; là sức mạnh vô địch của tư tưởng Hồ Chí Minh!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ĐÃ PHÚC, ĐÃ LỘC,
LẠI CÒN THỌ!
 
Lộc”
               Năm hết Tết đến, mọi người lại tiến hành việc trang hoàng nhà cửa để đón Xuân! Bộ Tam đa “Phúc – Lộc – Thọ” thế nào cũng được chủ nhân chăm chút nhiều nhất. Cũng là điều hiển nhiên, bởi “Phúc”, “Lộc”, “Thọ” là ba điều mơ ước thường nhật của mỗi người, mỗi nhà! Vì lẽ này mà cũng có người chê bai, bình phẩm rằng:
Đã Phúc, đã Lộc lại còn.Thọ!
Sao tham nhiều thễ hỡi nhân gian?
Chẳng trách Đảng ta “xây, chống” mãi
Mà phường tham nhũng vẫn trơ gan!
                   Chẳng qua “tức cảnh” mà nói đùa thôi, chứ ai chẳng mong cha mẹ, ông bà và bản thân trường Thọ? Còn Phúc và Lộc thì biết mức nào là đủ? Xưa các cụ dậy: “một con một của ai từ?”! Cái cần nói là hưởng sao cho chính đáng, cho hợp đạo Trời, lòng Người!
                   Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin lạm bàn về riêng chữ “Lộc”. Mặc dù Lộc dù là tranh, là tượng hay là chữ, cũng không bao giờ đứng riêng một mình. Bao giờ cũng đứng cùng hai ông Phúc, Thọ thành bộ tam đa! Phải chăng... người ta, nhất là các “quan” không muốn cái ham muốn của mình nó thể hiện ra một cách lộ liễu quá?!.
                   Trong bộ Tam đa, ông Lộc được hình tượng bằng một vị quan “cân đai bối tử” đề huề! Điều đó  thể hiện một điều: đã làm quan, tất có Lộc; Lộc tức là Quan! – Như vậy, có thể khẳng định, từ xa xưa, dân ta đã biết, đã hiểu: Lộc với chức quan, là một! Các Quan cũng không nên lấy thế làm... buồn!
                    Lộc, có thứ của Vua ban, có loại của Dân biếu. Vua ban để úy lạo bầy tôi của mình, đã chí công vô tư, thay Vua cai quản, chăn dắt đám dân chúng dưới quyền! Còn dân kính biếu Quan, để bầy tỏ lòng biết ơn về một công việc gì đó, quan đã vì quyền lợi chính đáng của dân, mà làm. Như vậy hoàn toàn có thể nói: Lộc chính là sự ghi nhận công lao các Quan: công lao với Dân và công lao với Vua, với Nước. Có công lao thì có Lộc! Và đấy cũng là tiêu chí để phân biệt quà “biếu” với “hối lộ”! Không công lao, mà nhận quà, nhận thưởng, thì đó là thứ hưởng thụ bất minh, bất chính! Ví như ai đó lợi dụng chức quyền mà o ép, bắt nạt Dân lấy tiền; hoặc nhận tiền của kẻ bất lương rồi bỏ qua luật lệ, phép tắc, đạo lý, trà đạp lên quyền lợi chính đáng của dân lành – thì những đồng tiền như thế làm sao có thể gọi là “Lộc” được?!. Mà có cố tình bao biện đó là “Lộc” thì thứ ấy cũng không bền, hưởng nó sẽ chuốc họa vào thân - không chóng thì chầy; không “nhãn tiền” thì cuối đời, như cách nói của dân gian, cũng “lãnh đủ”; hầu như không hề có ngoại lệ! Thực tế cuộc sống đã từng kiểm chứng!
                   Hưởng Lộc phải nghĩ đến tạo Phúc, cầu Thọ. Nhắm mắt thu “Lộc” bất minh, bất chấp Phúc, Thọ, thì thật nguy hại. Phải chăng cũng chính vì lẽ ấy mà người ta bao giờ cũng thờ cùng một lúc ba vị tam đa Phúc – Lộc – Thọ!
 
Phúc
           Phúc” là điều cầu mong của nhiều nhà, nhiều người đồng thời cũng là điều chúng ta cầu chúc (chúc phúc) cho nhau trong dịp lễ, tết.  Người theo đạo Phật cũng thường  tụng: “Phúc đẳng hà sa”! 
               Nhưng thế nào là có “phúc”? Quan niệm phổ biến xưa kia đều cho rằng người nào có con (trai) cháu (trai) tức có người “nối dõi tông đường”, là người có Phúc. Vì lẽ này mà Phúc có hình tượng một cụ già có đàn con cháu đông đúc vây quanh!  Đó là suy nghĩ lỗi thời, nhiều năm trước tưởng đã rơi vào quên lãng; ai ngờ gần đây lại phục hồi và phát triển khá mạnh mẽ, dẫn đến nguy cơ mất cân bằng giới tính! Có con có cháu mà chúng lại bất hiếu, đặc biệt, nếu chúng lại mắc vào nghiện ngập ma túy, trộm cắp – tham nhũng, thì bất hạnh đó còn lớn gấp nhiều lần nỗi bất hạnh không con!
                   Một quan niệm khác cũng khá phổ biến: “con hơn cha là nhà có phúc” – Có thật đúng như vậy không? Bởi vì nếu công nhận điều ấy, thì, tất cả những nhà mà con cái không vượt qua được “cái bóng” của người cha, đều vô phúc cả sao? Cái mệnh đề này hiểu theo nghĩa tương đối thì có thể chấp nhận, chứ quyết đoán tuyệt đối thì e không thông! Đấy là chưa suy xét tới “nội dung” của cái “hơn” đó là gì!  Bởi nếu sự hơn lại ở chỗ ăn chơi, hưởng thụ,... thì đấy chắc chắn là sự “vô phúc” rồi, chứ đâu còn là “phúc”?
                   Học thuyết Phong thủy thì cho rằng, việc đặt mồ mả tổ tiên có ý nghĩa quyết định đến việc ai trong dòng tộc được hưởng Phúc (gọi là “Âm Phúc”). Vì lẽ này mà nhiều khi dẫn đến mâu thuẫn nặng nề, thậm chí dẫn đến từ nhau trong gia tộc, khi có việc xây mới hoặc tôn tạo mộ phần!
                   Làm việc thiện, giúp đỡ người khó khăn, người hoạn nạn, cũng được coi là “làm Phúc”. Với ý nghĩa này thì “Phúc” và “Đức” thường gắn chặt, đi đôi với nhau.
                   Mỗi khi ai đó thoát khỏi một mối nguy cơ nào đấy, như vượt qua được một căn bệnh hiểm nghèo; một tai nạn khủng khiếp. Hoặc thoát khỏi sự liên lụy tới một vụ bê bối về tài chính, một vụ “làm ăn” phi pháp vừa bị đổ bể! Trong những trường hợp như thế, người ta thường xoa tay: “Phúc quá, không thì chết, chết cả nút!” – “Phúc” đây là “Phúc ấm của Tổ Tiên!
                   Phổ biến nhất là quan điểm: Tạo Phúc là một quá trình của nhiều đời, nhiều thời gian (Phúc “dầy”). Chính vì thế mà có câu: “Nhờ phúc bẩy mươi nhăm đời nhà nó, chứ không...!”. Làm việc Phúc là phải quên như chưa hề làm, là không bao giờ được kể lể công lao, khoe khoang thành tích thì may ra mới có Phúc! Như vậy, cần hiểu một điều: “Phúc”, không đơn giản mà có được, không phải cứ “cầu” là được. “Phúc” còn là sự hiếm nữa: “Phúc bất trùng lai”; chứ không như “Họa”, Họa thường không ... đến một mình (!): “Họa vô đơn chí!”.
                   Cho nên ai ai cũng cần chăm lo tạo Phúc, cho mình và hơn thế nữa, cho con cháu mình. Tạo Phúc phải đặt lên trước hết, trên hết, là cách hiểu đúng đắn nhất, của mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Người xưa khuyên: “Hãy ăn ở thế nào để có thể để Phúc lại cho con, cho cháu!”. Phúc là “tài sản” để lại mang ý nghĩa bền chặt nhất! Một khi đã “vô Phúc” thì tiền của chả còn ý nghĩa gì nữa!
                   Năm mới sắp đến, xin chân thành chúc PHÚC đến mọi người, mọi nhà!
                
Thọ
               Không rõ Thực vật thế nào chứ trong giới Động vật thì có thể đoan chắc điều này: không có “con” nào lại không “ham sống, sợ chết”, nghĩa là đều muốn... “Thọ”! Con Người lại càng thế. Nhưng “Người” khác “Con” ở chỗ, khi cần thiết, dám hy sinh mạng sống của mình vì đại nghĩa, vì Tổ quốc, vì cả Người khác nữa! (đôi khi “Con” cũng chiến đấu xả thân, nhưng đa phần vì miếng ăn, tức vẫn chỉ vì sự sống của bản thân hoặc con cái chúng mà thôi!).
                   Thọ chính là một trong những tiêu chí của Hạnh Phúc, đối với bản thân người thọ cũng như với con cháu... người ấy. Nhưng Con Người chúng ta thường khi về già hay tự đặt câu hỏi: “Thọ thế nào thì vừa? Thọ có thực sự là một điều Hạnh phúc không?”. Trả lời câu hỏi này thật không đơn giản chút nào!
                   Mọi người thường thuộc nằm lòng câu: “sinh có hạn, tử bất kỳ”. Câu hỏi trên, ý tưởng của nó không nằm ở chỗ muốn tìm giới hạn của sự sống, mà chính là muốn bàn xem sống đến khi nào, sống trong tình trạng thể xác và tinh thần ra sao, xứng đáng gọi là... Thọ? – bởi vì Thọ luôn luôn gắn với Hạnh Phúc; một khi đã không còn Hạnh Phúc, thì Thọ chả còn ý nghĩa gì cả! Thọ, trong trường hợp ấy, để làm gì?
                   Gần nhà tôi xưa có một cụ bà, khi sống thì suốt ngày còng lưng làm lụng hết nuôi con, lại nuôi cháu. Đến lúc già yếu, ốm đau phải nằm liệt một chỗ, lại không có lương hưu. Con cháu cho dọn dẹp cái bán mái vốn xưa là chuồng lợn, để đưa cụ xuống nằm đấy... chờ chết! Con cháu lý luận: “Phải đưa xuống đấy thôi! Suốt ngày cụ đái dầm ỉa rì, thối ai mà chịu nổi!” và: “Cụ sống, nhưng cũng phải để cho con cháu sống với nữa chứ?”. Có lý lắm! Nhưng khốn nạn thay, những trường hợp như thế lại rất khó chết; nghĩa là lại rất “Thọ”!
                   Một “vụ” khác, không ở tổ dân phố tôi, mà ở tổ bên cạnh. Đó là một cụ ông. Cụ là một cựu chiến binh, lương đại tá bốn năm triệu gì đó. Cụ mắc chứng cao huyết áp, bị đột quỵ, rồi nằm suốt trên giường, sống “đời sống thực vật” mười mấy năm trời nay! Cụ không nghe thấy gì (hay là giả đò làm ra như thế?), không nói và do đó cũng không đòi hỏi gì trong suốt ngần ấy năm. Những năm đầu còn có họ hàng, bạn bè, người thân qua lại hỏi thăm; sau cứ thưa dần. Mấy năm nay thì chỉ  mình cụ nằm bất động như chết trên chiếc giường quen thuộc với lủng củng mấy đường ống dẫn ra và dẫn vào cơ thể cụ. Vợ con vẫn chăm sóc cụ hàng ngay rất chu đáo. Không chu đáo thì sao cụ “sống” được ngần ấy năm? Vả lại có nặng nề gì lắm  đâu mà không chu đáo? Việc “ăn, uống, tiểu tiện, đại tiện” của cụ đều qua đường ống tất; rút ra thay rửa là xong! Năm nay cụ đã ngoài tám mươi, và cứ tình trạng này, chắc cụ còn “Thọ” chưa biết đến bao giờ?!. Cụ càng Thọ, con cháu càng mừng!..
                   “Thọ thế nào thì vừa? Thọ có thực sự là một điều Hạnh phúc không?” - Giá như có ai đó trả lời được câu hỏi này!
                  
Vanchuongviet.org (29/1/2008)
 








LƯƠNG, THƯỞNG
đôi điều muốn nói!
               Tết này tình cờ đọc được trên  tin về Thưởng Tết Mậu Tý: (18:16' 28/01/2008):  “- Một DN ngành CNTT đóng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh vừa "giật" kỷ lục thưởng Tết năm nay: 240  triệu đồng cho người lao động xuất sắc nhất. Trong khi, có doanh nghiệp thưởng chỉ để... "tượng trưng": 50 ngàn đồng/người. Thưởng Tết cao nhất: Ngân hàng, chứng khoán, CNTT, địa ốc”! Tôi chợt nhớ lại một “cú” thưởng cách đây19 năm, cú thưởng được coi là “khủng khiếp nhất năm 1989” do tác giả Hoàng Linh viết trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 5 – 1990: “theo con số thống kê được của các chuyên gia lao động Tiền lương Nội thương thì việc chi thưởng 66,176 triệu đồng cho một thương vụ kinh doanh của Công ty thực phẩm Thành phố Nam Định có thể gọi là cú thưởng khủng khiếp nhất năm 1989!”. Điều đáng chú ý là, trong khi một cá nhân được thưởng do “đem lại lợi nhuận lớn cho Công ty” như vậy, thì bản thân Công ty đó năm 1989 lại ... báo cáo lỗ!
                   Bài báo trên  đưa tiếp: “Tiền lương bình quân trong DN nhà nước đạt 2,5 triệu đồng/người/tháng, riêng các tổng công ty hạng đặc biệt và tập đoàn kinh tế bình quân đạt 3,9 triệu đồng/người/tháng; Doanh nghiệp dân doanh chỉ đạt mức 1,8 triệu đồng trong khi các DN FDI (có vốn đầu tư nước ngoài) đạt 2,4 triệu đồng/người/tháng. Cụ thể mức lương bình quân của các DN ở một số vùng kinh tế trọng điểm như sau: TP. Hồ Chí Minh tiền lương bình quân các DN FDI là 2,65 triệu đồng/người/tháng; DN dân doanh đạt 2,3 triệu đồng/người/tháng; trên địa bàn Hà Nội tiền lương bình quân tiền lương cao nhất là 75,3 triệu đồng/tháng; DN nhà nước và DN dân doanh đạt 1,8 triệu đồng/người/tháng”.
               Lương, Thưởng là tiền, nhưng là tiền công; nên nó còn là mồ hôi, cơ bắp, trí tuệ và đôi khi có cả xương máu! Chưa đủ, Lương, Thưởng còn là danh dự, niềm tự hào... của mỗi Con Người Lao động nữa (trong đó, Thưởng còn được đánh giá cao hơn Lương: “trăm đồng tiền công không bằng một đồng tiền thưởng”)!
Nhưng, Lương là Lương, Thưởng là Thưởng; không nên
cũng như không thể lẫn lộn. Và chính vì lẽ này, mà ở phía ngược lại, cũng cần hiểu rằng: Lương, Thưởng thể hiện cái Đức “trọng Hiền Tài” của người Lãnh đạo, Quản lý!
              Vậy nhưng nhiều khi người ta đã rất “cảm tính” trong quyết định về Lương, Thưởng – không chỉ ở cấp “vi-mô” như cơ quan, doanh nghiệp; mà còn ở cả cấp “vĩ-mô” nữa!  Trong bài: “Góp bàn về đạo làm thầy” (dantri.com.vn ngày Thứ Năm, 24/01/2008 - 3:26 PM), tác giả Bạch Tường Minh (Hải Phòng), viết: “... Xã hội cần phải tôn vinh người thầy thực sự chứ không phải chỉ  có hình thức. Tôi có một người thầy hơn bốn mươi năm trong nghề, nhà giáo ưu tú hẳn hoi đã nghỉ hưu mà hưởng lương thấp hơn người con của thầy là sỹ quan quân đội chưa được ba mươi năm phục vụ cũng nghỉ hưu”. Bản thân người viết bài này đã có lần hỏi một vị phó bí thư thường trực Tỉnh ủy: anh thấy thế nào khi lương hưu “già” của chủ tịch một tỉnh chỉ ngang lương một anh cảnh sát khu vực... “hưu non”? Có điều này cần phải nói ngay: Nhà Nước ta đã từng có một quyết sách rất công bằng và hợp lòng Dân: đối với những người công tác hoặc chiến đấu ở chiến trường B, C, K, tùy theo thời gian công tác trực tiếp của từng người mà áp dụng “hệ số tính đổi” phù hợp – đấy chính là khoản Thưởng, thể hiện sự đãi ngộ đặc biệt; sự biết ơn của xã hội đối với những người con đã hy sinh xương máu cho Độc lập, Thống nhất của Tổ Quốc!..  Còn đã là “Lương”, thì nhất quyết phải trả theo “sức lao động”, theo “giá trị, hiệu quả lao động”! Thật không thể hiểu nổi, khi hai sinh viên sư phạm cùng tốt nghiệp ra tường, cùng làm công việc giảng dậy trên một địa dư; mà em nọ được trả lương gần gấp hai em kia, chỉ vì môi trường công tác của hai em khác nhau, một là dân sự, còn một là quân sự?
              Lương cần phải “tính đúng, tính đủ”. Một bài viết trên Lao Động bình luận: “Ai cũng thấy sự vô lý khi bộ trưởng lương mỗi tháng cũng chỉ 4,5 triệu đồng”! Về điểm “vô lý” này, tôi cũng đã có lần được phát biểu với ông Đặng Quốc Bảo, lần ông về thăm cơ sở chúng tôi, khi ông còn là Trưởng Ban Khoa Giáo Trung ương: “Mới nghe thì lương giám đốc như tôi chả nhiều nhặn gì so với lương một công nhân trong doanh nghiệp. Nhưng ngoài lương, tôi còn nhiều khoản khác, như đi lại bằng xe ô-tô công, như tiếp khách bằng tiền doanh nghiệp, như đi “tham quan du lịch nước ngoài” bằng “ngân sách” Nhà Nước cấp...Các khoản ngoài lương ấy lại không bị khống chế - nhiều ít tùy tâm người được hưởng! Mà đã tùy, thì rất dễ ... “tiện”, có khí các khoản “tùy tiện” này lớn gấp mấy lần, thậm chí mấy chục lần... lương! Mầm mống của lợi dụng chức quyền để tham ô trục lợi, bắt nguồn chính từ đây!”. Sự “cào bằng” trong thiết chế thang, bậc lương, rõ ràng không đem lại sự “công bằng”. Vậy, tại sao lại không khoán tất cả mọi chi phí hành chính, mọi chế độ về giao thông,... tức mọi thứ “tiền chùa” vào lương người quản lý? Lúc ấy, trong xã hội, sự chênh lệch về lương sẽ rất lớn, nhưng công quỹ sẽ được giảm chi và nạn lãng phí - tham ô sẽ được đẩy lùi;  bởi không lẽ người ta lại tham ô – lãng phí chính đồng lương của họ? Lúc ấy chúng ta sẽ không chỉ thoáng trông thấy một ông Thứ trưởng đi xe ôm đến cơ quan làm việc như báo chí đã đưa, mà sẽ là rất, rất nhiều!... Chắc chắn là như vậy.
       Lương còn phải trả đúng việc nữa! Làm việc gì, trả Lương việc ấy đã đành; việc chỉ cần mức lương này, thì không thể trả mức lương kia. Thí dụ: có người đã nhận xét: ở các nước, cảnh sát giao thông đường phố chỉ là cấp ”sỹ”, cấp “úy”; chứ không nhiều “thiếu tá”, “trung tá” như ở ta! Không biết có quá không, khi nói: nạn “lạm phát” của ta không chỉ thấy ở lĩnh vực bằng cấp, học hàm; mà còn cả ở... quân hàm nữa!
              Lương phải đủ “tái sản xuất sức lao động”. Dantri.com.vn (Thứ Hai, 19/11/2007 - 10:24AM) đăng bài “Lương có đủ sống?”: ”Tiền lương phải đảm bảo cho người lao động những nhu cầu tối thiểu nhất về ăn, mặc, ở, giải trí. Thế nhưng, với cách tính lương hiện nay, chỉ ăn và mặc đã “khấu trừ” gần hết. Nhu cầu ở và giải trí thì vẫn còn “ở nơi đâu xa lắm”. Cái cách chúng ta “tăng lương” mấy năm nay, thực chất chỉ mới “bù trượt giá”, không hơn không kém!  Lý giải về vấn đề này, các nhà “nghiên cứu cải cách tiền lương” thường viện cớ: không có nguồn! Đã nhiều người nói rồi: nguồn ở chính sự lãng phí, tham ô trong bộ máy công quyền; ở chính nền hành chính cồng kềnh chưa cải cách được bao nhiêu! Tác giả  Du Long trên báo Tuổi Trẻ cuối tuần (chủ nhật 09/12/2007) có đưa ra dẫn chứng: “Ngay cả trong các bộ, có những khoản chi “nghe tên thì rất hay ho” như việc các viên chức giáo dục năm ngoái đi “tham quan nghiên cứu giáo dục” các nước. Một viên chức tham gia đoàn nghiên cứu đi về kể lại tham quan tòa tháp đôi Petronas ở Kuala Lumpur như thế nào, cao nguyên Genting và sòng bạc ra sao, sang đến Singapore đi Sentosa tắm biển, cuối cùng chỉ đến “ngó” một trường học buổi sáng và một trường khác buổi chiều ngày chót”.
Và nguồn còn cả ở vấn đề này: cần sắp xếp lại một số “tổ chức xã hội” chi bằng ngân sách quốc gia, mà hoạt động mang tính hình thức, ít hiệu quả. Ví dụ, có Hội chi bằng 38% ngân sách Văn phòng Chính phủ, gấp 2,9 lần Văn phòng Chủ tịch nước! Có Liên minh chi ngân sách là 62.840.000đ, bằng 1,4 lần ngân sách của Văn phòng Chủ tịch nước! Song, người hội viên được “hưởng” những gì về đầu vào, đầu ra của sản phẩm, về dự báo thị trường...? (Nguồn: Báo tuổi Trẻ Chủ Nhật, 09/12/2007, 07:00 (GMT+7).
                   Lương-hưu cũng phải được đối sử như Lương, bởi nó cũng chính là Lương, là giá trị sức lao động quá khứ, là “khoản lương trích để dành” của người lao động; chứ không phải “tiền trợ cấp xã hội”! Đã là Lương, thì không thể, cùng một “cấp bậc”, người về hưu sau lại có lương hưu cao hơn người về hưu trước – tiền hậu bất nhất. Dịp Tết vừa rồi, anh bạn tôi đến thăm “thủ trưởng” cũ của mình, nguyên “giám đốc một sở” (hai chục năm trước gọi là Trưởng Ty), được ông cho biết, “Lương hưu” của ông hiện nhận là một triệu sáu, tức “thua” lương hưu một giám đốc doanh ngiệp quốc doanh dưới quyền quản lý của ông là anh, tới sáu trăm ngàn đồng! Còn bản thân anh, lại thua lương hưu của người trưởng phòng kinh doanh chính ngay doanh nghiệp cũ mà anh từng quản lý (năng lực sản xuất kinh doanh hầu như không thay đổi, nếu như không muốn nói là đã sút kém!), chỉ vì anh này nghỉ hưu sau anh bạn tôi gần chục năm! Những thí dụ như thế có rất nhiều và còn vô lý hơn rất nhiều!
              Lương, Thưởng còn là “công cụ giáo dục” cũng như thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển – bởi nó góp phần quyết định việc khuyến khích lao động, cải tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm và tăng năng xuất lao động! Cho nên, hoàn toàn có thể nói: trân trọng với việc trả Lương, Thưởng chính là trân trọng sức lao động, con người lao động! Đó là quan điểm đúng đắn, trước sau như một, nhằm mục tiêu thu hút, khuyến khích và sử dụng nhân tài –  điều mà Đảng và Nhà nước ta đã, đang  và mãi mãi đề cao!      
LTS Dân trí - Chúng ta thường nói: con người là vốn quý nhất, bởi con người vừa là chủ thể của quan hệ sản xuất vừa là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất - yếu tố duy nhất biết sáng tạo, vì vậy đầu tư cho con người nói chung, chăm lo đời sống và tạo điều kiện tốt nhất cho con người làm việc phải được đặt lên vị trí ưu tiên đầu tư. Vậy mà việc xây dựng và thực hiện chế độ lương lại không đúng với quan điểm đúng đắn vừa nói, còn nhiều bất hợp lý, làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong xã hội.
Chủ trương cải cách cơ bản tiền lương đã có từ lâu, nhưng việc xây dựng đề án cải cách tiền lương kéo dài mãi mà chưa trở thành hiện thực, phải chăng vì chưa có điều kiện khả thi như  một số người nói (?) Không biết cuối năm nay, theo kế hoạch phấn đấu thì nước ta sẽ vượt qua cái ngưỡng của nước  đang phát triển có mức thu nhập thấp, thì khi đó đề án cải cách tiền lương có trở thành hiện thực hay không? Điều ấy chắc không chỉ phụ thuộc vào tổng số quỹ lương cho phép mà còn phụ thuộc vào việc cải cách tổ chức để làm gọn nhẹ bộ máy các cơ quan hành chính, công quyền cũng như các cơ quan, đoàn thể vẫn được nhà nước “bao cấp”.
Dantri.com.vn (12:27 PM ngày 21/2/2008)
 
 
 
 
 
GIÁO DỤC
 VÀ TỰ GIÁO DỤC

Giáo dục và tự giáo dục là hai mặt của một vấn đề. Kinh nghiệm chỉ rõ: muốn thực hiện tốt việc giáo dục người, trước hết phải biết tự giáo dục chính bản thân mình, lấy mình ra làm mẫu cho mọi người noi theo!
Nhưng xưa nay, việc giáo dục người thì dễ, chứ tự giáo dục mình e là rất khó! Chẳng hạn, chỉ riêng việc kêu gọi tiết kiệm trong dịp Tết thôi, nhưng nhiều năm rồi, chẳng chuyển biến là bao. Cuối năm vẫn cứ xe con, xe bé từ các địa phương cuồn cuộn chở đồ lễ tết về Thủ đô. Rượu ngoại, thuốc lá ngoại, tiền ngoại,... cứ đắt như "tôm tươi"! "Xếp" không nhận thì "phu nhân xếp" nhận; đưa một phu nhân không nhận thì đưa mười, thế nào phu nhân cũng nhận! Cửa chính đàng hoàng không mở thì đi cửa sau! Giáp tết dễ lộ thì đi trước tết cả tháng,... Báo chí thấy vài ba ông Thứ - Bộ trưởng đi xe ôm đến cơ quan làm việc, vội khuếch trương. Nhưng lại lờ đi (hoặc chưa thấy) chuyện hàng trăm quan chức khác, ngành có, địa phương càng có,  vẫn thường xuyên dùng ôtô cơ quan đi Tết, đi du Xuân, đi lễ cầu tài cầu lộc! Rồi còn "chuyện dài nhiều tập" liên hoan tổng kết nữa: dantri.com.vn ngày 1/2/2008 đăng bài của hai tác giả Cấn Cường và Phương Thảo về sự "quá tải tiệc liên hoan tổng kết" của các cơ quan dịp năm hết tết đến này: "Cơn bão giá cả đã tác động lớn đến đơn giá của các khách sạn, nhà hàng vào dịp cuối năm. Tại các khách sạn mức giá phổ biến cho tiệc đứng hiện nay không dưới 150 ngàn đồng/suất. Chẳng hạn, tại khách sạn Hoà Bình, một suất ăn cho tiệc đứng được tính giá 180.000đ, trong khi tại khách sạn Công đoàn một suất là 160.000đ (chưa kể đồ uống). Nếu tiệc ngồi, khách sạn Công đoàn có 4 thực đơn khác nhau, với chung một giá 100.000đ/người, chưa kể đồ uống. Tiền thuê hội trường được tính riêng là 4 triệu đồng. Làm một phép tính, một cơ quan 100 người tiêu nhẹ nhàng cũng hết hơn 20 triệu cho cuộc vui cuối năm".
Tiền nào chi vào các khoản tiệc tùng linh đình ấy? Trong đám thực khách, hẳn có nhiều vị đã từng và sẽ còn đứng trên bục, giảng giải về "thực hành tiết kiệm", "noi gương đạo đức Hồ Chí Minh"!  Và hẳn là không bao giờ, trên các bàn tiệc linh đình cỗ bàn ấy, có mặt người nông dân hai sương một nắng hoặc người công nhân mặt mũi lấm lem dầu mỡ? Và hẳn không bao giờ đó  là "tiền túi" của các thực khách?!. Các vị ấy suy nghĩ gì khi đọc được những tin như tin về "Những bé em bán lì xì mua… Tết" (dantri.com.vn ngày 1/2/2008):
"...Nguyễn Văn Cư 12 tuổi, đang học Lớp 4 Trường tiểu học Mỹ Kim, cũng như anh em U - Nhàn, Cư phải len lỏi trong chợ suốt ngày để bán bao lì xì phụ giúp mẹ. Ba mất sớm, một mình mẹ Cư phải đi gom rác nuôi 4 anh em Cư đi học. Cư kể: "Mạ em đi từ sớm lắm, sáng nào em dậy mạ cũng đi rồi, em ăn cơm nguội đi học mang theo cả bao lì xì chiều về chợ bán luôn, tối em mới về nhà...".           
Vua chúa ngày xưa, được gọi là Thiên Tử (con Trời), nhưng thực ra lại rất gần gũi với chúng dân. Lịch sử đã ghi lại chuyện Vua cải trang đi thị sát, lẫn vào đám dân nghèo, để được thấy rõ hoàn cảnh, tâm tư của họ và truy tìm bằng chứng về bọn quan lại tham nhũng, ức hiếp dân lành để về lập án trị tội.
Đương nhiên, xã hội nào cũng có mặt này mặt kia, nhưng xã hội ta là xã hội XHCN, tính ưu việt chính nằm ở chỗ không có kẻ "ăn trên ngồi chốc", cho nên không thể chấp nhận được những kẻ hưởng thụ phè phỡn trên lưng giai cấp cần lao - đối tượng của Cách mạng!                  
Biết, thậm chí giỏi giáo dục quần chúng, sao không biết tự giáo dục chính bản thân mình, gia đình mình? - Xin được mở ngoặc hỏi riêng một số vị ... "đầy tớ Dân" - số này không nhiều lắm, nhưng mà có!
Nhưng dù sao, Xuân mới, cũng đang kề cận. Một mùa xuân tràn đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn của Đất Nước và Con Người Việt Nam trung dũng kiên cường!
LTS Dân trí - Có lẽ mọi người không lạ gì cái cảnh biếu xén lũ lượt cửa trước cửa sau, rồi ăn uống phè phỡn, linh đình trong những ngày giấp Tết mà ít “người trong cuộc” lại chạnh lòng nghĩ đến những cảnh em bé bán vé số, bán báo, bán bao lì xì... cơm ăn chưa đủ no, áo chưa đủ ấm trong những ngày giá rét này. Họ cũng quên mất luôn việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà mình đã từng được học tập, thậm chí đã từng đứng trên bục rao giảng cho mọi người !
Những hiện tượng tiêu cực mà tác giả bài báo nói trên nêu ra là những điều đáng lên án. Dù sao đấy là câu chuyện sắp thuộc về năm cũ. Chúng ta tin tưởng rằng, năm mới sẽ có tiến bộ mới.
Công cuộc phòng chống tệ nạn tham nhũng, lãng phí đi đôi với việc thực hành tiết kiệm sẽ được đẩy mạnh bằng những biện pháp đồng bộ và có hiệu quả hơn.

Dantri.com.vn (Thứ Hai, 04/02/2008 - 6:28 AM)
 
 
 
 
 
VỀ DỰ THẢO CỦA BỘ GIÁO DỤC
ĐỐI VỚI HỌC VỊ TIẾN SỸ

 (dantri.com.vn Thứ Ba, 12/02/2008 - 12:01 PM): Vừa qua, Bộ GD-ĐT đã đưa ra dự thảo quy chế mới về việc đào tạo tiến sĩ nhằm nâng cao chất lượng của các tiến sĩ. Đó là một quyết định đúng đắn để khắc phục tình trạng yếu kém của công tác đào tạo tiến sĩ đã tồn tại từ nhiều năm nay.Trong dự thảo này có một quy định là các nghiên cứu sinh bắt buộc phải có bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế có uy tín thì mới được bảo vệ luận án.

 Ý kiến của một người ít học!


M
ấy hôm nay đọc các bài góp ý trên dantri.com.vn về bản dự thảo của Bộ Giáo dục đối với học vị Tiến sỹ, mặc dù là người ít học, tôi cũng xin mạnh dạn phát biểu ba ý kiến sau đây:
       Một là, thời xa xưa, cha ông ta có phân ra hai loại Tiến sỹ: Loại thứ nhất “bằng da bằng thịt”, có tên riêng, tên được vua cho khắc lên bia đá và được trưng bầy ở nhà bia Tiến sỹ đặt ở Quốc tử giám. Loại thứ hai là “hàng mã”, do mấy anh thợ hàng mã dùng giấy và tre nứa làm ra. Loại này không có tên riêng, chỉ có tên chung là “Tiến sỹ giấy”; và đương nhiên không được khắc tên trên bia đá nào cả! Loại thứ nhất đại đa số là Tiến sỹ thật, sức học đầy mình và có nhiều đóng góp trí tuệ cho xã hội, được không chỉ Vua mà cả xã hội tôn trọng, tin yêu, ca tụng cho đến ngày nay – tuy vậy, chả thấy có vị nào công bố công trình của mình trên báo giới quốc tế cả! – chắc là vì thời đó báo chí cũng ít mà nhà nước Phong kiến ta lại chưa mở cửa hội nhập nhiều như bây giờ! Loại thứ hai, dân gian thờ xong là đốt liền. Sau khi cúng và đốt, liệu mấy vị “Tiến sỹ giấy” xuống âm phủ có trở thành Tiến sỹ thực không, thì chưa thấy có công trình khoa học nào được đăng ký ở cấp Nhà nước, hay công bố trên các tạp chí khoa học của Thế giới!
       Hai là, Ngày nay tuy “hàng mã” vẫn phát triển, nhưng ít thấy bầy bán ... “Tiến sỹ giấy”. Trái lại, Tiến sỹ “bằng da bằng thịt” lại rất nhiều! Nói không ngoa: “ra ngõ gặp Tiến sỹ” là chuyện thường! Có điều, chưa hề thấy bất cứ một trường đại học công lập hay dân lập nào khắc bia các vị Tiến sỹ này cả! Chỉ thi thoảng được nghe... “bia miệng” về một vài “vị” này thôi!
       Ba là, dù Bộ có đi đến quyết định vẫn cho áp dụng dự thảo quy chế này, thì xin các vị Tiến sỹ tương lai chớ có lấy thế làm ... lo cho gầy người đi! Đảm bảo sẽ có ngay “dịch vụ viết và đăng công trình nghiên cứu” trên bất kỳ tờ báo có uy tín nào của Thế giới cho mà xem! Các vị chỉ cần chuẩn bị tiền thôi và phải luôn luôn ghi nhớ câu châm ngôn dân gian này: “cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”!
       Kẻ ít học này hôm nay đã lạm bàn hơi không đúng chỗ, mong được các vị cao học lượng thứ!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
   ĐẠO LÀM THẦY

               Trên đời này, từ xưa đến nay và chắc là cả lâu dài sau này, có hai nghề được thiên hạ rất tôn trọng: đó là nghề Thầy giáo và nghề Thầy thuốc. Coi trọng vì đối tượng của hai “nghề” này là CON NGƯỜI, cả về thể chất lẫn tinh thần!
    Xưa, khi các cụ nói: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư", chắc là ở thời điểm ấy, sự nỗ lực truyền thụ kiến thức cho Trò, của người Thầy là lớn lao lắm. Dậy một chữ cũng dậy hết lòng; dậy nửa chữ cũng dậy hết tâm sức - hình ảnh đồng tiền không hề chen vào đây! Chữ "Sư" gắn chặt với chữ "Đạo" – "tôn Sư trọng Đạo", chính vì lẽ ấy!
Ngày nay, bên cạnh đại đa số "Thầy ra Thầy", thì cũng có khá nhiều Thầy chưa thật... ra Thầy! Thầy mà cũng "chậy xô" hết "lò" luyện thi này, sang "lò" luyện thi kia giống như các nàng ca sĩ chạy xô hết quán "Bar" nọ đến quán "Bar" khác! Không chỉ thế, ca sĩ có "đầu nậu" của ca sĩ, thì thầy giáo cũng có "đầu nậu" của thầy giáo! Ca sĩ đua nhau tiếp thị, "lăng xê"; thì "gia sư" cũng dán quảng cáo khắp nơi!
                   Cũng có người lý giải: "xin đừng thần thành hóa người thầy! Thầy gì thì cũng phải sống, phải nuôi con nuôi cháu! – Cơm áo không đùa với giáo sư!". Nói thế thì đúng quá, nhưng là cái "đúng" với người thường, nghề thường; không đúng với người "mô phạm", nghề "sư phạm"! Đó chính là sự khác biệt cơ bản giữa "Đạo" và "đời" vậy! Một khi ai đó đã "dấn thân" vào nghề dậy học, thì trước tiên phải dám chấp nhận cái "Đạo làm Thầy" cao cả. Không dám chấp nhận, xin không chọn nghề sư phạm! Cũng có thể ví von hơi khập khiễng như thế này: [font=.vntime]đã thích ăn thịt chó thì đừng đi tu!".Điều này cũng giống như, là Đảng viên cộng sản, nhưng lại chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân mình, gia đình mình thì làm sao chiếm được niềm tin yêu của Dân chúng? Sớm muộn gì, những "Đảng viên" đó cũng trở thành bọn tham nhũng, bọn  phá hoại Đảng! Những kẻ như thế, xưng danh Đảng viên làm gì cho nó ngượng mồm?!.
 
 Nếu như Thầy giáo gắn với chữ “Đạo”, thì chữ “Lương” được xã hội dành riêng cho Thầy thuốc – và chỉ Thầy thuốc mà thôi: “Lương y[font=.vntime]!
                   Không chỉ một chữ Lương, Thầy thuốc học cao còn thêm chữ “Bác – Bác sỹ” (để nói lên sự uyên bác? Thầy thuốc mà không uyên bác, ai dám giao tính mệnh cho Thầy!).  Cùng với chữ Lương là hai chữ “Từ mẫu – mẹ hiền”. Cha ông ta hẳn đã cân nhắc lắm khi dùng hai chữ “Từ mẫu”, chứ không dùng hai chữ “Phụ Mẫu”, như đã dùng với các “Quan lại “ nói chung (mặc dù người làm nghề Y không chỉ có nữ giới)?!.
                   Giống như Thầy giáo, Thầy thuốc cũng có rất, rất nhiều gương sáng trong đạo đức nghề nghiệp, được xã hội thừa nhận, kính yêu! Nhưng đáng buồn, bên cạnh đó, đã tồn tại khá nhiều những con sâu “làm rầu cả nồi canh y-tế”! Chuyện “tiêu cực” trong giới y, bác sỹ đã trở thành “chuyện hàng ngày”, báo chí đã nêu cụ thể, thiết tưởng không cần nhắc lại. Điều muốn nói là, đừng mượn cớ “Kinh tế Thị trường” để biến mọi cái trên đời thành “hàng hóa” hết, nhất là trước tính mạng con người!
                   Khi tôi viết đến đây, có bạn hỏi: “Anh nói nghe hay lắm! Nhưng nếu đặt địa vị làm giáo viên, thầy thuốc với mức lương (tôi nhấn mạnh) không đủ lo cho đời sống gia đình thì liệu anh có thể vui vẻ phát huy hết sức mình trong công việc được không?”. Về điểm này, xin được giãi bầy: Tôi quả không phải là nhà giáo, bác sỹ. Tôi vốn là một nhà quản lý doanh nghiệp, một doanh nghiệp Nhà Nước một thời cũng thuộc loại nổi tiếng ở Tỉnh tôi, nhưng lương của tôi còn thua lương bạn tôi, một giáo viên cấp ba! Khi nói thế, tôi không có ý so sánh lương giữa các ngành nghề trong xã hội hiện tại, mà chỉ muốn nói: Lương ở nước ta đúng là chưa hợp lý, nhưng là sự chưa hợp lý chung, chứ không riêng ngành giáo dục hoặc ngành Y! Lương – cần phải cải cách một cách thật sự nghiêm túc, phải làm cho người “làm công ăn lương được sống chính bằng đồng lương làm ăn chân chính”. Nhưng “Lương” và “Lương – tâm” là hai lĩnh vực không thể, không nên đồng nhất!
              Vậy thì cái cớ “Lương ít” thì dậy ít, lương thế nào chữa bệnh thế ấy, có thể đúng ở một nghề, một môi trường công việc nào đó, còn với những nghề, những công việc cần nhiều, rất nhiều “LƯƠNG TÂM” như hai nghề này, thì nói như thế, hoàn toàn không thể chấp nhận được! Nói như thế chính là đã súc phạm nghiêm trọng đến danh dự đáng kính của người Thầy!
     Trong hoàn cảnh nào cũng cần chăm lo gìn giữ bằng được "Đạo làm Thầy"! Điều này đương nhiên không chỉ phụ thuộc người Thầy, mà còn là trách nhiệm của xã hội, trong đó có phần cơ chế, chính sách!
 

Dantri.com.vn (07/01/2008)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
ĐẠO HỌC
"Học để làm gì?" là một câu hỏi không mới, nó cũ kĩ như bản thân sự học vậy. Là câu hỏi "thường trực" của mọi thời học! Là vấn đề mang tính “cốt lõi” của ĐẠO HỌC đối với mỗi người học!
Cũng cần khẳng định ngay rằng, khi lần đầu cắp sách đến trường, và nhiều năm sau đó,  các em học sinh đâu đã có chút khái niệm gì về vấn đề này; mà chỉ thụ động vâng theo sự chỉ bảo của người lớn, của cha mẹ mà thôi!...
       Chỉ khi thật sự lớn lên, nhiều em mới dần nhận thức ra điều đó. Cho nên câu cửa miệng của các bậc phụ huynh đối với con em là: "không chịu khó học, lớn lên chỉ có đi ăn mày!". Câu ấy và những câu tương tự đã hình thành dần trong bộ não của trẻ khái niệm "học để làm gì?". Vâng, "học để lớn lên không phải đi ăn mày, ăn xin!". Bởi "ăn mày, ăn xin" thì khổ như thế nào, các em nhìn thấy hàng ngày rồi!
       Vậy, dù có "cao đạo" đến đâu, dù vô tình hay hữu ý, thì thực ra người lớn đã sớm định hướng cho con trẻ "mục tiêu" thực chất của sự học là gì rồi. Mục tiêu đó không sai, nhất là trong thời buổi "thực dụng" này. Nhưng sai ở chỗ, người ta cứ nói với các em: "Học để có kiến thức, để càng ngày càng có nhiều kiến thức". Ý là "học không vì tấm bằng"; Cần "thực học" chứ không cần "bằng cấp"! Thương thay các em, nếu các em mà không có bằng cấp, thì các em vào đời sao đây?
       Về điểm này, tôi xin kể một chuyện, có lần con gái tôi đã bí trước câu hỏi của cậu con trai, khi cứ than vãn về kết quả học tập của nó: "Thế mẹ muốn con có điểm cao, hay muốn con có kiến thức?"! Chết chưa? Còn tuổi học trò mà lại không lấy điểm làm mục tiêu, thì làm sao mỗi năm lên một lớp đây; làm sao thi đỗ đại học đây?
       Không chỉ nhà trường, gia đình, mà ngay những nhà tuyển dụng lao động cũng thường tuyên bố (rất hay!): "chúng tôi cần người thực sự có kiến thức, chứ không cần người có bằng cấp"! Nhưng thực tế thì hồ sơ hàng đầu nộp cho cơ quan tuyển dụng, nhất định phải là cái bằng, theo đúng nghĩa đen! Càng nhiều bằng, càng thuận lợi khi xét tuyển. Kiến thức vẫn cứ phải đứng sau bằng cấp!
       Nhưng nếu định hướng mục tiêu sự học là tấm bằng, thì sẽ lại dẫn đến một kết cục còn bi đát hơn! Thực tế đã có không ít trường hợp, học chỉ để đối phó với thi cử mà thôi. Vậy là tình trạng "xin điểm", "mua điểm" không thể không xẩy ra, không thể không phát triển. Còn bé thì cha mẹ "mua điểm" cho, lớn lên, tự mua lấy. Học "tại chức", học "hàm thụ" bản thân nó không xấu; nhưng càng ngày nó càng tiêu cực, chính vì mục tiêu chính của thứ học này là để có "bằng"; bởi có bằng mới có cơ hội "phấn đấu" lên chức này chức nọ, lên "ông nọ, bà kia"!
       Đã có nhiều phụ huynh (nhất là những vị có chức sắc), khi con em mình học kém, không thi được vào đại học, thì dùng cách này, cách khác, "đưa" trẻ vào cơ quan nhà nước; làm tạm một công việc gì đó, rồi cho đi "hàm thụ". Mấy năm sau, có bằng cấp, sẽ chạy "ghế" tiếp! Thế cho nên một số cơ quan công quyền (đặc biệt ở cấp địa phương), chất lượng cán bộ - không dám vơ đũa cả nắm đâu, nhưng phải thừa nhận rằng: nhiều người rất kém cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn phép ứng xử; làm ảnh hường lớn tới công cuộc cái cách hành chính của Nhà nước!

       Tôi lại xin kể chuyện này: Lần ấy, tôi đến chính quyền Phường xin chứng nhận vào đơn làm thẻ thư viện Tỉnh. Đơn đã được Tổ trường dân phố và Tổ trưởng lương hưu ký xác nhận và đề nghị theo đúng yêu cầu của cơ quan thư viện. Anh cán bộ văn phòng sau khi xem đã thảo nội dung chứng thực,; nhưng khi đưa lên chủ tịch, chủ tịch không ký, với lý do: chủ tịch phường không ký những chứng nhận như thế này! Tôi nói: giá cái thư viện này trực thuộc Phường ta, chủ tịch nói thế thì mừng quá! Nhưng đây lại là thư viện Tỉnh, họ làm theo quy định đã được chính quyền Tỉnh duyệt y; Phường thấy bất hợp lý thì phường báo cáo đề nghị lên Tỉnh, chứ Phường không có quyền bác bỏ! Anh văn phòng nhận ra lẽ phải, nhưng có lẽ... ngại "Sếp", nên dung hòa: "thôi cụ để khi khác, chủ tịch ... đang bận họp"! Sự yếu kém về nghiệp vụ hành chính rất dễ dẫn đến tệ “cửa quyền”.
Từ những thực tế “bằng cấp gắn với công việc và quyền chức” như vậy, nên trong xã hội  đã phát sinh một bệnh mới, mà giáo sư Văn Như Cương  đặt tên là “căn bệnh bằng cấp”: “Vừa rồi trong báo cáo của HĐ Chức danh Giáo sư có đưa ra một con số đáng ngạc nhiên: 70% luận văn Tiến sĩ là của các nhà quản lí, 30% còn lại là của các nhà nghiên cứu khoa học. Vâng, tôi đã từng biết có ông giám đốc Sở, ông Phó chủ tịch tỉnh, ông hay bà Bộ trưởng hoặc thứ trưởng... bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, nhưng tôi không ngờ cái tỉ lệ các ông bà quản lí lại cao đến như vậy... Bắt buộc một Tiến sĩ  khoa học phải làm một nhà quản lí là điều bất đác dĩ, còn bắt nhà quản lí phải là một Tiến sĩ khoa học thì lại càng khó hiểu hơn, nhất là khi luận văn của ông ta không  thuộc về  khoa học quản lí. Thực ra thì chẳng ai bắt buộc ông quản lí phải làm bằng Tiến sĩ, nhưng thực tế thì ai cũng biết nếu có bằng cấp cao hơn thì dễ được cất nhắc hơn, thăng quan tiến chức nhanh hơn. Có lẽ đã đến lúc cần “nói không với bệnh bằng cấp” cũng giống như là “nói không với bệnh thành tích” vậy.” (“Lại nói về luận văn tiến sỹ”[font=.vntime]- Văn Như Cương -  31/01/2008)

Kiến thức và bằng cấp cái nào cần hơn? Câu trả lời dễ nhất có lẽ là "cần cả hai"! Nhưng nếu lại hỏi: cái nào cần trước? thì nhiều khi cũng khó khẳng định. Vậy đấy! Định hướng "mục tiêu của sự học" như thế nào cho đúng  Mong rằng các nhà giáo dục, các bậc cha mẹ cũng như các em học sinh, hãy thực sự quan tâm!..
 
LTS Dân trí - Mục tiêu của sự học thay đổi theo giai đoạn lịch sử, đồng hành với sự tiên bộ của nhân loại. Ngày nay, tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc đã xác định ba mục tiêu cơ bản: Học để biết; Học để làm; Học để làm người. Đấy là mục tiêu có tính khái quát và toàn diện
Nếu quá trình học tập và thi cử được đánh giá  bằng một quy trình chặt chẽ, dựa trên những tiêu chí khách quan thì tấm bằng phản ảnh đúng về cơ bản trình độ người được cấp bằng. Còn nếu quá trình này không được tiến hành nghiêm túc thì tấm bằng chỉ là danh nghĩa, giống như tình hình học tại chức như tác giả bài viết trên đây đã nhận xét.
Dù là tấm bằng nghiêm túc thì đó mới chỉ là điều kiện ban đầu để đi tìm việc làm. Các doanh nghiệp hoặc các cơ quan cần tuyển dụng thường tổ chức kiểm tra, phỏng vấn trực tiếp người xin việc để bíết rõ hơn năng lực chuyên môn cũng như vốn hiểu biết xã hội và cách ứng xử của các ứng viên, từ đó đi đến quyết định nhận ai và loại ai. Đấy là sự tuyển dụng nghiêm túc đang có xu thế trở thành phổ biến.
 
Dantri.com.vn (Thứ Tư, 30/01/2008 - 5:45 PM) – Thoisohoa.net (31/1/2008 – 6:29PM)–
Vanchuongviet. Org (20.2.2008)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 ĐẠO KINH DOANH
               Thời kỳ “bao cấp”. sản xuất mang tính “kế hoạch hóa”: nhiệm vụ sản xuất mang “dấu ấn chính trị”, nên đều do cấp trên “ra lệnh” (sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất trong thời gian nào); Nhà sản xuất không sợ hàng ế, chỉ sợ không hoàn thành kế hoạch. Bởi việc tiêu thụ đã có cả một hệ thống “thương nghiệp XHCN” chịu trách nhiệm!
                   Chuyển sang nền “kinh tế thị trường”, đối mặt với nhà sản xuất lúc này không còn đơn giản là “sản phẩm”nữa, mà là “HÀNG HÓA” – Hàng hóa với đầy đủ hai thuộc tính “giá trị” và “giá trị sử dụng”.
                   Hàng hóa nào giá trị sử dụng cao, giá bán thấp thì “bán chạy”; đó là cái lý thông thường. Nhưng trong thực tế, có những hàng hóa giá  bán cao, thậm chí rất cao, người tiêu dùng vẫn “đổ xô đến mua”. Trường hợp ấy là do vai trò của “thương hiệu”, của “hàng hiệu” và đương nhiên, của “gái trị sử dụng”!
                   Rõ ràng là, muốn kinh tế hàng hóa phát triển, muốn hội nhập, con đường duy nhất trước mắt, là phải xây dựng thành công “thương hiệu”; trong đó “thương hiệu Quốc Gia” cần đi tiên phong. Một thương hiệu nổi tiếng, đem lại lợi nhuận gấp nhiều lần giá trị thặng dư cũng như yếu tố tiết kiệm “lao động sống” hay “lao động quá khứ”. Chúng ta khoe mấy năm nay hàng dệt may, giầy da xuất khẩu tăng trưởng, nhưng cần hiểu rằng, đó chỉ là tăng trưởng “gia công”, mà lợi nhuận trong trường hợp này đâu có đáng kể gì?
                   Xây dựng “Thương hiệu” – Quốc gia hay doanh nghiệp, trước hết phải nghĩ đến chất lượng và “giá trị sử dụng”. Cái đó nhà sản xuất kinh doanh nào cũng biết. Nhưng yếu tố quan trọng hơn, lại nằm ở một khâu tưởng như không gắn lắm với hàng hóa, đó là “đạo kinh doanh”! Theo học giả Dương Trung Quốc: Đạo kinh doanh [font=.vntime]”là một khái niệm mới do thế hệ chúng ta đặt ra” (tham luận gửi Hội thảo “Bàn về đạo Kinh doanh” do Tổ chức giáo dục PACE, VCCI và NXB Trẻ tổ chức tại TP HCM,s.28.07.2007). Nó “mới” chính vì chúng ta vừa chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa được bao lâu. Mặc dù vậy, chúng ta không thể dựa vào đó để chậm nhận thức ra tác dụng to lớn của yếu tố này đối với phát triển và hội nhập. Cần nhấn mạnh rằng: Sản xuất kinh doanh mà bỏ qua “đạo”, chỉ nghĩ đến lợi nhuận, thì đấy là đặc trưng của lối làm ăn mang tính “chụp dựt”, lỗi thời! Thực tế cho thấy, không ít trường hợp, hàng hóa vừa xây dựng được chút giá trị thương hiệu, nhà sản xuất đã nghĩ ngay đến việc bớt xén để thu lợi nhuận cao – một kiểu “làm giả ngay chính sản phẩm của mình”. Thử hỏi, làm ăn như thế thì thương hiệu ấy làm sao tồn tại, làm sao “hội nhập”?
                   Đạo kinh doanh phải được coi là một trong những cái gốc, và là cái gốc quan trọng, đối với việc xây dựng một thương hiệu mạnh!
                   Cái thời “sản xuất thế nào cũng tiêu thụ được”, cái thời “hàng đã trao tay, nhà sản xuất hết trách nhiệm”, đã cáo chung từ lâu. Có thể nói không quá rằng: việc chăm lo đến chữ “ĐẠO” lúc này, trước hết không hoàn toàn vì người tiêu dùng, mà vì chính lợi ích của nhà sản xuất kinh doanh – vì sự tồn tại và phát triển của họ; vì lợi nhuận của họ! Đó là điều mà mỗi nhà kinh-doanh-đích-thực cần thường trực quan tâm tới./.  
 
 
 
 
 
NĂM CHUỘT
nói chuyện về
“LIỆU PHÁP” RĂNG CHUỘT!

V
ào dịp Tết năm trước, Khoa "Răng-Hàm-Mặt" bệnh viện tỉnh H, tiếp nhận một ca bệnh khá kỳ lạ: Hai hàm răng của bệnh nhân bị mòn đi rất nhanh, nếu không được thay thế kịp thời e rằng sắp mòn đến... lợi!
Bác sĩ nha khoa hỏi bệnh nhân về tình trạng bệnh diễn biến đã lâu chưa thì được trả lời trước kia người này vốn có hàm răng chắc khỏe. Bệnh kỳ lạ này mới khởi phát cách đây vài năm, kể từ ngày ông ta được đề bạt lên "sếp"! Mà công việc đâu có nặng nhọc, bận rộn gì lắm, chỉ tội cái phải đi…chiêu đãi, nhậu nhẹt nhiều. Mình chiêu đãi người ta; người ta lại chiêu đãi mình… Làm ăn trong “cơ chế thị trường” nó phải thế!
Nghe đến đến đấy, BS gật gù, mỉm cười: Tôi hiểu, tôi rất hiểu và tìm ra nguyên nhân rồi, thôi thay cho ông hai hàm răng giả. Nhưng chỉ vừa xuất viện chưa đầy một tháng, bệnh nhân đã lại đến yêu cầu thay hàm răng khác, vì những chiếc răng mới thay còn mòn nhanh hơn cả răng cũ! Chiều ý bệnh nhân, BS trưởng khoa đành ký giấy xuất ra hai hàm răng ngoại cực hảo hạng mới nhập từ nước ngoài về. Nhưng cả lần này nữa, chỉ tồn tại được đúng hai tháng, Khoa "Răng-hàm-mặt" lại được tiếp nhận... ngài bệnh nhân quen thuộc nọ!  
Một cuộc hội chẩn, gồm hầu hết các bác sỹ chuyên khoa đầu ngành trong và ngoài tỉnh, đã được tổ chức tại "Trung tâm hội thảo khoa học". Có mấy chuyên gia người nước ngoài, đang giảng chuyên đề tại mấy bệnh viên nha khoa trong nước, cũng được mời đến dự. Rất nhiều phương án được đề xuất, nhưng cho đến ngày họp thứ ba vẫn chưa có phương án nào được chấp nhận; kể cả ý kiến tham gia hội thảo của một tiến sỹ về lĩnh vực cơ khí chính xác, vốn là phu quân của nữ BS. chuyên khoa II tại bệnh viện, có gợi ý nên chế tạo hàm răng giả bằng thép hợp kim đặc biệt, vừa có tính năng chống gỉ, chống mài mòn cơ học; vừa có khả năng ngăn chặn sự xâm thực của tất cả các loại vi khuẩn hay hoá chất.
May mắn sao, đến sáng ngày hội thảo thứ tư, có một nha sỹ trẻ, mới tốt nghiệp mấy bằng đại học ở nước ngoài về, đã trình bầy một phương án vô cùng táo bạo: Dùng răng... chuột để cấy vào cho bệnh nhân! Thoạt tiên, ai cũng lấy làm ngỡ ngàng, tưởng như chàng trai trẻ này có ý đùa cợt gì đây. Thậm chí có một vị cán bộ quản lý nọ, một người rất có uy tín trong ngành y, đã phát biểu đòi đưa nha sỹ trẻ này đi kiểm tra thần kinh! Đến chiều thì mọi bế tắc mới được giải quyết.
Thì ra phương án của nhà khoa học trẻ này đã được xây dựng trên cơ sở thuyết "mài răng" của Xécghêep, nhà sinh vật học người Nga nổi tiếng thế giới. Theo thuyết này, loài gậm nhấm có đặc điểm rất phàm ăn và hay đục khoét (điều đó thì ai chả biết!), nên thiên nhiên đã phú cho chúng bộ răng có đặc tính hơn hẳn các động vật khác. Đó là khả năng tự... mọc dài ra theo thời gian.
Theo học thuyết trên, bình quân mỗi tháng răng chuột đồng có thể dài ra tới ... ba xăng-ti-mét! Răng chuột trù còn mọc nhanh hơn thế. Nhờ đặc tính hơn người này, nên tuy loài gậm nhấm phải thường xuyên tiếp xúc với các thức ăn cứng rắn, nhưng chúng không hề lo phải tìm đến các bác sỹ nha khoa để... trồng răng! Minh chứng là không hề tồn tại bất kì một khoa... "Răng-hàm-mặt-chuột" nào trên thế giới này cả! Như vậy, chuột không những không sợ mòn răng, mà còn phải thường xuyên... mài cho răng mòn bớt đi, một khi tốc độ mòn chậm hơn tốc độ mọc dài ra! (Thảo nào, nhiều đêm cứ nghe tiếng chuột gặm giường tủ ken két!).
Sau một hồi tranh cãi đến gần nổ tung hội trường, cuối cùng, tất cả các thành viên dự cuộc hội thảo có một không hai này, đã bỏ phiếu tán thành phương án của nha sỹ trẻ nọ. Cuộc phẫu thuật thay răng chuột (hình như là chuột trù, vì răng của bệnh nhân chúng ta mòn nhanh quá!) đã được thực thi và thành công mỹ mãn! Từ đấy, không còn thấy bệnh nhân quen thuộc nọ quay trở lại. Sự kiện đó đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của nền y học nha khoa tỉnh nhà! Người ta đã nghĩ đến chuyện đề nghị cấp trên trao huân chương cho tác giả đề tài dùng "răng chuột" thay thế táo bạo này!
Nhưng, việc đề nghị huân chương chưa kịp xem xét thì bỗng một hôm khoa "Răng-hàm-mặt" bệnh viên nói trên, lại xôn xao về một ca bệnh kỳ lạ khác. Bệnh nhân là một ông to béo, có hai hàm răng chìa ra như răng vổ, nhưng dị dạng hơn răng vổ rất nhiều lần!.. Đã thế, bệnh nhân không chịu ngồi yên, cứ lùng xục các đồ vật bằng gỗ,  bằng sắt thép để gặm nhấm và nhai rau ráu! Bệnh viên phải huy động đến cả các chú bảo vệ vào ôm giữ lấy bệnh nhân, nếu không ông ta sẽ ăn hết cả cọc màn lẫn dụng cụ nghề nghiệp của bác sỹ phòng khám!
Khi lưu bệnh nhân lại khám, người ta đo được các thông số sau đây: cứ sau mười phút, toàn bộ răng của ông ta lại mọc dài ra... một milimét (đúng bằng tốc độ mọc của răng chuột trù!). Rõ ràng tình trạng này nếu không kịp thời được ngăn chặn, thì chỉ sau một vài ngày, hàm răng quái quỷ kia sẽ mọc dài ra tới ... hàng gang tay chứ chẳng chơi!..
Không hiểu rồi các bác sỹ khoa "Răng-hàm-mặt" sẽ xử trí vụ này ra sao? Còn chúng tôi, qua trò chuyện với người nhà bệnh nhân có mặt tại phòng khám lúc đó, đã phát hiện ra rằng, bệnh nhân này không phải ai xa lạ, mà chính là cái ông năm xưa bị bệnh mòn răng, đã được cấy bộ răng chuột theo sáng kiến của người bác sỹ trẻ! Thì ra ông ta mới... nghỉ hưu vài tháng. Ông ta về hưu nhưng hàm răng chuột trong miệng lại không có chế độ hưu! Thế là nó cứ dài ra, dài mãi ra như thế đó!.. 
(Nâng cao chuyện “Cái răng chuột”, giải đầu cuộc thi thơ văn trào phúng Hội Văn Nghệ HNN – 1984)     
 
LTS Dân trí - Câu chuyện nói trên rõ ràng là chuyện hư cấu mua vui cho độc giả trong dịp đầu xuân nhưng ẩn sau câu chuyện vui đó là ý châm biếm, lên án thói hư tật xấu tham ăn, hay đục khoét dân của những kẻ được mệnh danh là “sếp”, tuy có quyền cao mà đức không trọng thì hãy coi chừng những hậu quả khó lường phải gánh chịu, nhất là trong năm mới này, công cuộc chống tham nhũng và lãng phí còn được đẩy mạnh quyết liệt hơn nữa! E rằng những kẻ hám ăn, trục lợi đó có bộ răng chưa kịp… mòn đã phải vào khám bóc lịch!
Dantri.com.vn
(Thứ Năm, 07/02/2008 (01 Tết Mậu Tý)- 3:27 AM)
 
 
 
 
 
 
 
CỦA BÁU
          Dịa phương nọ có một chủ doanh nghiệp tư nhân, mới trúng một khoản lời lớn, sau khi hoàn tất "gói thầu" khu đô thị mới. Nhớ ơn quan đầu tỉnh, anh ta đem biếu quan một viên ngọc đỏ, thưa rằng:
            - Ngọc này tôi đã đem thợ ngọc xem, quả là thứ ngọc rất quý, đáng được xếp vào loại báu vật trên thị trường ngọc quốc tế. Dám xin dem dâng ngài, mong ngài rộng lòng nhận cho!
            Quan đầu tỉnh cầm viên ngọc,ngắm nghía, gật gù, rồi tự nhủ thầm: "Hắn cho ngọc của hắn là của báu, ta cho "phép nước" trên giao cho ta điều hành đây, cũng là của báu. Hắn đem của báu biếu ta mà ta không nhận, thì không những hắn không vui, mà viên ngọc này vẫn chỉ là viên ngọc mà thôi. Ngọc quý mà cất kho thì còn ai biết là quý?!. Chả có ích lợi gì!.. ".Lúc này trong đầu quan đang nhớ lại rành rọt những lời thầy giáo giảng về "Kinh tế hàng hóa" mà quan đã được học tại khóa đào tạo "đại học rút gọn": "Trong nền kinh tế thị trường, người ta định nghĩa rằng: tất cả những thứ gì nằm chết trong kho, chưa đưa qua lưu thông phân phối, đều gọi là" sản phẩm"  chứ chưa được gọi là "hàng hóa". Chưa có "hàng hóa" thì chưa có "thị trường", mà chưa có "thị trường" thì...Phải rồi, để ta cắt nghĩa cho hắn hiểu!". Nắm chắc viên ngọc trong tay, quan phán:
            - Nhà ngươi quýêt định biếu ta viên ngọc này hử? Khá lắm, hiểu biết lắm, thông minh lắm, nắm vững kiến thức "kinh tế thị trường lắm"! Trước một kẻ thức thời như ngươi, sao ta lại có thể bảo thủ, lạc hậu; sao ta lại nỡ từ chối tấm thịnh tình của ngươi được! Nhưng mặc dầu vậy, ta tự thấy cũng phải giảng giải cho ngươi mở mang thêm trí óc: Ta đã đem của báu quốc gia là "phép nước" trao cho ngươi, giúp ngươi làm ăn phát đạt; nay ngươi lại đem của báu của ngươi là viên ngọc này, trao cho ta. Của báu nọ trao đổi lấy của báu kia! Ha ha! Như vậy cả hai của báu đều đã được trở thành "hàng hóa", không còn là thứ sản phẩm nằm chết trong kho ta cũng như kho nhà ngươi! Như vậy, việc làm của chúng ta hoàn toàn phù hợp với bản chất nền kinh tế thị trường... đa thành phần, đúng chưa?
            Ngừng một lát để lấy lại sức, quan nói tiếp:
- Vì những điều lý luận cao cả và uyên bác đó, ta quyết định ... vui lòng nhận viên ngọc này của ngươi.
              Lần sau, có việc gì cần đến phép nước, ngươi cứ đến tìm ta!..    

Báo Doanh Nghiệp số 29 (23/7/1996)
 
 
 
 
 
 
 
CHỌN HIỀN TÀI
          Thành phố nọ đang khuyết một chân trưởng phòng chăn nuôi. Nhiều người ngấp nghé mong được cấp trên quan tâm đề bạt, nhưng chỉ có hai anh Kèo và Cột là đáng được xem xét hơn cả. Cái khó là không biết nên chọn ai, vì hai anh này đều có mặt mạnh, mặt yếu sàn sàn nhau, đúng như các Cụ nói: "kẻ tám lạng người nửa cân"! Cân nhắc mãi, thủ trưởng vẫn không sao quyết định được nên chọn ai, bỏ ai. Cuối cùng, ngài nghĩ ra một cách: đem việc đó về bàn với thủ trưởng bà, xem "quý phu nhân có cao kiến gì không?
       Quý phu nhân chỉ quen việc chạy chợ, con cá mớ rau thì thạo, chứ không thạo việc công đường; nhưng nhiều khi cũng có những ý tưởng đột xuất, giúp thủ trưởng gỡ được nhiều thế bí trong công việc lãnh đạo của ngài!
       Lần này được hỏi ý kiến, chỉ suy nghĩ loáng một cái, quý phu nhân đã đưa ra một chiêu tuyệt hảo:
       - Muốn biết tướng tài, phải đưa tướng ra chiến trường. Để đánh giá đúng năng lực một con người, không gì bằng thực tế công việc của anh ta! Do đó, tôi có kế thế này: Chỉ còn hơn một tháng nữa là đến ngày gả chồng cho con hai nhà ta, tuy ông với tôi đã thống nhất không bầy vẽ tiệc tùng gì rườm rà lôi thôi, vừa đỡ tốn kém vừa tránh được thiên hạ đàm tiếu; nhưng chí ít cũng phải có mươi mâm tiếp họ hàng dưới quê lên. Vì vậy, theo tôi là ta cứ bắt một đôi lợn giống của phòng chăn nuôi Thành phố, giao cho hai anh Kèo, Cột, mỗi anh nuôi cho một con. Hẹn đến ngày nhà mình có viẹc, mang lên... ta sẽ "nghiêm thu". Hôm đó, ai tài hơn ai tất sẽ rõ! 
            Thủ trưởng vỗ tay khen: "Giỏi! Giỏi! Bà nó quả là cao kiến!"
       Thế là, trước hôm cưới "cách cách" một ngày, y hẹn, cả Kèo và Cột đều đem lợn của mình đến nhà thủ trưởng tỉ thí! Kèo khéo chăn nuôi đến mức, nuôi có hơn một tháng mà con lợn giống đã nặng tới hơn ... tạ rưỡi! Kèo phải thuê ôtô tải mới đưa được chú lợn to đùng bát vại ấy đến nhà thủ trưởng! Ai trông thấy cũng trầm trồ ngạc nhiên và hết kời khen ngợi tài chăn nuôi của Kèo, Kèo tự đắc lắm! Còn ai trên đời này có thể nuôi lợn tăng trưởng đến mức ấy được? Phennày cái ghế trưởng phòng chăn nuôi, chắc chắn phải về tay Kèo rồi!
       Mọi việc tưởng như đã ngã ngũ. Nhưng bỗng ... Cột xuất hiện! Anh ta không dùng ôto đưa lợn đến, mà chỉ có một chiếc rọ nhựa cắp nách. Trong rọ là một chú lợn bé tí bé tẹo, bé hơn cả cái con lợn giống anh ta nhận về nuôi! Thấy Cột vô duyên thế, thủ trưởng cười đến chẩy cả nước mắt, nước mũi: "Thôi thôi, thế là anh Cột thua rồi. Hãy nhìn... "ngài ỉn" của anh Kèo kia mà xem! Nuôi như thế mới là nuôi chứ!..
       Thoáng nhìn qua con lợn trong rọ, thủ trưởng bà thấy ngay là nó không chỉ có rất bé, mà còn cứng đơ đơ như lợn... chết rồi!"Thế này là thế nào?..". Thoáng một câu hỏi hiện lên trong óc phu nhân. Nhưng bằng kinh nghiệm phán đoán nhạy cảm nữ giới của mình, bà đã hiểu:
       - Ông thật vớ vẩn, thua là thua thế nào? Con lợn của anh Cột tuy có bé đấy, nhưng là bé... hạt tiêu đấy! Cứ bắt cân lên mà "cân" xem, nó chẳng ... gấp trăm lần con lợn nhà anh Kèo ấy chứ! Làm lãnh đạo mà ông cứ đánh giá cán bộ hồ đồ như thế, chả trách!.. Nói
rồi, bằng một động tác rất sành điệu, thủ trưởng bà đưa cả hai tay ra ôm lấy chiếc rọ lợn từ nách Cột, âu yếm vỗ về:"Ôi lợn vàng lợn bạc, lợn về với ta, ta cho ăn cơm vàng cơm bạc chứ không phải ăn cám hôi nhà người nữa nghe chưa![font=.vntime]". Đoạn, quay sang Cột nói:  "Thôi anh cứ yên tâm về mà chờ quyết định của tổ chức nhé! Chỉ nội tối nay là ông ấy nhà tôi sẽ ký cho anh đấy!".
            Thì ra cái con lợn của Cột không phải lợn thịt, cũng không phải lợn bình thường; mà là lợn được Cột đặt mua ở mãi phố hàng Bạc trên thủ đô Hà Nội kia! Vàng bốn con chín hẳn hoi đấy, mặc dù nó chỉ nặng có dộ... bốn mươi lượng gì đó thôi!..

Vanchuongviet.org (18/5/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CON KHÔNG GIỐNG CHA
- NHÀ CÓ PHÚC!
          Nghe tin vợ Kèo sinh con đầu lòng, Cột cùng mọi người trong cơ quan kéo đên chúc mừng. Ai trông thấy mặt đứa bé cũng khen rối rít: "Ôi! Sao mà nó giống anh Kèo đến thế không biết! Giống quá thể cơ nhé! Cứ ngắm kỹ mà xem: cái mũi hếch, y hệt mũi bố nhé! Chân cũng hơi vòng kiềng, lại thêm đôi mắt một mí nữa, đích thị "thằng cu Kèo con" rồi, bố với con cứ như hai giọt nước ấy, không lẫn vào đâu được!
       Trong khi mọi người hồ hởi tán dương như thế, thì... Kèo ngồi thu lu một chỗ, mặt buồn rười rượi, chẳng nói chẳng rằng gì cả. Thấy lạ, Cột mới lân la ngồi cạnh, hỏi:
       - Vợ đẻ con trai đầu lòng mà cậu không vui là nghĩa làm sao? Chẳng nhẽ cậu lại muốn vợ cậu đẻ con gái?!.
       - Con nào chả là con! Kèo dấm dẳng trả lời Cột.
       - Thế cậu buồn về nỗi gì? Thằng bé lại giống cậu như đúc nữa chứ!
       Như bị chạm nọc, Kèo quát lên với Cột:
       - Thì chính là vì nó gióng cha nó đây quá, giống đến không có lấy một điểm nào không giống, cho nên mới là... khốn nạn, hiểu chửa?!..
        - Cậu làm sao thế? Cậu nói cậu buồn, cậu... khốn nạn vì con trai cậu giống cậu như đúc ư? Liệu tớ có phải đưa cậu đi khám thần kinh không đấy?!. Kèo thủng thỉnh trả lời:
       - Cậu mới là kẻ phải đi khám thần kinh đấy! Hãy để tớ giải thích cho mà nghe. Cuộc đời tớ, cậu còn lạ gì, phấn đấu suốt bấy nhiêu năm, rốt cuộc vẫn chỉ là thằng nhân viên quèn. Có mỗi một niềm hy vọng, đặt cả vào đứa con. Vậy mà vợ đẻ ra, nó lại giống y hệt bố nó là cái thằng Kèo khốn khổ khốn nạn này đây!
       - Ơ hay! Thế chả nhẽ cậu lại muốn con cậu... giống ông hàng xóm à?
       - Đồ thần kinh! Không phải giống hàng xóm, mà là giống... thủ trưởng cơ! Cậu chẳng hiểu gì cả!.. Tớ là cái loại "ngu lâu" mà tớ cũng sớm nhận ra để tổng kết được rằng: Trong cái cơ quan như cơ quan này, hầu hết những đứa được thăng quan tiến chức, thì con nó cũng phải có những nét giống... thủ trưởng của ta! Đấy, con thằng..., rồi thằng... và cả thằng... nữa,... chúng nó chả giông hệt thủ trưởng là gì?
       Cột ngẩn người ra: ờ... ờ... nhỉ!
Trầm ngâm một lát, Kèo nói tiếp:
- Mà tớ nói điều này, cấm cậu không được bép xép với ai nhé. Bép xép là toi đấy nghe không! Rồi Kèo thì thào: Cậu hay đến nhà thủ trưởng, cậu không để ý đấy thôi, chứ "quý tử" và "cách cách" của ổng, đứa nào chả giống... thủ trưởng cấp trên của ổng?!.
         
 Vanchuongviet.org (18/5/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CHÓ THẬT!
          Thời ấy, Vũ Văn Báo, tổng đốc Nam Định, được triều đình Nhà Nguyễn cử làm phó sứ sang "Tây".
       Hãnh diện về việc này, Báo đã thuê thợ ảnh Pa-ri chụp nhiều kiểu để làm "xú-vơ-nia" trong những ngày đắc chí ddos ở "đất mẹ"!
       Có người mách với Tam nguyên Yên Đổ, rằng trong số những bức ảnh Báo đem về treo ở "sa-lông" nhà hắn có một bức chụp Báo đang ôm con "Béc-giê" nòi Tây chính cống. Ý hẳn quan tổng đốc muốn nói với mọi người rằng: "Mình đây cũng... "Tây" ra phết!". Nghe thấy thế, cụ Nguyễn nửa tin nửa ngờ "Không nhẽ ông thông gia mình lại có thể đốn mạt đến thế? Đường đường là một vị quan phó sứ, đại diện cho một quốc gia, thiếu gì cái để chụp ảnh, lại đi chụp chung với chó!
       Câu chuyện đó tưởng chừng rồi cũng trôi vào quên lãng... Cho tới một bận, nhân việc được quan Tây khen thưởng, tổng đốc Báo quyết định mở tiệc mời mọi người đến dự. Cụ Nguyễn nhớ lại chuyện xưa, muốn nhân dịp này, đến xem thực hư ra sao.
       Giữa lúc mọi người đang tề tựu đông đủ ở phòng khách nhà Báo, Nguyễn Khuyến đứng lên, từ tốn bước về phía bức tường có treo bức ảnh phóng to, lồng trong khung kính sơn son thếp vàng. Người ta thấy cụ chậm rãi giương "mục kỉnh", ngắm ngang rồi ngó dọc; tiến lên, lại lùi ra xa,... Rồi cụ chép miệng, buông một câu, khẽ thôi, nhưng đủ để quan tổng đốc ta nghe tháy:
-         Chó... thật!
Đoán ra cụ Nguyễn chửi mình, nhưng Báo cũng khôn ngoan, nhanh nhẩu chữa át đi:
-         Không những là chó thật, mà còn là giống chó "Béc-giê" Đức chính nòi đấy... thưa cụ!
Nguyễn Khuyến lờ như không nghe thấy điều Báo vừa nói, vẫn một giọng điềm đạm, chỉ tay vào bức ảnh, gật gù:
- Đúng!.. Đúng!... Đúng là... chó thật!..
Báo tím mặt! Giận lắm, nhưng không thể làm gì được. Trong phòng khách lúc này, khách khứa rất đông, lại có cả vợ chồng quan Toàn Quyền nữa!..
      
Báo Tuổi Trẻ Cười số 131 (12/1994)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
THÁNH QUÁT
MỘT LẦN MẤT... THIÊNG!
          §Dược tôn là "Thánh" trong lĩnh vực văn thơ, chữ nghĩa; được vua Tự Đức làm thơ khen: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán" - Vậy mà Cao Bá Quát đã từng một lần bị... hạ bệ!
       Truyền thuyết kể rằng, ngày cụ thân sinh Cao Bá Quát qua đời, có một cụ già xưng là bạn cũ của người đã khuất, đến viếng. Sau khi thắp hương, vái trước ban thờ, khách quay lại, bất ngờ hỏi một câu, làm Quát sững cả người:
       - Thế, lúc sinh thời, ông già có cho anh ăn học gì không?
       Vì thấy thái độ của khách rất chân thành, lại là bạn cũ của bố, nên Cao Bá Quát đành nén lòng, gặng trả lời:
       - Dạ thưa, cháu cũng được cha cháu cho theo đòi con đường bút nghiên ạ!
       - Thế thì tốt!.. Lão muốn viếng cụ nhà mấy chữ, gọi là cái tình tri ân tri kỷ, anh viết hộ lão nhé?
       Cao Bá Quát lấy giấy bút ra, ông cụ đọc:
-         Chi!
Tiếng Hán có mấy chữ "Chi", Cao đang lưỡng lự chưa biết ông cụ muốn viết chữ nào, liền bị gắt:
- Ơ hay? Học trò gì mà có mỗi chữ "Chi" cũng không biết ư?        Hỏng! Đây, viết thế này – ông cụ vừa nói vừa lấy ngón tay vạch lên bàn một chữ "Chi". Cao Bá Quát điếng người, đành lúi húi chép chữ đó vào giấy!
Cụ khách đọc tiếp: "Chi". Lại một chữ "Chi" nữa! Cao Bá Quát chưa định hình chữ "Chi" này là chữ nào, lại bị quát:
- Trời ơi! Vừa viết xong, đã quên rồi ư? Nhìn vào mẫu chữ đã viết trước, mà chép lại!
Cao cay đắng viết chữ Chi thứ hai, rồi định đặt bút phân trần, thì cụ khách đã cướp lời:
- Nhưng mà được, được cái... chữ anh viết cũng đẹp đấy! Thôi, để lão đọc cả câu cho anh chép luôn một thể nhé? Chữ nào không biết, thì cứ hỏi! Rồi cụ đọc:
- "Chi chi ngũ bách niên tiền lục thụ thanh sơn hà xứ tại!
Tại tại tam thiên lý ngoại dào hoa lưu thuỷ cách hà chi? ".
(Đâu đâu khoảng trước năm trăm năm, cây biếc non xanh nào chốn ấy!
Ấy ấy chừng ngoài ba ngàn dặm, hoa đào nước chẩy lại về đâu?).
Tâm trí Cao Bá Quát lúc này như bị hút vào chất thơ trác việt của đôi câu đối mà cụ già vừa đọc. Lát sau ngẩng lên thì không còn thấy cụ khách đó đâu nữa! Người sau đồn đại rằng: đó chính là tiên hiện lên trêu chọc Thánh Quát cho bớt tính kiêu ngạo mà thôi!..

Báo Tuổi Trẻ Cười số 137 (6/1995)






 
 
 
 
TẠI SAO... NGU?
          Loài người đã thuần hoá được khá nhiều động vật để nuôi trong nhà, nào Chó, nào Mèo, nào Gà, nào Vịt, nào Trâu, nào Bò,... thậm chí cả Hổ Báo nữa. Nhưng chỉ có ba giống vật bị ghép cho cái tội là... "ngu"! Đó chính là con Chó, con Lợn và con Bò!
       Con Lợn bị coi là "ngu" có lẽ bởi... giống này chỉ ăn cám (thứ bột thải ra từ hạt gạo) ăn bèo (thực vật trôi nổi trên tất cả các mặt nước hồ ao, rẻ như... bèo!) thôi, mà cung cấp cho con người nhiều món ăn từ thịt của nó, ngon đến thế! Nào giò, nào chả, nào dăm bông, nào thịt quay, nào ninh, nào mọc, nào ruốc, nào giả cầy, nào kho Tầu,...
       Con Chó bị coi là "ngu" có thể là bởi... nó quá trung thành với chủ, trong khi chủ chỉ cho nó nằm gậm giường, ăn các thứ cơm thừa, canh cặn; thậm chí ở nông thôn ta, nhiều khi chó sống chỉ bằng... thu lượm các chất thải sinh học (các chuyên gia về chó nói rằng: món "khoái khẩu" của chúng chính là... phân trẻ con đấy!)
       Còn Bò thì sao? Cái rõ nhất, ai cũng nhận ra ngay: Bò ngu vì chúng là giống "làm thật, ăn giả"! "Làm thật" vì chúng là loài "cổ cầy, vai bừa", thường xuyên phải làm việc, lao động rất cực nhọc, vất vả vì cuộc sống của chủ - con người. "Ăn giả" vì chúng đâu có ăn cơm, ăn thịt? Chúng chỉ có ăn cỏ, ăn rơm mà thôi!
Nhưng trên cõi đời này, đâu chỉ có Bò "làm thật, ăn giả"? Trâu cũng thế, cũng "làm như trâu như bò" (!); cũng chỉ ăn cỏ ăn rơm, sao người đời lại chỉ nói: "ngu như Bò" mà không thấy ai mắng ai "ngu như Trâu", là nghĩa làm sao?
       Có lần tôi đã hỏi bố tôi câu trên thì được Cụ hỏi lại: "Thế anh đã từng uống "sữa bò" chưa? Đã từng ăn "phở tái lăn" chưa, đã từng sơi "bít-tết" chưa? đã từng ăn "bơ", "phó mát" chưa? Được mẹ cho ăn cả rồi hử! Thế có thấy ngon, thấy bổ không? Toàn những món khoái khẩu hả!" Rồi Cụ thủng thẳng trả lời:
       - Thế đấy! Đã "làm thật, ăn giả"        , mà lại còn... ngon và bổ như thế,  bị chửi là ngu, thì phải quá đi rồi, còn oan uổng nỗi gì nữa?!.

Vanchuongviet.org (25/5/2007)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
LÓT TAY!

C
hị nọ nhà neo đơn, chồng lại công tác xa, cuộc sống rất chật vật; làm đơn xin cho chồng chuyển công tác về gần nhà, mãi vẫn chưa được giải quyết.
Được người mách bảo, một hôm nhân chồng về nghỉ phép, chị ta vay giật chúng bạn ít tiền, "sửa" một mâm cỗ, mời anh cán bộ tổ chức đến chơi nhà, để thưa chuyện.
Nhận lời mời, anh cán bộ tổ chức vừa đến ngõ, đã thấy từ trong bếp tỏa ra mùi thơm ... điếc mũi! Lại nghe tiếng hai vợ chồng nhà kia to nhỏ với nhau:
-         Ấy! phaỉ chuẩn bị cái gì... lót tay đã chứ?
-         Yên chí! Đâu có đó!
Anh cán bộ tổ chức mừng rơn, thầm nghĩ: "có thế chứ! Mình đoán người từ xưa đến nay chẳng có sai bao giờ!Vợ chồng nhà này tuy nghèo, nhưng cũng là những tay ... "chịu chơi" đây!".Thế là anh ta quyết định: "Đã vậy, mình mình cũng phải sử xự... một cách thật cao tay mới được!.. Đúng rồi, mình sẽ đi trước vợ chồng nhà này một bước, chủ động đưa tờ quyết định chuyển công tác của thằng chồng,  khi chúng nó chưa kịp trao cái món... "phong bì lót tay" mà chúng đã chuẩn bị kia!".Đắc ý, anh cán bộ tổ chức bèn đánh tiếng bước vào. Vừa bắt tay người chồng, anh vừa tươi tỉnh mở "ca táp" lấy ra tờ "quyết định" còn thơm mùi dấu son, rồi nói:
- Này, cô chú đang làm gì đấy? Cỗ bàn cơ à! Gớm, chỗ anh với cô chú thì như anh em nhà cả,, việc gì mà phải bầy vẽ ra thế này, tốn kém chết! Lúc này đời sống nói chung còn đang khó khăn lắm. Đài báo ngày đêm ra rả kêu gọi mọi người hãy thực hành tiết kiệm, coi tiết kiệm là "quốc sách hàng đầu". Cô chú vẫn nghe cả đấy thôi! Thế mà hôm nay, cô chú lại bầy vẽ ra cỗ bàn thế này, anh thật ... khó nghĩ quá! Thôi đây, "quyết định" đây, quyết định cho chú ấy chuyển công tác về gần nhà đây! Đạt nguyện vọng rồi nhé! Thấy đấy, anh đã hứa giúp ai là giúp bằng được, giúp một cách rất vô tư, chứ chẳng như
nhiều người! Làm cái nghề "tổ chức" này cần nhất là phải có cái "tâm". Tâm mà không trong sáng thì cứ là... vứt!
Hai vợ chồng nhà nọ nghe thấy thế thì mừng rơi nước mắt, cuống quít cầm tay anh cán bộ tổ chức:
- Da! Thế này thì quý hóa quá! Từ đáy lòng, chúng em xin đa tạ sự quan tâm giúp đỡ của anh, một sự giúp đỡ rất vô tư, đối với hoàn cảnh vợ chồng em ạ!
Mọi người vui vẻ ngồi vào bàn tiệc. khi cơm rượu đã no say, anh cán bộ tổ chức nhấp nhỏm muốn đứng dậy ra về. Nhưng phiền nỗi, chưa thấy chủ nhà đưa ra cái... món "lót tay" kia; cái món mà khi anh mới bước đến cửa, đã nghe vợ chồng nhà này giục nhau chuẩn bị... Nhưng chờ mãi, vẫn chẳng thấy gì. Ngồi nữa thì bất tiện, cuối cùng anh bèn nhắc khéo:
- Cô chú này! Từ nãy đến giờ anh đã được cô chú "kính thưa", "kính mời" đầy đủ cả rồi. Bây giờ thì ... quá ngọ rồi, anh cũng phải về thôi. Rồi nửa đùa nửa thật, anh nói tiếp: Cô chú còn ... "kính" gì nữa không, thì "kính" luôn đi?!.
Vợ chồng nọ thật thà:
-  Dạ! Nếu anh bận không lui lại chơi với chúng em thêm chút nữa, thì vợ chồng em xin..."kính" anh luôn mạnh khỏe ạ!
       Anh cán bộ tổ chức tiu nghiủ ra về ... tay không! Khi cánh cửa đã khép lại, mới nghe tiếng chị vợ trong nhà vọng ra:
       - Ông xã ơi, tìm cái gì đấy?.. Cái "lót tay" hả? Vẽ chuyện, bây giờ xông, nồi nguội cả, bắc bằng tay không được sao, việc gì phải cầu kỳ kiếm cái lót tay nữa?
[font=.vntime] 
Báo Tuổi Trẻ Cười số 147 (4/1996)





CÂU ĐỐI

Và trào phúng bằng
nghệ thuật câu đối
        
         Trong ngày Tết cổ truyền của Dân tộc, bên cạnh những món ăn truyền thống “thịt mỡ, dưa hành, ...”, người Việt Nam ta thường không thể quên được món ăn tinh thần mang đậm bản sắc phương Đông, đó là thú chơi Câu Đối.
              Câu đối là sản phẩm văn hóa vừa mang tính nghệ thuật, vừa mang tính trí tuệ; là sản phẩm riêng có của một số nước Châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Câu đối cổ nhất đến nay phát hiện được là của Hậu Thục chúa Mạnh Sưởng. Nội dung câu đối là đón Tết, mừng Xuân:
“Tân niên nạp dư khánh – Năm mới thu phúc lớn
Giai tiết hiệu trường Xuân – Tiết đẹp báo Xuân dài”
              Câu đối là một thể văn cổ gồm hai câu, một câu được gọi là “vế ra”, một câu được gọi là “vế đối”. Mỗi câu (vế) có thể dài, ngắn khác nhau, nhưng nhất thiết phải tuân theo nguyên tắc sau: Thứ nhất, số từ của hai vế phải bằng nhau. Thứ hai, mỗi từ (hoặc cụm từ) của vế đối phải đối ý, đối lời, đối thanh,... với vế ra. Ví dụ:
 
Ái quốc mạc vong tổ – Yêu nước chớ quên tổ tiên.
“Nhân dân tiên mục thân – Thương dân trước phải  hòa thân thích”
Hoặc: “Phú quý đô thành khách – giầu sang là khách thị thành.
“Thánh nhân địa giới tiên – Thánh nhân là tiên trần giới”.
Và: “Trung hiếu trì gia viễn – Lấy trung hiếu giữ nhà bền vững.
Đức nhân xử thế trường – Dùng đức nhân xử thế lâu dài”.
 
              Thường người xưa làm câu đối để nói lên một ý trí, một tâm sự, một đạo lý. Có thể kể ra đây rất nhiều câu như thế: “ Bách kế bất như nhân đức thiện – Thiên kim mạc nhược tử tôn hiền” (Trăm chước chẳng bằng nhân đức tốt – Nghìn vàng khó sánh cháu con hiền). “Nhân lão tâm vi lão – Gia cùng chí mạc cùng” (Người già tâm chẳng già – nhà quẫn chí không quẫn). “Bút thụ hữu hoa huynh đệ lạc – Thư điền vô thuế tử tôn canh” (Bút là cây trổ hoa anh em cùng hưởng – Sách là ruộng không phải nạp thuế, con cháu cấy cầy). Tam nguyên Trần Bích San cũng để lại đôi câu đối mang tính triết lý sâu sắc: “Văn vô sơn thủy phí kì khí – Nhân bất phong sương vị lão tài” (Vũ Hoàng Chương dịch: Văn hay bởi khí hùng non nước – Người gió sương thao lược mới già)...
              Nhiều người trong chúng ta đều biết đến giai thoại đối đáp giữa hai người (vốn là bạn đồng môn, nhưng không cùng chí hướng): Đặng Trần Thường và Ngô Thời Nhậm:
Đặng Trần Thường: “Ai công hầu, ai khanh tướng; trong trần ai, ai dễ biết ai?”. Vế ra thật ngạo mạn và hãnh tiến. Ngược lại, vế đối của người thất thế, bị bắt – Ngô Thời Nhậm, vẫn đầy khí phách: “Thế xuân thu, thế chiến quốc; gặp thời thế, thế thời phải thế!”. Kết cục, Ngô Thời Nhậm đã bị đánh đến chết ngay tại Văn Miếu! (Sau này, có nhà thơ đã viết lại vế đối trên thành: “Thế phải quỳ, thế phải đội; Gặp thời thế, thế mà chẳng thế!”.
              Trong lịch sử bang giao của Nhà Nước ta, có những câu đối đã thấm đẫm cả máu nữa. Đó là trường hợp Thám hoa Giang Văn Minh đi sứ sang Tầu, vua nhà Minh đưa ra vế đối:
“Đồng trụ chi kim đài dĩ lục” – Trụ đồng đến nay rêu đã phủ xanh (có ý gợi lại chuyện cũ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt). Giang Văn Minh đã lập tức trả đũa bằng vế đối lấy chiến thắng của quân dân ta trên sông Bạch Đằng: “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” – Sông Bach Đằng tự  xưa, máu vẫn còn đỏ!).
              Nghe xong, vua Minh uất lắm, bèn sai giết Sứ nước ta. Nhưng cảm phục khí phách của Giang Văn Minh, ra lệnh cho ngậm sâm rồi đưa quan tài ông về nước. Vua Lê Thánh Tông thân ra đón và nói với quần thần: “Đi sứ mà không làm nhục mình, nhục nước; thật anh hùng muôn thưở!”.
Một câu đối rất đặc biệt, dân gian truyền khẩu rằng, đó là của vua Lê Thánh Tôn viết “tặng” một người nông dân làm nghề... hót phân – một công việc khá là “bẩn thỉu”. Đức Vua đã miêu tả người này giống như một ... “nguyên soái”:
 
Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Vung ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.
      
Cái gọi là „áo bào“ chính là chiếc áo tơi làm bằng lá gồi! Còn „ba thước kiếm“ là chiếc cào, chiếc „muôi“ dùng vào việc hót phân! Đúng cái công việc hàng ngày của anh ta quả là một trong những nghề... khó khăn nhất thiên hạ, nhằm „tận thu lòng dạ“ thế gian!
          
Dùng câu chữ để sáng tác câu đối là chuyện thường tình. Câu đối dưới đây lại không hề dùng bất cứ một con chữ nào mà vẫn làm thành một đôi câu đối hoàn chỉnh:
 

 
           Đây chính là bốn “Quẻ” Kinh Dịch (tác phẩm triết học cổ phương Đông):
 
PHỤC                                              CẤU
BÁT THUẦN KIỀN                    BÁT THUẦN KHÔN

 
           Cái “lạ” của đôi câu đối này ở chỗ: không đối chữ mà đối “Quẻ”, đối “hào”, đối Ý:
              a/ Vế ra gồm quẻ “Phục” – năm vạch đứt + một vạch liền tức 5 Hào âm + 1 hào dương (có nghĩa là “trở lại”, mang Hành “Thổ”) đứng vị trí quẻ thượng. Dưới quẻ Phục là quẻ “Bát thuần Kiền” – toàn vạch liền tức Hào dương (quẻ hạ, có nghĩa là Trời, mang Hành Kim).
              b/ Vế đối gồm quẻ “Cấu” – năm vạch liền + một vạch đứt tức 5 Hào dương + 1 hào âm (có nghĩa là “gặp gỡ”, mang Hành “Kim”) đứng vị trí quẻ thượng. Dưới quẻ Cấu là quẻ “Bát thuần Khôn” – toàn vạch đứt tức Hào âm
(quẻ hạ, có nghĩa là Đất, mang Hành Thổ). 
              Độc đáo nhất có lẽ là câu đối sau: Cũng hoàn toàn không dùng một chữ nào mà vẫn ... rất đối:
Vế ra:        “?”
Vế đối:       “!”
              Đó là một giai thoại về bức thư của nhà văn nổi tiếng thế giới, nhắc nhà xuất bản sao mãi chưa trả tiền nhuận bút (?); giám đốc nhà xuất bản đã chơi chữ lại bằng một dấu chấm than (!), có ý cười trừ! Vâng, đôi câu đối chỉ có một dấu ? và một dấu !, nhưng nội dung ẩn dụ trong đó, thì cả người nhận và người gửi, đều hiểu!
 
***
 
                Câu đối có ở nhiều nước, nhưng dùng nghệ thuật câu đối để trào phúng, thậm chí để đả kích, thì có lẽ là nét đặc sắc riêng của nước Việt Nam ta! Giai thoại bà Đoàn Thị Điểm đối đáp sứ Tầu là một ví dụ điển hình: Lần ấy, bà Điểm đóng giả cô lái đò ngang.  Sông rộng, gió to, “cô lái đò” mặc “nấm” (váy cổ của phụ nữ Việt), dạng chân chèo đưa sứ sang sông! Ngồi ở mũi đò, quan sát dáng khoan thai chèo đò của người con gái Việt, chợt một cơn gió nhẹ thổi tới, sứ Tầu bất ngờ liếc mắt nhìn thấy sự ... hớ hênh của cô lái trẻ, bèn buông một câu:
“An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỉ nhân canh?” (nước nam có một tấc đất, không biết có bao nhiêu người cầy?).
              Không chút nao núng, Đoàn Thị Điểm gác chèo, đối ngay:
“Bắc Triều chư đại phu, giai do thử đồ xuất! (tất cả các đại nhân nước Tầu đều từ đó mà ra!).
              Một giai thoại khác kể rằng, thời thuộc Pháp, có viên cố đạo đến yết kiến vua Duy Tân. Viên cố đạo này là người thông thạo Hán Nôm, đã sấc xược trình lên vua ta một tờ giấy ghi hai chữ: “Vương “ và “tam “. Liếc nhin qua, vua Duy Tân đã hiểu thâm ý của tên thực dân này, bèn lấy bút lông phê ngay bên cạnh hai chữ: “Tây “ và “tứ”, rồi thẳng tay trao cho viên cố đạo ngạo mạn nọ. Viên cố đạo  tím mặt. Nhưng còn biết nói gì? Đành gượng cười đưa cả hai tay ra đỡ lấy tờ giấy vua ta ban.
              Chữ “Vương” là Vua, gồm ba nét ngang và một nét sổ; chữ “tam” chỉ có ba nét ngang. Vậy rút bỏ nét dọc của chữ Vương (ý : rút ruột Vua) thì thành chữ tam (ý: tam phân thiên hạ, chia nước ta thành ba khu vực Bắc, Trung, Nam  để dễ bề cai trị). Chữ “Tây” gồm chữ “tứ” và phần đầu có một nét ngang và hai nét dọc. Nếu cắt bỏ phần đầu đó đi (ý: chặt đầu thằng Tây!) thì thành chữ tứ (ý: tứ hải giai huynh, bốn bể đều là anh em, nước Nam quyết không cho kẻ thù chia cắt!).
              Trên là mấy giai thoại về “đối ngoại”, còn những câu chuyện sau, lại mang ý nghĩa “đối nội”: Nhà Sư nọ vốn là người thông thạo kinh sử, lại rất tự đắc về kho tàng trí thức cũng như sự trong sạch không hề vương “bụi trần” của mình. Gặp danh nho Nguyễn Công Trứ, một con người có lối sống phóng khoáng, vị cao tăng nọ bèn ra vế đối có ý chê bai:
“Thuộc ba mươi sáu đường Kinh; không Thần, Thánh, Phật, Tiên – nhưng ... thoát tục!”
              Nguyễn Công Trứ đáp:
“Hay tám vạn tư mặc kệ; chẳng phong, hoa, tuyết, nguyệt – đếch ...  ra người”.
              Một nhà sư khác, tiếng là đi tu nhưng chưa “thoát tục”, còn vướng nhiều “bụ trần”, và cũng có tính ... hợm chữ. Nhân lần ấy có đám học trò đến vãn cảnh chùa, bèn đưa ra câu thách đối sau:
“Nhất sỹ nhì nông; hết gạo chậy rông, nhất nông nhì sỹ!”.
Đám học trò chạm nọc, tức lắm, nhân dịp này quyết cho tên “sư hổ mang” này một bài học, bèn đối:
“Trên sư dưới vãi; ngoảnh lưng trở lại, trên vãi dưới sư!”.
               
              Một giai thoại về Trạng Quỳnh kể: có vị quan kia muốn tỏ oai quyền của mình, đã ra cho Quỳnh vế đối:
“Miệng nhà quan có gang có thép!”
              Quỳnh đã đối lại:
“Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm!”
              Tam nguyên Yên Đổ (Nguyễn Khuyến) cũng đã từng làm nhiều câu đối trào phúng, trong đó có chuyện kể rằng: năm ấy ở làng Cổ Ngựa, xã Hiển Khánh, Vụ Bản, tỉnh Nam Định chuẩn bị khánh thành đề thờ Thánh Mẫu, có cử người đến “xin chữ” cụ Nguyễn Khuyến. Vốn ghét bọn quan lại làng này về tội nhũng nhiễu dân, cụ viết:
“Mỹ nhân như ngọc hành vũ hành phong anh linh mạc trắc”
Tế thế kì âm hộ dân hộ quốc thương lại vô cung”
(Người đẹp như ngọc làm gió làm mưa thiêng không lường hết
Âm đức cứu đời giúp dân giúp nước ơn lớn vô cùng”).
             
              Lời văn của đôi câu đối Hán Nôm nghe qua tưởng như rất nghiêm chỉnh, nếu như ta đọc theo lối ngắt câu ở từng bốn chữ một: “Mỹ nhân như ngọc/ hành vũ hành phong/...  Nhưng chỉ cần chuyển cách ngắt câu về sau chữ thứ năm của đầu mỗi vế đối, thì câu đối đó trở thành một câu đùa rất ác và rất ... tục!
              Về sự đa nghĩa của chữ Hán thì đến như Trương Vĩnh Ký, một học giả có tiếng trong giới ngôn ngữ học, cũng từng bị một nhà Nho chơi khăm. Chuyện là như thế này: Năm 1876, trong một lần ra Hà Nội, Trương được một nhà Nho tặng câu đối sau:
“Bắc du phong độ nhan như ngọc.
Tây vọng dung quang khí tự hồng”
Và được giảng rằng:
“Cuộc đi chơi đất Bắc, dáng bộ ung dung, mặt đẹp như ngọc.
trông về hướng tây, dung mạo sáng sủa, sắc khí tựa cầu vồng”.
              Nhưng sau đó, có người lại giảng khác hẳn:
“Chơi đât Bắc, phong độ nhẵn nhụi như đầu ngọc... hành.
Hướng theo Tây, mặt mũi ngây ngô như tĩn con... lợn”.
              Tú Cát và Trạng Quỳnh tương truyền cũng hay “chọc ... quê” nhau bằng những câu đối như: “Đất nứt con bọ hung – Trời sinh ông Tú Cát”, hoặc câu: “Lợn cấn ăn cám tốn – Chó khôn chớ cắn càn” (Cấn, tốn, khôn, càn: bốn “Quẻ” trong “Bát Quái” của Kinh Dịch.
              Không chỉ các nhà Nho học mới chơi câu đối, mà trong dân gian cũng lưu truyền nhiều câu đối rất tài tình, như chuyện về một cô chủ hàng cơm góa chồng, nhưng còn trẻ, đẹp; nên thường bị đám khách ăn đàn ông bờm sơm. Để từ chối khéo, cô chủ đã viết mấy chữ treo lên vách cửa hàng mình:
“Nạc mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi, đừng nói với em câu tái giá!”
              Cái tài tình của câu trên là đã dùng rất nhiều từ trong cái nghề hàng ăn mà vẫn nói đúng được ý nguyện của cô chủ. Nhưng khách ăn cũng có những tay không vừa. Một anh thợ cắt tóc, đối:
“Tóc tơ đâu phải rỡn, tớ liều kéo lại, đừng nên chốn tớ chuyện dao đầu!”
              Còn anh làm nghề chọc tiết lợn thì viết:
“Hành tỏi vừa thôi chứ, khách hăng tiết đấy, hãy thêm cho khách đủ răm mùi!”
              Đến lượt thầy lang, cũng không thể không góp thêm một tiếng nói:
“Thuốc thang chưa đỡ hử, thầy còn bốc nữa, không nghe thầy còn phải bóp xoa!”
              Vậy là người nào cũng bắt chước cô chủ quán, đều đối lại bằng những câu dùng toàn từ nghề nghiệp của mình.
              Lối chơi chữ đa nghĩa thường được cổ nhân sử dụng nhiều. Xin dẫn ra đây một số vế đối nổi tiếng:
“Vũ cậy mạnh, vũ ra vũ múa; vũ gặp mưa, vũ ướt cả lông!” (“Vũ” vừa có nghĩa là võ, là mưa, là múa và là lông!).
“Cô Lan bán giấy cửa Đông; kẻ Nam người Bắc, chưa vừa lòng cô!”
(chiết tự chữ Lan, tên cô gái, ta được chữ “môn – cửa” và chữ “Đông”. Vế đối nêu lên ba hướng Đông, Nam, Bắc, mà không nêu hướng Tây. Ấy là tác giả muốn ám chỉ cô Lan này chỉ vừa lòng... Tây!).
              Cái lối “ẩn chữ” để nói ý này đã thấy ở một vị đại học sĩ Trung Hoa thưở xưa, tên là Kỷ Quân. Chuyện rằng, có lần một Thái giám ra cho Kỷ Quân một vế đối: “Tam nguyên giải hội trạng” (tam nguyên gồm giải nguyên, hội nguyên và trạng nguyên). Kỷ quân đối lại: “tứ quý hạ thu đông” (bốn mùa gồm mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Kỷ Quân cố tình bỏ không nói đến mùa xuân!). Nghe xong, viên thái giám thấy thiếu, bèn hỏi: “thế còn ... “xuân”, ở chỗ nào?” và cười đắc ý cho rằng phen này tên đại học này sĩ sẽ hết vênh váo về cái tài học cao của mình! Nhưng Kỷ Quân chỉ đợi có thế, tức là đã đưa được viên hoạn quan hợm hĩnh vào bẫy, bèn thủng thẳng trả lời:
              - “Xuân” ở chỗ nào thì ngài làm sao mà biết được?!.
              Mọi người nhận ra thâm ý của Kỷ Quân, bèn cười ngất. Còn hoạn quan khi hiểu ra tác giả vế đối đã chạm đến thân phận ... của mình, từ lâu làm gì còn có “xuân”, bèn lảng đi chỗ khác!
              Ấy là chuyện ngày xưa, thế còn ngày nay thì sao?
              Có một thời, thú chơi câu đối không còn thịnh hành nữa. Nhưng thực ra, sức sống của nó tiềm ẩn rất bền bỉ trong dân gian, cả ở hai lĩnh vực “chính luận” và “trào phúng”.
              Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, thầy thuốc Nam Sơn đã có một vế đối nói về sự những hy sinh gian khổ trên chiến khu Việt Bắc ngày ấy:
“Vì Nước phải lên rừng, đánh  mãi nước nguồn, đâm ngã nước!”
              Nói “đánh”, “đấm” mà không phải là đánh, đấm; nói “ngã’ mà đâu có ngã! Cả câu có mười hai từ thì từ “nước” chiếm ba, mỗi từ nước lại có một nghĩa khác nhau.
              Chế riễu việc Mỹ thả “người nhái” do thám bờ biển, bị bắt sống, một tác giả viết: “Người nhái bơi ếch vào bắt cóc, cóc bắt được ai, bị trói bén. Ngồi trơ mắt ếch!”.
              Nhà thơ Thanh Tịnh sinh thời là một người có nhiều câu đối hóm hỉnh, xin dẫn ra đây vài chuyện:
              Thời bao cấp, hàng tiêu dùng khan hiếm, thường mỗi khi có mặt hàng nào đó, phải tổ chức phân phối theo chỉ tiêu đầu người từng cơ quan. Khi về đến cơ quan, lại phải tiến hành bình bầu, nhận xét xem phân cho ai là đúng. Không bình bầu nổi thì chọn phương án “bốc thăm”, may ai nấy được. Một lần bốc thăm như thế, nhà thơ Xuân Sách và nhà văn Nguyễn Thị Như Trang cùng bốc được một chiếc màn... đôi! Vốn bực mình về cái thói cửa quyền của cơ quan phân phối, nhân chuyện này, Thanh Tịnh buông một câu: “Cái cứt gì cũng phân; mà phân thì như cứt!”. Lần khác, nhìn cảnh nhà thơ Vương Trọng đang vui vẻ bón cơm cho cậu con trai ba tuổi, Thanh Tịnh bật ra vế đối: “bố cho con ăn, bố cười, con cười!”. Tiếp đó, ngẫm sự đời, ông đọc tiếp vế sau: “con cho bố ăn, con khóc, bố khóc!”.
              Chơi chữ kiểu “nói lái”, kiểu “đồng âm khác nghĩa”... cũng thường được các tác giả câu đối sử dụng nhiều: “chả lo gì, chỉ lo già – nỏ cần chi, chỉ cần no” (Vương Trọng) – “Thế quỳ, thế đội, thế bò. Thời thế thế, thế mà chẳng thế” (Hữu Loan) – “răng muốn trắng lại đen, tóc muốn đen lại trắng” (Vương Trọng) – “bác bôi tôi không bằng tôi bôi bác!” (Tú sót) – “công an, can ông đừng uống rượu. Chủ báo, bảo chú chớ ăn chè” (khuyết danh).
              Nhà thơ Nguyễn Bính đất “non Côi sông Vỵ” sinh thời còn tài tình chơi chữ bằng cách dùng ghép cả chữ ta với chữ tây:
“ba ba đã chín. Cát cát đầy xe”. Vế ra vừa hiểu là thịt con ba ba đã chín; vừa có thể suy ra ý: ba (3) lần ba (3) là chín (9). Vế đối vừa hiểu là xe chở cát đã đầy, lại có thể suy ra: quatre (tiếng Pháp, đọc hơi giống chữ “cát” = 4) lần quatre (4) là seize (chữ Pháp, đọc hơi giống chữ “xe” = 16).
              Cùng lối chơi đa ngữ này, còn tác giả Nguyễn Xuân Lạc:
“Hai chân duỗi thẳng đơ (tiếng Pháp deux, đọc hơi giống chữ “đơ”, là số hai (2).
“Sáu cô ngồi xúm xít” (tiếng Pháp six, đọc hơi giống chữ “xít”, là số sáu (6).
              Vế đối dưới đây cũng của tác giả nguyễn Xuân Lạc, lại dùng lẫn lộn cả mấy thứ ngoại ngữ Pháp, Anh, Hán: “quần thủng đít đã chục ngày nay, hiệu thợ may cửa đóng then cài, ta đành đứng thập thò ngoài cửa” (“đít: dix, tiếng Pháp, số mười; then: ten, tiếng Anh, số mười; thập, tiếng Hán, cũng là số mười).
              Tết Mậu Dần (1998), nhạc sĩ trọng Bằng đưa ra vế đối hóc hiểm: “đêm ba mươi, chơi với cọp, bóp lưng hổ, nhổ răng hùm, túm “tai-gơ”, tu cạn dần, gần ông mãnh”. (“ông ba mươi” là tên gọi khác của con hổ; cọp, hùm, dần, ông mãnh đều là những tên gọi khác của hổ. Tai-gơ: tiếng Anh Tiger, con hổ).
              Tài tình hơn, vào thời điểm giữa năm sửu và năm Dần, tác giả Nguyễn xuân Lạc còn làm đôi câu đối hoàn toàn bằng tiếng Pháp và tự dịch ra tiếng Việt cũng bằng một câu đối:
“Richesse du tiger, vien tout de suite.
Misère des buffles, fous le campl”
(Mời bác phú Dần, về tức khắc
Đuổi thằng bần Sửu, cút đi ngay).
              Bên cạnh tác dụng trào phúng, nhiều tác giả còn sử dụng câu đối để đả kích vào các bọn tham quan ô lại. Về vấn đề này, có lẽ cụ Đồ chiểu là người sớm nhất đưa ra tuyên ngôn bằng một câu đối:
“chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
              Noi gương Cụ, ngày nay nhiều tác giả đã không ngần ngại nhằm thẳng ngòi bút sắc bén của mình vào bọn sâu mọt của xã hội:
“hối lộ, lộ rồi không kịp hối!
Tham ô, ô hết có còn tham?”(Vương Trọng).
“Ngậm tiền thì hám
Ngậm hàm thì tiến”(Phạm Xuân Phụng)
“Mày ăn dân
Dân ăn mày”(Hữu Loan)
“quan tham đi tham quan, càng quan càng tham, càng tham lại càng quan” vế ra của Trần Huy Thuận)
“luồn lọt lên lương, lỗi lầm lấp liếm, luật lệ làm lơ, lũ lọc lường luôn lẩn lút!
Phe phẩy phè phỡn, phân phối phập phù, phạm pháp phởn phơ, phường phản phúc phải phanh phui”
(Đàm Tiếu)
              Đúng như lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh chi đã dậy: “xuất đối dĩ đôi đối nan”, ra đối thì dễ, nhưng đối lại mới cực kì khó. Từ cổ chí kim đã có nhiều câu đối chỉ có vế ra, nổi tiếng đã lâu, mà cho đến nay vẫn chưa tìm ra “nửa kia” của mình, như các câu sau:
“da trắng vỗ bì bạch”
(đã có người đối là “rừng sâu mưa lâm thâm”, tuy đúng luật nhưng đối như thế là chưa tới được cái chất đùa cợt hóc búa, hóm hỉnh và hơi gợi tục của vế ra, nên không đạt).
“cô gái Quần Lạc đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần lạc”
(Quần Lạc và Lạc Quần là hai địa danh có thật thuộc tỉnh Nam Định).
“vợ cả vợ hai  cả hai đều là vợ cả!”
(vừa có ý: “vợ cả vợ hai cũng là vợ”; lại vừa có ý: “vợ cả hay vợ hai chỉ là cách gọi thôi, chứ thực ... đếu là vợ cả hết”.
              Câu đối là một thú chơi tao nhã và trí tuệ, dân tộc và đại chúng, tồn tại từ nhiều đời nay. Tết đến, Xuân về, thiết nghĩ: mỗi ngôi nhà của chúng ta nên có một đôi câu đối, viết cẩn thận trên giấy đẹp, treo ở nơi trang trọng, để bầy tỏ cái tâm nguyện, ước vọng, quan điểm sống,... của chủ nhân; hoặc để trào phúng sự đời nhố nhăng... Cái thú chơi Xuân của dân ta đến thế hẳn là không còn gì văn hóa hơn!
 
Lao động cuối tuần số Xuân Ất dậu ([font=.vntime]phÇn ®Çu) +
Đại đoàn kết số 9 ngày 7/2/2006 ([font=.vntime]phÇn cuèi)
- Vanchuongviet.org (29/1/2008)
 





ĐỒNG MÔN
 
1. Thằng Thủy
           Sau lần gặp lại bạn đồng Môn trường trung học Nguyễn Khuyến (phố Bến Củi) Nam Định tại quê hương, trong một Email gửi cho tôi, , tác giả “Hà Nội trong mắt ai!”, đã kết thúc bằng hai từ: “thằng Thủy”. Cái lối xưng hô kiểu học trò ấy làm tôi cười chẩy cả nước mắt nước mũi! Thế là trong thư trả lời, tôi cũng đáp lại: “chào thằng Thủy. Ký tên: Thằng Thuận”! Các bạn có biết không, cả hai “thằng” đều đã sang tuổi “thất thập cổ lai hy”!
            Tôi với Thủy là đồng Môn, cùng khóa (1953 – 1957), nhưng không cùng lớp. Trường Nguyễn khuyến chúng tôi học ngày xưa, là trường trung học công duy nhất của cả mấy tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam,... Thành phố thì nhỏ bé, người lại không đông, nên biết nhau gần hết. Ngôi trường chúng tôi học, chỉ là hai dẫy nhà cấp bốn, nằm vuông góc với nhau quanh cái sân bằng đất. Vì thế, đã là đồng môn thì hầu hết đều biết nhau, không phân biệt lớp này lớp khác, khóa này khóa nọ. Chúng tôi biết nhau còn bởi một lẽ nữa: thường đứa nào cũng là những đệ tử trung thành của sân bóng “quảng trường” thành phố!
      Mặc dù vậy không hiểu sao, giữa tôi và Thủy lại không hề có chút kỉ niệm nào về nhau thời cắp sách? Cho nên khi được tin Thủy về Nam Định, có ý muốn gặp mặt bạn đồng Môn, tôi đã định      
không đến, vì ngại cái tiếng “thấy kẻ sang bắt quàng làm họ”! Mà Thủy đúng là một “người sang” thực sự, ít nhất cũng là với tôi!
       Tôi biết và khâm phục anh chàng “nghệ sỹ điện ảnh” này trước khi được bạn bè bảo cho biết, Thủy là đồng Môn. Ấy là từ lúc được xem phim “Hà Nội trong mắt ai” của anh, khi phim này vừa được phép nhà cầm quyền cho công bố công khai. Trong tâm tưởng tôi thời kì ấy, anh là một hình bóng cao vời vợi và đáng nể lắm!
            Khi được Trần Huy Huấn gọi điện báo Thủy sắp đến chơi, tôi cũng hơi băn khoăn, chưa biết nên sử sự sao đây. Vì lẽ, trong cuộc đời, tôi đã không dưới một lần hiểu thế nào là “bạn cũ”!
Khi Thủy vừa đến cửa, tôi vội ra đón và chìa tay bắt. Thủy đã có một cử chỉ làm tôi bất ngờ:
-    không bắt tay gì cả, để mình ôm cậu một cái đã!
Nói là làm liền. Thủy ôm tôi rất chặt, còn nói với vợ tôi: chị ơi, tôi biết anh trước cả chị nhiều năm cơ!
            Thế là mọi nghi ngại trong tôi đều tan biến hết. Trước mắt tôi lúc này Thủy cũng như Định “Mít”, Huấn, Du “đen” đang ngồi tại nhà tôi đây, đều là những thằng bạn thời non trẻ; không có ai là ông nọ bà kia gì hết!
            Trước khi trở về Hà Nội, Thủy gửi tặng lại bạn bè một quyển sách viết trong những ngày làm việc tại Mỹ, với lời đề tặng thật thân thiết, và bằng giọng điệu rất... “học trò”:
“Bạn của tôi!... Một nửa thế kỷ, xấp xỉ một đời người chúng ta mới được ngồi lại với nhau... Những kỷ niệm của chúng ta thời học trò trường Nguyễn Khuyến thân thương ngày ấy, các Thầy, các bạn, con sông xưa, thành phố cũ đã ám ảnh tôi khôn nguôi trên khắp mọi nẻo đường đời gần xa, vinh nhục.
 Tôi nhớ ông Phùng Quán đã nói một câu rất hay nhưng có phần bóng bẩy quá: “có những lúc ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”. Còn tôi, xin cám ơn các bạn, những kỷ niệm đầu đời ấy chính là hành trang cho tôi vững tin, không chút ngại ngùng run sợ đi trên con đường độc đạo của kẻ làm nghề”. Rồi anh kết luận:
“Tôi yêu các bạn, vì các bạn là tài sản tinh thần của tôi”.
Trong thâm tâm, tôi rất muốn nói với Thủy: tình bạn! Đúng là rất đáng trân trọng, nhất là tình bạn thời cắp sách. Nhưng, trong cuộc sống, thực ra... nhiều khi nó không được hoàn hảo như thế. Thậm chí có khi... Nhưng rồi tôi tự kiềm chế để những suy nghĩ ấy không buột ra khỏi miệng. Vâng! Hãy để niềm tin về một tình bạn thủy trung, trong sáng tồn tại  trong Thủy, trong mỗi chúng ta, ít nhất cũng là vào thời khắc cảm động này, sau bằng ấy năm xa cách!..
 
2. Anh chàng “Mốc” làm quan
Mốc” là biệt danh chúng bạn thời đá bóng, chơi bi chơi đáo, đặt cho anh. Mốc – vì cứ học xong, anh lại phơi mặt trên sân Quảng trường thành phố! Anh là đồng Môn không cùng khóa (trên tôi một lớp), nhưng đều là “bạn” rất gắn bó với trái bóng tròn!
    Ra trường, tôi đi làm công nhân công chính, rồi đi học trung cấp kỹ thuật. Công tác mấy năm ở Hà Nội, tôi xin được về quê hương để tiện chăm sóc mẹ già. Một lần đi dự mít tinh chào mừng Quốc Khánh, tôi trông thấy anh trên hàng ghế chủ tịch đoàn. Dáng điệu thì vẫn lều khều, mốc mác như xưa, nhưng anh đã là một trí thức XHCN, có bằng phó tiến sỹ do Liên Xô cấp; lại mới được bầu vào HĐND. Ngại cái điều “thấy người sang bắt quàng làm họ”, nên tôi cũng như nhiều người bạn khác, đều tránh không tìm gặp anh những ngày ấy. Sau này lại càng ngại, vì hầu như mỗi thời gian qua đi, anh lại lên một chức mới. Trong đám bạn cũ, có anh vẫn làm công nhân ngoài mỏ Quảng Ninh như Du “đen”, có anh còn lận đận tận Mù Cang Chải như Hoàng Quang Lịch,... thì một người như anh quả là đã thành đạt lắm rồi, rất đáng để chúng tôi tự hào và hâm mộ.
           Bước đường công danh anh không ngừng tăng tiến.  Chỉ có điều, tính cách “Mốc” thưở đá bóng, đá cầu ở anh thì không thay đổi mấy. Và chính cái đó đã có lần làm  hại uy tín bản thân anh, ấy là lần người dân Thành Nam thấy anh trên ti-vi (mà anh thì có vẻ rất thích xuất hiện trên đó hàng ngày!): tại nhà bảo tàng địa phương, sau khi cầm xem chiếc gối kỉ vật của bác Hồ, anh đã ném xuống giường, chứ không nâng niu trân trọng đặt trở lại chỗ cũ; một hành vi mà các lão thành Cách Mạng trong Tỉnh gọi là... “lấc cấc”! Thì ra, bằng ấy năm làm “chính khách”, anh vẫn chưa học được tính cẩn trọng, chín chắn của một nhà lãnh đạo!..
        Một lần cơ quan tôi tổng kết, anh đã đến dự với tư cách khách mời danh dự. Tôi là phó chánh văn phòng cơ quan, nên có trách nhiệm đón và hướng dẫn khách vào hội trường. Trước đông đủ quan khách và các “xếp” của tôi, bất ngờ anh nói: “Tôi với anh Thuận đây là bạn học cũ!”.
         Tôi thật sự cảm động trước câu nói ấy của anh. Không cảm động sao được, khi một người có địa vị cao sang như anh, lại nhận tôi là đồng Môn. Giá như anh chỉ ghé tai nhắc điều đó riêng với tôi, thực sự tôi hẳn cũng đã lấy làm sung xướng lắm! Đằng này, anh lại nói trước cả đông đảo quan khách như thế!..
            Không chỉ có vậy, sau này, khi anh trở thánh người đứng đầu Tỉnh, anh còn có nhã ý nhắn nhủ bạn đồng môn (theo lời kể của Trần Ngọc Phùng, nguyên phó chủ tịch thường trực công đoàn tỉnh, một bạn đồng môn): “thi thoảng có điều gì bức súc, các bạn cứ vào văn phòng gặp tôi. Tôi luôn sẵn sàng đón tiếp và lắng nghe ý kiến mọi người, nhất là của các bạn. Nên nhớ rằng, ở cương vị này, tôi rất cần nhiều thông tin để có thể hoàn thành tốt công việc của mình!”. 
            Và cũng không chỉ có thế, khi Vũ Đường (giám đốc công ty ngoại thương, nơi công ty tôi đang nhận trách nhiệm thi công) nhờ tôi mời anh về thăm để làm quen và xin ý kiến chỉ đạo, anh đã nhận lời. Tôi nhớ, trong buổi làm việc hôm ấy, anh hay dùng câu: “có phải thế không, ông Thuận?”; đến mức khi kết thúc, Vũ Đường đã phải ghé tai tôi thì thầm: “Hôm nay ông được thủ trưởng liên tục xin ý kiến!” (sau, hai người này – anh và Vũ Đường, đã trở thành thân thiết... như một “cặp bài trùng”!).    
Bẵng đi nhiều năm tôi không được gặp anh, nhưng trong lòng vẫn cảm phục anh lắm. Rồi một chuyện “không may” xẩy ra: Những năm làm công tác phó chánh văn phòng một ngành của  địa phương đã tạo tôi thói quen đọc báo và nghiên cứu chính sách. Sau này về làm cán bộ quản lý một doanh nghiệp Nhà Nước, tôi vẫn duy trì thói quen đó. Tai nạn bắt nguồn chính từ đó! Đọc báo, xem ti-vi, nghe đài, luôn luôn được biết những chuyện tiêu cực xẩy ra ở nơi này, nơi nọ; trong đó có địa phương quê tôi. Lại được đọc “những việc cần làm ngay” của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh – mà tôi coi đó như lời hiệu triêu quốc dân đồng bào. Thế là máu viết lách nổi lên, tôi bèn tiến hành tổng hợp tất cả các vụ việc sẩy ra trên địa bàn tỉnh mà báo chí đã phanh phui, nhưng có dấu hiệu rơi vào “im lặng đáng sợ”, thành một bài viết nhan đề: “Tại sao không thể loại trừ được những con sâu mọt này”. Ngày 19/7/1990 báo Lao Động đăng trang trọng trên trang 2. Mặc dù tôi không ký tên thật, dùng tên anh con cả; nhưng chỉ mấy ngày sau, nhà báo Lương Mạnh (TTX VN) đã đến cơ quan gặp riêng tôi,  thông báo: “này Thuận, anh không ký tên thật, nhưng lãnh đạo thừa biết tác giả bài báo là ai rồi. Liều liệu mà chờ... “ăn đòn” của ông bạn đồng Môn  nghe!”. Lúc ấy, tôi cho là Lương Mạnh hơi nói quá, chứ tôi có viết gì sai trái đâu? Vả lại những vụ việc tôi nêu trong bài báo, đều là trích từ các báo đã đưa, chứ nào tôi có tự bịa ra? Chưa nói, tôi làm việc này xuất phát từ lời kêu gọi của tổng bí thư đấy chứ? Nhưng sau mấy tuần, tôi mới dần dần nhận ra, cái “đòn” mà Lương Mạnh nói, nó đau đớn như thế nào! Không phải cái đau thể xác – cái đau thể xác cũng đáng kể, nhưng chắc chắn chẳng thấm vào đâu, so với cái đau tinh thần này! Nó buộc tôi phải tự làm đơn xin về hưu trước tuổi (tôi về hưu năm 1991, lúc đó tôi vừa tròn 53).
       Lương Mạnh lại đến gặp tôi: “mình nói có sai đâu! Thuận dại lắm, đang làm ăn đi lên như thế, lại nhẩy lên mặt báo làm gì cho khổ? Ông quên câu các cụ dậy rồi ư, lập thân tối hạ thị văn chương mà!”. Tôi nói: cám ơn ông đã kịp thời thông báo và chia xẻ. Nhưng tôi cần nói lại hai điều: một là tôi không hề có ý định lập thân bằng văn chương. Hai là, dù sao tôi vẫn cho rằng mình không có gì sai trái cả!
      Ít hôm sau, tại buổi lễ khánh thành công trình trọng điểm ngành ngoại thương, tôi có dịp gặp anh bạn đồng Môn của mình. Với trách nhiệm đồng chủ trì trong lễ bàn giao, khi thấy xe anh đến, tôi đã ra tận cửa để chào đón. Thật bất ngờ, khi tôi chìa tay ra, “xếp lớn” của tôi đã không những không thèm bắt, mà còn hằm hằm bước thẳng vào hội trường! Sau sự việc ấy, tôi cứ tự dằn vặt mình: làm sao mà mình ngu thế, mình là cấp dưới, sao lại đi chìa tay ra trước cơ chứ?
Đến tận hôm nay, khi viết những dòng này, lòng tôi vẫn không nguôi ngoai tự dằn vặt: “làm sao mà mình ngu thế?”. Vâng, làm sao mà mình ngu đến thế!
Sự tức giận của anh với tôi không chỉ thể hiện một lần ấy, mà còn  đeo bám cho đến tận ngày họp mặt đồng môn tổ chức tại khách sạn Sơn Nam! Hôm ấy, tôi và Hiếu là thành viên ban tổ chức, đang đứng ở cửa phòng họp đón khách, thì anh đến. Sau khi bắt tay mỗi mình Hiếu, anh nói luôn: “mình về lần này là mục đích lo làm kinh tế cho Tỉnh (anh đã chuyển lên Hà Nội, làm công tác khác từ mấy tháng nay), bận lắm, không dự họp được với các cậu!”. Không biết Hiếu hay ai đó đã nói ngay: “Anh lo kinh tế cho Tỉnh cái gì, tôi không cần biết[font=.vntime];  nhưng các Thầy đang ngồi trong hội trường kia, anh hãy vào mà chào các Thầy đi đã!”. Đến thế thì anh làm sao  không thể không vào?
&
Sáng nay, các bạn Lê Sáng, Ích Minh (“Minh nhũn”), Định “Mít”, Xinh “sộp” và Kim Oanh đến họp ở nhà tôi để bàn về chương trình họp mặt kỷ niêm 50 năm ra trường. Từ Hà Nội, Độ cũng gọi điện báo về, sẽ có khoảng trên hai chục bạn về tham gia ngày đó, trong đó chưa kể cánh Hải Phòng cũng sẽ về. Độ còn nhắc chúng tôi nên báo cho mấy đứa trong Sài Gòn, cho dù có thể xa quá, chúng nó không ra được.
Buổi trưa, tôi lên mạng, nhận được Email của Thủy:
“Minh da ta lai cuoc gap do cho thang Nguyen Huu Dinh o Canada qua email. No hoi am ngay va gan nhu no khoc tren email”
        Cuộc gặp mà Thủy kể cho Đính là cuộc gặp hẹp. không thật đầy đủ, do Thủy về đột xuất. Chưa phải là cuộc họp mặt sắp tới. Giá mà Thủy về được trong lần gặp đồng Môn tới đây!

 
 
3. Đồng môn ?
– Quan anh và tôi ... Bé cái nhầm !


Ô
ng giám đốc công ty Điện (vốn trước là trưởng phòng XDCB, xếp cũ của tôi) dẫn tôi sang phòng bên, để làm việc trực tiếp với người phó mới của ông. Đó là một kỹ sư trẻ, mới học trường Nguyễn Ái Quốc về, mới lấy vợ, mới được bầu vào cấp ủy địa phương và mới được đề bạt về đây cho có điều kiện phấn đấu, rèn luyện từ cơ sở! Khi sang đến nơi, ông giám đốc chỉ vừa mới định giới thiệu để tôi làm quen, thì anh đã đứng ngay dậy, rối rít kéo ghế mời mọi người ngồi, rồi đon đả:
- Mời thủ trưởng và các đồng chí ngồi! Anh nhìn tôi một lát như để khẳng định điều gì đó, rồi bỗng nói một câu làm tôi sững sờ cả người:
- Dạ báo cáo thủ trưởng, em với anh Thuận đây vốn là ... đồng Môn ạ!
 Tôi nhìn anh, cố tìm một nét thân quen ngày thơ ấu... nhưng tuyệt nhiên không mảy may nhận ra một dấu hiệu gì của hình ảnh thưở học trò  xưa cũ. Thấy tôi tỏ ra ngỡ ngàng, anh nói tiếp, một câu nói đã làm tôi vô cùng cảm động, không chỉ giây phút ấy, mà mãi mãi nhiều năm sau:
- Anh Thuận ơi, tôi với anh cùng học một trường. Anh là lớp học sinh lớn, em là lớp học sinh nhỏ; anh không chơi với em, nhưng em biết anh!
    Sau này, tôi biết anh nói như thế là hoàn toàn nhầm! Ba cái nhầm. Thứ nhất, ngày xưa anh học trường tiểu học Vườn Dâu, tôi học Nguyễn Trường Tộ. Thứ hai, sau khi không đậu vào trường trung học Nguyễn Khuyến, anh lên Hà Nội và được người anh rể xin cho làm công nhân nhà máy đèn. Thứ ba, tôi tuyệt không phải là “lớp học sinh lớn”, anh là “lớp học sinh nhỏ” như anh đã nói, bởi khi đọc lý lịch ứng cử viên của anh trong một lần bầu cử, tôi phát hiện ra anh còn  sinh trước tôi một năm cơ!
      Nhưng đó là ba cái nhầm đáng yêu, thậm trí đáng trân trọng. Nó thể hiện anh là một con người giản dị, khiêm tốn, trọng nghĩa trọng tình!.. Trở về cơ quan, gặp ai tôi cũng khoe chuyện gặp anh hôm ấy, không ngớt lời ca ngợi anh: một người có học, có văn hóa, rất xứng đáng với sự lựa chọn và tín nhiệm của cấp trên; đồng thời là niềm hy vọng to lớn của nhân dân!.. Vậy mà có kẻ ác ý, nói: “cái ngữ núp váy vợ, cơm cháo gì!”.  Có điều, ngay lúc tôi đang “say” anh như vậy, đã có vài bác lớn tuổi vỗ vai tôi: Thuận ơi, hãy đợi đấy, đừng có vội. Rồi cậu sẽ hiểu thế nào là chính trị! Tôi nghĩ họ già rồi, suy nghĩ mòn cũ, chả nên để ý làm gì. Nhưng trong thâm tâm, tôi cũng hơi chột dạ, nên cũng tự bơn bớt cái mồm  tụng ca anh!
        Sau khi thống nhất đất nước vài năm, tôi được cơ quan phân công làm thủ tục đưa một nhóm kỹ sư đi tham quan, học hỏi ở mấy tỉnh thành phía Nam. Hồ sơ đã được cấp Ty phê duyệt, tôi mang lên tỉnh nộp. Tại đấy, tôi được đồng chí phó văn phòng, vốn là chỗ quen biết, xem qua tờ trình rồi bảo:
- Thôi, chỗ người cùng ngành trước đây cả, cậu mang thẳng sang trình bầy, khỏi qua chúng mình! Tôi vốn là người trọng nguyên tắc, lại ngại gặp lãnh đạo (mặc dù “lãnh đạo” lúc này chính là người đã từng nhận nhầm tôi là “đồng Môn”, là “lớp học sinh lớn”, là “anh không chơi với em nhưng em biết anh”!); nên cứ năn nỉ nhờ các đồng chí đó giúp theo thông lệ. Cuối cùng, người ta đưa ra “phương án” dung hòa: cả tôi và anh thư ký vụ cùng đi! Đến thế thì tôi không thể không chấp nhận.
       Cửa phòng lãnh đạo khép hờ. Sau khi gõ cửa, tôi nghe vọng ra một giọng nhỏ nhẹ nhưng rất vang:
- Vào đi!
Chúng tôi mở to cửa, bước vào. Lãnh đạo đưa mắt nhìn lướt qua mặt tôi, rồi quay luôn hỏi anh thư ký vụ, tuyệt không hề bảo chúng tôi hãy kéo ghế ngồi xuống:
-    Có việc gì đấy?
-    Dạ thưa anh! Bên cơ quan ... đồng chí Thuận đây, có tờ trình xin đi công tác mấy tỉnh thành phía Nam...
            Trong lúc chờ đợi, để khỏi mỏi chân, tôi tự kéo lấy một cái ghế để ngồi, trong phòng có rất nhiều ghế trống. Nhưng tôi đã làm một việc thừa, bởi chả cần đợi lâu, chả cần xem nội dung tờ trình đã được cấp cơ sở phê duyệt, anh “lãnh đạo” trẻ đã trả lời thẳng thừng:
- Cơ quan đó chưa cần đi lúc này, để dịp khác!
       Người cán bộ văn phòng dẫn tôi, liếc mắt ra hiệu bảo tôi hãy trình bầy mà xin lãnh đạo đi. Tôi lại nghĩ khác, lãnh đạo nói thế là lãnh đạo đã quá hiểu về chức năng nhiệm vụ của cơ quan tôi rồi, nên trình bầy cũng bằng thưa. Thế là tôi đứng dậy, và hỏi ngược lại, đương nhiên là với người cùng đi:
- Xong chưa đồng chí? Biết tôi không muốn cò kèo, anh trả lời: “xong rồi”. Tôi nói tiếp: “ta về thôi đồng chí!”. 
      Ra về, lòng tôi nặng trĩu một nỗi buồn khó diễn tả. Buồn không được lãnh đạo duyệt cho đi thì ít, mà buồn về cách cư sử lạnh lùng đến vô cảm của người năm xưa tự nhận nhầm là đồng Môn, thì nhiều... Và nỗi buồn ấy còn đeo đuổi tôi suốt bao nhiêu năm sau đó.
     Sau này, mỗi khi nhớ lại hai cái lần gặp anh... “nhầm đồng Môn” kể trên, tôi cứ tự huyễn hoặc mình: giá như lần gặp thứ hai, anh không cần vồn vã, khiêm tốn kéo ghế mời tôi, nhận tôi là bạn học cũ, mà chỉ cần hất hàm buông một câu, một câu thôi, chẳng hạn như: "Thuận đấy à (mà có quên tên thì "cậu gì đấy à", cũng được đi!), có việc gì đấy?" _ Một câu ngắn gọn hơn rất nhiều, so với cái câu:"Anh là lớp học sinh lớn, em là lớp học sinh nhỏ; anh không chơi với em, nhưng em biết anh!" mà anh đã nói trong lần gặp thứ nhất, phải không? Thế thì hẳn là tôi còn phải đi kể khắp đó đây rằng, "Sao mà trên đời này lại có người làm to đến thế, lại có thể bình dân đến thế, tình nghĩa đến thế, khiêm tốn đến thế, nhã nhặn đến thế?!.". Thôi thế mới là sự đời, mới là cuộc sống, mới có chuyện tôi kể lại đây hôm nay!


4. “Người lái đò trên sông Pô-cô”

T
rong buổi họp mặt đồng môn kỷ niệm 50 năm tốt nghiệp ra trường, ban tổ chức có chương trình ghi hình và tiếng nói tất cả các bạn. Người dẫn chương trình cho biết như thế, và nói: Nửa thế kỷ là một đời người, với biết bao bể dâu, bao kỷ niệm vui buồn. Địa điểm Trường cũ thì vẫn đấy, nhưng mái trường trung học Nguyễn Khuyến xa xưa, không còn nữa! Thành phố Nam Định thân thương vẫn mang tên cũ, nhưng địa giới, cảnh vật, con người... thảy đều đã đổi thay.
Chị ngồi đấy, im lặng lắng nghe tâm sự của từng người một. Đúng là mỗi người một số phận: Có người tiếp tục học lên cao, có người phải rẽ ngang tìm nghề kiếm sống. Có bạn còn ở trong nước, nhưng cũng không ít bạn phải long đong nơi đất khách quê người. Có người cầm bút và có người cầm súng. Có người thành danh, có người là dân thường. Có người là tỉ phú, có người đến nay vẫn lận đận chuyện áo cơm. Giọng người dẫn chương trình làm chị cảm thấy trong lòng như đang dâng lên một nỗi buồn vu vơ...
       Đến lượt ghi hình người ngồi cạnh chị: một bà bạn đã ở tuổi gần bẩy mươi, sống độc thân cũng sấp xỉ ngần ấy năm, như chị:      
- Tôi là... sau khi học xong cấp II, cấp III ở quê nhà, rồi được sang học ở Liên Xô... Sau này, khi về công tác ở nhà xuất bản Ngoại văn, tôi lại được sang Pháp học một năm... Tôi có hai cái yếu, một là không biết làm giầu; hai là cái mà mọi người làm được, thậm chí có người làm đi làm lại đến mấy lần, thì tôi lại không làm được(!).
Mọi người cười ồ, nhưng hẳn là ai cũng đều nước mắt chẩy trong tim!
Rồi cũng đến lượt chị thổ lộ tâm sự cùng bè bạn:
- Tôi là Nguyễn Thị Ngọc Oanh... không có biệt hiệu gì cả!... Học xong lớp bẩy, tôi đi học trung cấp Nông Lâm. Ra trường có về công tác ở quê hương và được cử đi học đại học Kinh tế Quốc dân...Năm 1968 vô Nam và từ đấy trở đi... sang hẳn nghề nhà báo! Hai chữ “nhà báo” chị nói rất nhẹ, vừa như muốn nói, vừa như không. Có người nhắc chị:
- Là tác giả phần lời bài hát...?
Chị im lặng! Người đó lại nhắc lại: “Chị phải nói cái chỗ đó...!”. Nhưng chị kiên quyết:
- Không! Không! Không! Không!
Bốn lần khẳng định một chữ “Không”!
Tôi tìm thấy trên một trang Web:
 
“...Thời gian cao điểm từ mùa khô năm 1965 đến mùa mưa năm 1968, có đêm Puih San chở hơn 30 chuyến đò với hàng trăm lượt bộ đội và hàng hoá qua sông an toàn phục vụ bộ đội ta mở chiến dịch đánh trận Plei Me ở huyện Chư Prông. Tám mùa rẫy cầm chèo, dưới mưa bom, bão đạn, Puih San đã được hai niềm vui lớn: được vinh dự đứng trong hàng ngũ vinh quang của Đảng (ngày 21/1/1965) và đi dự báo cáo điển hình tại Đại hội chiến sỹ thi đua Mặt trận B3 và của Miền. Chiến công hiển hách của Puih San đã mang lại nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ-chiến sĩ. Nhà thơ Mai Trang sáng tác bài thơ: “Người lái đò trên sông Pô Kô” và nhạc sĩ Cẩm Phong phổ nhạc bài thơ này... ‘
           
Trước đây, từ lâu rồi, tôi đã mang máng biết, chị chính là Mai Trang, cho đến một ngày, không biết ai đó đã đưa cho tôi bài báo viết khá chi tiết về tác giả cùng hoàn cảnh ra đời bài hát, trên đó có in bức ảnh của chị, khi chị sang Liên Xô, thì điều “mang máng” ấy đã được khẳng định! Vẫn trên trang Web:
 
Bài hát ấy thường xuyên được truyền đi trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam trong suốt thời kỳ đánh Mỹ như tiếng kèn xung trận giục giã, thôi thúc đồng bào và chiến sĩ cả nước noi gương chiến đấu mưu trí, dũng cảm của A Sanh (bí danh của Puih San) xông lên phía trước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào...”.
           
Định Mít đọc thấy đoạn viết này, bảo: chính tao đã hành quân ngang qua dòng sông Pô-kô và khi đêm đêm nghe bài hát đó từ chiếc máy thu thanh bỏ túi,  bọn lính chúng tao được cổ súy rất hăng! Tao lúc ấy đâu có ngờ, lời bài hát lại là của Oanh, cô bạn cùng lớp! Mai Trang đã thực sự trở thành “Người lái đò tinh thần” đưa bộ đội ta vượt qua không chỉ con sông Pa-kô cụ thể, mà là tất cả các sông suối Trường Sơn hùng vỹ!...
 Nhà văn Trung Trung Đỉnh viết:  
Lời ca giản dị, nét nhạc thiết tha trong sáng đậm chất dân ca Tây Nguyên ấy đã quấn quýt với tâm hồn người lính trẻ chúng tôi. A Sanh, ấy là cái tên được nhà thơ, nhà báo Mai Trang sáng tác dựa trên một nguyên mẫu có thật. Ngay cả nhà thơ cũng không biết rằng, tên nhân vật của mình ngay sau khi ra đời liền trở thành biểu tượng, thành cái tên chung cho những người lái đò trên các dòng sông ở Trường Sơn...”...  “Câu chuyện vừa giản dị vừa khá ly kỳ về sự tích bài hát Người lái đò trên sông Pô Cô suốt hai mươi năm qua cho tới hôm nay nó vẫn còn nguyên vẹn vẻ giản dị và sự lạ kỳ,..”.(Nguồn: http://www.vnmusic.com.vn/music/index.php?aid=nghenhac&id=1567 được lưu ngày 2 Tháng Mười Hai 2007)
     Đoạn văn trên cho ta thấy, Trung Trung Đỉnh rất biết ai là tác giả lời bài hát; thậm chí còn biết khá rõ! Nhưng ta hãy đọc tiếp đoạn sau, cũng chính của anh:
 
Tôi nhớ hồi năm 1998, sau khi nghe tin Puih San được Nhà nước phong Anh hùng Lực lượng vũ trang, có lần tới nhà nhạc sĩ Cầm Phong chơi, tôi kể về ngôi làng có tên Plei Nú ở xã IakRai huyện IagLai, tỉnh Gia Lai có ông Puih San trung uý về hưu, ngày chống Mỹ là chiến sĩ lái đò, là nhân vật chính, tức chàng A Sanh trong bài hát của ông sắp ra Hà Nội tham quan. Ông mừng khôn xiết. Nhưng đúng là "cái số" của hai bác thế nào mà mấy ngày ở Hà Nội, Puih San vì tính quen với kỷ luật nên không thể tách đoàn, lại bị cánh nhà báo quây dữ quá, không cách gì thu xếp được thời gian thăm ông nhạc sĩ, người đã "khai sinh" ra cái tên A Sanh cho mình. Còn ông nhạc sĩ già thì cứ ngồi chờ, đến khi nghe tin A Sanh vào lại trong kia rồi thì cứ ngồi tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Ông đành ôm cây ghi-ta hát vọng vào. Một thời gian sau lại nghe tin buồn Puih San đã mất! Thế là cái hẹn lần sau gặp mặt của hai ông không thành. Tôi cũng lại phải đổ tại cái duyên, cái số của hai quan bác vậy thôi, chứ làm sao!”. (Nguồn đã dẫn).
            Thế là ngay đến đồng nghiệp văn thơ, cũng chỉ nhớ thoảng qua tác giả phần lời bài hát, còn bao nhiêu tình cảm, anh đều dành cho tác giả phần nhạc; thậm chí còn gán” cả cho nhạc sỹ là “người đã "khai sinh" ra cái tên A Sanh”! Anh đã tự phủ nhận ngay chính điều anh vừa viết ở đoạn trên: “A Sanh, ấy là cái tên được nhà thơ, nhà báo Mai Trang sáng tác dựa trên một nguyên mẫu có thật”.
            Không trách trang Web chính thức của hội Nhạc sỹ Việt Nam: “VNmusic.com.vn” cũng cho chạy cái “tít”:
Người lái đò trên sông Pôkô
Nhạc sĩ:Ns. Cầm Phong
Thể hiện:Đăng Dương + Lan Anh
Album:  Đăng Dương + Lan Anh
Thể loại nhạc:    Nhạc trữ tình
&
Ai đó trong số bạn bè đồng môn chúng tôi, khe khẽ cất lên tiếng hát:
“Qua tháng ngày hỏi sông ơi có biết
Anh lái đò tên gọi A Sanh ?”
Còn tôi, tôi muốn hát thật to lên cùng bạn bè:
Qua tháng ngày, hỏi ai ơi có biết / Cô lái đò tên gọi Mai Trang!...
Và tôi tưởng như nghe thấy, tiếng vọng xa xăm từ ngọn núi Ngăm quê hương yêu dấu, nơi đồng môn chúng tôi chọn làm nơi gặp mặt sau 50 năm ra trường:
Qua tháng ngày, hỏi ai ơi có biết..!
Qua tháng ngày, hỏi ai ơi có biết!..
 (Khu du lịch sinh thái Núi Ngăm – Nam Định. 12/2007)
 
5. Trường Đời – Vận Người!

H
ôm ấy vừa bắt đầu tiết học thứ hai. Bỗng dưng, mấy cảnh binh do một thầy trên văn phòng dẫn xuống, xuất hiện đột ngột trước lớp, làm chúng tôi hoảng hồn! Sau khi hai thày trao đổi gì đó với nhau, ba người đàn ông mặc sắc phục cảnh binh, tiến thẳng vào trong lớp. Đến chỗ bạn Trần Văn Bình – một học sinh lớn tuổi nhất lớp, họ dừng lại. Chúng tôi hồi hộp theo dõi từng hành vi của mấy người “khách không mời mà đến”. Nhưng khi thấy Bình bị trói, dẫn ra khỏi lớp, thì dường như mọi người chúng tôi đều đã đoán được nguyên cớ! Mới hôm qua, trong giờ học nhạc, thầy giáo có nêu vấn đề: mỗi học sinh hát một bài mà mình ưa thích. Mọi người hào hứng hưởng ứng. Bạn hát bài này, bạn hát bài kia, vui nhộn lắm! Khi đến lượt mình, Bình thưa với thầy:
- Dạ thưa thầy, con chỉ nhớ mấy bài hát “Kháng chiến” thôi, có được hát không ạ?!.
 Đương nhiên là thầy giáo đồng ý.  Vậy là Bình hát, càng hát càng bốc, càng bốc càng hăng; làm không khí lớp học sôi sục hẳn lên.
“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc!...”
Đa số chúng tôi không dám hòa theo, nhưng cảm phục và khoái chí lắm! Trong mắt mỗi chúng tôi lúc ấy, Bình là một thần tượng vừa  lớn lao vừa gần gũi, lại rất đỗi thân thương!
 
&
 
Chuyên trên xẩy ra vào năm cuối cùng của thời kỳ Pháp tạm chiếm, chỉ mấy tháng trước khi Nam Định được giải phóng!
 Không khí mừng chiến thắng tràn ngập đường phố, tràn ngập sân trường, tràn ngập tất cả các lớp học sau hòa bình, khiến chúng tôi không còn nhớ gì đến thần tượng của mình, Bình – người bạn đồng môn bị chính quyền cũ bắt giữ ngày nào!.. Phải mấy tháng sau, mọi người mới biết Bình đã bỏ học. Chúng tôi đoán già đoán non, chắc bây giờ Bình đang đảm trách một công tác gì đó của cách mạng! Một người trẻ tuổi mà gan dạ đến thế cơ mà!..
       Cuộc sống cứ thế cuốn đi với biết bao sự kiện mới mẻ. Cùng với sự đổi thay chung, cá nhân mỗi chúng tôi cũng đã đổi thay. Có người tiếp tục con đường học hành, có kẻ phải lặng lẽ rẽ ngang, tìm công việc kiếm sống. Rồi có người trở thành nhà quản lý, nhà lãnh đạo,... nhưng cũng có bạn suốt đời trung thành với bộ áo quần công nhân, xám đen dầu mỡ! Thậm trí có bạn đén tuổi ngoài sáu mươi, vẫn lận đận chuyện áo cơm!.. Buổi họp mặt đồng môn đầu tiên, tổ chức ở nhà một bạn,  có khoảng hơn hai chục thành viên về dự. Mới xa trường ba chục năm, mà gặp lại nhau đã thấy có nhiều đổi khác. Mỗi người một tâm sự, mỗi người một nghề nghiệp, mỗi người một hoàn cảnh sống,...    Nhưng bất ngờ nhất, lại là anh chàng già nhất lớp, thần tượng ngày nào của chúng tôi: Trần Văn Bình! Trong khi chúng tôi vồ vập ôm lấy nhau, mừng vui khôn xiết, mỗi khi nhân ra một người bạn học cũ; thì có một người cứ ngồi lặng lẽ phía cuối căn buồng. Anh có khuôn mặt vuông vức và  dáng người chắc nịch, với nước da tai tái mầu tro,... Trông quen lắm, nhất là đôi mắt – vâng đôi mắt sáng quắc, rất giống một người!.. Bống ai đó reo lên:
- Bình! Trần Văn Bình!..
 Vâng! Người có đôi mắt sáng quắc không thể lẫn vào đâu được ấy, chính là Trần Văn Bình, thần tượng của chúng tôi thưở học trò! Chúng tôi hỏi anh đi đâu, làm gì trong bằng ấy năm trời mà nay mới gặp? Anh khẽ mỉm cười:
-                 Mình chả đi đâu cả! Mình vẫn sống ở đất Nam Định này suốt từ bấy đến nay. Làm công nhân đốt lò hơi tại nhà máy Chuối (tên gọi dân giã của nhà máy thực phẩm xuất khẩu Nam Định những năm 60 thế kỷ trước).
Thế đấy, thần tượng Trần văn Bình, một học sinh bị cảnh sát chính quyền cũ bắt vì có những hoạt động chống đối, lại chỉ là công nhân đốt lò hơi nhà máy chuối? Không thể tin được! Nhưng biết làm thế nào, khi đấy hoàn toàn là sự thật!..
           
&
 
... Mãi sau này, trong lần dự đám ma một vị nguyên phó chủ tịch tỉnh, có một bà hỏi tôi: hình như anh có chơi với anh Trần văn Bình, công nhân máy Chuối? Tôi ngạc nhiên nhìn bà. Bà giải thích, tôi nhận ra anh, vì hôm trước có gặp anh ở lễ an táng anh Bình. Rồi bà thở dài:
- Khổ thân anh ấy! Chết đột ngột, chẳng kịp trối trăng gì. Đến giấy tờ chứng nhận có hoạt động trong kháng chiến, bị địch bắt, cũng chẳng biết để đâu! Các anh là bạn cũ, các anh nên giúp chị ấy và các cháu xác minh lại cho vong linh anh Bình được mát mẻ nơi chín suối! Thế ra bà cũng là một trong số những thanh niên Nam Định thời đó, có tham gia hoạt động nội thành!
Tôi nói với bà:
- Chị ơi! Tôi là bạn anh Bình thật, nhưng tôi đâu có hoạt động kháng chiến? Chỉ biết, biết rất rõ việc cảnh binh địch bắt anh tại lớp học thôi. Biết có thế thì giúp gì được hở chị? Người đàn bà im lặng. Không biết chị có nghe rõ điều tôi trình bầy, hay chị đang nghĩ về một vấn đề khác, về một thân phận khác; một thân phận không hoàn toàn giống như Trần Văn Bình, nhưng cũng vô danh, hư ảo như thần tượng một thời của tụi học trò chúng tôi?!.
- Chắc là phải đi tìm những người khác! Những người khác! Nhưng những người khác nào? Người không có vị trí xã hội như chị, như tôi, thì có chứng thực cũng vô giá trị; kẻ lên ngồi ghế cao xa, tầm nhìn lại bị che khuất, hẳn là không thể thấy được những thân phận mong manh như Bình, như nhiều người chúng ta? Tìm đâu? Vâng, tìm đâu?!.
            Ôi! Trường Đời – Mệnh Người! Không biết đâu mà lường!...
Bất giác, đám nhạc hiếu cử bài “hồn tử  sỹ” não nùng, làm tôi bừng tỉnh! Đám tang vị lãnh đạo tỉnh đã tới hồi làm lễ truy điệu! Như một cái máy, tôi làm theo mọi người: hơi cúi đầu, mặc niệm vong linh người đã khuất!
 
Đã "người thiên cổ" ai ngờ
Người năm xưa ấy, hồn giờ nơi đâu?

Vâng! ... người năm xưa ấy, Trần Văn Bình ơi, hồn bạn giờ nơi đâu???
     
           
 
 
6. Định “Mít”
            “Mít” là biệt hiệu bạn đồng môn đặt cho Định, bởi ngày bé, Định béo tốt như cái hình người lô-gô của hãng xăm lốp xe “Mít-sơ-lanh”!
       Định “mít” nhập ngũ ngay sau Tết Mậu Thân. Theo chính sách thì đáng ra hắn chưa bị “gọi động viên” đợt này, vì trong gia đình đã có Trần Văn Tuấn, em trai út đang tại ngũ, lại đang có mặt ở chiến trường. Nhưng người ta vẫn “chiếu cố” cho hắn đi, với nhiều lý do. Thứ nhất là sau chiến dịch Mậu Thân, quân đội ta rất cần bổ xung lực lượng; thứ hai, trong cuộc họp tổng kết năm vừa rồi, hắn lại có ý thọc mạch về khuyết điểm của giám đốc – điều cấm kị ở cái xí nghiệp này – Cần phải nghiêm trị để làm gương cho kẻ khác! Thứ ba, người ta đang muốn tiếp nhận một “nhân tố mới”, con cháu một vị có chức sắc ở tỉnh, mà chỉ có vị trí nhân viên phòng kế hoạch Định đang đảm trách, là thích hợp hơn cả!
       Khi Định vào đến chiến trường Trị Thiên, thì đoàn quay phim tài liệu của Trần Văn Thủy, anh bạn cùng lớp, cũng vừa qua đấy. Và thật may mắn cho anh chàng tân binh này là chú em út bặt tin bấy nay, lại cũng đang có mặt tại gần nơi Định đóng chốt! Ít lâu sau, ngay giữa Trường Sơn khói lửa, hai anh em đã gặp nhau, ôm nhau nghẹn ngào mà nước mắt chảy vào trong!..
       Đó là những ngày gian nan nhất của bộ đội Trường Sơn. Bởi vì, sau đòn bất ngờ Mậu Thân gây choáng váng cho địch, thì thời gian này là lúc đối phương lùng sục, càn quét, phục thù! Một câu ca mà bộ đội ta thường hát đùa lúc ấy: “Tiến lên nương rẫy đồng bào/ Củ khoai củ sắn – củ nào cũng sơi!”, đủ nói lên tất cả thực trạng chiến trường khốc liệt này những năm cuối thập niên sáu mươi, đầu thập niên bẩy mươi!
       Bộ đội đói! Nhưng đói chưa phải là tất cả. chỉ một chút khói anh nuôi sơ hở để thoát lên trời; chỉ một mẩu thuốc là Trường Sơn ai đó vô ý đánh rơi dọc đường hành quân;... là có khi cả đơn vị bị ăn đòn pháo kích tơi bời từ phía địch!
       Nơi đơn vị Định đóng chốt đã nhiều lần gặp phải chuyện đó. Nặng nề nhất là lần trân địa bị lộ, máy bay đối phương đến thả không biết bao nhiêu là tấn bom các loại. Ai cũng tưởng, phiên hiệu của đơn vị này chắc chắn đã bị “xóa sổ”! Được tin, Trần Văn Tuấn đã xin thủ trưởng, lặn lội sang tìm anh – với hy vọng còn được thấy xác người anh trai yêu quý! Nhưng Định “mít” không chết, mà chết người em ruột của hắn – Trần Văn Tuấn! em đã trúng thương đạn pháo của địch, ngay trên đường đến chỗ anh! Thật trớ trêu! Thật đau lòng! Và chính hai bàn tay của Định đã phải cùng đồng đội đào hố chôn em – liệt sỹ thứ hai của gia đình, hy sinh cho Tổ Quốc, cho sự nghiệp cao cả của Cách Mạng!
       Định còn chiến đấu ở chiến trường cho đến năm 1974.
Ngày chuyển ngành, về đến địa đầu thành phố quê hương, Hắn phải nán lại phía ngoại ô, đợi trời tối hẳn, mới vác “ba lô con cóc, anh đi em khóc”, lững thững bước bộ về nhà! Tại sao “Mít” phải trở về thầm lặng như thế? Thì ra hắn ngượng với “bộ cánh” hắn mặc trên người, một bộ quân phục rách tả tơi! Và cái tính “sỹ diện” tiểu tư sản lâu nay dấu biệt, đã bất ngờ... thòi cái “đuôi” mốc thếch của nó ra!
       Đảng ủy và Giám đốc xí nghiệp đã long trọng đón hắn trở lại. Cái ghế nhân viên phòng kế hoạch đã có chủ mới từ ngày Định nhập ngũ, nên lãnh đạo xí nghiệp định xếp anh “cựu binh” này xuống trực tiếp sản xuất – tức là làm công nhân, để tạo môi trường rèn luyện cho hắn? Nhưng cũng rất may, đấy chỉ là ý định; bởi sau sáu năm ở chiến trường ác liệt, cái thằng cựu binh này làm sao còn đầy đủ sức lực nữa để mà “rèn luyện”!  Vâng, người ta đã nghĩ lại, Định được trở về làm công việc cũ, công việc trước khi hắn nhập ngũ –  nhân viên thống kê phòng kế hoạch xí nghiệp. Cùng với công việc, người ta cũng cho hắn trở lại hưởng mức lương trước đây: 46 đồng. Như vậy là 70 tháng rời xí nghiệp, vào chiến đấu trong “chiến trường B”, hắn đã mất béng 700 đồng (bằng 15 tháng lương), vì lẽ, trong thời gian tại ngũ, hắn chỉ được hưởng phụ cấp hạ sỹ quan (6 đồng/ tháng) cộng với 30 đồng người ta đưa cho vợ hắn mỗi tháng, để nuôi hai đứa con!
Cuộc sống lại tiếp tục quay theo cái đà vốn có của nó, thủng thẳng, chắc chắn, lặng lẽ, không một chút ồn ào - như bản chất con người hắn; như trên đời này, chẳng có điều gì là quan trọng cả!...
Dantri.com.vn (Nhớ về người chiến sỹ vô danh:17/1/2008)
- Vanchuongviet.org (28/1/2008 + 17/2/2008)
 
 

 
Về một thanh niên Việt kiều
trong đội ngũ tiếp quản
Nhà máy điện Yên Phụ
Trong những năm du học ở Paris cũng như suốt cuộc đời công tác sau này, hai từ Tổ quốc luôn luôn thôi thúc Vũ Đình Bông vươn lên vượt mọi trở lực trong học tập, công tác và đời sống...
 
Xuất thân từ một gia đình Nho giáo yêu nước, cha là một nhân sĩ trí thức, đã từng giữ chức Ủy viên Ủy ban Kháng chiến - Hành chính tỉnh Quảng Ngãi những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mẹ nguyên là nữ sinh Đồng Khánh và là cháu ruột của nhà thơ - hoàng tử Tùng Thiện Vương (con trai vua Minh Mạng), tuổi thơ Vũ Đình Bông đã được ươm trong một môi trường gia đình hết sức lý tưởng, lại được chứng kiến toàn bộ diễn biến của cuộc Cách mạng Tháng Tám vô cùng hào hùng của Dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nên Vũ Đình Bông sớm có tinh thần yêu nước và ý chí tiến thủ.
Trong những năm du học ở Paris cũng như suốt cuộc đời công tác sau này, hai từ Tổ quốc luôn luôn thôi thúc Vũ Đình Bông vươn lên vượt mọi trở lực trong học tập, công tác và đời sống.
Sẵn có lòng yêu nước, lại được những người lãnh đạo Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp thời đó như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, giáo sư Phạm Huy Thông... chỉ bảo và giao nhiệm vụ, anh thanh niên Vũ Đình Bông đã nhanh chóng trở thành hạt nhân tích cực của phong trào. Nào là tham gia dạy chữ cho Việt kiều; nào là in ấn tài liệu và rải truyền đơn tuyên truyền về cuộc Kháng chiến của Việt Nam; nào là tổ chức thu âm lại Đài tiếng nói Việt Nam để phát thanh rộng rãi cho bà con Việt kiều nghe; nào là tổ chức liên hoan văn nghệ khuếch trương các chiến thắng trong nước như chiến dịch Biên giới, chiến thắng Tây Bắc... Do những nỗ lực đó, ngày Quốc tế lao động 1/5/1952, Vũ Đình Bông đã được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp.
Trong thời kỳ học tập ở nước ngoài, Vũ Đình Bông cũng như bao thanh niên trí thức khác, luôn nung nấu ý nguyện muốn sớm trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến, giải phóng dân tộc. Một buổi chiều, Vũ Đình Bông đột ngột nhận được lệnh trực tiếp từ bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: "Đảng đồng ý để đồng chí về nước tham gia kháng chiến. Đồng chí phải đi ngay, không được trở về nơi ở, để tránh bị mật thám theo dõi". Mật lệnh được thi hành ngay: Một người dẫn đường bí mật đưa Vũ Đình Bông rời Paris đến biến giới Pháp - Bỉ. Qua trót lọt biên giới rồi, anh lại nhận được ám hiệu theo một người dẫn đường bí mật khác, lên tàu thủy đi Ba Lan. Đến đây, hành trang duy nhất mang theo là chiếc cặp sinh viên, cũng phải gửi lại Bỉ, thế là anh về nước hoàn toàn với hai bàn tay không. Cuộc hành trình bằng tàu thủy dọc bờ biển Bắc Hải, rồi qua biển Bắc Hải, biển Baltique... của Vũ Đình Bông và một đồng chí nữa (mới bổ sung).
Tới Ba Lan, đoàn có thêm ba người nữa. Đến lúc này các anh đều đã được Chính phủ Ba Lan cấp hộ chiếu chính thức, kết thúc những ngày phấp phỏng lo bị địch phát hiện, bị bắt trở lại Pháp. Ở Matxcơva, gặp gỡ các cán bộ sứ quán ta, các anh mới biết, người tổ chức cuộc đi này, chính là đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên Xô. Ngày 27/4/1954, đoàn bay sang Bắc Kinh, rồi tiếp đó đáp tàu hỏa về biên giới Việt - Trung. Từ đây, đoàn hành quân bộ vào chiến khu Việt Bắc.
Tháng 10/1954, cùng đoàn quân chiến thắng tiến về Hà Nội, Vũ Đình Bông được phân công tiếp quản nhà máy điện Yên Phụ, trực tiếp phụ trách kỹ thuật, rồi trở thành giám đốc nhà máy này. Lúc đó Vũ Đình Bông vừa tròn hai mươi chín tuổi (thật tình cờ, năm anh sinh lại trùng với năm khởi công xây dựng nhà máy - năm 1925).
Tiếp quản một nhà máy như nhà máy điện Yên Phụ là một việc hoàn toàn không đơn giản, đặc biệt là về mặt kỹ thuật. Đây là một nhà máy của chủ Pháp, do các nhân viên kỹ thuật người Pháp trực tiếp quản lý, điều hành sản xuất. Khi ta tiếp quản, còn ba trưởng ca người Pháp ở lại làm thủ tục bàn giao cho chính quyền Cách mạng. Ba trưởng ca này lâu nay giữ độc quyền về mặt công nghệ, công nhân người Việt không hề được phổ biến, hướng dẫn quy trình kỹ thuật, mà chỉ răm rắp thao tác như một cái máy theo lệnh chỉ huy của họ. Những ngày sau giải phóng, việc duy trì dòng điện phục vụ sản xuất và đời sống cho các cơ quan, xí nghiệp và nhân dân thủ đô, quan trọng đến nhường nào. Nó liên quan trực tiếp đến toàn bộ công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đồng thời, làm tốt việc tiếp quản nhà máy điện này, sẽ tăng cường lòng tin của nhân dân đối với khả năng quản lý xã hội của chính quyền Cách mạng.
Đã cũ kỹ lạc hậu, lại hoạt động đơn độc không có nguồn hỗ trợ, nên việc đảm bảo nhà máy vận hành an toàn liên tục là một đòi hỏi vô cùng nghiêm ngặt và hết sức khó khăn. Nhận thức được điều này, Vũ Đình Bông phải thường xuyên làm việc với cường độ cao, ngày đêm bám sát sản xuất, gần gũi công nhân, theo dõi uốn nắn từng thao tác của họ; ghi chép, nghiên cứu xử lý từng trường hợp cụ thể... Nhưng rồi điều không may vẫn cứ xảy ra. Chiều tối hôm đó, đang hoạt động bình thường, bỗng nhiên đèn điện tắt phụt. Tất cả các phân xưởng đều tối om. Cả nhà máy chìm trong im lặng. Ai nấy nháo nhác và hốt hoảng! Điều gì đã xảy ra? Phải chăng có địch phá hoại? Với trách nhiệm của mình lúc này, đòi hỏi Vũ Đình Bông phải thật sự tỉnh táo, thật sự bình tĩnh để nhận định tình hình, dự đoán nguyên nhân cũng như kịp thời ban bố các mệnh lệnh ngắn gọn và chính xác, cùng tập thể công nhân nhanh chóng khắc phục sự cố. Ít phút sau, anh đã tìm ra nguyên nhân... 15 phút sau, điện bừng sáng trở lại! Những giây phút căng thẳng, nặng nề đã trôi qua, tất cả mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
Thực trạng khi mới nhận nhiệm vụ tiếp quản nhà máy là thế, nhưng Vũ Đình Bông vẫn dũng cảm bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ được giao với một tấm lòng yêu nước vô bờ bến và một quyết tâm hiếm có. Cấp trên yêu cầu anh nội trong ba tuần phải tiếp thu và nắm vững toàn bộ quy trình điều hành sản xuất để sớm thay thế hoàn toàn các chuyên viên người Pháp. Nhưng Vũ Đình Bông chỉ cần có mười ngày. Trong mười ngày đó, anh còn kịp viết xong tài liệu về quy trình vận hành, phổ biến cho công nhân và đào tạo cấp tốc các trưởng ca người Việt. Việc chỉ sau thời gian ngắn, người Việt Nam tự quản được nhà máy điện Yên Phụ đã làm cho chính các chuyên viên người Pháp đang ở Hà Nội cũng như người Pháp khác vô cùng ngạc nhiên và thán phục. Sự kiện này là một thực tế hùng hồn đập tan luận điệu tuyên truyền của địch lúc bấy giờ rằng: chỉ một tuần sau khi quân đội Pháp rút đi, Hà Nội sẽ chìm trong bóng tối!
       Hà Nội đã không chìm trong bóng tối! Một lần nữa Hà Nội lại chiến thắng!

Đại đoàn kết số 466 (31/7/2005)
- quehuong.org.vn
 




TẠI SAO KHÔNG THỂ LOẠI TRỪ NHỮNG CON SÂU MỌT NÀY?
          Rất nhiều vụ tiêu cực xẩy ra ở Hà Nam Ninh trong những năm qua đều bị chìm vào im lặng. Mãi gần đây mới lác đác thấy báo chí nêu lên một vài vụ việc:

       Trong bài “THUA LỖ DO ĐÂU?”, báo Hà Nam Ninh ngày 15/6/1990 nêu: “Năm 1989 UBND Tỉnh HNN phê duyệt cho Công ty Điện máy xuất hai vạn tấn sắt phế liệu cho Hồng Kông và Thái Lan. Thực tế Công ty đã xuất 13.439 tấn. Nhưng do “các bản hợp đồng Công ty ký với nước ngoài còn nhiều sơ hở”, do “trong hợp đồng không quy định chặt chẽ thủ tục thanh toán”... ; do “Hợp đồng không đăng ký cơ quan Trọng tài kinh tế”; nên một năm đã trôi qua, Công ty còn bị ba bạn hàng Hồng Kông và Thái Lan nợ số tiền tới 641.412 đô la”.
       Cũng trong bài báo trên, tác giả còn nêu: “Riêng khoản vay Ngân hàng trong nước 1,2 tỷ đồng Việt Nam và 0,3 triệu đô-la, chưa trả được, đã chuyển sang nợ quá hạn...” (tác giả bài báo mới đưa tin... lửng như vậy. Thực chất số tiền đó, đặc biệt là số 300 ngàn đô-la, dư luận đang cho là đầu mối một vụ “áp-phe” với nước ngoài rất nghiêm trọng, đe dọa làm thất thoát công quỹ rất lớn. Cần nhanh chóng làm sáng tỏ vấn đề này trước công luận!
       Báo Lao Động số ra ngày 7/6/1990 nêu một số vụ chiếm dụng vốn lớn: “Ngành Lương thực bị chiếm dụng 7,296 tỷ đồng trong đó cá nhân chiếm dụng1,5 tỷ đồng (bằng nửa số vốn của Ngành này!); ngành Thương nghiệp bị chiếm dụng 9,482 tỷ... ; ngành Vật tư Nông nghiệp (thực ra chỉ là một Công ty của Ngành, Công ty Vật tư nông nghiệp), bị chiếm dụng 4,291 tỷ, trong đó cán bộ trong ngành mà chỉ một số người trong đó, có người chiếm dụng tới  vài ba trăm triệu đồng. Liên hiệp Công ty xuất nhập khẩu bị chiếm dụng 5,68 tỷ, trong khi bản thân Công ty này còn nợ các đơn vị khác 18.175 tỷ đồng... “.
       Cũng báo Lao Động ngày 7/6/1990 còn nêu: “Khi kiểm tra kho dự trữ chiến lược của Trung ương đặt tại Tỉnh, số thóc bị thất thoát tới 22.000 tấn (bằng tổng số thóc thuếNoong nghiệp một năm của HNN!)”.
       Tạp chí Lao động và Xã hội số 5 – 1990 có bài của Hoàng Linh nhan đề “CÚ THƯỞNG KHỦNG KHIẾP NHẤT NĂM 1989”, bài báo viết: “theo con số thống kê được của các chuyên gia lao động Tiền lương Nội thương thì việc chi thưởng 66,176 triệu đồng cho một thương vụ kinh doanh của Công tý thực phẩm Thành phố nam Định có thể gọi là cú thưởng khủng khiếp nhất năm 1989! Người nhận số tiền trên là Đoàn Thanh Bình”. Điều đáng chú ý ở đây theo chúng tôi không chỉ là số tiền thưởng quá lớn, mà còn là ở chỗ, trong khi một cá nhân được thưởng do “đem lại lợi nhuận lớn cho Công ty” như vậy, thì bản thân Công ty đó năm 1989 lại ... báo cáo lỗ! Phải chăng đây chính là ví dụ cụ thể về kiểu “đá bật tường’ mà báo Nhân Dan chủi nhật gần đây đã nêu!
       Báo Hà Nam Ninh số ra ngày 1/6/1990 nêu: “Toàn Tỉnh có 12 Xí nghiệp Tư-nhân ra đời, nhưng mới có 6 đơn vị nộp thuế doanh nghiệp và lợi tức, nhưng rất ít”. Xác định nguyên nhân, tác giả bài báo nêu: “Vì phạm vi hoạt động của nhiều đơn vị rất rộng theo giấy phép”! Cái “phạm vi hoạt động rất rộng” theo giấy phép, bài báo chưa nêu cụ thể, nhưng chúng tôi được biết, ở HNN. Lãnh đạo cấp Tỉnh đã cấp cả “cô-ta” và giấy phép kinh doanh ngoài Tỉnh cho chủ tư nhân có tiền án tiền sự về kinh tế và chính trị!
       Chỉ tạm căn cứ vào những gì báo chí đã nêu mà chúng tôi đọc được trong đầu tháng 6/1990, cũng đủ thấy mức độ tiêu cực nghiêm trọng và đa dạng trong địa bàn Tỉnh HNN. Nhưng vấn đề chính yếu không chỉ là như vậy, mà còn ở chỗ: hầu hết những “nhân vật” kinh tế của các đơn vị kinh doanh có “vụ việc” nêu trên, đều được dư luận nhân dân địa phương biết đến “tai tiếng” từ lâu (những “HOÀNG”, những “CHÚA”, những “VUA” không ngai!); đã có  nhiều ca dao, hò vè, nhiều đơn từ tố cáo hành vi “làm ăn” của họ... nhưng không hiểu sao, những nhà chức trách ở Tỉnh lại “trân trọng, quý mến” họ đến như vậy?..
       Chúng tôi tha thiết đề nghị, hãy nhanh chóng đưa các vụ việc tiêu cực trên ra sử công khai trước pháp luật. Phải áp dụng hình phạt nặng nhất đối với bọn tội phạm kinh tế nguy hại này, bao gồm cả kẻ trực tiếp gây tội và người lợi dụng chức quyền bao đỡ và tạo điều kiện cho những kẻ đó tác oai tác quái suốt nhiều năm trời nay. Ở đây, cần nhắc lại lời đồng chí Tổng bí thư tại lễ kỉ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng CS Việt Nam: “Đây thực sự là tội ác, dù xét theo khía cạnh đạo đức cá nhân hay hành vi xã hội. Luật pháp phải kiên quyết loại trừ ngay những con sâu mọt dó”!..
 
                    Lao Động số 29 (19/7/1990)    [font=.vntime]     
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
LỜI CUỐI
         
Cuộc đời còn mấy nữa đâu
Gió sương bạc trắng mái đầu
Bước chân dặm trường đã mỏi
Lòng người chưa rõ nông, sâu!
 
Cuộc đời còn mấy nữa đâu
Quăng đi mọi gánh u sầu
Chén xuân xin mời rót tiếp
Để tình chếnh choáng trong nhau!
 
Cuộc đời còn mấy nữa đâu
“Chia tay” – giờ sắp điểm rồi!
Xin không nói lời “vĩnh biệt”
Hoàng tuyền – ta mãi bên nhau!
 
 
 
 
 
 
 
CHÂN DUNG HỌA NGƯỜI
 
1. Cái đất Thành Nam thật lắm quan
Đứa thì đĩ đực, đứa thì tham
Lấc ca lấc cấc - thằng cu mốc
Chồng hộ chồng hờ - chú nguyễn ngoan!

 

2.
Có hội văn nghệ nào thế không
Đứng đầu là một gã "Lý Thông"?
Tom tom chát chát, tom tom chát
Vén thử màn xem... quan giống không?!.


3.  
Cứ ngỡ ngày xưa liêm thẳng thế
Con "xây", cha "chống" thật rôm trò!
Bây giờ già cả không năng dậy
Nên thế con thành đứa lại ô
Con cái Tham ô, bố chẳng dơ
Còn khoe cây cảnh với rượu bồ
"Tim hồng gì nữa, tim đen đấy!
Chẳng nhục lại còn văn với thơ!..
u là một gã "Lý Thông"?
Tom tom chát chát, tom tom chát
Vén thử màn xem.... quan giống không?!.


(“Cha con họ Lại” – nhân đọc “Trái tim hồng” của Vũ Ngọc Phác trên báo Nam Hà 25/3/1994)
 

 


[1] Tác giả mà tôi đã có diễm phúc được gặp đôi ba lần tại cơ quan Hội VHNT Hà Nam Ninh những năm 70 thế kỷ trước, khi bộ ba tác phẩm “Bài ca giữ nước” nổi tiếng của ông đang bị coi là “có vấn đề”, chưa được công diễn; thời kì ông về dưỡng bệnh tại Nam Định.

[2] Có một chuyện xẩy ra từ thời học tiểu học, mà nay mỗi lần nhớ lại, chúng tôi – những ông lão đã ở tuổi thất thập, vẫn  thấy sót xa: một hôm, chẳng hiểu vì lý do gì, thầy giáo phạt bạn T quỳ ở bậc thềm trước cửa lớp. Hết giờ ra chơi, mọi người xếp hàng vào lớp, khi ngang qua chõ T quỳ, không nhớ ai đầu têu, lần lượt mỗi đứa chúng tôi cốc lên đầu bạn ấy một cái. T phải chịu khoảng 50 cái cốc của bè bạn! Bây giờ T ở đâu? Còn sống hay đã chết? Không hiểu, những kỷ niệm đau đớn thời niên thiếu ấy, liệu có buông tha T trong suốt các chặng đường đời của bạn ấy?.. (Theo Trần Văn Thủy – tác giả phim tài liệu “Chuyện tử tế”).

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.06.2008 14:45:57 bởi Trần Huy Thuận >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9