Truyện Kiều phần 4: Kiều và Hoạn Thư-Thu Hiền diễn đọc
Thu Hiền 09.02.2008 16:22:58 (permalink)
Truyện Kiều
 
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
 
 
Đoạn Chân dung Hoạn Thư
 



Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.
Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
"Ví bằng thú thật cùng ta,
"Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
"Dại chi chẳng giữ lấy nền,
"Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
"Lại còn bưng bít giấu quanh,
"Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
"Tính rằng cách mặt khuất lời,
"Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
"Lo gì việc ấy mà lo,
"Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
"Làm cho nhìn chẳng được nhau,
"Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
"Làm cho trông thấy nhãn tiền,
"Cho người thăm ván bán thuyền biết tay."
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
"Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
"Chồng tao nào phải như ai,
"Điều này hẳn miệng những người thị phi!"
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng.
Nào ai còn dám nói năng một lời!


Chú giải:

1528. Buồng trong: Chỉ vào người vợ. Câu này đại ý nói: Bây giờ hãy nói đến người vợ Thúc sinh làm chủ gia đình ở quê nhà.
1530. Lại bộ: Bộ lại, tức là quan trọng nhất trong sáu bộ của triều đình phong kiến.
1531. Duyên đằng: Cổ thi: Thời lai phong tống Đằng vương các (Thời vận đến, gió đưa lại gác Đằng Vương). Ý nói gặp cơ hội may mắn.
1534. Ràng buộc: Có nghĩa là thắt buộc, cho người khác vào khuôn, vào phép của mình.
1535. Vườn mới thêm hoa: ý nói Thúc sinh có thêm vợ lẽ.
1538. Đen bạc: Cùng nghĩa như bạc bẽo, phụ bạc.
Trăng hoa: Do chữ hoa nguyệt mà ra, ý chỉ sự chơi bời trai gái.
1541. Nền: Nền nếp của người trên, tư thế của mình là người bề trên.
1551. Nhãn tiền: Trước mắt.
1552. Tục ngữ: Chưa thăm ván đã bán thuyền. Ở đây chỉ Thúc sinh là người có mới nới cũ.
1560. Thị phi: Có nghĩa là việc phải thì nói thành trái, việc trái thì nói thành phải, thêu dệt phải trái làm cho người nghe mắc lầm.
#1
    Thu Hiền 13.02.2008 20:00:17 (permalink)
    Truyện Kiều
     
    Tác giả: Nguyễn Du
    Diễn đọc: Thu Hiền
     
     
    Đoạn Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư
     



    1565./ Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
    Ra vào một mực nói cười như không.
    Đêm ngày lòng những dặn lòng,
    Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên.
    Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
    1570./ Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
    Tẩy trần vui chén thong dong,
    Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
    Chàng về xem ý tứ nhà,
    Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
    1575./ Mấy phen cười nói tỉnh say,
    Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
    Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
    Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
    Những là e ấp dùng dằng,
    1580./ Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
    Có khi vui chuyện mua cười,
    Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
    Rằng: "Trong ngọc đá vàng thau,
    "Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
    1585./ "Khen cho những miệng dông dài,
    "Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
    "Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
    "Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!"
    Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
    1590./ Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
    Những là cười phấn cợt son,
    Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
    Thú quê thuần vược bén mùi,
    Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
    1595./ Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
    Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
    Tình riêng chưa dám rỉ răng,
    Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
    "Cách năm mây bạc xa xa,
    1600./ "Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn."
    Được lời như mở tấc son,
    Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
    Long lanh đáy nước in trời,
    Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
    1605./ Roi câu vừa gióng dặm trường,
    Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.
    Thưa nhà huyên hết mọi tình,
    Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
    Nghĩ rằng: "Ngứa ghẻ hờn ghen,
    1610./ "Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
    "Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,
    "Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
    "Lâm Truy đường bộ tháng chầy,
    "Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.
    1615./ "Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
    "Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
    "Làm cho cho mệt cho mê,
    "Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
    "Trước cho bõ ghét những người,
    1620./ "Sau cho để một trò cười về sau."
    Phu nhân khen chước rất mầu,
    Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
    Sửa sang buồm gió lèo mây,
    Khuyển Ưng lại chọn một bầy côn quang.
    1625./ Dặn dò hết các mọi đường,
    Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.


    Chú giải:

    1568. Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà ở bọn quyền quý, cũng dùng để chỉ chỗ ở của hạng phụ nữ giàu sang.
    1571. Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa, khi có người đi xa về thì đặt tiệc "tẩy trần", ý nói rửa sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
    1578. Khảo: Tra khảo.
    1580. Rút dây động rừng: Tục ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung chuyển đến cả một khu rừng. Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng gió trong gia đình.
    1583-1584: Đại ý nói ngọc hay đá, vàng hay thau đôi ta đều đã biết phân biệt rạch ròi, không thể nào lầm lẫn được.
    1594. Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ một lá ngô đồng rụng mà ai cũng biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì trời đã bắt đầu sang thu.
    1596. Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi núi non bờ cõi.
    1599. Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Địch Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa, thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói: "Nhà cha mẹ ta ở đây". Ở đây dùng để nói Thúc sinh có cha ở xa.
    1606. Xe hương: Do chữ Hương xa, chỉ xe của phụ nữ.
    Quy ninh là về hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ.
    1609. Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý nói hai điều khó chịu nhất.
    1614. Hải đạo: Đường biển.
    1621. Mầu: Mầu nhiệm. Mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất diệu, rất hay.
    1623. Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
    1624. Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài vật dùng để đi săn. Ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn.
    Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
    1626. Thuận phong: Thuận gió. Một lá: Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Truy, Lâm Truy nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là biển Tề.
    #2
      Thu Hiền 17.02.2008 10:54:57 (permalink)
      Vui lòng nghe tiếp Truyện Kiều ở đây
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2008 11:01:09 bởi Thu Hiền >
      #3
        vietlogo 24.03.2008 14:56:44 (permalink)
        Trời ạ, mò không ra ...

        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9