Đô đốc Trần Thượng Xuyên và cù lao Phố
rongxanhag 06.09.2008 05:27:55 (permalink)
Đô đốc Trần Thượng Xuyên
Trần Thượng Xuyên''' (陳上川) tự Trần Thắng Tài (? – 1720), người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), nguyên là tổng binh ba châu: Cao Châu, Lôi Châu, Liêm Châu dưới triều Minh.
 
Ông được coi là người đầu tiên có công khai khẩn với quy mô lớn vùng đất Biên Hòa, là người được chúa Nguyễn ban danh hiệu cao quý ''Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt'' (Họ Nguyễn làm vua, họ Trần làm tướng, công khanh đời đời không dứt), được vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc phong "Thượng đẳng thần".
 
I. Sự nghiệp:
1.1Thần phục chúa Nguyễn:
Năm 1644, vương triều Minh  bị nhà Thanh tiêu diệt. Bốn tướng thuộc vương triều này là Dương Ngạn Địch, tổng binh đất Long Môn, cùng phó tướng Hoàng Tiến và tổng binh ba châu Cao - Lôi - Liêm Trần Thượng Xuyên, cùng phó tướng Trần An Bình theo Trịnh Thành Công (1623 - 1662)(1) chiếm cứ đảo Đài Loan tiếp tục chống lại nhà Thanh.
 
Sau khi công cuộc “Bài Mãn phục Minh” thất bại, vào tháng giêng năm Kỷ Mùi (1679), bốn tướng kể trên đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền sang các cửa biển Tư Dung (Thuận An) và Đà Nẵng, xin ở làm dân nước Việt.
 
Bấy giờ, chúa Hiền – Nguyễn Phúc Tần (1620-1687, ở ngôi 1648 - 1687) đang muốn đưa người đến khai khẩn đất Chân Lạp nên chấp thuận.
 
Đại Nam thực lục chép: ''Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho; binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây dương, Nhật Bản, Chà Và (2) đi lại tấp nập”.(Đại Nam thực lục Tiền biên, soạn năm 1844, Viện Sử học phiên dịch, NXB Sử học, Hà nội, 1962. tr. 136-140)
 
1.2Mở mang cù lao Phố:
Cù lao Phố là một cù lao nằm trên Sông Đồng Nai, thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam.
Cù lao Phố là một dải đất sa bồi nằm ở phía Đông-Nam của thành phố Biên Hòa. Cù lao này khi xưa còn được gọi là Đông Phố, Giản Phố(3), Bãi Rồng, Cù Châu (4), Nông Nại Đại Phố (5). Tên hành chính hiện nay là xã Hiệp Hòa, với tổng diện tích đất đai là 694,6495ha.
Tuy nằm cách biển nhưng là nơi sông sâu, nước chảy có thể đi đến mọi miền.
 
Người có công lớn trong công cuộc phát triển Cù lao Phố là Trần Thượng Xuyên.
Ban đầu, nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân (hay Bàng Lân. Khi đó, vùng này hãy còn là một nơi rừng rú) lập nghiệp. Nhưng do phần lớn nhóm người này ở vùng Đông Nam Trung Quốc nên thạo nghề buôn bán hơn nghề nông, nên họ đã chuyển từ Bàn Lân về cù lao Phố, là nơi có vị trí thuận lợi hơn để sinh sống.
Sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v..
Từ đấy, Cù lao Phố ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định, tức Nam bộ ngày nay.
 
Đại Nam nhất thống chí mô tả: 
“Nông Nại đại phố, lúc đầu do Trần Thượng Xuyên khai phá, tức Trần Thắng Tài chiêu tập được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội...” (Nguyễn Tạo dịch, quyển thượng, Biên Hòa, Nha Văn Hóa Bộ Quốc gia Giáo Dục xuất bản, Sài Gòn, 1959, tờ 25)
 
Cảnh mua bán rộn rịp cũng được Trịnh Hoài Đức ghi chép lại:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là “hồi đường”, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”(Gia Định thành thông chí, mục Xuyên sơn chí)
 
Nhà văn Sơn Nam viết:
“Vùng cù lao Phố, nòng cốt của Biên Hòa. Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu, với đường bộ lên Cao Miên và đường thủy ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân Trung Hoa theo chân Trần Thượng Xuyên gây cơ sở lớn ở cù lao Phố, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông. Năm măm sau khi định cư, chùa Quan đế dựng lên” (Lịch sử khẩn hoang miền Nam'', NXB Văn nghệ, TP. HCM, 1994, tr.30)
 
Tuy nhiên, sự thịnh vượng của cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm (1979 -1779), bởi đã xảy ra hai sự kiện lớn:
-Năm 1747, một nhóm khách thương người Phúc Kiến qua lại buôn bán, thấy cù lao Phố rất giàu có nên dậy lòng tham muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu, đánh úp dinh Trấn Biên (tiền thân của Biên Hòa sau này), giết chết Nguyễn Cư Cẩn (tước Cẩn Thành Hầu) là người cai quản dinh. Tin cấp báo về Thuận Hóa, chúa Vũ vương (Nguyễn Phúc Khoát) liền sai cai cơ Tống Phước Đại (tước Đại Thắng Hầu) đang đóng ở Mô Xoài đem binh vào cứu viện. Tống Phước Đại phá tan đạo quân của Lý Văn Quang, bắt được chúa đảng cùng đồng bọn 57 người. Tuy dẹp được cuộc bạo loạn, nhưng cù lao Phố cũng đã chịu nhiều thiệt hại.
 
-Năm 1776. quân Tây Sơn đã đến đàn áp những người Hoa ở cù lao Phố vì họ đã ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh. Trịnh Hoài Đức mô tả: “Nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước'' (Gia Định thành thông chí). Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng chợ Lớn (nay là Quận 5 và Quận 6, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), sinh sống và lập những cơ sở thương mãi khác cho đến nay...
Kể từ đó, Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
 
1.3Giữ an bờ cõi:
Năm Mậu Thìn (1688), phó tướng Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, dời đồn sang Nan Khê (nay là sông Vàm Nao, thuộc tỉnh An Giang), đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua chính nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận, bỏ việc triều cống và đắp ba luỹ Bích Đôi, Cầu Nam và Nam Vang, rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ...(Đại Nam thực lục Tiền biên'', soạn năm 1844, Viện Sử học phiên dịch, NXB Sử học, Hà nội, 1962. tr. 136-140)
 
Vua thứ nhì Chân Lạp là Nặc Nộn (đang đóng ở Sài Gòn) báo gấp lên chúa Nguyễn. Chúa Ngãi (Nguyễn Phước Trăn, 1687 - 1691) nổi giận, bèn cử tướng Mai Vạn Long ở Dinh Thái Khương giả hiệp quân cùng Tiến đi đánh dẹp Nặc Thu, nhưng kỳ thực cũng để hạ Hoàng Tiến.
 
Đại Nam thực lục chép:
“Tháng giêng năm Kỷ Tỵ (1689), Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Rạch Gầm (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), sai người đến Nan Khê triệu Hoàng Tiến đem quân sở bộ đến.
Vạn Long phải dùng mẹo đánh lừa Tiến đến hội. Quả nhiên Tiến cưỡi thuyền ra sông đến hội. Phục binh vùng dậy, bốn mặt đánh vào, Tiến bỏ thuyền chạy, nhằm lẩn về phía cửa biển Soài Rạp. Vạn Long vào lũy, bắt được vợ con Tiến đều chém cả, chiêu tập dư chúng quân Long Môn, sai bộ tướng là Trần Thượng Xuyên quản lãnh để làm Tiền phong.
Thừa thắng, Vạn Long, Trần Thượng Xuyên tiến đánh, đốt xích sắt ngang sông, liên tiếp lấy được ba luỹ Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang, bắt Nặc Thu phải hàng phục…” (Đại Nam thực lục Tiền biên'', soạn năm 1844, Viện Sử học phiên dịch, NXB Sử học, Hà nội, 1962. tr. 136-140)
 
Vào năm 1699, Trần Thượng Xuyên lại phải cầm quân đến nơi biên giới:
Tháng 7 năm 1699, Nặc Thu lại đắp lũy ở Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam. Trần Thượng Xuyên lúc bấy giờ đang đóng quân ở Doanh Châu (Vĩnh Long), cấp báo lên triều đình. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh]] đi vào Nam hiệp quân, đánh dẹp.
 Tháng 3 năm 1700, Trần Thượng Xuyên đích thân ra trận, giao chiến với quân Chân Lạp, rồi tiến đánh lũy Bích Đôi và Nam Vang. Quân Chân Lạp tan vở... Sau trận tiến công này, vùng đất Biên Trấn (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), Định Tường, Long Hồ (Vĩnh Long), An Giang đã được sáp nhập vào Đại Việt.” (Lương Văn Lựu, ''Biên Hòa sử lược toàn biên'', quyển II, Sài Gòn, 1973, tr. 118 – 120)
 
Và lần thứ ba...
Việt Nam sử lược ghi:
 
“Năm Giáp Ngọ (1714), quân của Nặc Ông Thâm đến lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm nguy cấp lắm. Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn Biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm la (Xiêm). Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Nặc Ông Yêm lên làm vua chân Lạp…” (Trần Trọng Kim, ''Việt Nam sử lược'', NXB Tân Việt, Sài Gòn 1968, tr. 331)
 
1.4 Mất:
Suốt 15 năm, Trần Thượng Xuyên vừa hổ trợ các tướng chúa Nguyễn ổn định tình hình quân sự, chính trị ở Gia Định và Chân Lạp, vừa lo mở mang buôn bán ở cù lao Phố. Vào ngày 23 tháng 10 âm lịch năm 1720, ông mất và được an táng ở làng Mỹ Lộc, xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
 
Chung quanh mộ Trần Thượng Xuyên còn có các mộ khác, được người quản đình Tân Lân (nơi thờ ông Trần Thượng Xuyên) ở Biên Hòa, gần Cù Lao Phố cho biết là của các binh lính và cận thần của ông.
 
Các mộ rất hoang tàn, rêu phong vì đã trải qua bao thế kỷ. Các dòng chữ trên đá đầy phong rêu nay đã mờ mất.
 
Cách đây nhiều năm, Ty văn hóa tỉnh Bình Dương và một số các nhà nghiên cứu đến lấy được chữ Hán, qua giấy in lên đá, nhờ vậy mới xác định được đây là mộ của Trần Thượng Xuyên.
 
II.Tưởng nhớ:
Trần Thượng Xuyên được lịch sử xác định là người có công lớn trong công cuộc khai phá và xây dựng vùng đất Đồng Nai - Gia Định. Công đức to lớn của ông được nhân dân ghi tạc, tôn thờ và xem ông như vị thần đã khai sáng vùng đất này.
 
Mặt khác, Trần Thượng Xuyên còn là một dũng tướng thao lược của chúa Nguyễn. Ông đã nhiều lần cầm binh đánh dẹp Cao Miên, giữ an bờ cõi, mở rộng biên cương nước Việt.
 
Chính vì vậy, chúa Nguyễn đã ban danh hiệu cao quý ''Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt''. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều phong ông làm “Thượng đẳng thần”.
Để tỏ lòng ngưỡng mộ và đền đáp công ơn người đã có công tổ chức khai phá, mở mang vùng đất Đồng Nai - Gia Định, nhân dân ở những nơi này gọi Trần Thượng Xuyên là “Đức Ông” và đều có lập đền thờ ông, khói hương không dứt.
 
Trong số ấy có Đình Tân Lân (Xóm Mới) ở Biên Hòa, nơi thờ chính tướng Trần Thượng Xuyên, đã được Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch xếp hạng “di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” theo Quyết định số 457/QĐ, ngày 25 tháng 3 năm 1991. Ngoài ra, Đình Minh Hương Gia Thạnh ở quận 5, TP. HCM cũng có gian thờ ông rất trang trọng.
 
III. Hậu duệ:
Trần Thượng Xuyên có người con trai tên Trần Đại Định, cưới con gái của Mạc Cửu, tổng trấn Hà Tiên. Năm 1725, Đại Định nối nghiệp cha, phục vụ dưới triều chúa Nguyễn Phúc Chú tức ''Chúa Ninh'' (1697-1738), được tập phong tước Định Viễn Hầu, chức tổng binh, chỉ huy cả hai đạo binh Phiên Trấn và Long Môn.
 
Tháng Giêng năm Nhâm Tý (1732), sau khi dẹp tan phe nổi loạn ở Ai Lao (Lào) và Chân Lạp, Định bị Trương Phước Vĩnh, mang chức ''điều khiển'', hãm hại để đoạt công. Đại Định bị bắt giam rồi chết oan trong ngục thất ở Quảng Nam vào giữa tháng Chạp cùng năm ấy. Sau Định được minh oan và được truy tặng hàm ''đô đốc Đồng Tri''.
 
Con của Trần Đại Định là Trần Cơ, rất được cậu ruột là Mạc Thiên Tích thương yêu và tin dùng. Họ Trần ở Biên Hòa và Họ Mạc ở Hà Tiên kết thông gia nhiều đời, như vợ Mạc Thiên Tích là người họ Trần quê ở Đồng Môn.
 
Bùi Thụy Đào Nguyên
Long Xuyên, tháng 9 năm 2008.
 
Chú thích:

(1)Trịnh Thành Công tên là Sâm, được vua nhà Minh ban cho quốc tính và đổi tên là Thành Công. Năm 1650, lập căn cứ Hạ Môn, Phúc Kiến trở thành thủ lĩnh phong trào chống Thanh ở vùng ven biển Đông Nam Trung Quốc. Năm 1661, Trịnh Thành Công bị thất bại, chạy ra Đài Loan, tiếp tục chống Thanh.
 
(2) Chà và: âm của chữ Java, Chà và là người đến từ đảo Java, về sau từ này được người Việt dùng để gọi tất cả những người có màu da ngăm ngăm như Chà Bom bay (Bombay, Ấn Ðộ), Chà Ma ní (Manille, Phi Luật Tân).
(3) Theo GS Nghiêm Toản, thì:
Đông Phố, thực ra là "Giản Phố",vì lẽ chữ "Giản" và chữ "Đông" viết theo chữ Hán nét gần giống nhau, chỉ khác hai chấm thay vì một nét.
Truy thêm, "Giản Phố" do "Giản Phố Trại" mà ra, và "Giản Phố Trại" tức là "Cambodia" do người Tàu âm ra tiếng của họ và vẫn đọc "Kan-pou-tchai", tức "Cambodge" (Campuchia) ngày nay.
Như vậy, nên gọi "Giản Phố" hơn là "Đông Phố", nhưng cái gì cũng không mạnh hơn thông tục.
(4) Cù Châu không có nghĩa là cù lao, mà hình tượng một ụ đất lớn giống như con rồng có sừng, do đó mới gọi “Cù Châu”. Mỗi khi trên sông có sóng to gió lớn, đất lỡ hai bên bờ, người địa phương nói “cù dậy”. Ở phía Nam cù lao, có một hàng đá ngầm, lúc nào nước rút xuống thì lộ lên rõ ràng làm cho dòng sông chảy xiết, ghe thuyền qua lại rất nguy hiểm.
 
(5) Nông Nại đại phố tức là ''Chợ Lớn của xứ Đồng Nai''. Đồng Nai âm theo tiếng Quảng Đông là Nông Nại, do họ không phát âm được chữ “Đ” trong địa danh Đồng Nai..   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.09.2008 05:30:56 bởi rongxanhag >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9