Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều bắt đầu kiếp sống lầu xanh
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200./ Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
"Nghề chơi cũng lắm công phu,
"Làng chơi ta phải biết cho đủ điều."
Nàng rằng: "Mưa gió dập dìu,
"Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!"
1205./ Mụ rằng: "Ai cũng như ai,
"Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
"Ở trong còn lắm điều hay,
"Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
"Này con thuộc lấy làm lòng,
1210./ "Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.
"Chơi cho liễu chán, hoa chê,
"Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
"Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
"Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
1215./ "Đều là nghề nghiệp trong nhà,
"Đủ ngần ấy nết, mới là người soi."
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220./ Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225./ Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230./ Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió, cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
1235./ Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
1240./ Những mình nào biết có xuân là gì!
Đòi phen gió tựa, hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245./ Đôi phen nét vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa,
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
Thờ ơ gió trúc, mưa mai,
1250./ Ngẩn ngơ trăm mối, dùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255./ Dặm nghìn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260./ Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
1265./ Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.
Lần lần thỏ bạc ác vàng,
1270./ Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn!
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Chú giải:
1028. Khép mở, riêng chung: Chỉ giọng nói tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình nỉ non, như riêng như chung, tức những mánh khoé quyến rũ.
1210. Vành ngoài bảy chữ: Bảy cách đối với khách ở bề ngoài để cho khách say mê.
Vành trong tám nghề: Tám cách đối đãi trong khi ăn nằm với khách, đối với mỗi hạng người, dùng một lối riêng để làm vừa lòng họ.
1213. Khoé hanh: Khoé mắt; mắt sắc như lá hạnh.
Khi khoé hạnh, khi nét ngài: ý nói khi mắt liếc, khi mày đưa.
1216. Người soi: Người sành sỏi, lịch lãm, biết ngón chơi.
1218. Nét nguyệt: Nét lông mày hình vành trăng.
Vẻ hồng: Vẻ mặt hồng.
1220. Khắt khe: ở đây như nói éo le, quái ác.
1221. Các, khuê: Do chữ khuê các.
1227. Trướng đào: Màn màu đỏ, phụ nữ thường dùng.
1231. Lá gió cành chim: Lá đưa gió, cành đón chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
1232. Tổng Ngọc: Người nước Sở, đời chiến quốc, đẹp trai, có những bài Cao đường phú, Thần nữ phú, nói về chuyện mây mưa của thần núi Vu Sơn...
Trường Khanh: (Chính là chữ Trưởng nhưng thường đọc là Trường hay Tràng): Tên tự của Tư Mã Tương Như, người Hán, yêu sắc đẹp của Trác Văn Quân, gảy đàn cầm gợi tình, làm cho nàng đang đêm bỏ nhà trốn theo mình.
Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi từ phú, là hai người tài tử, do đó, câu này ngụ ý khách đến chơi toàn những hạng phong lưu quý phái.
1239. Mưa Sở mây Tần: Chỉ sự ái ân trai gái.
1242. Gió tựa, hoa kề: ý nói những cảnh vui thú ở chốn thanh lâu.
1242. Tuyết ngậm: Bóng trăng tỏ soi khắp bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh: "gió, hoa, tuyết, trăng" (phong, hoa, tuyết nguyệt).
1246. Trong nguyệt: Trong bóng trăng.
Dưới hoa: Dưới dàn hoa. Hai câu 1245-1246 tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh, (cầm, kỳ, thi, hoa).
1249. Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân (như nghĩa mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ sự bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều thờ ơ với tất cả những chuyện mưa gió, trúc mai...
1250. Dùi mài: Như nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng có ý như là bị dập vùi.
1254. Bóng dâu: Bóng mặt trời xế trên ngọn dâu. Sách Hoài nam nữ nói: Mặt trời xế về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây. Người sau mượn chữ bóng dâu để ví tuổi già.
1255. Dặm nghìn: Tức nghìn dặm.
1257. Sân hòe: Sân có trồng cây hòe. Vương Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây hòe ở sân nhà và nói: "Con cháu ta sau này thế nào cũng làm đến chức tam công" (Thời xưa, ở phía trước sân chầu nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba cây hòe, nên Vương Đán làm đến tể tướng. Nhân đó, người ta thường nói sân hòe để chỉ những nhà có con cái hiển đạt).
Đôi chút thơ ngây: Chỉ Thúy Vân và Vương Quan.
1258. Trân cam: Những thức ăn quý báu, ngon ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi ngày một già, mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng đi rồi, chỉ còn hai em nhỏ dại, lấy ai là người phụng dưỡng trân cam thay mình.
1261. Chương Đài: theo sách Thái bình quảng ký: Hàn hoành, đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được, có gửi cho Liễu thị bài từ rằng: Chương Đài Liễu, Chương Đài Liễu, đã ưng nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, đã ưng phan chiết tha nhân thủ! (Cây liễu Chương Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay còn không? Cho dù cành dài vẫn buông rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người khác rồi!). Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi người tình nhân cũ (là Thúy Kiều).
1262. Cành xuân: Cành xanh đẹp.
1263. Tình sâu: chỉ tình chị em, Nghĩa dày: Chỉ nghĩa vợ chồng. Ý Kiều mong Thúy Vân lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho Kim Trọng.
1264. Hoa kia, cành này: "Hoa kia" chỉ Thúy Vân, "cành này" chỉ Kim Trọng.
1266. Hương quan: Quê hương
Giấc hương quan: Giấc mộng về quê hương.
1267. Song sa: cũng như song the. Xem chú thích 240.
1268. Hoàng hôn: Về chiều tối, khi mặt trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng hôn.
1269. Thỏ bạc, ác vàng: Như nói "thỏ lặn, ác tà" tức ngày và đêm lần lượt qua đi.