Truyện Kiều phần 3: Kiều sa vào lầu xanh và gặp Thúc Sinh-Thu Hiền diễn đọc
Thu Hiền 07.01.2008 08:33:03 (permalink)
Truyện Kiều
 
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
 
 
Đoạn Kiều quyên sinh tại lầu xanh của Tú Bà
 



Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
915./ Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc xen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
920./ Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
925./ Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi,
930./ Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hoa hôm sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935./ Cởi xiêm trút áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm dầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi!
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940./ Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may,
"Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.
"Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
"Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai.
945./ "Tin nhạn vẩn lá thư bài,
"Đưa người cửa trước rước người cửa sau."
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950./ Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây,
"Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia."
Nàng rằng: "Phải bước lưu ly,
"Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
955./ "Điều đâu lấy yến làm anh,
"Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
"Đủ điều nạp thái vu qui,
"Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
"Giờ ra thay bậc đổi ngôi,
960./ "Dám xin gửi lại một lời cho minh."
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên:
"Này này sự đã quả nhiên,
"Thôi đà cướp sống của min đi rồi.
965./ "Bảo rằng đi dạo lấy người,
"Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
"Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
"Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
"Màu hồ đã mất đi rồi,
970./ "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
"Con kia đã bán cho ta,
"Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
"Lão kia có giở bài bây,
"Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975./ "Cớ sao chịu trót một bề,
"Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
"Phải làm cho biết phép tao!"
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: "Trời thẳm đất dày!
980./ "Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
"Thôi thì thôi có tiếc gì!"
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa!
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985./ Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan nghiệp đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990./ Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995./ Rỉ rằng: "Nhân quả dở dang,
"Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
"Số còn nặng nghiệp má đào,
"Người dù muốn quyết trời nào đã cho.
"Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000./ "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau.".


Chú giải:

912. Bạc phau: Trắng phau, trắng xóa.
Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai.
Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
913. Hơi may: Hơi gió heo may.
915. Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo.
Mù khơi: Mù mịt xa khơi.
916. Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái "vầng trăng" đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
917. Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá màu xanh.
918. Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
920. Lâm Truy: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.
921. Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.
927. Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.
930. Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần "Bạch mi".
932. Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.
937. Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.
938. Tứ vi: Bốn phía xung quanh.
942. Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội.
Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng, Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi rong chơi.
Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.
945. Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói "tin nhạn" để chỉ tin thư. Ở đây, tác giả dùng như nghĩa "tin tức" đơn thuần.
949. Hương hỏa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.
952. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
954. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
962. Tam bành: Theo sách Đạo giáo "Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Cư, ở đầu; Trung Thi, tên Bành Chất, ở bụng; Hạ Thi, tên Bành Kiểu, ở chân, thường làm hại người". Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần "Tam thi" hay"Tam Bành" làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
964. Min: Ta, tao (tiếng cổ).
978. Bì tiên: Cái roi bằng da.
986. Phong trần: Cõi đời gió bụi. Ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần, tức là chết.
993. Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.
1000. Tiền Đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2008 16:12:46 bởi Thu Hiền >
#1
    Thu Hiền 11.01.2008 10:59:12 (permalink)
    Truyện Kiều
     
    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền
     
     
    Đoạn Những ngày đâu tiên ở Lầu Xanh
     



    Thuốc thang suốt một ngày thâu,
    Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
    Tú bà chực sẵn bên màn,
    Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
    1005./ "Một người dễ có mấy thân!
    "Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài.
    "Cũng là lỡ một lầm hai,
    "Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây!
    "Lỡ chân trót đã vào đây,
    1010./ "Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.
    "Người còn thì của hãy còn,
    "Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
    "Làm chi tội báo oán gia,
    "Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?"
    1015./ Kề tai mấy mỗi nằn nì,
    Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.
    Vả trong thần mộng mấy lời,
    Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
    Kiếp này nợ trả chưa xong,
    1020./ Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
    Lặng nghe, thấm thía gót đầu,
    Thưa rằng: "Ai có muốn đâu thế này?
    "Được như lời thế là may,
    "Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
    1025./ "Sợ khi ong bướm đãi đằng,
    "Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!"
    Mụ rằng: "Con hãy thong dong,
    "Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
    "Mai sau ở chẳng như lời,
    1030./ "Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi".
    Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
    Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
    Trước lầu Ngưng-bích khóa xuân,
    Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
    1035./ Bốn bề bát ngát xa trông,
    Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
    Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
    Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
    Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
    1040./ Tin sương luống những rày trông mai chờ.
    Bên trời góc bể bơ vơ,
    Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
    Xót người tựa cửa hôm mai,
    Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
    1045./ Sân Lai cách mấy nắng mưa,
    Có khi gốc tử đã vừa người ôm?
    Buồn trông cửa bể chiều hôm,
    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
    Buồn trông ngọn nước mới sa,
    1050./ Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
    Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
    Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
    Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.


    Chú giải:

    1006. Hoa xuân đương nhụy: Hoa xuân đương lên nhụy, tức mới nở. Ý nói Kiều còn trẻ trung.
    1008. Đá vàng: Đây chỉ lòng kiên trinh của phụ nữ.
    1010. Khoá buồng xuân: Khoá kín vẻ xuân trong buồng, như nói cấm cung.
    Đợi ngày đào non: Đợi ngày lấy chồng.
    1013. Tội báo: Như nói là ác báo.
    Oan gia: Kẻ oán thù, cừu thù.
    1016. Thị phi rạch ròi: Lẽ phải, lẽ trái phân minh. Đại ý: Kiều nghe lời Tú Bà nói cũng có lý.
    1017. Thần mộng: Lời báo mộng của quỉ thần (tức Đạm Tiên).
    1018. Túc nhân: Nhân duyên có sẵn từ trước, như nói duyên số tiền định.
    1025. Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày.
    Ca dao:
    Cá buồn cá lội tung tăng
    Em buồn em biết đãi đằng cùng ai.

    ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.
    1027. Thong dong: ở đây có nghĩa là khoan tâm, thư tâm.
    1033. Ngưng-bích: Tên cái lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở.
    Ngưng-bích: Nghĩa là đọng (tụ) lại màu biếc.
    1036. Bụi hồng: Đây chỉ những đám bụi bốc lên ở trên đường.
    1037. Bẽ bàng: Chán ngán, buồn tủi.
    1039. Chén đồng: Chén đồng tâm, tức chén rượu thề nguyền đồng tâm với nhau.
    1042. Tấm son: Tấm lòng son, đây chỉ tấm lòng thuỷ chung.
    1044. Quạt nồng, ấp lạnh: Quạt khi nồng, ấp khi lạnh, do chữ đông ôn hạ sảnh ở Kinh Lễ.
    1045. Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: "Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui". Đây nói bóng sân nhà mẹ, tức nhà mình.
    1046. Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Đây dùng chỉ cha mẹ, "gốc tử đã vừa người ôm" ý nói cha mẹ đã già rồi.
    1053. Ghềnh: Vực sâu, vũng biển.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.01.2008 11:07:22 bởi Thu Hien >
    #2
      Thu Hiền 13.01.2008 11:38:02 (permalink)
      Truyện Kiều
       
      Tác giả: Nguyễn Du
      Diễn đọc: Thu Hiền
       
       
      Đoạn Kiều gặp Sở Khanh
       



      1055./ Chung quanh những nước non người,
      Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
      Ngậm ngùi rủ bức rèm châu,
      Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
      Một chàng vừa trạc thanh xuân,
      1060./ Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
      Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
      Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
      Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,
      Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo dai.
      1065./ "Than ôi ! sắc nước hương trời,
      "Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
      "Giá đành trong nguyệt trên mây,
      "Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa?
      "Tức gan riêng giận trời già,
      1070./ "Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
      "Thuyền quyên ví biết anh hùng,
      "Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!"
      Song thu đã khép cánh ngoài,
      Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
      1075./ Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
      Cảm lòng chua xót, lạt tình bơ vơ.
      Những là lần lữa nắng mưa,
      Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?
      Đánh liều nhắn một hai lời,
      1080./ Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
      Mảnh tiên kể hết xa gần,
      Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.
      Tan sương vừa rạng ngày mai,
      Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
      1085./ Trời tây lãng đãng bóng vàng,
      Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
      Mở xem một bức tiên mai,
      Rành rành tích việt có hai chữ đề.
      Lấy trong ý tứ mà suy:
      1090./ "Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?"
      Chim hôm thoi thót về rừng,
      Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
      Tường đông lay động bóng cành,
      Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
      1095./ Sượng sùng đánh dạn ra chào,
      Lạy thôi, nàng mới rỉ trao ân cần.
      Rằng: "Tôi bèo bọt chút thân,
      "Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.
      "Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
      1100./ "Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau!"
      Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
      "Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!
      "Nàng đà biết đến ta chăng,
      "Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!"
      1105./ Nàng rằng: "Muôn sự ơn người,
      "Thế nào xin quyết một bài cho xong."
      Rằng: "Ta có ngựa truy phong,
      "Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi.
      "Thừa cơ lẻn bước ra đi,
      1110./ "Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn.
      "Dù khi gió kép, mưa đơn,
      "Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!"
      Nghe lời nàng đã sinh nghi,
      Song đà quá đỗi, quản gì được thân.
      1115./ Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
      Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!


      Chú giải:

      1057. Rèm châu: do chữ Châu liêm, rèm kết bằng ngọc châu.
      1061. Mạch: Dòng dõi.
      1063. Bóng nga: Bóng người đẹp, chỉ Kiều.
      1064. Đeo dai: Vương vấn ra vẻ quyến luyến.
      1067. Trong nguyệt trên mây: ý nói có một phẩm giá khác đời, như Hằng nga trong cung nguyệt hay tiên nữ trên cung mây.
      1070. Chữ lòng ở đầu câu là Sở Khanh tự nói lòng mình còn chữ lòng ở cuối câu là Sở Khanh hỏi lòng Kiều, hai chữ chỉ riêng hai người.
      1073. Song thu: Cửa sổ mùa thu (nói thời tiết khi ấy).
      1080. Tế độ: Cứu vớt.
      Trầm luân: Chìm đắm, đắm đuổi. Ý Kiều muốn nhờ Sở Khanh cứu mình thoát nạn thanh lâu như Phật cứu vớt chúng sinh khỏi bể trầm luân.
      1081. Mảnh tiên: Mảnh giấy hoa tiên, tức tờ thư.
      1082. Nỗi nhà báo đáp: Nông nỗi phải báo đáp ơn nhà, bán mình chuộc cha.
      1084. Tiện hồng: Thuận tiện cánh chim hồng, tức là nhân có người mà gửi thư. Chữ hồng đây dùng như chữ nhạn, chỉ tin tức thư từ.
      1087. Tiên mai: Do chữ mai tiên, tờ tiên có vẽ cành hoa mai.
      1090. Tuất thì: Giờ tuất, tức tám, chín giờ tối hiện nay. Hai chữ tích việt của Sở Khanh, đem tản ra theo lối tản tự, thì thành những chữ trấp nhất nhật tuất tẩu, nghĩa là ngày hai mươi mốt, giờ tuất, chạy trốn. Đó là Sở Khanh bí mật hẹn ngày giờ đi trốn mà Kiều đã lấy ý tứ suy đoán ra.
      1091. Thoi thót: Chim từng con lần lượt bay về, con này rồi đến con khác.
      1092. Ngậm gương nửa vành: ý nói buổi tối, vầng trăng chiếu vào hoa trà mi ngậm lấy nửa vành trăng.
      1096. Ân cần: ở đây có nghĩa là khẩn khoản.
      1097. Bèo bọt: Như bèo hay bọt trôi nổi trên mặt nước, ngụ lý lưu lạc lẻ loi.
      1098. Yến anh: Đây chỉ gái nhà chứa. Ý Kiều nói: nàng như con chim lạc đàn, lại mang lấy cái nợ làm gái nhà chứa.
      1099. Cốt nhục tử sinh: Do chữ sinh tử nhục cốt. Tả chuyện: Sở vị sinh tử cốt đã (thế gọi là làm sống lại người chết, làm mọc thịt nắn xương khô - làm cho người đã chết sống lại, xương đã khô mọc thịt ra). Do đó, người ta thường chỉ sự làm ơn rất sâu sắc, to lớn.
      1100. Kết cỏ ngậm vành: Tả chuyện: Ngụy Thù nước Tấn, có một người thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là Ngụy Khỏa phải đem cả người thiếp chôn theo. Ngụy Thù chết, Ngụy Khỏa cho người thiếp về không đem chôn theo. Sau Ngụy Khỏa làm tướng đi đánh giặc nước Tần, gặp tướng Tần là Đỗ Hồi, khoẻ mạnh có tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị Ngụy Khỏa bắt được. Đêm về, Ngụy Khỏa mộng thấy một ông già đến nói rằng: "Tôi là cha người thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi kết cỏ quấn chân Đỗ Hồi cho nó ngã vấp để báo ơn".
      Tục Tề hài ký: Dương Biểu đến chơi núi Hoa Âm cứu sống được một con chim. Đêm ấy có một đồng tử mặc áo vàng đến tặng bốn chiếc vòng và nói rằng: "Ta là sứ giả của Tây Vương mẫu may được chàng cứu mạng, xin cảm tạ đại ân". Do đó, người ta thường nói "kết cỏ ngậm vành" để chỉ sự đền ơn trả nghĩa.
      1107. Truy phong: Đuổi theo gió, nói con ngựa đi rất nhanh.
      1108. Dưới trướng: Do chữ trướng hạ, nguyên chỉ quân sĩ thuộc quyền chỉ huy của một vị soái. Đây dùng để chỉ kẻ thủ hạ của Sở Khanh.
      Kiện nhi: Người trẻ tuổi mà có sức khỏe. Sở Khanh khoe nhà y có ngựa tốt và thủ hạ khỏe mạnh, là có ý bảo Kiều nếu chạy trốn thì sẽ sẵn phương tiện và người hộ vệ chắc chắn không phải lo ngại gì.
      1110. Ba mươi sáu chước: "Tam thập lục" là một danh từ chỉ chung tất cả các chước. Câu này Sở Khanh bảo Kiều chỉ có một kế hay nhất là chạy trốn.
      1111. Gió kép mưa đơn: ý nói dù có những trở ngại bất trắc...
      1114. Quá đỗi: Quá mức, quá đà, ý nói việc đã trót dở dang rồi.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.01.2008 11:55:30 bởi Thu Hien >
      #3
        Thu Hiền 17.01.2008 14:37:02 (permalink)
        Truyện Kiều
         
        Tác giả: Nguyễn Du
        Diễn đọc: Thu Hiền
         
         
        Đoạn Kiều mắc lừa Tú Bà và Sở Khanh
         



        Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
        Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
        Đêm thu khắc lậu canh tàn,
        1120./ Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
        Lối mòn cỏ nhợt màu sương,
        Lòng quê đi một bước đường, một đau.
        Tiếng gà xao xác gáy mau,
        Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
        1125./ Nàng càng thổn thức gan vàng,
        Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
        Một mình khôn biết làm sao,
        Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng.
        Hóa nhi thật có nỡ lòng,
        1130./ Làm chi giày tía, vò hồng, lắm nau!
        Một đoàn đổ đến trước sau,
        Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
        Tú bà tốc thẳng đến nơi,
        Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
        1135./ Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
        Đang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời.
        Thịt da ai cũng là người,
        Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
        Hết lời thú phục, khẩn cầu,
        1140./ Uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa.
        Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
        "Nước non lìa cửa, lìa nhà đến đây.
        "Bây giờ sống thác ở tay,
        "Thân này đã đến thế này thì thôi !
        1145./ "Nhưng tôi có sá chi tôi,
        "Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
        "Thân lươn bao quản lấm đầu,
        "Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa !"
        Được lời mụ mới tùy cơ,
        1150./ Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu.
        Bày vai có ả Mã Kiều,
        Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.
        Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
        Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha.
        1155./ Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
        Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
        "Thôi đà mắc lận thì thôi !
        "Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
        "Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
        1160./ "Một tay chôn biết mấy cành phù dung!
        "Đà dao lập sẵn chước dùng,
        "Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
        "Có ba mươi lạng trao tay,
        "Không dưng chi có chuyện này, trò kia!
        1165./ "Rồi ra trở mặt tức thì,
        "Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời!"
        Nàng rằng: "Thề thốt nặng lời,
        "Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!"
        Còn đương suy trước, nghĩ sau,
        1170./ Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.
        Sở Khanh lên tiếng rêu rao
        Rằng: "Nghe mới có con nào ở đây.
        "Phao cho quyến gió rủ mây,
        "Hãy xem có biết mặt mày là aỉ"
        1175./ Nàng rằng: "Thôi thế thì thôi!
        "Rằng không, thì cũng vâng lời rằng không!"
        Sở Khanh quát mắng đùng đùng,
        Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay,
        Nàng rằng: "Trời nhé có hay!
        1180./ "Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?
        "Đem người đẩy xuống giếng thơi,
        "Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!
        "Còn tiên tích việt ở tay,
        "Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?"
        1185./ Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
        Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!
        Phụ tình án đã rõ ràng,
        Dơ tuồng, nghĩ mới kiếm đường tháo lui.
        Buồng riêng, riêng những sụt sùi
        1190./ Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân:
        "Tiếc thay trong giá trắng ngần,
        "Đến phong trần, cũng phong trần như ai!
        "Tẻ vui cũng một kiếp người,
        "Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!"
        1195./ "Kiếp xưa đã vụng đường tu,
        "Kiếp nay chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
        "Dẫu sao bình đã vỡ rồi,
        "Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!"


        Chú giải:

        1119. Lậu: Đồng hồ nhỏ giọt. Thời xưa thường dùng "đồng hồ nước" để tính thời khắc. Đó là một cái đồng hồ bằng đồng, dưới có đục lổ nhỏ, trong chứa nước, giữa đựng một cái tên có khắc độ; nước trong hồ do lổ nhỏ giọt ra, thì những độ số ở cái tên cũng dần dần lộ ra, xem đó, biết được thời khắc của ngày đêm. Danh từ đồng hồ ngày nay còn quen gọi là gốc ở đó.
        1122. Lòng quê: Lòng nhớ quê hương.
        1124. Dậy dàng: Xôn xao ồn ào nổi lên.
        1125. Gan vàng: Có nghĩa như "lòng vàng". Kiều đoán có người đuổi theo phía sau nên hồi hộp sợ hãi...
        1128. Dặm rừng: Đường rừng, lối đi trong rừng.
        1130. Lắm nau: có nghĩa là đến như thế sao!
        1132. Vuốt: Móng sắc của loài thú. Ý nói không thoát lối nào được.
        1139. Thú tội, chịu tội.
        Khẩn cầu: Khẩn khoản, cầu xin.
        1142. Nước non: ý nói cách trở nước non, tức là nơi ở xa xôi.
        1150. Bảo lĩnh: Người đứng ra đảm bảo, chịu trách nhiệm thay.
        Cung chiêu: Cung khai, nhận tội Tú bà muốn bắt buộc Kiều giữ lời hứa, nên bắt làm tờ cung chiêu nhận tội, và bắt người đứng bảo lĩnh về lời cam kết của nàng.
        1151. Bày vai: Cùng hàng cùng lứa.
        1152. Chịu đoan: Chịu nhận trách nhiệm về Kiều.
        1160. Phù dung: Hoa phù dung, ví với người đẹp.
        1161. Đà dao: Khi đánh giặc, giả thua chạy để người ta đuổi theo, rồi thình lình quăng dao lại chém, gọi là "đà dao". "Đà dao" đây là một chước lừa.
        1162. Mộ cốt một đồng: Nói Tú bà với Sở Khanh thông đồng hiệp mưu với nhau để đánh lừa Kiều.
        1146. Không dưng: Nếu không thì tự nhiên làm chi có...
        1166. Sân si: Phân bua, cãi cọ. Mã Kiều khuyên Kiều nên nén nỗi tức giận, chớ nên đôi có với Sở Khanh mà thiệt mình.
        1173. Quyến gió rủ mây: Quyến rũ mây gió đi theo. Ý nói quyến rũ Kiều.
        1178. Thị hùng: Cậy sức mạnh mà ra oai đánh đập người.
        1189. Anh yến: Chỉ chung những người con gái.
        1181. Giếng thơi: Giếng sâu.
        1182. Ăn lời: Nuốt lời, tức không giữ lời.
        1184. Mặt ấy, mặt này: Mấy tiếng này, Kiều xỉa xói vào mặt Sở Khanh mà nói, đối đáp lại tiếng "mặt mày" của Sở Khanh ở trên.
        1186. Vô lương: Cũng như bất lương, không lương thiện, không có lương tâm.
        1191. Trong giá trắng ngần: Do câu tục ngữ: Trong như giá trắng như ngần, trong như băng trắng như bạc (ngần là do chữ ngân).
        #4
          Thu Hiền 20.01.2008 10:34:53 (permalink)
          Truyện Kiều
           
          Tác giả: Nguyễn Du
          Diễn đọc: Thu Hiền
           
           
          Đoạn Kiều bắt đầu kiếp sống lầu xanh
           



          Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
          1200./ Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
          "Nghề chơi cũng lắm công phu,
          "Làng chơi ta phải biết cho đủ điều."
          Nàng rằng: "Mưa gió dập dìu,
          "Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!"
          1205./ Mụ rằng: "Ai cũng như ai,
          "Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
          "Ở trong còn lắm điều hay,
          "Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
          "Này con thuộc lấy làm lòng,
          1210./ "Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
          "Chơi cho liễu chán, hoa chê,
          "Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
          "Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
          "Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
          1215./ "Đều là nghề nghiệp trong nhà,
          "Đủ ngần ấy nết, mới là người soi."
          Gót đầu vâng dạy mấy lời,
          Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.
          Những nghe nói, đã thẹn thùng,
          1220./ Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
          Xót mình cửa các, buồng khuê,
          Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
          Khéo là mặt dạn, mày dày,
          Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
          1225./ Thương thay thân phận lạc loài,
          Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
          Lầu xanh mới rủ trướng đào,
          Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
          Biết bao bướm lả, ong lơi,
          1230./ Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
          Dập dìu lá gió, cành chim,
          Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
          Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
          Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
          1235./ Khi sao phong gấm rủ là,
          Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
          Mặt sao dày gió dạn sương,
          Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
          Mặc người mưa Sở, mây Tần,
          1240./ Những mình nào biết có xuân là gì!
          Đòi phen gió tựa, hoa kề,
          Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
          Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
          Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
          1245./ Đôi phen nét vẽ, câu thơ,
          Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,
          Vui là vui gượng kẻo là,
          Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
          Thờ ơ gió trúc, mưa mai,
          1250./ Ngẩn ngơ trăm mối, dùi mài một thân.
          Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
          Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
          Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
          Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
          1255./ Dặm nghìn, nước thẳm, non xa,
          Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
          Sân hòe đôi chút thơ ngây
          Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
          Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
          1260./ Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
          Khi về hỏi liễu Chương đài,
          Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
          Tình sâu mong trả nghĩa dày,
          Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
          1265./ Mối tình đòi đoạn vò tơ,
          Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
          Song sa vò võ phương trời,
          Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.
          Lần lần thỏ bạc ác vàng,
          1270./ Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn!
          Đã cho lấy chữ hồng nhan,
          Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
          Đã đày vào kiếp phong trần,
          Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!


          Chú giải:

          1028. Khép mở, riêng chung: Chỉ giọng nói tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình nỉ non, như riêng như chung, tức những mánh khoé quyến rũ.
          1210. Vành ngoài bảy chữ: Bảy cách đối với khách ở bề ngoài để cho khách say mê.
          Vành trong tám nghề: Tám cách đối đãi trong khi ăn nằm với khách, đối với mỗi hạng người, dùng một lối riêng để làm vừa lòng họ.
          1213. Khoé hanh: Khoé mắt; mắt sắc như lá hạnh.
          Khi khoé hạnh, khi nét ngài: ý nói khi mắt liếc, khi mày đưa.
          1216. Người soi: Người sành sỏi, lịch lãm, biết ngón chơi.
          1218. Nét nguyệt: Nét lông mày hình vành trăng.
          Vẻ hồng: Vẻ mặt hồng.
          1220. Khắt khe: ở đây như nói éo le, quái ác.
          1221. Các, khuê: Do chữ khuê các.
          1227. Trướng đào: Màn màu đỏ, phụ nữ thường dùng.
          1231. Lá gió cành chim: Lá đưa gió, cành đón chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
          1232. Tổng Ngọc: Người nước Sở, đời chiến quốc, đẹp trai, có những bài Cao đường phú, Thần nữ phú, nói về chuyện mây mưa của thần núi Vu Sơn...
          Trường Khanh: (Chính là chữ Trưởng nhưng thường đọc là Trường hay Tràng): Tên tự của Tư Mã Tương Như, người Hán, yêu sắc đẹp của Trác Văn Quân, gảy đàn cầm gợi tình, làm cho nàng đang đêm bỏ nhà trốn theo mình.
          Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi từ phú, là hai người tài tử, do đó, câu này ngụ ý khách đến chơi toàn những hạng phong lưu quý phái.
          1239. Mưa Sở mây Tần: Chỉ sự ái ân trai gái.
          1242. Gió tựa, hoa kề: ý nói những cảnh vui thú ở chốn thanh lâu.
          1242. Tuyết ngậm: Bóng trăng tỏ soi khắp bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh: "gió, hoa, tuyết, trăng" (phong, hoa, tuyết nguyệt).
          1246. Trong nguyệt: Trong bóng trăng.
          Dưới hoa: Dưới dàn hoa. Hai câu 1245-1246 tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh, (cầm, kỳ, thi, hoa).
          1249. Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân (như nghĩa mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ sự bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều thờ ơ với tất cả những chuyện mưa gió, trúc mai...
          1250. Dùi mài: Như nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng có ý như là bị dập vùi.
          1254. Bóng dâu: Bóng mặt trời xế trên ngọn dâu. Sách Hoài nam nữ nói: Mặt trời xế về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây. Người sau mượn chữ bóng dâu để ví tuổi già.
          1255. Dặm nghìn: Tức nghìn dặm.
          1257. Sân hòe: Sân có trồng cây hòe. Vương Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây hòe ở sân nhà và nói: "Con cháu ta sau này thế nào cũng làm đến chức tam công" (Thời xưa, ở phía trước sân chầu nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba cây hòe, nên Vương Đán làm đến tể tướng. Nhân đó, người ta thường nói sân hòe để chỉ những nhà có con cái hiển đạt).
          Đôi chút thơ ngây: Chỉ Thúy Vân và Vương Quan.
          1258. Trân cam: Những thức ăn quý báu, ngon ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi ngày một già, mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng đi rồi, chỉ còn hai em nhỏ dại, lấy ai là người phụng dưỡng trân cam thay mình.
          1261. Chương Đài: theo sách Thái bình quảng ký: Hàn hoành, đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được, có gửi cho Liễu thị bài từ rằng: Chương Đài Liễu, Chương Đài Liễu, đã ưng nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, đã ưng phan chiết tha nhân thủ! (Cây liễu Chương Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay còn không? Cho dù cành dài vẫn buông rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người khác rồi!). Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi người tình nhân cũ (là Thúy Kiều).
          1262. Cành xuân: Cành xanh đẹp.
          1263. Tình sâu: chỉ tình chị em, Nghĩa dày: Chỉ nghĩa vợ chồng. Ý Kiều mong Thúy Vân lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho Kim Trọng.
          1264. Hoa kia, cành này: "Hoa kia" chỉ Thúy Vân, "cành này" chỉ Kim Trọng.
          1266. Hương quan: Quê hương
          Giấc hương quan: Giấc mộng về quê hương.
          1267. Song sa: cũng như song the. Xem chú thích 240.
          1268. Hoàng hôn: Về chiều tối, khi mặt trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng hôn.
          1269. Thỏ bạc, ác vàng: Như nói "thỏ lặn, ác tà" tức ngày và đêm lần lượt qua đi.
          #5
            Thu Hiền 23.01.2008 11:19:01 (permalink)
            Truyện Kiều
             
            Tác giả: Nguyễn Du
            Diễn đọc: Thu Hiền
             
             
            Đoạn Kiều gặp Thúc Sinh
             



            1275./ Khách du bỗng có một người,
            Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
            Vốn người huyện Tích châu Thường,
            Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
            Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
            1280./ Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
            Trướng tô giáp mặt hoa đào,
            Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa?
            Hải đường mơn mởn cành tơ,
            Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
            1285./ Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
            Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
            Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
            Một dây một buộc ai giằng cho ra.
            Sớm đào tối mận lân la,
            1290./ Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
            Dịp đâu may mắn lạ dường,
            Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
            Sinh càng một tỉnh mười mê,
            Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
            1295./ Khi gió gác khi trăng sân,
            Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ.
            Khi hương sớm khi trà trưa,
            Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.
            Miệt mài trong cuộc truy hoan,
            1300./ Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
            Lạ cho cái sóng khuynh thành,
            Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
            Thúc sinh quen nết bốc rời,
            Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
            1305./ Mụ càng tô lục chuốt hồng,
            Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.


            Chú giải:

            1275. Khách du: Khách đi chơi, đi du lãm.
            1276. Kỳ Tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tầm là tên tự của Thúc sinh.
            1277. Huyện Tích, Châu Thường: tức huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
            1278. Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm nghị, mẹ tính hiền từ, nên người ta gọi cha là "nghiêm đường", "nghiêm phụ", mẹ là "từ mẫu", "từ thân".
            1279. Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ thiếp hồng gửi thăm người đẹp. Hương khuê: Phòng hương, phòng ở của phụ nữ, tục xưa phụ nữ hay dùng hương thơm, nên gọi là "hương khuê".
            1281. Trướng tô: do chữ lưu tô trướng, thứ màn có tua kết bằng lông chim năm sắc.
            1287. Lẽ hằng: Lẽ thường như thế.
            1289. Đào mận: Nói bóng sắc đẹp của người con gái.
            1290. Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm gắn bó với nhau.
            1296. Chuốc: So chữ Chước, rót rượu mời nhau.
            Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ "liên cú" một lối chơi của các tao nhân mặc khách thời xưa, thường hai người, hoặc nhiều người nối lời nhau làm chung một bài thơ.
            1297. Hương sớm, trà trưa: Xông hương buổi sớm, uống trà buổi trưa.
            1298. Bàn vây: Bàn cờ vây. Trung Quốc có hai lối chơi cờ:
            Vi kỳ: Cờ vây
            Tượng kỳ: tức cờ tướng.
            1299. Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
            1301. Sóng khuynh thành: Chỉ cái liếc nhìn của người đàn bà đẹp.
            1303. Bốc rời: Tiền rời cứ bốc từng nắm mà chi, không cần đếm là bao nhiêu, ý nói phung phí không tiếc tiền.
            1306. Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc. Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng, nên nói "đồng" tức là tiền.
            #6
              Thu Hiền 27.01.2008 11:44:34 (permalink)
              Truyện Kiều
               
              Tác giả: Nguyễn Du
              Diễn đọc: Thu Hiền
               
               
              Đoạn Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh
               



              Dưới trăng quyên đã gọi hè,
              Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
              Buồng the phải buổi thong dong,
              1310./ Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
              Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
              Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
              Sinh càng tỏ nét càng khen,
              Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường.
              1315./ Nàng rằng: "Vâng biết lòng chàng.
              "Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
              "Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
              "Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
              "Lòng còn gửi áng mây Hàng.
              1320./ "Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay."
              Rằng: "Sao nói lạ lùng thay!
              "Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?"
              Nàng càng ủ dột thu ba,
              Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
              1325./ "Thiếp như hoa đã lìa cành,
              "Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
              "Chúa xuân đành đã có nơi,
              "Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi."
              Sinh răng: "Từ thuở tương tri,
              1330./ "Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.
              "Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
              "Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông."
              Nàng rằng: "Muôn đội ơn lòng.
              "Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.
              1335./ "Bình Khang nấn ná bấy lâu,
              "Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
              "Rồi ra lạt phấn phai hương,
              "Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
              "Vả trong thềm quế cung trăng,
              1340./ "Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong.
              "Bấy lâu khăng khít dải đồng,
              "Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.
              "Vẻ chi chút phận bèo mây,
              "Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
              1345./ "Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
              "Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?"
              "Như chàng có vững tay co,
              "Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
              "Thế trong dù lớn hơn ngoài,
              1350./ "Trươc hàm sư tử gửi người đằng la.
              "Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
              "Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
              "Ở trên còn có nhà thông,
              "Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
              1355./ "Sá chi liễu ngõ hoa tường?
              "Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
              "Lại càng dơ dáng dại hình,
              "Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
              "Thương sao cho vẹn thì thương.
              1360./ "Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng."
              Sinh rằng: "Hay nói đè chừng!
              "Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao
              "Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
              "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
              1365./ "Đã gần chi có điều xa?
              "Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều."
              Cùng nhau căn vặn đến điều,
              Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
              Nỉ non đêm ngắn tình dài,
              1370./ Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
              Mượn điều trúc viện thừa lương,
              Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
              Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
              Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
              1375./ Bắn tin đến mặt Tú bà,
              Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao.
              Rõ ràng của dẫn tay trao,
              Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.
              Công tư hai lẽ đều xong,
              1380./ Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
              Một nhà sum họp trúc mai,
              Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
              Hương càng đượm lửa càng nồng,
              Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.


              Chú giải:

              1308. Lửa lựu: Hoa lựu khi nở trông đỏ chói như lửa, chỉ cảnh mùa hè.
              1312. Ý nói Kiều có một thân thể đầy đặn xinh đẹp.
              1314. Luật Đường: Tức lối thơ ngũ ngôn luật (luật năm chữ) hay thất ngôn luật (luật bảy chữ), mỗi bài tám câu, năm vần, theo đúng niêm luật bằng trắc. Lối này có từ đời Đường, nên gọi là luật Đường.
              1317. Nối điêu: Nối đuôi con điêu. "Điêu" là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đầy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy đã chê giếu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào). Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục điêu (nối điêu) để chỉ sự việc gì có tính chất học đòi. Chữ "nối điêu" ở đây, là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh.
              1318. Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
              1322. Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
              1323. Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con mắt trong suốt như suối mùa thu).
              1327. Chúa xuân: Người chủ vường xuân, chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói: Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
              1329. Tương tri: Hiểu biết nhau, thông cảm với nhau.
              1330. Nước non: Sông núi tức lời thề nguyền kết làm vợ chồng.
              1334. Thú, tòng: Thú là "thú thiếp": lấy vợ lẽ, chỉ bên Thúc sinh; tòng "tòng lương": trở về lương, tức bỏ chỗ lầu xanh để trở về, đi lấy chồng, chỉ bên Kiều. Hai bên cùng gặp nhiều khó khăn.
              1335. Bình khang: Đời Đường, ở kinh thành Trường An, gần cửa Bắc, có một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ ở, sau nhân dùng làm danh từ chỉ chung xóm kỹ nữ.
              1339. Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu đương tạp trở chép: Trên mặt trăng có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do đó, khi tả mặt trăng, người ta thường dùng chữ điện quế, cung quế.
              1340. Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người chủ trương trong điện quế, nói bóng vợ cả Thúc sinh.
              1341. Giải đồng: Giải đồng tâm.
              1342. Thêm người, người cũng... chữ người chỉ Kiều, chữ người dưới chỉ Thúc sinh.
              1343. Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất định như bèo mặt nước, mây trên không.
              1344. Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ chồng.
              1347. Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói: Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền lực đối với vợ cả.
              1349. Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo lễ giáo xưa: Nam tự ngoại, nữ tự nội: Đàn ông trong coi việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. Ý Kiều nói: Nếu thế lực vợ cả lớn hơn thế lực chàng.
              1350. Hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:
              "Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
              Đàm không thuyết hữu dạ bất miên,
              Hốt văn Hà Đông sư tử hống
              Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên".

              Dịch nghĩa:
              "Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ
              "Nói những thuyết không, thuyết có, đêm không ngủ
              "Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên
              "Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.

              Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bìm, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
              1352. Một số cố lão ở Nghệ - Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi hay Nhúm vùi. Ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa hồng.
              1353. Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra, tức nhà xuân, do chữ xuân đường chỉ bố Thúc sinh.
              1355. Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu xanh như liễu bên đường, hoa đầu tường, ai vin ai hái cũng được.
              1363. Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. Ý nói: đừng nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
              1366. Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc xẩy ra.
              1370. Non đoài: Núi ở phía tây.
              1371. Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có trồng trúc xung quanh.
              Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
              1373.Chiến, hòa: ở đây, chiến là chuyện kiện cáo, hòa là lựa cách điều đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh Tầm: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy, rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao về tội mua con gái nhà lương thiện về làm gái điếm, một mặt mượn Bộ Tần đến điều đình việc chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
              1376. Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc sinh.
              1378. Hoàn lương: bỏ nghề cũ chốn lầu xanh trở về đời lương thiện.
              1380. Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh lầu xanh.
              1381. Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật của vợ chồng.
              1383. Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ chồng.
              1384. Ngọc, sen: Hai câu tỏ ý "sum họp" mai trúc đã về một nhà.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2008 11:48:29 bởi Thu Hiền >
              #7
                Thu Hiền 01.02.2008 21:05:33 (permalink)
                Truyện Kiều
                 
                Tác giả: Nguyễn Du
                Diễn đọc: Thu Hiền
                 
                 
                Đoạn Thúc ông thưa Kiều ra công đường
                 



                1385./ Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
                Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
                Giậu thu vừa nảy giò sương,
                Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
                Phong lôi nổi trận bời bời,
                1390./ Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
                Quyết ngay biện bạch một bề,
                Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
                Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
                Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
                1395./ Rằng: "Con biết tội đã nhiều,
                "Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
                "Trót vì tay đã nhúng chàm,
                "Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
                "Cùng nhau vả tiếng một ngày,
                1400./ "Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
                "Lượng trên quyết chẳng thương tình,
                "Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi."
                Thấy lời sắt đá tri tri,
                Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công.
                1405./ Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
                Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
                Cùng nhau theo gót sai nha,
                Song song vào trước sân hoa lạy quỳ.
                Trông lên mặt sắt đen sì,
                1410./ Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
                "Gã kia dại nết chơi bời,
                "Mà con người thế là người đong đưa.
                "Tuồng chi hoa thải hương thừa,
                "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
                1415./ "Suy trong tình trạng nguyên đơn,
                "Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
                "Phép công chiếu án luận vào.
                "Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
                "Một là cứ phép gia hình,
                1420./ "Một là lại cứ lầu xanh phó về."
                Nàng rằng: "Đã quyết một bề!
                "Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần.
                "Đục trong thân cũng là thân.
                "Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình!"
                1425./ Dạy rằng: "Cứ phép gia hình!
                "Ba cây chập lại một cành mẫu đơn."
                Phận đành chi dám kêu oan,
                Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
                Một sân lầm cát đã đầy,
                1430./ Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
                Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
                Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
                Khóc rằng: "Oan khốc vì ta!
                "Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.
                1435./ "Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu.
                "Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai."
                Phủ đường nghe thoảng vào tai,
                Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
                Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
                1440./ Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
                "Nàng đà tính hết xa gần,
                "Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
                "Tại tôi hứng lấy một tay,
                "Để nàng cho đến nỗi này vì tôi."
                1445./ Nghe lời nói cũng thương lời,
                Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi.
                Rằng: "Như hẳn có thế thì
                "Trăng hoa song cũng thị phi biết điều."
                Sinh rằng: "Chút phận bọt bèo,
                1450./ "Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên."
                Cười rằng: "Đã thế thì nên!
                "Mộc già hãy thử một thiên trình nghề."
                Nàng vâng cất bút tay đề,
                Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
                1455./ Khen rằng: "Giá đáng Thịnh Đường!
                "Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
                "Thực là tài tử giai nhân,
                "Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
                "Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
                1460./ "Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung.
                "Đã đưa đến trước cửa công,
                "Ngoài thì là lý song trong là tình.
                "Dâu con trong đạo gia đình,
                "Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong."
                1465./ Kíp truyền sắm sửa lễ công,
                Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
                Bày hàng cổ xúy xôn xao,
                Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
                Thương vì hạnh trọng vì tài,
                1470./ Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
                Huệ lan sực nức một nhà,
                Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.


                Chú giải:

                1386. Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng. Ngô đồng là một loài cây cao, cành lá xanh biếc, nên thường gọi là bích ngô chen lá vàng giữa chòm lá xanh biếc, tức trời đã sang thu.
                1387. Giậu thu: Giậu hoa mùa thu.
                Giò sương: giò hoa chịu được sương, ý chỉ hoa cúc.
                1389. Phong lôi: gió, sấm, nói cơn giận nổi lên dữ dội như gió, như sấm.
                1390. Nặng lòng e ấp: Thúc ông trong lòng lấy làm e sợ về việc để cho con lấy con gái lầu xanh như thế, vì không những làm xấu thanh danh nhà mình, mà đối với Hoạn thư cũng sẽ có chuyện lôi thôi.
                1391. Biện bạch: ở đây nghĩa là phán bảo minh mạch, rành rọt.
                1393. Nghiêm huấn: Lời dạy của bố.
                1396. Sấm sét: Do chữ lôi đình, chỉ sự ra uy, như quát mắng đánh đập.
                Búa rìu: Do chữ phủ việt, chỉ dự gia hình, ý cả câu: Dẫu đánh mắng hay giết chết cũng xin chịu.
                1397. Tay đã nhúng chàm: Cái tay đã nhúng vào chàm, thì dù rút ra cũng bị nhuốm chàm xanh rồi.
                1400. Đã lấy nhau thành vợ chồng thì nỡ nào lại lìa bỏ, cũng như nỡ ôm đàn cầm mà gẩy thì nỡ nào lại đứt dây cho được.
                1402. Bạc đen: Chưa thực rõ nghĩa. Có người giải bạc đen là sống chết cũng liều.
                1404. Sốt gan: Nóng gan, như nói nóng tiết.
                Cáo quỳ: Cáo là thưa trình, quỳ là quỳ gối, tức quỳ gối mà đề đơn thưa trình. Lệ xưa, ai vào quan thưa trình việc gì, phải quỳ gối trước công đường đầu đội lá đơn.
                1405. Đất bằng nổi sóng: Do chữ Bình địa ba đào.
                1406. Phủ đường: Dinh quan phủ, ở đây chỉ quan phủ.
                Phiếu hồng: Tờ trát của quan.
                Thôi tra: Đòi lên xét hỏi.
                1408. Sân hoa: Sân phủ đường (chữ hoa ở đây chỉ đặt cho đẹp lời)
                1409. Mặt sắt: Do chữ thiết diện, mặt đen và cứng rắn như sắt, thường mượn để chỉ một vị quan cương trực, nghiêm nghị.
                1415. Nguyên đơn: Đơn của người nguyên cáo, tức Thúc ông (Thúc sinh và Kiều là bị cáo).
                1419. Gia hình: Gia hình có nghĩa là bắt phải chịu tội, hình phạt, ở đây là phạt trượng tức dùng trường (gậy) mà đánh.
                1422. Ý Kiều nói: Đã quyết tình hoàn lương rồi, không muốn lại lần nữa mắc vào cảnh lầu xanh, như con nhện lại vướng víu vào lưới tơ thêm một lần nữa.
                1423. Đục, trong: ý nói dù đục hay trong, dù dở hay hay.
                1424. Yếu thơ: Yếu ớt, thơ dại.
                Lôi đình: Sấm sét, chỉ hình phạt.
                1426. Ba cây: Do chữ tam mộc là thứ hình cụ thể bằng gỗ thời xưa, tức già, nữu giới (cái gông cổ, cái kẹp tay và cái cùm chân). Ở đây, chữ ba cây, chỉ các hình phạt dồn vào cái thân yếu ớt của Kiều.
                Mẫu đơn: Cành hoa đẹp, ví nói Kiều.
                1437. Phủ đường: chỉ vào quan phủ.
                1440. Cầu thân: Cầu làm thân, nói việc định lấy nhau.
                1446. Giải vi: Cởi, gỡ vòng vây ra, đây ý nói gỡ cho ra lối thoát để giải quyết việc rắc rối này.
                1452. Mộc già: Cái gông. Đầu đề bài thơ là vịnh cái gông.
                1455. Giá đáng Thịnh Đường: ý nói tương đương với thơ Thịnh Đường.
                Thịnh Đường:
                là giai đoạn phồn thịnh nhất thơ của triều đại nhà Đường, Trung Quốc;
                1458. Châu Trần: ở châu Từ, về huyện Phong, xưa kia có họ Châu và họ Trần, đời đời làm thông gia với nhau, về sau người ta dùng hai chữ Châu Trần để nói sự lấy nhau đẹp đôi xứng lứa.
                1459. Rước dữ cưu hờn: Mua rước lấy điều dữ và cưu mang lấy sự hờn giận.
                1467. Cổ xuý: Cổ là những nhạc khí dùng để đánh như chiêng, trống. Xuý là những nhạc khí để thổi, như kèn sáo.
                1468. Trướng đào: Màn hoa đào, đây tức là buồng cưới.
                1471. Huệ lan: Hoa huệ, hoa lan, ngụ ý nói cảnh sum họp.
                #8
                  Thu Hiền 06.02.2008 17:21:24 (permalink)
                  Truyện Kiều
                   
                  Tác giả: Nguyễn Du
                  Diễn đọc: Thu Hiền
                   
                   
                  Đoạn Kiều khuyên Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư
                   



                  Mảng vui rượu sớm cờ trưa,
                  Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.
                  1475./ Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
                  E tình nàng mới bày tình riêng chung:
                  "Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
                  "Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
                  "Tin nhà ngày một vắng tin,
                  1480./ "Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
                  "Nghĩ ra thật cũng nên đường,
                  "Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
                  "Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
                  "Ở vào khuôn phép nói ra mối giường.
                  1485./ "E thay những dạ phi thường,
                  "Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
                  "Mà ta suốt một năm ròng,
                  "Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
                  "Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
                  1490./ "Hoặc là trong có làm sao chăng là?
                  "Xin chàng kíp liệu lại nhà,
                  "Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
                  "Đêm ngày như mực giấu quanh,
                  "Rày lần mai lữa giữ hình chưa thông."
                  1495./ Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
                  Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
                  Rạng ra gửi đến xuân đường,
                  Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
                  Tiễn đưa một chén quan hà,
                  1500./ Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình.
                  Sông Tần một dải xanh xanh,
                  Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.
                  Cầm tay dài ngắn thở than,
                  Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
                  1505./ Nàng rằng: "Non nước xa khơi,
                  "Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
                  "Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
                  "Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
                  "Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
                  1510./ "Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
                  "Dù khi sóng gió bất tình,
                  "Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
                  "Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
                  "Lại mang những việc tày trời đến sau.
                  1515./ "Thương nhau xin nhớ lời nhau,
                  "Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
                  "Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
                  "Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!"
                  Người lên ngựa kẻ chia bào,
                  1520./ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
                  Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
                  Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
                  Người về chiếc bóng năm canh,
                  Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
                  1525./ Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
                  Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.


                  Chú giải:

                  1473. Mảng: Tiếng cổ có ý nói mải mê về một việc gì mà quên đi. Ở đây là nghĩa này.
                  1474. Ý nói hết mùa xuân và bắt đầu sang mùa hạ
                  1478. Chim én (mùa xuân) chim nhạn (mùa thu), đổi thay nhau, ý nói từ mùa nọ sang mùa kia. Ở đây ý nói thời gian trôi thấm thoắt gần được một năm.
                  1480. Tào khang: bã rượu cám. Người vợ cùng ăn bã, ăn cám với nhau, tức là - người vợ cả lấy từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán muốn đem người chị gái mới góa là công chúa Hồ Dương gả cho Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa: Tào khang chi thê, bất hạ đường, nghĩa là người vợ lấy trong lúc ăn tấm, ăn cám, không thể để xuống dưới nhà, ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý vậy, liền thôi.
                  1485. Phi thường: khác với người thường, ý nói người sâu sắc, hiểm độc.
                  1496. Hồi trang: Về quê.
                  1498. Ninh gia: Về thăm nhà.
                  1499. Quan hà: Quan cửa ải, là sông. Chén quan hà: Chén rượu tiễn biệt.
                  1500. Xuân đình: Có thể hiểu là nơi xum họp, vui vẻ.
                  Cao đình: Cổ thi: Cao đình tương biệt xứ, chỗ biệt nhau ở Cao đình.
                  1501. Sông Tần: Sông ở đất Tần Xuyên, mạn tỉnh Cam Túc. Theo Tản Đà thì sông Tần là sông Tần Hoài, thuộc tỉnh Giang Tô, quê Thúc Sinh (Vô Tích).
                  1502. Dương quan: Tên một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, mạn tây bắc Trung Quốc.
                  1507. Yến thắm trôn kim: Chưa thực rõ nghĩa. Đại ý câu này nói: Kiều cho rằng việc hai người lấy nhau là việc không thể dấu kín được.
                  1508. Bưng mắt bắt chim: Bưng mắt lại thì không thể nào bắt được chim. Ý nói không thể nào che giấu nổi việc có vợ lẽ.
                  1509. Đèo bòng: Có nghĩa là vương vít tình duyên.
                  1510. Nói sòng: Tức nói thẳng, nói trắng ra, không quanh co giấu giếm.
                  1519. Bào: áo. Thường thường trong khi ly biệt người ta hay nắm lấy áo nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào tức là buông áo.
                  1520. Phong: Một loại cây ở Trung Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần giống lá cây thầu dầu ở bên ta, đến mùa thu thì sắc lá hoá đỏ.
                  Quan san: Quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở.
                  1521. Dặm hồng: Dặm đường đi giữa bụi hồng. Chinh là đi đường xa, an là yên ngựa. Người ta thường dùng hai chữ chinh an để chỉ việc đi đường xa.
                  #9
                    Thu Hiền 09.02.2008 16:16:15 (permalink)
                    Hết phần 3.
                     
                    Nghe tiếp Truyện Kiều:
                     
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 1
                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 2

                    Diễn đọc Truyện Kiều phần 4
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2008 16:26:46 bởi Thu Hiền >
                    #10
                      Chuyển nhanh đến:

                      Thống kê hiện tại

                      Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                      Kiểu:
                      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9