Lịch sử Toà Thánh Tây Ninh
Cách đây non 80 năm, vùng đất Tây Ninh hầu hết là khu rừng rậm, biết bao sơn lâm ám khí, rừng thiêng nước độc, beo hùm, rắn rết, nhện độc đầy khắp. Kể từ khi có bàn tay của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư chọn địa điểm để làm cơ sở phát triển của mối Đạo Cao Đài thì khu rừng kia biến thành nơi trang nghiêm tôn kính mãi mãi.
Trên cõi đời nầy, cuộc sống con người không có gì mạnh hơn “đức tin”. Khi con người có mãnh lực đức tin, có thể dời non lấp biển, dám sống chết với lý tưởng, với niềm tin tôn giáo của mình, hy sinh cả thân mạng, của cải bất chấp cả gian nguy...
Tòa Thánh Tây Ninh còn gọi Tổ Đình, là ngôi đền đồ sộ nguy nga tráng lệ, đặc sắc để thờ phượng Đấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, và các vị Giáo chủ Tam Giáo và Ngũ Chi Đại Đạo cùng các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Tòa Thánh trung ương của đạo Cao Đài, hiện nay tọa lạc trên khu đất rộng lớn hơn 100 mẫu tây, thuộc xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh khoảng 5 km về hướng Đông Nam.
Cơ quan trung ương Hội thánh Cao Đài, tức Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là cơ chế điều hành các hoạt động truyền giáo, cứu độ nhân sanh trong nước và khắp thế giới. Đi tìm nguyên ủy Như chúng ta đều biết, Tòa Thánh Tây Ninh được sách vở, kinh điển ghi chép, đã được thiết lập đầu tiên từ năm 1926 (Bính Dần), và hoàn tất vào năm 1947 (Đinh Hợi) và được khánh thành vào dịp Đại lễ Vía Đức Chí Tôn ngày Mùng 9 tháng Giêng năm Ất Mùi (dl 01-2-1955). Đến nay đã gần 80 năm.
Chính Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Đức Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư, ngài Đầu Phối sư Thái-Thơ-Thanh, bà Nữ Đầu Sư Lâm-Hương-Thanh và nhiều vị chức sắc đã vâng theo thiên ý của Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông, cùng nhau hợp lực đứng lên khai sáng Đạo Trời, chọn Tây Ninh làm nơi Thánh địa.
Tìm đất Thánh địa [color="#000000" size="3"]
[color="#000000" size="3"]Toà Thánh Tây Ninh, hình chụp từ trên máy bay
Trong quá trình lịch sử khai minh Đạo Cao Đài, đầu tiên mượn ngôi chùa Từ Lâm (tục gọi chùa Gò-Kén, Tây Ninh) để làm Lễ Khai Đạo ngày 15-10 Bính Dần (19-11-1926 dl). Nơi cầu cơ tiếp điển; sau lễ Khai Đạo, vị chủ trì chùa Gò Kén là Hòa Thượng Như Nhãn (còn gọi Hòa thượng Giác Hải), phần mất đức tin phần vì áp lực nhà cầm quyền Pháp đương thời, xúi giục, hăm dọa, nên Hòa Thượng không theo Đạo Cao Đài nữa, bèn đòi chùa lại, không hiến cho Hội Thánh Cao Đài nữa, kỳ hẹn 3 tháng phải dời đi.
Rồi sau đó dời về Tây Ninh đã được Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông chỉ dạy từng bước, chứ không phải do Hội Thánh đặt ra. Mua cuộc đất của vị Kiểm-lâm người Pháp có tên là Aspar, phá rừng để xây cất Tòa Thánh. Nhưng lúc đó tín hữu Đạo còn quá nghèo, tín đồ chưa đông, nên việc xây cất Tòa Thánh bằng vật liệu nặng (bê-tông cốt thép như hiện nay) chưa thể thực hiện ngay được, và cũng gấp rút dời Hội Thánh về đây, để trả chùa cho Hòa Thượng Như Nhãn như đã hứa.
Cũng cần nên biết khu đất được thiên ý chọn để khai khẩn lập Tòa Thánh, ngày xưa là nơi rừng thiêng nước độc, nơi chưa có dấu chân người đến bao giờ. Vã thời bấy giờ chưa có các loại cơ giới tối tân: máy cày, máy xới, máy xúc, máy cưa... giúp sức xây cất. Tất cả đều dựa vào sức người, vì vậy người tín hữu Cao Đài ban đầu, với đức tin bất diệt làm động lực phấn khởi để làm việc rất cực nhọc nào: đẵn cây, phá rừng, đào đất, bang dọn mặt bằng... là cả vấn đề khó nhọc để góp công đức xây dựng nền móng cho Tòa Thánh ngày nay. Song hành, họ thường bị những côn trùng, muỗi độc, vắt, ong độc, kiến độc cắn thôi kể không xiết. Nhưng may thay Thiên cơ dĩ định, độ trì bao che, thấy rõ hảo tâm, thiện ý của mọi tín hữu, có lẽ đã xua đuổi những thú dữ, hùm beo, rắn độc kia, rút vào tận rừng sâu, tìm nơi khác ẩn náu sinh sống không dám đến quấy phá những người có đạo tâm, để đạt thành sở nguyện khai nguyên mối đạo. Nên không có người tín hữu nào phải vong mạng bởi nạn cây đè, thú dữ ăn thịt hay bất cứ tai nạn nào, dù nhỏ hay lớn. Quả là phép màu của Đức Chí Tôn ban trải cho mọi người thiện tâm.
Vâng có lẽ theo thiên ý người Miên xung phong làm công quả, rồi từ đó truyền cho đạo hữu xa gần hay biết, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động tấm lòng nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho Đạo. Số tín đồ khắp Nam Kỳ Lục tỉnh (nay là miền Nam Việt Nam) hay tin họ lần lượt bảo nhau lên Tây Ninh, làm công quả cả ngày lẫn đêm, tự túc để lo việc chung, không phàn nàn khó khăn chi cả. Hết lớp nầy đến lớp khác, ăn uống rất cực khổ, thậm chí không đủ mà ăn. Nước muối nấu với cơm cháy, lược lại giống như màu nước tương, kêu là “nước tương đại đạo” chấm với rau cải. Đọt cây rừng, loại cây nào ăn được thì hái ăn hết nhứt là mít rừng, rau hẹ, khoai bắp v.v... Năm nầy sang năm nọ họ rất bền đổ làm công quả.
Gặp thời buổi kinh tế khủng hoảng (Recession), vào năm 1930, thức ăn thiếu thốn. Các anh lớn cũng ăn uống kham khổ, không kém, quả đúng ý nghĩa đồng lao cộng khổ với nhau. Kham khổ đến nỗi chuối cây xắc mỏng trộn ghém để mà ăn, cũng không đủ. Nhưng ai nấy cũng vui cười, trong tinh thần phục vụ cho đạo lý đến cao độ.
Trong số người phục vụ cho Tòa Thánh có thể kể gồm đủ mọi ngành, mọi giới, mọi lứa tuổi: thợ hồ, thợ mộc, thợ sơn, thợ điện, thợ rèn, thợ vẽ, thơ ký v.v... nhưng đa số là nhà nông, có đôi bàn tay rắn chắc, chịu làm những việc nặng nhọc. Ai chuyên môn ngành gì thì tình nguyện làm thích ứng với khả năng của mình. Nhờ khéo léo tổ chức và điều hành nên công tác kiến tạo Tòa Thánh được tiến hành liên tục trong suốt 4 năm rưỡi, thì Tòa Thánh gặp vấn nạn tạm ngưng.
Đặc biệt, Nam hay Nữ khi làm công quả, đều phải lập tờ Hồng thệ, trong suốt thời gian xây cất Tòa Thánh, không được cưới vợ hay lấy chồng, đặng đủ tinh khiết cho đến ngày thành tựu việc phá rừng, xây cất Tòa Thánh. Lúc bấy giờ Tây Ninh thể hiện đủ tinh thần hy sinh từ bi, bác ái của đức Phật vô đối. Bốn phương tấp nập kẻ tới người lui. Quang cảnh nhộn nhịp náo nhiệt. Các mạnh thường quân giàu lòng đạo đức từ Lục tỉnh, đem tiền dâng cúng để đóng góp lòng thành vào việc xây dựng ngôi Tòa Thánh. Lại có người bán gia tài để hiến dâng, tinh thần cao cả ấy nói lên đức tin vô bờ bến của mọi tấm lòng hướng về đấng Chí Tôn.
Người Miên vượt biên nhiều đợt đến Tòa Thánh làm công quả
Người Việt ta vốn tự ngàn xưa tin tưởng vào Đấng Thiêng Liêng, từ những tỉnh lỵ xa xôi đổ xô về từng nhóm hàng trăm hàng ngàn người để công quả, lại còn có người Miên họ lội suối, băng rừng đến xin làm công quả. Họ đi từ Thiện Ngôn đến Điện Bà, ngỏ Xoài Riêng, Gò Dầu Thượng lên...
[color="#000000" size="3"]
[color="#000000" size="3"]Toà Thánh Tây Ninh chính diện
Mô tả Tòa Thánh Đứng trước Tòa Thánh, chỗ khoảng sân rộng có cột phướn, nhìn thẳng vào Tòa Thánh, chúng ta thấy nổi bật hai tháp chuông lớn, cao vút, song song nhau. Đó là Bạch Ngọc Chung Đài, và Lôi Âm Cổ Đài, thường gọi là Lầu Chuông và Lầu Trống. Mỗi tháp đều có 6 từng không đều nhau, có mái ngắn bao quanh phân chia các từng.
Từng dưới cùng (từng trệt) của hai tháp nầy có 2 khuôn bông lớn hình chữ nhật, ở giữa có hai chữ Nho lớn trong hình bầu dục, bên Lầu Trống là chữ CAO và bên Lầu Chuông là chữ ĐÀI. Bên trên khuôn bông là 4 ô hình tròn gắn 4 chữ Nho: Bên Lầu Trống 4 chữ: LÔI ÂM CỔ ĐÀI và bên Lầu Chuông 4 chữ: BẠCH NGỌC CHUNG ĐÀI.
Từng kế bên trên, ở bên Lầu chuông có đắp tượng Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung mặc Đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay mặt cầm quyển Thiên thơ; và ở bên Lầu Trống thì có đắp Bà Nữ Đầu Sư Lâm Thanh Hương, mặc Đạo phục đứng trên quả địa cầu, tay mặt cầm nhánh bông, tay trái xách giỏ Hoa lam.
Từng thứ ba kế bên trên, ngắn hơn hai từng dưới, mỗi bên có gắn hai bông gió để thông hơi. Lên từng thứ tư, bề cao dài nhất, giữa hình chữ T rất lớn màu trắng có đắp hình một bó hoa lớn, màu sắc sặc sỡ, như đang rơi xuống biển, dưới ánh bình minh, còn ba phía hông còn lại thì gắn khung lá sách sơn màu xanh. Bên trong từng thứ tư nầy, bên Lầu trống có đặt một cái trống lớn, gọi Lôi Âm Cổ, và bên Lầu chuông đặt cái chuông lớn gọi là Bạch Ngọc Chung. Khi đánh chuông hay đánh trống âm thanh vang rền truyền đi rất xa để thức tỉnh những người còn đang chìm đắm trong giấc mộng trần.
Từng thứ năm và thứ sáu có 4 cạnh dần dần nhỏ lại, và 4 bên đều có gắn các khuôn bông thông gió, trang trí với nhiều màu sắc đẹp. Nơi từng thứ sáu là từng chót, cao nhất, có làm lan can bao quanh, để du khách có thể lên đứng trên đó nhìn khung cảnh toàn vùng Thánh địa.
Trên nóc Lầu chuông và Lầu trống, mỗi bên đều có đắp 3 hình bửu tháp: Bên dưới là Giỏ Hoa lam, bên trên là Bầu Hồ lô và một cây Gậy. Hồ lô và cây Gậy là bửu pháp Đại Tiên Lý Thiết Quả, đứng đầu Bát Tiên, mà trong thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Ngài vâng lệnh Đức Chí Tôn giáng trần là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung; còn Giỏ Hoa Lam là bửu pháp của vị Long Nữ, đệ tử của Đức Quan Âm Bồ Tát, vâng lệnh Chí Tôn giáng trần là bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương-Thanh.
Giữa Lầu chuông và Lầu trống là một kiến trúc ba tầng (một trệt, 2 lầu) gọi chung là Hiệp Thiên Đài, mà phía trước có một bao lơn hình bán nguyệt rất lớn, gọi là Vinh Dự Công Lao Chi đài, gọi tắt là Đài Danh dự. Trên bao lơn có dựng một cột cờ, hơi xiên ra ngoài để treo lá cờ Đại và những ngày lễ trong Đạo.
Chống đỡ bao lơn nầy có 4 cây cột, chia ra mỗi bên 2 cây đặt kế nhau: Một cây đắp hình con rồng đó quấn xung quanh cột, một cây đắp hình hoa sen, lá sen và cộng sen quấn chung quanh cột, để 2 cột rồng và sen đó ghép lại trượng trưng 2 chữ LONG HOA. (Long là rồng, Hoa là bông).
Trên vành bao lơn có đắp 8 khuôn hình ghi lại 8 điển tích tượng trưng 8 ngành nghề trong dân chúng: Sỹ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục.
Hai bên cửa chánh của từng trệt HTĐ (Hiệp Thiên Đài), sát vách Lầu chuông và Lầu trống, có đắp hai tượng Thiên Thần: Ác và Thiện, thường gọi ông Ác và ông Thiện.
Tòa nhà HTĐ 3 từng ấy có từng trệt được gọi là Tịnh Tâm Điện, lầu kế bên Tịnh Tâm Điện được gọi là Lầu HTĐ, vì có lập bàn thờ 15 vị chức sắc cao cấp nhất của HTĐ, và từng nầy thông ra bao lơn hình bán nguyệt như đã nói ở trên. Phía trên lầu HTĐ, ở hai bên bìa có bông hai chữ Nho đại tự là NHƠN và NGHĨA.
Phía dưới 2 chữ NHƠN NGHĨA nầy là đôi liễn Hiệp Thiên Đài, khởi đầu bằng 2 chữ Hiệp và Thiên.
HIỆP nhập Cao Đài, bá tánh thập phương qui chánh quả,
THIÊN khai Huỳnh đạo, Ngũ chi Tam giáo hội Long Hoa.
Nghĩa là:
-Hiệp vào Đạo Cao Đài, nhơn sanh khắp nơi được trở về ngôi Chánh quả,
-Trời mở Đạo Cao Đài, các Đấng trong Ngũ Chi Đại Đạo và trong Tam giáo tham dự Đại Hội Long Hoa.
Từng lầu bên trên hết gọi là Phi Tưởng Đài, cũng gọi Thông Thiên Đài, xưa gọi là Tiêu Diêu Điện nơi mặt tiền phía trước có đấp hình Thiên Nhãn rất lớn, chỗ lan can trước Thiên Nhãn có đấp hình Cổ pháp Tam giáo: bình Bát vu (tượng trưng Phật giáo), cây Phất chủ (tượng trưng Tiên giáo), sách Xuân Thu (tượng trưng Nho giáo).
Trên nóc Phi Tưởng Đài có đấp tượng Đức Phật Di-Lạc (Di–Lạc Vương Phật) ngự trên tòa sen đặt trên lưng một con cọp vàng. Con cọp ấy tượng trưng năm Bính Dần (1926) là năm Khai Đạo Cao Đài.
Bước qua bên cạnh, nhìn vào phía hông Tòa Thánh, chúng ta thấy bên trên có 3 từng mái đỏ cong cong, đúc bằng bê-tông, nhưng trang trí như lợp ngói móc, bên trên nóc nhô lên 2 cái tháp cao: một cái hình vuông bên dưới hình tròn bên trên gọi Nghinh Phong Đài, và một cái hoàn toàn nằm cạnh là Bát Quái Đài (BQĐ), Nghinh Phong Đài nằm ở chính giữa Cửu Trùng Đài, và phần Cửu Trùng Đài gồm có 9 lồng căn có mái ngói đều sơn đỏ, còn phần BQĐ, mái ngói đều sơn màu vàng.
Như vậy, Tòa Thánh gồm có ba phần:
- Phần trước là HTĐ, 2 bên có 2 tháp vuông rất cao là Lầu chuông và Lầu trống.
-Phần giữa là CTĐ, có tháp tròn là Nghinh Phong Đài.
-Phần cuối là BQĐ, có tháp cao hình tám cạnh Bát quái.
Nóc của Nghinh Phong Đài là một bán cầu úp xuống, trên đó có vẽ họa đồ Ngũ Châu và Ngũ Đại dương, để tượng trưng Địa cầu của nhơn loại chúng ta đang sống, và trên bán cầu nầy có đáp hình một con Long mã phụ Hà đồ, đang bỏ vó chạy về hướng Tây, nhưng ngoái đầu lại nhìn về hướng Đông.
Ngay dưới Nghinh Phong Đài là hai cửa hông ở hai bên đi vào Chánh điện Tòa Thánh. Còn trên nóc Bát Quái Đài, đắp một tòa sen lớn, trên có 3 vị cổ Phật là: Brahma Phật, Civa Phật, và Christna Phật.
Bên dưới Bát Quái Đài, mỗi bên xây một cầu thang đi lên, hai bên mỗi cầu thang đều có đắp hình 2 con Kim Mao Hẩu màu vàng, trông rất oai vệ.
Nơi cửa hông Tòa Thánh bên dưới Nghinh Phong Đài, cũng có làm 2 cầu thang đi lên, và mỗi cầu thang đều đắp hình 2 con Kim Mao Hẩu như nơi Bát Quái Đài.
Hai bên hông Tòa Thánh là một dãy hành lang rộng, đi từ trước bọc ra sau, thông hai bên.
Hành lang có nhiều bậc giống như bên trong Tòa Thánh, từ thấp ở trước, dần lên cao ở phía sau.
Chống đỡ mái hành lang là một hàng cột tròn bao quanh Tòa Thánh, đếm được tất cả là 112 cây cột.
Dưới mái hiên trên đường viền giữa các cây cột, có trang trí hình dây nho, lá và trái nho; bên trên có một khuôn tròn vẽ hình 2 con hạc bay lúc mặt trời mới mọc.
Phía trong hành lang là vách Tòa Thánh, giữa mỗi căn có một khuôn bông sen rất lớn gồm những bông sen, lá sen và cộng sen, đỡ một khung hình Thiên Nhãn ở chánh giữa một tam giác đều, có làm những tia hào quang phát ra.
Chung quanh Tòa Thánh có tất cả 23 khuông bông sen có hình Thiên Nhãn, hiệp với Thiên Nhãn trên Phi Tưởng Đài phía trước Tòa Thánh, tổng cộng 24 Thiên Nhãn.
Chúng ta trở lại phía trước để chuẩn bị đi vào Tòa Thánh theo lối cửa chánh, quan sát bên trong Tòa Thánh.
Chúng ta bước lên bật thềm 5 cấp bằng đá mài màu nâu. Năm cấp thềm nầy tượng trưng 5 cấp tiến hóa của người tu phải trải qua khi đạt đến Phật vị. Đó là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo.
Lên đến mí thềm, chúng ta gặp ngay 4 cây cột lớn, mỗi bên 2 cây đứng kế nhau, một cây có hình Rồng màu đỏ quấn quanh, một cây có hình cọng Sen và Bông sen quấn quanh. Hai cây cột có vấn rồng và bông sen nầy tượng trưng 2 chữ LONG HOA (Long là rồng, Hoa là bông).
Chúng ta đứng ngước nhìn lên phía trên thấy một bức họa, trên đó vẽ một bàn tay từ trong mây đưa ra cần cây Cân đặt trên quả địa cầu của nhân loại. Đó là bàn tay của đấng Thượng đế cầm cây cân Công Bình thiêng liêng để cân TỘI và PHƯỚC của mỗi người sau khi qui liễu, để có sự thưởng phạt công minh cho mỗi linh hồn.
Hai bên vách cửa chánh chúng ta thấy có hai pho tượng lớn:
-Phía sát vách Lầu chuông là tượng của vị Thiện Thần, người đạo quen gọi Ông Thiện, có gương mặt hiền từ tay cầm xiên cán dài, đứng trên tòa sen (Liên đài).
-Phía sát vách Lầu trống là pho tượng của vị Ác Thần, người đạo quen gọi là Ông Ác, có gương mặt dữ tợn, tay mặt cầm một cái búa lớn, tay trái cầm cục Ngọc Tỷ, đứng trên tòa lửa (Hỏa đài).
Phía sau 4 cây cột tròn sơn sọc xanh là tới cửa chánh làm bằng gỗ quý, gồm một cửa lớn ở giữa hai cửa nhỏ ở hai bên, được đánh vec-ni màu đậm bóng láng.
Bên trong cửa chánh là một khoảng rộng, gọi là Tịnh Tâm Điện, là nơi để cho các tín đồ giữ lòng trong sạch, loại bỏ các tư tưởng không tốt, trước khi vào Chánh điện bái lễ Đức Chí Tôn. Một bức vách chắn ngang ngăn cách Tịnh Tâm Điện và phần Chánh điện bên trong, trên đó có một bức họa thật lớn, gọi là họa Tam Thánh Ký Hòa-Ước.
Trên bức họa nầy có ba vị:
[color="#000000" size="3"]
[color="#000000" size="3"]Bức họa Tam Thánh
-Đức Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thánh hiệu là Thanh Sơn Đạo Sỹ (hay Thanh Sơn Chơn Nhơn), mặc triều phục Việt Nam, cầm bút lông, đang viết câu chữ Nho:
Thiên thượng Thiên hạ – Bác ái Công Bình -Đức Victor Hugo, đại văn hào Pháp, Thánh hiệu là Nguyệt Tâm Chân Nhơn, mặc triều phục nước Pháp, cầm bút lông ngỗng, đang viết câu chữ Pháp:
DIEU et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE
-Đức Tôn Dật Tiên, tức Tôn Văn, nhà đại cách mạng Trung hoa, Thánh hiệu là Trung Sơn Chơn Nhơn, cầm nghiên mực đỏ, để cho hai vị kia chấm bút lông vào đó mà viết chữ trên tấm bia đá chiếu hào quang. Đó là bảng: Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước, tức là bảng giao kết Trời và Người. Cả ba vị Thánh đều đứng trên mây, nghiên mực và bia đá đều tỏa hào quang.
..
Kích thước thật sự của Tòa Thánh Theo lời giáng cơ dạy bảo của Đức Lý Giáo Tông thì họa đồ xây cất Tòa Thánh do Đức Lý Giáo Tông vẽ theo kiểu của Thiên đình, có kích thước là:
-Bề ngang của Chánh điện: 27 mét.
-Bề dài Tòa Thánh là: 135 mét.
Chia ra: Hiệp Thiên Đài dài 27 mét, Cửu Trùng Đài dài 81 mét, Bát Quái Đài dài 27 mét.
-Nền BQĐ cao 9 mét, nhưng Đức Chí Tôn sửa bớt lại cho đỡ tốn kém: Nền cấp thứ nhất của CTĐ cao 5 tấc, mỗi cấp cao 3 tấc, 9 cấp thì cao 2,70 mét, cộng lại cao 3,20 mét.
-Bề cao Lầu Chuông và Lầu trống là: 36 mét.
-Bề cao của Nghinh Phong Đài là: 24 mét.
-Bề cao Bát Quái Đài là: 30 mét.
Nhưng sau đó Đức Chí Tôn có giáng cơ dặn Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh rằng:
“Thơ! Thái Bạch muốn lập Thánh Thất coi cho tốt đẹp, chẳng tưởng sự khó nhọc các con, Thầy chẳng đành. Thoảng như tốn kém nhiều, các con coi họa đồ, tính làm theo thước mộc nghe à!”.
Do đó, kích thước thực sự của Tòa Thánh nhỏ hơn kích thước họa đồ của Đức Lý Giáo Tông.
Kích thước thật sự của Tòa Thánh đo được với độ chánh xác (à peu frair), sai số tương đối từ 5 phần ngàn tới 10 phần ngàn, kể ra như sau đây:
-Bề ngang Tòa Thánh kể cả hai hành lang là: 22 mét.
-Bề ngang Chánh điện, đo lọt lòng là: 15,40 mét.
-Bề ngang của hành lang đo lọt lòng là: 2,40 mét.
-Bề dài Tòa Thánh:
-từ cuối BQĐ đến mặt tiền Lầu chuông là: 93 mét.
-từ cuối BQĐ đến hết bực cấp dưới bao lơn là: 97,50 mét.
-Bề ngang của Lầu trống hay Lầu chuông đo được: 4,30 mét.
-Cửu Trùng Đài có 9 cấp, bề rộng mỗi cấp là: 7 mét.
-Bề rộng của gian giữa (Chánh điện) đo được 7 mét.
-Bề rộng của mỗi gian ở hai bên là: 4,20 mét.
- Bề rộng của Tịnh Tâm Điện là: 5,60 mét.
-Bề rộng của Cung Đạo là: 2,80 mét.
-Bề cao của Lầu chuông bằng bề cao của Lầu trống:
-từ mặt đất lên đến nóc là: 27 mét.
-tính từ mặt đất lên đến miệng hồ lô là: 28,20 mét.
-Bề cao của Phi Tưởng Đài tính tới nóc là: 14 mét.
-Bề cao của Nghinh Phong Đài tới Đỉnh Địa cầu là: 17 mét.
-Bề cao Bát Quái Đài tính tới nóc là: 19 mét.
-5 cấp dưới bao lơn, bước lên cửa chánh Tòa Thánh, mỗi cấp có bề cao là 16 phân.
-4 cấp dành cho Thập nhị Thời Quân đứng chầu lễ Đức Chí Tôn, mỗi cấp có chiều cao 19 phân.
-9 cấp của Cửu Trùng Đài, mỗi cấp 18 phân.
-12 cấp nơi Bát Quái Đài, mỗi cấp 10 phân.
-Chung quanh Tòa Thánh có tất cả 112 cây cột tròn để chống đỡ mái hiên nơi hành lang.
-Mặt tiền Tòa Thánh, dưới bao lơn có 6 cây cột: 2 cây quấn rồng đỏ và 4 cây quấn bông sen.
-Tịnh Tâm Điện có 10 cây cột sơn trắng sọc xanh.
-Cửu Trùng Đài có 18 cây cột rồng xanh (Long trụ), chia làm 2 hàng, mỗi hàng 9 cây.
-Cung Đạo có 2 cây cột rồng vàng.
-Bát Quái Đài có 8 cây cột rồng vàng đứng theo góc của hình bát quái. Tổng cộng, ở từng trên Tòa Thánh, bên trong và bên ngoài, có tất cả 156 cây cột lớn nhỏ.
[color="#000000" size="3"]
[color="#000000" size="3"]Hành lễ trong thánh thất Tây Ninh
[color="#000000" size="3"]
Những sự kỳ diệu của Tòa Thánh Tòa Thánh là công trình kiến trúc vĩ đại và kỳ diệu của Đạo Cửu Trùng Đài. Nó kỳ diệu về phương diện xây cất, kỳ diệu về kiểu cách hình dáng, kỳ diệu về phương pháp kiến trúc.
1/ Kỳ diệu về vị trí xây cất: bởi vì Tòa Thánh được xây cất trên cuộc đất Lục Lâm Phò Ấn. Đó là Thánh địa, là đất linh trổ sanh các bậc Thánh, Tiên, Phật, là nơi mà Thượng đế lựa chọn để làm đền thờ cho Ngài đến ngự.
2/ Kỳ diệu về kiểu cách hình dáng: bởi vì Đức Chí Tôn có nói: Đức Lý Thái Bạch cất Tòa Thánh theo kiểu vở của Thiên đình.
Kiểu cách hình dáng của Tòa Thánh là sự phối hợp hài hòa của các văn minh kiến trúc của các nền Tôn giáo lớn trên thế giới. Khi mới thoạt nhìn vô Tòa Thánh, chúng ta thấy nổi bật 2 Lầu chuông trống cao chót vót, tương tự như những tháp chuông của các nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Ở giữa hai tháp có tượng Đức Phật Di-Lạc ngự trên nóc với những mái ngói đỏ cong cong chập chùng, tương tự như kiểu dáng của các chùa Phật giáo Trung hoa.
Nghinh Phong Đài thì bên dưới hình vuông, bên trên hình tròn, chóp tròn, có dáng như những cái tháp của những ngôi đền Á Rập của Hồi giáo. Ngoài ra còn gợi cho chúng ta hình ảnh Trời tròn Đất vuông, với những liên tưởng về Vũ trụ quan trong Kinh Dịch của Nho giáo. Các nhà Dịch học, nếu nghiên cứu sâu vào các con số về kích thước của Tòa Thánh và những bố trí bên trong, sẽ thấy được những điều kỳ diệu bất ngờ trên những con số dịch học.
Bát Quái Đài có hình dáng làm chúng ta liên tưởng đến Bát Quái Đài của Đạo Tiên, và trên nóc Bát Quái có 3 pho tượng của 3 vị Phật mà đạo Bà-la-môn tôn thờ.
Trong Cửu Trùng Đài có 9 bậc từ thấp dần lên cao, giống như 9 bậc phẩm của quan lại trong triều đình vua chúa theo Nho giáo thời xưa ở nước Trung hoa.
Tất cả những hình thức trên thể hiện rất rõ tôn chỉ của Đạo Cao Đài là: Qui nguyên Tam giáo, Phục nhứt Ngũ chi.
3/ Kỳ diệu về cách thức kiến trúc: bởi vì sự tạo tác Tòa Thánh không giống với bất cứ một công trình xây dựng lớn lao của người đời. Thông thường, trước khi xây cất một công trình nào, người đời phải nhờ kiến trúc sư vẽ kiểu dáng tổng quát, chiết tính chi tiết vật liệu, sức bền cấu trúc về nền móng chịu đựng, đặc biệt chọn các vật liệu quý để trang trí, sau đó phải xin chánh quyền giấy phép rồi mới tiến hành việc xây dựng.
Đối với Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Phạm Hộ Pháp xây dựng không có một đồ án chi tiết nào vẽ trên giấy hết, cũng không có sự tham dự của một kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng nào, cũng không có thứ máy móc nào giúp đỡ, chỉ toàn trông cậy vào hai bàn tay với sức lực của con người, những người thợ nam, nữ làm không lãnh tiền công, ăn chay trường với cháo rau đạm bạc và đặc biệt có lập thệ là không được cưới vợ hay lấy chồng trong suốt thời gian xây dựng Tòa Thánh, để đủ Âm Dương và đủ tinh khiết trong việc xây dựng Đền thờ, cũng không xin phép xây dựng với một Chánh quyền nào hết, bởi vì đây là mối đạo Trời, mối đạo của Thượng đế, chỉ có Thượng đế mới cho phép mà thôi.
Đức Lý Thái Bạch giáng cơ dạy Đức Phạm Hộ Pháp về vị trí xây cất Tòa Thánh, về kích thước tổng quát: bề dài, bề ngang, bề cao. Đức Phạm Hộ Pháp cứ theo đó mà chỉ bảo lại cho công thợ làm, chỉ tới đâu làm tới đó, không biết gì thêm. Hết phần đó rồi, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy tiếp, hoặc Đức Phạm Hộ Pháp ban đêm xuất chơn thần đi lên gặp Đức Lý để nhờ Đức Lý chỉ dạy trực tiếp, hay Đức Phạm Hộ Pháp vào Bạch Ngọc Kinh quan sát tỷ mỷ kiểu vở, ghi nhớ để về bắt chước làm giống theo.
[color="#000000" size="3"]
Ban nhạc lễ
Làm như thế trong suốt năm năm, công trình mới hoàn tất. Tòa Thánh trở thành một kỳ quan về kiến trúc của nước Việt Nam.
Sau khi xây dựng Tòa Thánh xong, Ban Kiến Thiết mới đo đạc kích thước, vẽ lại họa đồ kiến trúc Tòa Thánh theo đúng quy định của khoa đại học kiến trúc ngoài đời.
Tòa Thánh Tây Ninh là một công trình kiến trúc độc đáo, duy nhất, có sự phối hợp Trời và Người, Thiên khiển Nhơn tạo, nên được mệnh danh là Bạch Ngọc Kinh tại thế, xứng đáng tiêu biểu cho nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn Thượng Đế cứu kỳ ba. Cho nên Tòa Thánh là nơi thiêng liêng huyền diệu, hấp dẫn được các bậc chơn tu khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng và lễ bái. Quý vị nầy, sau khi Thiền định trong Tòa Thánh một khoảng thời gian ngắn để dùng huệ nhãn quan sát sự thiêng liêng của Tòa Thánh, họ đều nhìn nhận rằng hồng ân của Thượng đế bao phủ đầy dẫy Tòa Thánh, và điển lành từ cõi thiêng liêng ban rải xuống Tòa Thánh liên tục không ngớt, hơn hẳn Tòa Thánh khác làm Đền thờ Đấng Thượng Đế trước đây như Jérusalem, ở La Mã, hay ở Tây Tạng.
[color="#000000" size="3"]
[color="#000000" size="3"]Một buổi lễ trong Toà Thánh Tây Ninh
Kết luận:
Ngày nay, mối Đạo Cao Đài phát triển không những ở toàn tỉnh Tây Ninh, truyền bá khắp nước Việt Nam và phát triển sang tận thành phố Nam Vang – Cao Miên mà còn hầu như khắp năm châu bốn bể.
Trên hết mọi sự, Đức Phật hay Đức Chúa Jésus đều là người châu Á, đứng ra khai mối đạo, có hàng tỷ tín đồ tin theo thờ phượng. Còn Đạo Cao Đài do chính Đức Ngài Phạm Công Tắc, người Việt Nam gây dựng và đã “hợp nhất” cả Phật giáo, Thiên chúa và Khổng-Nho giáo làm thành thức ăn tinh thần cao quý và hiếm có cho nhân loại.
Mời thỉnh quý vị bàng nhơn ngoại đạo hãy bước chân vô, quy theo một mối đạo nào đó, sẽ nếm trải được sự ngọt ngào của triết lý Tôn giáo là dường bao!.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.09.2008 12:28:28 bởi kiếp nhân gian >