MƯỜI MỘT
Vẩn Thạch rít hơi thuốc cuối cùng cho đến khi hai đầu ngón tay nóng bỏng hắn mới chịu ném cái tàn thuốc nhỏ xíu ấy đi. Nắng xế đã lên tới đầu bức tường trước mặt gần đụng hàng rào kẽm gai phía trên. Hắn để ý tới vệt nắng ấy đã gần một tiếng đồng hồ và rõ ràng hắn thấy thời gian bò đi như con rắn mối. Hắn khám phá ra thời gian không còn trừu tượng nữa mà có thực, chững chạc từ tốn, lạnh lùng trườn đi từ mấy triệu năm nay và hắn cũng cảm thấy có một cái gì trong hắn đang trườn đi theo từng nhịp đập trái tim, từng hơi thở, trườn đi về phía bên kia hoàng hôn, qua một cõi gió bụi hôn mê trước khi về thế giới của lãng quên.
Hắn hoàn toàn chán nản có lẽ không hẳn vì cuộc sống tù túng này nhưng vì hắn thất vọng cuộc đời. Xã hội con người lộn xộn, sống như ăn cướp, sống khốn nạn còn hơn con vật. Vì thế hắn ngồi nhìn thời gian trôi đi với tâm trạng dửng dưng. Cả ngày hắn ngồi nhìn vệt nắng trườn đi từ một xó xỉnh nào đó, bò qua đống rác, leo lên chiếc xe hơi phế thải mục nát rồi mới đến bức tường xám ngoét.
Ngày ngày hắn nhìn bọn can phạm bằng con mắt xa lạ thẫn thờ, con mắt ấy cũng đã từng nhìn những kẻ đang đi ngoài phố kia.
Buổi sáng khi các phạm nhân được thả ra sân để làm vệ sinh thì Thạch ngồi lặng yên nơi thềm giếng nhìn loài người tranh giành nhau giữa những gánh chè cháo bún xôi để tìm một chỗ ngồi ăn trong bụi bặm. Người nào người nấy tóc tai rối bù, bẩn thỉu. Những phạm nhân già chống những que củi khô khẳng khiu, xê dịch qua lại như ma quỷ.
Chín giờ điểm danh. Mọi người xếp hàng ngồi dưới đất. Cán bộ nói chuyện dài dòng, giảng giải lẩm cẩm một hồi, rồi lùa mọi người vào trong những khung sắt.
Xong một buổi sáng.
Vẩn Thạch bắt đầu quan sát vệt nắng quen thuộc của hắn từ lúc ấy cho đến xế chiều.
Vệt nắng bây giờ chỉ còn là một vệt mờ phất phơ trên ngọn dừa cao. Một lát nữa nó sẽ biến mất. Người cai tù đi tới với xâu chìa khoá lủng lẳng. Tiếng chân của ông ta càng lúc càng gần rồi bóng ông hiện ra ngay trước cửa phòng giam Thạch. Phía sau lưng ông là một thanh niên trắng trẻo khá đẹp trai nhưng ủ rủ. Dường như anh ta mới khóc nên đôi mắt đỏ hoe.
Người cai tù mở cửa, rút cây sắt ra. Ông ta già cả, lụm khụm, phải cố gắng lắm mới đẩy được cánh cửa. Giọng ông đầy mùi rượu:
- Vô đi. Quỷ nhỏ.
Người thanh niên lách mình vô phòng. Lão già lại hì hục đóng cửa rồi chầm chạp bỏ đi.
Thạch hỏi người thanh niên nọ:
- Thẩm vấn gì lâu vậy?
- Không. Em mới về nhà.
- Sao sướng vậy?
- Có người bảo lãnh.
- Vậy mà khóc nỗi gì?
Nhưng anh bạn trẻ lại ràn rụa nước mắt, ngồi bệt xuống góc tường ngay sau lưng Thạch. Thạch hỏi:
- Người yêu bỏ đi lấy chồng phải không?
Người thanh niên chồm tới:
- Trời ơi! Sao anh biết? Chắc em chết quá anh ơi.
- Thôi, nín đi. Kiếm người khác.
Anh ta khóc rống lên.
Thạch gom được một ít thuốc lá lấy từ những tàn thuốc người ta vứt xuống đất. Hắn hỏi người thanh niên nọ:
- Có giấy không. Xin một miếng.
Anh bạn trẻ không trả lời, mò mẫm trong túi một lúc rồi lôi ra một tờ giấy bằng bàn tay đưa cho Thạch. Hắn tiếp lấy, thấy tờ giấy có đóng dấu đỏ liền đưa ra ngoài sáng coi. Thì ra đó là cái giấy phép xuất trại. Tờ giấy đơn giản đến độ làm Thạch ngạc nhiên. Nó chỉ vẻn vẹn có mấy hàng chữ viết tay của viên quản đốc nhà giam, nội dung như sau:
Quản đốc Trung tâm K.35. Cho phép phạm nhân Lê Xuân Cang được ra cổng. Lý do: Về giải quyết việc nhà. Kể từ 14 giờ ngày 20 tháng 8 năm 1987 đến 16 giờ cùng ngày.
Phía dưới chỉ có một con dấu đỏ và chữ ký nguệch ngoạc của người quản đốc.
Thạch vấn tờ giấy cho thành điếu thuốc nhưng cất vào túi áo, không hút, mặc dù hắn đang thèm thuốc đến chảy nước miếng.
Hồi kẻng vang lên báo hiệu giờ ăn chiều.
Thạch không tham dự vào cuộc giành giựt ấy. Hắn cầm cái ca nhựa ra sau bếp đứng nhìn đống rác.
Những người nấu bếp la lối:
- Đi chỗ khác, lẩn quẩn làm gì đó.
Thạch nói:
- Có miếng gỗ nhỏ nào cho xin miếng.
Gã đầu bếp nói:
- Cơm cháy thì có.
Thạch bỏ đi, dùng chân xới đống rác lên như gà bươi. Lon bia, gốc rau muống, đầu cá, lông gà, dép đứt quai… A! Một chiếc guốc mộc gãy, Thạch nhặt lên bỏ gọn vào túi quần rồi vội vàng chạy lại bàn ăn nơi bọn cướp giựt đĩ điếm xì-ke đang tranh giành. Thạch xúc một chút cơm vô cái ca nhựa, đứng lùi ra sau nhai uể oải cho hết giờ.
Những dãy người lại ngồi san sát nhau, đen thui như mộ bia ngàn đời bị bỏ quên trong nghĩa địa.
Bài giảng đạo đức kết thúc và mọi người trở vào phòng giam. Lát sau Thạch được gọi ra gặp người nhà.
Đó là một người đàn bà xa lạ. Bà ta nói:
- Tôi là má của Thục.
- Chào bác, Thạch nói. Bác đã thăm được Thục chưa?
- Rồi. Tôi ra để bảo lãnh cho nó về Sài Gòn. Đáng lẽ nó đến đây thăm anh nhưng nó bận đi công việc với chồng nó nên nhờ tôi đến gởi anh chút quà và chúc anh gặp nhiều may mắn.
Thạch ngồi lặng thinh, rồi hắn nói:
- Những điều bác nói làm cháu rất bất ngờ. Thế Thục có viết thư cho cháu không?
- Không. Thôi, chúc cậu khỏe nhé. Tôi phải về đây.
Người đàn bà nói xong quay lưng đi liền.
Thạch nhún vai, không ngó ngàng gì đến giỏ quà nhưng vì hắn không được phép để giỏ quà lại nên phải xách vào trại. Hắn lục soạn các thứ xem có thư từ gì của Thục không nhưng chỉ có mấy thứ đồ ăn, trái cây và thuốc lá.
Khi đi ngang chỗ lão già gác cổng ngồi, Thạch chuồi cho lão mấy bao thuốc jet và một lô thịt cá hộp. Lão già hơi ngạc nhiên nhưng hắn nói:
- Cháu có nhiều lắm.
Rồi hắn xách giỏ quà vô trại.
Người thanh niên bị bồ bỏ đang ngồi khóc thút thít trong xó. Thạch thảy cho anh ta trái táo rồi lấy điếu thuốc rê vấn lúc nãy ra, đổ bỏ hết thuốc xong nhét tờ giấy vào túi áo. Hắn nằm dưới đất ngủ thiếp đi.
Nửa đêm tất cả đều im lặng. Ngoài sân trại giam không một bóng người. Gió rầm rì thổi. Hắn cảm nhận sự xa cách khốc liệt với bên ngoài và hiểu ra rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại Thục nữa. Cũng như những người đàn bà khác. Thục cũng sẽ chỉ còn là kỷ niệm. Hắn thao thức cho tới sáng, cho tới lúc mặt trời vừa ló và hồi kẻng vang lên inh ỏi.
Vẩn Thạch ngồi dậy, xem xét lại tờ giấy trong túi áo, xong nối đuôi theo mọi người ra xếp hàng ngoài sân điểm danh.
Sau đó hắn đi vào cầu tiêu lấy mẩu gỗ, mảnh giấy và một con dao nhỏ ra, cất ở một chỗ kín trên mái rồi bước ra sân.
Cái cầu tiêu chật hẹp và hôi thúi ấy biến thành phòng làm việc hàng ngày của hắn. Làm con dấu giả là nghề của hắn, nhưng làm trong một điều kiện khắc nghiệt như thế thì hắn chưa từng trải qua. Trên mảnh gỗ của đôi guốc mộc, mỗi ngày khắc một vài chi tiết, hắn rị mọ làm suốt tuần mới xong công việc. Sau đó là phải giả tự dạng của viên quản đốc trại giam. Đến chiều ngày thứ tám hắn mới hoàn tất công trình của mình. Dĩ nhiên tờ giấy mang tên hắn, ngày giờ ra cổng được hắn nghiên cứu cẩn thận. Hắn chọn giờ ăn trưa để hành động và nếu mọi việc trôi chảy thì hắn sẽ ra đến thành phố chậm nhất là 13 giờ.
Hắn dùng thuốc đỏ để in con dấu. Thuốc đỏ ấy hắn xin được ở trạm xá. Tuy dụng cụ thô sơ nhưng con dấu hắn làm cũng khá sắc sảo và giống như thật.
Đúng như hắn dự tính, khi kẻng báo giờ ăn vang lên và lão già xách xâu chìa khoá đến mở cửa thì hắn bám ngay lấy lão. Thấy mặt hắn lão biết rằng mình sắp được món nhậu hay ít ra cũng gói thuốc như thường lệ. Lão vui vẻ hỏi:
- Đêm qua ngủ được không?
- Ngủ ngon lắm. Nhưng ăn thì không được. Bác thấy cháu thường ra ăn ở căng tin.
Lão nói:
- Đó là cậu có tiền nếu không thì cũng như người ta.
Thạch vỗ vai lão:
- Xin phép bác cháu lại căng tin một tí nhé.
Lão phất tay cho Thạch đi.
Nhưng hắn không đến căng tin. Hắn tiến ngay ra cổng, chìa tờ giấy phép.
Hắn tưởng mình sẽ bị hạch hỏi lôi thôi nhưng không, người lính gác chỉ nhìn qua tờ giấy rồi phất tay cho Thạch bước ra.
- Nhớ vô đúng giờ. Người lính nói.
- Bảo đảm mà.
Thạch biếu anh ta một gói jet rồi xăm xăm đi ra đường cái. Khi đã đi khuất sau những lùm cây hắn bước nhanh như chạy. Năm phút sau hắn đón được một chiếc Honda thồ và bảo chở về Cam Ranh.
Hơn hai giờ chiều hắn đã có mặt trong khu vườn của mình, nơi túp lều tranh hắn và Thục đã sống hai tuần lễ thần tiên. Hắn nằm gục mặt xuống chiếc giường tre đầy bụi bặm. Vất vưởng trong trí hắn mùi thơm quen của mái tóc dày.
Tuy vậy hắn biết là mình không có nhiều thì giờ nấn ná ở đây. Hắn bật dậy ngay, ra sau bếp lấy cái cuốc chim, đi lẫn vào vườn chuối. Hắn dừng lại chỗ cây chuối tiêu nhỏ nhất và bắt đầu đào bới. Hắn lôi từ dưới hố lên cái hộp sắt trong đó có một gói giấy được bọc nylông bên ngoài. Hắn mở gói giấy, kiểm tra lại số vàng và những giấy tờ tuỳ thân rồi bỏ gọn vào túi.
Nửa giờ sau hắn đã có mặt trên một chiếc xe tốc hành chạy đường Nha Trang Sài Gòn. Hắn ra đi với một cái tên mới.
MƯỜI HAI Hơn bảy giờ tối xe mới đến Sài Gòn. Vẩn Thạch gọi xích lô đến trung tâm thành phố thuê một căn phòng trên lầu bốn một khách sạn sang trọng. Người nữ thư ký của khách sạn mặc áo dài đen quần đen mặt đánh phấn lòe loẹt tiếp hắn một cách mệt mỏi. Hắn thuê căn phòng 403 với cái tên mới: Trần Dũng.
Bồi phòng là một cô bé trạc mười lăm mười sáu tuổi ăn mặc cũn cỡn, ngổ ngáo. Cô bé dẫn Trần Dũng lại cửa thang máy. Hai người bước vào và khi đi lên, cô bé hỏi:
- Anh cần người ngủ chung không?
- Cám ơn. Đi đường quá mệt.
Hắn nói một cách lơ đãng. Lúc vào phòng hắn không cần xem xét phòng ốc giường nệm toa lét ra sao cả, hắn đóng ập cửa lại rồi để nguyên quần áo giày vớ như thế nằm bất động nhắm mắt. Hắn ngủ đến chín giờ tối mới sực tỉnh. Hắn dậy tắm rửa và định thay quần áo sạch để đi phố nhưng chợt nhớ ra rằng mình chẳng có một tí hành lý nào cả ngoài cái gói giấy trong túi quần. Hắn đành mặc quần áo cũ trở lại nhưng không mặc đồ lót vì quá bẩn thỉu.
Có tiếng gõ cửa bên ngoài, hắn nghĩ là cô bé lúc nãy nên không mở cửa. Tuy vậy tiếng gõ cửa lại vang lên lần này lại gấp rút hơn. Hắn bực mình đến mở cửa thì chạm mặt một người ngoại quốc.
- Xin lỗi, tôi lộn phòng.
Trần Dũng nhún vai đóng cửa lại, lại giường mang giày và đi xuống phố. Hắn ghé nhà hàng ăn cơm và vào một cửa hàng ở đường Lê Lợi mua tạm một bộ đồ tây may sẵn với mấy cái đồ lót. Xong việc hắn về ngay vì đã khuya.
Lúc bước ra thang máy hắn gặp lại người ngoại quốc lộn phòng lúc nãy. Anh ta có vẻ trầm ngâm, đứng tì tay lên bao lơn ngó xuống khoảng sân nhỏ. Thấy Trần Dũng đi ngang qua gã gật đầu chào, nụ cười rất dễ mến. Những ý nghĩ xấu về gã chợt biến đi. Trần Dũng hỏi gã bằng tiếng Anh:
- Anh là người Liên Xô?
- Không. Tôi là người Ý.
- Vừa rồi anh có xem những trận tranh tài Italy 90 không?
- Có. Nhưng chỉ qua truyền hình.
- Vậy anh sang đây đã lâu?
- Vài tháng.
- Anh ở Hà Nội mới vào?
- Không. Tôi vừa đến từ Pleiku. Tôi có một người bạn Pháp ở Sài Gòn.
- Một người Pháp? Tôi quen khá nhiều người Pháp ở Sài Gòn. Trước giải phóng tôi làm ở đồn điền cao su Plantation de Terre rouge.
- Ồ, gã kêu lên rồi ngưng bặt như thể đã lỡ lời, gã nói:
- Sài Gòn dạo này buồn hơn những năm trước.
Trần Dũng cảm thấy câu chuyện như thế đã đủ hắn chào người Ý nọ và trở về phòng mình.
Sáng hôm sau hắn ăn điểm tâm qua loa rồi đến bưu điện Sài Gòn đánh điện đi Đà Nẵng cho một người bạn, ở đó tình cờ hắn gặp lại bà Monique, người đàn bà Pháp trên chuyến phi cơ bị nạn ngày trước. Bà ta gần như kêu lên khi nhận ra hắn. Và ở cái tuổi bốn mươi, bà trông cũng chưa đến nỗi nào. Bà Monique hỏi:
- Lâu nay anh không trở lại Đà Lạt?
- Không. Tôi bận nhiều việc lắm.
Hai người đã ra đến đường cái. Người đàn bà vui mừng thấy rõ. Bà hỏi đủ thứ chuyện và than phiền là người Việt Nam rất khép kín. Trần Dũng nghĩ ngay đến cái bi kịch “ở vậy” của bà ta suốt bốn mươi năm cuộc đời, hắn nhìn bà ta bằng đôi mắt ái ngại. Hắn hỏi:
- Về Sài Gòn bà ở đâu?
- Khách sạn. Nhưng bây giờ tôi sắp đến nhà một người quen. Nếu không có gì trở ngại mời anh cùng đi, sau đó chúng ta đi ăn.
Hắn thấy một đề nghị như vậy cũng nghe được nên bằng lòng.
Hai người thả bộ dọc đường Đồng Khởi.
Nơi đến là một căn lầu thụt sâu phía trong. Phía trước có vẻ chật hẹp nhưng bên trong khá rộng rãi nhờ ăn thông với một cái sân thượng.
Một người đàn ông da trắng đang ngồi dựa ngửa trên chiếc ghế mây lớn, hai chân lão duỗi ra cho một người đàn bà Việt Nam làm móng chân. Cảnh đó là Trần Dũng thấy khó chịu. Hắn chào lão ta nhưng lão không chào lại, môi ngậm ống điếu to tổ bố, mặt lão đầy thịt, đầu hói. Nói chung lão có đầy đủ vẻ đáng ghét của một tên thực dân.
Người đàn bà Pháp nói chuyện gì đó một lát rồi đưa cho lão một cái thư không dán tem xong chào hắn, lui ra. Trần Dũng xoay lưng đi thẳng. Hắn nói với bà Monique:
- Tôi khó chịu về thái độ của ông ta.
- Ồ, người đàn bà cười, ông ta thuộc lớp trước mà.
Hai người đi rất nhanh qua dãy hành lang hẹp. Một người đàn ông cao lớn từ phía thang máy đi lại. Khi đến gần Trần Dũng mới nhận ra đó chính là người Ý mà hắn đã gặp ở khách sạn đêm qua. Cuộc chạm trán bất ngờ không thể tránh né được. Hai người chào nhau.
Không hiểu do kinh nghiệm nghề nghiệp hay do linh cảm mà Trần Dũng lại nghĩ ngay gã là một tên buôn lậu ma tuý. Người Ý nói:
- Thật bất ngờ.
- Chẳng bất ngờ gì. Trần Dũng cười. Tôi hiểu:
Hắn cảm thấy khoái chí khi nói xong câu ấy. Người Ý nọ liền đứng dậy, gã nhỏ nhẹ hỏi:
- Bạn hiểu à?
- O.K. Ông nhớ tôi là người Việt Nam mà.
- Tốt lắm. Sáng mai gặp lại ở khách sạn nhé. Ta nói chuyện nhiều.
Trần Dũng nghĩ, nghề buôn lậu bạch phiến đối với hắn quả là một nghiệp chướng. Tuy vậy hắn lấy làm thích thú, khe khẽ ngâm:
Chém cha cái số ba đào.
Cởi ra rồi lại buộc vào như chơi.
Bà Monique tưởng hắn nói gì nghe không rõ nên hỏi lại. Hắn đáp:
- Tôi chợt nhớ ra hai câu thơ của một thi sĩ thiên tài Việt Nam.
Thế là người đàn bà hỏi tới tấp về Nguyễn Du. Rồi cũng như lần gặp trên phi cơ cách đây hai năm, bà tỏ ra là một người rất thích thơ văn, âm nhạc. Trần Dũng phải lái câu chuyện sang hướng khác.
- Trưa rồi. Chúng ta đi ăn một cái gì.
Trời đang nắng ráo bỗng tối sầm lại. Gió cuốn lá bay tạt vào cửa kính. Đèn trong nhà hàng bật sáng. Trần Dũng cảm thấy thú vị trong căn phòng ấm cúng ấy. Người bồi bàn đến bên bàn, cúi chào và đưa bản thực đơn. Những món ăn Tây đối với hắn không có gì xa lạ. Bà Monique tỏ ra khâm phục sự sành ăn của hắn. Chiều nay hắn muốn ngồi rỉ rả nhâm nhi nhìn mưa rơi bên ngoài để nhớ lại những ngày sống như thú vật ở trại giam, và để gặm nhấm cái cuộc đời ba chìm bảy nổi của hắn từ hồi để chỏm chăn trâu nhịn đói nhịn khát cho đến bây giờ.
Cơn mưa đến vội vã và ào ạt lúc nãy bây giờ trở nên rả rích, thủ thỉ hiền lành,
Sài Gòn âm u trở thành người tình xưa rất buồn.
Bàn tay hắn cầm ly rượu ngọt uống liên tục, chếch choáng. Trong cơn say bao giờ hắn cũng cảm thấy cô độc. Không nhớ ai cả nhưng buồn. Hắn hiện nguyên hình là một trẻ mục đồng ngủ quên trên đồi cỏ. Hắn say đến độ không biết mình đã về khách sạn từ lúc nào chỉ thấy một căn phòng xa lạ và lộng lẫy. Bà Monique đỡ hắn nằm xuống giường của bà. Tuy vậy bà không tỏ ra khó chịu. Bà lấy cho hắn một cốc nước lạnh, hắn uống từ tốn và mỉm cười với bà. Trước mặt hắn không phải là người đàn bà đẫy đà nữa mà là một cô gái trẻ xinh đẹp. Hắn đắm chìm trong mùi nước hoa quyến rũ. Hắn quàng tay ôm lấy thân thể người đàn bà, dường như bà ta nói cái gì đó hắn nghe không rõ. Có lẽ là những lời phản đối. Nhưng sự thèm muốn của hắn mạnh hơn những lời ấy rất nhiều. Một lát sau người đàn bà đã nằm gọn trong tay hắn. Lúc ấy hắn biết là mình đang ôm bà Monique. Người đàn bà bị cuốn vào cơn mê đắm rất nhanh, rất bất ngờ và đầy thú vị. Bởi đó là lần đầu tiên trong suốt bốn mươi năm của cuộc đời, bà biết thế nào là nhục cảm. Bà vùng dậy như một con khủng long sau một ngàn năm ngủ quên. Bà ngây ngất trong cảm giác đê mê và ngượng ngùng, trong sự khoái lạc và cơn đau của trinh tiết. Tất cả những thứ đó làm bà muốn phát điên lên.
Họ nằm ngủ cạnh nhau từ trưa cho đến tối mịt.
Trong bữa ăn tối bà Monique có vẻ ngượng ngùng nhưng lại rất dịu dàng với hắn. Riêng Trần Dũng, hắn vẫn chưa ra khỏi những ý nghĩ khôi hài về một đêm tân hôn như thế. Nó kỳ quặc không phải vì mọi sự đã diễn ra khác thường nhưng vì nó đã rất đúng khuôn mẫu: Vết máu trên tấm ra trắng, sự e thẹn. Đó là điều kỳ quắc đối với một người đàn bà phương tây bốn mươi tuổi. Hắn ôm ngang lưng người đàn bà, ngước nhìn bầu trời đã quang mây, lấp lánh sao.
***
Trần Dũng tiếp người Ý nọ trong phòng ngủ của hắn. Trên bàn có mấy lon bia Tiger và một cái gạt tàn thuốc. Người Ý nói:
- Tôi gặp bạn như một định mệnh. Đang cần một người cộng tác lại gặp ngay kẻ rành nghề.
- Sao anh biết tôi rành nghề?
- Thì cũng như trường hợp anh khám phá ra nghề nghiệp của tôi. Chúng ta hiểu nhau quá mà.
- Nhưng tôi không ưa lão ta.
Người Ý mở to mắt, cao giọng:
- Lão nào?
- Lão Tây già ở đường Đồng Khởi. Tên lão là gì. Dường như tôi nghe bà Monique gọi hắn là Rambert thì phải. Nói thiệt với anh, tôi không thích cộng tác với một người như lão.
- Cộng tác gì. Lão ta chỉ là khách hàng thôi.
- Ồ, thế à. Trông lão có vẻ là một chủ nhân. Nhưng thôi ta đi vào vấn đề. Bạn cần nguồn tiêu thụ phải không?
Người Ý nốc cạn lon bia, nói:
- Không, cái đó đã có người lo. Tôi muốn bàn đến tận gốc.
- Gốc nào. Trần Dũng hỏi:
- Tận bên Lào. Dám chơi không?
- Nói điều kiện đi.
Người Ý nói:
- Dễ mà. Bạn tải hàng từ Paksé tới biên giới. Chúng tôi sẽ đón ở đó. Bạn đã từng cầm súng phải không?
- Việt Nam là xứ chiến tranh mà. Trẻ con cũng biết cầm súng. Mỗi chuyến đi mấy người?
- Ba người. Chúng tôi áp dụng chiến thuật du kích của Mao.
- Nhưng các ông sẽ trả công bao nhiêu một chuyến?
- Ba mươi ngàn đô la.
Trần Dũng im lặng. Hắn nhíu mày rồi nói:
- Từ Paksé đến Pleiku cũng phải mất ròng một tháng. Đi bằng voi phải không?
- Phải. Mỗi chuyến một tấn hàng.
Trần Dũng khui lon bia mới, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch. Hắn ném cái vỏ vào giỏ rác.
- Thôi được, hắn nói. Ngày mai cũng vào giờ này chúng ta sẽ gặp lại. Tôi sẽ trả lời dứt khoát.
MƯỜI BA
Trong phòng khách của “Ông Tướng” có một người đang ngồi đợi.
Đó là một người đàn ông nhỏ bé sạm đen, trán thấp đầy những vết nhăn, miệng nhọn, môi dưới dày và trễ ra, hai cánh tay ngắn ngủn nhưng thật rắn chắc. Đó là lão khỉ đột. Lão ngồi nhai kẹo cao su, lơ đãng ngắm các bức tranh vẽ sư tử treo đầy bốn bức tường. “Ông tướng” là biệt danh của một tay buôn lậu khét tiếng, một ông chủ sừng sỏ. Ông ta vừa cạo râu xong, trở ra tiếp khách với chiếc kimono diêm dúa nhưng đắt tiền. Ông ta hỏi lão khỉ đột:
- Ông làm được việc ấy à?
- Vâng. Tôi đã tập nhiều lần. Lão khỉ đột nói.
- Nhưng có bền không? Tôi muốn nói những lúc máy bay lên xuống bất thường và tôi ngại nhất là đoạn đường trên xe ca.
Lão khỉ đột nở một nụ cười nhẫn nại, giọng rất cương quyết:
- Ông chớ lo. Tôi đã tập luyện rất chu đáo và công phu. Tôi nhảy thử nữa. Nhảy thật mạnh nó cũng không rớt ra bao giờ. Tôi đã chắc làm được tôi mới nhận.
- Được rồi. Hãy đợi tôi một lát.
Ông đi sang một phòng khác. Lát sau ông trở lại với cái hộp nhỏ xấu xí, mở nắp lấy ra một cục vàng có hình giống như trái cau nhưng nhỏ hơn một chút. Lần lượt sáu trái cau như thế đặt trên tấm nỉ xanh. Ông tướng nói:
- Đây là chuyến đặc biệt khác thường. Tôi hoàn toàn tin cậy vào sự thông minh và công phu luyện tập của ông. Bây giờ ông có thể vào toa lét thử cho tôi xem.
Lão khỉ đột im lặng lấy trong túi ra một gói nhỏ và một ống vadơlin, xong hai người đàn ông dắt nhau vào phòng tắm.
Lão khỉ đột mở gói giấy ra, trong đó có sáu cái “áo mưa". Lão chăm chỉ nhét sáu trái cau vàng vào sáu cái condoms ấy, cột lại một đầu, cắt bớt phần thừa cho gọn, xong lão dùng vadơlin bôi đều bên ngoài lớp cao su. Lão từ từ đứng dậy cởi quần ra trước mặt “ông tướng”. Lão làm công việc ấy một cách tự nhiên và ông tướng đứng nhìn với đôi mắt bình thản.
Lão khỉ đột ngồi chồm hổm, đùi hơi dạng ra, lần lượt nhét từng trái cau vàng vào hậu môn.
- Một. Lão đếm. Hai… và đây là cái thứ sáu nhé.
Lão cố giữ cho nét mặt tự nhiên khi nhét trái cau cuối cùng vào người. Xong việc lão đứng lên, cười. Lão cảm thấy đau ở thắt lưng nhưng cố che giấu cảm giác đó để tỏ ra rằng mình đã phá kỷ lục 5 trái từ xưa tới nay. Ý chí đã giúp lão.
Ông tướng có vẻ bằng lòng lắm:
- Từ xưa tới nay tôi chưa hề thấy ai chịu nổi sáu trái. Tôi rất phục ông.
Lão khỉ đột nói một câu khiêm nhường:
- Chỉ là do luyện tập mà thôi.
Tuy nhiên ông tướng thoáng thấy lão nhăn mặt.
- Ông đau à?
- Có gì đâu.
- Vậy ông nhảy mấy cái tôi xem.
Lão khỉ đột đã tính trước tình huống ấy. Lão nhíu hậu môn lại, nhảy lên mấy cái như con khỉ làm xiếc.
Cái màn nhảy nhót đi qua như một cơn ác mộng đối với lão.
- Bằng lòng chưa? Lão hỏi.
- Được. Ông tướng đáp gọn.
Lão khỉ đột ngồi xuống, lần lượt rặn mấy cục vàng ra, xếp vào hộp như cũ, rồi mặc quần.
Khi hai người trở ra phòng khách ông tướng nói:
- Tôi sẽ đánh điện cho người ở Sài Gòn ra đón ông ngày mai. Bây giờ ông có thể đi nghỉ lấy sức.
Lão khỉ đột bước ra cửa với nụ cười bí hiểm trên môi.
***
Sáng sớm trời lạnh buốt. Lão khỉ đột xách chiếc vali nhỏ ra phi trường. Hôm nay lão có vẻ ăn diện, áo sơ-mi trắng, quần tây màu xám đậm, cà vạt đen, miệng phì phèo điếu Craven A. Lão ghét thứ thuốc thơm nhạt phèo ấy nhưng cũng hút để lấy phong độ.
Lão bước vô một quán điểm tâm của người Tàu. Đó là một cái quán thấp nhưng rộng rãi và tràn ngập hơi khói toả ra từ cái thùng nước lèo bằng đồng to lớn đặt gần chiếc cột xi-măng. Mặc dù thời tiết bên ngoài khá lạnh nhưng người Tàu già vẫn ở trần.
Lão khỉ đột chọn một bàn gần cửa sổ để có thể nhìn thấy bên ngoài. Lão gọi một ly cà phê đen nhỏ. Ngày hôm qua lão đã phải uống thuốc xổ cho hậu môn trống không. Lão không bỏ đường vào cà phê vì theo kinh nghiệm lão biết rằng chỉ cần một trở ngại nhỏ do thức ăn thức uống gây ra cũng làm cho ruột co thắt và sẽ khó lòng mà giữ nổi của quý ấy trong người. Tuy vậy lão cũng thấy ngấm ngầm tức lưng, điều đó làm lão nghẹt thở, hồi hộp.
Chỉ còn không đầy hai mươi phút nữa là máy bay cất cánh. Thắt lưng lão càng lúc càng đau khiến có lúc lão run lên như người bị sốt rét. Lão cắn môi chịu đựng và nhủ thầm: Ráng lên. Chỉ một lát nữa thôi.
Sự thực thì lão đã có kế hoạch của lão. Trước nay dân buôn lậu vàng chỉ tối đa là năm cục trong người. Khả năng lão cũng chỉ có thế thôi. Nhưng lão đã tính cách khác. Và lão phải thành công.
Lão bắt chuyện ngay với người đàn bà đang bế một đứa nhỏ chừng hai tuổi ngồi ở hàng ghế đối diện. Bà ta cũng có vẻ thích nói chuyện. Đây là lần đầu tiên bà đi Sài Gòn và bà muốn biết về thành phố này còn lão thì đã quá rành từng con hẻm, từng quán nhậu, từng khu ăn chơi hạng sang ở Chợ Lớn, lão vừa nói vừa nựng đứa bé cho nên nó cũng chịu lão lắm. Nó ăn sôcôla lão cho và cười sằng sặc.
Chợt lão gập người xuống, mặt nhăn nhó.
- Ông sao vậy?
- Hơi đau cái bụng.
Nhưng cơn đau cũng qua đi. Lão gượng cười nói:
- Mình già rồi. Cái gì cũng suy nhược, nhất là bộ tiêu hoá.
Phi cơ rời mặt đất chưa đầy năm phút thì lão kêu đau bụng. Lão ra hiệu cho người đàn bà lúc nãy nhường lối rồi đi vào toa lét.
Mặc dù lão bước rất nhẹ nhưng cái cục vàng thứ sáu cứ muốn lọt ra ngoài. Lão cố nín lại nhưng càng cố càng cảm thấy khó chịu. Lão đóng cửa phòng vệ sinh lại thật kỹ rồi cởi quần ra. Lão chỉ vừa ngồi xuống là cục vàng thặng dư quái ác ấy lòi ra liền. Lão tóm gọn và kéo trong áo ra một con búp bê nhỏ xinh xắn. Lão mở đầu con búp bê, lấy bông gòn bọc cục vàng rồi nhét vô cái đầu ấy, gắn lại vào cổ. Xong việc lão cất con búp bê vào túi áo và trở ra. Mặt lão tươi tỉnh mặc dù trên cái trán nhăn nheo kia mồ hôi đã rịn ra lấm tấm. Từ đó trở đi lão ngồi im, lim dim ngủ cho đến khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.
Qua cửa sổ lão đã thấy những người hải quan đứng rải rác khắp nơi. Lão bảo người đàn bà:
- Đợi người ta xuống hết đã. Chen lấn làm chi.
Người đàn bà nghe lời, đặt cái giỏ xuống sàn tàu. Lão khỉ đột móc trong túi ra con búp bê đưa cho đứa bé.
- Này, cầm chơi nhé.
Đứa bé thích chí quá cười hề hề.
Hành khách lần lượt xuống hết, lúc bấy giờ lão khỉ đột và người đàn bà có con nhỏ mới bước ra cửa tàu. Lão thu hút ngay cái nhìn của nhân viên hải quan nhưng điều đó đối với lão rất bình thường. Lão bình tĩnh trình giấy thông hành và nhìn nhân viên hải quan khám xét hành lý một cách lơ đãng. Tuy vậy một nhân viên hải quan đã lộ vẻ nghi ngờ nên yêu cầu khám người lão.
- Mời ông vào trong này.
Lão khỉ đột đã lường trước tình huống này nên lão đường hoàng bước theo người nhân viên hải quan. Trong một căn phòng nhỏ đóng kín cửa lão thấy có vài ba người ngoại quốc cũng đang bị yêu cầu cởi bỏ quần áo để khám xét. Lão lẳng lặng làm theo yêu cầu của người nhân viên hải quan với nụ cười hiền lành. Lão hỏi:
- Có gì mà chú em khám kỹ vậy?
Người nhân viên trẻ cười rất tươi, anh nói:
- Chẳng qua đó là nhiệm vụ thôi, bác ạ.
Lão khỉ đột vội vàng mặc quần áo và trở ra. Hành lý của người đàn bà có con nhỏ vẫn chưa được khám xét xong, lão đứng chờ một lát. Năm phút sau bà đã xuất hiện ở cổng. Lão khỉ đột nói:
- Xe ca đang đợi.
Và lão nhanh nhẹn xách cái vali to kềnh của người đàn bà ra xe. Khi hai mẹ con đã ngồi xuống ghế, lão móc túi lấy một thỏi sôcôla đưa cho đứa nhỏ để đổi lấy con búp bê. Lão bảo người đàn bà.
- Tôi đem về tặng đứa cháu ngoại.
Rồi lão bước xuống xe, gọi tắc-xi về trung tâm thành phố.
Lão khỉ đột không có gì phải vội vàng. Lão thuê phòng ở một khách sạn hạng trung, đưa năm trái cau ra khỏi cơ thể xong tắm rửa sạch sẽ rồi đi phố. Lão chọn một nhà hàng kín đáo để ăn cơm sau đó về khách sạn ngủ một giấc thật say đến sáng.
Đúng tám giờ sáng, lão thay đồ, bỏ năm trái cau vào trong túi vải kaki, trái thứ sáu lão nhét vô túi quần.
Lão đi thẳng tới biệt thự Vạn Lịch ở đường Duy Tân. Lão bấm chuông và đứng chờ. Một người giúp việc già ra mở cổng, chào lão rất lễ phép. Lão qua một cái sân rộng trải sỏi trắng, đi thẳng vô nhà.
Khi đến cửa phòng khách lão thò tay vào túi quần lấy cục vàng ra, moi đất trong cái chậu kiểng trồng mai trước cửa, bỏ cục vàng vô đó rồi lấp đất lại.
Chủ nhân ngôi biệt thự là một người đàn ông cao nhưng gầy, nước da hơi tái và tóc thì đã bạc gần hết. Ông ta đưa tay mời lão khỉ đột ngồi.
- Tôi có được điện của ông tướng từ Lào đánh qua, rất vui khi thấy ông đến nơi bình an, sớm sủa.
Lão khỉ đột nói:
- Vâng mọi việc khá tốt đẹp, trừ một trục trặc nhỏ.
- Ủa! Đã xảy ra chuyện gì không hay rồi à?
Lão khỉ đột vẫn nhỏ nhẹ:
- Dạ vâng, ban đầu tôi tưởng là êm xuôi cả không ngờ khi máy bay cất cánh được một lát, nó dồi mấy cái liên tiếp tôi chịu không nổi. Ông thông cảm cho rằng xưa nay chưa có ai chịu nổi sáu cục vì thế để bảo đảm an toàn cho chuyến hàng tôi buộc phải vào phòng vệ sinh của phi cơ lấy bớt một cục ra. Và một khi đã lấy ra thì…
Lão chủ nhíu mày hỏi:
- Ông giấu nó ở đâu?
- Ông cũng biết là không thể giấu chỗ nào được ngoài cái hậu môn. Hải quan xét rất kỹ.
Lão chủ giận dữ nói:
- Tôi không tin ông tướng lại có thể phó thác cho ông một việc mà ông không đủ khả năng. Thôi được, ông đưa cái thư của ông tướng cho tôi xem.
Chủ nhân đọc thật lâu, thật kỹ rồi đặt cái thư xuống bàn, nói:
- Ông tướng có bảo là chính ông ta đã chứng kiến ông thực tập nhảy trước mặt ông ta mà.
- Vâng, thưa ông chủ. Quả có thế.
- Và ông đã cam kết với ông tướng là sẽ chuyển đủ số sáu trái cau cho tôi.
- Vâng. Nhưng xin ông chủ hiểu cho rằng đây là một tai nạn nghề nghiệp. Hoàn toàn ngoài ý muốn.
Mặt ông chủ tái mét. Ông ngó chăm chăm năm trái cau vàng xếp ngay ngắn trên bàn. Bỗng ông vụt đứng dậy, đột ngột hỏi:
- Hiện giờ ông ngụ tại đâu?
Lão khỉ đột thưa:
- Khách sạn Trung Tín.
Ông chủ đưa tay nhấn chuông và lập tức hai người đàn ông to lớn bước vào. Chủ nhân ra lệnh:
- Chìa khoá phòng!
Lão khỉ đột móc chìa khoá ra.
- Lại khách sạn Trung Tín lục soát cho tao.
Hai tên du đãng chộp lấy chìa khoá rồi bước nhanh ra cửa. Ông chủ day sang lão khỉ đột:
- Khai thực đi. Tại sao mất một trái?
Lão khỉ đột lặng thinh. Rồi bỗng bật cười ha hả. Lão dõng dạc nói:
- A, sự việc tôi đã trình bày rõ ràng như thế mà ông còn không tin. Ông tính làm gì tôi đây? Sự thực vẫn là sự thực. Ông thử giết tôi đi. Tôi thách ông đó. Việc này còn có ông tướng. Xưa nay không hề có lệ bắt người tải hàng phải bồi thường khi bị tai nạn nghề nghiệp.
Lão khỉ đột lấy thuốc ra hút rồi nói tiếp:
- Ông biết tôi làm nghề này mấy mươi năm rồi không? Trước đây tôi còn gặp những tay ghê gớm hơn nhiều, ông cứ hỏi thẳng ông tướng thì biết. Bây giờ tôi hỏi ông nhé. Nếu tôi không vứt trái cau ấy vào hố tiêu, hải quan họ bắt tôi, thử hỏi tài sản còn gì? Và ông có ngồi yên ở đây được không? Ông chỉ biết cái lợi nhỏ mà bỏ cái lợi lớn. Xin lỗi ông, ông hẹp hòi lắm.
Ông chủ nín thinh. Lão khỉ đột bồi tiếp:
- Tôi báo cho ông rõ rằng tôi và ông tướng không có lỗi gì trong việc này và ông sẽ phải trả công cho tôi sòng phẳng.
Chủ nhân vẫn nín thinh nhưng lần này mặt ông ta đỏ gay. Chợt ông ta thét lên:
- Rồi sẽ biết tay. Tôi không để ai qua mặt tôi đâu.
Một giờ sau, cánh cửa mở ra và hai tên du đãng lúc nãy xuất hiện.
- Thưa ông chủ, chúng tôi đã lục soát rất kỹ.
- Thôi cút đi, chủ nhân nói. Hai tên du đãng lui ra, ông chủ cũng bỏ sang phòng khác. Từ đó đến tối lão khỉ đột gần như bị giam lỏng trong phòng. Hơn tám giờ mới có người mời lão sang phòng ăn. Chủ nhân thay đổi thái độ, Ông ta tỏ ra vui vẻ và lão khỉ đột cũng không có gì phải căng thẳng với ông chủ. Lão ăn nhanh và uống nhiều rượu mạnh. Lão thấy ngon miệng và yêu đời. Thời gian đi qua rất nhanh. Mười giờ đêm chủ nhân tiễn lão xuống thang gác với số tiền thù lao đựng trong xách tay.
Khi cánh cửa sau lưng lão khép lại, lão tiền bước tới chỗ chậu kiểng dùng ngón tay trỏ moi nhẹ cục vàng lên. Lúc ra cổng lão rút lấy hai tờ giấy năm ngàn cho người gác cổng, vỗ lưng anh ta một cái rồi đi thẳng ra đường.