MẮT KẼM GAI Phần 1
chu sa lan 03.06.2008 09:53:36 (permalink)
 
 
 
 
MẮT
 
KẼM
 
GAI
 
 
 
 
 
Tiểu Thuyết
 
 
 
 
 
 
1.
 
Mười giờ sáng. Trời xám xịt. Dòng sông Cửa Lớn đục phù sa. Nước cuồn cuộn chảy. Con sông ngắn nhưng khá rộng này đổ ra biển bằng hai cửa; phía bên Đông Hải là cửa Bồ Đề còn bên Vịnh Thái Lan là Cửa Lớn với địa danh lạ hoắc. Mũi Ông Trang.
Hai chiếc Alpha và một chiếc Tango lừ đừ chạy ngược dòng nước. Đứng sau lái tàu Khôi nhìn căn cứ Năm Căn ở đằng sau lưng của mình. Những dãy nhà tiền chế, lô cốt cao và ăng ten trời nhô lên giữa vùng cây xanh. Năm Căn. Tên nghe thật lạ. Nó là một quận của tỉnh Cà Mau, một thứ quận không ra quận, lèo tèo mấy chục căn nhà. Dân cư ngụ có thể đếm trên đầu ngón tay và chân. Cái quận này lính nhiều hơn dân. Lính Mỹ. Lính Việt. Sống chung đụng với nhau trong căn cứ có năm căn nhà riêng biệt. Bốn căn bốn góc cho lính Mỹ, biệt động quân, lính của sư đoàn 21 bộ binh và hải quân. Căn chính giữa là nhà bếp. Căn cứ nằm bên dòng sông Cửa Lớn, giữa một vùng sình lầy chỉ có cây đước, cây tràm và những cây gì không ai biết tên.
Ba chiến đỉnh chạy ngang qua phố Năm Cô. Lính gọi là Năm Cô vì chỉ ở đây mới có bóng dáng của đàn bà, dù chỉ là đàn bà mặc quần đen, áo bà ba và đi chân đất. Dân ở đây ít có người mang giày. Chỉ có lính mới mang giày. Giày như là thứ xa xỉ phẩm của dân giống như tivi hay điện. Toàn phố của quận Năm Căn chỉ có một cái máy phát điện nhỏ và chỉ chạy đúng giờ giấc nhất định là bảy giờ tối tới chín giờ đêm. Đó là giờ cái máy truyền hình nhỏ xíu được mở lên cho người ta xem tin tức, nghe tân nhạc hoặc cải lương. Tin tức ít có người xem hơn là cải lương. Người dân cùng đinh nghèo mạt rệp ở cái xứ khỉ ho cò gáy này ít chú tâm tới tin tức ở Sài Gòn, một nơi mà suốt đời họ không bao giờ đi tới. Có lần đứng xem tin tức Khôi bị bà già hỏi một câu.
- Ông Thiệu là ai vậy cậu?
- Ổng là tổng thống...
- Tổng thống thời ổng mần cái chi vậy cậu?
Khôi cười cười. Câu hỏi này xin để dành cho mấy người lính chiến tranh chính trị trả lời. Khôi nhớ lại lần hành quân để giải tỏa quận Đầm Dơi, một đơn vị hành chánh có tên trên giấy tờ của chính phủ nhưng thực ra nằm trong khu giải phóng của Việt Cộng. Theo những người lính biệt động quân lên bờ Khôi vào nhà một ông già. Điều khiến cho anh ngạc nhiên lẫn buồn cười là trên bàn thờ có nhang có khói và có hình hai người. Đó là hình của Hồ Chí Minh và Nguyễn Văn Thiệu. Hỏi tại sao ông chưng hình kỳ cục vậy. Ổng trả lời là nếu quốc gia vào nhà thời ổng chưng hình ông Thiệu. Nếu lính quốc gia đi Việt Cộng về thời ổng lại đem hình Hồ Chí Minh lên. Đôi khi ổng cũng chưng hình hai người lên cùng một lúc. Có lẽ ổng chưng lên để vái hai người chết sớm cho ổng đỡ khổ. Khôi hỏi ổng một câu có vẻ hơi chính trị một chút.
- Như vậy ông theo ai?
- Tôi có biết ông Minh hay ông Thiệu đâu mà bảo tôi theo. Ai cũng được miễn là tôi được sống yên cơm ngày hai bữa...
Giản dị lắm. Đừng nói tới dân chủ làm gì trong lúc bụng đói. Đừng nói tự do khi ông già phải ngủ dưới hầm núp mỗi đêm vì sợ bị máy bay bỏ bom, hoặc mấy anh du kích về bắt đi làm nghĩa vụ nhân dân, bắt đi đào hầm hố, bắt treo hình bác Hồ trong nhà.
Tàu bỏ sông Cửa Lớn để đi vào Kinh Ngang, con kinh nối liền sông Bảy Hạp và sông Cửa Lớn. Con kinh hẹp này là thủy lộ nối liền quận Năm Căn với Cà Mau và thế giới bên ngoài. Cũng vì thế mà nó trở thành con kinh chết. Tàu hải quân bị phục kích, bị bắn sẻ đều đều mỗi khi đi qua đây. Không cần đợi lệnh thủy thủ đoàn tự động vào nhiệm sở tác chiến. Súng trên tàu chĩa ra hai bên sẵn sàng khai hỏa. Địch có thể tấn công bất cứ lúc nào và bất cứ hình thức nào. Bắn sẻ bằng súng bá đỏ hay AK. Bắn  bằng B40 hoặc 57 ly không giựt. Mìn. Thứ vũ khí giết người độc địa và thầm lặng. Đội nón sắt, mặc áo giáp Khôi dùng ống dòm quan sát trong bờ với hy vọng tìm thấy một dấu hiệu khả nghi. Mọi thứ đều bình thường. Địch khôn ngoan núp dưới hầm hố chờ đợi. Ai cũng nói đi hải quân sướng. Điều này Khôi không phủ nhận. Ai cũng bảo đi hải quân ít chết. Điều này Khôi không chối cải. Tuy nhiên có một điều mà người ta không biết và Khôi không thích là đi lính hải quân ở các giang đoàn tác chiến như xung phong, thủy bộ, ngăn chặn hay tuần thám là mình đưa lưng cho Việt Cộng bắn. Nó muốn bắn lúc nào là bắn trong khi mình cứ phải lo âu, sợ hãi và chờ đợi để đỡ đạn. Một trái B40 bắn vào chiếc tàu sắt rồi nổ tung thành trăm ngàn mảnh vụn giết người. Đôi khi những mảnh sắt của tàu mới giết chết người lính hải quân hơn là mảnh đạn B40 của Việt Cộng.
Đoàn tàu lầm lì đi hơn nửa con kinh. Không khí lặng trang làm mọi người như ngộp thở. Khôi không biết mình đổ mồ hôi vì sợ hay vì nóng. Có lẽ cả hai thứ. Tiếng súng nổ dồn dập ở đằng trước nơi chiếc Alpha 11 dẫn đầu. Tiếng đạn đại liên 12 ly 7 xói  vào không khí và rừng cây thành thứ âm thanh kinh dị.
- Alpha 11 đây Đan Khôi... Nghe rõ trả lời...
- 11 tôi nghe Đan Khôi...
- Có chuyện gì vậy?
- Tụi nó chơi một trái 40 sau đít của tôi...
Giọng nói bình tỉnh pha chút tếu của Sinh, thuyền trưởng Alpha 11 làm Khôi an tâm.
- Có ai bị gì không?
Khôi nghe tiếng Sinh cười vui vẻ vang trong máy 46.
- Mấy thằng em của tôi vô sự. Chỉ có bể nồi thịt kho thôi...
Lắc đầu cười Khôi cởi nón sắt khi thấy chiếc Alpha 11 bắt đầu quẹo trái vào sông Bảy Hạp. Tối hôm qua anh nhận lệnh biệt phái cho một ngôi đồn của Địa Phương Quân thuộc chi khu Cái Nước nằm trên dòng sông Bảy Hạp. Tuy phòng hành quân nói chỉ biệt phái thời gian ngắn nhưng nhìn số lượng dầu cặn, đạn dược và lương thực anh biết thời gian ngắn sẽ thành ra thời gian dài có thể năm ba tháng. Dầu cặn được lãnh tối đa. Lương thực cũng tối đa. Năm thùng ration C dành cho trường hợp tối cần thiết. Mười thùng gạo sấy và thịt ba lát đủ thứ. Đạn thời khỏi nói. 20 ly. M60. Lựu đạn. M79 thường. M79 dây. Hai chục thùng đạn M16. Năm chục thùng 12 ly 7. Không thiếu cái gì. Một chiếc tàu được lãnh cấp số đạn dược nhiều hơn một đại đội bộ binh. Không lãnh nhiều cũng uổng bởi vì để lâu mấy thằng mũi lõ sẽ đổ xuống sông.
Khúc sông Bảy Hạp từ Kinh Ngang ra tới cửa biển là một khu vực ít có dân cư ngụ không phải vì mất an ninh mà vì vùng nước mặn không trồng trọt được gì hết. Tàu chạy ngang qua một đồn Nghĩa Quân. Người lính ngồi gác giơ tay vẫy vẫy. Nếu không có lá cờ vàng ba sọc đỏ treo trên một lô cốt cao thời Khôi sẽ không nhận ra đó là một chiếc đồn của quốc gia. Lòng sông rộng ra hơn và càng ít có ghe thuyền đi lại. Ba giờ chiều. Đoàn tàu đi tới một xóm nhà lá chừng trăm cái cất dọc theo bờ sông. Cuối xóm nhà lá là một khu đồn bót khá rộng cũng nằm dọc theo bờ sông nhưng thụt sâu vào bên trong chừng hai ba chục thước. Đối diện với ngôi đồn là rạch Năm Căn. Đây là một con rạch lớn nối liền hai con sông Cửa Lớn và Bảy Hạp. Theo như tin tức mà phòng hành quân đã cung cấp Khôi biết chiếc đồn này do một đại đội Địa Phương Quân trú đóng nhằm mục đích kiểm soát hoặc dò xét sự di chuyển và hoạt động của địch ở phần đất thuộc hai quận Năm Căn và Cái Nước.
Khôi ra lệnh cho ba giang đỉnh ủi vào khoảnh đất trống ngay chánh của đồn. Báo cáo về bộ chỉ huy giang đoàn ở Năm Căn xong anh leo lên bờ. Tới trạm canh anh nói với người lính gác về nhiệm vụ của mình đồng thời xin gặp mặt cấp chỉ huy của anh ta. Liếc nhanh ba chiếc tàu đang nổ máy xong quan sát bộ quân phục và cái nón lưỡi trai của người lính hải quân anh ta cười nói một cách vui vẻ và thân thiện.
- Trung úy theo tui...
Không biết cấp bậc của lính hải quân nên anh ta gọi trung sĩ thành trung úy. Cười cười Khôi nghĩ thầm.
- Như thế càng hay... Mình dễ làm việc hơn...
Hai người đi trên con đường đất đen gồ ghề. Kẽm gai giăng mắc khắp nơi. Lon đồ hộp treo lủng lẳng khắp nơi.
- Trung úy coi chừng lựu đạn...
Chỉ vào giây kẻm gai giăng khắp bốn hướng xung quanh đồn anh ta cười tiếp.
- Tụi tui chôn mìn và gài lựu đạn dữ lắm. Cách đây mấy ngày tụi nó mò vào đụng phải mìn và lựu đạn chết tan thây mấy đứa...
- Chắc Việt Cộng về hoài hả anh?
- Trước đó thời ít hơn. Sau cái vụ Mậu Thân và tổng công kích đợt 2 tụi nó tấn công đồn ba lần mà dô hổng nổi...
Người lính dừng lại nơi một lô cốt thật lớn mà Khôi đoán là bộ chỉ huy đại đội. Đứng ngoài cửa lô cốt anh ta nói lớn.
- Ông thầy... Có ông trung úy hải quân muốn gặp Bà Bùi...
Một người lính già bước ra. Gọi là già bởi vì mái tóc muối tiêu và nét nhăn trên mặt nhưng nhìn kỹ ông ta không già vì ánh mắt tinh anh và nụ cười trẻ trung. Ông ta mặc bộ kaki cũ kỹ, nhầu nát và chân mang dép.
- Tôi là thượng sĩ Bang, đại đội phó... Mời trung úy vào...
Khôi bước vào một căn hầm hình vuông mỗi cạnh chừng bốn thước. Một cái bàn được đóng bằng cây lấy ra từ vỏ của thùng đạn. Một chiếc giường nhỏ cũng bằng cây. Ba cái ghế đẩu xiêu vẹo.
- Tôi và ba chiến đỉnh được biệt phái lên  yểm trợ cho căn cứ này...
Nhìn ra khoảng trống dùng để ra vào anh cười tiếp.
- Nếu thượng sĩ có cần điều chi tôi sẵn sàng giúp đỡ...
- Cám ơn trung úy... Để tôi trình với Bà Bùi xong bả sẽ nói chuyện với trung úy sau...
Tuy hơi thắc mắc về danh từ " Bà Bùi " mà người lính và ông thượng sĩ nói nhưng Khôi chỉ cười.
-  Tôi tên Khôi và tàu của tôi đậu ngoài kia...
Mặc dù có người lính canh dẫn đường nhưng ông thượng sĩ cũng theo đưa chân Khôi tới tận cổng mới quay trở vào. Dừng lại nơi cổng Khôi hỏi người lính canh.
- Tôi thấy có xóm nhà đằng kia... Chắc phải có chợ và quán hàng...
Hiểu ý Khôi người lính nói.
- Xóm đó có tiệm tạp hóa và cà phê nhưng trung úy và anh em nên coi chừng. Đừng ra đó vào ban đêm...
- Cám ơn anh... Tôi sẽ dặn mấy người lính của tôi...
Về tới tàu Khôi nói cho lính của mình biết về tình hình đồng thời căn dặn Sinh và Tuyên, thuyền phó của mình cho thủy thủ đoàn canh gác cẩn thận về ban đêm cũng như lúc nào cũng phải có người túc trực trên chiến đỉnh.
Ngồi trên mui tàu Khôi nhìn khung cảnh thê lương và ảm đạm của vùng này. Nó hoang vu tới độ không có tên trên bản đồ hành chánh. Xung quanh là rừng tràm hay đước xen lẫn với cỏ cao chạy dài ra tới tận biển. Đây là vùng sình lầy và nước mặn cho nên ít cây cối. Vả lại cây cối cũng không mọc được vì đạn bom của cả hai bên. Không gian thật im vắng và tĩnh mịch dường như không có sinh khí. Ngôi đồn trên kia cũng không thấy bóng người đi lại.
Mặt trời mất dạng sau hàng cây xanh đen. Bóng tối ập xuống xóa nhòa cảnh vật. Chiếc đồn cũng chìm trong bóng đêm thâm u trừ tháp canh hiện mờ mờ. Thỉnh thoảng có ánh đèn loé lên rồi tắt thật nhanh. Vì lý do an ninh nên tàu không được nổ máy ban đêm thành ra không có điện. Lính trên tàu chỉ được phép dùng đèn pin. Người lính gác tàu đi đi lại lại. Tựa lưng vào ụ súng 20 ly Khôi nhìn về hướng bắc. Sài Gòn. Xa quá rồi. Những ngày rong chơi, hẹn hò. Ciné Eden. Ăn khô bò uống nước mía. Cô gái tên Liên giờ chỉ còn là hình bóng chìm sâu trong tâm tưởng cũng như anh đang cố quên đi một cuộc tình đứt đoạn. Dù yêu nhau tha thiết hai đứa cũng phải xa nhau. Anh chưa chịu dừng chân trong lúc Liên muốn có một người chồng sáng vác ô đi tối vác ô về. Khôi không chịu được đời sống gò bó của một người lính văn phòng. Thế là hai đứa đồng ý chia tay dù biết xa nhau nhưng vẫn nhớ nhau hoài. Trước khi lấy chồng Liên có viết thư mời anh dự đám cưới nhưng khi đến tay anh thời chậm quá rồi. Từ đó anh tránh dây dưa tình cảm dù quen biết rất nhiều người. Có người hỏi sao không lấy vợ. Anh cười đáp chừng nào đất nước hòa bình sẽ lấy vợ cũng chưa muộn. Hoà bình đâu không thấy chỉ thấy chiến tranh càng ngày càng lan rộng. Những cô gái anh quen không chờ đợi được đã đi lấy chồng. Khôi cũng không giận hờn hay phiền trách điều đó. Anh hiểu con gái chỉ có một thời son sắc mà thôi. Họ không thể để tuổi xuân qua, không thể chờ đợi một người còn thích lang thang và mải mê tìm kiếm...
Mặc dù không phải là phiên gác của mình nhưng Khôi cũng đưa starlight scope lên quan sát. Đây là thứ ống dòm cá nhân tối tân của hải quân Mỹ chuyên dùng để quan sát ban đêm. Vào những đêm trăng sáng hoặc có nhiều sao người ta có thể thấy rõ bóng người xa cả cây số. Xóm nhà lá hiện lên. Ngôi đồn của Địa Phương Quân trước mặt. Khu rừng cây sáng rực. Tất cả đều yên tịnh. Tất cả đều ngủ say trừ mấy tên đặc công hay mấy anh du kích địa phương đang rình mò.
9 giờ sáng. Chiếc Alpha 9 ủi vào một bãi trống cách xóm nhà lá chừng hai ba chục thước. Khôi và thủy thủ đoàn lên bờ. Họ có hai tiếng đồng hồ để ăn sáng, đi chợ và thăm dân cho biết sự tình. Lững thững đi trên con đường đất dọc theo bờ sông giây lát Khôi bước vào một quán ăn mà anh biết chắc là của người Tàu. Ở đâu cũng có họ. Ở đâu họ sống cũng được ngay cả những vùng hoang vu hẻo lánh nhất. U Minh Thượng cũng có họ. U Minh Hạ cũng có họ. Năm Căn. Cái Nước. Xẻo Rô. Miệt Thứ cũng có họ. Họ sinh sống bằng nghề mở quán bán cà phê, hủ tiếu mì hay tiệm tạp hóa hoặc trồng trọt.
Người chủ quán đặt bình trà xuống ngay lúc Khôi vừa kéo ghế.
- Nị uống cái chi?
- Xây chừng...
Khôi buông gọn hai tiếng. Một phút sau ly cà phê đen bốc khói được mang ra. Bỏ chút đường anh nhấp ngụm nhỏ. Cà phê không tệ lắm dù là cà phê dợt. Ở cái xứ khỉ ho cò gáy này mà có cà phê uống là nhất rồi. Cà phê dợt của mấy chú ba dù sao cũng còn ngon gấp mấy lần instant coffee của Mỹ. Anh chỉ uống một lần rồi không bao giờ uống nữa. Nó chua chua và nhạt nhẻo không có mùi, không có vị gì hết. Gọi tô mì Khôi đốt điếu thuốc PallMall rồi im lặng nhìn ra con đường đất lồi lõm. Phía bên kia sông là rừng cây không cao lắm. Con sông Bảy Hạp bề ngang chỉ rộng hơn năm chục thước dù từ đây tới cửa biển chỉ xa khoảng hai ba cây số.
Nhâm nhi ly cà phê Khôi chăm chú nhìn một bóng người đang đi tới gần. Đó là một người đàn bà. Người đàn bà này mặc đồ trây di, mang bốt đờ sô và đội mũ lưỡi trai. Điều khiến cho anh chú ý là bên hông của bà ta xệ xuống khẩu Colt 45. Lính đàn bà thời anh không lạ nhưng lính đàn bà mang súng thời anh ít thấy. Huống chi bà lính này lại mang súng xệ bên hông giống như cao bồi. Khi bà lính này tới gần hơn nữa Khôi nhận ra bà ta còn trẻ và tóc dài. Dáng người nhỏ nhắn, thanh thanh cộng thêm khẩu Colt xệ bên hông làm cho bà ta trông ngộ nghỉnh, là lạ và đặc biệt. Thoạt trông bà ta không giống bất cứ người đàn bà nào mà anh đã gặp. Người đàn bà mang súng bước vào quán cà phê. Trông thấy người lính hải quân đang ngồi bà ta hất hàm.
- Lính dưới tàu hả?
Tuy hơi bất mãn về câu hỏi cộc lốc của bà ta nhưng Khôi cũng cười trả lời.
- Thưa bà tôi là lính hải quân đi công tác vùng này...
Trả lời xong Khôi đốt điếu thuốc rồi lơ đãng nhìn ra ngoài đường. Người đàn bà nói chuyện với chủ quán mấy câu rồi cũng bỏ đi.
12 giờ trưa. Chiếc Alpha 9 ủi vào bãi đất trống đối diện với quán cà phê. Thủy thủ đoàn lên bờ đi kiếm con nít bảo tới tàu lãnh quà. Việc này tuy không nằm trong công tác nhưng Khôi lại thích làm nhất. Quà cho trẻ con ở vùng quê này cũng không tốn tiền và chúng cũng không đòi hỏi gì nhiều. Mỗi đứa được một phong kẹo cao su, một thỏi chocolat hay sang hơn là một hộp thịt ba lát, bánh lạt hoặc lon trái cây. Đây là những thứ nằm trong phần ration C của lính hải quân Mỹ bỏ lại khi bàn giao tàu mà nhân viên dưới tàu đều không đụng tới vì ngán tận cổ. Nó được Khôi thu nhặt cất kỹ rồi khi nào tới những vùng xa xôi hẻo lánh đem phát cho trẻ con. Anh cảm thấy sung sướng khi nhìn thấy nụ cười tươi vui và tiếng reo ngạc nhiên của những đứa trẻ nhà quê nghèo nàn.
Con nít kéo tới mỗi lúc một đông. Khôi đếm được chừng mười mấy đứa. Anh và thủy thủ đoàn phát cho mỗi đứa một phong kẹo cao su và một lon trái cây. Lãnh phần xong đám con nít tản mác thật nhanh. Đang tính thu dọn quà Khôi chợt nghe tiếng gọi.
- Bác ơi bác... Bác có kẹo cho cháu hôn bác...
Khôi ngước lên. Đứa bé gái chừng năm sáu tuổi đang nhìn anh mỉm cười. Nụ cười của nó thật dễ thương. Khuôn mặt trái soan với má lúm đồng tiên, hai mắt tròn to sáng long lanh, hàng mi cong dài và da trắng hồng đứa bé gái thật xinh xắn.
- Bác có nhiều thứ kẹo bánh lắm. Cháu muốn thứ nào?
- Dạ... Thứ nào cháu cũng muốn hết...
Khôi phì cười khi nghe câu trả lời của đứa bé.
- Cháu chỉ xin bác một phong kẹo cao su và một lon trái cây cho má của cháu...
Khôi thầm kinh ngạc khi nghe câu nói của đứa bé. Anh hỏi trong lúc đưa cho nó hai phong chewing gum, một thỏi chocolat và một lon trái cây.
- Cháu tên gì vậy?
- Dạ... Cháu tên là Thùy Trâm...
Khôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Xuyên qua cái tên anh biết đứa bé gái này không phải sinh ra ở đây. Dân quê vùng này họ đặt tên con giản dị như Gáo, Mít, Dừa, Mận, Tư, Năm hay Bảy chứ không có đặt một cái tên lạ, đẹp và văn chương như Thùy Trâm.
- Má của cháu tên gì?
Đứa bé gái hơi nheo mắt nhìn Khôi. Cử chỉ của nó thật dễ thương và ngộ nghỉnh.
- Bác hỏi tên của má cháu để làm gì?
- Thì bác muốn biết tên vậy mà. Tên của cháu đẹp vậy chắc tên của má cháu còn đẹp hơn nữa phải không?
- Cám ơn bác... Cháu nói tên của má cháu cho bác nghe rồi bác đừng học lại với má cháu nghe...
Khôi cười vui vì câu nói của Thùy Trâm.
- Ừ... Bác hứa là sẽ không học lại với má của cháu...
- Má cháu tên là Thùy Dung... Cám ơn bác cho quà... Cháu phải chạy về nhà không thôi má cháu đi kiếm...
Đứa bé gái chạy vụt đi. Khôi đứng nhìn theo bóng của nó khuất sau dãy nhà lá lụp xụp. Anh cảm thấy vui vui vì gặp được đứa bé gái xinh xắn, dễ thương và khôn ngoan. Anh nghĩ thầm chắc má của nó cũng giống như nó. Lắc đầu vì ý nghĩ vẩn vơ của mình anh thu dọn mấy thùng bánh kẹo vào trong tàu.
Đang ngồi đọc sách Khôi nghe có tiếng nói chuyện rồi lát sau Thành, một nhân viên trên tàu bước vào.
- Anh Khôi... Có một ông thượng sĩ trên đồn muốn nói chuyện với anh...
Khôi bước về phía mũi tàu. Anh thấy ông thượng sĩ Bang, đại đội phó đang đứng chờ.
- Bà Bùi của chúng tôi muốn gặp trung úy. Mời trung úy lên đồn...
Khôi hơi cau mày xong lấy lại vẻ tự nhiên.
- Ông vui lòng chờ một chút để tôi mang giày...
Lát sau trong bộ quân phục hải quân Khôi đi theo ông thượng sĩ lên đồn gặp Bà Bùi. Quanh co một hồi ông thượng sĩ dừng lại ở một căn hầm có cửa khép.
- Trung úy cứ vào... Bà Bùi đang ở trong đó...
Khôi gõ cửa. Trong căn hầm vang lên giọng nói thanh thanh.
- Mời trung úy vào...
Khôi xô cửa. Anh hơi khựng lại khi thấy người đàn bà mang súng mà anh đã gặp nơi quán cà phê. Còn Bà Bùi cũng lộ vẻ ngạc nhiên khi gặp lại người lính hải quân mà bà ta đã gặp trong quán cà phê ngày hôm qua. Hai người nhìn nhau giây lát rồi Bà Bùi đứng lên và đưa tay ra. Khôi nắm lấy bàn tay mềm ấm của bà đại đội trưởng kiêm chỉ huy trưởng căn cứ Bảy Hạp.
- Mời trung úy ngồi...
Khôi thong thả ngồi xuống chiếc ghế đối diện với chủ nhân qua chiếc bàn đóng từ những mảnh ván của thùng đạn.
- Tôi xin lỗi trung úy về sự hiểu lầm ngày hôm qua...
- Thưa bà không có chi... Tôi không để ý tới chuyện nhỏ nhặt đó...
Ngừng lại giây lát Khôi cười tiếp.
- Tôi tên Khôi thưa bà...
Khôi xưng tên mình trước như nhằm ý cho người đối diện phải xưng tên. Anh cảm thấy không được thoải mái khi phải nói chuyện với một người đàn bà nắm chức vụ đại đội trưởng kiêm chỉ huy trưởng căn cứ.
- Trung úy cứ gọi tôi là " Bà Bùi  "...
Khôi hơi nhếch môi cười. Mặc dù thấy nụ cười của người lính hải quân nhưng Bà Bùi vẫn tảng lờ.
- Sở dĩ tôi mời trung úy lên đây là vì một việc cần thiết...
- Tôi xin nghe bà nói...
- Sáng mai tôi sẽ chỉ huy đại đội mở cuộc hành quân lục xét cũng như dò tìm vị trí đặt súng cối của địch. Tôi cần tàu chở quân...
- Điều này không có gì trở ngại với tôi...
- Cám ơn trung úy... Ngoài ra tôi cần sự yểm trợ tác xạ của tàu trong trường hợp bị địch tấn công...
- Tôi cũng không thấy có điều gì trở ngại...
Khôi nói bằng giọng thật bình thường nếu không muốn nói là lạnh nhạt. Dường như cảm thấy điều đó Bà Bùi cười nói trong lúc trải tấm bản đồ lên trên mặt bàn.
- Khu vực mà chúng tôi định lục soát là đây...
Nhìn theo ngón tay thon dài với móng tay đỏ hồng Khôi thấy khu vực hành quân nằm lọt giữa sông Bảy Hạp và rạch Năm Căn rồi chạy dài ra tới bờ biển. Tuy là vùng sình lầy nhưng cũng có những gò đất cao và rừng thưa khá dầy rất tiện cho địch ẩn nấp để đặt súng cối pháo vào đồn.
- Nếu không có chi phiền tôi mời ông đổ bộ với chúng tôi...
- Thưa bà tôi là lính hải quân chứ không phải là lính bộ binh. Nếu muốn lên bờ tôi phải được phép của cấp trên...
- Chúng ta sẽ không đi sâu và cũng không ở lâu...
Bà Bùi kèo nài. Khôi nói ngắn gọn.
- Thưa bà tôi rất tiếc...
- Hay là ông lạnh cẳng...
Khôi nhíu mày khi nghe câu nói khích cùng với nụ cười mỉa của Bà Bùi.
- Thưa bà tôi không lạnh cẳng... Tôi cũng không sợ chết... Tuy nhiên nếu bà muốn  tôi sẽ thi hành. Tôi là lính biệt phái mà...
Bà Bùi nở nụ cười tươi tắn và thích thú vì kế khích tướng của mình đã thành công.
- Cám ơn ông... Bây giờ tôi xin đưa ông về để cho ông có thời giờ chuẩn bị...
Không nói tiếng nào Khôi đứng dậy.
- Cám ơn bà tôi biết đường trở về tàu...
Bà Bùi thân đưa khách ra khỏi hầm trú ẩn. Đứng nhìn theo bóng người lính hải quân đi trên con đường mòn bà ta lẩm bẩm.
- Ông lính này coi vậy mà có anh hùng tính...
9 giờ sáng. Toán lính Địa Phương Quân lần lượt xuống hai chiếc Alpha 9 và Tango 12. Tàu đi vào rạch Năm Căn chừng cây số xong ủi vào bờ. Dặn dò Sinh và Tuyên mấy lời xong Khôi theo Bà Bùi lên bờ. Như đã quen với địa thế tiểu đội chia làm hai toán đi sâu vào trong để lục soát. Bà Bùi quay chỗ khác dấu nụ cười khi thấy Khôi mặc trây di và mang súng như lính bộ binh.
Toán đi bên trái báo cáo tìm thấy dấu vết của địch. Vừa lúc đó có tiếng súng nổ dồn dập. Biết lính của mình chạm địch Bà Bùi dẫn toán thứ nhì lên tiếp viện. Địa thế của vùng này khá trống trải. Chỉ có vài gò đất cao bằng người đứng. Địch quân nấp sau các gò đất và hầm hố đào sẵn nên chiếm được lợi thế. Ngay trước mặt Khôi và Bà Bùi nấp là mô đất cao hơn hết. Địch bố trí khẩu trung liên và súng AK bắn khá chính xác khiến cho lính không dám ngóc đầu lên. Chỉ với khẩu trung liên và vài khẩu súng bá đỏ hay AK mà địch cầm chân hơn hai chục người lính..
Quan sát địa thế xong Khôi nói với Bà Bùi.
- Bà thấy mô đất phía bên phải của chúng ta không. Nếu tới đó được thời tôi có thể dùng khẩu M79 để phá hủy ổ trung liên của chúng...
- Làm sao ông tới đó được...
- Bà và anh em nổ súng tối đa khiến cho địch không ngóc đầu lên. Tôi sẽ bò tới mô đất đó...
- Ông cẩn thận...
Nguyên trung đội tập trung hoả lực bắn vào  mô đất có ổ trung liên. Khôi bò thật nhanh rồi mất dạng trong các lùm cây. Bây giờ Bà Bùi hơi lo âu và hối hận vì để Khôi đi có một mình. Rủi có bề gì thời... Chăm chú nhìn về mô đất bên phải xế với mô đất cao nơi địch bố trí khẩu trung liên bà ta mừng rỡ khi thấy bóng người lính hải quân thấp thoáng. Ầm... Âm thanh vang chát chúa cùng với tiếng la hét nơi mô đất cao nhất rồi tiếng súng của địch im hẵn. Mừng rỡ Bà Bùi ra lệnh cho trung đội tiến lên lục soát. Họ thấy ba xác chết không còn nguyên vẹn. Khẩu trung liên nằm chỏng gọng còn hai khẩu súng bá đỏ và AK không bị hư hại gì hết.
- Tôi chỉ bắn có một viên thôi... Thật là may mắn...
Bà Bùi làm thinh khi nghe Khôi nói. Cho lính tiếp tục lục soát chừng một lát không thấy có gì hết bà ta ra lệnh trở về tàu. Trước khi trở về đồn bà ta nói với Khôi.
- Hôm nào tôi sẽ làm tiệc mời ông lên ăn mừng chiến thắng...
- Có gì đâu mà bà phải bận tâm...
Đứng nơi mũi tàu Khôi nói với bà đại đội trưởng. Nhìn theo dáng đi nhanh nhẹn của người đàn bà anh lắc đầu mỉm cười.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2.
 
Đang ngồi uống cà phê Khôi thấy Bà Bùi nắm tay một đứa bé đi vào tiệm tạp hóa xế chỗ mình ngồi chừng hai ba chục thước. Anh gật gù cười khi nhận ra đứa bé đó chính là đứa bé gái tên Thùy Trâm. Trả tiền cà phê xong Khôi về tàu. Nhân viên cho biết có một người tự xưng là Bà Bùi tới kiếm nhưng không có anh nên bà ta nói sáng mai sẽ trở lại.
Đang ngồi nói chuyện với Tuyên sau lái tàu Khôi thấy Thành bước vào cho biết có người kiếm. Ra tới mũi tàu anh thấy Bà Bùi đang đứng chờ. Hôm nay bà ta mặc bộ bà ba đen, mang giày bố và khẩu Colt 45 xệ bên hông. Dường như nó là vật bất ly thân của bà ta.
- Tôi mời ông lên nhà tôi ăn cơm trưa. Chắc ông không từ chối...
- Bà có lòng tốt thời tôi đâu từ chối được... Bà chờ tôi một chút...
Hai người đi song song trên con đường đất dọc theo bờ sông mà không ai nói với ai lời nào. Cho tới lúc quẹo vào cổng đồn Bà Bùi mới lên tiếng.
- Ông coi chừng lựu đạn gài hai bên...
- Cám ơn bà... Chắc Việt Cộng về thường lắm thưa bà?
Liếc nhanh người đàn ông đi bên cạnh Bà Bùi trả lời:
- Thưa ông pháo kích thời nhiều hơn nhất là sau tết Mậu Thân đặc công của tụi nó lẻn vào hoài... Có lần tụi nó lọt vào tận hàng rào mới bị phát giác...
Khôi hơi nhếch môi cười. Anh nhận thấy sự thay đổi nơi người chỉ huy của căn cứ Bảy Hạp. Bà ta ăn nói lịch sự, mềm mỏng và lễ phép hơn lúc ban đầu.
- Đặc công của tụi nó giỏi lắm... Tàu hải quân chìm hoài vì bị trúng mìn của tụi nó...
- Ông Khôi chắc đi lính lâu rồi?
- Cũng khá lâu thưa bà...
Khôi trả lời lững lơ khi nghe câu hỏi thăm dò hay tìm hiểu của Bà Bùi. Mình không nên để cho người ta biết về mình nhiều quá. Anh nói thầm như thế. Bà Bùi cũng không hỏi gì thêm. Lính ở đồn có cái lạ là mỗi khi gặp Bùi họ không giơ tay chào mà chắp tay xá ba cái. Tuy thấy điều đó nhưng Khôi không lên tiếng hỏi. Hai người đi xuyên qua một dãy giao thông hào và hầm trú ẩn rồi tới khu gia binh chừng hai ba chục căn nhà lụp xụp lợp tôn vách ván.
Xô cửa vào Bà Bùi nói với khách:
- Mời ông ngồi... Nhà nghèo không có gì hết...
- Còn rộng hơn tàu của tôi...
Khôi cười nói đùa. Nhà này đúng là nhà của lính. Phía sau anh đoán là nhà bếp còn giường ngủ được ngăn cách với chỗ tiếp khách bằng cái màn vải cũ kỹ và phai màu. Cái bàn vuông nhỏ và chỉ có hai chiếc ghế.
- Tôi ít khi có khách... Ông Khôi uống nước gì?
- Nước lạnh thưa bà...
- Xin lỗi ông tôi không có nước lạnh...
Khôi nhìn chủ nhân. Hiểu ý Bà Bùi cười nhẹ.
- Tôi có bia 33. Ông uống được không?
- Một chai thời được...
Bỏ vào trong giây lát bà chủ nhà mang ra hai cái ly nhựa có mấy viên đá cục. Rót bia vào hai cái ly xong bà ta cười.
- Mời ông...
Bà chủ nhà đưa ly lên tỏ ý mời khách. Nhấp ngụm bia Khôi cười hỏi.
- Hình như bà không phải là dân ở đây?
Đưa ly bia lên nhấm môi bà chủ nhà nhìn khách.
- Lý do nào khiến cho ông nói tôi không phải là dân ở đây?
- Tôi thấy bà khác với người dân địa phương...
Bà chủ nhà lắc đầu.
- Ông lầm rồi...
Khôi cười cười.
- Tôi xin lỗi bà về nhận xét của tôi...
Bà chủ nhà không nói bỏ vào trong. Lát sau bà ta bắt đầu dọn cơm.
- Tôi xin phép được giúp bà...
- Cám ơn ông nhưng ông cứ uống bia...
Bữa cơm đạm bạc. Một tô canh bầu. Một dĩa cá chiên. Một dĩa rau luộc.
- Mời ông ăn thử món ăn địa phương. Xin báo trước là tôi nấu ăn  tệ lắm...
- Còn ngon hơn đồ hộp của Mỹ...
Nói xong Khôi cầm đũa. Hai người vừa ăn vừa nói chuyện trời trăng mây nước. Lát sau cơm và thức ăn đã biến mất.
- Bà nấu ăn thật ngon. Lâu lắm rồi tôi mới được ăn bữa cơm có vẻ gia đình...
Ánh mắt của bà chủ nhà long lanh hơn cùng với nụ cười tươi hơn.
- Cám ơn ông... Ở dưới tàu các ông ăn gì?
- Thường thì cơm canh cá kho nhưng mì gói làm chuẩn. Còn đồ hộp thì chúng tôi ngán tới đây...
Khôi đưa tay lên ngang cổ trong lúc le lưỡi. Cử  chỉ của anh khiến cho Bà Bùi phải bật cười.
- Thường thường khi lãnh đồ hộp chúng tôi đem ra bán cho dân chúng rồi lấy tiền đó mua thức ăn của mình...
- Chúng tôi ít khi ăn đồ hộp. Thỉnh thoảng trên quận hay tỉnh gởi xuống cho một vài thùng...
- Thưa bà tôi có ý kiến...
- Mời ông...
- Tàu của tôi có nhiều đồ hộp lắm mà nhân viên không ai muốn ăn. Nó là của người Mỹ bỏ lại. Tôi thường hay phát cho trẻ con các vùng mà tàu đi công tác. Tôi xin phép bà được phân phát cho các gia đình binh sĩ trong đồn để họ ăn cho biết...
Thấy bà chủ nhà còn do dự Khôi nói với giọng van nài.
- Thưa bà của không đáng bao nhiêu... Tôi chỉ muốn gây thêm sự thân mật giữa anh em binh sĩ trên đồn và dưới tàu. Dù gì mình cũng là những người cùng đứng chung chiến tuyến...
Liếc nhanh khách Bà Bùi cười.
- Ông đã nói như thế thời tôi xin nhận lời và cám ơn lòng tốt của ông...
- Không có chi thưa bà... Thấy mấy trẻ em ở đây tôi nhớ lại lúc tôi còn nhỏ...
Xô ghế đứng dậy bà chủ nhà nói nhanh.
- Tôi mời ông đi quan sát quanh đồn cho tiêu cơm...
- Bà không sợ tôi làm nội tuyến cho Việt Cộng?
Khôi cười nói đùa trong lúc bước song song với chủ nhà.
- Tôi không tin ông theo Việt Cộng...
- Bà lầm rồi...
- Ngày mai thời tôi không biết nhưng ngay lúc này tôi tin là tôi không lầm...
Khôi cười im lặng vì câu nói của Bà Bùi. Hai người đi một vòng. Khôi nhận xét thấy đồn nằm lẻ loi nơi giữa một vùng đồng trống. Từ hàng rào ngoài cùng tới xóm nhà lá của dân cũng khá xa chừng hai ba trăm thước. Hàng rào kẽm gai giăng mắc khắp nơi. Bốn góc đồn có bốn vọng gác khá cao. Dọc theo giao thông hào có các ụ làm bằng bao cát khá lớn. Một lô cốt lớn nhất nhìn thẳng ra bờ sông đối diện với rạch Năm Căn mà Khôi đoán là hầm chỉ huy.
- Ông có ý kiến gì về hệ thống phòng thủ của đồn?
Khôi cười vì câu hỏi của Bà Bùi.
- Tôi là lính hải quân... Tôi đâu có biết gì...
- Tôi biết ông là lính hải quân. Tôi chỉ hỏi ý kiến của ông dù là " ý kiến không biết gì "...
Bà Bùi nhẹ nhàng ngắt lời người đối thoại. Thấy Khôi hơi có vẻ giận bà ta cười giả lả.
- Tôi xin lỗi ông... Ông làm ơn nói cho tôi nghe cái ý kiến không biết gì của ông đi...
- Tại sao bà lại muốn biết ý kiến của một người lính hải quân không có kinh nghiệm đánh giặc trên bờ...
- Tôi nói ra ông đừng giận thời tôi mới nói...
- Bà cứ nói... Tôi hứa là không phiền giận...
- Ông nhớ lần mình đổ bộ không?
Khôi mỉm cười gật đầu. Anh cười vì chữ " mình " mà Bà Bùi đã dùng.
- Hồi tưởng lại trận đụng độ đó tôi có cảm tưởng ông không phải là một người lính hải quân thuần túy...
Bà Bùi nhìn người đối thoại như muốn bắt mạch. Không thấy nét mặt Khôi có gì khác lạ bà ta nói tiếp.
- Tôi nghĩ ông phải ở một đơn vị tác chiến như bộ binh, biệt động quân, thủy quân lục chiến hay nhảy dù trước khi thành lính hải quân...
Khôi cười cười lảng sang chuyện khác.
- Bà đã hỏi ý kiến thời tôi xin trả lời. Hệ thống phòng thủ thời tạm coi như chặt chẻ chỉ có điều là vũ khí thô sơ và nhất là mìn hay lựu đạn gài chung quanh đồn ít quá. Nếu địch dùng chiến thuật biển người thời đồn sẽ bị tràn ngập...
Bà Bùi thở hơi thật dài.
- Như vậy mà ông nói là ông không biết gì... Đó cũng là mối lo của tôi. Tôi có xin quận và tỉnh tân trang vũ khí thời họ bảo chờ. Họ nói địa phương quân nằm ở cuối danh sách của quân đội...
- Tôi biết... Địa phương quân và nghĩa quân là con nuôi hay con ghẻ...
Nhìn Khôi Bà Bùi cười nói đùa.
- Ông biết hết trơn mà cứ nói là không biết. Ông nói thiệt đi... Ông nói thiệt cho tôi biết đi ông ở binh chủng nào...
Khôi cười cười làm thinh. Bà chỉ huy trưởng căn cứ Bảy Hạp cười đùa bằng giọng nói thân mật.
- Ông có một bí mật... Ngày nào đó tôi sẽ khám phá ra bí mật của ông...
- Bà cũng có một bí mật... Ngày nào đó tôi sẽ khám phá ra bí mật của bà...
Hai người nhìn nhau như đo lường về câu nói của người kia rồi cuối cùng Khôi lên tiếng.
- Thử xem ai khám phá ra trước...
Bà Bùi nở nụ cười duyên dáng.
- Tôi cá với ông là tôi sẽ khám phá ra bí mật của ông trước...
Khôi cười cười.
- Tôi hy vọng bà sẽ được hài lòng...
- Ông học bắn súng M79 ở đâu mà bắn giỏi vậy?
- Bà bắt đầu cuộc điều tra của bà phải không?
Bà Bùi cười thánh thót.
- Ông khôn ngoan quá khiến cho cuộc điều tra của tôi trở thành khó khăn...
- Tôi học bắn súng ở trung tâm huấn luyện hải quân thưa bà...
- Ông không thành thật rồi... Năm sáu năm trước đây trung tâm huấn luyện hải quân làm gì có M79 để cho ông học...
Khôi cười nhưng trong lòng hơi ngạc nhiên về sự hiểu biết của người đàn bà kỳ lạ này.
- Tôi đã nói với bà là lù khù có ông cù độ mạng...
Bà Bùi giơ ngón tay trỏ ra như muốn xỉa vào trán Khôi.
- Ông mà lù khù... Ông khôn tổ bà mà giả dạng ngu cho người ta...
Khôi cười lớn. Tiếng cười của anh lan trong gió.
- Ngày mai ông có làm việc gì không ông Khôi?
- Tôi chắc là không ngoại trừ soạn các lon đồ hộp để giao cho bà...
- Tôi mời ông đi tập bắn súng với tôi...
- Tôi sẵn sàng. Chỉ sợ tôi bắn dở làm bà mất hứng...
- Ông khiêm nhường quá...
Hai người trở lại nhà. Mặc dù chủ nhà cầm cọng nhưng Khôi nói mình cần phải viết bản báo cáo về đơn vị nên xin từ giã. Thân đưa khách ra tận cổng đồn Bà Bùi còn đứng nhìn theo cho tới khi Khôi xuống tàu mới quay trở lại.
Bà Bùi cười tươi tắn khi thấy Khôi đang ngồi nơi mũi tàu chờ mình.
- Ông tính đi tìm Việt Cộng hay sao mà đem nhiều súng đạn vậy?
Khôi cười cười khi thấy bà ta mang trên vai khẩu Carbine M2.
- Tôi đem theo một khẩu M16 và một khẩu M79 để cho bà bắn thử. Nếu bà thích thời tôi sẽ có một đề nghị...
Bước song song trên con đường đất dẫn ra bờ biển Bà Bùi quay nhìn Khôi.
- Xin ông chuyển lời cám ơn của tôi và toàn thể binh sĩ và gia đình của họ về món quà quý giá của nhân viên ba chiếc tàu. Mấy bà vợ của anh em binh sĩ sung sướng được ăn thịt heo, trái cây và chocolat. Họ nói đồ hộp ngon quá mà sao mấy ông hải quân lại chê...
Khôi cười vui vẻ.
- Nếu họ được ăn hoài như chúng tôi thời  họ cũng sẽ ngán tới cổ...
- Thấy mấy em nhỏ nhai chewing gum mà thương. Nhiều đứa nhai rồi nuốt luôn không chịu nhả ra...
- Riêng cá nhân tôi xin cám ơn ông...
Khôi đùa một câu.
- Bà muốn nói là cá nhân bà cám ơn cá nhân tôi...
- Ông nghĩ như thế cũng được...
- Tôi làm vì hai lý do. Thứ nhất là bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với những người lính của bà. Họ hy sinh nhiều nhưng không được đền bù xứng đáng. Lý do thứ nhì là lý do cá nhân. Tôi cám ơn bà cho tôi ăn một bữa cơm ngon và cũng với hy vọng bà sẽ mời tôi ăn một bữa cơm khác...
- Lý do nào quan trọng hơn?
Cười cười không trả lời Khôi hỏi lại.
- Bà muốn tập bắn nơi nào?
- Ông thấy gốc cây đó không...
Hai người dừng lại. Tháo khẩu M16 trên vai xuống Khôi đưa cho Bà Bùi. Chỉ sơ cho bà ta cách nạp đạn, lên đạn, cách nhắm mục tiêu anh cười nói.
- Bà thử đi... Nó khác hơn khẩu M2 của bà nhiều lắm...
Bà Bùi đưa súng lên vai nhắm mục tiêu xong bóp cò. Khôi nhận thấy mặc dù chân yếu tay mềm song bà ta bắn khá chính xác. Nếu có thời gian tập luyện để quen với loại súng mới này bà ta sẽ bắn  giỏi hơn nhiều lắm.
Bắn hết một băng đạn Bà Bùi cười nói với Khôi.
- Súng này ít giật hơn M2... Tôi thích lắm...
- Nó bắn nhanh và xa hơn M2 đồng thời sức phá hoại của nó cũng mạnh hơn. Bây giờ tới phiên M79...
Khôi chỉ cách nạp đạn, nhắm mục tiêu xong đưa khẩu súng cho Bà Bùi.
- Có hai cách bắn M79. Đó là bắn thẳng hoặc bắn vòng cầu. Khi nào địch ở gần quá mình có thể bắn trực xạ như súng thường còn bắn vòng cầu thời dùng cho mục tiêu xa hơn...
Bà Bùi cười thích thú khi thấy bùn đất bay tứ tung trước mặt mình chừng ba bốn chục thước.
- Ước gì tôi có được vài khẩu súng này...
Khôi quay qua cười nói.
- Tôi có thể giúp bà chuyện đó...
- Tôi không hiểu ý của ông...
- Tàu của tôi có nhiều súng lắm. Những khẩu súng này không có trong danh sách của đơn vị. Tôi muốn nói là nếu các khẩu súng này có mất thời cũng không ai hay biết. Tôi có thể cung cấp cho đại đội của bà một số M16, M79, trung liên, đại liên và lựu đạn...
Bà Bùi quay nhìn Khôi đăm đăm. Người lính thủy nhìn thấy ánh mắt long lanh, làn da mặt hơi hồng lên vì ánh mặt trời và đôi môi hồng hơi mím lại như cố gắng để không cười.
- Lý do nào thúc đẩy ông muốn giúp tôi?
Khôi cười cười.
- Tôi không muốn bà chết. Bà còn sống thời tôi mới được bà mời ăn cơm và nhất là tôi mới còn có cơ hội khám phá ra cái bí mật của bà...
Bà Bùi cười đùa.
- Hóa ra ông giúp tôi vì có lợi cho ông chứ không phải vì ông...
Bà ta bỏ lững câu nói ở đó.
- Còn một lý do nữa mà tôi chưa muốn nói ra...
- Lý do gì ông nói cho tôi nghe đi...
Khôi nhìn ra bìa rừng xa xa. Anh hơi mỉm cười khi nghe giọng nói nhuốm chút năn nỉ và nhỏng nhẽo của Bà Bùi. Anh cũng biết bà ta đang ngắm mình.
- Khi nào có dịp tôi sẽ nói cho bà nghe...
- Ông nhớ lời ông hứa nghe chưa...
Khôi cười lớn.
- Thôi mình đi về. Chắc cũng phải hai ba ngày nữa tôi mới có thể giao súng cho bà được...
- Giúp tôi ông có bị rắc rối gì không?
- Không... Tôi cần thời giờ để kiểm kê vũ khí trên tàu. Những khẩu súng nào không có tên trong danh sách sẽ được xem như thừa...
Hai người vừa đi vừa trò chuyện thân mật như bạn. Tới nơi tàu đậu Khôi mời Bà Bùi xuống tàu uống nước nhưng bà ta từ chối nói cần phải về nấu cơm.
Ba ngày. Khôi bận bù đầu vì phải lục lọi khắp nơi trong tàu để kiểm kê vũ khí và đạn dược. So sánh bản danh sách thực thụ của tàu với bản danh sách tự kiểm kê Khôi biết mình  dư thừa khá nhiều súng đạn. Điều này cũng do ở chương trình Việt Nam Hoá Chiến TranhChuyển Giao Cấp Tốc của quân đội Hoa Kỳ. Cuối năm 1967 Khôi được thuyên chuyển xuống chiến đỉnh do trung sĩ nhất Bob Kent làm thuyền trưởng. Anh tập sự dưới quyền của ông ta để sau đó ông ta sẽ bàn giao chiến đỉnh lại cho anh chỉ huy. Nhờ  số vốn liếng Anh ngữ học ở trường và Hội Việt- Mỹ Khôi quen với thủy thủ đoàn trên tàu và sau đó trở thành bạn thân của Kent. Cũng vì lý do này mà khi giao tàu Kent chỉ bàn giao cho có lệ và chỉ lập bản danh sách rất sơ sài. Ông ta sắp về hưu nên cũng chẳng để ý tới việc lập sổ sách một cách chính xác. Điều này chỉ có mình anh biết và được anh giữ kín không tiết lộ cho ai kể cả nhân viên trên tàu. So sánh lại hai danh sách một lần nữa Khôi thấy mình cần phải lập một bản danh sách thứ ba. Theo bảng danh sách này anh có ba khẩu đại liên M60, mười sáu khẩu M16 mà mười hai khẩu còn nguyên trong thùng, ba khẩu M14, bảy khẩu M79, tám thùng lựu đạn, mười một thùng đạn M16, mười lăm thùng đạn đại liên M60, bảy thùng đạn M79, sáu thùng đạn trung liên M14 và ba thùng trái sáng. Điều làm cho Khôi lo âu là không biết làm sao để giao cho Bà Bùi số lượng vũ khí lớn mà các nhân viên trên tàu không hay biết. Suy đi tính lại Khôi thấy mình cần phải bàn tính với bà ta với hy vọng tìm ra giải đáp cho vấn đề khá phức tạp này.
Giơ tay chào Khôi người lính gác cổng cười nói một cách vui vẻ.
- Kính chào trung úy... Trung úy mạnh khoẻ không?
Đưa gói thuốc PallMall ra mời người lính Khôi cười hỏi.
- Cám ơn anh... Bà Bùi chắc có trong đồn phải không anh?
- Dạ... Từ sáng tới giờ tôi không thấy bả ra đây...
Vào tới trong đồn Khôi thấy Bà Bùi đang bước ra. Thấy Khôi bà ta cười lên tiếng.
- Tôi đang định tìm ông...
- Tôi cũng tính gặp bà...
- Mời ông vào văn phòng của tôi...
Hai người bước vào phòng làm việc. Ngồi xuống chiếc ghế đẩu Khôi nhìn người đối diện.
- Tôi có một tin vui cho bà. Đây là số vũ khí mà tôi định giao cho bà...
Khôi đưa bảng danh sách và Bà Bùi tròn mắt khi đọc. Ngước lên nhìn Khôi bà ta nói với giọng vui mừng và cảm động.
- Tôi không biết nói gì để cám ơn ông...
- Tôi chỉ giúp đỡ những người bạn cùng chiến tuyến với mình...
- Tôi xin mời ông bữa cơm chiều hôm nay...
Khôi cười.
- Cám ơn bà nhưng tôi không thể ăn cơm khi chưa tìm ra cách để giao số vũ khí tới tay bà. Dù đây là số vũ khí dư thừa nhưng tôi cũng không muốn nhân viên trên tàu biết...
- Tôi hiểu ý của ông... Nếu không cho tôi ông cũng đem đổ xuống sông...
Khôi lộ vẻ mừng rỡ khi nghe câu nói của Bùi. Gõ gõ ngón tay trỏ lên mặt bàn mấy cái Khôi cười cười.
- Nhờ bà nói mà tôi nghĩ ra một cách... Tôi sẽ đem súng đạn quăng xuống sông để cho lính của bà vớt lên...
- Ông thấy chưa... Tôi nói ông là một người khôn ngoan  có sai đâu...
- Cám ơn bà... Chính bà cho tôi ý kiến đó... Bà cho lính chuẩn bị và thấy khi nào tôi treo lá cờ màu đỏ là chúng ta bắt đầu...
12 giờ trưa. Chiếc Alpha 11 đi tuần tiểu. Tango 12 chở nhân viên đi chợ ở Đầm Cùn chỉ còn một mình Khôi ở lại với chiếc Alpha 9. Anh vội vả treo lá cờ đỏ lên mui. Chừng mười lăm phút sau anh thấy chiếc ghe khá lớn xuôi dòng ra biển rồi dừng lại cách tàu chừng mươi thước. Khôi bắt đầu liệng súng truớc vì những thứ này nhẹ hơn. Sau đó mới tới các thùng đạn và lựu đạn. Công việc này khá nặng nhọc và mất thời giờ vì anh phải khiêng từ dưới hầm lên bong tàu xong mới thả xuống nước. Anh thấy Bà Bùi ngồi nơi mũi ghe chỉ huy lính vớt súng. Sông Bảy Hạp không sâu lắm vả lại nhằm nước ròng cho nên lính không cần phải lặn sâu. Chừng hơn tiếng đồng hồ việc vớt súng hoàn tất. Khôi an tâm vì nhân viên của ba chiếc tàu vẫn chưa về tới. Đứng sau lái tàu nhìn thấy nét mặt vui mừng của những người lính địa phương quân anh cảm thấy hài lòng vì nghĩ mình vừa làm được điều gì có ý nghĩa cho một ngày.
Đang uống cà phê trong quán Khôi thấy một người lính đi xăm xăm về hướng của mình đang ngồi. Bước vào quán chắp tay xá Khôi anh ta cười nói.
- Thưa trung úy... Bà Bùi của tôi mời trung úy lên đồn...
- Có chuyện gì không anh?
- Dạ tôi không biết... Chỉ biết bả sai tôi xuống tàu kiếm trung úy. Mấy anh hải quân chỉ tôi ra đây...
Khôi mời người lính ly cà phê nhưng anh ta từ chối vì sợ Bà Bùi chờ. Khôi cười nói.
- Thì anh cứ đổ thừa là tôi không chịu đi cho tới khi nào uống xong cà phê...
Không đợi người lính có ý kiến Khôi gọi cho anh ta ly cà phê sữa đá. Trong lúc nhâm nhi cà phê hai người trò chuyện với nhau. Anh ta cho biết tên là Đặng, hai mươi hai tuổi, đi lính được hơn hai năm.
- Hình như Bà Bùi là người ở xứ khác tới phải không anh?
- Dạ... Tôi nghe anh em nói bà ta ở đâu xa lắm. Hình như ở miệt Sài Gòn...
Khôi mỉm cười mời người lính điếu thuốc PallMall. Bật lửa cho anh ta đốt thuốc Khôi cười khi thấy anh ta hít hơi dài rồi ém hơi thật lâu mới từ từ thở ra.
- Thuốc này thơm và ngon thật...
Hít một hơi nữa rồi anh ta nói tiếp.
- Bả có chồng... Chồng bả là người ở ngoài tỉnh Cà Mau... Ổng là đại đội trưởng của tụi tui. Hồi Tết Mậu Thân tụi nó đánh đồn ổng và một ít anh em bị chết. Từ đó quận cho bả lên thay ổng coi tụi tui. Trung úy biết không bả là đàn bà mà đánh giặc giỏi không thua đàn ông...
Đặng nói hơi dài dường như để có chuyện nói hoặc để cám ơn Khôi đã mời uống cà phê và hút thuốc lá.
- Thôi mình đi...
Khôi trả tiền rồi đứng lên. Đặng cười nói.
- Trung úy cứ vào đồn. Tôi còn phải đi chợ cho vợ của tôi...
Cười chào Đặng Khôi ấn vào tay gói PallMall còn phân nữa.
- Cám ơn trung úy...
Vỗ vai Đặng Khôi cười.
- Không có chi... Mai mốt tôi mời anh chầu cà phê nữa nghe...
Chầm chậm bước trên con đường dẫn vào đồn anh thầm thích thú vì khai thác được chút ít về bí mật của người đàn bà mà anh cảm thấy... Khôi lắc đầu như cố xua đuổi những ý tưởng vu vơ của mình.
Dường như hơi nóng lòng nên thượng sĩ Bang đưa Khôi vào phòng làm việc của cấp chỉ huy. Chờ cho tới khi ông thượng sĩ đại đội phó đã bỏ đi Bà Bùi nói với Khôi bằng giọng có chút hờn mát và có chút gì nhõng nhẽo
- Tôi chờ ông lâu muốn chết...
- Tôi xin lỗi bà... Bà kiếm tôi có chuyện chi?
- Bộ phải có chuyện chi tôi mới kiếm ông sao?
Khôi cười cười vì câu hỏi dấm dẳn của bà trưởng đồn. Hình như còn hờn mát bà ta buông gọn.
- Mời ông theo tôi...
Bà Bùi đi trước dẫn đường. Lát sau hai người bước vào khoảng sân nhỏ bày la liệt súng ống. Thượng sĩ Bang và ba trung đội trưởng đều có mặt. Bà đại đội trưởng cất giọng thanh thanh.
- Súng đã được chúng tôi lau chùi rồi. Đa số là súng mới còn nguyên trong bao nên không bị thấm nước. Chỉ có bốn khẩu M16 thời bị nước vô nòng nhưng chúng tôi không ai biết tháo ra nên còn chờ ông dạy cho lính tháo ráp...
Khôi cầm lấy một khẩu M16 lên quan sát. Súng bị thấm nước mặn cần phải được tháo ra lau chùi cẩn thận.
- Tôi nhờ một anh nào đi xuống tàu gặp nhân viên của tôi và bảo họ đưa cho tôi hai ba cái cây thông nòng súng với mấy chai dầu chùi súng...
Một người lính bỏ đi. Khôi bấm nút lấy băng đạn ra, kéo cơ bẩm ba lần xong đưa súng lên trời rồi bấm cò. Bà Bùi và toàn thể lính đều ngạc nhiên khi thấy Khôi tháo rời khẩu M16 thật lẹ.
- Ông là lính hải quân mà sao rành mấy thứ này quá vậy...
Thượng sĩ Bang cười nói. Khôi nhìn Bà Bùi.
- Nghề của tôi mà... Tôi đã được huấn luyện để có thể tháo ráp từ súng lớn tới súng nhỏ. Hải quân gọi là nghề trọng pháo. Nhiều người còn giỏi hơn tôi nữa. Ông huấn luyên viên của tôi ở Nha Trang còn tháo ráp khẩu đại liên 12 ly 7 mà mắt bị bịt kín...
Người lính trở lại với hai cây thông nòng và ba chai dầu chùi súng. Chỉ trong vòng mười phút Khôi đã làm xong việc lau chùi khẩu M16. Bà Bùi và mọi người xin anh làm chầm chậm để cho mọi người học.
- Chắc tôi phải nhờ ông mỗi ngày lên đây dạy mới được...
Bà Bùi nói và Khôi cười đùa.
- Tôi sẵn lòng miễn là bà cho tôi ăn cơm...
- Gì chứ cơm thời tôi không thiếu... Tiện đây tôi mời ông góp ý kiến về việc bố trí các khẩu đại liên và trung liên...
- Thưa bà việc này tôi không dám đâu... Bà với thượng sĩ Bang và ba trung đội trưởng chắc thông thạo địa hình địa vật hơn tôi...
Bà Bùi nhìn Khôi với ánh mắt như van lơn kèm theo câu nói.
- Tôi xin ông...
Nghe câu nói này Khôi phải miễn cưởng theo bà ta và thượng sĩ Bang bước ra sân.
- Trước khi có ý kiến tôi xin bà và mọi người hãy cho tôi biết là quý vị định bố trí như thế nào?
Thượng sĩ Bang lên tiếng trước nhất.
- Mặt tây có nhiều rừng cây và mô đất là mặt tụi nó hay đánh nhất nên tôi cho trung đội chỉ huy án ngữ với hai khẩu đại liên và một khẩu trung liên. Mặt này sẽ do Bà Bùi coi. Còn ba mặt kia khá trống trải sẽ do hai trung đội còn lại chia nhau giữ nên tôi chỉ cho bố trí một khẩu đại liên và hai khẩu trung liên mà thôi...
- Ông chia như vậy là đúng rồi. Tôi tiếc là không thể cung cấp cho các ông một khẩu M79 tự động...
Thấy mọi người ngơ ngác không hiểu Khôi cầm lấy một khẩu M79 lên rồi từ từ giải thích.
- M79 tự động là thứ vũ khí tối tân mà hải quân Mỹ đã để lại khi họ bàn giao tàu cho tôi. Nó cũng dùng cùng loại đạn như khẩu súng này nhưng thay vì từng trái rời nhau thời được gắn lại thành dây như dây đại liên M60... Để hôm nào tôi mời quý vị xuống tàu bắn thử cho quý vị thấy hiệu lực của nó...
- Chà... Có được một khẩu súng như vậy thời tụi này hết lo tụi nó đánh...
Khôi cười khi nghe một người trung đội trưởng nói.
- Thật ra thời quý vị cũng không cần lắm đâu. Vả lại dù có súng mình cũng không có đủ đạn để bắn. Ngay cả tàu của tôi cũng ít khi xài tới nó...
Sau khi được Khôi chỉ dạy cách tháo ráp súng M16 Bà Bùi cười nói.
- Bây giờ tới phiên ông dạy cho họ cách bắn các loại súng này...
- Ủa tôi tưởng quý vị đã bắn thử rồi...
- Anh em ham quá đòi bắn nhưng tôi bảo chờ ông...
Mọi người xách súng đạn theo Khôi và Bùi ra bên trái của đồn.
- Quý vị thấy thân cây lớn đằng kia không?
Theo tay chỉ của Khôi mọi người thấy thân cây thật lớn cách chỗ họ đứng chừng sáu bảy chục thước.
- Loại đại liên mới này nhạy hơn loại đại liên 30 cũ rất nhiều cho nên quý vị đừng có miết cò mà cố bắn cầm chừng từ ba tới năm viên là tốt nhất...
Bà Bùi và ông thượng sĩ nhìn nhau khi thấy Khôi bắn đại liên. Rất đều đặn, nhịp nhàng và liên tục anh bóp cò từng loạt từ ba tới năm viên. Bắn như vậy chính xác hơn đồng thời còn tiết kiệm đạn. Khi Khôi ngưng tay thượng sĩ Bang nói đùa.
- Hải quân mà ông bắn chì quá ngay cả tôi cũng chịu thua luôn...
Bà Bùi nhìn Khôi cười.
- Chắc ông Khôi phải tập bắn ở đâu đó trước khi vào hải quân...
Khôi cười im lặng vì câu nói dò đường của bà đại đội trưởng. Chờ cho các ông trung đội trưởng bắn thử xong bà ta mới cười nói với Khôi.
- Bây giờ tôi mời ông về nhà tôi dùng cơm trưa. Ông là cục nợ của tôi đấy nghe chưa...
Nói xong câu đó dường như biết mình lỡ lời bà ta đưa tay bụm miệng rồi cất tiếng cười như để che lấp câu nói của mình. Hai người bước song song trên khoảnh sân rộng. Thấy Khôi im lặng cúi đầu bước Bà Bùi lên tiếng.
- Tôi lỡ lời xin ông đừng giận...
Khôi quay nhìn người đàn bà đang sóng bước với mình.
- Tôi đâu có giận bà... Tôi còn cám ơn bà là đàng khác... Là cục nợ cho nên tôi sẽ theo bà hoài... Bà đi đâu tôi đi đó...
Bà Bùi cười thánh thót. Da mặt của bà ta hơi hồng lên và ánh mắt cũng long lanh sáng. Như không muốn cho Khôi biết bà ta rảo bước đi vào nhà trước.
- Mời ông ngồi... Ông có thể đọc sách trong lúc chờ tôi hâm nóng cơm canh...
Khôi quay người nhìn chồng sách cao. Thấy có quyển Mưa Đêm của Võ Phiến anh cầm lấy xong bước tới đứng cạnh khung cửa sổ nhỏ nhìn ra ngoài trời. Nắng chói chang. Rừng cây xanh xanh. Khôi có cái tật ham đọc sách. Khi đã cầm cuốn sách là anh ít khi chịu ngưng đọc trừ trường hợp bất đắc dĩ. Tiếng tằng hắng vang lên khiến cho Khôi phải ngước lên.
- Mời ông...
Trả cuốn sách lại chỗ cũ Khôi cười.
- Xin lỗi bà tôi có tật xấu là cầm cuốn sách lên là phải đọc cho xong...
- Tôi cho ông mượn mang về tàu đọc khi nào trả lại cũng được...
- Cám ơn bà nhưng ở tàu tôi có nhiều sách lắm...
Bà Bùi nói trong lúc bới cơm ra chén.
- Cơm nguội ông đừng chê...
- Tôi nhớ thi sĩ Tản Đà có nói cơm không ngon, giờ ăn ngon, người ngồi ăn ngon thời ăn cũng ngon...
- Cám ơn ông... Tôi cũng nghĩ như ông...
- Chắc bà thích đọc sách?
- Ông tính điều tra về cái bí mật của tôi phải không?
- Không... Tôi tò mò...
- Thưa ông tôi nhiễm cái tính của ba tôi... Ông có nguyên kho sách tại nhà... Cũ mới gì cũng có...
- Chắc gia đình bà ở Sài Gòn?
Ngưng ăn Bà Bùi nhìn Khôi.
- Ông cũng ở Sài Gòn phải không?
Hai người đồng bật cười vui vẻ. Không ai trả lời câu hỏi của ai vì họ đều có câu trả lời. Hỏi chỉ là cách để xác định mà thôi.
- Tôi nói ra ý kiến này xem ông có đồng ý không. Để cho cuộc điều tra của " mình " khỏi mất nhiều thời giờ tôi sẽ hỏi một câu và ông phải trả lời, thành thật trả lời. Phần tôi cũng vậy. Ông chịu không?
- Chịu... Như vậy đỡ mất công của hai đứa mình...
Bà Bùi cười thánh thót.
- Mời ông hỏi trước...
- Mời bà hỏi trước...
- Ông ở binh chủng nào trước đây?
Bà Bùi thấy Khôi hơi do dự nhưng cuối cùng cũng trả lời gọn.
- Biệt Động Quân thưa bà...
Đặt đôi đũa xuống bàn Khôi nhìn thẳng vào mặt của người đối diện.
- Tên thật của bà là gì?
Bà Bùi nhìn Khôi và bắt gặp anh đang nhìn mình cười cười. Thoạt đầu bà ta định không nói thật nhưng sau đó nghĩ mình làm như thế không đứng đắn. Mình đã giao hẹn là phải nói thật do đó phải giữ lời.
- Thùy Dung là tên của tôi...
Khôi mỉm cười. Đặt ra câu hỏi anh có ý muốn thăm dò sự thành thật của người đối thoại. Anh cố ý hỏi một câu mà mình đã biết câu trả lời để xem Bà Bùi trả lời thành thật hay dối trá.
- Cháu Thùy Trâm ngoan và dễ thương lắm thưa bà...
Đưa tay bụm miệng để khỏi bật lên tiếng kêu ngạc nhiên Bà Bùi hay Thùy Dung nghĩ thầm.
- Hú vía... Mình mà nói dối là chết rồi. Hóa ra ổng biết tên của mình mà ổng làm bộ hỏi để thử mình. Ông lính biệt động-hải quân này ma mãnh lắm. Trả lời lạng quạng là chết với ổng liền...
Khôi cười thầm khi nhìn đôi mắt mở lớn của Thùy Dung. Đôi mắt đen dài với hai hàng mi cong nhìn mình với vẻ gì là lạ.
- Ông đã gặp con gái tôi?
Khôi nhẹ gật đầu.
- Cách đây mấy ngày tôi đậu tàu gần chợ để phát quà cho mấy em nhỏ. Khi phát quà gần xong thời có một bé gái tới tàu hỏi.
- Bác ơi bác... Bác có kẹo cho cháu hôn bác?
Thùy Dung mỉm cười khi nghe Khôi nhại giọng của con gái mình.
- Tôi nói tôi có nhiều thứ kẹo lắm vậy cháu muốn thứ nào. Cháu trả lời là thứ nào cháu cũng muốn hết. Nhưng cuối cùng cháu mới nói với tôi là cháu chỉ xin một phong chewing cho cháu và một lon trái cây cho má của cháu. Thấy đứa bé xinh xắn, dễ thương và ăn nói lễ phép tôi đoán cháu không phải là đứa bé sinh trưởng ở vùng này. Động tính tò mò tôi mới hỏi cháu tên gì. Cháu nói cháu tên Thùy Trâm. Tôi lại hỏi má của cháu tên gì. Cháu hỏi lại tôi là muốn biết tên má của cháu để làm gì...?
Khôi ngừng lại.
- Để tôi bới thêm cơm cho ông. Rồi ông trả lời con Thùy Trâm ra sao?
- Tôi phải nói tránh là tôi muốn biết tên vậy mà. Tên của cháu đẹp như vậy thời tên của má cháu còn đẹp hơn nữa...
Thùy Dung ngừng ăn. Tay chống càm nàng ngoẹo đầu nhìn Khôi. Vành môi son của nàng hơi mím lại như cố giữ để không cười.
- Tôi phải hứa với cháu Thùy Trâm là tôi không có học lại với má của nó thời cháu mới chịu nói tên. Thật ra lúc đó tôi chưa biết cháu Thùy Trâm là con của bà cho tới ngày hôm sau ngồi uống cà phê tôi tình cờ thấy bà nắm tay cháu bé.
- Ông kể cho tôi nghe chuyện này như vậy là ông thất hứa với con tôi rồi...
- Tôi biết... Có dịp gặp lại cháu tôi sẽ xin lỗi cháu... Mấy ngày nay lên đây tôi không thấy cháu thưa bà...
- Ba má tôi xuống đón cháu về Sài Gòn ở... Thùy Trâm đến tuổi đi học nên phải về ở với ông bà ngoại...
- Nhà bà thuộc quận nào ở Sài Gòn?
- Tôi ở khu Hàng Xanh gần cư xá Thanh Đa. Còn ông?
- Nhà ba má tôi ở Tân Định...
- Tại sao ông muốn biết tên của tôi?
- Tại vì tôi không thích gọi bà bằng Bà Bùi. Ít nhất bà Thùy Dung cũng nghe êm tai hơn... Thật ra tôi muốn gọi bà bằng một cách khác nhưng thôi tôi tạm bằng lòng với cái tên Thùy Dung...
- Lý do gì mà ông trở thành lính hải quân?
Khôi buông đũa.  Hớp ngụm nước lạnh anh cười đùa.
- Câu hỏi của bà có nằm trong phạm vi cuộc điều tra của chúng ta không?
Hơi lắc đầu Dung cười nói đùa bằng cái giọng như ra lệnh.
- Không cần biết... Tôi hỏi và ông phải trả lời câu hỏi của tôi... Thi hành trước rồi khiếu nại sau nghe chưa?
Khôi cười thầm vì cái giọng giả oai quyền của Thùy Dung.
- Dạ tôi biết thưa bà đại đội trưởng...
- Ông tính làm lơ câu hỏi của tôi à...
- Năm 1962 tôi bị động viên đi học trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Sau khi mãn khóa tôi xin về biệt động quân. Ba năm sau tôi đậu tú tài 1 và được đơn vị đề nghị đi học khóa sĩ quan đặc biệt. Không biết vì lý do gì mà sau khi mãn khóa học tôi lại bị đưa về hải quân. Tôi có làm đơn khiếu nại nhưng cũng không đi tới đâu. Khăn gói về trình diện hải quân tôi được biệt phái cho toán Biệt Hải chuyên đổ bộ ra bắc. Mấy năm sau đơn vị này giải tán và tôi trở thành lính hải quân dù tôi không thích... Tuy nhiên cũng nhờ là lính hải quân mà tôi mới có dịp may gặp bà...
- Ông chờ tôi dọn dẹp xong rồi tôi với ông đi một vòng cho tiêu cơm...
Lát sau Khôi và Thùy Dung đứng nơi khoảnh sân rộng ngó ra bờ sông. Trời trong và cao xanh không chút mây. Gió nhè nhẹ. Như không hẹn họ cùng bước ra gần hàng rào kẽm gai xa dần khu gia binh đông người. Họ đứng cạnh nhau im lặng không nói như đang bận tâm suy nghĩ chuyện gì.
Đang đứng im Khôi chợt nghe được âm thanh lạ. Đó là tiếng départ của súng cối 82 ly. Âm thanh chưa dứt anh nghe tiếng hú vút qua đầu rồi tiếp theo hai ba tiếng départ khác.
- Pháo ... Pháo kích...
Bằng phản ứng tự nhiên Khôi nhào tới ôm chầm lấy Thùy Dung rồi hai người ngã xuống đất. Ầm... Ầm... Ầm... Hàng loạt tiếng nổ đinh tai nhức ốc. Đất bụi rơi ào ào hòa lẫn trong tiếng người la hét. Đợi cho tiếng pháo kích im hẵn Khôi mới nhẹ hỏi.
- Thùy Dung có sao không?
Thùy Dung không trả lời. Dường như nàng còn đang bàng hoàng vì sợ hãi hay e thẹn khi bị Khôi đè lên người.
- Ông Khôi...
- Thùy Dung có sao không?
Khôi hỏi lại lần nữa.
- Tôi không có sao... Ông ôm tôi chặt quá làm tôi ngộp thở...
Khôi cười. Anh cảm thấy chút gì xao xuyến khi đang nằm đè lên thân hình mềm ấm của Thùy Dung. Nhìn vào đôi mắt long lanh của nàng anh nhẹ giọng.
- Tôi xin lỗi bà...
Thùy Dung nói bằng giọng cảm động.
- Ông không có lỗi gì hết. Tôi phải cám ơn ông mới đúng. Ông cứu mạng tôi mà...
Khôi cười im lặng đứng lên. Thùy Dung cũng đứng lên phủi quần áo.
- Ông thính tai thật... Chắc hồi còn ở biệt động ông quen nghe tiếng pháo kích...
- Bà làm ơn đừng nói cho ai biết dĩ vãng của tôi...
Khôi nói với giọng năn nỉ. Thùy Dung cười.
- Tôi hứa... Đó là bí mật của tôi và ông...
Khôi nói với Thùy Dung bằng giọng nghiêm nghị.
- Chúng ta cần phải khóa họng mấy khẩu 82 này không thôi là có ngày chết với nó...
- Mình làm bằng cách nào?
Thùy Dung mỉm cười khi biết mình dùng chữ " mình " nhưng Khôi lại không để ý.
- Tiếng départ phát xuất từ bên kia sông. Như vậy thời tụi nó phải đặt súng ở bên đó. Hồi nãy tôi vừa nghe tiếng départ là đạn nổ liền như vậy tụi nó phải đặt súng gần lắm. Sáng mai tôi với Thùy Dung dẫn một tiểu đội qua đó tìm dấu vết rồi mình sẽ chấm tọa độ sẵn để phản pháo...
Thùy Dung liếc Khôi rồi cúi mặt xuống dấu nụ cười. Nàng cũng không lên tiếng phản đối khi được Khôi gọi bằng tên. Ngước lên len lén nhìn nàng thấy một khuôn mặt xương xương. Sóng mũi cao có hơi gãy một chút ngay chính giữa. Cái miệng nhỏ. Cặp môi mỏng hơi mím lại. Khôi là đàn ông nhưng lại có đôi mắt đẹp. Đó là cặp mắt lá răm. Lá rau răm. Thùy Dung nghĩ thầm như thế. Cặp mắt lá rau răm của ổng mà trộn với thịt gà thời ngon tuyệt. Thùy Dung không hiểu tại sao mình lại có ý nghĩ kỳ cục như vậy. Đôi mắt dài có đuôi, sáng long lanh với hai hàng lông mi dài và cong vút. Ổng có cặp lông mi giống như con Thùy Trâm và...
- Ông Khôi...
Đang miên man suy nghĩ nghe tiếng gọi bên tai Khôi mỉm cười quay nhìn Thùy Dung.
- Mặt của Thùy Dung dính bụi đất nhiều lắm...
Liếc một vòng quanh quất thấy không có ai Thùy Dung nói nhỏ.
- Ông lau mặt dùm tôi đi...
- Cái này có phải là thi hành trước khiếu nại sau phải không bà...
Khôi đưa tay áo lên lau mặt cho Thùy Dung trong lúc nói đùa.
- Thôi mình đi vào... May mà tụi nó pháo có mấy trái và không lọt vào khu gia binh...
Thùy Dung quay lưng bước sau khi nói. Khôi chầm chậm lên tiếng.
- Tụi nó pháo thử đó... Lần sau sẽ chính xác hơn...
Trở vào nhà Thùy Dung được thượng sĩ Bang báo cáo là không có ai bị thương. Viện lý do cần liên lạc với bộ chỉ huy Khôi cáo từ và hẹn với Thùy Dung đúng mười giờ sáng mai.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
3.
 
Đưa tay lên xem thấy gần 11 giờ đêm Thùy Dung gấp cuốn sách lại rồi vặn lu ngọn đèn dầu lửa. Đúng ra nàng cần phải tắt đèn để tiết kiệm nhưng nàng không muốn vì sợ ngủ trong bóng tối. Hơn ba năm sau ngày chồng chết nàng sợ ngủ một mình trong bóng tối. Chút ánh sáng lờ mờ nhưng đủ cho nàng thấy đỉnh mùng trắng ngà. Tự dưng nàng thở dài ứa nước mắt. Đôi mắt to và sáng. Nụ cười dễ thương. Giọng nói chậm và nhỏ nhẹ. Đạt hiền như con gái mới lớn. Sau khi quen nhau một thời gian nàng đưa Đạt về nhà giới thiệu với gia đình. Má của nàng rất chịu Đạt. Bà nói Đạt hiền nên không sợ đứa con gái cưng của mình bị chồng ăn hiếp. Còn ba của nàng không nói gì ngoài một câu. " Nó hiền quá mà mấy người hiền thường hay chết sớm ". Không biết điều này có đúng với người khác không nhưng lại đúng trong trường hợp của Đạt.
Thùy Dung cười trong bóng tối mờ mờ khi hồi tưởng lại lần đầu tiên gặp Đạt. Hồng Hạnh. bạn của nàng bồ với Khoa bị động viên vào Thủ Đức. Hồng Hạnh rủ nàng đi thăm Khoa và gặp Đạt. Mãi sau này khi dự đám cưới Hồng Hạnh mới tiết lộ cho nàng biết là Khoa vì tội nghiệp người bạn cùng phòng nên mới ngầm xếp đặt cho nàng với Đạt quen nhau. Khi vừa gặp nhau Khoa cười nói với nàng.
- Tôi hân hạnh giới thiệu với Thùy Dung đây là Đạt, bạn cùng giường với tôi. Nó nằm giường trên còn tôi nằm giường dưới. Nó hiền và nhà quê lắm nên Thùy Dung không sợ bị nó ăn hiếp đâu...
Đạt chỉ cười mà không nói trả lại câu nói đùa của bạn.
- Quê anh Đạt ở đâu?
- Dạ thưa cô tôi ở Cà Mau...
Thùy Dung cười nghĩ thầm. Ông này đúng là hiền và nhà quê. Nói chuyện với mình mà ông dạ thưa giống như mình là má vợ hay là huấn luyện viên của ông không bằng.
- Cà Mau chắc vui lắm hả anh Đạt?
Đang ngồi với chuyện với bồ Khoa cười lớn xen vào.
- Cà Mau mà vui gì. Thùy Dung không nghe người ta nói câu: " Ở đâu vui bằng xứ Cạnh Đền. Muỗi kêu như sáo thổi đỉa lội lền như bánh canh...".
- Có đúng như vậy không anh Đạt?
Đạt cười nói với nàng.
- Dạ đúng như vậy thưa cô. Đỉa ở Cà Mau nhiều lắm nhất là xứ Cạnh Đền. Cứ bỏ chân xuống nước là chút sau đỉa bu đầy cả chân...
- Nghe anh nói ghê quá ai mà dám ăn bánh canh...
Câu xác nhận của Đạt khiến cho Thùy Dung từ đó về sau không dám ăn bánh canh. Nàng nói với Đạt là mỗi lần ăn bánh cạnh nàng lại nhớ tới đỉa cho nên nhất định không ăn. Đạt muốn ăn, thèm ăn nàng nấu cho ăn riêng nàng không đụng đũa tới tô bánh canh.
Mãi cho tới sau này khi lấy Đạt, có con với nhau và ngay cả khi Đạt đã chết Thùy Dung  cũng không hiểu vì sau mình lại lấy Đạt. Nàng biết mình lấy Đạt vì tình yêu nhưng hỏi vì sao mình yêu cái anh chàng hiền như phật đó nàng cũng không tìm ra lý do. Đạt không đẹp trai hơn những người bạn trai cùng xóm của nàng. Đạt cũng không ăn nói có duyên vì anh ít nói và trầm lặng. Đạt cười nhiều hơn nói. Đạt là mẫu người nếu không thương được thời người ta cũng không ghét. Sau khi mãn khóa Đạt được về phục vụ tại quê nhà vì lý do gia cảnh. Vả lại đâu có ai thèm tranh dành với anh về Cà Mau, cái xứ khỉ ho cò gáy. Hơn một năm nàng với Đạt không có gặp nhau mà chỉ liên lạc qua thư từ. Một hôm khi đi học về nàng ngạc nhiên khi thấy Đạt ngồi nói chuyện với ba má của mình. Lý do mà Đạt lên Sài Gòn là xin phép cho nàng xuống Cà Mau chơi một tuần lễ. Dù bận học, dù không muốn lắm nhưng nàng không thể từ chối khi nhìn cái mặt hiền như phật và buồn hiu của Đạt. Nàng không ngờ một tuần lễ ở Cà Mau đã thay đổi cuộc đời của mình. Xuống tới Cà Mau ở nhà Đạt một tuần lễ nàng mới có dịp hiểu và thương anh nhiều hơn. Do đó nàng không chút do dự khi nhận lời lấy Đạt. Đám cưới thật đơn giản. Sau đám cưới nàng về Cà Mau sống. Nhờ có bằng tú tài 1 nàng xin được chân thơ ký trong tòa án. Cuộc sống ở tỉnh lỵ yên bình, nhàn hạ và nàng bằng lòng với hạnh phúc đang có. Nàng còn vui mừng hơn khi biết mình mang thai. Tuy nhiên cuộc đời không êm xuôi như nàng mong ước. Chiến tranh càng ngày càng gia tăng. Tiểu khu Cà Mau định thiết lập một căn cứ mới nằm ngay trên ngã ba của sông Bảy Hạp và con rạch Năm Căn với mục đích kiểm soát và dò xét hoạt động của Việt Cộng trong hai quận Năm Căn và Cái Nước. Không ai muốn lãnh một căn cứ nằm trong vùng địch kiểm soát. Hiền như phật và không biết chạy chọt Đạt được tiểu khu thăng chức trung úy và chỉ huy căn cứ Bảy Hạp. Thế là hai vợ chồng khăn gói tới căn cứ trong lúc nàng đang mang bầu ba tháng. Đạt không muốn vợ đi theo anh vào chỗ nguy hiểm nhưng nàng nhất định đi theo. Nàng đã nói với Đạt là chồng đâu thời vợ đó. Những ngày mới tới cái căn cứ buồn hiu này nàng khóc nhiều hơn cười. Tuy nhiên rồi  nàng cũng gượng vui để chấp nhận hoàn cảnh làm vợ của một người lính tiền đồn....
Ầm... Ầm... Ầm... Những tiếng nổ khủng khiếp rung rinh nhà cửa khiến cho Thùy Dung giật mình. Chụp vội khẩu súng, không kịp mang giày nàng chạy ra khỏi nhà.
- Bà Bùi... Bà Bùi... Tụi nó pháo tàu... Tàu của ông Khôi...
Thượng sĩ Bang nói với cấp chỉ huy của mình. Hơi gật đầu Thùy Dung hỏi.
- Mình có ai bị gì không?
- Chắc tụi nó không có ý pháo mình nên chỉ có vài trái rớt ngoài hàng rào...
Thùy Dung không hỏi nữa. Nàng nghe tiếng đạn nổ cùng với ánh lửa lòe chớp nơi ba chiến đỉnh của Khôi. Nàng với ông thượng sĩ nghe được hàng loạt tiếng bụp bụp rồi lát sau tiếng nổ rền trong bìa rừng.
- Đạn ở đâu mà họ bắn dữ quá...
Thượng sĩ Bang lên tiếng. Bà Bùi lên tiếng giải thích.
- Ông Khôi có nói với tôi là một chiếc tàu có súng đạn nhiều hơn đại đội của mình. Nay thấy họ bắn tôi mới tin...
Tiếng súng rời rạc rồi im hẵn ngoại trừ tiếng máy tàu nổ sình sịch trong đêm khuya.
- Chắc hết rồi... Bà vào nhà đi kẻo sương xuống lạnh...
- Ông cứ vào nhà ngủ trước đi...
Thượng sĩ Bang bỏ đi chỉ còn Thùy Dung đứng im nhìn về hướng bờ sông. Trong bóng đêm mờ mờ nàng thấy bóng của người nào đó giống như Khôi đứng trơ vơ trên mui tàu.
Trời sáng rõ. Nắng long lanh từng hạt đọng trên nền đất đen. Khi Thùy Dung và lính tới Khôi đã sẵn sàng.
- Ông và anh em có sao không?
Khôi cười tươi dù ánh mắt có vẻ mỏi mệt sau một đêm thiếu ngủ.
- Tụi nó bắn bảy tám trái mà không trúng... Tuy nhiên nếu mình không khóa họng thời lần sau sẽ lãnh đủ... Trên đồn chắc không có ai bị gì hả bà?
- Có tôi... Tôi bị mất ngủ vì sợ... vì lo...
Thùy Dung bỏ lững câu nói hơi tối nghĩa mà chỉ có người trong cuộc như Khôi mới hiểu. Mỉm cười Khôi hỏi nhỏ.
- Bà sợ gì? Lo gì?
Hơi cúi đầu xuống Thùy Dung nói thật nhỏ như không muốn cho mấy người lính nghe được.
- Tôi sợ gì... Tôi lo gì ông biết mà...
Liếc qua bên trái Khôi thấy đôi mắt long lanh đang nhìn mình.
- Thầy bói nói tôi có số chết vì tình hơn là chết vì súng đạn...
Bà chỉ huy trưởng căn cứ Bảy Hạp cười nhỏ.
- Cái đó thời tôi chưa biết...
Tàu quẹo vào rạch Năm Căn chừng năm ba trăm thước xong dừng lại. Dặn dò nhân viên canh gác cẩn thận Khôi và Thùy Dung chỉ huy tiểu đội lên bờ lục xoát. Đi sâu vào trong họ thấy có nhiều dấu chân còn mới. Cạnh một mô đất lớn họ tìm được nhiều vỏ đạn 82.
Thùy Dung đứng nhìn Khôi vừa đi vừa đếm bước từ chỗ mô đất ra tới bờ sông đoạn rút sổ tay ghi chép.
- Ông làm gì vậy?
- Tôi đo khoảng cách từ chỗ tụi nó đặt súng tới bờ sông để tính cách phản pháo. Hể tụi nó vừa bắn mà mình phản pháo trúng là tụi nó im liền...
- Ông học ở đâu vậy?
Khôi cười không trả lời.
- Ông Khôi...
Thùy Dung kêu với giọng nũng nịu. Khôi trả lời nhát gừng.
- Học ở trường chứ ở đâu...
- Trường nào?
Thùy Dung vặn.
- Trường trung học Võ Trường Toản...
- Tôi cũng học mà sao tôi không biết...
Khôi cười trong lúc ghi chép vào cuốn sổ tay.
- Bà biết làm chi những thứ giết người này... Đáng lẽ bà nên ở Sài Gòn hơn là giam mình trong cái tiền đồn heo hút...
Thùy Dung cố giấu tiếng thở dài như không muốn cho Khôi nghe được. Từ lúc đó cho tới khi lên tàu nàng có vẻ tư lự. Riêng Khôi mãi lo ghi chép và tính toán nên không thấy được.
Ra lịnh cho lính về đồn xong Thùy Dung nói với Khôi.
- Tôi đói bụng mà làm biếng về đồn nấu cơm. Tôi mời ông ra chợ ăn hủ tiếu...
- Tôi nhận lời nhưng bà phải để tôi trả tiền...
Hơi nhún vai Thùy Dung buông gọn.
- Hân hạnh...
Hai người bước song song trên con đường đất một bên là bờ sông còn một bên là hàng rào kẽm gai.
- Ông nhớ Sài Gòn không?
- Thỉnh thoảng... Dường như thỉnh thoảng nhớ thời mình lại nhớ thật nhiều. Bà xa Sài Gòn lâu chưa?
- Hơn một năm... Còn ông?
- Hai năm... Nhiều khi tôi chẳng muốn về Sài Gòn nữa. Bạn bè tản mạn khắp nơi. Gia đình thời không có...
Thùy Dung quay nhìn Khôi.
- Ba má ông không có ở Sài Gòn à?
- Ba tôi mất khi tôi còn nhỏ còn má tôi mất ba năm rồi. Tôi có người chị trước ở Sài Gòn sau chỉ theo chồng ra Nha Trang nên tôi chẳng còn ai ở Sài Gòn... Nhiều khi về phép tôi chỉ ở một hai ngày rồi đi...
Thùy Dung liếc người bạn đồng hành rồi mỉm cười vu vơ. Nhìn người đi bên cạnh Khôi lên tiếng.
- Bà nghĩ là tôi tả oán phải không?
- Làm sao ông biết tôi nghĩ ông tả oán...
Thùy Dung đưa tay lên bụm miệng vì biết đã lỡ lời. Nói như thế chẳng khác nào tự mình tỏ lộ cho người ta biết. Một vài người lính trong đồn chắp tay chào khi thấy Thùy Dung và Khôi đi với nhau. Hai người bước vào quán hủ tiếu. Chọn một cái bàn trong góc nhìn ra bờ sông Thùy Dung cười nói với Khôi.
- Nhiều lúc ngồi đây tôi có cảm tưởng như ngồi ở Sài Gòn...
Khôi cười nhìn Thùy Dung.
- Tôi cũng thế... Dòng sông này ở một lúc nào đó tôi tưởng như sông Sài Gòn. Nó khiến tôi nhớ lại lần đầu tiên đi với bồ...
Thùy Dung làm bộ ngó ra dòng sông khi nghe câu nói của Khôi.
- Bà uống và ăn gì?
- Tôi xin ông một ly đá chanh và một tô hủ tiếu...
Khôi gọi hai tô hủ tiếu và hai ly đá chanh. Trong lúc ngồi đợi hai người im lặng ngó mong ra dòng sông Bảy Hạp. Nước lớn lừ đừ chảy. Mấy đứa con nít tắm sông cười hét vang vang. Thân cây khô chết trơ trọi. Đất sình đen đũi bốc mùi ngai ngái. Cảnh vật buồn và không có gì để nhìn ngắm. Hai ly nước đá chanh được đặt lên bàn.
- Mời ông...
- Mời bà... Tôi uống mừng cho...
- Ông muốn nói cho cái gì?
Khôi cười hớp ngụm nước như cố tình kéo dài thời gian để tìm câu trả lời.
- Cho tình bạn của tôi với bà... Bà đồng ý không?
Thùy Dung gật đầu cười cầm ly khuấy nước đá. Âm thanh của cái muỗng chạm vào thành ly nghe vui tai.
- Bạn thời tôi nhận... Tôi rất vui mừng có một người bạn tốt như ông...
- Cám ơn bà... Riêng tôi hân hạnh có được một người bạn đặc biệt như bà...
Chống tay lên càm Thùy Dung hơi nghiêng đầu nhìn Khôi.
- Tôi đặc biệt ở điểm nào?
- Nhiều điểm lắm...
- Đâu ông nói cho tôi nghe...
Khôi lắc đầu cười.
- Đó là một bí mật của tôi...
- Tôi muốn ông nói cho tôi nghe...
- Không... Bà phải tự tìm hiểu...
- Ông nhất định không nói hả?
Khôi cười lắc đầu trước sự hăm he của Thùy Dung.
- Ông cứng đầu lắm...
- Ông chồng của bà hiền lắm phải không?
- Ừ... Ổng hiền như ông phật. Tôi muốn gì cũng được...
- Bởi vậy bà mới hư...
Thùy Dung sầm mặt xuống.
- Ê... Tôi không có hư đâu nghe... Ông đừng có nói oan cho tôi...
Đón lấy tô hủ tiếu, đặt trước mặt Thùy Dung Khôi cười làm hòa vì biết mình lỡ lời.
- Tôi xin lỗi bà... Bà ăn hủ tiếu đi cho bớt giận...
- Ai thèm giận ông làm chi cho mệt...
Tuy nói là không giận nhưng Thùy Dung lại cúi đầu ăn không nói năng gì hết. Nàng ăn thật chậm. Thỉnh thoảng lại ngưng đũa nhìn ra bờ sông.
- Cháu Thùy Trâm chừng nào mới xuống thăm bà?
- Tôi không biết...
Khôi cười vì câu trả lời nhát gừng của Thùy Dung.
- Tôi có hứa với cháu là khi nào gặp lại tôi sẽ cho cháu một món quà...
Thùy Dung ngước lên nhìn Khôi với ánh mắt nửa dò xét nửa nghi ngờ.
- Ông nói thật hay là ông phịa ra để cho tôi hết giận?
Bị Thùy Dung gặn hỏi Khôi đành phải thú thật:
- Vì lỡ thất hứa với cháu do đó tôi tính chuộc lỗi bằng cách mua cho cháu một món quà...
- Ông tính mua kẹo cho nó hả... Ông đừng đem kẹo dụ con nít để khai thác nó...
Thùy Dung muốn cười nhưng cố gắng mím môi lại để không cho tiếng cười phát ra đồng thời nghiêm nét mặt để cho Khôi tưởng nàng vẫn còn giận. Bỗng dưng nàng muốn hành ông lính hải quân đang ngồi trước mặt mình cho bỏ ghét. Dù quen biết không lâu nàng nhận thấy Khôi có một nhiều điểm khác hẵn Đạt. Người chồng của nàng hiền lành quá do đó lắm khi trở thành nhu nhược. Khôi không dữ mà cũng không hiền. Khôi cứng đầu và cương quyết, nhiều khi quá cương quyết. Khôi tự tin, kiêu hãnh ngầm và có chiều sâu. Là người tự tín thêm kiêu hãnh cho nên từ khi gặp Khôi nàng cảm thấy tự tín và kiêu hãnh của mình bị va chạm hay tổn thương. Nàng phục nhưng có lúc lại thấy ghét Khôi.
- Bà nghĩ về tôi phải không?
Quái... Bộ ông này có thuật đọc được ý nghĩ của người khác sao mà ổng biết mình nghĩ về ổng. Từ ý nghĩ đó Thùy Dung buộc lòng phải chối.
- Ông là gì mà tôi phải nghĩ về ông?
Đưa ly nước lên uống một ngụm Khôi cười.
- Bà muốn nghe những nhận xét của tôi về bà không?
Thùy Dung ngước lên nhìn người đối thoại. Trong óc nàng hiện lên một ý nghĩ là ông này muốn cái gì đây mà dám phê bình người khác...
Giọng nói của Khôi vang lên chậm và đều đặn.
- Đây là những ý nghĩ thẳng thắn và thành thật của tôi cho nên nếu có va chạm tới tự ái của bà tôi xin bà đừng phiền giận...
Ngừng lại uống ngụm nước đá chanh xong Khôi mới hắng giọng. Trong lúc nói anh nhìn vào mặt của người đối diện như để dò xét hoặc đo lường phản ứng. 
- Sau nhiều lần gặp gỡ và chuyện trò tôi biết bà là một người đàn bà đặc biệt. Bà tự tín, cương quyết, kiêu hãnh...
Thùy Dung cười nói thầm trong trí não. Ông có thua gì tôi đâu. Sợ ông còn hơn tôi nữa kìa...
- Ba điều đó có thể do trời sinh hay do hoàn cảnh hoặc do cả hai. Nhiều khi tôi tự hỏi có cái gì khiến cho một người đàn bà đẹp, thông minh, khôn ngoan lại chịu giam mình ở chốn đèo heo hút gió này. Phải có cái gì đặc biệt lắm mới khiến cho bà ta bỏ phí thời xuân sắc của mình...
Ông ta bắt đầu nịnh mình, đưa mình lên mây xanh rồi chút nữa sẽ buông cho mình rớt xuống bùn. Thùy Dung cười thầm.
- Ý nghĩ đó ở mãi trong đầu khiến cho tôi phải điều tra về bà. Xuyên qua những điều dò hỏi và suy nghĩ riêng tư tôi tạm thời có một kết luận...
Dừng lại ở đó như chờ nghe câu nói của người đối thoại nhưng thấy Thùy Dung vẫn im lặng Khôi tiếp tục.
- Chồng bà được tiểu khu Cà Mau ủy nhiệm về đây thiết lập căn cứ Bảy Hạp, một vị trí quan trọng vì có thể dò xét mọi hoạt động của địch trong hai quận Cái Nước và Năm Căn. Cũng vì tính chất quan trọng này mà địch đã mấy lần định triệt hạ căn cứ song không thành công. Mặc dù không thành công nhưng chúng đã giết chết chồng bà. Hành động này va chạm mạnh mẻ tới tự ái và niềm kiêu hãnh của cô gái Sài gòn. Thù chồng lại thêm tự ái bị va chạm, bà đứng lên thay thế chồng để giữ vững căn cứ này. Bà muốn làm một Trưng Vương của thời xa xưa hay gần đây hơn là Bùi Thị Xuân. Bà muốn chứng tỏ cho kẻ địch biết rằng chúng có thể giết chết chồng bà nhưng không thể hủy diệt được ý chí của ông ta... Bà họ Bùi và sâu xa hơn họ Bùi còn là họ của nữ danh tướng Bùi Thị Xuân bởi vậy bà mới tự gọi mình là Bà Bùi...
Khôi dứt lời. Không khí im lặng trừ tiếng thở dài thầm lặng của Thùy Dung.
- Giỏi lắm... Ông còn giỏi hơn Tống Văn Bình nữa...
- Tôi không biết bằng cách nào mà bà được chi khu Cái Nước hoặc tiểu khu Cà Mau cho phép thay thế chồng làm chỉ huy trưởng căn cứ Bảy Hạp...
Thùy Dung ngắt lời Khôi.
- Đó là một bí mật của tôi...
Thùy Dung cười nhìn Khôi như muốn nói ông có tài thời ông hãy khám phá ra bí mật đó đi. Uống thêm ngụm nước đá chanh người lính hải quân gật gù.
- Tôi biết... Tôi hy vọng và chờ đợi dịp may để tìm ra bí mật của bà...
- Tôi nóng lòng chờ nghe ông tiết lộ về bí mật này...
Thùy Dung uống cạn ly nước. Câu nói của nàng như là một thách thức.
- Bà hết giận chưa?
- Tuy chưa hết giận nhưng đủ để cho tôi có thể ngồi nói chuyện với ông. Lần sau ông đừng chọc giận tôi nữa nghe...
Khôi le lưỡi cười đùa.
- Dạ thưa Bà Bùi em xin chừa...
Thùy Dung cười nhỏ vì câu nói đùa của người bạn trai. Trả tiền xong hai người trở lại tàu. Dừng nơi cổng đồn Thùy Dung hỏi.
- Ngày mai ông có lên đồn dạy cho lính tôi tháo ráp súng không?
Khôi cười lắc đầu.
- Tôi có việc cần làm nên tôi nhờ một nhân viên dưới tàu lên chỉ cho họ. Anh ta tên Thành, là một chuyên viên về vũ khí nên tháo ráp còn giỏi hơn tôi nhiều...
- Cám ơn ông... Mai mốt mình sẽ gặp nhau...
- Chào bà... Tôi xin bà hết giận tôi...
Hơi mỉm cười Thùy Dung cúi đầu bước vào cổng. Khôi không thấy được nụ cười tinh nghịch nở trên môi của người chỉ huy căn cứ Bảy Hạp cũng như câu lẩm bẩm.
- Còn lâu tôi mới hết sùng... Tôi muốn đì ông cho bỏ ghét. Cái mặt thấy...
Bước vào đồn Thành gặp thượng sĩ Bang đang đứng đợi ở cổng. Đi xuyên qua mấy hầm núp và giao thông hào ông ta đưa người lính hải quân tới một cái sân nhỏ có mấy người mặc bà ba đen đang đứng trong số đó có một người đàn bà.
- Em là Thành phải không?
- Dạ... Anh Khôi gởi tôi lên đây...
- Tôi là Bà Bùi...
Thành cười nói.
- Anh Khôi có nói về...
- Em cứ gọi tôi bằng chị đi cho thân mật... Mời em trổ tài...
Thành đúng là một chuyên viên về vũ khí. Không những tháo ráp nhanh nhẹn Thành còn giảng giải rành mạch về cách thức cũng như các tiểu xảo hoặc mánh khóe nhỏ nhặt để làm cho việc tháo ráp được nhanh chóng.
- Khí giới của Mỹ tối tân thật nhưng cũng có trở ngại nhất là đối với thời tiết của xứ mình. Nòng súng bị sét hay các cơ phận khác bị dơ cũng gây ra trở ngại nhất là vùng này gần biển lại ẩm thấp nên trong không khí vừa có nước và muối. Nó làm cho súng mau dơ hơn. Bởi vậy súng của tàu tụi em phải lau chùi hoài...
Thành nói với Thùy Dung trong lúc hai người đứng xem lính tháo ráp và lau chùi vũ khí. Buổi học kéo dài tới trưa mới tạm ngưng cho lính về ăn trưa.
- Chị mời em về nhà chị ăn cơm trưa...
- Dạ cám ơn chị em có đem theo đồ hộp...
Thùy Dung cười.
- Ăn canh chua cá kho không ngon hơn đồ hộp sao. Ông Khôi có nói với chị là em ngán đồ hộp tới cổ...
Thấy Thùy Dung đưa tay lên ngang càm làm dấu Thành bật cười một cách vui vẻ.
- Đi... Hai chị em mình về nhà ăn cơm rồi lát sau trở ra...
Thành không thể nào từ chối lời mời của một người đàn bà trẻ đẹp, duyên dáng và bặt thiệp như Thùy Dung. Về tới nhà Thùy Dung dọn cơm ra. Nàng ăn ít mà mời khách ăn nhiều hơn. Trong lúc ăn nàng gợi chuyện hay bắt đầu mở cuộc điều tra về đời tư của ông lính thủy đặc biệt của mình.
- Em đi lính lâu chưa?
- Dạ bốn năm rồi chị...
- Quê em ở đâu vậy?
- Dạ em ở Vĩnh Long?
Bới cơm vào chén cho Thành Thùy Dung cười hỏi tiếp.
- Chắc em ở chung  tàu với ông Khôi lâu lắm hả?
- Dạ cũng hơn một năm. Khi đi thực tập để lãnh tàu của Mỹ anh Khôi xuống trước nhất...
- Chị nghe nói ông Khôi ở binh chủng nào đó trước khi về hải quân...
- Dạ đúng như vậy thưa chị... Ảnh là trung sĩ nhất biệt động quân. Nhờ có bằng tú tài 1 và được tiểu đoàn trưởng thương nên ảnh được đi học khóa sĩ quan đặc biệt. Ra trường anh được đưa về toán biệt hải chuyên đổ bộ ra bắc. Khi biệt hải bị giải tán người ta giữ ảnh ở lại hải quân mà không trả ảnh về đơn vị gốc là biệt động quân. Điều này khiến cho ảnh sùng và bất mãn lắm. Trong thời gian tạm trú ở bộ tư lệnh hải quân anh có xích mích và gây gổ với một ông trung úy hải quân. Nổi máu anh hùng của biệt động quân ảnh dọng sặc máu mũi ông trung úy này...
Thùy Dung bật cười vì câu nói của Thành.
- Chắc ông Khôi du côn lắm hả Thành?
Thành lắc đầu binh liền.
- Không có đâu chị... Ảnh hiền và ít nói lắm. Sau vụ đánh nhau đó ảnh bị đưa ra hội đồng kỹ luật, bị giáng cấp xuống còn trung sĩ và bị đề nghị trả về biệt động quân. Nhưng không biết vì lý do gì mà cuối cùng họ giữ ảnh lại. Chắc họ muốn giữ ảnh lại để đì cho bỏ ghét. Ảnh bị đưa đi lãnh tàu rồi làm thuyền trưởng của một chiến đỉnh. Nếu không có vụ dọng vô mặt ông trung úy đó chắc giờ này ảnh cũng là trung úy rồi... Tội nghiệp ảnh... Ảnh nói với em là ảnh xin đi học khóa người nhái mà đơn xin bị bác vì lý do vô kỹ luật...  Ảnh là một người tốt. Ảnh hiền và thương lính vậy mà không hiểu sao mấy ông sĩ quan ở giang đoàn lại không ưa ảnh. Chỉ có ông chỉ huy trưởng là còn có chút cảm tình và bênh vực ảnh. Như chuyện biệt phái cho cái đồn của chị là họ muốn tống ảnh đi xa cho khuất mắt... Chị biết không ảnh giỏi lắm đó chị. Ảnh đàn một cây mà hát cũng không thua gì ca sĩ. Chị mà nghe ảnh đàn hát là chị mê liền...
Thùy Dung vừa vui vừa buồn khi nghe Thành nói về Khôi. Nàng cố giấu tiếng thở dài. Trong đời sống này những kẻ hiền lành như Đạt và có máu anh hùng- du côn như Khôi là những kẻ bị thiệt thòi nhiều nhất. Hiền lành như chồng nàng, không biết chạy chọt, nâng bi xếp nên mới bị đày ra đây rồi nhận lãnh cái chết. Có máu anh hùng cộng thêm những ẩn ức nên Khôi mới phát tiết bằng hành động du côn để rồi không bao giờ ngóc đầu lên trong quân đội.
Thành ngừng nói rồi buông đũa.
- Cám ơn chị... Chị đẹp mà nấu ăn ngon bởi vậy anh Khôi ảnh khen chị hoài...
Thùy Dung cười hỏi dồn.
- Ảnh khen ra sao Thành nói cho chị nghe đi...
- Ảnh khen chị đẹp mà lại giỏi vì chỉ huy cả đại đội...
- Cám ơn em...
- Thôi mình đi ra. Anh Khôi dặn là em phải chỉ cho lính của chị biết hết để rủi tụi này có rút đi thời họ nhớ mà làm...
Câu nói sau cùng của Thành làm cho Thùy Dung cảm thấy buồn. Như muốn che giấu nỗi buồn của mình nàng bước nhanh ra cửa. Vào lúc xế chiều Thành đã chỉ dạy tỉ mỉ chuyện bảo trì cho các khẩu súng. Dường như có cảm tình với Thùy Dung hay có thâm ý nào khác anh hứa sẽ đem sách vở cũng như một vài dụng cụ bảo trì lên cho mấy người lính. Đưa Thành ra tận cổng Thùy Dung còn dặn dò.
- Khi nào nhàn rỗi Thành lên đây chơi với chị nghe...
Đứng nhìn theo bóng người lính hải quân Thùy Dung mỉm cười cảm thấy vui vui trong lòng. Nàng vừa biết thêm được bí mật của ông lính biệt động-hải quân.
- Biết mà... Mặt coi hiền chứ cộc lắm... Dám dọng sặc máu mũi người khác... Mai mốt gặp mình sẽ chọc quê ổng chơi...
Thùy Dung cười khẽ khi nghĩ ra cách chọc quê Khôi. Nhìn về nơi mui tàu cao nàng thấy bóng một người đang lui cui làm việc.
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9