SỰ CHIÊM NGƯỠNG (Contemplation) Mới thoạt đầu thì những cách tham thiền mà chúng ta vừa mới nói ở trên có thể chỉ là những cách luyện tập có tính cách lý trí, chúng có hứng thú nhiều hay ít đối với người mới bắt đầu muốn học tham thiền, đó là tùy theo khuynh hướng và bản chất của học viên; những sự tập luyện như thế có thể khêu gợi tình cảm đến một mức độ nào. Nhưng khi y càng kiên tâm cố gắng và đi sâu hơn nữa vào những vẻ kỳ diệu và sự đẹp đẽ của những ý niệm cao cả mà y đang chiêm ngưỡng thì rồi lần lần y sẽ hoạch đắc được phần nào cái kinh nghiệm tinh thần cá nhân nó bắt được một cái cầu chạy ngang qua vực thẳm ngăn cách con người khoa học với con người Minh Triết, và rồi y sẽ cảm nhận được phần nào sự an lạc nội tâm, sự hứng khởi của tâm hồn mà Thánh ALPHONSE DE LIGUORI đã nói khi Ngài định nghĩa “Sự tham thiền giống như một lò lửa đầy ơn phước trong đó những linh hồn được bừng cháy vì Tình Thương yêu Thiêng Liêng của Thượng Ðế”. Sự tham thiền làm điều hòa những thể của chúng ta (chúng ta thường làm việc với các thể ấy, sự tham thiền cũng khiến cho ánh sáng của tinh thần bủa rải xuống để soi sáng những góc cạnh tối tăm của lương tri ta trong khi ta thức chớ không ngủ. Sự tham thiền khiến cho phàm ngã ta bớt xao động kể cả trí khôn, những mối xúc động cùng sự hoạt động không ngừng của khối óc và khi làm cho các thể thấp rung động theo cùng một điệu nhịp, thì sự tham thiền cũng khiến cho Chơn nhơn ảnh hưởng đến Phàm nhơn. Khi học viên càng đi xa mãi như thế để càng có nhiều kinh nghiệm tinh thần, thì y sẽ thấy mở rộng ra trước mắt nhiều trạng thái tâm linh khác nữa.
Y giữ cho nguyện vọng của y được gắn chặt với lý tưởng y, rồi y sẽ lần lần nhận thức được cái ảnh hưởng của lý tưởng này bủa rải lên y; và nếu y hết sức cố gắng để đi lên tới Ðấng mà y hằng mộ mến thì cánh cửa Thiên Ðàng sẽ hé mở trong chốc lát : y sẽ được hợp nhất với lý tưởng của y và khi thực hiện được lý tưởng này rồi thì sự chói chang huy hoàng sẽ chảy tràn trề vào y. Ðó là những giai đoạn của sự Chiêm Ngưỡng và sự hợp nhất. Chiêm ngưỡng là sự cố gắng để vươn lên cao, sau khi đã vượt khỏi những hình ảnh cụ thể của cái trí; còn sự hợp nhất là sự thực hiện được cái trạng thái xuất thần khi những giới hạn của Phàm ngã và cả cho đến cái bóng mờ của sự chia rẽ đều bị tiêu tan đi trong sự hợp nhất hoàn toàn giữa mục tiêu và kẻ đi tìm kiếm. Không sao có thể miêu tả một các tỉ mỉ hơn những kinh nghiệm như thế, vì chúng vượt khỏi mọi khả năng của ngôn ngữ. Những từ ngữ thì có thể được sử dụng như những tấm bảng dùng để chỉ đường, để chỉ dạy về đường dẫn tới những cảnh huy hoàng tuyệt diệu và để chỉ dẫn phương hướng cho kẻ hành hương biết lối mà tiến bước thôi
II ÐI TÌM CHƠN SƯ Những đường lối tham thiền vừa phác họa ở trên sẽ là cái nền tảng chắc chắn cho người mới bắt đầu tu học; nếu được thực hành một cách siêng năng, đứng đắn thì những cách tham thiền này nhất định sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp. Dĩ nhiên là cái giá trị của những kết quả này là tùy thuộc vào người hành đạo. Nhưng người ta biết lợi dụng một vài sự dễ dàng dành riêng cho các hội viên Hội Thông Thiên Học thì người ta có thể thu ngắn lại các thời gian nhập đạo, tức là thời gian bước vào đời sống nội tâm với những kinh nghiệm tinh thần.
Trong nhóm những hội viên này, người hội viên đứng đắn chẳng bao lâu sẽ nhận thấy cái chìa khóa chánh đại của cả tòa lâu đài tinh thần của chúng ta nằm ngay trong cái ý niệm về Chơn sư; chính thần lực của các Ngài là nguồn sống của Hội Thông Thiên Học. Người ta nói rằng hội được thành lập bởi các vị Chơn tiên trong Quần Thiên Hội để các Ngài sử dụng một cách đặc biệt trong thế gian. Nếu điều này đúng thực thì các hội viên Hội Thông Thiên Học gặp được những cơ hội tốt đẹp, vô cùng sáng lạn huy hoàng; vậy người mới nhập hội hãy tự mình chứng minh lấy cái sự thực quan trọng này, cũng như các hội viên khác cũng đã chứng minh được như thế từ trước.
Nhắc lại lời của một vị Chơn Sư, bà BESANT nói khi một người trở thành hội viên Hội Thông Thiên Học, thì y được nối liền với vị Chơn Sư bằng một sợi dây mảnh mai. Sợi dây là con đường liên lạc với Chơn Sư, được làm bằng chất từ khí; do sự cố gắng anh dũng, lòng tận tâm và công việc phụng sự vô tư lợi, học viên có thể làm cho sợi dây đó mạnh mẽ và nở rộng ra cho tới khi nó trở thành một vệt sáng linh động. Các Chơn Sư thâu nhận làm đệ tử người nào có những đức tính đặc biệt cần thiết. Người học viên đứng đắn chẳng bao giờ nên nản lòng vì thấy ít người có cái đặc ân quí hóa ấy, vì Chơn Sư chú ý đến rất nhiều người, tuy họ còn lâu mới tiến đến cấp bậc đệ tử được; thỉnh thoảng Ngài vẫn giúp họ một cách tổng quát hay là một cách chú ý đặc biệt. Quả thật là người ta nói rằng thần lực của Chơn Sư hoạt động một cách liên tiếp ở phía sau Hội Thông Thiên Học, cho nên các hội viên muốn thu nhận lấy thần lực này thì họ có thể trở thành những con kênh để thần lực chảy xuyên qua, khiến họ có thể nhân danh các Ngài mà làm được những công việc vĩ đại hơn là nếu họ làm việc tự sức họ.
Người học viên đứng đắn đã hiểu được tất cả những điều này thì y phác họa chương trình tập luyện nơi nội tâm y, chắc chắn y sẽ coi sự đi tới Chơn Sư như là một lý tưởng tối cao, có thể đạt được nhờ lòng ước nguyện thiêng liêng của y. Y sẽ đến Chơn Sư bằng cách nào ? Trước hết, y phải phụng sự một cách chân thành và siêng năng trong đời sống riêng tư hằng ngày cũng như trong Hội Thông Thiên Học, một tổ chức của Chơn Sư ở cõi trần. Ðó là điều dĩ nhiên; lát nữa chúng ta sẽ trở về với vấn đề này; nhưng rồi học viên phải tiến bước như thế nào ?
Các bước kế tiếp của y thì tùy thuộc vào bản tính y. Y có thể tưởng tượng ra một con người lý tưởng, thu gồm nơi mình những tính tốt và những nét đặc biệt về đức hạnh mà y ưa thích nhất; y cố gắng nhân danh con người lý tưởng này mà hành động; trong khi tham thiền, y cố gắng tiến lên con người lý tưởng ấy. Vài ba người còn lựa chọn một phương pháp cụ thể[6] hơn : họ cố gắng tiến đến các Ðấng Cao Cả bằng cách giao tiếp với những học trò và những vị đệ tử đã được điểm đạo của các Ngài ở cõi trần.
Thí dụ chúng ta hãy chọn những người đã được toàn thể nhìn nhận là những vị lãnh đạo phong trào Thông Thiên Học. Nhiều người trong số chúng ta đều coi các vị lãnh đạo này là các vị đại diện của các Chơn Sư, các Ngài đang đứng ở phía sau Hội; các vị đại diện này là những con kênh xuyên qua đó cái ảnh hưởng mãnh liệt của các Ngài được ban rải xuống Hội. Thật ra thì một số người không ưa thích cái thái độ “Tôn thờ anh hùng cá nhân” , không thích mến mộ, thờ phụng những con người; than ôi, nguyên do của sự không ưa thích này là những sự thất vọng đã trải qua trong dĩ vãng, là những mối hy vọng đã bị cắt đứt; còn ở nhiều trường hợp khác thì sự không ưa thích tôn thờ cá nhân này là một khuynh hướng cố hữu tự nhiên của tính người. Quả thật là như vậy đó, con người thường có nhiều điều khuyết điểm : dĩ nhiên là học viên không nên bắt chước những khuyết điểm này, mà cũng chẳng nên chú ý quá đến chúng mà trở nên bối rối, vì cái điều mà học viên tôn thờ ở cõi hữu hình này, đó chẳng phải là cái lý tưởng thuần túy thôi hay sao ? “ Há các
ngươi lại chẳng biết rằng thân thể các ngươi là đền thờ của Ðức Thánh Linh ngài đang ngự nơi các ngươi và chính Thượng Ðế đã ban phát Ðức Thánh Linh đó cho các ngươi hay sao ?” (Thơ gởi cho dân cư thành CORINTHE, VI,19).
Những nét đặc biệt mà chúng ta tán thưởng ở nơi một người thì đó chính là sự biểu lộ của Thượng Ðế chiếu diệu xuyên qua y, và sự thán phục của chúng ta có nghĩa là nội tâm ta đã đáp ứng, đã trả lời sự kêu gọi của cái lý tưởng mà chúng ta thấy đang tỏ lộ nơi kẻ khác. Vậy chúng ta có thể không cần biết đến những tật xấu của đồng loại; chúng ta có thể biết ơn mỗi khi nhận thấy được ở nơi họ những tia chớp nhoáng của Aùnh Sáng Thiêng Liêng; nhưng chúng ta không phải đi quá mức, mà cũng đừng đặt để họ lên bệ thờ.
Phương pháp đi tìm kiếm Chơn Sư có một điều lợi ích là nó mang lại cho học viên một lý tưởng mà y có thể luôn luôn chiêm ngưỡng được, một lý tưởng rõ rệt mà y có thể rờ mó được. Nhiều người giống như thi sĩ Lamartine, họ kêu lớn lên rằng họ cần phải có một vị Thượng Ðế gần cận, có cá tính, một Thượng Ðế với những cánh tay có thể ôm lấy nhân loại đau thương, một vị Thượng Ðế mà những kẻ tội lỗi đang hối hận có thể ôm bàn chân Ngài mà hôn được.
Theo một đường lối khác, cũng cái tư tưởng nói trên đã được thường diễn tả trong câu này mà mọi người đều biết :” Kẻ nào không thương yêu người anh em
của nó mà nó thường trông thấy, thì làm sao nó có thể thương yêu Ðức Thượng Ðế mà nó chưa hề trông thấy bao giờ ?” (Phúc âm theo Thánh Jean, IV, 20). Mỗi người đệ tử hoặc người chí nguyện muốn được điểm đạo, đã được Chơn Sư thâu nhận đàng hoàng, và cao hơn nữa, mỗi kẻ thắng trận đã bước qua cánh cửa điểm đạo thì đều là một con kênh để cho ảnh hưởng của Chơn Sư chảy xuyên qua; người ta có thể đi đến Chơn Sư nhờ sự trung gian của người đệ tử đó. Chơn Sư đã giao phó cho y một phần trách nhiệm rõ rệt, và người đệ tử giống như một tiền đồn của công việc của Chơn Sư tại thế gian. Vì vậy nên ai giúp đỡ người đệ tử thì chính là giúp đỡ Chơn Sư phần nào, dù rằng đó chỉ là sự giúp đỡ về những điều thật bé nhỏ, vụn vặt, thí dụ làm cho công việc của người đệ tử được dễ dàng, chăm nom về sự tiện nghi vật chất của y, không kể đến những sự việc to tát hơn nữa.
Người học viên có tấm lòng quả quyết nhất định xoay mặt về phía cái mục tiêu cần phải đạt được, thì sẽ hiểu rõ ràng sự quan hệ của tất cả các việc này. Thí dụ y có nhiều cách tiếp xúc với Bà Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Những cuốn sách hay, những bài báo của bà viết ra, những bài diễn thuyết của bà trong phạm vi lý trí. Bức hình của bà sẽ giúp học viên khi tham thiền nghĩ đến bà và đi đến gần bà; trong suốt ngày, vào những lúc nhất định, y sẽ định trí và nghĩ đến hình ảnh bà, gởi cho bà những tư tưởng mến thương, trung thành, mến mộ, biết ơn và dũng mãnh. Tuy nhiên, y phải hết sức cẩn thận về hai điểm này : trước hết là coi chừng trong tâm trí y phải trong sạch, tư tưởng phải cao thượng, khi y nghĩ đến bà; khối óc của y cũng không được chứa đựng những tư tưởng thấp hèn và phù phiếm : vì vậy cho nên trước tiên phải dành ra vài ba phút để rửa lòng cho trong sạch và tạo ra sự điều hòa.
Ðiểm thứ hai là y phải loại bỏ mọi sự chờ đợi để được giúp đỡ, được hưởng lợi lộc hay đặc ân của bà trao lại cho, vì như thế là y đã ích kỷ. Khi tham thiền phải nhớ luôn luôn trong trí rằng nếu y muốn tiến lại gần lý tưởng để chiếm đoạt một cách tư riêng, hay để tự mình được thỏa mãn sung sướng - nếu y vô tâm mà có một thái độ muốn trở nên hùng mạnh hơn hoặc muốn có một kết quả ích kỷ - thì sự cố gắng sẽ không đem lại sự thành công trong ý muốn : điều cần thiết phải là một hành động có nguyện vọng trong sạch và vị tha, một sự hứng khởi để bay vọt lên đến Ðấng mà y thờ phụng, không có một tư tưởng nào khác với cái tư tưởng muốn tự hiến mình. Chỉ khi nào tư tưởng của học viên được thật sạch sẽ, không hề bị nhơ bẩn vì lòng tư kỷ thì y mới có thể tiến lên một mức độ khá cao để mở tâm trí đón nhận cái ảnh hưởng cao siêu chảy tràn vào.
Sự cố gắng theo đường lối này có thể mang lại một thành công rất lớn lao; vì định luật thì bất di dịch, và khi lý tưởng ở sát gần bên ta thì lòng hứng thú lại nhiệt liệt và cái kết quả cũng theo đó mà tăng tiến.
Nếu học viên giữ cho ý muốn của mình được hết sức trong sạch và nếu trong trí y, tư tưởng của y được luôn luôn hướng về phía Chơn Sư, thì một ngày kia, y sẽ nhận thấy rằng cái ảnh hưởng mà y thường tiếp xúc, dường như từ nơi đâu mà chảy xuyên qua Ðấng hiện thân của lý tưởng y, chớ không phải là ảnh hưởng này phát sinh tự ngay nơi Ðấng cao cả đó, như thế y sẽ lần lần càng ngày càng tiến lên cao để nhận thức ngay được sự hiện diện của Chơn Sư.
Như vậy, lúc thoạt đầu, đối với y thì các Chơn Sư chỉ là một ý niệm của cái trí, một kết quả tự nhiên của lý luận, trong cái hệ thống triết lý của nó nhưng rồi lần lần khi mà các thể thanh bai (vía, trí, . . .) của y có thể càng ngày càng đáp ứng được với những ảnh hưởng cao siêu, thì các vị Chơn Sư sẽ trở thành một sự thực linh động trong đời sống của y, một sự thực mà trái tim y và cả khối óc y cũng đều nhìn nhận và cảm thấy.