Tiểu thuyết " Một vụ mất tích bí ẩn " ( 1 ) của Khúc Thụy Du
nguyen hoang 26.04.2008 14:38:34 (permalink)
Lời Tác Giả

Tiểu thuyết “ Vụ mất tích bí ẩn “ nói về số phận người lính may mắn còn sống  sót vào những ngày cuối cùng của chiến tranh, tuy nhiên vết thương ở đầu khiến anh hoàn toàn bị mất trí nhớ. Tiếp theo là những cuộc tìm kiếm vô vọng và cả lẩn trốn bản thân. Anh phải mang một cái tên hoàn toàn khác, sống một cuộc sống của người khác và hoàn toàn đánh mất bản thân. Và sau khi đã tìm được mình thì Hai Bình ( tên nhân vật ) lại rơi vào tuyệt vọng. Tiếp theo  là sự mất tích đầy bí ẩn của nhân vật.  Đấy là bi kịch của những người cầm súng trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tiểu thuyết được viết theo kiểu điều tra phá án. Nhân vật chỉ xuất hiện qua lời khai của các nhân chứng. Mục đích của tác giả muốn nói lên sự không tồn tại của nhân vật. Tác giả để một kết thúc mở  bên nào để bạn đọc tự suy nghĩ theo quan điểm riêng của mình. Các bạn không cần thiết phải xác định Hai Bình là người thuộc bên nào, “ Ta “ hay “ Địch “ , bởi trong cuộc chiến Việt Nam, số phận những người lính đều như nhau cả mà thôi.
Chúc các bạn tìm được nhiều điều lý thú với “ Vụ mất tích bí ẩn “.
Rất mong ý kiến đóng góp của độc giả xa gần.
 
Email: khucthuydu@vnn.vn
Phone: 08. 8598507
Vina: 0918423390
 
Khúc Thụy Du
 
 
Tiểu thuyết của Khúc Thụy Du:
 
 
 
 
VỤ MẤT TÍCH BÍ ẨN
 
 
4849
 
Tám giờ sáng, tại phòng cảnh sát hình sự  công an tỉnh X., đại úy Lê Trực đang đọc lại hồ sơ vụ án anh đang thụ lý. Đây là vụ án giết người cướp tài sản công dân gây chấn động dư luận trong tỉnh trong thời gian qua. Hung thủ đã dùng hung khí tra tấn nạn nhân đến chết để cướp tài sản. Số tài sản bị cướp tuy không lớn chỉ có đôi hoa tai và chiếc nhẫn vàng 18 kara, tuy nhiên tính chất vụ án hết sức nghiêm trọng, gây hoang mang, bất ổn trong cộng đồng dân cư. Giám đốc công an tỉnh ra chỉ thị bằng mọi giá phải tóm cổ kẻ thủ ác trong thời gian sớm nhất. Tổ  chuyên án được thành lập ngay sau đó. Anh được phân công làm tổ trưởng. Sau một thời gian  rà soát,  sàng lọc , Lê Trực lần ra chân tướng kẻ sát nhân. Hắn tên Lê Thành Nhân  ( thật mỉa mai thành nhân có nghĩa là nên người, thành người nhưng hắn lại làm điều phi nhân ). Lê Trực đã tóm gọn tên giết người  khi hắn đang nuôi vợ trong bệnh viện phụ sản. Trước những chứng cứ không thể chối cãi, Lê Thành Nhân phải  cúi đầu thú nhận tội ác của mình. Hắn khai,  vợ hắn mang thai đứa con thứ ba. Khám thai, bác sỹ bảo nhau quấn vào thai và cần phải mổ ngay lập tức. Hắn chỉ là anh thợ điện quèn, lương ba cọc ba đồng lại phải nuôi mấy miệng ăn chẳng biết đào đâu ra tiền cho vợ nhập viện. Đói ăn vụng, túng làm liều, thế là hắn nghiễm nhiên trở thành kẻ cướp. Thế đấy, vì muốn có tiền để chào đón một mầm sống mới, hắn nỡ nhẫn tâm cướp đoạt sự sống của người khác. Vụ án kết thúc nhưng nỗi ám ảnh cứ đeo đẳng theo anh mãi. Hồ sơ vụ án đã hoàn tất , anh đọc lại lần cuối trước khi  chuyển sang Viện Kiểm sát truy tố đối tượng theo quy định trình tự tố tụng của pháp luật.
Đọc xong, Lê Trực cho hồ sơ kẹp vào tấm bìa cứng. Anh tự ban thưởng cho mình cốc trà đặc. Lê Trực nghiện trà rất nặng, mỗi ngày phải uống vài cữ trà đầu óc mới tỉnh táo để làm việc. Vừa uống trà, anh vừa lấy thuốc lá ra hút và ngước mắt nhìn đồng hồ. Lúc này là chín giờ, ba mươi phút. Mười giờ anh có cuộc họp với lãnh đạo phòng. Hút xong điếu thuốc. Lê Trực chuẩn bị đi họp  thì đồng chí trung sỹ cảnh vệ vào báo có người cần gặp.
Lê Trực nói:
- Ai vậy, đồng chí?
Đồng chí trung sỹ cảnh vệ lắc đầu, nói:
- Tôi không biết. Một người phụ nữ. Bà ta bảo cần gặp sỹ quan  đội cảnh sát hình sự. Trông bà ta có vẻ căng thẳng. Có lẽ bà ấy đến để báo án.
Cuộc họp như thế là phải hoãn lại rồi, Lê Trực nghĩ thầm rồi quyết định:
- Đồng chí hãy mời bà ấy vào phòng khách. Tôi sẽ ra ngay.
Lê Trực uống cạn cốc trà, sửa sang lại tư thế và mang tập hồ sơ bước sang phòng tiếp dân. Vừa thấy anh, người đàn bà lập tức đứng dậy, cặp môi dày khẽ động đậy:
- Chào anh!
Lê Trực nhìn người phụ nữ. Bà ta khoảng sáu mươi tuổi dáng vẻ đẫy đà. Bên má phải có một vết nám bé bằng đồng xu:
- Chào bà! Mời bà ngồi.
Người đàn bà ngồi thu người trên ghế, mắt nhìn dáo dác. Bàn tay phải miết lên cạnh bàn. Cử chỉ tỏ vẻ bồn chồn lo lắng. Lê Trực rót trà ra cốc rồi đẩy nhẹ về phía người đàn bà:
- Mời bà dùng nước.
- Cám ơn anh, trước khi đến đây tôi đã uống rồi.
Miệng nói thế, nhưng bà ta vẫn  cầm lấy tách trà  nhấp một ngụm nhỏ rồi ngước mắt nhìn Lê Trực:
- Anh là chỉ huy cao nhất ở đây?
Lê Trực lắc đầu, nói:
- Không, tôi là sỹ quan trực ban hình sự. Có chuyện gì bà có thể trao đổi thẳng thắn với tôi.
Đôi mắt người đàn bà lộ vẻ thất vọng. Bà ta khẽ làu bàu trong miệng rồi liên tục uống nước một cách máy móc. Lê Trực biểu lộ cử chỉ tỏ ý lắng nghe. Người đàn bà đặt cốc xuống chiếc đĩa nhỏ. Đôi mắt một mí sưng húp khẽ chớp chớp mấy cái:
- Tôi tên Hà, thứ năm. Mọi người gọi tôi là Năm Hà. Hiện tôi đang sống với vợ chồng người con trai út ở trung tâm thị xã. Hôm nay tôi  đến đây để báo về một vụ mất tích bí ẩn.
Lê Trực thốt lên ngạc nhiên:
- Một vụ mất tích ư? Bà có nhầm không? Và dựa vào cơ sở nào khiến bà có thể kết luận như thế? Bà biết rồi đấy, mất tích là một việc không đơn giản chút nào nếu không nói là rất nghiêm trọng.
Bà Năm Hà khẽ hắng giọng mấy cái rồi tiếp tục câu chuyện:
- Vâng, tôi hiểu. Thật tình, tôi cũng không chắc chắn lắm. Trước khi đến đây tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi biết các anh rất bận rộn và không muốn làm phiền các anh. Nhưng việc này có nhiều điều  lạ, tôi thấy cần phải báo cho cơ quan công an. Tôi thật sự không thấy yên tâm nếu cứ im lặng. Dù sao chuyện này cũng liên quan đến số phận một con người.
Lê Trực nói:
- Cẩn tắc vô ái náy. Bà đã làm  một việc đúng. – Đoạn anh nhìn người đàn bà bằng ánh  mắt khích lệ:- Bà nói đi, tôi nghe đây.
Bà Năm Hà gật đầu, nói:
- Tôi đến đây báo về một vụ mất tích kỳ lạ của một người đàn ông tên Hai Bình.
Lê Trực nói:
- Hai Bình có mối quan hệ nào với bà? Anh ta có phải là người thân của bà không?
Bà Năm Hà lắc đầu:
- Không, tôi với Hai Bình chẳng có dây mơ rễ má gì cả. Chúng tôi là người dưng.
Lê Trực tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Như thế, làm sao bà có thể kết luận anh ta mất tích?
Bà Năm Hà nói:
- Chuyện là như thế này; tôi có căn nhà cho thuê. Người thuê nhà của tôi tên Bình, mọi người thường gọi là Hai Bình. Đấy là người đàn ông cao và gầy,  có gương mặt khắc khổ và đôi mắt buồn, rất buồn. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy đôi mắt nào buồn thảm đến thế. Dường như tất cả tro tàn khắp thế gian đều dồn vào đôi mắt ấy..
Nói đến đây bà Năm Hà đột nhiên im lặng, đưa mắt quan sát những biến đổi trên gương mặt người đối diện.
- À, thì ra là như thế. Hai Bình khoảng bao nhiêu tuổi?
Bà Năm Hà lắc đầu, nói:
- Thật sự rất khó đoán chính xác Hai Bình bao nhiêu tuổi. Có người bảo ngoài ba mươi, người khác lại cho rằng ít nhất phải ngoài bốn mươi. Tôi đoán Hai Bình chừng bốn mươi tuổi. Có lẽ thế..
Lê Trực hút thuốc:
- Anh ta ở một mình hay sống với ai khác?
Bà Năm Hà khẽ ho ran mấy tiếng:
- Anh ấy sống một mình.
- Hai Bình ở trọ cùng gia đình bà?
Bà Năm Hà lắc đầu:
- Không, ngôi nhà ấy tôi cho thuê đứt nguyên căn. Thật sự nó rất bé, chỉ hơn mười mét vuông, chính xác là mười hai mét vuông cùng căn gác lửng. Với diện tích chừng ấy, một người ở thì rộng nhưng nếu thêm người nữa thì sẽ rất chật chội. Thật ra, trước kia nó chỉ là chuồng bò nhà tôi. Sau này không nuôi bò nữa, tôi cất lên và làm chỗ ở.
Bà Năm Hà đột nhiên ngừng nói, đưa tay che miệng ngáp vặt mấy cái:
- Đứa cháu nội bị bệnh quấy cả đêm, tôi không sao ngủ được – Đoạn bà ta tiếp tục câu chuyện còn dang dở:- Ở được vài năm tôi dọn về sống chung với vợ chồng người con trai út. Từ đó ngôi nhà bỏ trống, tôi bèn cho thuê để kiếm thêm đồng vô đồng ra.
Lê Trực rít vài hơi thuốc lá rồi dụi mẫu thuốc lá vào chiếc gạt tàn:
- Bà có thường ghé thăm ngôi nhà cho thuê của mình không?
Bà Năm Hà lắc đầu, nói:
- Không, tôi rất bận rộn, cả ngày đánh vật với mấy đứa cháu nội không kịp thở hơi tai nữa là, rồi chuyện cơm nước giặt giũ nữa chứ. Tôi chỉ ghé qua đấy vào những dịp cuối tháng để lấy tiền nhà. Ngày trước, tôi mong chóng già để được nghỉ ngơi, không ngờ công việc còn nhiều hơn lúc trước. Xem ra, phải đợi đến lúc chết mới gọi là rãnh nợ..
Đoạn bà ca cẩm hồi lâu về cô con dâu của bà vừa vụng lại vừa kém cư xử với mẹ chồng. Thấy bà ta bắt đầu lan man, Lê Trực bèn  ngắt lời:
- Hai Bình là người như thế nào? Anh ta làm  những công việc gì?
Bà Năm Hà nói:
- Luôn tồn tại cái tốt và xấu trong mỗi con người, Hai Bình cũng vậy. Anh ta có tật xấu là sống quá khép kín như nhà tu khổ hạnh, thỉnh thoảng lại nỗi giận vì những chuyện không đâu. Anh ta từng nổi cáu với tôi đấy. Tôi đến thu tiền nhà, anh ta không đưa thì thôi lại còn to tiếng với tôi. Nhưng sao đó, Hai Bình biết mình sai và đến tận nhà tôi xin lỗi. Tôi cũng thông cảm và bỏ qua.  Người ta biết lỗi rồi mình cũng chẳng chấp nhặt làm gì. Tính tôi cũng dễ dãi. Dầu sao cũng thông cảm cho anh ta, từng tuổi ấy mà chưa có gia đình thì không tâm thần hoặc nghễnh ngãng mới là chuyện lạ.
Bà Năm Hà nhấp một ngụm nước thấm giọng rồi tiếp tục câu chuyện:
- Ngoài những tật xấu vừa kể trên, Hai Bình không có điều gì đáng trách cả, cũng cần nói thêm anh ta ăn ở hơi tùy tiện, có phần cẩu thả. Quần áo ngâm trong chậu có khi cả tuần mới giặt bốc mùi chịu không nổi. Nhà cửa hầu như quét dọn, lau chùi gì cả để rác rến nhập đến mắt cá chân! Tôi thỉnh thoảng phải xoắn tay áo thu dọn hộ anh ta. Tôi bảo, này, Hai Bình, anh sống như thế nào tùy ý nhưng đừng biến nhà tôi thành thùng rác công cộng nhé.
 Lê Trực nói:
- Rồi anh ta có khắc phục tính cẩu thả không?
Bà Năm Hà tỏ vẻ ngán ngẩm:
- Anh ta mà chịu sửa mới là chuyện lạ. Tôi cũng đành thông cảm, đàn ông độc thân ai mà chẳng vậy. Còn nói về chuyện tiền nong, anh ta luôn tỏ ra sòng phẳng. Mỗi tháng đóng tiền nhà đầy đủ không thiếu một xu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, bị chậm mất vài ngày. Nguyên do là chủ trả lương chậm hoặc có khi anh ta vung tay quá trán. Hai Bình là thợ cho lò bánh mỳ Ba Phát gần chỗ trọ.
Lê Trực nói:
- Hai Bình thuê nhà bà đã được bao lâu rồi?
Bà Năm Hà nói:
- Lâu rồi, khoảng năm bảy năm gì đó. Tôi không nhớ chính xác. Già cả rồi đầu óc lú lẫn.
 
*
 
Một buổi chiều chạng vạng, trong lúc bà Năm Hà đang chuẩn bị bữa tối, thì có tiếng gọi cửa. Tiếng gõ nhẹ và đều. Lúc đầu bà cứ đinh ninh bà chi hội trưởng chi hội phụ nữ mời đi họp như mọi khi nhưng khi mở cửa ra mới phát hiện ra là người đàn ông lạ.
- Xin lỗi, chú kiếm ai?
Khách khoác trên người bộ kaki xanh bạc màu, đầu dội chiếc nón vải cũng đã xỉn màu. Chân mang đôi dép nhựa sứt quai để lộ mấy ngón chân thô  và cáu bẩn.
Khách tỏ vẻ lúng túng trước cái nhìn soi mói của chủ nhà:
- Tôi muốn tìm bà Năm Hà.
- Năm Hà là tôi đây. Chú tìm tôi có việc gì?
Khách nắm tay che miệng ho húng hắng mấy cái. Trên mặt xanh tái lộ vẻ mệt mỏi của người mắc chứng sốt rét kinh niên:
- Xin tự giới thiệu, tôi tên Bình, mọi người gọi tôi là Hai Bình.
Bà Năm Hà mời khách vào nhà. Hai Bình đặt chiếc túi trĩu nặng màu xanh lá mạ xuống nền gạch. Trong khi chủ nhà lấy nước mời khách, Hai Bình tháo chiếc nón phe phẩy quạt. Mồ hôi chảy ròng ròng trên lưng áo bạc thếch.
- Thời tiết thay đổi thất thường. Mấy bữa nay nóng quá. Mời chú dùng nước.
Hai Bình chẳng khách sáo cầm cốc nước uống sạch. Bà Năm Hà rót thêm cốc nữa.
- Cám ơn bà – Hai Bình đưa tay chùi mép:- Tôi được biết, bà có căn nhà muốn cho thuê?
Bà Năm Hà khẽ gật đầu xác nhận:
-  Đúng thế, tuy nhiên đã có người dặn trước rồi. Tháng tới người ta sẽ dọn đến ở. Người thuê là một cán bộ nhà nước sống độc thân.
Hai Bình tỏ vẻ tiếc rẻ:
- Tiếc thật, tôi rất cần một chỗ trọ. Bà có thể thương lượng với người ta được không? Mong bà giúp cho. Tôi thích ngôi nhà ấy.
Bà Năm Hà nhìn khách lắc đầu, nói:
- Tôi không thể giúp gì được cho chú. Làm ăn phải giữ chữ tín, nói hai lời đâu có được. Chú chịu khó tìm chỗ khác vậy.
Hai Bình vò nát chiếc nón trong tay:
- Trước khi đến đây tôi đã đi nhiều nơi. Có những chỗ vừa ý thì giá cao quá, tôi kham không nổi, còn những nơi hợp với túi tiền thì xộc xệch quá. Đấy không thể gọi là ngôi nhà. Thật sự là như thế. Mong bà giúp tôi.
Bà Năm Hà lắc đầu, nói:
- Không được đâu. Tôi đã nhận tiền cọc của người ta rồi. Hủy hợp đồng là phải bồi thường gấp đôi đấy. Vả lại tôi không thể đột nhiên thay đổi quyết định. Tôi còn lòng tự trọng của mình, người lớn mà không giữ đúng lời hứa thì bọn trẻ đâu xem mình ra gì nữa. Tôi chẳng giúp gì được cho chú đâu. Tôi có biết một vài địa chỉ cho thuê, nếu chú quan tâm tôi sẽ giới thiệu giúp.
Khách lắc đầu chán nản:
- Tôi cũng biết vài chỗ nhưng đều không vừa ý. Tôi thích ngôi nhà của bà.
Cuộc trao đổi không có kết quả. Trước khi ra về Hai Bình còn vớt vát:
- Hy vọng bà sẽ thay đổi quyết định. Bà sẽ cảm thấy yên tâm khi giao tài sản cho tôi. Tôi hứa sẽ thanh toán tiền nhà đầy đủ và đúng hẹn. Chào bà.
Bà Năm Hà nói:
- Tuy mới gặp lần đầu nhưng tôi cũng có ít nhiều cảm tình với chú. Trông chú có vẻ đứng đắn, nói năng từ tốn.  Tôi cũng muốn cho chú thuê nhưng chuyện này là không thể. Vài hôm nữa nếu chưa tìm được chỗ trọ thì chú thử đến đây. Nếu người ta không thuê nữa thì tôi sẽ cho chú thuê. Tuy nhiên chú cũng không nên quá hy vọng.
Đúng một tuần sau, Hai Bình lại đến. Lần này trông anh có vẻ trẻ hơn với bộ râu càm nhẵn nhụi và mái tóc cắt ngắn. Bà Năm Hà lấy nước mời khách và vui vẻ nói:
- May cho chú đấy. Người đặt cọc thuê nhà đã đổi ý không thuê nữa. Anh ta phải lên thành phố dự lớp bồi dưỡng cán bộ mất vài tháng.  Đáng lẽ, không thuê nữa anh ta phải mất tiền cọc nhưng tôi đã vui vẻ trả lại. Cán bộ công chức nhà nước lương đâu có được bao nhiêu, mình cứ thẳng tay thì tội cho người ta. Mấy hôm rồi tôi cứ trông anh mãi.
- Thế thì may quá! – Hai Bình nói như reo:- Bà đồng ý cho tôi thuê lại chứ?
- Cho ai thuê cũng vậy thôi. Trông anh cũng ra vẻ là người đàng hoàng, tôi cũng phần nào yên tâm. Tiền nhà đưa trước ba tháng, tôi sẽ thu vào mỗi cuối tháng. Tiền điện và nước bên thuê chịu trách nhiệm thanh toán, xài bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Thời hạn hợp đồng kéo dài trong một năm. Sau đó sẽ tiếp tục ký hợp đồng mới. Anh thấy thế nào?
Hai Bình xoa hai bàn tay to bè vào nhau:
- Tất nhiên rồi, tôi đồng ý. – Đoạn Hai Bình lấy xấp tiền trong túi áo đặt ngay ngắn lên bàn:- Tôi xin trả trước ba tháng theo thỏa thuận. Cám ơn bà nhiều lắm!
Bà Hà nhận tiền, nói:
- Chừng nào chú tính dọn vô ở?
- Ngay trong ngày hôm nay. Toàn bộ gia tài của tôi chỉ gói gọn trong chiếc túi xách. Vài bộ quần áo cũ với mấy thứ linh tinh chẳng có gì đáng giá cả. Tôi là người vô sản đúng theo nghĩa đen của nó.
Bà Năm Hà phì cười:
- Ngôi nhà ấy chỉ cần quét dọn một buổi là có thể ở liền. Chú muốn chuyển đến khi nào tùy ý. Tuy nhiên, tôi muốn biết chú là ai, làm nghề gì, có đủ giấy tờ tùy thân không? Không phải tôi muốn làm khó, đây là những thủ tục cần thiết.
Hai Bình ngẩn người một lúc:
- Tôi hiểu. Tôi là thợ làm bánh mỳ trong thị xã. Còn giấy tờ tùy thân thú thật, tôi đã đánh mất từ lâu và chưa có dịp làm lại. Tuy nhiên tôi có cái này.
Đoạn Hai Bình thò tay vào túi lôi ra tấm thẻ cử tri nhàu nát:
- Mảnh giấy này chứng tỏ, tôi có đầy đủ quyền công dân và được đi bầu như bao người khác.
Hai Bình tỏ vẻ lúng túng. Bà Năm Hà nói:
- Quê anh ở đâu?
- Thú thật tôi không biết quê tôi ở đâu nữa. Tôi là đứa trẻ lớn lên trong trại mồ côi.
 
*
 
Lê Trực nhìn bà Năm hà, nói:
- Chỉ có mỗi tấm thẻ cử tri mà đã bà tin vào nhân thân anh ta sao?
Bà Năm Hà:
- Tôi là phụ nữ có tuổi, lại không rành rẽ pháp luật. Trước đây, tôi vẫn thấy thỉnh thoảng có người dùng thẻ cử tri thay cho chứng minh nhân dân. Hơn thế nữa, suốt từng ấy năm chẳng thấy ai hỏi han giấy tờ gì cả, nên tôi nghĩ mọi việc đều ổn.  Vả lại trông anh ta có vẻ là người đàng hoàng tử tế. Và điều này đã được minh chứng. Suốt thời gian ở nhà thuê, anh ta chưa làm điều gì sai quấy cả, thậm chí anh ta còn được biểu dương gương “ Người tốt, việc tốt “ nữa đấy.
Lê Trực nói:
- Cụ thể là trong trường hợp nào?
- Anh ta được biểu dương vì thành tích bắt cướp trên đường phố. Chuyện này đã xảy ra cách đây khoảng hai năm và đã từng được in trên báo tỉnh đấy. Thật tình, Hai Bình không thích được lên báo nhưng do người ta nài nỉ quá nên mới bất đắc dĩ nhận lời. Thậm chí, tôi có giữ  bài báo đó. Nếu anh quan tâm tôi sẽ đưa cho anh xem. Tay phóng viên đã đưa Hai Bình lên tận mây xanh. Chú ấy thật sự không thích như vậy.
Lê Trực lắc đầu, nói:
- Làm sao bà nghĩ rằng Hai Bình bị mất tích?
Bà Năm Hà chậm rãi kể:
- Như thường lệ đến cuối mỗi tháng tôi đến thu tiền nhà. Sáng nay tôi đến nhà thì thấy cửa nẻo mở toang. Điều này khiến tôi sinh nghi..
- Bà nghi vấn điều gì?
- Hai Bình là thợ làm bánh mỳ, làm việc vào ban đêm. Đến sáng xong việc  thì về nhà ngủ. Tất nhiên trước khi ngủ anh ta luôn khóa cửa cẩn thận. Những lần trước tôi đều phải gọi cửa. Đợi anh ta tỉnh ngủ có khi phải mất vài phút..
Bà Hà khẽ cựa mình trên ghế. Đoạn hắng giọng cho thông cổ rồi tiếp tục câu chuyện:
- Nhưng lần này thì khác. Tôi lấy làm lạ. Vừa bước vào nhà vừa gọi “ Hai Bình! Hai Bình có ở nhà không? Tôi đến thu tiền nhà đây. “, không nghe thấy tiếng  đáp lại, tôi đinh ninh Hai Bình say rượu và ngủ quên. Tôi đã từng chứng kiến một lần như thế. Anh ta uống nhiều đến nỗi cho chó ăn chè, nằm lăn ra ngáy như sấm chẳng biết trời trăng gì cả. Chờ một lúc không thấy động tĩnh gì, tôi bèn bước lên gác. Và thật bất ngờ chẳng thấy Hai Bình đâu cả.
Lê Trực xen vào:
- Có thể anh ấy quanh quẩn đâu đó.
Bà Hà gật đầu:
- Lúc đầu tôi cũng nghĩ như vậy. Chiếc đài bán dẫn của Hai Bình vẫn đang phát bản tin tức buổi sáng. Quyển sách vẫn để ở tư thế mở, chứng tỏ chủ nhân của nó đã đọc cách đây không lâu. Có lẽ, anh ta đi mua thuốc lá. Hai Bình nghiện thuốc lá rất nặng, mỗi ngày hút cả gói. Nghĩ thế, tôi bèn xuống nhà ngồi chờ. Nhưng chờ mãi vẫn không thấy anh ta về. Sốt ruột, tôi bèn bước ra ngoài hỏi thăm những người sống bên cạnh. Có người lắc đầu bảo không biết, có người nói đã hai hôm không thấy anh ta đâu cả.
- Chỉ mới hai ngày mà đã  kết luận là mất tích, như thế có vội quá không?
Bà Hà gật đầu:
- Nếu là người khác thì hai ngày không là gì cả. Người ta có thể vắng mặt cả tháng trời nữa là. Bên cạnh nhà tôi có ông chồng đi theo vợ bé, đến khi tiền mất tật mang, cả năm mới lù lù vác mặt về mà chẳng ai nghi là mất tích. Nhưng với Hai Bình lại là chuyện khác.
Lê Trực nói:
- Có thể anh ấy về quê thăm người thân họ hàng cũng nên..
Bà Hà lắc đầu:
- Hai Bình chẳng có ai thân thích cả. Anh ta từng bảo với tôi như thế. Và nếu có đi đâu xa Hai Bình nhất thiết phải mang theo hành lý, đồ dùng cá nhân chứ. Đàng này tất cả đều còn nguyên vẹn. Tôi đã kiểm tra rồi. Và, đây chính là điều tôi nghi vấn.
Lê Trực hỏi:
- Lần gần nhất bà ghé chỗ trọ của Hai Bình cách nay bao lâu?
- Tháng trước. Tôi bận rộn quá. Vả lại chẳng có việc gì tôi phải đến đó cả. Cái nhà không có bánh xe mà có thể di chuyển được..
Lê Trực hỏi thêm một số thông tin nữa nhưng bà Hà không cung cấp được gì mới. Anh ghi những thông tin quan trọng vào cuốn sổ tay.
Bà Hà đứng dậy, nói:
- Là người cho thuê nhà tôi rất sợ những chuyện lôi thôi dến pháp luật, vả lại đây cũng là trách nhiệm của công dân. Tôi thấy cần phải báo cho các anh biết.
Tiễn khách ra cửa, Lê Trực nói:
- Cám ơn bà. Tôi sẽ xác minh lại việc này.
Bà Hà đi vài bước, đoạn xoay người lại, nói:
- Trăm sự nhờ các anh công an. Tôi là phụ nữ chẳng biết phải làm gì cả. Chú Bình là người tốt. Hy vọng chú ấy không bị làm sao. Tôi lo quá. Phận sự của tôi đến đây đã xong. Thôi, chào chú, tôi về..
 
361
362
 
Khúc sông vắng vẻ mọi ngày bỗng trở nên ồn ào náo nhiệt bởi đám đông tụ tập. Mọi người thi nhau xì sầm bàn tán về giả thuyết một vụ giết người ném xác xuống sông phi tang chứng cứ. Tâm điểm là chiếc áo sơ mi kẻ sọc và đôi dép nhựa sứt quai lẫn trong bụi ô rô bên bờ sông. Chỉ bấy nhiêu nhưng cũng đủ cho những cái đầu có sức tưởng tượng phong phú nghĩ ra vô số tình huống ly kỳ rùng rợn. Một người đàn ông cứ khăng khăng quả quyết hung thủ là một cô gái tuyệt đẹp đã đưa nạn nhân đến chỗ vắng. Sau khi sinh hoạt tình dục đã dùng dao cắt cổ nạn nhân và ném xuống nước. Người khác lại kết luận, đây là vụ thanh toán đẫm máu vì tình. Theo lập luận của nhà thám tử chân đất này, thì chỉ có tình yêu mới khiến con người trở nên độc ác đến thế. Tình yêu giúp con người thăng hoa và cũng biến ta thành ác quỷ. Mỗi bên đều cố gắng bảo vệ lý lẽ của mình và ra sức khích bác đối phương gây nên huyên náo ầm ĩ. Mãi gần chín giờ sáng khi công an và lực lượng dân quân địa phương xuất hiện cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.
Lê Trực cầm chiếc áo sơ mi ngắm nghía thật lâu rồi ngẩng mặt lên nói:
- Ai là người đầu tiên phát hiện ra những vật này?
Một đứa trẻ mặt mũi tèm lem chừng mười hai, mười ba tuổi giơ tay lên nói:
- Dạ, em, em là người nhìn thấy đầu tiên.
Lê Trực đề nghị thằng bé kể lại một cách chi tiết. Nó gật đầu, đưa tay vuốt mái tóc bờm xờm khét nắng:
- Dạ, sáng nay tranh thủ lúc nước ròng, em lấy giậm đi giậm cá. Bắt được mấy con cá, thấy đã đủ nấu nồi canh chua, em bèn leo lên bờ. Khi rẽ nước vào gần đến bờ, em nhìn thấy trong bụi ô rô có chiếc áo này. Thấy lạ, em tiếp tục tìm kiếm thì phát hiện thêm đôi dép. Dạ, mọi việc chỉ có vậy, mà người ta cứ đồn ầm lên là giết người ném xác phi tang!
Lê Trực xem lại chiếc áo lần nữa. Áo còn khá mới. Chẳng ai ném một chiếc áo mới như thế này cả. Anh không tìm thấy vết máu trên áo. Anh thầm ước lượng chiều cao người mặc áo này khoảng một mét, bảy mươi trở lên. Điều khiến anh ngạc nhiên là trong khi chiếc áo khá mới thì đôi dép lại quá cũ và bị sứt quai. Phải chăng có thêm một nhân vật thứ hai?
- Có ai nhận ra chủ nhân chiếc áo này là ai không?
Tất cả đều lắc đầu, bảo không biết. Ở một nơi dân cư thưa thớt như thế này, mọi người thuộc cả kiểu dáng màu sắc y phục của nhau. Rõ ràng chủ nhân của nó không phải là người sống quanh đây.
Đám đông vãn dần. Lê Trực đang chuẩn bị rời khỏi thì ông Bảy Trật đang trên đường đi làm đồng trở về. Vừa nhìn thấy chiếc áo, ông lập tức nhận ra ngay:
- Tôi biết người này. Tại sao áo của anh ta lại ở đây nhỉ? Có cả dép nữa à..
Lê Trực hỏi dồn:
- Bác có thể cho tôi biết người này là ai, ở đâu không?
Bảy Trật đặt chiếc cuốc trên vai xuống, đoạn lấy bọc thuốc rê vấn một điếu:
- Làm sao tôi biết được, tôi chỉ nhìn thấy anh ta lần đầu.
Cách đây bốn hôm, Bảy Trật đi dự đám giỗ nhà sui gia ở làng bên về. Sau khi tan tiệc, Bảy Trật nán lại chơi với anh sui mấy ván cờ tướng. Vừa đánh cờ vừa uống rượu vui quá quên béng thời gian đến khi đứng dậy đã gần mười một giờ đêm. Bảy Trật vừa chân nam đá chân chiêu vừa nghêu ngao hát mấy câu vọng cổ trong vỡ Máu nhuộm sân chùa. Khi đi qua khúc sông này thì thấy một người đang ngồi trên bờ sông uống rượu.
Lê Trực xen vào:
- Anh ta ngồi uống một mình à?
- Chỉ mỗi mình anh ta thôi. Tôi thật sự rất ngạc nhiên khi không giữa đêm khuya tĩnh mịch lại có người ngồi uống một mình. Lúc đầu tôi cứ đinh ninh người quen sống gần đây khó giỗ giấc ngủ nên mượn rượu làm bạn, nhưng khi nhìn kỹ hóa ra là kẻ lạ, hoàn toàn xa lạ…
Bảy Trật ngừng nói, rít vài hơi thuốc lá:
- Anh ta khoảng chừng bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, tôi đoán thế không biết có chính xác không. Nhưng chiếc áo anh ta mặc trên người,  tôi dám chắc chắn như đinh đóng cột, là chiếc áo này. Bởi vì lần đầu tiên nhìn thấy nó đã gieo cho tôi cảm giác khó chịu vì cái màu sặc sỡ của nó. Tôi nghĩ thầm trong bụng, tay này cũng màu mè lắm đây.
 
*
 
Bảy Trật bước đến bên cạnh người đàn ông lạ đang uống rượu một mình:
- Này, anh bạn, sao lại ngồi uống rượu có mình ên vậy?
Gã đàn ông chẳng nói chẳng rằng cầm cả chai tu ừng ực. Dường như trong mắt anh ta  Bảy Trật là người vô hình.
Bảy Trật nói làu bàu:
- Uống như vầy thì sức nào chịu cho nổi. Bộ có chuyện buồn hả? Buồn thì kiếm chuyện khác giải khuây chứ tìm đến rượu thì chỉ có buồn thêm mà thôi. Chú mày không nghe thiên hạ từng nói “ Nâng chén tiêu sầu càng sầu thêm ..” à?
Bảy Trật ngồi xuống bên cạnh. Gió từ bên kia sông thổi qua mát rượi. Gã đàn ông uống thêm mấy ngụm nữa rồi chuyền chai rượu cho Bảy Trật rồi nói cộc lốc:
- Uống đi!
Bảy Trật nhấp một ngụm nhỏ rồi ư ử mấy câu trong bài Dạ cổ hoài langTừ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng..”.
Hai người đàn ông cùng uống rượu và không trao đổi với nhau lời nào. Đêm rằm, ánh trăng sáng tỏ. Khi gã đàn ông xoay người để lấy chai rượu, Bảy Trật mới phát hiện nước mắt ràn rụa trên gương mặt gầy guộc của gã:
- Sao lại khóc? Có tâm sự gì buồn thì nói cho qua nghe thử xem sao. Nước mắt chẳng đi đến đâu cả. Đàn ông mà khóc trông buồn cười lắm. Tại sao chú mày cứ im lặng mãi thế nhỉ? Ông trời sanh ra cái miệng là để cười để nói.
Gã đàn ông im lặng nén tiếng thở dài và cầm cầm chai rượu tu ừng ực. Rượu năm chục độ mà uống như vầy có nước đi chầu ông bà sớm.
Bảy Trật phều phào:
- Tánh của qua ngộ lắm có gì uất ức đau khổ không bao giờ giấu được trong lòng, nó nặng ì như đeo đá, phải phun ra cho kỳ hết mới thấy nhẹ người. Nghe lời qua đừng khóc nữa. Bọn đàn bà thấy cánh đàn ông chúng ta rơi nước mắt sẽ vỗ tay reo vui.
Hồi lâu gã  cất giọng lạnh lùng sầu thảm. Tựa như giọng nói  phát ra từ dưới đáy mồ:
- Có những chuyện nói ra cũng chẳng giải quyết được gì cả có khi chỉ nhận được những cái nhìn thương hại chi bằng im lặng là xong.
Bảy Trật đón lấy chai rượu và hớp một ngụm nhỏ:
- Không muốn nói thì thôi, qua không ép. Nhưng mà đừng có khóc. Nước mắt không dành cho bọn đàn ông chúng ta. – Đoạn Bảy Trật ngước mắt nhìn trời rồi nói :- Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa. Bầu trời đỏ như vầy thế nào chốc nữa cũng có mưa lớn cho mà xem.
Gã đàn ông muốn nói điều gì đó nhưng lại im lặng.
Bảy Trật nhặt hòn đất ném xuống sông, đoạn đưa hai tay vỗ vào nhau phủi bụi:
- Qua nhìn chú mày lạ lắm. Chú không phải là người ở vùng này có đúng không?
Gã im lặng, nốc rượu ừng ực. Mắt dõi ra phía trước. Thủy triều đang lên nhanh.
Uống xong ngụm rượu, Bảy Trật đề nghị:
- Nhà qua cũng cạnh đây, hay là chú em vô nhà qua anh em mình vừa uống vừa tâm sự đỡ buồn.
Gã lắc đầu, bảo muốn được ngồi một mình. Giọng của gã như dính lại vào nhau rất khó nghe:
- Tôi sẽ ngồi trên bờ sông này cho đến sáng. Lâu lắm rồi tôi mới được nhìn nước lên.
- Nước lớn thì có gì lạ mà coi. Nhà tôi sát bờ sông ngày nào cũng nhìn nước lên rồi nước xuống nhàm chán, đơn điệu chẳng có gì hấp dẫn cả. Chú em quả thật là lẩn thẩn.
Gã cười buồn:
- Đôi khi ta không thể nào hiểu nổi bản thân mình. Thế gian này toàn là những kẻ dở hơi lẩn thẩn!
- Tại sao chú lại nói vậy?
Gã không trả lời mà nói sang chuyện khác. Chuyện hồi xưa:
- Hồi còn bé, một lần bà nội cho tôi quả thị. Bà bảo trong hột thị có nàng Tấm. Chuyện cổ tích Tấm Cám có đứa trẻ nào mà không một lần được nghe kể chứ. Thị ăn không ngon nhưng mùi thật là thơm. Tôi giữ bên mình cả tuần liền mới dám ăn. Thật ra tôi không muốn ăn mà muốn được mục kích tận mắt nàng Tấm đẹp đẻ như thế nào thôi. Tôi đem hột thị rữa thật sạch rồi với tâm trạng háo hức tôi đem mài trên đá. Tôi mài mãi, mài đến khi hột thị chỉ còn bé bằng hột đậu mà nàng Tấm vẫn không thấy đâu. Tôi thất vọng khủng khiếp. Vì chuyện này mà mấy đêm liền tôi không ngủ được.
Bảy Trật cười vang:
- Chú em khờ quá, chuyện vớ vẩn như vậy mà cũng tin được à?
Gã thở dài:
- Mỗi đứa trẻ đều có một huyền thoại và truyền thuyết riêng của mình. Khi huyền thoại đó bị đổ vỡ, nó cảm thấy hụt hẫng và tuyệt vọng.
Uống thêm mấy ngụm nữa, Bảy Trật đã thấm say. Tự nhiên gió thổi mạnh, mây đen vần vũ báo hiệu sắp có cơn mưa lớn. Bảy Trật lật đật đứng dậy:
- Trời chuyển mưa rồi. Qua về đây. Chú em không muốn vào nhà qua thì cũng nên về nhà mình là vừa. Trận mưa này lớn lắm đây. Đừng ngồi đó nữa kẻo bị cảm đấy.
Bảy Trật lảo đảo bước vào nhà. Lát sau nhìn ra vẫn thấy gã ngồi nốc rượu tì tì. Bảy Trật lắc đầu nói lẩm bẩm:
- Tay này điên thiệt rồi!
Một ánh chớp bỗng lóe lên trên lưng trời kèm theo là tiếng nổ rền như bom dội. Mưa như trút nước. Và gã đàn ông vẫn điềm nhiên ngồi uống rượu dưới cơn mưa tầm tã. Bảy Trật lật đật chạy ra cửa, đưa hai tay bắt loa gọi lớn:
- Mưa lớn quá, vô nhà trú mưa đi!
Nhưng gã đàn ông vờ như không nghe thấy. Và tiếp tục ngồi uống rượu dưới cơn mưa như trút.
 
*
 
Lê Trực nói:
- Anh ta ngồi đó trong bao lâu, bác có biết không?
Bảy Trật lắc đầu:
- Cơn mưa quỷ quái kéo dài chừng một giờ đồng hồ tôi mới đi ngủ. Trước đó, tôi vẫn thấy anh ta ngồi trên bờ sông và nốc rượu. Đích thị là hắn bị bệnh tâm thần rồi chứ một người có đầu óc tỉnh táo chẳng bao giờ ngồi uống rượu dưới mưa. Sáng ra, thì không thấy con ma men đó đâu nữa. Tôi cứ đinh ninh anh ta đã về nhà. Không hiểu sao cái áo lại nằm ở đây. Như vậy có thể đoán là có chuyện không lành rồi.
Suy nghĩ một lúc Bảy Trật nói:
- Liệu anh ta có say quá mà ngã xuống sông không nhỉ? Đêm ấy nước lớn, chỉ cần một cú trượt chân là đi đời. Mà, tôi trông anh ta cũng có vẻ chán đời lắm. Đôi mắt trông như hai nấm mồ ấy.
- Bác có biết loại rượu anh ta uống được mua từ đâu không?
Bảy Trật gật đầu:
- Biết chớ, tôi là con sâu rượu mà lại. Loại rượu này chỉ có mỗi quán Tư Ánh là có thôi. Anh cứ đến đấy sẽ rõ mọi việc.
- Từ đây đến đó có xa không?
- Không, non một cây số hướng ra thị xã. Quán Tư Ánh vừa bán cà phê vừa rượu với đồ nhắm. Quán không có biển hiệu gì ráo, nhưng hỏi quán Tư Ánh thì đến đứa nhỏ vắt mũi chưa sạch cũng biết.
 
529530
 
Tư Ánh là người phụ nữ tuổi ngoài bốn mươi, dáng vẻ phốp pháp. Đôi mắt sưng húp nom như lúc nào cũng như đang khóc. Quán vắng, Lê Trực bước vào bên trong, chọn một chỗ trống gần lối ra vào rồi gọi một cốc cà phê đen.
Tư Ánh bưng cà phê đặt lên bàn rồi gieo người ngồi xuống chiếc ghế trống cạnh đó. Chị ta luôn mồm ca thán dạo này bán buôn ế ẩm mà quán xá mọc lên đầy rẫy:
- Riết rồi, người bán đông hơn người mua. Quán của tôi, mọi ngày, vào giờ này khách ra vô nườm nượp bán không kịp nghỉ tay, vậy mà bây giờ vắng tanh như cái chùa Bà Đanh, nhắm mắt chạy một mạch không đụng người nào! Thời buổi khó khăn, chắc tôi phải chuyển sang công việc khác mà sống thôi chớ bám theo cái nghề này có mà cạp đất!
Đoạn Tư Ánh đứng dậy xếp lại mấy chai rượu trên quầy một cách máy móc:
- Quán của tôi cái gì cũng ngon  mà giá lại rẻ không hiểu sao bọn đàn ông cứ đâm đầu vào những nơi khác để bị chặt đẹp.  Cũng tại mấy  con nhỏ trẻ đẹp cho uống bùa mê thuốc lú đây mà.
Lê Trực cười thầm rồi lấy thuốc lá ra hút. Mắt ngước nhìn mấy bịt khô bò, bánh phồng tôm treo lủng lẳng trên tủ thuốc lá. Anh tìm cách gợi chuyện:
- Tôi nghe mấy người bạn giới thiệu, rượu ở quán chị là đặc sản vùng này.
Tư Ánh lập tức tỏ thái độ vui vẻ:
- Chớ còn phải hỏi! Rượu quán tôi nấu bằng nếp rặt không lẫn hột gạo nào, lại được ủ bằng thứ men thượng hạng. Say rất êm, tỉnh dậy không thấy đau đầu như những loại rượu khác.
- Chốc nữa tôi phải mua một chai về nhà ngâm  với rễ nhàu trị chứng nhức mỏi. 
- Ngâm làm gì vừa tốn công vừa mất thời gian. Quán tôi có sẵn, anh cần bao nhiêu cũng có.
Đoạn Tư Ánh lấy chai một lít ngâm rễ nhàu đặt trước mặt khách:
- Anh uống thử , nếu thấy vừa ý thì mua, không thì thôi. Để tôi lấy cho anh cái chung.
Lê Trực rót rượu ra chung và nhấp một ngụm nhỏ:
- Ừ, cũng được. Tôi lấy chai này.
Lê Trực thanh toán tiền. Trong lúc Tư Ánh đang kéo hộc bàn tìm tiền thối, Lê Trực nói:
- À, cách đây mấy hôm chị có bán rượu cho một người đàn ông khoảng ngoài bốn mươi tuổi…
Tư Ánh đưa tiền thừa cho khách:
- Quán tôi, ngày nào cũng bán rượu cho rất nhiều người làm sao tôi nhớ hết cho được. Anh ta có đặc điểm gì để nhận dạng không?
Lê Trực nói:
- Anh ấy mặc chiếc áo ngắn tay ca rô màu sắc sặc sỡ. Cao khoảng một mét bảy mươi mốt, bảy mươi hai gì đó..
Tư Ánh ngẩn người một lúc rồi nói bằng giọng không được tự tin:
- Áo ca rô ngắn tay, cao một mét bảy mươi..
Lê Trực tiếp tục gợi ý:
- Anh ta có gương mặt xương xẩu và có vẻ ít nói..
Tư Ánh lắc đầu:
- Như vậy là không phải rồi. Tôi có bán rượu cho một người mặc áo ca rô và chiều cao như anh tả nhưng hắn ta còn trẻ, tôi đoán, chỉ độ  ba mươi bốn, ba mươi lăm là cùng. Vả lại trông anh ta cũng không xương xẩu lắm đâu..
Lê Trực khẽ gật đầu, nói:
- Có thể là anh ta bởi tuổi tác, hình dáng phụ thuộc vào  nhận xét riêng của mỗi người..
Tư Ánh làu bàu:
- Nếu là anh ta thì tôi không thể nào quên được, bởi đó là vị khách rắc rối nhất mà tôi từng gặp..
 
*
 
Sẩm tối. Hắn xiêu vẹo bước vào quán, chọn chỗ trống bên cạnh cửa sổ rồi ngả người lên chiếc ghế có lưng tựa. Tư Ánh, lúc ấy, đang ăn cơm tối cùng gia đình phía bên trong, thấy khách vào bèn bỏ chén cơm xuống, bước ra tiếp khách:
- Anh uống gì ạ?
Hắn phanh một cúc ngực áo và kêu trời quá nóng:
- Rượu, tất nhiên rồi. Cho tôi rượu loại ngon nhất.
-  Ở đây tôi chỉ bán một thứ rượu loại một thôi. Anh muốn nhắm món gì?
Hắn lắc đầu, bảo chỉ cần vài điếu thuốc lá là đủ rồi.
Rồi bắt đầu từ lúc đó hắn tiên tục nốc rượu, nhả khói và chốc chốc lại gọi chủ quán mang ra thứ gì đó. Bực mình ở chỗ, hắn không gọi một lần cho xong mà cứ kêu lắt nhắt khiến Tư Ánh không sao ăn xong bữa cơm.
- Chủ quán cho thêm xị nữa!
- Chủ quán cho vài điếu Du Lịch.
- Chủ quán cho ca trà đá.
Mặc dù, rất không hài lòng với vị khách này nhưng Tư Ánh phải cố chiều lòng, dù sao khách hàng cũng là Thượng đế. Vả lại việc bán buôn đang lúc cạnh tranh gay gắt để khách phật ý bỏ sang quán khác có mà chết đói nhăn răng.
Uống bằng cái chung nhỏ không đủ đô hắn chuyển sang uống bằng cốc lớn. Hắn nốc rượu ừng ực như rồng uống nước thấy mà phát khiếp. Uống hết bốn chai một xị, hắn bỗng ngồi im bất động, đầu gục xuống, mắt nhắm nghiền như đang ngủ gật, mồm liên tục thốt ra những lời vô nghĩa:
- Ta là ai? Ta là ta! Ta là ai? Ta là ta!
Hắn có vẻ đã thấm say không uống nhiều như lúc đầu. Bỗng nhiên hắn đưa tay đấm mạnh lên bàn và gào lên thật to:
- Ta là ai? 
Nghe ồn ào, Tư Ánh từ trong hớt hải chạy ra. Hắn đang huơ chân múa tay như đang chiến đấu với một kẻ vô hình nào đó:
- Tại sao mi lại nỡ đối xử tệ bạc với ta? Đồ khốn!
- Ai, ai đối xử tệ với anh? – Tư Ánh nói.
- Số phận.
- Số phận ư ? – Tư Ánh thốt lên một cách khôi hài:- Anh có vẻ đã say quá rồi, nên về ngủ cho khỏe. Sáng mai tỉnh dậy uống tiếp. Về đi, quán tôi sắp sửa đóng cửa rồi. Đừng ngồi đây đánh nhau với số phân nữa!
Hắn bỗng nổi cáu đưa tay đấm ngực thùm thụp:
- Chị đuổi tôi đấy à? Ai dám bảo thằng này say? Tôi còn uống được nữa. Cho thêm chai rượu!
Tư Ánh nhũn nhặn:
- Tôi sẽ bán cho anh với điều kiện anh không được làm ồn. Dân xung quanh đây có thói quen ngủ sớm, không nên làm phiền họ. Người ta mà kiện lên công an xã, quán tôi có nước dẹp tiệm sớm.
Gã làu bàu:
- Được, có rượu tôi sẽ câm họng. Lấy cho tôi một chai.
Tư Ánh nhìn hắn lắc đầu chán nản, đoạn đi vào trong lấy thêm chai rượu.
- Rượu của anh nè. Đây là chai cuối đó nghe.  – Tư Ánh đưa tay che miệng ngáp vặt mấy cái ra chiều buồn ngủ.
- Chị có thể ngồi đây nói chuyện với tôi một chút được không? – Hắn đề nghị.
- Tôi với anh là hai người xa lạ có chuyện gì để nói chớ.
-  Tôi xin chị đấy. Tôi sẽ không làm phiền chị lâu đâu. Tôi cảm thấy cô đơn quá muốn có người tâm sự đỡ buồn.
Tư Ánh miễn cưỡng ngồi xuống chiếc ghế cạnh đấy. Chiếc đồng hồ treo tường chỉ đúng mười giờ đêm. Mọi ngày vào giờ này quán Tư Ánh đã đóng cửa:
- Tôi nghe anh đây. Mười phút thôi nhé. Tôi buồn ngủ lắm rồi.
Hắn cầm chai rượu tợp một ngụm lớn:
- Có bao giờ trong cuộc đời mình chị tự hỏi, mình là ai, từ đâu đến không?
Câu hỏi thật ngớ ngẩn! Tư Ánh phì cười:
- Người ta không thể đặt câu hỏi khi đã có  lời đáp một cách rõ ràng. Tôi là ai ư? Tôi là tôi, đơn giản chỉ có vậy. Chẳng lẽ anh không biết mình là ai sao? Tôi nghĩ, chắc anh đang mang nặng tâm sự trong lòng..
Hắn cất giọng buồn thảm:
- Tôi đã đi tìm tôi suốt những tháng năm dài đăng đẳng, trong tuyệt vọng đớn đau. Thật hạnh phúc cho những ai tồn tại trên đời mà không phải bị ám ảnh bởi câu hỏi ấy. Những câu hỏi tưởng chừng vô nghĩa lại như hòn núi lớn đè nặng kiếp người. Đã bao lần tôi băn khoăn tự hỏi, tôi sinh ra để làm chi, tôi tồn tại để làm gì khi không biết được danh tính, nguồn gốc của mình. Thậm chí có lúc tôi đã nghĩ đến cái chết.
Tư Anh nói:
- Tự tìm đến cái chết là hành động điên rồ. Hạnh phúc lớn nhất của con người là được sống, được ngắm nhìn thế giới quá đỗi thân yêu này. Tôi nâng niu mỗi bình minh lên, mỗi tia nắng sớm. Và nhất là được sống trong lo toan bận rộn kiếp làm người…
- Chị thật hạnh phúc, - hắn nói:- Tôi thật sự ganh tỵ với chị. Dù sao chị cũng có mục đích sống của mình. Làm gì? Cho ai? Còn tôi cứ như con thuyền không bến cứ trôi, trôi mãi không phương hướng. Tôi là đứa con lạc loài của số phận,  là kẻ lữ hành đơn độc bất đắc dĩ trên thế gian này..
- Anh nói chuyện khó hiểu quá. Làm sao anh lại không biết mình là ai được chứ. Thậm chí, đến con vật còn có nguồn gốc nữa là..
Hắn cười phờ phạc:
- Thế đấy, tôi đã sống cuộc sống không bằng một con vật. Ha..ha!
- Thế bây giờ anh đã tìm được mình chưa? – Tư Ánh cất giọng bỡn cợt.
Hắn im lặng, đưa hai tay ôm lấy mặt, đôi vai run lên từng chập rồi thốt lên một câu khó hiểu:
- Giá như không  tìm thấy mình, tôi đã không tuyệt vọng như thế này!
 
 
*
 
Lê Trực nói:
- Anh ta còn nói gì với chị nữa không?
Tư Ánh gật đầu:
- Nói nhiều lắm nhưng toàn là những lời khó hiểu. Anh ta đã quá say. Tôi phải ngồi im để anh ta “  tra tấn “ cái lỗ tai gần ba mươi phút.
- Khoảng mấy giờ anh ta rời khỏi quán?
Tư Ánh suy nghĩ một lúc, nói:
- Đi ngay sau đó. Nếu tôi nhớ không lầm khoảng mười giờ rưởi gì đó. Trước khi rời khỏi, anh ta còn mua thêm chai một lít. Tôi khuyên anh ta không nên uống nữa, trông anh ta đã say quá rồi,  nhưng anh ta không nghe. Rốt cuộc, tôi đành phải chiều ý khách. Tôi chưa từng thấy ai uống nhiều như thế. Anh chàng đích thị là con ma men thứ thiệt!
- Chị có biết anh ta đi đâu không?
Tư Ánh lắc đầu:
- Làm  sao tôi biết được. Có thể là về nhà. Nhưng nhìn anh ta chắc cũng không có một nơi để mà về. Anh ta bảo sẽ uống cho đến chết để quên đi mình là ai. Tôi thấy anh ta thật ngớ ngẩn, làm sao có thể quên được mình chứ. Rượu đã khiến người ta bệ rạc như thế đấy.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2008 20:02:45 bởi Ct.Ly >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9