DU LỊCH NAM BỘ
lyenson 31.03.2009 00:29:18 (permalink)
DU LỊCH TÂY NINH
Tác giả: Trần Huy Hùng Cường
(có bổ sung một số hình ảnh)

Tây Ninh là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, có chung đường biên giới với Campuchia dài 240 km. Trên đường biên giới này có hai cửa khẩu thông với nước bạn là Mộc Bài và Xa Mát. Phần đất còn lại của tỉnh ở phía nam giáp với Long An và thành phố Hồ Chí Minh, phía đông giáp với Bình Phước và Bình Dương.
Diện tích của tỉnh Tây Ninh khoảng 4.029 km2. Địa hình của tỉnh được xem như có hai vùng. Vùng nhiều rừng núi ở phía bắc, từ thị xã Tây Ninh trở lên, nơi tiếp giáp với cao nguyên Nam Trung bộ, trong đó có núi Bà Đen được xem như cao nhất Nam bộ. Vùng đồng bằng ở phía nam tiếp giáp với đồng bằng sông Cửu Long, đất khá bằng phẳng. Có hai con sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh là sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ Đông. Sông Sài Gòn được ngăn lại tạo nên hồ Dầu Tiếng làm công trình thủy lợi tưới tiêu cho nông nghiệp. Là vùng đất tiếp giáp giữa cao nguyên và đồng bằng, nên đất đai rất thích hợp cho việc trồng rừng và cây công nghiệp.
Dân số khoảng 1.017.100 người, gồm các dân tộc Kinh, Khmer và Hoa. Thị xã Tây Ninh là trung tâm hành chính của tỉnh. Tôn giáo gồm Công giáo, Phật giáo và Cao Đài. Tây Ninh là trung tâm của đạo Cao Đài, có tòa thánh Tây Ninh được xây dựng qui mô tại huyện Hòa Thành.
Quốc lộ 22, còn được gọi là đường xuyên Á, bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh đi ngang qua tỉnh và sang Campuchia. Là chiếc cầu nối phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa giữa nước bạn và vùng miền Đông Nam bộ. Ngoài ra, còn có quốc lộ 22B từ thị trấn Gò Dầu đi ngang thị xã Tây Ninh và đến cửa khẩu Xa Mát khoảng 85 km.

 
BÁNH TRÁNG PHƠI SƯƠNG
& BÁNH CANH TRẢNG BÀNG
 


Đến Tây Ninh, du khách thường quan tâm đến hai món ăn rất bình dân nhưng cũng rất đặc trưng của vùng Nam bộ: bánh tráng phơi sương và món bánh canh Trảng Bàng.
Bánh tráng cuốn với thịt heo luộc thái mỏng, ăn kèm với khoảng 20 loại rau sống phổ biến và loại rau ở địa phương như diếp cá, ngò gai, rau tần, chuối trái sống, lá xoài non, khế chua, rau diếp, rau quế vị, cóc, mặt trăng, săng de, đọt mọt, rau thơm, rau nhái, dưa leo, củ kiệu, đồ chua…. Nước chấm là nước mắm pha loãng chua ngọt hoặc mắm nêm. Tuy nhiên, bánh tráng ở Trảng Bàng – Tây Ninh dùng để ăn món này thường được tráng không quá mỏng và có vị mặn hơn so với các loại bánh tráng tráng khác và được đem phơi sương trước khi phục vụ thực khách.
Món bánh canh cũng rất đơn giản, nhưng có hương vị và cách trình bày món ăn hấp dẫn. Sợi bún không to, mềm nhưng không quá dai. Nước lèo cho vào tô bánh cùng một khoanh giò heo đáng giá, thêm vài lát thịt heo nạc xung quanh. Hành lá xắt nhuyễn rải đều trên mặt, thêm vài lát ớt đỏ và tiêu cay. Khách ăn một lần sẽ nhớ mãi món ăn bình dân này.
 

TÒA THÁNH TÂY NINH

Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh là một công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng tọa lạc trong một khuôn viên rộng một km2, có hàng rào bao bọc xung quanh, thuộc huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Tòa thánh cách thị xã Tây Ninh khoảng bốn km về hướng đông. Công trình thể hiện sự hài hòa giữa mỹ thuật kiến trúc Á Đông và kiến trúc phương Tây, gồm nhiều khu vực kiến trúc khác nhau: Tòa thánh, Hộ Pháp đường, đền thờ Phật Mẫu và các tháp mộ. Vòm mái và hoa văn trang trí khéo léo, tinh xảo thể hiện tinh thần tam giáo.
Công trình kiến trúc tôn giáo này được khởi công xây dựng vào năm 1933. Đến năm 1940, công trình đang được xây dựng thì bị Pháp khống chế. Năm 1946, công trình nay tiếp tục được xây dựng và hoàn thành năm 1947. Nhưng đến năm 1955, lễ khánh thành công trình mới được tổ chức.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh có 12 cửa. Cửa lớn nhất là chánh môn, là lối vào khu vực trung tâm Tòa thánh theo trục dọc, có hai con rồng chầu Cổ pháp của Phật. Ngay phía sau chánh môn là tháp thờ đức Hộ Pháp. Cửu trùng thiên được sơn ba màu vàng, xanh và đỏ thể hiện tinh thần tam giáo hòa hợp. Cột phướn và cuối cùng là đền thờ.
Đền thờ dài 140 mét, rộng 40 mét. Nóc có ba mái chồng tam cấp. Mặt ngoài có hai tháp cao 36 mét là lầu chuông còn gọi là Bạch Chung Cổ đài và lầu trống còn gọi là Lôi Âm Cổ đài. Hiệp Thiên đài cao 25 mét. Trên nóc ở giữa là Nghinh Phong đài, có con long mã đầu rồng mình ngựa đứng trên quả cầu. Trên nóc phía sau là Bát Quái đài, cao 30  mét có tượng các thiên tướng. Tín đồ theo đạo hoặc du khách đến viếng đền thờ phải vào bằng hai cửa bên hông, nam tả nữ hữu.
Bên trong cửa chính đền thờ là hành lang có bức tường vẽ tranh Tam thánh gồm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Victor Hugo và Tôn Trung Sơn. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1442 – 1587) là nhà tiên tri danh tiếng thời nhà Lê của Việt Nam, thi đậu trạng nguyên nên còn được gọi là Trạng Trình. Victor Hugo (1802 – 1885) là thi gia trứ danh của Pháp. Tôn Trung Sơn (1866 – 1925) nhà đại cách mạng của Trung Quốc. Ba vị này đang mài mực để cùng viết lên dòng chữ: “Thượng đế và nhân loại, Tình yêu và công lý” (Dieu et humanité, Amour et justice).
Bên trong, ngay phía sau bức tường của hành lang thờ ba vị có tượng đứng gồm: đức Hộ pháp Phạm Công Tắc ở giữa có trách nhiệm về mặt tinh thần, pháp giới đối với tín đồ trong tôn giáo, bên tay phải là Thượng phẩm Cao Huỳnh Cư tay cầm quạt và đức Thượng sanh Cao Hoài Sang (cháu gọi ông Cao Huỳnh Cư là chú) phía bên trái.
Trong đền thờ có tất cả 28 cột rồng, gồm 18 cột xanh và 10 cột vàng. Phía trước chánh điện có bảy chiếc ghế được sắp xếp một cách trang trọng, gồm sáu chiếc xếp thành hai hàng ngang trước mặt một chiếc ghế lớn nhất, được đặt ở vị trí cao nhất là ngai vàng thờ đức Giáo tông Lê Văn Trung và các vị phụ tá có nhiệm vụ cai quản tín đồ trong đạo.
Chánh điện được thiết kế theo hình bát quái, thờ Thiên Nhãn được đặt trên Quả càn khôn với 3.072 ngôi sao. Xung quang có tám con bạch long đang hợp sức nâng quả càn khôn bằng đuôi. Thiên Nhãn tượng trưng cho Thượng đế, là hình thiêng của đạo Cao Đài.
Bao lam chánh điện được trang trí hình ảnh chín tầng mây, được gọi là “Cửu thiên khai hóa”. Có các vị tiên thánh của các tôn giáo được thể hiện theo hàng ngang và hàng dọc như sau: Hàng ngang, từ phải sang là Quan Thế Âm Bồ Tát, Lão Tử, Phật Thích Ca, Khổng Tử và Quan Công. Hàng dọc, từ Phật Thích Ca đến Lý Thái Bạch, Chúa Giêsu và Khương Tử Nha.
Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh là nơi hành hương, tham quan và tìm hiểu về một tôn giáo bản địa của rất nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi ngày. Với tinh thần hòa hợp, hiếu khách của các vị chức sắc ở Tòa Thánh, du khách sẽ được đón tiếp một cách nồng hậu để chiêm ngưỡng một công trình tôn giáo đặc sắc và được hướng dẫn giới thiệu từng đặc điểm của đền thờ cũng như những hình thức và đường lối của đạo.
 

ĐẠO CAO ĐÀI

Đạo Cao Đài còn mệnh danh là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, do ông Ngô Văn Chiêu, một công chức ở Phú Quốc – Kiên Giang sáng lập năm 1919. Đạo Cao Đài tôn thờ ba đấng tối cao là đức Phật, Chúa Giêsu và đức Cao Đài.
Ngày 07/10/1926, đạo Cao Đài ra tuyên ngôn chính thức thành lập được Thống đốc Nam kỳ phê chuẩn cho phép hành đạo tại miền Nam. Lễ ra mắt của đạo Cao Đài cũng là lễ tấn phong các chức sắc trong đạo được tổ chức long trọng trong ba ngày 18,19 và 20/10/1926, tại chùa Từ Lâm, gần Tây Ninh. Trong lễ ra mắt có Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam kỳ đến dự.
Ông Lê Văn Trung được tôn làm Đức Giáo Tông, là người đứng đầu Cửu Trùng đài có trách nhiệm điều khiển chung về mặt nhân sự. Ông Phạm Công Tắc được phong là đức Hộ pháp có trách nhiệm trong việc phép tắc của tôn giáo. Đức Giáo Tông có ba hàng chức sắc thuộc ba ngành: Khổng giáo có y phục áo đỏ, Phật giáo có y phục áo vàng và Lão giáo có y phục áo màu lam. Ba màu đỏ, lam và vàng cũng tượng trưng cho uy tín, đức hạnh và lòng bao dung của đạo. Màu trắng là đồng phục cho tín đồ theo đạo.
Linh vật được thờ là hình tượng con mắt trái, được gọi là Thiên nhãn. Con mắt là động cơ của trái tim, là cánh cửa của tâm hồn. Qua con mắt, con người nhận thức được chân tâm, minh định được con người thật của chính mình để hướng đến sự hoàn thiện. Một ngọn đèn luôn được thắp sáng nơi bàn thờ chánh điện, vì theo quan niệm của đạo Cao Đài thì hai vầng nhật nguyệt luôn thay nhau thắp sáng cho dương trần. Trên bàn thờ còn có Tam bửu: hoa, rượu và trà. Hoa tượng trưng cho tinh. Rượu tượng trưng cho khí. Trà tượng trưng cho thần. Người ta quan niệm rằng, trong cơ thể con người có ba phần tạo nên và vận hành khách quan đó là tinh, khí và thần. Khi hành lễ đốt thêm năm nén hương và trầm, năm nén hương tượng trưng cho kim, mộc, Thủy, hỏa, thổ.
Khi hành lễ, có một vị nam chức sắc mặc áo xanh đi đầu, ông giữ vai trò chủ tế trong buổi lễ. Ngoài ra, còn có một vị nữ chức sắc lớnn tuổi mặc áo trắng, đội tấm voan phủ từ đầu đến chân đứng cạnh chủ tế và nhiều tín đồ nam nữ tham dự mặc trang phục màu trắng.
Tín đồ đạo Cao Đài cúng lễ bốn thời: sáu giờ sáng, 12 giờ trưa, sáu giờ chiều và 12 giờ đêm. Đạo Cao Đài theo chủ trương trong tinh thần hòa hợp tôn giáo. Tín đồ theo đạo sống theo tinh thần cởi mở, tương thân tương ái, làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo khó là truyền thống tốt đẹp của người theo đạo Cao Đài. Đến nay, tín đồ theo đạo Cao Đài đã lan rộng khắp ba miền của đất nước. Tuy nhiên, đạo Cao Đài cũng đã chia ra nhiều môn phái.
NÚI BÀ ĐEN


Núi Bà Đen cao 986 mét, nằm ở phía đông bắc thị xã Tây Ninh, thuộc huyện Hòa Thành, giữa một vùng đồng bằng cách thị xã Tây Ninh khoảng 10 km. Nhìn từ xa, núi Bà Đen trông giống như chiếc nón rộng vành úp trên đồng bằng. Trên núi có nhiều đền chùa cổ kính, hang động đẹp, hoang sơ và nhiều loại cây cổ thụ.
Câu chuyện huyền thoại về Bà Đen được tín ngưỡng trong dân gian sùng kính: “Bà tên Lý Thị Thiên Hương, còn có tên là cô Đen sống ở huyện Dương Minh Châu. Nàng và chàng trai Lê Sĩ Triệt thề ước nên duyên, nhưng bị quan phủ Hoang Hóa muốn chia cắt mối tình. Ông bắt chàng đi lính để cưới nàng làm thiếp. Vì không muốn làm tỳ thiếp cho bọn quan lại, nên bà quyết định lên núi tu và bị cọp ăn thịt. Sau khi chết, bà rất linh thiêng và phù hộ cho nhiều người trong vùng. Theo cách giải thích từ góc độ Dân tộc học: vùng đất này có nhiều người Kinh và người Khmer sinh sống. Do đó, người phụ nữ được nhắc đến trong truyền thuyết có tên là bà Đanh, mà người Việt đọc trại thành Bà Đen”.
Lại có một truyền thuyết khác gắn liền với Gia Long – Nguyễn Ánh: “Khi Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn đánh nhau, ông bị thua trận và chạy lên ngọn núi này ẩn nấp. Trong giấc mơ, ông thấy có một cô gái xinh đẹp, nhưng nước da đen giòn hiện ra và chỉ cho ông nơi ẩn nấp an toàn nhất. Sau này lên ngôi, ông muốn trả ơn cứu mạng nên cho xây một miếu ở núi và đặt tên là miếu Bà Đen”.
Đường lên đỉnh núi Bà Đen quanh co với nhiều cảnh quan đẹp. Lên đỉnh, du khách có dịp nhìn ngắm toàn cảnh nơi đây và càc vùng lân cận. Nhiệt độ thoáng mát, dễ chịu, thấp hơn các nơi khác trong vùng. Trên núi có điện thờ Bà Đen, chùa Phật, phía sau chùa Phật có đường lên tượng Phật nhập Niết bàn, hang Gió và đường lên đỉnh núi, chùa Hang, động Ba Cô… và nhiều hang động trong núi như: động Kim Quang, động Thanh Long, hang Ông Hổ….
Dưới chân núi là khu du lịch di tích lịch sử văn hóa núi Bà có diện tích rộng hàng chục hécta, với nhiều khu vui chơi, giải trí, nhà hàng, nhà nghỉ và nhiều dịch vụ phục vụ du lịch khác. Đường bộ lên núi rất dễ đi. Song, khu du lịch này con có hai loại hình dịch vụ phục vụ đưa khách lên tham quan núi bằng cáp treo và máng trượt có chiều dài đoạn đường hơn 1.200 mét trong khoảng thời gian 20 phút. Sử dụng hai loại dịch vụ này, du khách có dịp thưởng thức những kỹ thuật công nghệ hiện đại và cảm giác ở độ cao trên không để nhìn ngắm cảnh vật xung quanh núi.
Từ lâu, núi Bà Đen là nơi hành hương tham quan hấp dẫn của Tây Ninh và cả vùng miền Đông Nam bộ đối với nhiều du khách trong và ngoài nước. Núi Bà Đen còn là căn cứ cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tại đây, có khu triển lãm bảo tàng trưng bày và giới thiệu những hình ảnh và hiện vật của cán bộ chiến sĩ của quân Giải Phóng trong cuộc kháng chiến.
 
HỒ DẦU TIẾNG

Hồ Dầu Tiếng thuộc huyện Dương Minh Châu, cách thị xã Tây Ninh khoảng hơn 30 km, giáp với địa phận tỉnh Bình Dương. Do điều kiện thiếu nước tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp, nên Bộ Thủy Lợi và tỉnh Tây Ninh quyết định ngăn sông Sài Gòn, đắp đập hồ Dầu Tiếng để chứa nước phục vụ nông nghiệp.
Công trình được khởi công xây dựng ngày 29/4/1981 với các hạng mục: Đập chính cũng là bờ bao dài 1.100 mét, cao 30 mét. Đập phụ dài 29.000 mét, cao 10 mét bao quanh hồ. Một đập tràn xả lũ ra sông Sài Gòn. Hai cống dẫn nước ra kênh Đông và kênh Tây. Kênh Đông tưới tiêu cho các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu và khu vực sông Vàm Cỏ Đông. Kênh Tây dẫn nước tưới tiêu cho khu vực các huyện Tân Biên, Hòa Thành, Châu Thành…. Công trình hồ Dầu Tiếng được hoàn thành ngày 10/01/1985. Hồ có diện tích 27.000 hécta, sức chứa 1,5 tỉ mét khối nước.
Hồ Dầu Tiếng là một công trình thủy lợi nhân tạo, nhưng cảnh quan thiên nhiên rất lãng mạn, trữ tình. Không gian rộng lớn, sơn thủy hữu tình. Không khí trong lành, thoáng mát. Hiện nay, hồ Dầu Tiếng là tuyến tham quan du lịch hấp dẫn kết hợp với Tòa thánh Tây Ninh và núi Bà Đen. Hoặc tuyến liên hoàn hồ Dầu Tiếng và thắng cảnh núi Cậu, chùa Thái Sơn của tỉnh Bình Dương.
 
CĂN CỨ TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM

Khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam cách Tây Ninh khoảng 64 km. Đây là căn cứ địa của cách mạng lãnh đạo và chỉ đạo nhân dân miền Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi. Căn cứ này là di tích lịch sử đã được nhà nước công nhận năm 1989.
Di tích lịch sử Trung ương Cục miền Nam đã được Sở Văn hóa – Thông tin Tây Ninh cùng với Bộ Văn hóa – Thông tin xây dựng, phục hồi nguyên trạng và hoàn thành vào ngày 15/4/1995, gồm có 1.253 mét giao thông hào được phục chế bằng xi măng giả đất, 1.370 mét đường nội bộ, 13 hầm chữ A, nhà của các vị lãnh đạo, hội trường, phòng họp, nhà bếp. Mỗi ngôi nhà cách nhau 100 mét, được lợp bằng lá trung quân, trong một khu rừng rậm rạp.
Đến khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam, du khách có dịp tận mắt chứng kiến nơi ở và làm việc của các vị lãnh đạo cách mạng miền Nam như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Thái Bường…. Căn cứ lịch sử cách mạng này là biểu tượng sáng ngời của trí thông minh, tài thao lược và tinh thần kiên dũng của nhân dân miền Nam.
 
Nguồn: CÁC TUYẾN DU LỊCH NAM BỘ nxb Trẻ 2006
#1
    lyenson 31.03.2009 12:49:01 (permalink)
    DU LỊCH BÌNH DƯƠNG
    Tác giả: Trần Huy Hùng Cường

    Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ được bao bọc bởi các tỉnh thành như Bình Phước, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai. Bình Dương là một trong các địa phương được hình thành sớm nhất trong tiến trình hướng về phương Nam của dân Việt. Năm 1698, quan Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào miền Nam kinh lược đã lập hai huyện Phước Long và Tân Bình. Năm 1808, do nhu cầu phát triển nên hai huyện này được nâng lên thành phủ gồm tám huyện. Trong đó, huyện Tân Bình gồm các huyện Tân Long, Thuận An, Phước Lộc và Bình Dương. Năm 1841, huyện Bình Dương lại được chia thành hai huyện mới: Bình Dương và Bình Long. Năm 1889, xuất hiện tỉnh Thủ Dầu Một do Pháp thành lập.
    Năm 1956, chế độ Ngô Đình Diệm đổi thành tỉnh Bình Dương. Và địa danh cấp tỉnh của Bình Dương xuất hiện từ thời điểm này. Từ năm 1956 đến tháng 12/1996, Bình Dương đã có trên 10 lần thay đổi tên gọi. Tên gọi cuối cùng trước khi trở về với tên gọi tỉnh Bình Dương là Sông Bé. Tại kỳ họp Quốc hội thứ 10, khóa IX vào năm 1996, Quốc hội đã có Nghị quyết chia tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và  Bình Phước.
    Tổng diện tích của tỉnh khoảng 2.696 km2, có thị xã Thủ Dầu Một là trung tâm hành chính của tỉnh. Thị xã này nằm trên tả ngạn sông Sài Gòn, là vùng đất của Gia Định xưa đã có trên 300 năm lịch sử. Dân số khoảng 851.000 người, gồm có các dân tộc đang cùng nhau sinh sống: Kinh, Hoa, Khmer và đã hình thành một nền văn hóa lâu đời. Vùng đất này có nhiều ngành nghề truyền thống nổi tiếng cho đến ngày nay như gốm sứ, sơn mài, điêu khắc gỗ…. Nơi đây cũng là cái nôi của nhạc tài tử trước khi nở rộ khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một loại hình âm nhạc có tiền thân là nhạc lễ ngũ âm.
    Bình Dương là cửa ngõ phía bắc để vào thành phố Hồ Chí Minh, và cũng là cửa ngõ lưu thông giữa các tỉnh miền Tây Nam bộ với các tỉnh Cao nguyên. Các con sông lớn chảy qua địa phận của tỉnh như sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Bé, cùng với nhiều kênh rạch tạo nên hệ thống tưới tiêu cho nông nghiệp phát triển. Giao thông Bình Dương rất thuận lợi, có quốc lộ 13 chạy dài xuyên suốt tỉnh và cũng là đường liên tỉnh nối liền thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Phước, đường 741 nối liền thị xã Thủ Dầu Một với thị xã Đồng Xoài và trung tâm của huyện Phước Long của tỉnh Bình Phước.
    Đất đai của tỉnh thích hợp với nhiều loại cây trồng như đất đỏ trồng cao su và cà phê, vùng đất xám có nhiều đồng cỏ phục vụ cho ngành chăn nuôi và trồng hoa màu, vùng đồng bằng thích hợp cho ruộng lúa và vườn cây ăn trái. Từ lâu, vườn trái cây Lái Thiêu nổi tiếng khắp miền Nam và cả nước với các loại trái cây măng cụt, dâu, chôm chôm, mít tố nữ….
    Bình Dương có ít danh lam thắng cảnh nhưng có nhiều khu du lịch sinh thái như khu du lịch hồ Bình An, khu du lịch Cầu Ngang, vườn trái cây du lịch sinh thái Lái Thiêu… và làng nghề truyền thống được duy trì qua nhiều thế hệ như làng sơn mài, làng gốm…. Người dân quê hương Sông Bé mộc mạc, chất phác nhưng rất dạt dào tình cảm, hiếu khách là hình ảnh đặc trưng của con người quê hương Nam bộ.

    VƯỜN TRÁI CÂY LÁI THIÊU



    Đường vào vườn cây ăn trái



    Vườn trái cây Lái Thiêu là một trung tâm du lịch sinh thái, thuộc ấp Hưng Thọ, xã Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Sở dĩ mang tên Lái Thiêu, vì địa phương này trước đây thuộc quận Lái Thiêu. Đến nay, người dân vẫn quen gọi theo tên cũ.
    Từ lâu, Lái Thiêu nổi tiếng với vườn cây ăn trái với nhiều chủng loại đặc biệt đã trở thành đặc sản của địa phương như măng cụt, dâu, sầu riêng, bòn bon, mít tố nữ…, và các loại trái cây phổ biến khác như cam quít, bưởi, chôm chôm, vú sữa…. Hằng năm, từ tháng Tư đến tháng Tám là mùa thu hoạch trái cây của lái Thiêu, nhất là các loại trái cây đặc sản. Hiện nay, tổng diện tích cây trồng ăn quả của Lái Thiêu có trên 1.000 hecta, đã trở thành điểm du lịch xanh thu hút rất nhiều du khách khắp nơi trong cả nước và cả du khách quốc tế.
    Tại đây, có rất nhiều vườn cây ăn trái được tổ chức để đón du khách đến tham quan. Đặc biệt là vườn cây ăn trái của chị Thu Nga đã tạo được uy tín đối với rất nhiều du khách trong và ngoài nước, và nhất là với các công ty du lịch. Trong khuôn viên rộng khoảng hai hecta, chị thu Nga đã tổ chức thành một khu du lịch sinh thái, là nơi sinh hoạt, vui chơi thư giãn cho du khách. Khi khách đến tham quan vườn cây ăn trái sẽ được chủ vườn tận tình hướng dẫn, giới thiệu từng loại cây, cách trồng và phương pháp chăm sóc từ khi cây ra hoa cho đến lúc thu hoạch. Ngoài việc thưởng thức hương vị của từng loại trái cây đặc sản của vườn, khu du lịch sinh thái của chị Thu Nga còn phục vụ các món ăn đặc trưng của Nam bộ cho du khách như cá lóc nướng trui, gà xào gừng, canh chua cá hoặc canh chua gà, lươn xào xả ớt…. Đặc biệt, các món ăn được chế biến từ các loại trái cây có sẵn trong vườn như: gà nướng sầu riêng, gỏi bưởi thịt gà, gỏi măng cụt sống thịt gà… là những món ăn đặc sản Lái Thiêu được du khách ưa thích. Ngoài ra, khu du lịch của chị Nga còn phục vụ khách đi tham quan trên sông Sài Gòn và ngắm cảnh vườn cây ăn trái bằng canô.
    Vườn cây ăn trái du lịch xanh Lái Thiêu rất thích hợp cho mọi lứa tuổi. Du khách đến đây tham quan, tìm hiểu về các loại cây ăn trái và đời sống của người nông dân ở vùng cây ăn trái qua hàng chục năm duy trì ngành nghề truyền thống. Đây cũng là nơi thu hút rất nhiều học sinh, sinh viên tổ chức đến tham quan, sinh hoạt vào những dịp lễ hội và những ngày hè.
    LÀNG GỐM SỨ



    Làng gốm ở Bình Dương tập trung nhiều ở các địa phương như xã Thuận Giao, xã Hưng Định, thuộc huyện Thuận An; phường Chính Nghĩa của thị xã Thủ Dầu Một…. Gốm sứ Bình Dương đã trở nên nổi tiếng từ rất lâu với các sản phẩm mang những đặc điểm riêng biệt và mẫu mã phong phú được hàng trăm lò sản xuất giới thiệu cùng người tiêu dùng trong và ngoài nước.
    Sản phẩm gốm sứ truyền thống được sản xuất từ các xí nghiệp và công ty rất đa dạng về chủng loại, từ lọ cắm hoa, chậu trồng cây cảnh, đồ sành sứ, tượng người, con vật đến những sản phẩm trang trí nội thất, các loại đèn gốm, và cả vật liệu xây dựng cao cấp…. Mỗi sản phẩm mang nét đặc điểm đặc sắc với độ bóng bền và đẹp.
    Chất lượng và giá trị sản phẩm còn tùy thuộc vào từng chủng loại, được quyết định từ khâu chọn nguyên liệu và chất liệu như cao lanh, đất sét được lấy ở đâu, loại men nào…. Các sản phẩm sau khi được nhào nặn hoặc đúc khuôn sẽ đem tráng men và đưa vào lò nung với nhiệt độ từ 5000c đến 1.8000c, tùy từng sản phẩm. Tuy nhiên, có một số sản phẩm cao cấp hoặc nhiều hoa văn trang trí phải nung đến hai hoặc ba lần sau  mỗi lần thêm kỹ thuật họa tiết, và mỗi lần nung phải đúng theo nhiệt độ qui định.
    Qua nhiều thời  kỳ duy trì và phát triển, nghề làm gốm sứ Bình Dương ngày nay đã đạt đến trình độ cao. Từ đồ gia dụng đã tiến đến trình độ sản xuất gốm sứ công nghiệp. Hiện nay, Bình Dương là một trong những địa phương nổi tiếng của cả nước xuất khẩu gốm sứ sang nước ngoài với tiêu chuẩn và chất lượng cao.
    CHÙA BÀ THIÊN HẬU


    Chùa Bà Thiên Hậu là một công trình kiến trúc tôn giáo của bà con người Hoa ở Việt Nam, thờ bà Thiên Hậu Thánh mẫu. Chùa tọa lạc tại số 04 đường Nguyễn Du, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, được quản lý bởi Hội Bốn ban người Hoa: Phước Kiến, Hẹ, Triều Châu và Quảng Đông.
    Ban đầu, chùa được xây dựng bên bờ rạch Hương Chủ Hiếu vào giữa thế kỷ 19. Năm 1925, chùa được dời về vị trí hiện nay. Chùa thờ bà Thiên Hậu Thánh mẫu; Ngũ hành nương nương là năm vị thánh mẫu hành: Kim, Mộc , Thủy, Hỏa, Thổ; vợ chồng của một vị tướng Trung Hoa là Bổn Đầu Công; Thổ công….
    Bà Thiên Hậu Thánh mẫu là con một gia đình họ Lâm, quê ở làng Mỵ Châu – Bồ Điền - Phúc Kiến, vào thời nhà Tống của đất nước Trung Hoa. Vào một ngày mưa to gió lớn, cha và anh của bà đi biển không về, nên bà chèo thuyền ra biển tìm hai người nhưng chỉ cứu được người anh. Từ đó, tiếng tăm của bà vang xa và được nhân dân trong vùng tôn sùng. Năm 21 tuổi, bà không bệnh mà mất. Sau đó, bà rất linh thiêng báo trước gió bão trên biển khơi, giúp nhân  dân thoát được nhiều cơn nguy hiểm, nên được người dân quanh vùng tôn vinh như một bậc thánh hiền và lập miếu thờ. Bà cũng được người Hoa di cư sang Việt Nam lập đền thờ ở nhiều nơi.
    Hằng năm, chùa Bà Thiên Hậu Bình Dương là nơi thu hút rất nhiều Phật tử và du khách khắp nơi đến cúng viếng, tham quan vào dịp lễ hội rằm tháng Giêng. Đây là cũng là dịp để bà con cầu phúc, cầu lộc cho năm mới. Ngoài phần lễ còn có phần hội với nhiều trò và  tiết mục vui. Ngoài ra, hằng năm còn tổ chức lễ vía Bà rất linh đình vào ngày 23/3 âm lịch. Nơi đây là một trong ba địa phương có lễ hội lớn nhất ở Nam bộ,  gồm lễ hội vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam - Châu Đốc – An Giang, lễ hội vía Bà Đen – Tây Ninh và lễ vía Bà Thiên Hậu – Bình Dương. Trong dịp này, có rất nhiều khách hành hương từ nhiều nơi về tham dự.

    LÀNG SƠN MÀI
    Làng sơn mài Tương Bình Hiệp kéo dài trên một con đường khoảng ba đến bốn km, thuộc thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, đã hình thành từ nhiều thế hệ và đã trở thành nghề truyền thống với hàng trăm gia đình tham gia sản xuất. Nghề sơn mài này đã nổi tiếng với chất lượng cao và nhiều mẫu mã phong phú với hai loại sản phẩm khảm và sơn mài.
    Hàng sơn mài Tương Bình Hiệp với các sản phẩm như bức tranh phong cảnh, chân dung thờ tự của các tôn giáo như ảnh Đức Mẹ, Chúa Giêsu, Phật Thích Ca, Phật Quan Thế Âm…, các tác  phẩm nghệ thuật, hoặc đồ dùng gia đình như khay, hộp đựng đồ trang sức cho đến các  mặt hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp. Hàng khảm với các sản phẩm đồ gỗ cao cấp như tủ thờ, bộ trường kỷ, giường….
    Sản phẩm sơn mài phải qua nhiều công đoạn sản xuất với các nguyên liệu là gỗ, sơn ta và các loại vỏ trai ốc. Giá trị của mỗi sản phẩm cũng tùy thuộc vào từng loại gỗ để sản xuất vỏ trai ốc để trang trí. Có thể dùng gỗ thiên nhiên hoặc các loại ván tổng hợp như  các loại ván ép, MDF, veneer…. Vỏ trai ốc cũng có nhiều loại như xà cừ là loại ốc ở biển có vân nhiều màu và dày, ốc xác là hến biển có màu trắng hoặc vàng, ốc ngọc nữ, ốc xanh. Đắt nhất là các sản phẩm được làm từ xà cừ và  ốc xác vàng. Từ các chất liệu này, người thợ phải trải qua nhiều công đoạn như sơn hom khuôn gỗ làm nền đến sáu nước. Vỏ trai ốc được vẽ mẫu và lộng hình cho bức tranh, dùng keo dán lên khuôn gỗ đã sơn hom, phải qua hai lần sơn lót và mài nước, tiếp tục qua hai lần sơn phủ lên toàn bức tranh và mài nước. Sau đó, dùng dụng cụ để tách, đục những đường nét hoa văn tạo hình cho hình ảnh của vỏ trai ốc, như đường vân của lá, mắt mũi miệng cho người, vẩy cho cá…. Sau cùng, dùng sơn đen phủ lên hoa văn đường nét vừa tạo và đem mài nước. Đến đây, người thợ đã hoàn thành phần sơn mài. Cuối cùng, dùng sơn bóng thổi lên hoặc đáng bóng cho bức tranh là được một sản phẩm hoàn hảo đến tuyệt vời.
    Sản phẩm khảm cũng có những công đoạn giống như sơn mài như vẽ mẫu và lộng hình để khảm vào gỗ. Những công đoạn tiếp theo như đục mảnh lên gỗ để ghép hình ảnh muốn khảm vào. Sau đó, người thợ phải làm những công đoạn như hạ mặt, mài cho gỗ và vỏ trai ốc liền khít nhau, mặt gỗ và mặt vỏ trai ốc phẳng lì và dùng dụng cụ tách, đục tạo hình như cách làm sơn mài. Cuối cùng sơn bóng hoặc đánh bóng để sản phẩm thêm đẹp và giá trị.
    Ngoài ra, việc pha sơn cũng là một trong những vấn đề quan trọng để làm nên một sản phẩm bền, đẹp, chất lượng cao. Tùy theo  kinh nghiệm của mỗi người thợ và bí quyết của từng gia đình nên được xem là bí mật nhà nghề.
    Đến thăm làng sơn mài, du khách sẽ được tận mắt quan sát từng công đoạn của nghề truyền thống độc đáo này. Hiện nay, làng sơn mài Tương Bình Hiệp thu hút rất nhiều du  khách đến tham quan và mua sắm. Trong đó, có cơ sở sơn mài Thanh Đào với những người thợ là thành viên của một đại gia đình có kinh nghiệm cha truyền con nối qua nhiều đời. Đến đây, du khách sẽ được chính những người thợ tiếp đón nồng hậu và hướng dẫn, thực hành cho xem một cách nhiệt tình qua từng công đoạn để hoàn thành một sản phẩm sơn mài hoặc khảm bằng vỏ trai ốc.
    Nhiều sản phẩm của làng sơn mài này đã được xuất khẩu sang nước ngoài và tham gia nhiều hội chợ trong nước quốc tế. Sản phẩm của làng sơn mài Tương Bình Hiệp đã được bạn bè quốc tế đánh giá cao và đến đây để học hỏi  kinh nghiệm làm nghề truyền thống này.



    Làng Nghề Sơn Mài Tương Bình Hiệp (Thị Xã Thủ Dầu Một - Tỉnh Bình Dương)

    Mài tranh

    Theo nguồn sử liệu địa phương thì đến giữa thế kỷ 18, lớp lưu dân từ miền Bắc, từ xứ Ngũ Quảng xa xôi đã xuôi theo dòng sông Sài Gòn đến tụ cư, lập nghiệp ở huyện Bình An (Thủ Dầu Một). Trong số đó, có nhiều người tìm về vùng đất Tương Bình Hiệp hoang vu, cùng hợp sức khai phá đất, làm nông nghiệp dọc theo triền sông Sài Gòn. Mãi đến năm 1861, khi Pháp chiếm huyện Bình An thì địa danh Tương Bình Hiệp mới xuất hiện và trở thành một trong mười xã thôn của tổng Bình Thổ thuộc tỉnh Thủ Dầu Một.
    Đến cuối thế kỷ 18, theo dòng di dân, nhiều lớp thợ sơn mài từ đất Quảng Bình, Thuận Hóa đã mang theo nghề sơn vào tận xứ Đồng Nai, Gia Định trong đó có Tương Bình Hiệp. Tuy nhiên, Tương Bình Hiệp, thoạt đầu mới chỉ có một vài hộ chuyên làm sơn son thếp vàng và pha chế sơn then. Đến mãi về sau, làng nghề Tương Bình Hiệp dần dần phát triển, thợ Thủ sơn mài trở nên nổi tiếng khắp vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Theo lời một số nghệ nhân, vào khoảng cuối những năm 30 của thế kỷ XX, hai ông Năm Nhương và Ba Lắm sau khi học xong lớp dạy nghề sơn mài ở Trường Mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một đã về làng mở cơ sở sơn mài. Sau đó, khoảng cuối thập niên 40, ông Lê Văn Có – mọi người thường gọi thầy giáo Có hay giáo Sơn cũng trở về làng dạy nghề cho con cháu và lớp thanh niên trong làng. Cứ thế, kỹ thuật sơn mài được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.




    Cẩn xà cừ


    Thập niên 50 của thế kỷ trước, với sự xuất hiện của xưởng sơn mài Thanh Lễ do hai  ông Trương Văn Thanh và Nguyễn Thanh Lễ gây dựng đã tạo nên một mốc son mới cho chiếc nôi sơn mài Tương Bình Hiệp. Với sự đóng góp của những nghệ nhân tài hoa, xuất sắc như: Thái Văn Ngôn, Ngô Từ Sâm, Trương Văn Cang, Trần Văn Nam và một số thầy giáo Trường Mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một như: Châu Văn Trí, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Văn Tuyền  đã góp phần đưa loại hình sơn mài bước sang một giai đoạn mới, mẫu mã sản phẩm ngày một đa dạng, nổi tiếng. Từ xưởng vẽ, sơn mài bước ra ngoài cuộc sống, đi về các làng nghề tạo nên sự hội ngộ diệu kỳ giữa họa sĩ và nghệ nhân. Nhiều cơ sở sơn mài mọc lên, sản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng đáp ứng được thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu sử dụng của khách hàng và Tương Bình Hiệp trở thành một thương hiệu nổi tiếng.
    Sơn mài gồm nhiều thể loại như: sơn lộng; sơn mài vẽ lặn, vẽ phẳng, vẽ nổi, thếp vàng bạc, sơn mài cẩn ốc, cẩn trứng và sơn khắc,… Sơn truyền thống dùng ở Tương Bình Hiệp là một hỗn hợp sơn Nam Vang và sơn Phú Thọ được pha chế riêng khác với các vùng khác trong nước. Trong khâu chế biến sơn, đánh sơn cho chín được xem là một khâu quan trọng, đòi hỏi tay nghề, quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu năm của người thợ sơn. Để tạo sơn quang đen, người thợ cho sơn sống vào chảo sắt và phải dùng chày sắt đánh sơn ở ngoài trời nắng để sơn được đẹp màu. Sau khi pha tòng chỉ xong, tiếp tục đánh sơn cho đến khi nào sơn dẻo lại, trong, thấy màu đen bóng, mượt là được. Còn đánh sơn cánh gián thì ngược lại. Sơn sống được đổ vào loại chậu gỗ và dùng chày gỗ đánh quấy sơn. Người thợ đánh sơn trong nhiều ngày cho đến khi sơn chín, nổi bọt lăn tăn, sơn trong suốt tựa màu cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Với sơn cánh gián, người nghệ nhân pha chế các màu khác nhau, nhưng pha với liều lượng như thenào còn phụ thuộc vào kinh nghiệm, tay nghề của từng người. Chẳng hạn như, để pha được màu marông trông sang trọng, ấm áp làm khung tranh, hay làm mặt bàn, ghế thì đó còn là một bí  quyết sử dụng phù hợp lượng bột chu đỏ với bột chu hồng cánh sen.




    Một số cơ sở sơn mài tại làng Tương Bình Hiệp
     
     
    Sau khi đã có nguyên liệu sơn, tùy theo loại sản phẩm mà cốt được tạo bằng những chất liệu khác nhau, như: gỗ dùng làm bàn ghế, tủ, bình; ván ép dùng làm tranh, hộp; gốm dùng làm bình, tượng; vải hay giấy dùng làm cốt cho những sản phẩm thường có kiểu dáng nhẹ, mỏng như  bát đĩa, lục bình,... người thợ mới bắt đầu thực hiện khâu phất vải cho cốt mộc. Sau công đoạn phất vải, thông thường người thợ phải qua 5 công đoạn sơn: sơn bó, sơn hom, sơn lót, sơn quang thí, sơn quang và sau mỗi lớp sơn đã khô đều phải đem ra mài nước. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của nghệ nhân Tám Khiêm, chỉ mài sau khi hoàn tất xong từng công đoạn, không cần thiết cứ mỗi lớp mỗi mài và tuỳ thuộc vào tạo tác loại sản phẩm là tranh khổ lớn, khổ bé, là cẩn ốc, cẩn trứng, dát vàng dát bạc hay là một loại đồ mỹ nghệ cụ thể nào đó mà sơn có thể lên 16 đến 30 lớp.
    Đối với sản phẩm cẩn ốc, sau khi phất vải xong, người thợ lấy sơn sống trộn đều với bột thạch cao để làm sơn hom. Khi hom chừng 2-3 lớp thì đem cẩn ốc. Các nghệ nhân đã biết khai thác màu sắc, chất liệu từ nhiều loại ốc khác nhau như: xà cừ, ngọc nữ, bào ngư, trai đỏ, trai trắng, xác trắng, xác vàng, vẹm xanh,… để tô điểm, sáng tạo cho tác phẩm của mình. Căn cứ theo đề tài định khảm, ốc được lựa chọn cẩn thận, sau đó người thợ vẽ can lại mẫu lên từng mảnh ốc. Theo nét vẽ, những người thợ sẽ thực hiện khâu cưa ốc rồi mới ráp lại thành hình. Ở công đoạn này đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của người thợ lành nghề khi cưa những đường nét thật mảnh mà tránh bị đứt gãy. Cưa ốc xong đem ghép ốc theo đúng mẫu rồi dùng sơn sống dán từng mảnh ốc lên bề mặt sản phẩm. Ốc dán xong, đem hom tiếp cho đến khi nào sơn bằng mặt ốc là được. Công đoạn cuối, người thợ phủ lên tranh một lớp sơn quang bóng, đem ủ cho thật khô rồi mới tiến hành đánh bóng cho sản phẩm.
    Dù vẽ hay cẩn ốc, tranh và sản phẩm sơn mài đều được mài dần ra, cắt bỏ lớp sơn, màu phía trên để lộ lớp màu cần giữ lại. Sau khi đã mài hoàn chỉnh là công việc đánh bóng, cũng hết sức công phu, tỉ mỉ.




    Các sản phẩm sơn mài


    Trong những năm vừa qua, sản phẩm sơn mài Tương Bình Hiệp chịu sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, nhiều doanh nhân, nghệ nhân đã co những biện pháp để sản xuất sơn mài hàng loạt. Mẫu mã trở nên luôn luôn mới, đáp ứng cho mọi loại hợp đồng và khách hàng trong, ngoài nước. Tuy nhiên, trong cái nhộn nhịp của thị trường sơn mài áp dụng kỹ thuật mới, sơn mài truyền thống làm từ chất liệu sơn ta đang thiếu vắng dần. Ví dụ như nhiều nghệ nhân đã kết hợp dùng sơn PU làm lớp sơn phủ ngoài, giúp cho việc sản xuất trở nên nhanh và dễ dàng hơn nhưng chính kiểu làm sơn mài giả này sẽ làm mất đi vẻ đẹp của sơn mài truyền thống và làm mất danh tiếng làng nghề. Đáng lo là lớp thợ trẻ bây giờ ít  người còn mặn mòi, tâm huyết với nghề sơn mài truyền thống. Vì dùng sơn ta giá thành cao, kỹ thuật pha chế lại phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức nên ngày nay, đa phần các cơ sở đều dùng sơn Tây - loại sơn hạt điều làm chất liệu chính cho sơn mài, vì loại sơn hóa chất đáp ứng được màu sắc, cho ra sản phẩm nhanh, không mất nhiều công, giá thành lại rẻ. Có thể nói trăn trở về một làng nghề truyền thống đang dần mai một và liệu ngày mai, trong dòng chảy cuộc sống hiện đại, kỹ thuật dùng sơn ta trong quy trình sản xuất sơn mài còn giữ được sức sống của nó? 
    Song có một điều không thể phủ nhận, là độ bền, độ bóng đẹp của chất liệu sơn ta đã làm cho sản phẩm sơn mài trở thành thứ ngôn ngữ của thời gian. Vẫn có những người khách sành điệu tìm đến các sản phẩm sơn mài đích thực, điều đó càng chứng tỏ được sức bền và một vẻ đẹp lộng lẫy của sơn ta. Cũng chính vì thế, bác Tám Khiêm và một số ít ỏi nghệ nhân trong làng vẫn đặt yêu cầu chất lượng sản phẩm lên hàng đầu  và vẫn âm thầm trung thành với chất liệu sơn ta... Thiết nghĩ, tìm một con đường để phát triển là tất yếu song cũng hết sức khó khăn khi mà loại hình sơn mài mỹ nghệ truyền thống vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung cho một chất lượng sản phẩm mang thương hiệu Tương Bình Hiệp theo đúng nghĩa.

    B.T.H(Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh)


    KHU DU LỊCH
    VĂN HÓA LỊCH SỬ ĐẠI NAM
    Khu du lịch văn hóa lịch sử Đại Nam tọa lạc tại xã Hiệp An, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Đây là một công trình du lịch văn hóa nhằm giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc cho các thế hệ mai sau, đồng thời giới thiệu hình ảnh đất nước Việt Nam qua những mô hình được mô phỏng từ những công trình xây dựng.
    Khu văn hóa lịch sử Đại Nam gồm có các công trình hạng mục: cụm thắng cảnh Ngũ Hành Sơn có diện tích chín hecta, cụm mô hình đất nước Việt Nam có diện tích hơn 30 hecta, cụm thắng cảnh vịnh Hạ Long với diện tích 18 hecta, Cửu Long giang, khu kỳ quan thế giới thu nhỏ, khu vui chơi, cửu trùng đài. Trong đó, nhà thờ tự Đất nước thờ 18 vị vua Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các anh hùng liệt sĩ và các tướng lĩnh qua các thời kỳ từ ngày dựng nước.
    Ngoài ra, các công trình dịch vụ phục vụ du khách đến tham quan khu du lịch văn hóa lịch sử Đại Nam đang được tiến hành xây dựng như nhà hàng, khách sạn và các khu vui chơi giải trí khá. Toàn bộ diện tích khi công trình được hoàn thành sẽ có qui mô 450 hecta.





    CHÙA CỔ NÚI CHÂU THỚI




    Châu Thới cổ tự là một ngôi chùa có kiến trúc hoành tráng, tọa lạc trên đỉnh núi Châu Thới, thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng của đất Gia Định xưa được gìn giữ, tôn tạo và phát triển cho đến ngày nay. Châu Thới là một ngọn núi nhỏ, cao khoảng hơn 100 mét, tọa lạc giữa vùng đồng bằng.
    Chùa núi Châu Thới được khai sơn từ năm 1612. Đến nay, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây dựng. Ngôi chùa hiện nay được xây dựng vào năm 1954. Cổng tam quan được xây dựng năm 1970. Đến năm 1992, chùa được tập trung đại trùng tu, xây dựng thêm nhiều công trình hạng mục. Và hiện nay, chùa vẫn đang được tiếp tục sửa chữa những công trình đã bị hư hỏng, xuống cấp.
    Ngôi chùa mang nét kiến trúc đặc trưng của phương Đông. Nóc có nhiều mái đao trang trí hình rồng phụng, lợp ngói chồng lên nhau: nóc chánh điện và nóc điện thờ Ngọc Hoàng có hai mái chồng, nóc điện thờ Quan Thánh Đế có ít nhất bốn mái chồng. Các trụ cột của chùa được làm bằng gỗ thật hoặc xi măng giả gỗ. Đa số các trụ cột đều được trang trí bằng những con rồng uốn lượn quanh thân cột, hoặc giả thân cây có nhiều hoa lá và quả. Chùa cổ núi Châu Thới có nhiều điện thờ. Ngoài chánh điện thờ Phật Di Đà, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Quan Âm, Thế Chí, Thập bát La Hán, Thập điện Diêm Vương…. Còn có các điện thờ khác như điện thờ Quan Thánh Đế, điện thờ Diêu Trì Địa Mẫu, điện thờ Thánh Mẫu, điện thờ Ngọc Hoàng, điện thờ Tổ…. Ở các điện thờ đều được trang trí bao lam sơn son thếp vàng có chạm khắc rồng phượng và chim muông hoa lá….
    Trong chùa còn lưu giữ hàng trăm pho tượng lớn nhỏ được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau qua nhiều đời trụ trì, đánh dấu những giai đoạn phát triển của ngôi chùa từ khi khai sơn đến nay. Từ những thánh tượng được làm bằng đất sét nhỏ, bằng gỗ, bằng xi măng, bằng đá cho đến những pho tượng lớn được đúc bằng đồng ngay từ những năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới này. Những pho tượng bằng đồng như Quan Thánh Đế, Phật Di Đà, Phật Di Lặc Thích Ca, Quan Âm, Thế Chí. Trong đó có tượng Quan Thánh Đế có trọng lượng sáu tấn.
    Lên núi Châu Thới tham quan và viếng chùa cổ là một dịp du khách được ngắm toàn cảnh của những thành phố quanh vùng: thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Biên Hòa, xa xa là thị xã Thủ Dầu Một và dòng sông Đồng Nai uốn quanh. Không khí trên núi mát mẻ, Phong cảnh hữu tình và yên tĩnh. Danh thắng này đã được Bộ Văn Hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa ngày 06/12/1989.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2009 12:55:11 bởi lyenson >
    #2
      Ct.Ly 31.03.2009 20:51:40 (permalink)
      #3
        lyenson 01.04.2009 12:44:38 (permalink)
        Núi Châu Thới trước 1975 thuộc địa phận tỉnh Biên Hoà, sau này Dĩ An sát nhập với huyện Tân Thuận (Lái Thiêu) thành huyện Thuận An mới thuộc tỉnh Bình Dương. Giờ thì Dĩ An cũng tách ra là một huyện riêng rồi, nhập lại rồi tách ra riết khiến dân bản địa như tôi cũng không biết đường đâu mà lần .
        Riêng thương hiệu Thành Lễ nổi tiếng với tranh sơn mài khi xưa có tiền thân là xưởng “Thanh & Lễ” do hai ông Trương Văn Thanh và Nguyễn Thành Lễ hợp tác sáng lập năm 1943. Đến đầu những năm 60, ông Nguyễn Thành Lễ tách ra riêng, lập nên xưởng Thành Lễ. Từ đó, bắt đầu một quá trình kinh doanh và sáng tạo lừng lẫy đủ tạo dựng một tên tuổi không phai mờ. Họa sĩ Thành Lễ sinh năm 1919 tại Long Xuyên, học chuyên về sơn mài và chạm trổ, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Thủ Dầu Một khoảng năm 1940 (có tài liệu cho là năm 1938). Khi tách ra, xưởng sơn mài Thành Lễ đặt tại Bình Dương có 12 họa sĩ, 2 nghệ nhân vẽ kiểu, 20 người chuyên làm đồ mộc, 60 người chuyên về sơn, 4 thợ chạm, 1 thợ cẩn xà cừ. Xưởng Thành Lễ được xây dựng khá quy mô ở Bình Dương. Bên cạnh xưởng chế tác là phòng trưng bầy đuợc trang trí rất đẹp .
        Sau 1975, ông Thành Lễ cùng gia đình sang sống ở Pháp. Theo thông tin trên mạng, con rể ông là Hoàng Đình Tuyên tiếp tục mở xưởng sơn mài cũng lấy tên Thành Lễ và có tham gia triển lãm ở các hội chợ mỹ nghệ ở Pháp và có đoạt một số giải thưởng. Ngoài ra, có thông tin cho là ông Marcel Nguyễn, con trai ruột ông Thành Lễ cũng mở một cửa hàng sơn mài tại Paris. Năm 1984, Toà Thánh Vatican Rome (Italy) đặt hàng một bức tranh sơn mài Thành Lễ dài 1x3m không rõ được sản xuất từ nguồn nào. Và 20-4-1990, đài Truyền hình TF1 của Pháp đã  thực hiện một phóng sự về sản phẩm sơn mài Thành Lễ ở hải ngọai. Như vậy, tên tuổi Thành Lễ đã được tiếp nối từ chính gia đình ông.
        Công ty XNK Thành Lễ hiện nay tại Bình Dương không phải là Thành Lễ ngày trước, mà thương hiệu này được UBND tỉnh Sông Bé trao tặng cho HPD, một thương gia xuất thân công an, năm 1991. Tuy lúc đầu cũng có kinh doanh mặt hàng sơn mài, nhưng sau này kinh doanh đa ngành nghề, mà chủ yếu là xăng dầu.
        Đại gia HPD, còn được gọi là Dũng lò vôi, là người đứng ra xây dựng khu DLVHLS Đại Nam tại BD.
        Tặng Ct.Ly tấm ảnh chợ Búng kèm theo đây nè .


        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/21636/72FA608810A54B7BBF6C49EBE47D8EF4.jpg[/image]
        Attached Image(s)
        #4
          lyenson 02.04.2009 11:57:55 (permalink)
          DU LỊCH BÌNH PHƯỚC
          Tác giả: Trần Huy Hùng Cường

          Bình Phước là tỉnh miền núi tiếp giáp giữa đồng bằng và cao nguyên, thuộc miền Đông Nam bộ. Vì thế, địa phương này có nhiều rừng bạt ngàn và dãy núi thấp chập chùng. Phía bắc và tây bắc của tỉnh là một đường biên giới dài giáp với Campuchia. Phần đất còn lại của tỉnh tiếp giáp với các tỉnh từ cao nguyên xuống đồng bằng như Đắk Nông, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Dương và Tây Ninh.
          Tổng diện tích của tỉnh Bình Phước chiếm khoảng 6.856 km2. Phần lớn, đất đai ở Bình Phước là loại đất đỏ nên rất thích hợp với các loại cây công nghiệp như cao su, tiêu, cà phê và điều…. Địa hình của tỉnh có hai con sông đi qua: sông Sài Gòn ở vị trí ranh giới giữa Tây Ninh và Bình Phước và sông Bé bắt nguồn từ phía bắc của tỉnh và phần hạ nguồn hòa vào sông Đồng Nai.
          Dân số của tỉnh khoảng 765.000 người, gồm nhiều dân tộc đang cùng nhau sinh sống như Kinh, S’tiêng, Khmer, M’nông, Nùng, Tày và một ít người Hoa. Vì thế, Bình Phước có nhiều lễ hội phong phú mang nét văn hóa của từng dân tộc. Thị xã Đồng Xoài là trung tâm hành chính của tỉnh và các huyện với những địa danh nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như Phước Long, Bình Long, Lộc Ninh….
          Tỉnh có hai quốc lộ chính đi qua như quốc lộ 13 nối liền với Bình Dương và thành phố Hồ Chí Minh, quốc lộ 14 nối liền với các tỉnh cao nguyên như Đắk Nông, Đắc Lắk, Gia Lai, Kon Tum đến Quảng Nam. Kinh tế chủ yếu của tỉnh Bình Phước là các loại cây công nghiệp với diện tích đất trồng cây cao su chiếm số lượng lớn.
          Đến Bình Phước, du khách sẽ được tận hưởng không khí, thắng cảnh đặc trưng của cả hai miền đồng bằng và cao nguyên. Vì thế, Bình Phước có thắng cảnh đẹp như Thác số 4, thác Đứng, thác Mơ, Trảng cỏ Bù Lệch thuộc huyện Bù Đăng, núi Bà Rá…. Bên cạnh những thắng cảnh đẹp là những di tích lịch sử hào hùng của dân tộc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

          HỒ SÓC XIÊM

          Hồ Sóc Xiêm thuộc ấp Lòng Hồ, xã Tân Hưng, huyện Bình Long, Bình Phước. Hồ này được hình thành từ những năm 1980, trong quá trình phát triển kinh tế, đắp đê giữ nước tưới tiêu cho nông nghiệp và làm đường phát triển giao thông địa phương. Con đường từ thị trấn An Lộc vào hồ Sóc Xiêm được trải nhựa phẳng lì, hai bên là rừng cây cao su bạt ngàn tạo nên cảnh quan hữu tình, thơ mộng.
          Khu vực hồ Sóc Xiêm vốn có địa hình lòng chảo, xung quanh có nhiều đồi núi và rừng cây bao phủ. Đường chu vi quanh hồ có chiều dài hơn 3.000 mét. Nước hồ trong xanh, có nhiều loài cá sinh sống. Mùa khô, lòng hồ có nơi sâu đến khoảng 20 mét, chủ yếu là nguồn nước mạch từ lòng đất. Vào mùa mưa lũ, nước mưa từ trên các đồi núi xung quanh đổ về nên nước mặt trong hồ dâng cao.
          Hồ Sóc Xiêm cũng là kho dự trữ cá cho người dân địa phương. Phong cảnh xung quanh hồ ngoạn mục. Từ những bụi cây ven hồ, tiếng chim hót lảnh lót và những cánh rừng trên những ngọn đồi uốn quanh trập trùng… rất thích hợp với loại hình du lịch dã ngoại, câu cá… hoặc tham quan tìm hiểu văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số và các di tích lịch sử.
          THÁC SỐ 4

          Thác số 4 thuộc Công ty cao su Bình Long, tọa lạc tại ấp Sóc Trào, xã Tân Lợi, huyện Bình Long, Bình Phước. Thác số 4 có tổng diện tích 22 hecta. Trong khuôn viên này có ngọn thác bắt nguồn từ những dãy đồi núi chung quanh vùng, và được đặt tên Thác số 4 từ hàng chục năm nay.
          Thác số 4 được phát triển thành khu du lịch vui chơi, giải trí với diện tích gần bốn hecta. Ngọn thác chảy róc rách quanh năm tạo nên cảnh quan lãng mạn. Trong công viên còn có nhiều loại cây hoa kiểng quý rất đẹp, làm cho quang cảnh xunh quanh thác càng thêm thơ mộng. Nhất là khung cảnh này tọa lạc giữa rừng cây cao su với những khu nhà nghỉ rải rác, nên thắng cảnh thiên nhiên nơi đây mang nét đặc sắc mà hiếm nơi nào có được.
          Đến nơi đây, ngoài tham quan thắng cảnh tự nhiên, du khách có thể khám phá những rừng cây cao su bạt ngàn nên rất thích hợp với những đoàn khách tham quan, cắm trại.

          KHU DI TÍCH LỊCH SỬ TÀ THIẾT

          Khu Di tích lịch sử Tà Thiết là căn cứ của Bộ Chỉ huy miền Nam, còn được gọi là Rừng Chính Phủ. Đây là nơi tiếp nhận, huấn luyện cho các đội quân từ Bắc vào Nam chiến đấu và phân phối nhân lực cho các địa phương. Khu căn cứ này cũng được xem là trạm tiếp vận cuối cùng của đường mòn Hồ Chí Minh từ miền Bắc vào chiến trường Nam bộ. Hiên nay, khu di tích lịch sử Tà Thiết thuộc xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, Bình Phước.
          Trong khu vực 16 km2 trên mảnh đất rừng Tà Thiết, các công trình kiến trúc theo kiểu dã chiến nhưng uy nghi và đẹp mắt như ngôi nhà làm việc của Bộ tư lệnh Miền, các mái nhà làm việc của Phó Tư lệnh, Thủ trưởng Bộ Tham mưu, Cục chính trị, Cục hậu cần, Hội trường… và vườn cây ăn trái, ao cá, vườn rau. Tất cả đều được xây dựng xen lẫn trong rừng và gần với gia đình đồng bào thôn xóm. Tại đây, ba cuộc hội nghị liền nhau đã diễn ra trong suốt sáu ngày đêm từ ngày 03/4/1975 đến ngày 08/4/1975 do Đại tướng Văn Tiến Dũng và Đoàn Bộ tổng tham mưu Bộ Quốc phòng cùng với Bộ tư lệnh Miền lập ra kế hoạch giải phóng Sài Gòn và thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Trong cuộc họp vào trung tuần tháng 4/1975, Bộ Chính trị đã quyết định đặt tên cho chiến dịch này là “Chiến Dịch Hồ Chí Minh”.
          Từ ngày 26/4/1975, chiến địch Hồ Chí Minh bắt đầu. Đến bốn ngày tiếp theo gọi là giờ ”G”. Tại Hội trường “Rừng chính Phủ – Tà Thiết”, Bộ Chỉ huy chiến dịch và Bộ Tư lệnh Miền chăm chú theo dõi từng giờ từng phút các mũi tiến quân từ các hướng của quân giải phóng…. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, tin mừng vang lên từ chiếc radio để trên bàn của Hội trường, Đài phát thanh Sài Gòn phát lời của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện và lệnh cho quân đội Sài Gòn hạ súng….
          Ngày nay, khu Căn cứ quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền được xây dựng và phát triển thành khu di tích lịch sử Tà Thiết. Trong khuôn viên rộng 300 hecta gồm có các công trình được xây dựng và phục chế như: nhà trưng bày; các ngôi nhà để ở và làm việc của các vị lãnh đạo cao cấp Bộ Tư lệnh Miền: Trần Văn Trà, Phạm Hùng, Lê Đức Anh, Nguyễn Thị Định; Hội trường là nơi hội họp và đón tiếp những đoàn khách của Trung ương và là nơi thành lập Ban Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh; bếp Hoàng Cầm; hầm di chuyển chữ “A”; hầm giao ban được thiết kế âm dưới  lòng đất, có nóc cao hơn mặt đất 40 cm. Các mái nhà được lợp bằng lá trung quân bằng nhựa để ít bị hư hỏng, nhằm phục chế lại nguyên trạng những mái nhà lá trung quân ngày xưa. Trong khuôn viên có nhiều loại cây kiểng đẹp và những loại cây ăn trái được các vị lãnh đạo cao cấp của nhà nước trồng lưu niệm như vú sữa, nhãn, me, xoài mút, gòn, cây đa… bên cạnh các loài cây cổ thụ như sao đen, dầu xen lẫn với các loài cây khác của rừng tạo nên cảnh quan thiên nhiên phong phú. Trong khuôn viên được thiết kế hai con đường bằng phẳng để khách tham quan toàn bộ khu di tích: con đường dành cho xe ôtô được trải nhựa có chiều dài ba km và đường bộ tham quan dài 1.500 mét tính từ khu trung tâm của khu di tích.
          Mỗi năm, khu di tích lịch sử Tà Thiết thu hút hàng ngàn lượt kách du lịch khắp nơi đến tham quan. Nơi đây còn là một thắng cảnh du lịch hấp dẫn dành cho khách yêu thích thiên nhiên, cắm trại, tìm hiểu về thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc trong những năm tháng kháng chiến.
          +Km 120: thị trấn Lộc Ninh, trung tâm của huyện Lộc Ninh. Nhà giao tế Lộc Ninh, nơi làm việc Ban Liên Hợp quân sự bốn bên, Ủy ban quốc tế kiểm soát và giám định đình chiến, trong đó có sự giám sát của đại diện các nước Canada, Indonesia, Ba Lan và Hungary….
          +Km 127: đoạn cuối cùng của quốc lộ 13. Trạm kiểm soát Liên hợp Lộc tấn. Tại đây có ngã ba, quẹo trái đến cửa khẩu Hoa Lư 16 km là biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, quẹo phải theo đường Lộc Tấn – Hoàng Diệu đến km 20 là trung tâm của huyện Bù Đốp, có ngã ba quẹo phải theo đường 759 đến huyện Phước Long.
          +Từ thị trấn Bù Đốp là đoạn cuối cùng của đường 759, nơi có cột móc km 50. Km 45, cầu Sông Bé bắt qua sông Bé. Km 24, thị trấn Phước Bình có ngã ba vào thị trấn Thác Mơ là trung tâm huyện lỵ của huyện Phước Long hơn năm km. Tại đây có ngã tư, quẹo phải vào núi Bà Rá khoảng 2.500 mét. Gần chân núi, có ngã ba quẹo trái vào thác Mơ khoảng năm km. Hiện nay, thác Mơ đã được khai thác và xây dựng nhà máy thủy điện Thác Mơ. Hoặc từ thị xã Đồng Xoài theo đường 741 đến đường 759 đến thị trấn Thác Mơ.
          NÚI BÀ RÁ

          Núi Bà Rá thuộc thị trấn Thác Mơ, huyện Phước Long, Bình Phước. Đây là một trong những nơi rừng sâu nước độc, dễ mắc bệnh sốt rét mà thực dân Pháp đã xây nhà tù để giam cầm những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam.
          Núi Bà Rá cao khoảng 720 mét, được xem là ngọn núi cao nhất tỉnh Bình Phước. Núi chiếm diện tích khoảng 1.054 hecta. Trên đỉnh cao Bà Rá này là từng căn cứ cách mạng và là chiến trường oanh liệt. Tại đây, những người chiến sĩ giải phóng đã kiên trì bám trụ, vượt qua muôn vàn khó khăn để chiến đấu để ngày Việt Nam hoàn toàn thống nhất.
          Từ chân núi có đường trải nhựa dành cho xe ôtô lên núi có chiều dài khoảng 1.600 mét. Nơi đây có đền tưởng niệm các chiến sĩ cách mạng hy sinh ở núi Bà Rá. Với danh sách hơn 35 người chiến sĩ đến từ nhiều vùng miền của tổ quốc, đã gởi máu xương của mình hòa vào mảnh đất nơi đây từ nnăm 1965 đến năm 1973. Từ đây có đường lên đỉnh núi có chiều dài hơn 1.000 mét, với nhiều bậc thang đá dễ đi.
          Núi Bà Rá có nhiều cây cổ thụ quý. Ngoài hệ thực vật với nhiều loài phong phú, còn có các loài động vật quý hiếm. Lên đỉnh núi, du khách có dịp nhìn thấy toàn cảnh của tỉnh Bình Phước với miền đồng bằng và miền đồi núi chập chùng. Cảnh vật nơi đây còn hoang sơ. Không khí trong lành.
          Núi Bá Rá đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 04/10/1995. Thắng cảnh này là nơi thu hút nhiều du khách khắp nơi đến tham quan, leo núi, dã ngoại. Ngoài ra, núi Bà Rá còn là nơi lý tưởng dành cho các nhà nghiên cứu hệ động thực vật.
          THÁC ĐỨNG
          Thác Đứng thuộc xã Đoàn Kết, huyện Bù Đăng, Bình Phước.  Thắng cảnh này nằm trong khu dân cư của đồng bào M’Nông với nhiều ngôi nhà của bà con người Kinh cùng nhau sinh sống .
          Thác Đứng cao khoảng mười mét, bắt nguồn từ cao nguyên Đắk Lắk. Vào mùa mưa, dòng thác chảy xiết, đổ ầm ào ngày đêm mang theo nguồn phù sa của đất đỏ miền cao nguyên. Mùa khô, dòng thác chảy hiền hòa hơn, nước trong xanh với bao đàn cá bơi lội tung tăng tạo nên một thắng cảnh thơ mộng và trữ tình. Bên kia dòng thác là cánh đồng hoa màu của người dân địa phương, cũng là nơi dừng chân tham quan của du khách.
          Hiện nay, thác Đứng là một trong những thắng cảnh được nhiều du khách ở địa phương và các vùng lân cận quan tâm. Vào những ngày nghỉ cuối tuần và những dịp lễ hội, thác Đứng thu hút nhiều bà con gần xa đến tham quan, vui chơi, thư giãn.
          +Từ thành phố Hồ Chí Minh có thể bắt đầu từ cầu Sài Gòn, dọc theo xa lộ Biên Hòa và quốc lộ 1A đi đến Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Xa lộ Biên Hòa dài hơn 30 km, rộng 21 mét. Được làm từ năm 1956 - 1961 do kinh phí viện trợ của chính phủ Hoa Kỳ. Để kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Hà nội (10/10/1954), năm 1989, xa lộ này được đổi tên là xa lộ Hà Nội. Nối liền từ cầu Sài Gòn đến ngã ba Tam Hiệp (Đồng Nai). Trong tương lai con đường này sẽ trở nên một siêu xa lộ nối liền miền Bắc và Sài Gòn. Đến ngã ba trạm II, phía trái là xa lộ Đại Hàn.
          Sau tổng tiến công và nổi dậy vào tết Mậu Thân 1968. Mỹ đã cho xây dựng hệ thống vành đai để bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn, để ngăn cách Sài Gòn và quân cách mạng ở Hốc môn - Củ chi.
          Xa lộ đại Hàn được xây dựng từ năm 1969 - 1970, do công ty Mỹ thiết kế và do công binh của Đại Hàn xây dựng nên có tên gọi là xa lộ Đại Hàn.
          Xa lộ Đại Hàn dài 40 km, rộng 16 km bắt đầu từ ngã ba trạm II đến ngã ba An Lạc. Hiện nay đoạn đường này là quốc lộ 1A. Sau khi dự án đường xuyên Á được hoàn thành, đoạn đường từ trạm II đến ngã tư An Sương trên xa lộ này đã được kết nối với quốc lộ 20 đi Tây Ninh, qua cửa khẩu Mộc Bài của Việt Nam và Ba Vét của Campuchia đến thủ đô Phnông-Pênh (Campuchia) vào cuối năm 2003, gọi là đường xuyên Á.
          Xa lộ Đại Hàn là một hệ thống đường giao thông hết sức quan trọng, là cầu nối hai khu vực kinh tế: vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam bộ. Đa số các xe đi từ các tỉnh miền Tây lên các tỉnh miền Đông không phải đi vào thành phố Hồ Chí Minh mà đi qua xa lộ Đại Hàn.
          #5
            lyenson 06.04.2009 17:07:00 (permalink)
            DU LỊCH ĐỒNG NAI
            Tác giả: Trần Huy Hùng Cường
             

            Đồng Nai là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, tiếp giáp với phần đất của miền cực nam Trung bộ là tỉnh Bình Thuận và cao nguyên Trung bộ là Lâm Đồng. Vị trí của tỉnh nằm giữa các tỉnh thành như thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận, Lâm Đồng, Bình Phước và Bình Dưong. Phần lớn diện tích của cả tỉnh là vùng đất cao, địa thế mấp mô, nối tiếp cao nguyên Nam Trung bộ và phần đất tiếp giáp với Cao Nguyên Lâm Viên và Di Linh, trong đó có khu rừng cấm nguyên sinh Nam Cát Tiên rộng lớn. Tuy nhiên cũng có một số thung lũng, đồng bằng, gò, đồi thấp. Phần lớn đất ở Đồng Nai là đất bazan, đất xám và đất phù sa cũ màu mỡ nằm chen lẫn nhau quanh các ngọn núi lửa cổ và vùng phù sa thấp phẳng ven sông Đồng Nai rất tốt cho việc trồng trọt. Bởi vậy, Đồng Nai trồng nhiều loại cây công nghiệp như: cao su, cà phê… cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày.
            Sông Đồng Nai là con sông quan trọng nhất của tỉnh do hai sông Đa Dung và Đa Nhim phát nguyên từ Cao Nguyên Lâm Viên hợp thành. Sông có chiều dài 480 km, đoạn chảy qua tỉnh Đồng Nai dài 294 km. Dọc hai bên bờ là các làng mạc bình yên và các đảo nhỏ với cảnh đẹp nên thơ. Công ty du lịch Đồng Nai hiện đang phát triển loại hình du lịch trên sông rất hấp dẫn khách du lịch. Trên độ dài 10 km đường sông, khách du lịch có thể thăm các làng đảo, vườn bưởi, lò gốm, lò ép mía đường…. Đập thủy điện Đa Nhim được xây dựng trên con sông cùng tên, ngoài ra còn có sông La Ngà, sông Lá Buông chảy qua, có nhà máy thủy điện Trị An.
            Đồng Nai có diện tích khoảng 5.895 km2. Tỉnh lỵ là thành phố Biên Hòa nằm trên sông Đồng Nai cách Sài Gòn 30 km. Là một trong những tỉnh thành có dân số đông nhất nước, 2.142.700 người(*), Đồng Nai hiện có nhiều dân tộc anh em đang cùng nhau làm ăn sinh sống cùng với người Kinh như: Hoa, Khmer, Chăm, Mạ, Êđê, Chơ ro, Stiêng… nên địa phương này có một truyền thống văn hóa dân gian phong phú, đa dạng và là quê hương của một số nhạc cụ độc đáo như khèn môi, thanh la, khèn bầu, đàn đá, sáo trúc và chiêng đồng….
            Tôn giáo ở Đồng Nai chủ yếu là Phật giáo và Công giáo. Truyền thống Phật giáo đã có ngay từ những ngày đầu người Việt đặt chân lên vùng đất này. Hiện nay, vẫn còn di tích kiến trúc Phật giáo được xây dựng cách đây trên hai đến ba thế kỷ như chùa Long Thiền, chùa Bửu Phong, chùa Hoàng Ân và chùa Đại Giác…. Số người theo đạo Công giáo ở Đồng Nai chiếm tỉ lệ cao nhất cả nước, tập trung nhiều nhất ở vùng Biên Hòa, Hố Nai, Gia Kiệm. Với số lượng ngôi thánh đường được xây dựng với mật độ dày đặc, trung bình khoảng cách một km có một ngôi thánh đường hoặc nhà nguyện tọa lạc dọc theo quốc lộ 1A hoặc quốc lộ 20 đoạn đi ngang các khu vực này.
            Được xem là vùng đất cổ, Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử văn hóa như các di chỉ khảo cổ văn hóa Óc Eo ở Định Quán, thánh địa rừng Cát Tiên là dấu tích của nền văn hóa vương quốc Phù Nam cách đây hơn 13 thế kỷ và khu mộ cổ Hàng Gòn có niên đại hàng ngàn năm….

            Trong cuộc hành trình dài giữ nước, ông cha ta đã khai phá đất đai ngàn dặm dọc suốt miền Trung và đến nơi đây là Biên Hòa – Đồng Nai, mảnh đất địa đầu ở Nam bộ in dấu chân đoàn quân Nam tiến của dân tộc Việt.
             

            CÙ LAO PHỐ



            Cầu Ghềnh dẫn vào cù lao Phố

            Qua cầu Đồng Nai, nhìn bên trái. Xa xa, chúng ta thấy có một cù lao, đó chính là Cù Lao phố. Có diện tích 660 ha và hơn 9.000 dân sống ở đây thuộc xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai.
            Thế kỷ 17, Cù Lao phố là thương cảng sầm uất, tên gọi là Nông Nại Đại phố trao đổi hàng hóa với nhiều nước trong khu vực: Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Năm 1679, nhóm người Hoa di thần của nhà Minh – nhóm Trần Thượng Xuyên đến Cù Lao phố.
            Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đến vùng đất này, đặt tổng hành dinh tại Cù Lao phố thuộc dinh Trấn Biên, huyện Phước Long.
            Năm 1998, Tp.Hồ Chí Minh - Tp. Biên Hòa kỷ niệm 300 năm, ngày đặt nền hành chánh đầu tiên tại Nam bộ.
            +Từ Cù Lao phố đi đến cầu Ghềnh sẽ gặp được đền  thờ Nguyễn Hữu Cảnh thuộc xã Hiệp Hòa, hướng mặt ra sông Đồng Nai. Đối diện phía bên kia sông thuộc phường Bửu Hòa có đền thờ Nguyễn Tri Phương. Tiếp tục theo đường dọc hai bên bờ sông Đồng Nai đến khu du lịch Bửu Long, Hồ Long Ẩn, Long Sơn Thạch Động, chùa cổ Bửu Phong. Hoặc đi từ chợ Thủ Đức theo quốc lộ 1K khoảng 12 km, qua cầu Hóa An gặp ngã tư quẹo trái tiếp tục đi theo tỉnh lộ 24 khoảng 2.500 mét đến khu du lịch Bửu Long.


            KHU DU LỊCH BỬU LONG

            Khu du lịch Bửu Long được xây dựng quanh một hồ nước nhân tạo do khai thác đá, có diện tích hàng chục ha. Đó là hồ Long Ẩn, có vô số vách đá soi bóng trên mặt nước xanh làm cho cảnh vật nơi đây thêm kỳ thú, mà từ lâu đã được du khách ví như vịnh Hạ Long thu nhỏ. Danh thắng này nhờ thiên nhiên ban tặng và bàn tay con người tác động đã trở nên hùng vĩ và mỹ lệ, sơn thủy hữu tình: núi cao, hồ rộng, không khí trong lành tạo cảm giác thanh thoát, kết hợp với vẻ đẹp cổ kính của các công trình kiến trúc tôn giáo qua nhiều thời đại.
            Khu danh thắng này gồm hai núi chính: núi Bình Điện còn được gọi là núi Bửu Long và núi Long Ẩn. Đứng trên núi Bình Điện, du khách có nhìn thấy toàn bộ đô thị của thành phố Biên Hòa với những khu công nghiệp sầm uất, những cánh đồng ruộng lúa bát ngát phì nhiêu, những kênh rạch bắt nguồn từ sông Đồng Nai, tất cả tạo nên một bức tranh thơ mộng tổng hợp thôn dã và thị thành. Trên núi Bình Điện còn có chùa Bửu Phong được xây dựng rất sớm, có lối kiến trúc chạm trổ, trang trí hoa văn tinh tế. Trên núi Long Ẩn có cụm Long Sơn Thạch Động còn được  gọi là chùa Hang. Nơi đây có thạch động, miệng hang rộng và hẹp dần khi vào trong, nên được ví như hàm ếch. Vách núi có nhiều nhũ đá hình thù kỳ lạ rũ xuống trong ánh đèn trang trí trông đầy vẻ huyền bí.
            Khu hồ Long Ẩn do nhân dân trong vùng khai thác đá từ nhiều năm nay tạo thành. Hồ rộng khoảng 20.000 m2, nước trong xanh với những cụm đá còn sót lại tạo nên những hòn đảo giữa hồ nước mênh mông. Từ những hòn đảo này, bàn tay con người đã tạo dáng thành cảnh đẹp ẩn hiện giữa những con đường ngoằn ngoèo xunh quanh khu vực như một bức tranh phong phú, đa dạng.
            Bên cạnh đó còn có một khu du lịch xanh với vườn cây, cụm núi, tượng thú thời tiền sử và vườn thú tự nhiên quý hiếm với nhiều chủng loại đã đưa vào sách đỏ như công Ấn Độ, vẹt Nam Mỹ, gà cảnh Đài Loan, trĩ Trung Quốc, thiên nga Bắc Âu… đã tô điểm thêm độc đáo cho toàn bộ khu du lịch danh thắng Bửu Long.
            Đến với khu du lịch này, sau khi thăm viếng, thưởng thức nét đẹp mỹ thuật và cầu mong những điều tốt lành ở cụm pho tượng Phước – Lộc – Thọ, du khách có thể tham quan thắng cảnh thiên nhiên, các công trình nhân tạo, các di tích kiến trúc Phật giáo hoặc tham gia các môn thể thao như leo núi có chuyên gia nước ngoài hướng dẫn, câu cá và các dịch vụ khác.
            Khu du lịch danh thắng Bửu Long đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Danh thắng quốc gia từ năm 1991. Đây là khu du lịch thiên nhiên hồ rộng núi cao giữa lòng thành phố thu hút rất nhiều du khách đến dã ngoại, thư giãn cuối tuần.
            +Từ khu du lịch Bửu Long tiếp tục đi khoảng 500 mét đến chùa Bửu Phong. Nếu đi vào cổng chính sẽ leo 99 bậc đá lên chùa. Nếu đi cổng sau có đường nhựa để xe chạy thẳng lên khuôn viên chùa.


            CHÙA BỬU PHONG



            Đường lên chùa Bửu Phong

            Chùa Bửu Phong là một danh lam thắng cảnh của  miền Nam, tọa lạc trên núi Bửu Long, trong cụm di tích lịch sử – văn hóa và danh thắng Bửu Long, thuộc phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Khu danh thắng này đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa của quốc gia từ tháng 4/1991. Mặt tiền của chùa hướng ra sông Đồng Nai. Phía trái của ngôi chùa có cụm tảng đá thiên nhiên xếp chồng lên nhau tạo cảnh quan núi non hùng vĩ cho ngôi chùa. Từ đây, có thể phóng tầm nhìn ra sông Đồng Nai uốn khúc, khu du lịch danh thắng Bửu Long như một góc trời của vịnh Hạ Long, thành phố Biên Hòa đỏ rực mái ngói khang trang, và các vùng lân cận.
            Chùa Bửu Phong được xây dựng từ đầu thế kỷ 17. Lúc đầu, chùa chỉ là một thảo am bằng tranh tre do Hòa thượng Bửu Phong dựng để thờ Phật năm 1616. Sau đó, Thiền sư Pháp Thông xây cất, phát triển thành ngôi chùa nhỏ. Đến năm 1678, một số người Hoa đến vùng này sinh sống, họ cùng nhau xây cất lại ngôi chùa bằng gạch ngói, có kiến trúc theo hình chữ “tam”, gồm ngôi chánh điện, giảng đường và nhà thờ Tổ và thỉnh ngài Thành Chí đến trụ trì.
            Năm 1829, Tham tướng Nguyễn Văn Hiệp và Hương bảo Nguyễn Văn Tâm đã tổ chức xây cất mở rộng ngôi chùa. Năm 1898, Hòa thượng Pháp Truyền tiếp tục trùng tu giảng đường, nhà Tổ…. Năm 1944, Hòa thượng Huệ Quang tổ chức trùng tu và mở rộng hậu đường. Năm 1963, Yết ma Thiện Giáo cho xây đài Quán Thế Âm trước chùa. Năm 1964, Hòa thượng Huệ Thành cho xây đài Tam Thế Phật trên cụm tảng đá thiên nhiên xếp chồng lên nhau ở phía bên trái của ngôi chùa.
            Từ năm 1974 đến nay, chùa Bửu Phong được phân bố thành chùa Ni, chỉ có các sư cô ở tu tập. Ni sư Huệ Hương đã không ngừng sửa chữa và trang trí để ngôi chùa được trang nghiêm. Giữa năm 2005, Ni sư đang cho trùng tu nhà thờ Tổ, chánh điện và xây dựng, sửa chữa thêm một số hạng mục trong khuôn viên chùa đã bị hư hỏng. Trong đó, có hai con rồng uốn mình phủ phục hai bên bậc thang lên chùa.
            Bàn thờ chính của ngôi chánh điện thờ Phật Di Đà tam tôn, đức Phật Thích Ca, Ngọc Hoàng Thượng đế, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền. Hai bên tả hữu thờ Quan Công va Tổ sư Đạt Ma. Ngoài ra còn có hương án thờ Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Địa Tạng, và bàn thờ Thập điện Diêm Vương. Ngôi bảo tháp sau chánh điện thờ Xá lợi Phật.
            Đây là một ngôi chùa cổ nên còn lưu giữ nhiều báu vật nhà Phật. Nhất là tháp Bưu Phong rêu phong cổ kính và Xá lợi Phật, pho tượng Phật Di Đà, Cặp nai vàng thời nhà Nguyễn, đầu “phường cổ”…. Đặc biệt, giếng nước phía sau chùa do vua Gia Long cho đào để lấy nước sử dụng trong thời gian trốn chạy do quân Tây Sơn truy đuổi. Xung quanh khuôn viên chùa còn có các pho tượng thánh tích cuộc đời của đức Phật lộ thiên khá lớn như tượng Phật đản sanh, đức Phật thiền định, đức Phật nhập niết bàn và tượng Quán Thế Âm Bồ Tát…, cùng nhiều ngôi tháp cổ.

            Hằng năm, chùa Bửu Phong đón hàng nghìn Phật tử đến tham quan và chiêm bái. Lễ giỗ Tổ khai sơn của chùa được tổ chức vào ngày 12/8 âm lịch với sự tham gia của đông đảo bà con trong vùng và du khách khắp nơi.
            +Dưới chân núi Bửu Long có con đường vào khoảng 500 mét đến khu Văn Miếu – Trấn Biên.
            *Khu Văn Miếu – Trấn Biên được khánh thành vào ngày 14/02/2002. Công trình nnày được xây dựng trong khuôn viên có diện tích 17.000 m2, bao gồm khu thờ phụng tế lễ và khu trưng bày truyền thống sinh hoạt văn hóa như nhà bia, Khuê văn các, nhà đề danh, nhà truyền thống, Đại thành môn, bia Khổng Tử (551 – 479 TCN), Bái đường, Thư khố, Văn vật khố, ao sen…. Văn miếu sẽ là nơi bảo tồn, gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa, giáo dục xưa và nay của dân tộc Việt Nam. Đến đây, du khách sẽ được hiểu thêm về con người và vẻ đẹp của một vùng đất đã hơn 300 hình thành và phát triển.
            +Từ chùa Bửu Phong đi tiếp tục khoảng bốn km đến ngã tư, cầu Tân Triều vào làng bưởi.


            LÀNG BƯỞI TÂN TRIỀU





            Làng Tân Triều là một cù lao nhỏ đã được hình thành khoảng 150 năm, còn làng bưởi cũng đã được gần 100 năm, thuộc xã tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Có tài liệu cho biết, năm 1869, nhà thờ Tân Triều được xây dựng, cha xứ mang hai cây bưởi ổi về trồng trước sân nhà thờ. Sau đó, hai cây bưởi này cho trái sum sê. Người dân đến xin chiết nhánh bưởi về trồng. Cứ thế, giống bưởi ổi này được nhân rộng khắp làng. Hơn một thế kỷ sau, cùng với một số giống bưởi khác trở thành làng bưởi nổi tiếng.
            Cách đây hơn 50 năm, cây bưởi ở Tân Triều còn là loại cây trồng để có thêm cây ăn trái và cũng để làm hàng rào xung quanh khuôn viên đất của mỗi gia đình. Trong thời gian này, cây trầu có giá trị kinh tế chính của người dân nơi đây. Sau trân lụt năm 1952, đất đai Tân Triều không còn thích hợp để trồng trầu, nên người dân chuyển sang trồng cây bưởi. Từ đây, làng bưởi Tân Triều hình thành và trở nên nổi tiếng ở vùng đất Biên Hòa.
            Từ những năm 1970, bưởi Tân Triều đã khá nổi tiếng trong nước và trên thế giới. Thời gian này, khách hàng quen gọi là bưởi Biên Hòa. Hằng năm, bưởi Tân Triều xuất hiện nhiều trên thị trường trái cây và người dân thường chọn bưởi chưng trong mâm ngũ quả để cúng ông bà ngày tết.
            Bưởi Tân triều phong phú với nhiều chủng loại, có hương vị đặc trưng riêng. Bưởi đường núm có dáng đẹp, múi vàng, tép to, vị ngọt nên thường được chọn để dâng cúng ông bà, tổ tiên trong ba ngày tết. Bưởi thanh long có nhiều nước, vị ngọt thanh. Bưởi ổi ít hoặc không có hạt, quả nhỏ như trái ổi nhưng có hương vị hấp dẫn như mùi ổi chín và có thể để lâu một vài tháng ăn vẫn ngon một cách đặc biệt. Bưởi thanh trà và bưởi thanh dây có vị ngọt nhất trong các loại bưởi, ăn vào như cắn phải đường phèn. Bưởi đường cam có quả to, mỏng vỏ, ít hạt, tép no tròn và mịn, có dược chất làm giảm huyết áp nên được nhiều người ưa chuộng. Ngoài ra, còn có nhiều giống bưởi khác như bưởi xiêm, bưởi bà Vân, bưởi chua, bưởi hè….

            Mùa bưởi được bắt đầu từ tháng 10 đến tháng Chạp và cao điểm vào mùa tết. Tuy nhiên, với kỹ thuật và khoa học hỗ trợ, người nông dân có thể giúp cho bưởi cho trái quanh năm. Du khách có thể tổ chức các cuộc picnic đến vườn bưởi, tham quan, chụp ảnh lưu niệm và cùng với chủ nhà vườn thưởng thức hương vị của từng giống bưởi Tân Triều….

            VƯỜN SINH THÁI LÀNG BƯỞI




            Từ nhà thờ Tân Triều, du khách tiếp tục đi khoảng 600 mét đến Vườn sinh thái Làng Bưởi. Đây là một khu du lịch xanh hấp dẫn, khí hậu trong lành, được thành lập bên bờ kinh Tân Triều đúng như mô hình nhà vườn của miền đồng bằng Nam bộ.
            Trong khu vườn rộng khoảng hai hecta, bác năm Huệ trồng tất cả trên 500 gốc bưởi, với đủ loại giống bưởi đang có hiện nay ở Tân Triều. Vườn bưởi của ông cho trái quanh năm, mà năng suất vẫn cao, chất lượng vẫn tốt. Năm 1996, nhận thấy các loại cây khác không còn phù hợp với đất và giá trị kinh tế thấp, nên bác năm Huệ quyết định thay đổi giống cây trồng, thành lập vườn bưởi trên mảnh vườn nhà mình do huê lợi được thừa hưởng của ông bà để lại, mà ông là người thuộc thế hệ thứ sáu kể từ khi tổ tiên nhà ông đến đây lập nghiệp. Sau năm năm miệt mài chăm sóc, vườn bưởi của ông sum suê trái tốt. Nên đến năm 2001, ông quyết định phát triển vườn bưởi thành khu vườn du lịch sinh thái để phục vụ khách du lịch địa phương đến tham quan, thư giãn vào cuối tuần và ngày nghỉ.
            Du khách đến tham quan và thưởng thức hương vị của các loại bưởi ngon nhất của Tân Triều tại khu Vườn sinh thái Làng Bưởi, còn  được thưởng thức các món ăn được chế biến một cách tinh tế từ bưởi như chè bưởi, nem bưởi, gỏi bưởi và… rượu bưởi. Đặc biệt hai món gỏi bưởi và rượu bưởi được xem như là đặc sản của khu du lịch vườn bưởi của bác năm Huệ mà rất nhiều người ưa thích. Trái bưởi lột vỏ, tách cơm của từng múi bưởi để làm gỏi, trộn với củ hành xắt nhuyễn, tôm và thịt luộc, cùng với các loại gia vị như chanh, đường, ớt, hành lá… sẽ cho một món ăn rất ngon và lạ, mang hương vị của vườn quê cây trái. Rượu bưởi lên men ở đây rất thơm ngon. Cách làm giống như rượu nho lên men, uống vào sẽ nghe thơm nồng mùi đặc trưng của quả bưởi. Ngoài ra, bác năm Huệ còn làm được món rượu bưởi ngâm rất đặc sắc, nhưng vẫn còn giữ nguyên bí kiếp. Món này bác không bán, chỉ mang đến mời phục vụ du khách đến thăm vườn.
            Bên cạnh đó, khu vườn sinh thái Làng Bưởi này còn có nhà nghỉ và nhà hàng phục vụ du khách nghỉ lại qua đêm trong khuôn viên của vườn. Các khu nhà được làm bằng tre lá rải rác xung quanh vườn có thể phục vụ được đoàn khách 600 người ăn trưa, với các món ăn đồng quê được chế biến từ lươn, ếch, rắn, các loại cá đồng, cùng với các món ăn địa phương. Đặc biệt vào những ngày cuối tuần, Vườn sinh thái Làng Bưởi còn có sân khấu ca nhạc và đờn ca tài tử Nam bộ phục vụ du khách.
            Ngoài vườn bưởi, trong khu vườn còn có nhiều loại cây cổ thụ quý hiếm khác có số tuổi cao hơn chủ nhân của nó. Có nhiều người khuyên ông nên đốn bỏ để trồng bưởi có lợi hơn, nhưng do lòng yêu thiên nhiên và muốn bảo vệ những loài thực vật mà hiện nay còn rất ít ở quê ông như: sao, bằng lăng, xăng mã, lò bó, nín, vừng, gáo vàng…. Tất cả đã có trên 60 năm.
            Hiện nay, với phong cảnh hữu tình, làng quê yên ả bên một nhánh sông Đồng Nai, vườn sinh thái Làng Bưởi Tân Triều rất thích hợp với loại hình du lịch xanh, thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Nơi đây đã từng đón tiếp và phục vụ nhiều đoàn khách của Trung ương đến tham quan du lịch. Với tính tình chất phác, mộc mạc, thuần chất Nam bộ, bác năm Huệ luôn ân cần hướng dẫn khách tham quan tiếp cận với từng loại giống và hương vị của bưởi trong vườn. Nhất là cách trồng bưởi, cách chọn bưởi ngon và bảo quản thế nào để quả bưởi để lâu mà vẫn ngon.

            ĐỀN THỜ NGUYỄN HỮU CẢNH




            Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh là một công trình kiến trúc cổ, được xây dựng cách đây khoảng 300 năm để tưởng niệm người có công mở  nước phía Nam – Nguyễn Hữu Cảnh. Công trình tọa lạc bên bờ sông Đồng Nai, mặt tiền soi bóng xuống dòng sông.
            Đây là công trình kiến trúc thờ tự chính thức của nhà nước được xây dựng đầu tiên ở đất Đồng Nai vào năm 1700. Đây là nơi tạm dừng lại long trọng quàn linh cửu  ông trên đường đưa từ Rạch Gầm – Mỹ Tho về an táng tại Quảng Bình. Đền được nhà Nguyễn trùng tu hai lần vào năm 1802 và năm 1851. Năm 1923, đền được tái thiết và năm 1960, Ban qui tế tiếp tục trùng tu đền được khang trang đến ngày nay.
            Thượng Đẳng Thần Nguyễn Hữu Cảnh xứng đáng được tôn vinh là người có công đức trong công cuộc khai phá, mở mang và xây dựng vùng đất phía Nam tổ quốc. Năm 1852, vua Tự Đức ban sắc phong tặng Thượng Đẳng Thần, nhưng dân gian quen gọi ông là “Đức ông”. Ngày 25/3/1991, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích quốc gia. Nhân dân đồng bằng sông Cửu Long dùng hai tiếng “Ông Chưởng” để chỉ Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh, nên ở An Giang ngày nay có địa danh cù lao Ông Chưởng, và địa danh này đã đi vào ca dao:
            “Bao phen quạ nói với diều,
            Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm”.


            NGUYỄN HỮU CẢNH

            (1650 – 1700)


            Đức ông Nguyễn Hữu Cảnh có tên trong gia phả là Nguyễn Hữu Thành, con ông Nguyễn Hữu Dật, sinh tại huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Ninh. Ông chào đời khi cuộc chiến phân tranh giữa chúa Nguyễn và chúa Trịnh đang xảy ra. Ông từng lập công nhưng chưa có gì xuất sắc lắm. Cuộc chiến chấm dứt, ông được hơn 20 tuổi. Cha ông từng góp công cho chúa Nguyễn lúc gìn giữ đất Quảng Bình, đối đầu với chúa Trịnh.
            Từ chức Cai cơ, năm 1693 Nguyễn Hữu Cảnh được vinh thăng Chưởng cơ trấn giữ miền biên ải Bình Khang (Ninh Thuận – Khánh Hòa). Thành tích lớn của ông là góp phần tích cực trong việc mở nước về phía Nam, ổn định vùng Phan Rang, Phan Thiết. Nhờ ông mà vùng Bình Thuận trở thành lãnh thổ của Việt Nam trong thời gian ngắn.
            Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược phía Nam, thay thế Chúa để quyết định một số vấn đề lớn. Theo đường biển, đạo quân của Nguyễn Hữu Cảnh gồm quân sĩ của xứ Quảng Nam và Bình Khang đi ngược dòng sông Đồng Nai đến Biên Hòa, đặt đại bản doanh tại Cù Lao phố nơi đã có hải cảng sầm uất. Sau đó, ông đi thanh tra vùng Sài Gòn rồi đặt ra hai đơn vị hành chánh đầu tiên: huyện Phước Long bao gồm cả vùng Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu và dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình gồm vùng Sài Gòn xuống Long An, Mỹ Tho và dựng dinh Phiên Trấn. Hai huyện này đặt dưới quyền của phủ Gia Định. Đây là lần đầu tiên xuất hiện địa danh Gia Định. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy cơ sở như thôn, ấp, xã, phườnng; phân định địa phận, lập sổ đinh điền, khuyến khích khai hoang….
            Xong công việc, Nguyễn Hữu Cảnh trở về Bình Khang. Năm 1699, được tin phía biên giới sắp biến động, ông vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu lập tức mở cuộc hành quân với quân sĩ ở Quảng Nam, Bình Khang và Biên Hòa theo đường thủy, vượt sông Tiền và lấy thêm quân ở Cù Lao Giêng, đến Tân Châu rồi tiến thẳng lên Nam Vang. Lịch sử chép rõ: “Nguyễn Hữu Cảnh mặc áo giáp, tay cầm gươm, đứng trước mũi chiến thuyền. Súng đại bác nổ vang. Đối phương đầu hàng ngay. Không một ai bị giết….”.
            Tháng 4/1700, sau khi hoàn thành sứ mạng, ông kéo quân về đến vùng Ông Chưởng thì ngã bệnh nặng. Về đến Rạch Gầm – Mỹ Tho, ông mất. Quàn tại Cù Lao phố và đưa về an táng tại Quảng Bình. Các thế hệ truyền tụng về mẩu chuyện phút lâm chung của ông, và lịch sử chép rằng: “Quan Chưởng cơ giữ chức Thống suất là Nguyễn Hữu Cảnh mất tháng 5/1700. Lúc đầu, ông đóng quân ở Lao Đôi, thuộc An Giang. Gặp lúc mưa to, gió lớn, núi Lao Đôi bị lở, tiếng vang ầm ầm như sấm. Đêm ấy, Nguyễn Hữu Cảnh nằm mơ thấy có một người mặt đỏ, mày trắng, tay cầm phủ việt đến nói với ông rằng:
            -Tướng quân nên mau đem quân về, đóng ở đây lâu sợ bất lợi.
            Nguyễn Hữu Cảnh cười và nói:
            -Mệnh ở trời, chớ có phải ở đất này đâu?
            Tỉnh dậy, ông thấy thân thể mỏi mệt, nhưng để giữ yên lòng quân sĩ, ông vẫn cố cười nói như thường. Thế rồi bệnh trở nên rất nặng, ông than:
            -Ta những mong dốc lòng báo đền ơn nước, nhưng số trời có hạn, sức người chẳng thể làm khác được.”
            Với quốc gia dân tộc, Nguyễn Hữu Cảnh là một dũng tướng thao lược, trung quân ái quốc, là tấm gương tài ba về tổ chức được chúa Nguyễn tin yêu. Ông là một người chỉ biết nghiêm vâng mệnh Chúa và nặng lo dân tình. Phần thưởng lớn lao nhất ông được hưởng lại chính là tình cảm nồng hậu mà các thế hệ nhân dân Nam bộ đã dành cho ông. Ngàn năm sẽ vẫn còn đó, Nguyễn Hữu Cảnh tên ông.
            +Từ đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh đến chùa cổ Đại Giác khoảng 200 mét.


            ĐẠI GIÁC CỔ TỰ




            Đại Giác là một trong bốn ngôi chùa cổ có niên đại trên 200 năm ở Biên Hòa – Đồng Nai: Đại Giác, Long Thiền, Bửu Phong và Hoàng Ân. Trong đó, Đại Giác còn được gọi là chùa Phật Lớn là ngôi cổ tự có tuổi thọ dài nhất tọa lạc tại ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa. Chùa được xây dựng theo hướng tây bắc, mặt tiền nhìn ra dòng sông Đồng Nai.
            Truyền thuyết kể lại rằng, vùng đất này ngày xưa có nhiều thú dữ tấn công phá hoại cuộc sống dân làng, nên người dân lập một miếu nhỏ và dùng một khúc gỗ to tạc tượng đức Phật để ngày đêm nguyện cầu cho cuộc sống của họ được bình yên. Từ năm 1412, do tín ngưỡng của dân làng, nên ngôi miếu này đã được phát triển thành một am tranh. Theo thời gian, ngôi am tranh đã trở thành một ngôi chùa nhỏ thấp, vách ván….
            Năm 1714, đất Biên Hòa đã có dấu chân người Việt, khu dân cư hình thành đông đúc, đời sống tinh thần của người dân phát triển mạnh. Trong thời gian này, Hòa thượng Thích Thành Đẳng được mời về đây trụ trì, ngôi chùa nhỏ cũng được sửa sang, thay cột gỗ, mái lợp ngói âm dương. Cho đến nay, chùa Đại Giác đã có trên 10 đời trụ trì và qua nhiều lần xây dựng trùng tu vào những năm sau này: 1802, 1952, 1959 và 1967….
            Đặc biệt, năm 1802 là lần xây dựng trùng tu lớn do vua Gia Long chủ trương. Năm 1800, công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh trên đường chạy trốn quân Tây Sơn có tạm trú tại chùa Đại Giác một thời gian. Khi lên ngôi, vua Gia Long ban chiếu chỉ tái thiết ngôi chùa để tỏ lòng nhớ ơn chùa Đại Giác đã bảo vệ cô Công chúa của ông trong thời gian lưu trú tại đây. Xây dựng thêm nhiều công trình như nối dài thêm ngôi chánh điện thành nhà giảng, xây lầu chuông và lầu trống ở mặt tiền chánh điện nhô cao, và nhiều công trình phụ khác bằng nguyên vật liệu như gạch, vôi vữa…. Dùng sức voi để đầm, nện nền nhà. Vua Gia Long còn cho tạc pho tượng Di Đà cao 225 cm bằng gỗ mít để dâng cúng cho chùa. Đến nay, pho tượng vẫn còn được bảo quản tốt, và là một trong những báu vật có giá trị cổ nhất của chùa.
            Năm 1820, vua Minh Mạng tiếp tục cho tu sửa, mở rộng ngôi chùa, xây dựng thêm nhà trù. Dịp này, công chúa Nguyễn Thị Ngọc Anh dâng cúng cho chùa một bức hoành phi lớn, có đề ba chữ “Đại Giác tự”, được sơn son thếp vàng treo ở trước chánh điện.
            Năm 1952, chùa Đại Giác xuống cấp nghiêm trọng do bị mối ăn. Bà con Phật tử cùng nhau góp công, góp của để trùng tu ngôi chùa lần nữa. Năm 1959, Hòa thượng Thích Thiện Hỷ cho xây cất lại ngôi chùa, nhưng vẫn giữ lối kiến trúc cổ, bằng các loại nguyên vật liệu hiện đại như tường gạch, cột bê tông, mái ngói vẩy cá, nền gạch bông…. Năm 1967, chùa được xây thêm nhà thờ Tổ phía sau chánh điện.
            Trong thời kỳ đầu được xây dựng bằng những vật liệu kiên cố, chùa Đại Giác có kiến trúc chữ Nhị (=). Sau nhiều lần xây dựng và trùng tu, kiến trúc ngôi chùa thay đổi thành chữ Đinh (J) cho đến nay. Chánh điện được bài trí rất trang nghiêm, tôn trí pho tượng Di Đà của vua Gia Long dâng cúng ở vị trí cao nhất, Phật Thích Ca, Ca Diếp, A Nan Đa, Hộ Pháp, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đa số các pho tượng ở đây được làm bằng đất sét hoặc gỗ, đã có trên dưới 100 năm.
            Tổng diện tích của chùa cổ Đại Giác khoảng một hecta. Trong khuôn viên có nhiều cây cổ thụ. To nhất là cây bồ đề trước sân chùa, gốc có chu vi hơn sáu mét, tàn rộng tỏa bóng mát khắp cả sân, tạo cho khung cảnh ngôi chùa càng thêm thâm nghiêm, cổ kính như gợi lên hình ảnh thời vàng son xa xưa của một đô hội trù phú, một thương cảng sầm uất nhất ở đất phương Nam thế kỷ 17 và 18.
            Với không gian thoáng mát, rộng rãi, chùa Đại Giác là nơi các sinh viên, học sinh thường chọn làm nơi cấm trại trong những dịp lễ hội và dịp hè. Cùng với các ngôi chùa cổ khác, Đại Giác cổ tự cũng là một trong những điểm thu hút nhiều du khách thập phương đến chiêm ngưỡng, tìm về những nét xưa của cha ông để  lại. Ngày 28/9/1990, Đại Giác cổ tự đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử nghệ thuật của quốc gia.
            +Từ cầu Ghềnh đến chùa Long Thiền khoảng hai km. Hoặc đi từ cầu Hóa An đến đây khoảng hơn một km, quẹo trái vào 200 mét hướng xuống bờ sông Đồng Nai.


            CHÙA LONG THIỀN
            Chùa Long Thiền là một trong bốn ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở đất Đồng Nai. Chùa tọa lạc bên bờ sông Đồng Nai, thuộc phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa. Nơi đây cũng là cơ sở truyền bá Phật giáo đầu tiên ở miền Nam.

            Chùa được xây dựng từ năm 1664 và được trùng tu nhiều lần vào các năm: 1748, 1842, 1952 và đầu thập niên 1990. Chùa Long Thiền có kiến trúc chữ “Tam”, được xây dựng trong khuôn viên có diện tích gần một hecta, gồm có chánh điện hướng mặt tiền ra sông Đồng Nai, nhà thờ Tổ và nhà giảng. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều Bảo tháp thờ các vị Tổ từ khi khai sáng chùa cho đến nay. Sân chùa là một vườn thánh tích đồ sộ, miêu tả về cuộc đời của đức Phật Thích Ca từ khi Ngài đản sanh bước chân trên bảy đóa sen, Phật xuất gia, ngày thành đạo và giảng pháp cho tăng chúng, cho đến lúc Ngài nhập Niết Bàn. Ngoài ra, sân chùa còn có hai pho tượng đức Phật Di Lặc và Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên ngự trên hòn non bộ cao gần ba mét. Xung quanh khuôn viên chùa có nhiều cây cổ thụ cao, to. Đặc biệt, cây sala trước sân chùa được trồng trên 20 năm, giống được mang về từ Ấn Độ. Đây là loại cây mà Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn dưới gốc ngày xưa. Cây cho hoa màu trắng như hoa dừa, nhưng khi hoa nở có màu đỏ thắm và nhiều tua bên trong, hình dáng giống như đầu rồng đang hé miệng. Trái Ta-La to bằng trái đào tiên. Thời gian kết trái cho đến khi chín là ba năm.
            Hiện nay, ngôi chùa còn lưu giữ nhiều báu vật của nhà Phật và di tích cổ của lịch sử 300 năm khai khẩn miền đất Biên Hòa. Chánh điện thờ nhiều pho tượng bằng đất nung, gỗ mít và bằng đồng như Phật Di Đà, Dược Sư và Quan Âm, tượng Phật đản sanh, một tượng Địa Tạng và một tượng Hộ Pháp nhỏ bằng đồng, phù điêu Địa Tạng bằng gỗ và phù điêu cá hoá long được điêu khắc vào khoảng thời gian mới thành lập chùa. Đặc biệt, phía bên phải nhà Tổ có hai ngôi mộ cổ mà bia đá đã bị phai mòn theo thời gian không còn rõ nét. Theo các nhà khảo cổ cho biết, đây có thể là mộ của vợ chồng một trong hai vị tướng có công khai mở và trấn thủ đất Biên Hòa ngay từ những ngày đầu của “Bước chân Nam tiến”, có niên đại trên 300 năm, được xây bằng Ô dước.
            Hiện nay, chùa Long Thiền là trụ sở Giáo hội Phật giáo của tỉnh Đồng Nai, có trường sơ cấp Phật học đào tạo các Tăng Ni trong địa phương. Với vị trí rất thích hợp cả đường sông và đường bộ, chùa cổ Long Thiền cũng là một trong những điểm thu hút nhiều du khách và Phật tử khắp nơi đến chiêm bái và tham quan, vãng cảnh. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa của quốc gia ngày 14/6/1991.
            +Trở lại quốc lộ 1A tại điểm ngã ba Dầu Giây đi theo quốc lộ 20.
            +Km 1832 của quốc lộ 1 và km 00 của quốc lộ 20: ngã ba Dầu Giây, cách thành phố Hồ Chí Minh 67 km. Quẹo trái theo quốc lộ 20 đến Đà Lạt 232 km.
            Giả thuyết về tên Dầu Giây: Người ta cho rằng trước kia vùng này có nhiều cây dầu và cây có dây leo. Có giả thuyết khác cho rằng Dầu Giây là do đọc trại từ chữ trầu dây. Khu vực này có nhiều rừng cao su.



            CÂY CAO SU
            Cao su xuất hiện ở nước ta vào năm 1897 do dược sĩ Raoul người Pháp đưa hạt giống từ Java-Malaisia để gieo trồng tại vườn ông Yêm ở Thủ Dầu Một. Ngoài ra ông còn trồng thí điểm tại Phú Nhuận, có diện tích 45 ha. Cùng thời điểm này bác sĩ Yersin trồng thử nghiệm tại Suối Dầu cách thành phố Nha Trang 23 km. Sau đó nhập giống từ Colombia và Brazil để năm 1904 thành lập đồn điền cao su tên Suzanah với diện tích 3.400 ha, trồng đầu tiên ở ngã ba Dầu Giây.
            *Cách trồng cao su
            Cây cao su được ươm trong vườn cây giống, cây cao khoảng 0.8m - 1m người ta đem trồng theo hàng, mỗi cây cách nhau khoảng 4 - 5 mét. Thường trồng 5 năm người ta bắt đầu khai thác mủ. Tùy theo mức chăm sóc người ta có thể khai thác từ 25 - 30 năm.
            *Kỹ thuật khai thác
            Thường người ta dùng dao có móc cong trên đầu cạo lớp vỏ lụa bên ngoài, tránh cạo sâu vào bên trong vì như vậy cao su sẽ bị tổn thương và làm ảnh hưởng đến năng suất cây. Trung bình một năm người ta khai thác khoảng 300 ngày. Hai tháng mùa khô người ta không khai thác, trong thời gian này người ta sẽ chăm sóc, bón phân cho cây cao su. Trung bình một ha cao su thu được khoảng 60 lít mủ, tương đương 20 kg. Mủ tươi sau khi sấy khô sẽ còn 1/3 trọng lượng. Giá trung bình một tấn mủ khô 1.600 USD. Hiện nay cả nước có hơn 200.000 ha cao su, trong đó Sông Bé chiếm 50%.
            Ngoài ra, khi cây cao su già không khai thác mủ, người ta sẽ phá bỏ chuyển qua khai thác gỗ. Trung bình mỗi ha cao su lấy được khoảng 150 mét khối gỗ. Gỗ cao su  được xử lý đưa vào sản xuất các mặt hàng gỗ trang trí trong nhà (chủ yếu bàn ghế lắp ghép xuất khẩu sang Đài Loan, Nhật,  Nam Triều Tiên…).
            Ngày xưa những người phu làm đồn điền cho Pháp rất cực khổ, sống trong những điều kiện thiếu thốn, phải ở trong những vùng rừng thiêng nước độc, dễ bệnh hoạn nên trong dân gian Việt vẫn còn tồn tại câu ca:
            “Bán thân đổi mấy đồng xu,
            Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”.
            Hoặc:
            “Cao su đi dễ khó về,
            Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”.
            Dự kiến đến năm 2005: diện tích cây cao su là 780.000 ha đứng thứ tư sau Indonesia, Malaisia, Thái Lan.
            Ngoài cây cao su, vùng này còn có nhiều loại cây công nghiệp khác như điều, cà phê, mít, sầu riêng, chôm chôm và nhiều loại cây khác trồng trên vùng đất đỏ Bazan.
            +Km 35+700: Cầu La Ngà.


            LÀNG CÁ BÈ LA NGÀ

            Cầu La Ngà bắc qua sông La Ngà, là một nhánh của sông Đồng Nai, bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh, chảy ngang địa phận Tánh Linh của tỉnh Bình Thuận trước khi hòa vào dòng sông Đồng Nai tại khu vực lòng hồ Trị An. Làng cá bè tập trung đông nhất trên sông ở đoạn có cầu La Ngà bắc ngang.
            Làng này được hình thành sau khi ngăn đập lòng hồ thủy điện Trị An. Ngư dân là Việt kiều Campuchia về nước định cư trong những năm 1979 để tránh chiến tranh và một số đồng bào miền Bắc vào Nam lập nghiệp. Hiện nay có trên 300 ngôi nhà bè nổi trên mặt nước trên khúc sông này.
            Bè nuôi cá là chiếc lồng được làm bằng những loại gỗ tốt và chắc chắn nằm dưới nước. Mỗi bè có diện tích bề mặt trung bình 40m2, tùy thuộc vào khả năng đồng vốn của chủ bè. Người ta dùng những chiếc thùng phuy được hàn kín để làm phao gắn cố định xung quanh bè. Tùy theo mùa vụ và nhu cầu thị trường, ngư dân nơi đây có thể nuôi các loại cá như điêu hông, cá lóc, tai tượng, cá lăng…. Phần trên, họ làm nhà để ở chăm sóc cá, hoặc có thể sống định cư ngay trên bè cá.
            Mô hình nuôi cá bè trên sông La Ngà đã mang lại nguồn kinh tế đáng kể cho nhiều hộ dân địa phương. Đến nay, gần 20 năm khai thác lòng hồ thủy điện Trị An, làng cá bè La Ngà đã và đang phát triển mạnh. Hiện nay, làng cá bè trên sông La Ngà là một trong những điểm dừng chân tham quan thú vị của nhiều du khách.
            +Km 46: khu vực Đá Chồng Định Quán nằm cạnh quốc lộ 20.


            QUẦN THỂ ĐÁ CHỒNG ĐỊNH QUÁN
            Danh thắng Đá Chồng là một quần thể núi đá thiên nhiên tạo cảnh đẹp nổi tiếng của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Với ba hòn đá nằm chồng lên nhau khá chông chênh, như một tác phẩm kỳ diệu của Tạo hóa, một tượng đài kỳ vĩ trơ gan cùng tuế nguyệt.
            Hòn đá nằm dưới cùng lớn gấp đôi hòn nằm giữa. Hòn trên cùng nằm hờ hững chỉ một nửa trên hòn giữa trông khá nguy hiểm, như chực đổ xuống bất kỳ lúc nào. Hình ảnh này kỳ lạ này đã làm ngạc nhiên biết bao người.
            Phía tây bắc của quần thể Đá Chồng có Hòn Dìa, là cụm núi có hình dáng độc đáo và đẹp mắt. Hòn Dìa có hình chữ nhật không đều, một đầu to và một đầu nhỏ, nhưng  nằm trên một hòn đá khác nhỏ hơn. Xung quanh có nhiều hòn đá khác dưới chân như đang cố tình làm nền cho Hòn Dìa thêm nổi bậc một cách ngoạn mục và cây cối mọc um tùm tạo nên vẻ hoang sơ, kỳ bí, trông rất nguy hiểm.
            Về phía tây của khu danh thắng Đá Chồng có núi Đá Voi, còn được gọi là núi Bạch Tượng. Núi có hình dáng như hai con voi khổng lồ nằm cạnh nhau. Trên đỉnh hòn đá được gọi là Voi Đực, Voi Cái là hòn nằm cạnh bên. Đá Voi Đực có tượng Phật Thích Ca nhìn về hướng đông. Tượng Phật này được xây dựng từ đầu năm 1970. Dưới chân Voi Đực có hang Bạch Hổ. Từ Hang Bạch Hổ có bậc thang tam cấp lên đỉnh của đá Voi Đực. Từ đây, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh khu danh thắng và những vùng xung quanh với những thung lũng mênh mông xen giữa những núi đá, những hồ nước và cả những dòng suối uốn lượn dưới chân đồi.
            Danh thắng quần thể Đá Chồng không chỉ là một điểm tham quan thu hút sự chiêm ngưỡng kỳ công thiên nhiên tuyệt vời của Tạo hóa đối với du khách, mà còn là một địa danh thu hút sự quan tâm đối các nhà khoa học. Ngoài những hòn đá hoa cương với hình dạng kỳ thú, nơi đây lưu giữ nhiều di tích của người tiền sử. Danh thắng này đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích cấp quốc gia.
            +Km 52: khu du lịch thác Bazọt. Ngã ba bên trái, vào tám km. Thác Bazọt thuộc hệ thống sông Đồng Nai. Do địa hình của lòng sông, khi chảy qua khu vực thuộc xã Phú Vinh, huyện Định Quán, dòng nước rẽ ra làm ba nhánh.
            +km 53: hai bên đường có rừng cây giá tỵ, được trồng vào năm 1958 với số diện tích khoảng 165 hecta. Cây giá tỵ có thân thẳng, vỏ trắng, lá rộng, hoa chùm màu trắng như hoa xoài. Thân gỗ nhẹ, nhiều sớ, ít co giãn nên thường được dùng trong những ngành công nghiệp.
            + Km 58: từ ngã ba quốc lộ 20, quẹo trái theo đến khu rừng cấm nguyên sinh Nam Cát Tiên 24 km.


            RỪNG QUỐC GIA NAM CÁT TIÊN




            Nam Cát Tiên là vùng đất nằm gọn trong đoạn uốn khúc của sông Đồng Nai, tọa lạc giữa địa phận của ba tỉnh: huyện Tân Phú của tỉnh Đồng Nai, huyện Bù Đăng của tỉnh Bình Phước và huyện Cát Tiên, Bảo Lộc của tỉnh Lâm Đồng với tổng diện tích khoảng 73.878 ha. Đặc biệt, khu rừng cấm Nam Cát Tiên đang được quản lý và bảo vệ có diện tích hơn 35.000 ha, có cả hệ thực vật và động vật đại diện của khu vực Nam bộ được đánh giá là một khu bảo tồn thiên nhiên lớn nhất của cả nước. Đây là phần cuối cùng và cao nhất thuộc huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
            Địa hình của khu rừng cấm rất đa dạng: có đồi với các dòng chảy dốc như những dòng suối hiền lành sẽ tạo nên các dòng thác phun nước trắng xóa đổ xuống các triền đá lớn vào mùa mưa, có các trảng rộng lớn bằng phẳng, có bãi ven sông, có nhiều bãi cát vàng rộng như các bãi tắm tự nhiên được hình thành do dòng chảy quanh co của cácc đoạn thác quanh co uốn khúc…. Ngoài ra, còn có các hòn đảo chạy dài theo dòng nước. Trên đảo có nhiều cây cổ thụ và những đám cỏ rộng, thích hợp cho các đoàn du khách cắm trại….
            Khí hậu ở Nam Cát Tiên độc đáo, có cả hai khí hậu của hai vùng miền núi và đồng bằng hòa quyện nhau. Đây là khu rừng nguyên sinh tiêu biểu cho hệ sinh thái rừng ẩm nhiệt đới vùng thấp. Địa hình thuận lợi, có sông suối bao bọc, bảo vệ cho khu rừng già được nguyên vẹn. Khu rừng cấm này qui tụ hầu hết các kiểu rừng  của đồng bằng Nam bộ, trong đó có hơn 600 loài thực vật, trên 100 loài gỗ quý, hàng trăm loài cây dược liệu, hơn 60 loài phong lan, 240 loài động vật với những loài chim quý hiếm, hươu, nai, hoẵng, cà toong, khỉ, vượn, sóc bay, voi và tê giác một sừng….
            Trong khu rừng già có nhiều loại cây gỗ lớn như: cẩm lai, trắc, gụ mật, gõ, giáng hương, bằng lăng, gỗ đỏ…. Những chỗ rừng thưa, ít cây gỗ lớn là nơi tồn tại của các loại cây như muồng hoa đào có các chùm hoa phớt hồng như chùm hoa phong lan, muồng hoa vàng, muồng đen, gáo vàng, hoặc các loại cây họ Dầu như sao, dầu, vên vên, kiền kiền, hay loài cây tung mọc sát nhau có thân nhẵn và cao vút và các loài cây mọc nhanh đan xen, chen chút….
            Bên cạnh hệ thực vật phong phú có giá trị còn có những cảnh quan ngoạn mục do địa hình tạo nên như thác Trời được xem là một ghềnh thác kỳ thú nhất ở rừng cấm Nam Cát Tiên, nằm bên phải của con đường rừng. Dòng thác uốn khúc, nước đổ từ trên cao xuống các tảng đá lớn tạo nên bọt trắng bắn tung tóe, hơi nước tỏa mát cả một vùng bờ thác. Hoặc Bàu Sấu là một vùng đất trũng nước ngập quanh năm, nằm giữa khu bảo vệ thiên nhiên của rừng. Đây là nơi chứa nước rộng nhất của rừng Nam Cát Tiên chứa đầy các loại cá, có những con cá lớn, nặng đến vài chục kg, và có cả loài cá sấu nước ngọt đang sinh sống. Ven bờ là nơi tập hợp của nhiều đàn chim lớn sống định cư hoặc theo mùa như: gà lôi, công, trĩ lông đỏ, le le, cù đèn, giang, mòng két, sến, cò quắm xanh…. Buổi sáng, chim trống gọi chim mái, chim mẹ giục chim con rời tổ đi tìm mồi. Chiều về, từng đàn chim trong bộ cánh nâu, cánh trắng bay rợp trời tìm về tổ trên các tán cây gỗ lớn. Tiếng chim ríu rít gọi nhau, tiếng chim hót với nhiều cung điệu làm say đắm, tiếng vỗ cánh lao xao làm lay động cánh rừng đã trở thành một trong những sân chim tự nhiên của miền đồng bằng Nam bộ.
            Càng đi sâu vào trung tâm của khu rừng cấm, du khách có dịp khám phá nhiều cảnh sắc độc đáo mang sắc thái riêng, có nơi rừng cây rậm rạp khó vượt qua, có nơi cây cỏ thưa thớt, có nơi là một cánh đồng rộng mênh mông phủ đầy các loại cây cỏ cao. Đến nay, đã có trên 15 đoàn các nhà nghiên cứu sinh thái của các nước như Cu-ba, Mỹ, Nga, Thụy Điển… và nhiều đoàn du khách nước ngoài đến tham quan, tìm hiểu về cảnh quan của vườn quốc gia Cát Tiên. Họ là những sinh viên, nhà nghiên cứu đang thực hiện những công trình khoa học về sinh thái và rừng nhiệt đới hoặc là những người yêu thích cảnh quan của Việt Nam.
            Ngày nay, khu rừng cấm Nam Cát Tiên là địa danh du lịch lý tưởng dành cho những du khách trong và ngoài nước yêu thiên nhiên kỳ thú, thích khám phá, mạo hiểm với nhiều điều thú vị bất ngờ để thư giãn tâm hồn, nhưng mang tính giá trị khoa học rất cao.
            +Thánh địa Cát Tiên và tê giác một sừng thuộc khu vực mảng rừng phía bắc Cát Tiên, thuộc tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, chúng tôi xin được giới thiệu thêm để phần rừng quốc gia Nam Cát Tiên thêm phong phú. Bởi vì vườn quốc gia Cát Tiên nằm trên địa phận ba tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước do Bộ Lâm Nghiệp quản lý.
            Tại khu vực thượng nguồn sông Đồng Nai thuộc rừng quốc gia Nam Cát Tiên, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một đền thờ vật linh của nền văn hóa Phù Nam, còn được gọi là Thánh địa Cát Tiên.
            +Km 76:  ranh giới giữa tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng.
            +Km 77: từ ngã ba bên trái quốc lộ 20, thị trấn Madagui, thuộc huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng vào khu thánh địa khoảng 25 km.


            THÁNH ĐỊA CÁT TIÊN
            Năm 1985, lần đầu tiên  một di chỉ văn hóa Phù Nam được người Việt Nam phát hiện, đó là hai nhân viên trẻ của Bảo tàng Lâm Đồng. Theo các nhà khảo cổ học cho biết, di tích Cát Tiên là một thánh địa của đạo Bà La Môn của vương quốc Phù Nam, tồn tại từ cuối thế kỷ thứ sáu đến đầu thế kỷ thứ bảy. Tuy nhiên, trải qua 20 năm với nhiều lần khai quật, các nhà khảo cổ học lần lượt phát lộ ra nhiều đền tháp chìm dưới lòng đất, nhưng vẫn chưa xác định được chủ nhân của thánh địa cổ xưa này.
            Cuối năm 1994 và đầu năm 1995 là đợt khai quật lần thứ nhất trên diện tích 200 m2, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một đền mộ và một đền tháp và nhiều hiện vật có giá trị khoa học rất lớn. Trong thung lũng rộng 15 km2 được chọn khai quật đã có bảy nhóm di tích trong một tổng thể với khoảng 20 công trình kiến trúc.
            Một năm sau đó, đợt khai quật thứ hai đã phát thiện thêm hơn 100 mảnh vàng có khắc hình ảnh các vị thần của đạo Bà La Môn. Cuối năm 1996 là đợt khai quật lần thứ  ba, đoàn khai quật đã chọn di tích nằm ở vị trí đầu tiên, cao nhất và đẹp nhất, có qui mô lớn nhất trong quần thể đã phát hiện một đền tháp bình đồ hình vuông 12m x 12m, có diện tích lớn gấp bốn lần tháp đã phát hiện trước đây. Kiến trúc vòm cổng có một phần nhô ra năm mét. Cửa lên xuống dẫn vào cửa chính hướng về phía đông. Dưới lòng tháp có một trụ giới thông từ nền gạch xuống hơn ba mét để đỡ một linga dài 2,1 mét, nặng khoảng bốn tấn. Dưới bệ trụ có một hộp cát chứa toàn bộ hiện vật mang ý nghĩa tôn giáo của chủ nhân đền tháp. Rất nhiều hiện vật được phát hiện ở bên ngoài đền như tượng Phúc thần Ganesa của đạo Bà La Môn, đĩa đèn, đồ đồng, sắt, gốm và nhiều hiện vật khác trong lòng tháp như 11 vật bằng đá thạch anh, 79 mảnh gốm, 116 mảnh vàng được chạm hình ảnh các vị thần trong đạo Bà La Môn bằng kỹ thuật gò nổi (trước đó có kỹ thuật khắc chìm) và những văn tự bằng chữ Phạn (Sankrit) có 47 tấm trong số đós, một bộ bốn linga bằng vàng và một bằng đồng bịt bạc có kích thước nhỏ nhất so với những tượng linga mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở Việt Nam.
            Theo đánh giá của các nhà khảo cổ, thánh địa Cát Tiên cổ kính không thua  kém thánh địa Mỹ Sơn. Lại nằm trên đường tỉnh lộ nối với quốc lộ 20, nên thánh địa Cát Tiên sẽ là một điểm tham quan du lịch và nghiên cứu thuận lợi, đầy hấp dẫn và giá trị. Hiện nay, Bộ Văn Hóa – Thông tin đã hỗ trợ kinh phí để tỉnh Lâm Đồng tiến hành qui hoạch, trùng tu tổng thể quần thể di tích thánh địa Cát Tiên trải rộng trên diện tích 15 km2.


            TÊ GIÁC MỘT SỪNG VIỆT NAM

            Tê giác là loài thú cổ, có trên 60 triệu năm. Đặc tính của tê giác là nhút nhát và sống đơn độc, nhưng có khứu giác và thính giác rất nhạy. Tê giác một sừng có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất trên thế giới và loài thú quí hiếm nhất châu Á đã được đưa vào sách đỏ của Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế. Ở châu Á có loài tê giác một sừng, có tên khoa học là Rhinoceros Sondaicus, còn được gọi là tê giác Java, thuộc bộ thú guốc móng lẻ. Cách đây nửa thế kỷ, loài tê giác này phân bố từ Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Hầu hết là tê giác hai sừng.
            Tài liệu của Liên đoàn Quốc tế bảo vệ thiên nhiên cho biết tê giác ở Việt Nam tồn tại không đến 10 con, cư trú tại các đầm lầy ven sông Đồng Nai, nơi tiếp giáp  ba tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước. Loại thú quí hiếm và đặc hữu này đang đứng trước nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng vì số lượng cá thể quá nhỏ, vùng sinh cảnh đang bị thu hẹp, chất lượng về nguồn thức ăn nghèo nàn và cuộc săn đuổi của con người ngày càng mạnh mẽ.
            Vào năm 1964, người dân thường gặp tê giác mỗi dịp lên biên giới phía tây nam. Theo thống kê không chính thức vào thời gian đó, quần thể tê giác Việt Nam có khoảng 19 con bị săn bắn, vì chiếc sừng của tê giác có giá trị hơn vàng, có đặc tính tăng lực, trị độc hoặc dùng làm đồ trang sức quý như ngọc ngà châu báu. Một số tài liệu chứng minh, trước năm 1950 có khá nhiều tê giác bị giết, trong đó có cả loài tê giác hai sừng, khiến loài này đã hoàn toàn bị tuyệt chủng ở Việt Nam.
            Tháng 3/1993, nhiều đoàn cán bộ Cục Kiểm lâm, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật cùng với các chuyên gia quốc tế nghiên cứu tê giác đã tiến hành điều tra khu vực ven sông Đồng Nai, thuộc khu rừng quốc gia Cát Tiên và đã xác định quần thể tê giác tồn tại ở Việt Nam. Tháng 01/1999, đoàn cán bộ các nhà khoa học Việt Nam tiếp tục điều nghiên về tê giác ở vùng này. Qua phân tích dấu chân và lối đi của tê giác trên chiều dài hơn 200 km ở Cát Lộc và đã thu thập được nhiều dấu vết hoạt động của tê giác như vùng tê giác đằm mình, phân, vết cọ vào thân cây, vết ăn cây lá và vết húc sừng…. Ngoài ra, còn căn cứ vào các bản đúc thạch cao dấu chân, sự khác biệt về kích thước, hình thái móng trước, đoàn đã kết luận có khoảng bảy đến tám con tê giác còn sống sót ở khu rừng quốc gia Cát Tiên. Đêm 11/5/1999, chứng cứ khoa học đã được xác định quyết đoán sự có mặt của loài tê giác ở Việt Nam nhờ một bức ảnh đầu tiên chụp được do bẫy ảnh tự động. Các máy chụp được bấm tự động khi một vật thể cắt ngang qua đường chiếu laser được nối với máy chụp. Đến ngày 15/7/1999, một cuộc họp công bố bảy ảnh tê giác đã được chụp từ kỹ thuật bẫy ảnh tự động. Nơi ghi ảnh tê giác là một vùng thung lũng, có vũng nước cho tê giác đằm mình, có song mây, tre nứa là món ăn khoái khẩu mà tê giác hay nhấm nháp.
            Tê giác Việt Nam có tên khoa học riêng Rhinoceros Sondaicus Annamiticus. Tê giác một sừng nhỏ của Việt Nam được Tổ chức Bảo vệ đời sống hoang dã thế giới đánh giá là loài động vật hữu nhũ có kích thước lớn quí hiếm nhất.
            +Trở lại quốc lộ 1A. Từ ngã ba Dầu Giây tiếp tục đi thẳng theo quốc lộ 1A đi các tỉnh miền Trung.
            +Km 1828: dốc Mẹ Bồng Con. Sau khi qua ngã ba Dầu Giây, trên đoạn này chúng ta thấy có hai dốc. Một dốc lớn và một dốc nhỏ, người ta ví dốc lớn như là mẹ, dốc nhỏ như là con, nên gọi là đèo Mẹ Bồng Con.
            +Km 1817: ngã Ba Tân Phong. Rẽ phải đi theo quốc lộ 56 khoảng bốn km đến nông trường cao su Hàng Gòn. Ở đây có ngôi mộ cổ Hàng Gòn bên tai phải. Nếu đi tiếp khoảng 50 km đến Bà Rịa.


            MỘ CỔ HÀNG GÒN




            Mộ cổ Hàng Gòn thuộc xã Hàng Gòn, huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Theo các nhà khoa học, ngôi mộ này đã có niên đại khoảng 2.500 năm. Sau khi được khai quật, ngôi mộ cổ đã được bảo vệ trong một khuôn viên có hàng rào che chắn kiên cố, nhiều loại hoa kiểng được trồng xung quanh tạo cảnh quan đẹp cho khách tham quan.
            *Cuộc khai quật đầu tiên
            Năm 1927, khi chủ trì khai thông lộ tuyến từ Long Khánh đi Bà Rịa, kỹ sư người Pháp tên Jean Bouchot đã phát hiện ngôi mộ bằng đá Granit với những trụ cột nằm ngổn ngang. Di tích là một hầm mộ làm bằng đá hoa cương lớn và những trụ đá dài, nặng. Mộ hình hộp dài 420 cm, ngang 260 cm, cao 140 cm được ghép bởi sáu tấm đá hoa cương. Mặt ngoài được bào nhẵn. Mặt trong đẽo gọt sơ sài. Bốn tấm đan thẳng đứng dùng làm vách, hai tấm nằm ngang dùng làm mặt đáy và nắp đậy. Liên kết giữa tấm đá hoa cương nhờ vào hệ thống rãnh đục dưới nắp và tấm đáy mộ với đường kính rãnh rộng 10 cm, sâu 5 cm. Sự tồn tại hàng ngàn năm qua minh chứng cho sự vững chắc của kết cấu này.
            Hai bên mộ có nhiều trụ đá hoa cương và sa thạch. Hai trụ đá hoa cương cao 7.5m, tiết diện mặt cắt ngang hình chữ nhật 110cm x 30cm. Còn các trụ sa thạch dài từ ba đến bốn mét, đầu được khoét lõm hình yên ngựa. Những ý kiến và giả thiết về niên đại và chủ nhân của ngôi mộ Hàng Gòn vẫn còn được bàn cãi sôi nổi.
            Di tích này là một thành tựu kỳ diệu, độc đáo cả về nghệ thuật và kỹ thuật của các dân tộc người cổ Nam Á nói chung và người Việt cổ nói riêng.
            Năm 1928 mộ cổ Hàng Gòn được trường Viễn Đông Bác Cổ xếp hạng, ghi vào các danh mục di tích lịch sử “Mộ Đông Dương“ – Mộ Dolmen Hàng Gòn, Xuân Lộc, Biên Hòa.
            Người dân địa phương với tín ngưỡng dân gian đã tôn thờ và gọi “ÔNG ĐÁ“ liệt vào hàng thần linh, rồi dựng miếu nhỏ cúng bái và cầu phước.
            *Khai quật lần thứ hai (tôn tạo di tích).
            Năm 1984, mộ Hàng Gòn được khai quật lần hai khi Bộ Văn Hóa ra quyết định xếp hạng di tích. Tám năm sau một kế hoạch trùng tu được tiến hành, từng trang sử của đất được lật lên, những hiện vật được bảo quản cẩn thận. Hầm mộ được làm lộ nguyên vẹn, những trụ đá được sắp xếp lại.
            *Khai quật lần thứ ba
            Cuối năm 1995, một phát hiện tình cờ trong khu di tích mộ Hàng Gòn đã làm xôn xao dư luận về khả năng có một hầm mộ thứ hai. Thực tế khi ủi đất xây dựng, một xe tải đã hút nhằm tảng đá hoa cương lớn cách di tích hầm mộ phát hiện năm 1927 khoảng 60 mét về phía nam. Từ những thông tin ban đầu, các cơ quan chức năng đã phối hợp, tiến hành khai quật, phát hiện những tấm đá hoa cương lớn cùng hai trụ sa thạch không hoàn chỉnh. Cùng trong địa tầng văn hóa và những mãnh vỡ của đá hoa cương.
            +Km 1796: ngã ba Ông Đồn: Cách Tp.HCM 120 km thuộc huyện Xuân Lộc, thị trấn Gia Rây được thành lập tháng 7–1991, tách ra từ huyện Xuân Lộc cũ thành huyện Long Khánh và huyện Xuân Lộc. Từ đây, rẽ trái đi khoảng hơn bốn km gặp ngã  ba, rẽ trái và tiếp tục đi  vào núi Chứa Chan khoảng 3.600 mét. Ngoài ra ở chân núi còn có viện nghiên cứu cây giống Đông Nam bộ.


            NÚI CHỨA CHAN




            Còn gọi là núi Sót  hay núi Gia Lào, cao 838 mét, đứng thứ hai Đông Nam bộ sau núi Bà Đen 986 mét. Nơi đây có nhiều mỏ đá đang được khai thác cung cấp cho ngành xây dựng. Trên đỉnh núi có sân bay trực thăng, chỉ sử dụng trong thời gian chiến tranh.
            Lưng chừng núi Chứa Chan có chùa Gia Lào, có chuyện kể: “Vào thế kỷ 17, có một vị tướng người Việt tên là Việt Hùng đánh nhau với quân Chăm. Ông bị bắt, vợ ông đang có mang bị vua Chăm ép làm vợ, còn ông bị quản thúc tại khu vực núi này và ông đã lập ngôi miếu ăn chay tịnh. 18 năm sau khi cô gái con của ông lớn lên, tên là Mai Khanh, nghe người mẹ kể về chuyện cũ và cô quyết định đi tìm cha. Sau đó ba người bỏ trốn, bị người Chăm truy đuổi và cả ba nhảy xuống vực tự vẫn”.
            Người dân đã lập miếu thờ những con người có tấm lòng thủy chung này. Hiện nay trong chùa có ba tượng ông Vàng, bà Bạc, cô Chì. Người dân biết chuyện đã đặt tên núi là Chứa Chan để nói lên tình cảm này.
            +Km 1792: bên trái có núi Le, cao  293 mét. Ở đây cũng có mỏ đá.
            +Km 1782: căn cứ 2, bên trái có đường vào hồ nước Gia Vi.
            +Km 1777: căn cứ 3, xã Xuân Hưng, vào ấp Rừng Lá buông. Đi ngang qua khu vực này thấy hai bên đường phơi rất nhiều lá buông. Lá này được cắt ở trong rừng (gọi là rừng lá thấp) đem về phơi khô, thường sử dụng đan làm phên, vách, lợp nhà, và làm một số đồ thủ công xuất khẩu rất được ưa chuộng như: đan thảm, nón, túi xách, đan cặp, đan ví hoặc dệt đệm ….
            +Trở lại ngã ba Vũng Tàu nơi bắt đầu quốc lộ 51. Quốc lộ 51 từ ngã ba Vũng Tàu thuộc thành phố Biên Hòa, tỉnh đồng Nai đến thành phố biển Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có chiều dài 90 km.
            +Km 10: tượng Phật Dốc 47, là một tượng Phật bán thân được đặt trên một bệ tròn bốn cánh, giống như đuôi của một trái pháo. Tượng này được một viên đại úy chế độ Sài Gòn cũ tên Lưu Yên, quận trưởng Biên Hòa cho xây dựng vào năm 1970, nhằm thu hút cử tri Phật tử trong cuộc bầu cử để củng cố chức vụ của mình. Tượng Phật được xây trên ngọn đồi cao 47 mét, nên người ta thường gọi là Dốc 47.
            +Km 12: ngã ba Thái Lan. Trước năm 1975, ở khu vực này có căn cứ đánh thuê của Thái Lan Bear – Cat Base, thuộc binh đoàn Bạch Mã của Thái đóng quân tại đây, nên được gọi là ngã ba Thái Lan. Tại ngã ba, quẹo trái theo con đường vào có trường Đo Đạc Bản Đồ II. Nếu đi thẳng vào khoảng sáu km, rẽ trái  có trường Sĩ Quan Lục Quân II. Rẽ phải vào trường Thiết Giáp Long Thành.
            +Km 14: khu du lịch bò sữa Long Thành. Nơi đây, du khách thường dừng chân nghỉ ngơi và mua sắm các sản phẩm của Đồng Nai như ữa bò tươi và các loại trái cây.
            +Km 20: trung tâm thị trấn Long Thành.
            +Km 34: thiền viện Linh Chiếu và thiền viện Thường Chiếu.


            THIỀN VIỆN LINH CHIẾU





            Thiền viện Linh Chiếu   được xây dựng trên nền tảng của thiền viện Chơn Không và thiền viện Thường Chiếu, do Hòa thượng Thích Thanh Từ sáng lập năm 1974, nhưng là nơi dành cho các Ni sư thực hành tu tập theo Thiền tông Việt Nam. Thiền viện này tọa lạc trong một khuôn viên đất có diện tích khoảng 5,5 ha, giáp ranh với thiền viện Thường Chiếu, thuộc ấp Hiền Hòa, xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
            Thiền viện Linh Chiếu được xây dựng năm 1980. Ngay những ngày đầu, cơ sở của Thiền viện chỉ là những mái nhà tranh vách đất trong một khu rừng rậm hoang vu. Sau nhiều lần sửa sang và trùng tu, ngôi thiền viện Linh Chiếu được phát triển kiên cố hơn. Đến năm 2003 là lần trùng tu thứ ba, thiền viện Linh Chiếu được tổ chức đại trùng tu với nhiều công trình, hạng mục vững chắc hiện nay như: ngôi Chánh điện, Tổ đường, Thiền đường, Ni đường, nhà khách, lầu chuông, thư viện và nhà bếp. Đặc biệt, trong khu nội viện có tám thất là nơi các Ni sư nhập thất theo tinh thần tu tập của Thiền viện.
            Hiện nay, thiền viện Linh Chiếu có khoảng 130 vị Ni sư theo tu học và làm việc theo tinh thần của Thiền tông. Lịch làm việc và huấn tu của các Chư Ni rất nghiêm ngặt: từ 3 giờ đến 5 giờ sáng ngồi thiền, buổi sáng lao động, buổi chiều học giáo lý, buổi tối sau 45 phút tụng kinh tiếp tục ngồi thiền từ 7 giờ 30 phút đến 9 giờ, với mục đích tu tập nội tâm, thanh tịnh hóa bản thân.
            Cùng với thiền viện Thường Chiếu, thiền viện Linh Chiếu là nơi tham quan, nghỉ ngơi của nhiều du khách và bà con Phật tử đến chiêm bái và tìm hiểu về Thiền tông. Cảnh quan đẹp, khuôn viên Thiền viện thoáng mát với nhiều loại cây ăn trái quanh năm như: mít, mãng cầu, nhãn, xoài, dừa, đều lộn hột…. Đặc biệt, Tuệ tĩnh đường là nơi thu hút rất nhiều khách thập phương đến khám chữa bệnh và nghỉ ngơi miễn phí.


            THIỀN VIỆN THƯỜNG CHIẾU




            Thiền viện Thường Chiếu là một trung tâm Thiền học nổi tiếng của Phật giáo Việt Nam, được xây dựng trên nền tảng của thiền viện Chơn Không, do Hòa thượng Thích Thanh Từ sáng lập năm 1974, tọa lạc tại ấp Hiền Hòa, xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Tổng diện tích của thiền viện Thường Chiếu hiện nay hơn 13 ha, trong khuôn viên có nhiều cây cảnh tạo cảnh quan rất đẹp. Nhất là hàng dương tỏa bóng mát từ cổng tam quan vào chánh điện, được trồng từ khi ngôi đạo tràng này mới được thành lập.
            Thiền viện mang tên một vị danh tăng họ Phạm ở giai đoạn thời Lý – Thiền sư Thường Chiếu. Không thấy tài liệu ghi rõ năm sinh của ông, chỉ biết ông viên tịch năm 1203. Ngài thuộc đời thứ 12 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Sau thời gian làm quan dưới triều vua Lý Cao Tông, Ngài từ quan và xuất gia ở chùa Tịnh Quả.
            Năm 1974, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã khởi xướng khôi phục và duy trì những đặc điểm của Thiền tông Việt Nam theo đường lối tu tập do sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông sáng lập, đề cao sự tu tập nội tâm, thanh tịnh hóa bản thân để lòng không còn vướng bận ngoại cảnh. Hòa thượng Thích Thanh Từ tên thật là Trần Thanh Từ, sinh năm 1924 tại Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ngài xuất gia năm 1949 với vị Bổn sư của ngài là cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa, tại quê nhà.
            Ban đầu, thiền viện là những mái nhà tranh, vách đất. Năm 1986, ngôi đạo tràng này được xây dựng lại từ những vật liệu tháo dỡ cơ sở cũ mang về từ thiền viện Chơn Không ở Vũng Tàu. Năm 1995, thiền viện Thường Chiếu tiếp tục được trùng tu và xây dựng thêm một số hạng mục mới, trong đó có ngôi chánh điện. Năm 1998, ngôi thiền viện này tiếp tục được trùng tu và xây thêm nhà Tổ. Lần trùng và xây dựng cuối cùng là năm 2004 có xây dựng thêm Thiền đường.
            Các công trình, hạng mục chính của thiền viện Thường Chiếu được xây dựng theo hàng dọc, có thể chia làm bốn  khu vực. Khu vực thứ nhất, sau khi qua cổng tam quan của Thiền viện có Bát nhã đường là nơi dành cho Phật tử nghỉ ngơi ở phía bên trái, Thiền Diệc đình, giảng đường và nhà khách ở phía bên phải. Khu vực thứ hai có ngôi chánh điện, nhà Tổ, trai đường và nhà bếp, bên trái có tháp chuông và Tông môn tàng thư, bên phải có Tăng đường và Bệnh xá. Khu vực thứ ba là nội viện, khách tham quan chỉ được  vào khi có sự hướng dẫn của đại diện Thiền viện, gồm có Thiền đường là nơi dành cho các vị Tăng của Thiền viện tập trung ngồi thiền vào các thời trong ngày, bên trái có Tăng đường và Dưỡng Chân đường dành cho các Tăng về nghỉ trong tăng môn, bên phải có Tăng đường và thư viện. Khu vực cuối cùng có 10 thiền thất, là nơi dành cho các vị Tăng ở trong thời gian nhập thất trong thời gian 49 ngày hoặc dài hơn. Hiện nay, có trên 130 vị Tăng đang theo tu học tinh thần Thiền tông thời Trần tại đây.
            Ngôi chánh điện của thiền viện Thường Chiếu chỉ thờ duy nhất vị Bổn sư Thích Ca Mâu Ni ngồi thế Niên hoa vi tiếu tôn trí ở án giữa Phật điện. Đây là điểm đặc trưng nổi bật nhất dễ nhận thấy giữa thiền viện và chùa tu Tịnh độ tông. Tượng Phật này được đúc vào năm 1995. Nhà Tổ thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, là vị Tổ thứ 28 của Thiền tông đi từ Ấn Độ sang Trung Hoa vào khoảng năm 580 cùng với ba bài vị thờ vua Trần Nhân Tông là vị Tổ thứ nhất ở chính giữa, vị Tổ thứ hai Pháp Loa và vị Tổ thứ ba là Huyền Quang của Thiền tông Việt Nam.
            Hiện nay, thiền viện Thường Chiếu là một điểm dừng chân lý tưởng của hàng ngàn Phật tử và du khách mỗi năm. Ngoài việc nghỉ ngơi, tham quan cảnh đẹp của Thiền viện, du khách còn có thể tìm hiểu thêm về Thiền tông Việt Nam.
             
            +Km 38: ranh giới giữa tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.04.2009 09:40:06 bởi lyenson >
            #6
              sundn85 06.04.2009 17:55:09 (permalink)
              Trùi ui Sun nhìn mấy món bánh tráng phơi sương và bánh canh thấy thèm quá à, nuốt nước miếng ực ực nãy giờ nè...
               
               
              #7
                lyenson 22.04.2009 12:35:22 (permalink)
                BÀ RỊA – VŨNG TÀU
                 
                Tác giả: Trần Huy Hùng Cường

                Bà Rịa – Vũng Tàu là một tỉnh duyên hải thuộc miền Đông Nam bộ, là một trong ba tỉnh của miền Nam tiếp giáp với phần đất của miền Trung tổ quốc là tỉnh Bình Thuận về phía đông. Phía nam và đông nam của tỉnh giáp biển Đông, với chiều dài bờ biển 100 km, trong đó có 72 km là bãi cát có thể khai thác làm bãi tắm. Phần đất liền giáp với Đồng Nai ở phía bắc và một huyện duyên hải của thành phố Hồ Chí Minh ở phía tây. Vùng đất này được xem là nơi đón nhận đoàn quân Nam tiến đầu tiên từ hai miền Trung và Bắc vào khai hoang, lập làng.
                Trước năm 1979, Vũng Tàu thuộc tỉnh Đồng Nai. Sau đó được gọi là Đặc Khu Vũng Tàu Côn Đảo. Từ ngày 08/10/1991, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được thành lập. Hiện nay, tổng diện tích của tỉnh có khoảng 1.979 km2. Địa hình gồm đồi, núi, đồng bằng nhỏ, các đồi cát và dải cát dọc theo bờ biển. Thềm lục địa của tỉnh tiếp giáp với quần đảo Trường Sa, nơi chứa đựng hai nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước là dầu mỏ và hải sản. Dân số đạt khoảng 885.000 người, gồm có các dân tộc đang sinh sống như Kinh, Hoa và Khmer. Thành phố Vũng Tàu là trung tâm hành chính của tỉnh, được thành lập cách nay 110 năm với danh hiệu thành phố du lịch đầu tiên của cả nước, nơi có nhiều bãi tắm đẹp và nhiều thắng cảnh tham quan, các công trình kiến trúc lịch sử văn hóa bên cạnh núi Nhỏ và núi Lớn.
                Ngoài ra, Bà Rịa – Vũng Tàu còn có các khu du lịch nổi tiếng thu hút rất nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế từ nhiều năm nay như bãi biển Long Hải, suối nước Nóng Bình Châu, bãi biển Hồ Cốc và Côn Đảo….
                Kinh tế Bà Rịa – Vũng Tàu rất phong phú. Bên cạnh việc khai thác du lịch, biển vẫn là tiềm năng vô tận  để phát triển nghề đánh bắt hải sản của Bà Rịa – Vũng Tàu. Phước Tỉnh được xem là cảng cá lớn nhất của tỉnh, có thể cung cấp nguồn hải sản cho thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành khác thuộc miền Đông Nam bộ và miền Trung. Nghề sản xuất muối cũng là một nghề truyền thống lâu đời ở Bà Rịa.
                Là vùng đất đầu tiên tiếp nhận người Việt từ miền Trung và Bắc vào, là nơi tiếp giáp với mảnh đất miền Trung nên Bà Rịa – Vũng Tàu được xem là nơi giao thoa, kết hợp hài hòa nền văn hóa của dân tộc cả ba miền Bắc – Trung – Nam. Các loại hình âm nhạc, các lễ hội truyền thống được người Việt mang theo trong quá trình tiến về phương Nam mở đất, hòa quyện vào nét văn hóa của người dân bản địa tạo nên một sắc thái văn hóa mới hình thành một nền văn hóa đầy bản sắc dân tộc.

                +Km 43: núi Thị Vải. Tương truyền có người cô gái con nhà họ Lê, giàu có nhưng lỡ thì. Sau khi cha mẹ mất, nàng mới lập gia đình. Sống với nhau trong thời gian ngắn thì chồng chết, nàng quyết định đi tu và lập một am nhỏ ở đỉnh núi này, nên ngừoi dân gọi là núi Thị Vãi hay núi Bà Vãi.
                +Km 54: núi Dinh
                +Km 57: ngã ba, quẹo phải, qua cầu Ba Nanh, tiếp tục đi vào khoảng năm km đến núi Nứa và  khu di tích Nhà Lớn – đền ông Trần.

                NÚI NỨA




                Núi Nứa thuộc xã đảo Long Sơn, thành phố Vũng Tàu. Quần thể núi Nứa nằm ở phía đông của đảo, dài hơn sáu km. Chiều ngang có nơi rộng nhất khoảng hai km. Quần thể núi Nứa chiếm gần 1/3 diện tích của đảo.
                Đây là đoạn cuối cùng của dãy núi Phước Hòa nhô ra biển. Nơi đây có những tảng đá lớn với nhiều hình dáng và nhiều cột đá chọc thẳng lên trời. Quần thể núi Nứa có ba đỉnh, cao nhất là đỉnh Bà Trao 183 mét, đỉnh Hố Rồng 120 mét và đỉnh Hố Vông ở phía nam cao trên 100 mét.
                Trên đỉnh Bà Trao có một cột đá cao năm mét, có tên là Hòn Một. Trong khu vực này còn có hai khối đá dài bắc ngang tựa như con tàu biển, nên được gọi là Hòn Tàu. Dưới chân quần thể núi Nứa có hồ Mang Cá chứa nước ngọt, có trồng nhiều sen, tỏa hương thơm ngát ở phía tây và đền ông Trần ở phía đông.

                DI TÍCH NHÀ LỚN – ĐỀN ÔNG TRẦN


                Di tích nhà Lớn – đền ông Trần là một khu di tích kiến trúc bề thế, tọa lạc tại thôn 5, thuộc xã đảo Long Sơn – thành phố Vũng Tàu. Ông Trần là người sáng lập ra một tín ngưỡng và thành lập khu dân cư ấp Bà Trao tại đảo Long Sơn từ năm 1898. Ông Trần tên thật là Lê Văn Mưu, là một tín đồ của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có nguồn gốc từ vùng Bảy Núi, An Giang. Nhưng người dân thích gọi theo kiểu miền Nam, ông Trần, vì ông hay ở trần khi lao động nặng nhọc.
                Năm 1898, ông Trần cùng đoàn người trên năm chiếc thuyền lớn đã cập bến cù lao Núi Nứa, trên hành trình trốn chạy cuộc truy nã của giặc Pháp vì tội tham gia lực lượng khởi nghĩa. Đảo Long Sơn ngày ấy rất hoang vắng, xung quanh là rừng ngập mặn, ông đã ra sức phát quang tạo ruộng lập ấp, khai thác gỗ và đánh bắt hải sản để đoàn người được tồn tại và hình thành một cộng đồng dân cư trên đảo cho đến nay.
                Tín ngưỡng ở đền ông Trần kết hợp nhiều tôn giáo khác nhau như đạo Phật, Nho giáo, đạo thờ ông bà tổ tiên…. Tất cả các vị Phật, thánh thần của các tôn giáo đều được thờ cúng trong nhà Lớn và tại nhà dân theo tín ngưỡng của ông Trần. Giáo phái này không có kinh kệ, giáo lý, chuông mõ và cũng không có giáo luật bắt buộc ăn chay, kiêng kỵ. Tín đồ tuân theo lời dạy của ông Trần được truyền khẩu trong dân gian. Việc cúng bái cũng rất đơn giản, có thức ăn gì cũng cúng được, không bắt buộc hay phân biệt chay mặn. Nếu không thức ăn, có thể cúng cơm và muối. Nhưng thời kinh, cúng bái phải giữ nghiêm. Mỗi ngày cúng bốn thời: 5 giờ sáng, 7 giờ 30 phút sáng kỉnh cơm, 2 giờ chiều, 5 giờ chiều kỉnh nhang.
                Khu di tích kiến trúc nhà Lớn rộng hơn hai hecta do ông Trần tự thiết kế, gồm có các công trình như khu đền thờ, nhà Long Sơn hội, trường học, dãy phố chợ, nhà hát, lăng mộ ông Trần. Khu đền thờ được khởi công xây dựng từ năm 1910 và hoàn thành vào năm 1935. Toàn bộ công trình này gồm có cổng tam quan, hai nhà khách, lầu, vườn hoa, trụ phướn, lầu Cấm hai tầng tám mái, nhà Thánh có bàn thờ Khổng Tử, bàn thờ ông Trần…, lầu Trời, lầu Tiên, lầu Phật (chánh điện), nhà hậu thờ dòng họ trong thân tộc của ông Trần, lầu Dài, nhà kho, nhà máy đèn, hồ chứa nước mưa, nhà ghe sấm còn lưu giữ một trong năm chiếc ghe đầu tiên đoàn người theo ông Trần về Long Sơn lập nghiệp và nhà mát là trạm dành cho ghe thuyền bà con tránh mưa nắng…. Tất cả được làm bằng gỗ quý và được gìn giữ gần như nguyên vẹn.
                Khu di tích đền ông Trần còn lưu giữ nhiều cổ vật quí giá trong khu nhà Thánh như bộ bàn ghế bát tiên gồm tám ghế và một bàn hình chữ nhật. Bộ bàn ghế này đã trên 200 năm tuổi, có thông tin  cho biết đây là bộ bàn ghế của vua Thành Thái. Bên cạnh đó, còn có nhiều cổ vật trang trí nội thất thờ tự như bao lam, hoanh phi, câu liễn sơn son thếp vàng…. Đặc biệt, bộ tủ thờ gồm 33 cái, được cẩn xà cừ, chạm khắc tinh xảo. Mỗi một tủ thờ là một bàn thờ Phật, thánh thần… của các tôn giáo khác. Tất cả cổ vật nơi đây thể hiện khả năng nghệ thuật điêu khắc, trang trí của các nghệ nhân từ nhiều nơi trên đất nước khoảng 100 năm nay.
                Việc quản lý di sản đền ông Trần đều do người dân và con cháu của ông điều hành hoàn toàn tự nguyện. Việc cúng kỉnh, quét dọn, bảo trì hằng ngày do một phiên gồm năm người đảm nhiệm trong ba ngày. Hiện nay, ở đền ông Trần có 68 phiên và sau sáu tháng mới đáo lại một lần. Đây là dịp mà những người trực phiên muốn chủ yếu là xuất gia tu tâm dưỡng tánh trong ba ngày ở đây. Việc cưới hỏi của người dân theo tín ngưỡng ông trần cũng rất đơn giản, không xem ngày tháng. Họ chỉ chọn hai ngày trong thánh là mồng một hoặc ngày 16 để tổ chức đám cưới, và giờ hành lễ vào lúc tám giờ sáng.
                Hiện nay khu di tích nhà Lớn – đền ông Trần là một điểm tham quan thu hút rất nhiều du khách trong nước và quốc tế, cũng như những nhà nghiên cứu, khảo cổ. Tín đồ ở đền ông Trần rất hiếu khách và ngoan đạo. Họ giữ lễ nghi rất nghiêm khắc trong bộ trang phục nguyên nét xưa là bộ bà ba đen và tóc búi củ hành. Hằng năm, con cháu ông Trần và tín đồ tổ chức hai lễ hội lớn: lễ vía ông vào ngày 20/02 âm lịch và cúng trùng cửu vào ngày 09/9 âm lịch. Năm 1991, quần thể kiến trúc Nhà Lớn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa của quốc gia.

                +Km 65: thị xã Bà Rịa.

                BÀ RỊA


                Theo quyển “Monographie de Baria” của một tác giả người Pháp viết năm 1902, cho biết địa danh Bà Rịa xuất phát từ tên của người đàn bà là Nguyễn Thị Rịa. Người đã có công khai phá đất hoang, lập làng Phước Liêu vào năm 1789.
                Tuy nhiên, theo tài liệu Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, địa danh Bà Rịa là do đọc trại từ tên của một tiểu vương quốc là Bà Lỵ hay Bà Lợi. Tiểu vương quốc này tồn tại khoảng trước thế kỷ thứ bảy. Sau đó, họ bị quân Chân Lạp thôn tính.
                Vùng Bà Rịa xưa còn được gọi là vùng Mô Xoài hay Muỗi Xụy, là nơi tiếp nhận những người Việt đầu tiên từ miền Trung vào khai phá vùng đất Nam bộ. Truyền thuyết dân gian kể rằng: “Vào khoảng thế kỷ 18, có người đàn bà giàu có tên Nguyễn Thị Rịa, từ Phú Yên – Bình Định vào khai khẩn vùng đất này. Bà đã bỏ tiền thuê dân vào khai khẩn đất hoang, lập làng mạc, mở nhiều nông trại. Bà đối xử rất tốt với những người đi khẩn hoang, giúp đỡ những người mới đến định cư, lập nghiệp. Bà Rịa mất năm 1803. Do bà không có con, nên tài sản để lại cho người dân vùng Tam Phước. Người dân nhớ ơn, nên lập miếu thờ bà và lấy tên bà đặt cho vùng đất này – Bà Rịa”. Hiện nay, ngôi mộ của bà vẫn còn ở ngọn núi Tam Phước (còn gọi là núi Cố).]

                +km 69: ranh giới thị xã Bà Rịa và thành phố Vũng Tàu.

                Thành phố Vũng Tàu

                 
                Được xem là trung tâm du lịch biển đầu tiên của cả nước, được thành lập ngày 01/5/1895. Sau năm năm, kể từ ngày thành phố này được thành lập, dân số tăng lên 14 lần và trở thành vùng đất hội tụ người từ nhiều nơi khác đến và là một trong những địa phương có nhiều người nước ngoài làm việc và đến nghỉ ngơi, chữa bệnh.
                Trước khi được thành lập, thành phố Vũng Tàu chỉ là phần đất của một tổng được gọi là làng Tam Thắng với ba làng Thắng Nhất do ông Phạm Văn Dinh chỉ huy, Thắng Nhì do ông Lê Văn Lộc chỉ huy và Thắng Tam do ông Ngô Văn Huyền. Kinh tế dựa vào những mảnh ruộng gầy, những cánh đồng khoai, bắp chỉ có thể có củ, có trái vào mùa mưa.
                Sau thời điểm được thành lập, bộ mặt thành phố Vũng Tàu có nhiều thay đổi. Ngoài dinh thự của Toàn Quyền Đông Dương Pháp là Bạch Dinh, còn có nhiều khách sạn, biệt thự, nhà nghỉ và khu du lịch… được xây dựng. Về ý nghĩa tên gọi Vũng Tàu, có ý kiến cho rằng vùng đất này có ba mặt giáp biển, rất thuận lợi cho tàu bè đậu tránh gió trước khi vào Gia Định, nên được gọi là Vũng Tàu. Khi người Bồ Đào Nha đến đây, thấy hình dáng mũi đất này giống mũi của thánh Jacques nên gọi là “Cap Saint Jacques”. Còn người Pháp gọi là AUCAP, người Việt đọc trại thành Ô Cấp.
                Hiện nay, Vũng Tàu là một trung tâm du lịch tuyệt đẹp, đầy quyến rũ được kết hợp hài hòa giữa quần thể thiên nhiên biển, núi cùng các kiến trúc đô thị và các công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà thờ, am miếu…. Nhiều bãi tắm đẹp như bãi Dâu, bãi Dứa, bãi Nghinh Phong, bãi Trước và bãi Sau…, mỗi bãi có một vẻ đẹp riêng. Khí hậu Vũng Tàu không có mùa đông nên thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế quanh năm.

                +Từ ngã tư cuối đường 30/4 có bùng binh quẹo phải, theo đường Nguyễn An Ninh và đường Trần Phú đi đến Thích Ca Phật Đài khoảng 1,5 km. Hoặc từ bãi Dâu đi theo đường ven bờ biển đến Thích Ca Phật Đài khoảng 6 km.

                THÍCH CA PHẬT ĐÀI


                Thích Ca Phật Đài là một trong những ngôi chùa lớn nhất ở Vũng Tàu, cách trung tâm thành phố khoảng ba km. Ngôi chùa tọa lạc trên sườn núi lớn, trong khuôn viên có diện tích sáu ha, kết hợp giữa kiến trúc tôn giáo do bàn tay khéo léo của con người tạo nên các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật kiệt tác và phong cảnh thiên nhiên để Thích Ca Phật đài và không gian nơi đây thêm hoành tráng và uy nghiêm, trở thành thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
                Ngày xưa, nơi này là vùng đất hoang vu. Đến năm 1957, ông quan Phủ Lê Quang Vinh nghỉ hưu, lên đây xây dựng ngôi Thiền Lâm tự để tu hành. Sau đó, có một nhóm khách hành hương thuộc Hội Phật giáo miền Nam lên viếng Thiền Lâm tự, thấy vị trí ngôi chùa rất tốt nên họ cùng nhau quyên góp để trùng tu và phát triển ngôi chùa rộng hơn. Ngày 20/ 7/1961, ngôi Thích Ca Phật Đài được khởi công xây dựng, theo phát kiến của ngài Đại đức Narada Mahathera, người Tích Lan. Sau gần hai năm thi công, ngôi chùa đã được khánh thành ngày 09/3/1963. Đặc biệt, nơi đây đang thờ 16 viên ngọc xá lợi cùng nhánh bồ đề của Phật tổ do các nước Sri Lanka, Miến Điện, Thái  Lan hiến cúng.
                Qua cổng chùa dưới chân núi là một cổng tam quan có bốn trụ cột vươn lên vững chắc, theo các bậc đá men sườn núi có một ngôi bảo tháp cao ba mét, chứa di cốt của vị sư trụ trì đầu tiên là ông Lê Quang Vinh. Tiếp tục lên triền núi  là ngôi Thiền Lâm tự trông rất đơn sơ, cũng là ngôi chánh điện của chùa, thờ Phật Thích Ca. Đáng chú ý là ngọn tháp Bát Giác cao 19 mét, là nơi thờ xá lợi Phật và tượng Phật Thích Ca ngồi thiền định trên tòa sen còn được gọi là tượng Kim Thân Phật tổ, pho tượng cao sáu mét, tòa sen cao hơn bốn mét, đường kính của bộ tượng khoảng sáu mét. Bên cạnh đó là khu vườn thánh tích, diễn tả sự tích cuộc đời của đức Phật Thích Ca từ khi đản sanh, xuất gia, thành đạo cho đến khi ngài nhập Niết Bàn…. Đây cũng là khu vực thu hút nhiều khách du lịch nhất, sau khi leo lên dốc núi khá cao, khách dừng chân nghỉ ngơi và tham quan. Không khí trong lành, gió từ biển thổi vào mang theo lạnh tạo cho du khách có cảm giác dễ chịu giữa chốn tôn nghiêm. Từ vị trí này, du khách có thể quan sát biển ở nhiều phía hoặc có thể nhìn thấy đảo Long Sơn, mũi Cần Giờ của thành phố Hồ Chí Minh và tổ hợp dàn khoan dầu khí ngoài khơi.
                Du khách đến Vũng Tàu thường viếng thăm và tham quan ngôi Thích Ca Phật Đài. Ngoài niềm tin tôn giáo, nơi đây cũng là một điểm du lịch lý tưởng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước bởi đặc tính thiên nhiên, một bên là núi cao và một bên là biển rộng. Đứng giữa không gian hào phóng, con người luôn được mời gọi mở lòng mình với thiên nhiên và với nhân loại. Thích Ca Phật Đài vừa là điểm tham quan hành hương, vừa là di sản văn hóa của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã được công nhận di tích Lịch sử – Văn hóa danh thắng theo quyết định của Bộ Văn hóa – Thông tin ngày 14/12/1989.

                NÚI LỚN


                Núi Lớn còn có tên là Tương Kỳ, tọa lạc ở phía bắc của trung tâm thành phố Vũng Tàu. Núi có ba đỉnh lớn là Vũng Mây cao 220 mét, Núi Lớn cao 170 mét và Hòn Sụp cao 215 mét. Diện tích của núi Lớn khoảng 400 ha. Có tài liệu còn cho biết, ngày xưa núi Lớn có tên là Thác Cơ sơn, hoặc dân gian thường gọi là núi Ghềnh Rái, do ở đầu ghềnh núi Lớn có nhiều rái cá tập trung sinh sống.
                Chuyện xưa kể rằng: “Trên vùng núi hoang dã này có hai ông cháu sinh sống. Ông là thầy giáo Hiến, thầy dạy văn cho ba anh em nhà Tây Sơn. Một hôm, cháu gái của ông là Mai vào rừng hái nấm và gặp hổ dữ. Đang lúc cô gặp nguy, có một tráng sĩ tên Lê Tuấn, là võ tướng của Nguyễn Huệ xuất hiện. Chàng võ tướng này đã ra tay giết hổ cứu cô gái. Cụ giáo Hiến đã gả cô Mai cho Lê Tuấn để tỏ lòng cảm kích trước tấm lòng hào hiệp của chàng. Cụ Hiến chỉ tay lên vùng núi, nơi gặp gỡ và kết lương duyên của hai người, nên đặt tên núi là Tương Phùng”.
                Lên đỉnh núi Lớn có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vũng Tàu, cảnh trời biển bao la và những vùng xung quanh. Không khí trên núi trong lành, mát lạnh. Du khách đến Vũng Tàu, thường đến bãi Dâu để tham quan núi Lớn. Từ khuôn viên nhà thờ bãi Dâu có đường đi lên núi. Dọc theo đường di là thánh tích Công giáo gồm 14 chặng đường thánh giá của chúa Giê-Su và tượng đài Đức Mẹ Hòa Bình có chiều cao khoảng 520 cm, đứng trên bục cao 110 cm được xây dựng trên núi. Hoặc du khách có thể lên Hòn Chụp tham quan thiền viện Chơn Không, một thắng cảnh đẹp tuyệt vời, một cơ sở tu tập của Phật giáo theo đường lối của sơ Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông sáng lập và được Thiền sư Thích Thanh Từ trùng kiến nhằm khôi phục Thiền tông Việt Nam.
                 
                +Từ Thích Ca Phật đài tiếp tục theo đường Trần Phú dọc bãi biển đi đến các di tích, thắng cảnh và các bãi tắm của thành phố biển Vũng Tàu.

                BÃI DÂU


                Bãi Dâu nằm dưới chân núi Lớn, chạy dọc theo đường Trần Phú. Ở hai đầu bãi Dâu có nhiều mỏm đá nhô ra biển. Bãi tắm này nhỏ, nhưng rất yên tĩnh và bằng phẳng, không có vực thẳm, thích hợp cho du khách thích tắm biển nhưng không biết bơi hoặc người lớn tuổi và trẻ em.

                BÃI TRƯỚC


                Bãi Trước còn được gọi là bãi Tầm Dương chạy dọc theo đường Quang Trung, thuộc trung tâm thành phố Vũng Tàu. Bãi Trước giống như cái vịnh nhỏ, ít có sóng to. Bãi tắm này sạch, đẹp, có nhiều nhà hàng và khách sạn lớn, sang trọng tập trung ở đây.

                +Từ bãi Trước, theo đường Hoàng Diệu đi đến ngã tư mũi tàu. Tiếp tục theo đường Lê Lợi đi đến ngã ba đường Vi Ba bên tay trái. Theo đường Vi Ba lên Hòn Sụp – núi Lớn  khoảng 400 mét có ngã ba, quẹo phải 500 mét đến thiền viện Chơn Không.

                THIỀN VIỆN CHƠN KHÔNG
                 


                 
                “Vũng Tàu biển đẹp, non xanh,
                Danh lam thắng cảnh mặc tình dạo chơi.
                Lại thêm điểm hẹn tuyệt vời,
                Chơn Không, núi Lớn xin mời đến thăm,
                Thiền tông Phật giáo ngàn năm,
                Trúc Lâm Yên Tử nẩy mầm hồi sinh”.
                Thiền viện Chơn Không tọa lạc trên triền Hòn Sụp - núi Lớn, thuộc phường sáu, thành phố biển Vũng Tàu. Thiền viện này được hình thành trong sự thôi thúc đi tìm một hướng đi mới mẻ cho Tăng Ni, và đó cũng là hoài bảo phục hưng Thiền Tông Việt Nam mà từ lâu Thiền đã bị quên lãng trong giới tu hành theo đạo Phật của Hòa thượng Thích Thanh Từ.
                Thiền viện Chơn Không đã đóng góp sức mạnh vào công cuộc hoằng truyền Chánh pháp của đức Như Lai đến những con người tầm cầu giác ngộ để được giải thoát thật là đáng kể. Thật vậy, Tu Viện Chơn Không đã làm dậy lên thiền phong gây cho sinh hoạt Phật giáo cả nước có thêm sinh khí mới, tạo cơ duyên cho những ai có ý hướng đến vận hội Thiền được dịp trổ hương khởi sắc.
                Khoảng tháng 4/1966, Hòa thượng Thích Thanh Từ là giảng sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất và cũng là cao đồ của Hòa thượng Thích Thiện Hoa – Viện Trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất đương thời, đến đây khẩn hoang và dựng nên một ngôi thất đơn sơ mang tên Pháp Lạc Thất (quyết tìm vui trong pháp mầu), quyết chí một mình ẩn tu giữa sơn lâm chướng khí để thực hiện chí nguyện tìm đường khôi phục Thiền tông Việt Nam. Một ngôi thất được cất bằng cây lá, nhỏ gọn xinh xắn, tọa lạc trên một khu đất hơn ngàn thước vuông, hướng về phía biển Đông. Ngày Rằm tháng 4 năm Mậu Thân (1968) Thầy phát nguyện nhập thất, quyết tâm sống chết. Thầy nguyện, nếu không sáng, đường vào đạo không mở ngõ thì chết luôn không ra thất. “Đạo không sáng không ra thất”, một quyết tâm kiên cường, Thầy đã cài then khóa cổng Thất thật chặt.
                Ngày 20/7/1968 âm lịch, Ngài đã sáng ra nẻo đạo lý Sắc Không được liễu đạt, nhận ra thật lý Bát-nhã. Đến ngày mùng 8 tháng Chạp năm ấy, Thầy ra thất và đem sở đắc chỉ dạy cho đồ chúng. Hoài bảo ở Thầy đã đầy đủ nhân tố để thực hiện. Thầy chấn hưng lại Thiền tông Việt Nam.
                Từ năm 1969 và 1970, Thiền sư Thích Thanh Từ chuẩn bị cơ sở vật chất xây dựng thiền đường, tăng xá để quy tụ tăng chúng. Ngày 08/4/1971, nhận thấy đã đầy đủ cơ duyên nên Ngài quyết định công bố thành lập tu viện Chơn Không và mở khóa đầu tiên tu thiền ba năm, từ năm 1971 đến năm 1974, với đường lối tu tập cao siêu thanh thoát, trừ dẹp mê tín và lý thuyết suông. Chính nơi đây đã đào tạo và cống hiến cho Giáo Hội Phật giáo Việt Nam nhiều vị Tăng Ni tài giỏi để phục vụ cho sự nghiệp hưng thịnh nền Phật pháp, đồng hành cùng dân tộc và Phật tử xây dựng nước nhà vững mạnh, cùng nhau sống tốt đời đẹp đạo.
                Cơ sở vật chất ban đầu của tu viện rất đơn sơ, mộc mạc và  giản dị. Đến những năm 1993, được sự khuyến khích của Đảng và Nhà nước kêu gọi phục hồi lại các chùa cũ đã bị hư hỏng đổ nát, nên từ tháng 4/1994 đến nay, tu viện Chơn Không đã được trùng tu và xây dựng thêm nhiều công trình hạng mục như cổng tam quan, Chánh điện, nhà Tổ, nhà khách, lầu chuông với quả chuông được đúc bằng đồng nặng 1.100 kg, nhà mát và sáu ngôi thất trải dài lên đỉnh núi…. Đặc biệt, hòn non bộ được xây ở giữa trung tâm của khuôn viên Thiền viện, có bốn con sư tử đang quỳ chầu bốn hướng, chính giữa là một bàn tay nâng cao đóa hoa sen, là biểu tượng của Thiền tông đã làm nổi bật ý nghĩa và cảnh quan của Thiền viện thêm thanh thoát và thiêng liêng, trầm mặc.
                Suốt chiều dài lịch sử với bao thay đổi thăng trầm, Thiền viện Chơn Không vẫn trung thành với lý tưởng phụng sự đạo pháp và dân tộc. Thiền viện Chơn Không dưới sự hoằng truyền của Thượng tọa Viện chủ Thích Thanh Từ đã phát triển tốt đẹp. Biết bao nhiêu người được lợi lạc bởi nguồn pháp trong lành siêu thoát này. Đến nay, đã có thêm sáu thiền viện hình thành từ nền tảng khôi phục Thiền tông Việt Nam của Ngài như: thiền viện Thường chiếu, thiền viện Viên Chiếu, thiền viện Huệ Chiếu, thiền viện Linh Chiếu, thiền viện Phổ Chiếu và thiền viện Trúc Lâm ở Lâm Đồng.
                Mục đích Thiền Viện là giúp Thiền sinh giải thoát ngay trong cảnh triền phược, thấy vô sanh trong pháp sanh diệt, tìm Cực lạc trong cõi Ta bà. Tu là tạo một cuộc sống an tĩnh lành mạnh ngay nơi thân tâm. Tâm an tĩnh, thân lành mạnh là một điều kiện thiết yếu cho người tu nói riêng và cho nhân loại nói chung. Cho nên, Thiền sinh khéo điều hòa thân thể khoẻ mạnh, tâm an tĩnh là biết tu, có truyền bá cũng nhằm vào điểm cốt lõi ấy mà thôi.
                Thiền viện Chơn Không thật sự là thắng cảnh yên ắng đến tuyệt vời rất thích hợp cho Phật tử và du khách hành hương, tham quan và có dịp tìm hiểu về Thiền tông. Qua cổng tam quan để theo con đường Tiêu Dao với hai hàng dương xanh non mượt mà dọc lối đi, tạo cảm giác êm ái cho du khách khi nâng bước chân lên dốc đến  đồi Tự Tại. Tiếp tục rẽ phải để lên Chánh điện lễ Phật, du khách có thể nhìn toàn cảnh thành phố Vũng Tàu có cảng, có sân bay, có đường ngang phố dọc, có biển vươn dài ngút ngàn đại dương…, và phía sau khuôn viên Thiền viện có đỉnh Hòn Sụp làm bình phong che chắn. Và, khi màn đêm buông xuống, thật thú vị cho du khách được ngắm một đô thị hoa đăng sáng rực của phố biển Vũng Tàu.

                BÃI DỨA


                Bãi Dứa nằm gần bãi Nghinh Phong dưới chân núi Nhỏ, giữa bãi Trước và bãi Sau. Do trước đây ở khu vực này có nhiều cây dứa gai mọc ven bờ đá của bãi biển nên được gọi là bãi Dứa. Bãi tắm này tuy nhỏ, nhưng ít sóng và an toàn.

                NIẾT BÀN TỊNH XÁ


                Niết Bàn tịnh xá còn được gọi là chùa Phật Nằm, tọa lạc trên triền núi Nhỏ, mặt hướng ra biển, thuộc đường Hạ Long, bãi Dứa, thành phố biển Vũng Tàu. Thắng cảnh này cách trung tâm thành phố khoảng hai km. Niết Bàn tịnh xá được khởi công xây dựng từ năm 1969, đến năm 1974 hoàn thành. Đây là một công trình Phật giáo theo phong cách kiến trúc phương Đông, được kết hợp từ cảnh quan thiên nhiên và bàn tay khéo léo của con người trong một khuôn viên rộng khoảng 10 ha, tạo cho Niết Bàn tịnh xá có được một vẻ đẹp hài hòa, đặc sắc bên bờ biển.
                Đường lên Niết Bàn tịnh xá men theo triền dốc bên tay phải. Hai bên cổng có tượng ông Thiện và ông Ác cao lớn. Cổng chính có đính một bức phù điêu chạm hình rồng và ngựa bằng kỹ thuật ốp mảnh sứ men trắng vẽ lam cao bốn mét, rộng hai mét. Bên trong Niết Bàn tịnh xá có các pho tượng đức Phật đản sanh và thiền định, có nhiều công trình đắp nổi, được chạm khắc công phu với hình ảnh thiên nhiên cây cỏ và muông thú….
                Đặc biệt, Niết Bàn tịnh xá có nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc tuyệt tác đầy sức thuyết phục như: Trụ phướn hình tượng tháp cổ hoa sen trước sân tịnh xá, cao 21 mét với 42 tầng  ốp gạch men màu vàng đỏ, trên đỉnh có ba nhánh búp sen tỏa ra ba hướng. Đại hồng chung nặng 3.500 kg, cao 280 cm, được đặt trong một lầu chuông có bốn mái đao đắp nổi hình rồng ở tầng lầu. Thuyền Bát Nhã được thiết kế cách điệu hình tượng một con rồng lớn, dài 12 mét, bên ngoài được trang trí tranh ghép mảnh sứ men lam và men màu. Chiếc lư đồng lớn đặt ở trước chánh điện có hình tượng bốn con vật trong Tứ linh (long, lân, quy, phụng), được làm bằng công sức lao động nghệ thuật miệt mài của một nghệ nhân ở Bến Tre tặng năm 1971. Trong chánh điện có pho tượng đức Phật Thích Ca mâu ni nhập Niết Bàn, gối lên tay phải, đầu quay về hướng bắc, chân duỗi thẳng hướng nam, nằm nghiêng nhìn về hướng tây, gan bàn chân có khắc 52 điểm ấn, chiều dài 12 mét, đặt trên bệ cao 2,5 mét, tượng được đúc bằng bê tông cốt thép có lớp đá bao bọc bên ngoài bằng cẩm thạch được lấy từ vùng núi Ngũ Hành sơn.
                Niết Bàn tịnh xá là một công trình kiến trúc nghệ thuật và là thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đón tiếp rất nhiều khách trong nước và quốc đến hành hương, tham quan du lịch. Ngôi tịnh xá này đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích Lịch sử – Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 14/12/1989.

                BẠCH DINH
                (Villa Blanche)


                Bạch Dinh được gọi theo tiếng Pháp là Villa Blanche, tọa lạc trong khu lâm viên chủ yếu là cây giá tỵ và cây hoa sứ có diện tích khoảng bảy ha trên sườn núi Lớn, thuộc bãi trước của thành phố biển Vũng Tàu. Công trình này được khởi công xây dựng vào năm 1898 và hoàn thành năm 1910 trên nền pháo đài đồn Phước Thắng triều Nguyễn, dùng để làm nơi nghỉ ngơi cho viên Toàn quyền Pháp là Paul Doumer.
                Bạch Dinh mang đậm kiến trúc kiểu Pháp ở cuối thế kỷ 19, uy nghi, bề thế. Chiều cao của công trình này là 15 mét, dài 28 mét, rộng 15 mét, gồm ba tầng: tầng hầm, tầng trệt và tầng lầu. Mặt ngoài của tòa Bạch Dinh được trang trí hoa văn cổ xưa và những hình vẽ chân dung các vị thánh thời cổ Hy Lạp.
                Sau viên toàn quyền Pháp Paul Doumer, còn có nhiều đời Toàn quyền Pháp khác cũng ở Bạch Dinh, nên còn được gọi là dinh Toàn Quyền (Villa du Gouverneur). Sau nay, Bạch Dinh cũng được dành làm chỗ nghỉ cho Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu. Đặc biệt, Bạch Dinh cũng là nơi giam lỏng vua Thành Thái từ tháng 7/1907 đến năm 1916, trước khi ông bị đày sang đảo Réunion ở châu Phi. Với lòng kính trọng ông, nên dân địa phương còn gọi Bạch Dinh là dinh Ông Thượng.
                Hiện nay, Bạch Dinh được dùng làm Bảo tàng của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trưng bày các sưu tập di sản văn hóa cổ của địa phương như bộ tràng kỷ từ thời vua Khải Định vào năm 1921, cặp ngà voi châu Phi dài 170 cm, song bình “Bách điểu chầu phụng” cao 1,35 mét được làm từ thời nhà Thanh – Trung Quốc, bộ tam đa (Phước - Lộc – Thọ) thời kỳ nhà Nguyễn…. Đặc biệt, tại đây có phòng trưng bày giới thiệu về những hiện vật được trục vớt từ một chiếc tàu buôn của Trung Quốc trên đường sang châu Âu đã bị đắm ở vùng biển Hòn Cau – Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
                Các cổ vật được trục vớt từ con tàu trưng bày ở đây như gốm sứ, đất nung, và đá rất đặc sắc, với nhiều kiểu dáng và trang trí hiếm thấy xưa nay, được chế tạo vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 – Thời Khang Hy, nhà Thanh của Trung Quốc như: bộ sưu tập men trắng vẽ hoa lam gồm ly sứ, chân đèn, ấm trà, chén uống trà, hộp sứ, chén bát giác…, ấm men đen, tô men trắng, tô vẽ men màu…. Bộ sưu tập này là di sản lịch sử – văn hóa có giá trị đặc biệt, góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ mua bán giữa đông và tây bán cầu.
                Bạch Dinh là công trình kiến trúc đặc sắc của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đã trở thành điểm tham quan thu hút rất nhiều khách du lịch. Trong khuôn viên thoáng mát, không khí trong lành, gió từ biển miên man thổi vào, có nhiều cây hoa sứ trắng cổ thụ tạo cho khung cảnh nơi đây thêm hữu tình. Đứng trên khu di tích kiến trúc Bạch Dinh, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh biển bãi trước của Vũng Tàu, những vùng biển lân cận và đường Quang Trung - Hạ Long dưới chân núi, là một trong những con đường đẹp nhất Việt Nam. Hiện nay, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc, Lịch sử – Văn hóa của quốc gia ngày 04/8/1992.

                VUA THÀNH THÁI VÀ CUỘC LƯU ĐÀY
                (1889 – 1907)
                Thành Thái là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn – Việt Nam (1802 – 1945). Ông là hoàng tử Bửu Lân, con vua Dục Đức và bà hoàng hậu Từ Minh, lên ngôi đầu năm 1889. Lúc này, ông mới được 10 tuổi.
                Khi vua Dục Đức bị giết, hoàng tử Bửu Lân theo mẹ về ở bên ngoại. Đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi, ông mới cùng mẹ đựoc trở lại Dục Đức đường. Mặc dù còn bé, nhưng hoàng tử Bửu Lân đã già dặn hơn những đứa trẻ cùng độ tuổi rất nhiều. Ông đã hiểu rõ hoàn cảnh của vua cha lên ngôi được ba ngày thì bị hai ông quan Phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế và bắt giam ở Dục Đức đường, rồi tiếp tục cho giam vào lao Thừa Thiên, bỏ đói cho đến chết, nên lúc nào ông cũng rất thận trọng.
                Vua Đồng Khánh lên ngôi được hơn bốn năm (1885 – 1889) thì băng hà. Triều đình chọn hoàng tử Bửu Lân lên kế vị. Ngày 02/02/1889 (Mồng 02 Tết năm Kỷ Sửu), hoàng tử Bửu Lân được làm lễ tôn lên ngôi vua, lấy hiệu là Thành Thái tại điện Thái Hòa. Khi được chọn lên ngôi vua, ông vẫn về sống với mẹ tại Dục Đức đường trong cảnh cùng túng.
                Vua Thành Thái thường giả dạng dân thường đi di hành để tìm hiểu cuộc sống của người dân và tình cảm của họ đối với triều đình và đối với người Pháp đang thống trị tổ quốc mình như thế nào. Càng ngày vua càng tỏ ra ghét Pháp, vì được nghe người dân phản ảnh về những hành vi thô bạo, tàn nhẫn của thực dân Pháp. Từ đó, ông rất ghét Pháp và một số quan lại theo Pháp. Ông âm thầm tìm cách chống đối, làm cho Tòa Khâm Sứ điên đầu.
                Đến năm 1906, mâu thuẫn giữa vua Thành Thái và hội đồng Cơ Mật cùng với Tòa Khâm Sứ Pháp ngày càng căng thẳng. Viên Khâm Sứ Trung kỳ Levécque biết vua có ý chống đối nhưng không có bằng chứng chính đáng để hạ bệ, ngoài việc gán cho vua Thành Thái bị bệnh “điên”, nên họp bàn với Viện Cơ Mật từ từ tước quyền vua Thành Thái.
                Tháng 7/1907, Tòa Khâm Sứ Trung kỳ tước quyền và giam lỏng vua Thành Thái, đồng thời ra thông cáo công bố cho quốc dân biết vua bị điên để lập vua mới là Duy Tân. Một tuần sau, vua Thành Thái bị áo giải vào Sài Gòn, rồi đem quản thúc tại Vũng Tàu.
                Mãi đến năm 1916, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đến hồi quyết liệt, ông bị Pháp đày sang đảo Réunion của châu Phi cùng với người con trai là vua Duy Tân.
                Sau 40 năm sống lưu đày, ông mới được về Việt Nam và bị quản thúc tại Sài Gòn vào tháng 5/1947. Ông mất tháng 3/1954, linh cữu được đưa  về an táng tại Huế, thọ 76 tuổi.

                NÚI NHỎ


                Núi Nhỏ còn được gọi là núi Tao Phùng, nằm ở phía nam trung tâm thành phố Vũng Tàu. Núi có diện tích khoảng 120 ha, cao khoảng 170 mét. Trên núi Nhỏ có tượng chúa Giê-Su đứng giang tay, mặt hướng ra phía biển, trận địa pháo cổ với vài khẩu đại bác có từ thế kỷ 19 và ngọn hải đăng do người Pháp xây dựng.
                Có hai đường để lên núi Nhỏ, một đường ở phía bắc nối với đường Hạ Long ở gần cầu Đá và một đường ở phía nam có 793 bậc tam cấp lên tượng chúa Kitô. Theo đường Hạ Long vòng quanh núi Nhỏ dài khoảng sáu km, có nhiều điểm du lịch đẹp như bãi Ô Quắn, bãi Trước, bãi Nghinh Phong, bãi Sau, Niết Bàn tịnh xá, hòn Bà….
                Truyền thuyết kể rằng: “Thưở xưa, con gái vua Thủy Tề hoá cá vàng đi  dạo chơi. Không may, cá vàng sa vào lưới của anh chàng ngư phủ.Thấy cá đẹp, anh mang lên núi Nhỏ và khoét đá thành một vũng nước nuôi cá.
                Một hôm đi biển về, anh không thấy cá vàng đâu cả, mà chỉ nghe tiếng chim hót vang trời, núi đầy hoa trái. Từ xa, một thiếu nữ tuyệt đẹp  xuất hiện và bày tỏ sự tình cùng chàng. Sau đó, hai người trở thành vợ chồng và sống với nhau rất hạnh phúc.
                Một ngày nọ, thấy có người mang hộp ngọc vào nhà, nàng hoảng sợ nhưng không thể tránh khỏi. Người đó biến hóa nàng thành cá vàng và thu vào hộp ngọc mang về biển. Hằng năm, cá vàng được lên bờ gặp chồng một lần tại núi Nhỏ. Tên núi Tao Phùng có từ đó.
                Núi Nhỏ và núi Lớn là bức bình phong thiên nhiên che chắn cho thành phố Vũng Tàu và cửa biển Cần Giờ, là tượng đài kiên cố đứng báo cho tàu thuyền xuôi ngược qua bao đời nay.

                TƯỢNG ĐÀI CHÚA GIÊSU


                Tượng chúa Giê-Su tọa lạc trên núi Nhỏ (núi Tao Phùng), được xây dựng vào năm 1970, ở độ cao 136 mét. Phần tượng cao 31 mét, được xây trên bệ cao 10 mét. Hai cánh tay dang rộng 18,4 mét. Mặt hướng ra phía biển.
                Trong lòng tượng có 133 bậc thang xoáy trôn ốc lên đến phần vai của tượng. Hai cánh tay được thiết dang rộng như hai ban công, có thể chứa từ 10 – 15 người đứng ngắm cảnh Vũng tàu.

                +Giữa đoạn đường từ bến tàu cao tốc đi thành phố Hồ Chí Minh và đường Trương Công Định, thuộc khu vực bãi Trước và bãi Dứa có con đường lên núi Nhỏ để tham quan Hải đăng Vũng Tàu khoảng ba km. Đường nhựa tốt, thích hợp cho các loại xe gắn máy và xe du lịch trên dưới 15 chỗ.

                HẢI ĐĂNG VŨNG TÀU


                Ngọn Hải đăng ở Vũng Tàu được xây dựng sớm nhất nước, năm 1907. Ngọn Hải đăng này được xây ở mỏm cực nam của núi Nhỏ, trên độc cao 149 mét. Năm 1910, Hải đăng Vũng Tàu được chuyển lên vị trí hiện nay, được xây dựng thành tháp tròn có đường kính ba mét, cao 18 mét, ở độ cao 175 mét trên đỉnh núi Nhỏ. Đến năm 1988, Hải đăng Vũng Tàu được trùng tu, sữa chữa lớn.
                Từ năm 1910 đến năm 1984, Hải đăng Vũng Tàu hoạt động bằng đèn dầu. Từ năm 1984 đến nay, Hải đăng này được sử dụng đèn điện có lăng kínhvà thấu kính hội tụ, có thể rọi xa 35 hải lý (1 hải lý = 1.852 mét), có kính viễn vọng để theo dõi và hướng dẫn tàu thuyền trên biển. Tàu thuyền đi trên vùng biển Vũng Tàu cách xa 63 km có thể nhìn thấy Hải đăng này.
                Từ trên tháp Hải đăng, có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Vũng Tàu và các vùng lân cận như Cần Giờ, Bà Rịa…. Vì thế, Hải đăng Vũng Tàu là một điểm tham quan lý tưởng cho nhiều du khách.

                ĐÌNH THẦN THẮNG TAM


                Đình Thần Thắng Tam nằm trong khu di tích kiến trúc gồm ba công trình như đình Thần Thắng Tam, miếu Bà và lăng Cá Ông, tọa lạc trên đường Hoàng Hoa Thám, thuộc thành phố Vũng Tàu. Quần thể kiến trúc này gắn bó với nhau, mang sắc thái riêng của người dân xứ biển làng Thắng Tam.
                Đình Thần Thắng Tam được xây dựng vào khoảng năm 1840, để thờ ba ông: Phạm Văn Dinh, Ngô Văn Huyền và Lê Văn Lộc, là những người có công khai phá vùng đất này và lập nên làng Tam Thắng. Ban đầu, ngôi đình là một nhà trang vách lá và đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Ngôi đình có kiến trúc theo lối kết nối như hiện nay là do đợt trùng tu năm 1965 gồm có cổng tam quan và bốn ngôi nhà nối liền nhau như nhà Tiền Hiền, hội trường, đình Trung và võ ca.
                Nhà Tiền Hiền được lợp ngói âm dương. Đầu các đòn tay và đầu cột đều được chạm hình rồng. Trên mái có Lưỡng long chầu nguyệt đắp nổi. Bên trong có bốn bàn thờ: Thổ Công, Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tiền Vãng và Hậu Vãng.
                Đình Trung có 10 bàn thờ: Thần Nông, Ngũ Đức, Thánh Phi, Thiên Y-A-Na, Cao Các, Tiên Sư, Tiền Hiền, Hậu Hiền…. Võ ca là sân khấu diễn tuồng, hát bội khi đình tổ chức lễ hội.
                Đình Thần Thắng Tam mang nét văn hóa độc đáo đặc trưng của người dân miền duyên hải, những nét riêng trong việc thờ cúng và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nhưng vẫn có những nét đặc điểm chung của đình làng Việt Nam. Hiện nay, ngôi đình còn lưu giữ được 12 đạo sắc phong của nhà Nguyễn dành cho các vị thần đang được thờ tại đình.
                Ngoài những giá trị mang ý nghĩa văn hóa, lịch sử, đình Thần Thắng Tam còn duy trì những lễ hội in đậm văn hóa dân gian và bản sắc dân tộc được tổ chức vào những ngày từ 17 – 20/02 âm lịch hằng năm. Đây là lễ hội cầu an, mở đầu cho mùa đi biển và làm ăn của người dân trong năm mới. Trong phần lễ gồm có các nghi thức như cúng tế, lễ vật tế thần, dâng hương…. Sau đó là phần hội, có nhiều chương trình giải trí như múa lân, hát bội… bên cạnh là các trò vui chơi giúp bà con giải tỏa những căng thẳng, mệt nhọc sau những tháng ngày lao động vất vả.
                Hiện nay, đình Thần Thắng Tam là một điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với những du khách quan tâm đến lịch sử, văn hóa. Hằng năm, ngôi đình này thu hút rất đông khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu về những nét văn hóa độc đáo của Việt Nam.

                MIẾU BÀ
                Miếu Bà còn được gọi là miếu Ngũ Hành, tọa lạc bên phải đình Thần Thắng Tam, trên đường Hoàng Hoa Thám, thuộc thành phố Vũng Tàu. Ban đầu, miếu Bà chỉ là một ngôi nhà tranh vách lá, do người dân làng Thắng Tam xây dựng vào cuối thế kỷ 19.
                Miếu Bà được xây dựng theo lối kiến trúc một gian hai chái. Trên mái có Lưỡng long chầu nguyệt. Bên trong miếu có tám bàn thờ. Hiện nay, miếu Bà thờ Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và hai vị nữ thần hộ quốc được vua phong Thượng đẳng thần là bà Thiên Y-A-Na và Thủy Long thần nữ.
                Hằng năm, miếu Bà được tổ chức lễ hội vào các ngày 16, 17, 18/10 âm lịch. Ngoài việc cúng tế thần linh, phần hội có các chương trình giải trí như hát bội, múa lân, kết hợp với các trò chơi dân gian, góp phần cho lễ hội thêm phong phú. Vào hội chính, có nhiều khách khắp nơi hành hương về đây phụng cúng, tham quan rất nhộn nhịp.

                LĂNG CÁ ÔNG
                Lăng Cá Ông ở phía bên trái đình Thần Thắng Tam, trên đường Hoàng Hoa Thám, thành phố Vũng Tàu. Lăng được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 19, cùng khoản thời gian xây dựng miếu Bà.
                Lăng thờ xương đầu Cá Ông khổng lồ trôi dạt vào bãi biển Tầm Dương, được ngư dân Vũng Tàu phát hiện và đem về thờ cách đây hơn 100 năm. Và một bộ xương Cá Ông dài 12 mét, chiều ngang 150 cm phát hiện sau xương đầu khoảng 40 năm. Năm 1846, vua Thiệu Trị ban sắc phong cho lăng Cá Ông là “Nam Hải Đại Tướng Quân”.
                Lăng Cá Ông cùng với đình Thần Thắng Tam và miếu Bà là một quần thể kiến trúc mang đậm nét văn hoá, lịch sử của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thu hút rất đông du khách đến tham quan và nghiên cứu.

                LINH SƠN CỔ TỰ



                Ngôi cổ tự này tọa lạc trong một khuôn viên có diện tích hơn một ha, trên đường Hoàng Hoa Thám, thành phố Vũng Tàu, chỉ cách bãi Trước một con đường. Kiến trúc của ngôi chùa không đồ sộ, mang nét kiến trúc giao thời giữa phương Đông và phương Tây, nhưng là ngôi chùa cổ nhất ở Vũng Tàu. Bởi vì tiền thân của chùa Linh Sơn hiện nay là một ngôi chùa được xây dựng trên triền dốc núi Nhỏ vào năm 1860. Sau đó, khu vực này bị người Pháp chiếm dụng để xây dựng biệt thự cho hoa tiêu Pháp, nên ngôi đạo tràng được dời về vị trí hiện nay vào năm 1921. Ban đầu, ngôi chùa được làm tạm bợ bằng tre, vách lá trên một khuôn viên đất do các Phật tử dâng cúng.
                Hiện nay, chùa cổ Linh Sơn có các công trình hạng mục như chánh điện, hậu tổ, nhà khách, trụ sở của Ban Tương tế, điện Thiên vương và tháp thờ Quán Thế Âm Bồ Tát. Sân sau của chánh điện có trồng cây bồ đề từ năm 1975, gốc tỏa nhiều nhánh tạo bóng mát và tạo cảnh quan cho ngôi chùa thêm vẻ thâm nghiêm.
                Nơi chánh điện của Linh Sơn cổ tự thờ một pho tượng Phật cổ được làm bằng đá xanh có thếp vàng, chạm khắc rất khéo léo, tinh xảo và sống động. Chiều cao của tượng 120cm, chiều ngang được tính tại vị trí hai đầu gối ngồi thế thiền định bán già là 100 cm. Pho tượng nặng khoảng từ 600 – 800 kg, mười hai người đàn ông nhấc lên không nổi.
                Truyền thuyết kể lại: “Cách đây hơn 100 năm, có đoàn ghe thuyền chài lưới từ miền Trung vào đánh bắt cá ở bãi Trước của Vũng Tàu. Một hôm, họ lên bờ kiếm củi và nấu cơm ở khu vực núi Lớn, gần khu vực sân vận động Lam Sơn hiện nay. Khi kê hai hòn đá tháp vào một hòn đá có cố định sẵn để làm bếp nấu, họ phát hiện hòn đá cố định kia có điều gì lạ. Sau đó, họ quyết định đào hòn đá ấy lên và phát hiện đó chính là pho tượng Phật Thích Ca được làm bằng đá bị vùi dưới đất. Nhưng không phải chỉ có một tượng Phật mà là hai, một tượng lớn và một nhỏ hơn. Sau khi đào lên, họ chờ đến hôm sau mang về, nhưng dân địa phương biết tin liền kéo đến xem và quyết giữ lại, vì cho rằng đây là tài sản di tích lịch sử của địa phương. Nhóm ngư dân miền Trung năn nỉ mãi và cuối cùng, họ thỏa thuận để pho tượng Phật lớn lại cho dân địa phương và mang pho tượng nhỏ đi”.
                Pho tượng lớn được người dân Vũng Tàu rước về thờ chính là pho tượng hiện nay ở Linh Sơn cổ tự, còn pho tượng Phật nhỏ hơn được ngư dân thỉnh về miền Trung và thờ tại chùa Đức Phổ, Quảng Ngãi. Về sau, trong một cơn hỏa hoạn xảy ra tại chùa, tượng Phật nhỏ đã bị hư hỏng.
                Theo lời của vị sư trụ trì chùa Linh Sơn hiện nay, vào khoảng năm 1990, có một phụ nữ người Pháp đến đây đặt vấn đề để được mua pho tượng Phật cổ này với bất cứ giá nào. Qua lời của người thông dịch, bà cho biết sau khi tiếp nhận được thông tin trên một tờ báo của Liên Xô cũ đưa tin: “Hiện nay, tại miền Nam Việt Nam còn lưu giữ một pho tượng Phật cổ có giá trị đã trên một ngàn năm”, bà quyết định bay sang Việt Nam tức tốc để truy tầm với hy vọng sẽ mua được pho tượng này. Nhưng vị sư trụ trì ngày đó quyết từ chối thẳng thừng, vì đây là tài sản văn hóa vô giá của quốc gia, có giá trị đến muôn đời sau của dân tộc Việt.
                Ngoài ra, nơi chánh điện của ngôi Linh Sơn cổ tự còn thờ một tượng Phật Di Lặc được đúc bằng đồng đỏ, có nguồn gốc từ miền Nam nước Lào, được thỉnh về từ năm 1972. Tượng Phật này có chiều cao khoảng 60 cm, chiều ngang hơn 40 cm, nặng hơn 30 kg, được đặt tại bàn thờ chính cùng với tượng cổ Phật Thích Ca để Phật tử và ddu khách chiêm bái và chiêm ngưỡng.
                Ngày 26/8/1991, Linh Sơn cổ tự của thành phố biển Vũng Tàu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích văn hóa – lịch sử của quốc gia.

                BÃI DỨA


                Bãi Dứa nằm gần bãi Nghinh Phong và bãi Trước dưới chân núi Nhỏ. Do trước đây ở khu vực này có nhiều cây dứa gai mọc ven bờ đá của bãi biển nên được gọi là bãi Dứa. Bãi tắm này tuy nhỏ, nhưng ít sóng và an toàn.

                BÃI NGHINH PHONG


                Bãi Nghinh Phong có nghĩa là đón gió, còn có tên là bãi Ô Quắn, gần bãi Dứa, ở phía cực nam của thành phố biển Vũng Tàu. Đây là bãi tắm sạch và đẹp nhưng hẹp, có nhiều du khách có thú vui câu cá và thích mạo hiểm tập trung.
                Ở vị trí của bãi biển này luôn có sóng gió dồn dập, có ba phía vách đá cheo leo với mũi Nghinh Phong hùng vĩ nhô ra biển.

                HÒN BÀ
                Hòn Bà tọa lạc trên một đảo nhỏ, cách chân núi Tao Phùng khoảng 200 mét. Năm 1881, ông Hồ Quang Minh gốc người miền Trung vào đây lập nghiệp, đã xây dựng ngôi miếu nhỏ nơi đây và đặt tên là miếu Bà.
                Có câu chuyện kể lại rằng: “Năm 1939, quân Pháp ra lệnh cho viên sĩ quan Archinard bắn phá miếu. Những phát súng của viên sĩ quan chỉ trúng vào góc miếu. Sau đó, Archinard chết do tai nạn súng, nên người Pháp gọi miếu Bà là Hòn Archinard”.
                Vào giờ thủy triều xuống thấp, du khách có thể men theo một lối đi có đá nhỏ để ra tham quan miếu Bà. Hòn Bà tạo cho cảnh quan dưới chân núi Nhỏ thêm kỳ thú. Nhất là lúc sóng biển đánh tung bọt trắng xóa, trông hòn Bà rất thơ mộng. Vào các ngày mồng một và ngày rằm, người dân thường ra hòn viếng miếu Bà và thắp hương cầu phúc lành.

                BÃI SAU
                Bãi Sau có chiều dài khoảng tám km, chạy dọc theo đường Thùy Vân từ chân núi Nhỏ đến cửa Lấp, thuộc phía đông nam thành phố Vũng Tàu. Đây là một bãi tắm nổi tiếng của Việt Nam, đẹp và rộng, thu hút rất nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. Bãi sau thường có nhiều sóng, thích hợp đối với du khách yêu thích cảm giác mạnh từ biển. Do đó, bãi Sau luôn đông vui, náo nhiệt hơn so với các bãi biển khác ở thành phố biển Vũng Tàu.
                Khu vực bãi Sau có rất nhiều dịch vụ từ bình dân đến cao cấp tập trung để phục vụ du khách như nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, quán giải khát, dịch vụ hàng lưu niệm, dịch vụ bãi tắm cho đến các loại hình dịch vụ phim ảnh…. Đặc biệt, bãi biển này có đội cứu hộ luôn làm việc với trách nhiệm cao, luôn có mặt trên bãi biển để bảo vệ du khách tắm biển.

                +Trở lại quốc lộ 51 tại km 65 là thị xã Bà Rịa.Vào trung tâm thị xã, tiếp tục theo quốc lộ 55 đi bãi biển Hồ Cốc và suối nước nóng Bình Châu. Hoặc theo đường 44A đi Long Hải. Dọc bên đường 44A, từ ngã ba tại thị xã Bà Rịa đến Long Hải có nhiều ruộng muối. Đây là một trong những nghề truyền thống lâu đời ở đây.

                NGHỀ LÀM MUỐI Ở BÀ RỊA
                Ruộng muối được lập ở vùng đất trũng thấp, có ba bộ phận: đùn, sân và ruộng. Mỗi bộ phận đều có đất bao quanh thành khu vực riêng biệt. Phần ruộng tức là nơi thu hoạch muối được lập rất công phu sau khi chặt bỏ mọi cây cối trên diện tích dự định làm ruộng, người ta phải đào bỏ lớp đất bùn trên mặt ruộng, đào lấy rễ cây lớn nhỏ, đưa đất cứng đến đắp lại nền ruộng và nện cho thật kỹ, thật bằng phẳng để sau này có thể dùng cào để lấy muối. Bờ đất xung quanh càng đắp kỹ hơn để nước bên ngoài không thể thấm hoặc theo lổ mọt chảy vào ruộng làm tan muối. Nước biển được dẫn theo các kênh nhỏ vào “đùn“, tức khu vực bốc hơi lần thứ nhất, sau đó đưa vào sân một, sân hai, sân ba, nồng độ muối mỗi lúc một tăng. Cuối cùng đưa vào ruộng muối. Muối kết tinh ở đáy ruộng được cào lên bờ gom thành đống lớn.
                Tùy theo trời nắng người ta có thể khai thác muối từ 21 ngày đến một tháng. Ở khu vực Bà Rịa người ta thường sản xuất muối vào mùa khô, sản lượng ở đây khoảng 35.000 tấn/năm. Khi đi qua ngang khu vực này chúng ta thấy có nhiều cánh quạt gió, những quạt này được người dân dùng sức gió để bơm nước vào ruộng muối. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có ở Bà Rịa là còn sử dụng kỹ thuật này.
                Ngoài ra, ở các tỉnh miền Trung người ta cũng sản xuất muối vào mùa mưa với kỹ thuật khác. Muối ở Việt Nam tốt nhất ở khu vực Cà Ná, thành phần NaCl cao cho nên được sử dụng vào công nghiệp.

                +Từ thị xã Bà Rịa đi theo đường Cách Mạng Tháng Tám và đường Võ Thị Sáu đến thị trấn Long Điền khoảng năm km, tiếp tục đi qua khỏi cơ quan Ủy ban Nhân dân huyện Long Đất có đường dẫn vào chùa Long Bàn.

                CHÙA LONG BÀN
                Chùa Long Bàn là một ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Bà Rịa, còn được gọi là chùa Làng, tọa lạc ở số 36 đường Lê Hồng Phong, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chùa được hai anh em Hòa thượng Bảo Thanh, là vị sư trụ trì đầu tiên trực tiếp cho xây dựng vào năm 1845, do dân trong làng quyên góp. Cổng chùa được xây vào năm 1963. Tổng diện tích khuôn viên chùa khoảng 3.000 m2, có nhiều cây cổ thụ. Đặc biệt, cây cọ phía sau chánh điện được trồng từ khi xây chùa, cao trên 20 mét.
                Chùa Long Bàn mang nét kiến trúc cổ theo kiểu chữ Tam, có năm gian, gồm nhà giảng có lầu chuông và lầu trống hai bên, chánh điện, hậu tổ, nhà tăng và nhà bếp. Một chuông lớn cao 120 cm, có đường kính 80 cm đúc bằng đồng. Nơi chánh điện thờ đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Quan Thế Âm và nhiều tượng Ngọc Hoàng, Quan Thánh, thập bát La Hán, Long Thần, Hộ Pháp…. Tất cả được làm bằng đất sét, đồng hoặc gỗ mít, có từ khi xây dựng chùa. Tuy nhiên, có tượng Quán Thế Âm mới, được làm bằng thạch cao đặt ở nhà giảng.
                Chùa cổ Long Bàn còn lưu giữ những kiến trúc đặc trưng và kiến trúc nghệ thuật điêu khắc cổ, trang trí mỹ thuật độc đáo. Đặc biệt, bao lam chạm hình chim phụng, hoa lá vá các khám thờ chạm hình rồng phượng. Các hoành phi, câu đối được chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng.
                Chùa cổ Long Bàn đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích Kiến trúc nghệ thuật vào ngày 04/6/1993. Đây một điểm tham quan rất thú vị cho du khách quan tâm đến văn hóa và kiến trúc nghệ thuật của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

                +Cách trung tâm thị trấn Long Hải khoảng hơn hai km gặp ngã ba. Nếu đi thẳng đến thị trấn Long Hải và bãi tắm Long Hải, nếu rẽ phải là xã Phước Tỉnh, nơi có cảng cá lớn nhất Bà Rịa – Vũng Tàu.

                CẢNG CÁ PHƯỚC TỈNH
                Cảng Phước Tỉnh nằm ở cuối một vịnh nhỏ thuộc phía đông bắc của bán đảo Vũng Tàu, rất thuận lợi cho tàu bè cập bến. Từ lâu, cảng cá Phước Tỉnh được xem là cảng cá lớn nhất của Bà Rịa – Vũng Tàu, có tổng sản lượng đánh bắt khoảng 35.000 tấn/năm, có thể cung cấp nguồn hải sản cho thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận.
                Mỗi ngày, tàu thuyền đánh cá ra vào tấp nập với hàng trăm chiếc. Hiện nay, có nhiều tàu được trang bị hiện đại như rađa, máy phát sóng dò tìm đàn cá, hệ thống thông tin liên lạc với đất liền, khoang lạnh. Nhiều tàu có khả năng ra khơi đánh bắt nhiều tháng liền. Từ những năm 1990, thời kỳ kinh tế mở cửa, nghề đánh bắt hải sản ở Phước Tỉnh càng phát triển mạnh so với thời kỳ trước những năm 1975.
                Mặc dù là một đơn vị hành chánh cấp xã thuộc huyện Long Đất, nhưng Phước Tỉnh có phố chợ sầm uất, người dân có nhà cửa khang trang. Bên cạnh nghề đánh bắt cá, địa phương này cũng nổi tiếng về làm nước mắm và sản xuất muối.
                Có dịp đến Phước Tỉnh mới thấy được sự thịnh vượng và giàu có của một vùng đất mới ở xứ biển. Cảng cá Phước Tỉnh được đưa vào tham quan du lịch kết hợp với tuyến tham quan du lịch Long Hải sẽ là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách, tạo nên một loại hình du lịch phong phú của vùng duyên hải.
                +Từ ngã ba Phước Tỉnh, tiếp tục đi khoảng ba km là thị trấn Long Hải. Tiếp tục đi thêm khoảng hai km, bên phải là bãi tắm Long Hải.

                BÃI TẮM LONG HẢI
                Long Hải có nghĩa là Rồng Biển, cách thành phố Vũng Tàu khoảng 30 km về hướng đông. Nơi đây có bãi tắm đẹp với bãi cát vàng chạy dài, cảnh quan thiên nhiên đầy thơ mộng, yên tĩnh, rất thích hợp cho những người yêu biển.
                Một bên là núi có rừng cây xanh tốt. Một bên là đại dương sóng vỗ ầm ào, nhộn nhịp tàu, ghe qua lại. Nơi đây có khu di tích Dinh Cô, du khách đến thăm viếng quanh năm, kết hợp thành một khu du lịch hành hương và tham quan xứ biển tuyệt vời.

                DINH CÔ
                Dinh Cô là một khu đền tráng lệ, trang nghiêm, có kiến trúc truyền thống in đậm màu sắc dân gian, tọa lạc bên sườn một ngọn đồi nhỏ có tên Kỳ Vân bên bờ biển Long Hải, thuộc thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Dinh được xây dựng vào cuối thế kỷ 18, để thờ một người trinh nữ tên Nguyễn Thị Hồng, giàu lòng nhân ái, sống ẩn dật. Bà đã bị nạn trong một lần đi biển.
                Tiền thân của Dinh Cô là một ngôi miếu nhỏ được là bằng lá. Năm 1930, ngư dân Long Hải đã dời miếu thờ lên đồi Kỳ Vân cho đến ngày nay. Năm 1987, Dinh Cô được xây dựng và trùng tu lớn. Theo tục lệ của người dân đi biển nơi đây, vào ngày xuất hành, họ thường đến đây quay  mũi thuuyền vào Dinh Cô để cúng tế trước khi ra biển đánh cá.
                Tương truyền: “Cô Nguyễn Thị Hồng con ông Nguyễn Văn Khương và bà Thạch Thị Hà, quê ở Phan Rang. Năm 16 tuổi, cô theo cha mẹ vào Nam buôn bán. Trên đường về quê, họ neo thuyền tại vùng Mù U để nghỉ ngơi. Thấy cảnh thanh vắng, hữu tình, cô muốn sống ẩn dật nơi đây, nên xin cha được ở lại. Trong một lần đi biển, cô bị lâm nạn và sóng đánh xác cô trôi vào Hòn Hang. Ngư dân Long Hải phát hiện xác cô và đưa đi an táng tại đồi Cô Sơn và lập miếu thờ cô bên bãi biển.
                Người ta thường thấy bóng dáng cô xuất hiện thấp thoáng trên biển trong những đêm cô tịch. Trong thời gian đó, làng có dịch bệnh và người dân lập đàn cầu khẩn. Cô mộng báo điềm lành và giúp dân diệt trừ dịch bệnh. Người dân ghi ơn nên lập miếu cô và phong tặng danh hiệu: “LONG HẢI THẦN NỮ BẢO AN CHÁNH TRỰC NƯƠNG CHI THẦN”.
                Hiện nay, Dinh Cô đã được Bộ Văn Hóa công nhận là di tích Lịch sử – Văn hóa vào tháng 5/1995. Từ khu di tích nhìn ra biển về phía trái, có một ngọn đồi nhỏ nằm cạnh bãi biển chính là đồi Cô Sơn, nơi có phần mộ của Long Hải thần nữ. Hằng năm, vào ngày lễ hội Dinh Cô được tổ chức vào các ngày 10, 11 và 12/02 âm lịch, với sự tham gia của hàng ngàn du khách và dân địa phương về đây hành hương và tham quan thắng cảnh.
                 
                *Khu vực biển mũi Kỳ Vân: từ Dinh Cô tiếp tục đi sẽ gặp một đoạn đường đẹp lý tưởng. Một bên là núi Minh Đạm, một bên là biển với nhiều tảng đá nổi trên khu vực bờ biển Kỳ Vân, tạo nên một phong cảnh đẹp tuyệt vời. Ve đẹp của bãi biển nơi này được so sánh với bãi biển Cà Ná của tỉnh Ninh Thuận, và được mệnh danh là bãi biển Cà Ná thứ hai của Việt Nam. Vừa qua mũi Kỳ Vân lại thêm một cảnh quan rất hữu tình, hai bên đường có rất nhiều hoa anh đào. Đẹp nhất là vào mùa xuân, hoa anh đào nở rộ tạo cho cảnh vật thiên nhiên nơi đây có một vẻ đẹp huy hoàng, rực rỡ. Khu căn cứ cách mạng Minh Đạm, thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Huyện Đất Đỏ và Long Điền được tách ra từ huyện Long Đất.
                 
                KHU CĂN CỨ CÁCH MẠNG NÚI MINH ĐẠM
                Núi Minh Đạm nằm cạnh quốc lộ và bờ biển Phước Hải, ở phía đông nam huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trước đây núi có tên Châu Long – Châu Viên, có chiều dài khoảng tám km, nơi có đỉnh cao nhất là 355 mét, ba mặt giáp biển.
                Năm 1948, dãy núi này được đổi tên Minh Đạm, để tưởng niệm hai chiến sĩ cách mạng Bí thư và Phó bí thư huyện Long Điền đã hy sinh khi bị phục kích dưới chân núi là Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Trong dãy núi có nhiều hang động và suối nước ngọt, rừng rậm phủ đầy sườn núi, nên Tỉnh ủy và nhân dân Bà Rịa – Long Khánh đã lợi dụng địa bàn hiểm trở này để thành lập khu căn cứ kháng chiến qua hai thời chống Pháp và chống Mỹ, lấy tên chiến khu Minh Đạm.
                Khu căn cứ Minh Đạm là nơi đóng quân của các cơ quan, đơn vị trọng yếu của huyện Long Điền xưa, có bốn khu vực chính như khu Đá Chẻ, khu chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Giăng. Khu căn cứ ở lưng chừng núi, có hang là nơi làm việc của bí thư Huyện ủy, hang chứa quân trang quân dụng, hang chứa vũ khí, hang dùng làm phòng họp….
                Ngày 18/01/1993, Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận chiến khu Minh Đạm là di tích Lịch sử – Văn hóa của quốc gia. Hiện nay, khu vực Đá Chẻ đang được phát triển thành một điểm tham quan, du lịch.

                +Từ khu vực núi Minh Đạm, mũi Kỳ Vân đi tiếp tục khoảng một km có bãi tắm đẹp được xây dựng năm 1995. Tại khu vực bãi tắm này có khách sạn và các dịch vụ vui chơi trên biển…. Từ đây, đi tiếp khoảng 13 km đến khu đài tưởng niệm anh hùng Võ Thị Sáu.
                 
                ĐÀI TƯỞNG NIỆM CHỊ VÕ THỊ SÁU
                Nhà lưu niệm anh hùng Võ Thị Sáu thuộc xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu. Kiến trúc ngôi nhà có kết cấu bằng gỗ, lợp ngói âm dương, trên diện tích rộng khoảng 30m2. Nơi kỷ niệm chị Sáu đã sống những ngày thơ ấu và những ngày đầu tham gia cách mạng.
                Cách nhà lưu niệm khoảng 50 mét có khu công viên tượng đài và nhà trưng bày anh hùng Võ Thị Sáu. Trong khu công viên với diện tích gần một ha, có nhiều cây dương cao vút tạo nên khung cảnh trang nghiêm, xung quanh có nhiều hoa tỏa hương thơm ngát bốn mùa như hoa sứ, Lê-ki-ma, ngọc lan…. Tượng đài nữ anh hùng Võ Thị Sáu trong tư thế đứng hiên ngang ở giữa, được đúc bằng đồng đặt trên bệ đá hoa cương, cao bảy mét.
                Võ Thị Sáu sinh ra và lớn lên tại vùng Đất Đỏ, Bà Rịa. Chị là người con thứ sáu của ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Dậu. Năm 13 tuổi, chị đã từng vào thăm khu kháng chiến chống Pháp của tỉnh Bà Rịa ở vùng Gò Gà. Năm 14 tuổi, chị Sáu được nhận làm trinh sát của đội công an Xung phong  Đất Đỏ, đến Phước Hải, Phước Lợi để theo dõi tình hình của địch. Ngày 14/7/1948, Tỉnh trưởng Lê Thành Trương tổ chức mít tinh tại Đất Đỏ. Chị Sáu nhận nhiệm vụ ném lựu đạn vào khán đài có lực lượnng công an Xung phong áp sát hỗ trợ giải tán mít tinh thành công.
                Lần khác, Võ Thị Sáu nhận nhiệm vụ ám sát cai tổng Tòng, nhưng đối tượng chỉ bị thương. Vào phiên chợ Tết năm 1950 ở Đất Đỏ, chị Sáu bám theo cả Suốt và cả Đay và tiêu diệt hai tên này, nhưng sau vụ này chị bị bắt giam ở Bà Rịa. Tháng 4/1950, chị Sáu bị chuyển về khám Chí Hòa – Sài Gòn. Ngày 21/01/1952, Pháp đưa chị ra Côn Đảo.
                04 giờ sáng ngày 23/01/1952, chị Sáu bị áp giải ra trường bắn. Trước khi chết, chị vẫn hiên ngang nhìn thẳng vào mặt quân thù hô to: Đả đảo thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chí Minh muôn năm. Hiện nay, mộ của chị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương – Cô Đảo, quanh năm khói hương nghi ngút. Hình ảnh của người con gái ngây thơ mang nặng lòng yêu nước vẫn còn mãi trong lòng nhân dân cả nước.

                SUỐI NƯỚC NÓNG BÌNH CHÂU
                Suối nước nóng Bình Châu thuộc xã Bình Châu, huyện Xuyên Một, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Suối nước nóng là một bàu nước sôi với hơn 70 điểm phun nước lộ thiên, chảy len lỏi qua các gốc cây tràm, tọa lạc trong khu rừng cấm nguyên sinh của quốc gia có diện tích khoảng bảy ha, do người Pháp phát năm 1905, có tên gọi suối khoáng nóng Cù Mi. Suối nước khoáng này được nhiều người biết đến từ những năm 1928, do bác sĩ người Pháp đến đây nghiên cứu và giới thiệu là Mạch Cháy Cù Mi trên tạp chí có uy tín tên “Nghiên Cứu Đông Dương”.
                Khu vựa có nước nóng hoạt động rộng khoảng hơn một km vuông, có nhiều hồ lớn nhỏ hợp thành các dòng chảy với lưu lượng nhỏ. Nhiệt độ từ 350c đến 840c, tuỳ ở mỗi hồ hoặc trên mặt hay đáy hồ. Năm 1976, có nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế đến đây tìm hiểu, phân tích và cho biết có khoảng 24 thành phần hóa học khác nhau trong nước như Fe2O3, NH3, H2S, CO2…. Tuy nhiên, suối nước khoáng này không uống được. Các nhà khoa học cho rằng, suối khoáng nóng Bình Châu là quá trình hậu của núi lửa. Tức là khi núi lửa ngừng phun, các lò “mắc ma” vẫn tiếp tục đưa hơi nóng, khí và khoáng chất lên trên mặt đất tạo thành một dòng suối nóng.
                Suối nước khoáng Bình Châu có hồ rộng nhất khoảng 100 m2,  độ sâu hơn một mét, nước nóng nhất và lúc nào cũng sủi tăm, bốc hơi như một nồi xông hơi thiên nhiên khổng lồ. Nhiệt độ trên mặt nước khoảng 640c và dưới đáy hồ khoảng 840c. Những nơi có nước nóng trên dưới 400c có thể tắm, ngâm chân tay để chữa bệnh. Điều thú vị là trong khu vực nước nóng này, rừng tràm và các loại cây cỏ khác vẫn phát triển xanh tươi, tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn, kỳ lạ của thiên nhiên.
                Hiện nay, khu du lịch suối khoáng nóng Bình Châu là nơi nghỉ dưỡng chữa bệnh có giá trị. Trong hệ thống khu rừng nguyên sinh này còn có nhiều khu vui chơi giải trí, nhà và khách sạn phục vụ khách lưu trú. Mỗi năm, khu du lịch này đón rất nhiều du khách yêu thiên nhiên kết hợp với nghỉ ngơi và chữa bệnh đến đây qua các loại hình du lịch như: tắm nước nóng có hồ ngâm chân và hồ tắm nước nóng, săn bắn, dã ngoại….

                CÔN ĐẢO
                Côn Đảo là một quần đảo nằm ở vùng đông nam nước ta, cách Vũng Tàu 97 hải lý (1 hải lý = 1.852 mét), cách cửa sông Hậu 45 hải lý, gồm 16 hòn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích 76 km2. Quần đảo này mang tên hòn đảo lớn nhất có diện tích 51,52 km2 là Côn Lôn, tức Côn Đảo ngày nay. Côn Lôn có thị trấn Côn Đảo nằm trên thung lũng hình bán nguyệt, là nơi tập trung toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của cả quần đảo.
                Nhìn trên bản đồ, quần đảo Côn Đảo giống như một con gấu khổng lồ đang vươn mình giữa biển khơi. Côn Đảo có cùng kinh độ 106036 kinh đông với thành phố Hồ Chí Minh và có cùng vĩ độ 8040 vĩ bắc với tỉnh Cà Mau. Như vậy, có thể nói quần đảo Côn Đảo ở ngay góc vuông của vị trí hai đường kinh độ và vĩ độ này giao nhau.
                Hòn đảo Côn Lôn lớn nhất, còn có 15 hòn đảo khác bao quanh như: hòn Côn Lôn Nhỏ còn được gọi là Hòn Bà, hòn Bảy Cạnh còn được gọi là Phú Cường, hòn Cau còn gọi Phú Lệ, hòn Bông Lan còn gọi là Phú Phong, hòn Vung còn gọi Phú Vinh, hòn Trọc còn gọi Phú Nghĩa, hòn Trứng còn gọi Phú Thọ, hòn Tài Lớn còn gọi Phú Bình, hòn Tài Nhỏ còn gọi Phú An, hòn Trác Lớn còn gọi Phú Hưng, hòn Trác Nhỏ còn gọi Phú Thịnh, hòn Tre Lớn còn gọi Phú Hòa, hòn Tre Nhỏ còn gọi Phú Hội, hòn Anh và hòn Em còn gọi là hòn Trứng Lớn và hòn Trứng Nhỏ nằm cách Côn Lôn về phía tây khoảng 25 hải lý.
                Trước khi Pháp đánh chiếm, Côn Đảo là nơi sinh sống của người Việt và người Khmer di cư từ đồng bằng sông Cửu Long đến. Họ trốn chạy khỏi ách áp bức, bóc lột tàn nhẫn của địa chủ thời kỳ phong kiến. Vào lúc 10 giờ sáng ngày 28/11/1861, đại diện của thực dân Pháp là Hải quân Trung úy Lespès hoàn tất việc đánh chiếm đảo với một bản tuyên cáo mang tính chất xâm lược. Sau đó, họ xây dựng một khu nhà tù để giam giữ những người yêu nước và các chiến sĩ cách mạng, biến vùng đất núi non hùng vĩ, bãi biển trong lành của Côn Đảo thành “Địa ngục trần gian”. Qua hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Côn Đảo đã chứng kiến lòng kiên cường bất khuất, khí phách anh hùng của những người cách mạng Việt Nam. Cho đến hôm nay, đã có hơn 22.000 người con ưu tú của quê hương gởi máu xương mình trong lòng đất nơi vùng đảo biệt lập với đất liền này. Họ đã ngã xuống để bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước.
                Từ năm 1862 đến năm 1975, hệ thống nhà tù Côn Đảo gồm có hai thời kỳ xây dựng. Các khu trại giam xây dựng thời Pháp gồm trại Phú Hải, trại Phú Sơn, trại Phú Tường, khu Chuồng Cọp, trại Phú Thọ….Các khu trại giam thời Mỹ gồm có trại Phú Phong, trại Phú An, trại Phú Bình, khu biệt lập Chuồng Bò, trại 9…. Ngoài ra, còn có khu nhà chúa đảo là nơi làm việc của 53 tên chúa đảo, gồm 39 tên người Pháp và 14 tên người Việt và nghĩa trang Hàng Dương là nơi chôn cất khoảng 20.000 người qua hơn 113 năm tồn tại của nhà tù Côn Đảo. Tuy nhiên, có những di tích lịch sử đã được khắc sâu vào tâm trí người dân Việt Nam như chuồng cọp, hầm xay lúa, cầu Ma Thiên Lãnh, cầu tàu 914, nghĩa trang Hàng Dương….
                Côn Đảo được xem như một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp với nhiều cảnh quan và gần 20 bãi tắm sạch, đẹp và hoang sơ, nước trong xanh, không khí trong lành. Đẹp nhất là bãi Đầm Trầu, bãi Hàng Dương và bãi Phi Yến…. Bên cạnh đó, còn có những khu rừng nguyên sinh bạt ngàn, núi non hùng vĩ. Kinh tế đất nước phát triển, Côn Đảo cũng tấp nập tàu thuyền ra vào, những kho chứa hàng, kho xăng dầu, bến cầu tàu… đều hiện đại.
                Từ lâu, quần đảo Côn Lôn đã từng được mệnh danh là “thiên đường du ngoạn ở phương Đông” đối với người phương Tây. Lịch sử hàng hải thế giới đã từng ghi nhận: năm 1284, nhà thám hiểm người Y lừng danh, tên Marco Polo đã ghé lại quần đảo xa xôi trên biển Đông để tránh bão trong chuyến khám phá châu Á. Năm 1895, nhà soạn nhạc người Pháp nổi tiếng, tên Camille Saint Saens đã hoàn thành ba chương cuối của vở nhạc kịch bất hữu Brunenhilda tại vùng đảo hoang sơ này. Ngày nay, Côn Đảo đang được quan tâm phát triển du lịch để làm thỏa lòng bao du khách gần xa. Hiện nay, đã có nhiều khách sạn vừa và nhỏ, khu nghỉ mát được xây dựng với tiện nghi đầy đủ để phục vụ khách du lịch. Phương tiện đi lại Côn Đảo có thể bằng máy bay hoặc tàu thủy. Từ tháng ba đến tháng sáu là mùa biển êm, rất lý tưởng đối với khách du  lịch đến Côn Đảo.

                AN SƠN MIẾU
                An Sơn miếu là một ngôi miếu cổ trên đảo Côn Sơn, do dân trên đạo xây dựng năm 1785 và xây dựng lại vào năm 1958, để thờ bà Phi Yến. Bà là một người phụ nữ tài sắc, giàu lòng yêu nước đã dám can đảm ngăn chồng cầu viện ngoại bang “cõng rắn cắn gà nhà”.
                Tương truyền rằng: “Cuối thu năm 1783, Nguyễn Ánh bôn ra Côn Sơn để tránh sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Ông mang theo vợ con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra đảo. Cùng với những người dân chài đang sinh sống tại đây, ông thành lập ba làng là An Hải, An Hội và Cỏ Ống.
                Vì thất bại liên tục, Nguyễn Ánh có ý định gởi con là hoàng tử Hội An vừa được bốn tuổi tháp tùng cùng linh mục người Pháp là Bá Đa Lộc, sang Pháp làm con tin để cầu viện. Bà Phi Yến là vợ thứ của ông đã cương quyết can ngăn. Nguyễn Ánh không nghe lời khuyên, còn nghĩ bà Phi Yến có ẩn ý thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Trước cảnh gươm đao trong cơn tức giận của chồng, bà vẫn giữ lập trường không để chồng con làm cái việc muôn đời sau chê trách. Nhờ quân thần can xin, bà Phi Yến đã thoát khỏi tội chém đầu, nhưng Nguyễn Ánh đã cho tống giam bà vào một động đá trên hòn đảo Côn Lôn hoang vắng.
                Khi quân Tây Sơn tấn công ra đảo, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng chạy ra đảo Phú Quốc. Hoàng tử Hội An khóc đòi mẹ, kêu gào thảm thiết. Trong cơn tức giận, Nguyễn Ánh đã nhẫn tâm ném con xuống biển. Con hắc hổ được hoàng tử Hội An mang theo trong cuộc chạy loạn rất mến Hoàng tử, nửa bước không rời. Khi thấy hoàng tử Hội An lao đầu xuống nước, con hắc hổ vội vàng phóng theo. Nhưng con hổ đen kia đã bơi được vào bãi cạn, còn Hoàng tử chết đuối giữa biển.
                Xác Hoàng tử trôi vào bãi biển Cỏ Ống và được dân làng chôn cất. Con hắc hổ vẫn trung thành với chủ, ngày đêm nằm bên nấm mồ của Hoàng tử. Dân làng cảm động trước tình cảm của một con vật đối với chủ, nên lập miếu thờ Hoàng tử. Miếu đó ngày nay được gọi là miếu Cậu.
                Theo truyền thuyết bà Phi Yến được con hắc hổ và con vượn cứu ra khỏi hang và dẫn bà đến trước nấm mồ của Hoàng tử. Dân làng Cỏ Ống biết tin, họ kéo đến rất đông và kể cho bà nghe về cái chết của hoàng tử Hội An.
                Đau lòng trước cảnh bi thương của bà Phi Yến, dân làng cùng nhau dựng lên một căn nhà bên cạnh mồ của Hoàng tử, để bà sớm hôm trông nom mộ phần của đứa con vô phúc. Xưa bà Phi Yến có tên riêng là Nguyễn Thị Răm và hoàng tử Hội An là hoàng tử Cải, người dân thương cảm cho tình cảnh bi đát của hai mẹ con, nên sáng tác ra câu hát lịch sử:
                “Gió đưa cây cải về trời,
                Rau răm ở lại chịu đời đắng cay”.
                Trong thời gian sống tại làng Cỏ Ống, bà Phi Yến có sáng tác nên  bài thơ còn truyền miệng cho đến ngày nay:
                 
                “Đốt nén hương thề tạ chúa công,
                Can vua nên nỗi tội thông đồng.
                Ngai vàng một thưở ngồi chưa vững,
                Bia đá nghìn năm vết vẫn còn.
                Máu chảy ruột mềm đau phận thiếp,
                Nồi da xáo thịt thỏa tình ông.
                Sông sầu, núi thảm, hoa mờ lệ,
                Đã khóc cho con, lại khóc chồng”.
                Về sau, bà Phi Yến bị tên đồ tể của làng An Hải là biện thi xúc phạm, bà đã tự tử để thủ tiết với chồng. Bà đã được người dân Cỏ Ống mai táng và lập miếu thờ, có cúng bái hàng năm. Riêng tên Biện Thi bị giao nộp cho giới chức và dân làng Cỏ Ống hành quyết”.
                Ngôi miếu này rất linh thiêng đối với người dân trên đảo. Họ truyền rằng bà Phi Yến và hoàng Hội An đã hiển thánh báo cho dân chúng biết điềm lành hay dữ sắp xảy ra. Bà đã nêu cao tấm gương ái quốc, giữ vững lòng cương trực dù phải chịu tang thương.

                Nguồn: nxb Trẻ

                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2009 13:12:21 bởi lyenson >
                #8
                  lyenson 01.06.2009 17:49:29 (permalink)
                  LONG AN
                   
                  Tác giả: Trần Huy Hùng Cường

                  Long An là một tỉnh nông nghiệp đất đai màu mỡ trải ra trên hai triền sông của hai con sông lớn là Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây nên Long An được xem thuộc đồng bằng sông Vàm Cỏ, giữa hệ thống sông Cửu Long và sông Đồng Nai và là cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình Long An có một mạng lưới sông, ngòi, kênh rạch chằng chịt nối liền nhau, chia cắt địa bàn tỉnh thành nhiều vùng. Ở phía bắc của tỉnh có một số gò, đồi thấp, còn lại thì bằng phẳng. Phần đất phía tây thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười.

                  Là một trong những tỉnh phía Nam có chung đường biên giới với nước bạn CamPuchia, Long An còn giáp với miền Đông Nam bộ ở phía bắc là Tây Ninh. Phía đông của tỉnh giáp với thành phố Hồ Chí Minh. Phía nam giáp với Tiền Giang và phía tây giáp Đồng Tháp. Diện tích khoảng 4.493 km vuông. Dân số khoảng 1.392.300 người*. Long An chủ yếu là người Kinh (Việt) và đồng bào gốc Khmer ở phía tây.

                  Thị xã Tân An là tỉnh lỵ của Long An. Tân An có nghĩa là vùng đất mới yên lành. Ngày xưa, khi bị quân Tây Sơn tấn công, Nguyễn Ánh trên đường tẩu thoát đã cầu viện quân Xiêm (Thái Lan) đưa sang 10 vạn quân đóng ở Xoài Mút. Thua trận này, Nguyễn Ánh đã nhờ cha Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp để cầu viện. Sau đó, ông tìm đến vùng đất này trú ẩn an toàn. Thấy nơi này yên lành nên khi lên ngôi vua, ông đã đặt tên là Tân An.

                  Long An có một nền văn hóa đã hình thành và phát triển trên châu thổ sông Cửu Long từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên đó là nền văn hóa Óc Eo của vương quốc Phù Nam, ảnh hưởng từ tinh hoa văn hóa Ấn Độ. Gần 20 di tích tiền sử và gần 100 di tích văn hóa Óc Eo đã được phát hiện với 12.000 hiện vật đã thu thập. Ngoài ra, Long An còn có nhiều di tích lịch sử cách mạng, công trình kiến trúc và danh lam thắng cảnh.

                  Ngoài cây lúa, Long An còn có các loại nông sản và cây ăn trái nổi tiếng như: thơm (khóm), một loại trái khi chín có màu vàng  mọng, chứa nhiều nước, giòn và ngọt. Mía, được trồng rất nhiều ven sông Vàm Cỏ, dùng để ép đường. Gạo Nàng thơm chợ Đào hay còn gọi là gạo Nàng thơm hạt lựu, đặc điểm của hạt gạo có một điểm son ở giữa, nấu thành cơm có mùi thơm lừng nên có giá trị kinh tế lớn.

                  Trong hai cuộc kháng chiến chống pháp và Mỹ, người dân Long An chịu lắm đau thương, mất mát về người và vật chất. Từ tinh thần yêu nước, yêu quê hương giống nòi, người dân Long An đã đứng lên kháng chiến, giành lại độc lập. Long An xứng đáng được Nhà nước tuyên dương và tặng cho tám chữ vàng: “TRUNG DŨNG KIÊN CƯỜNG – TOÀN DÂN ĐÁNH GIẶC”.

                  +km 1927: khu vực bán rượu đế Gò Đen.


                  RƯỢU ĐẾ GÒ ĐEN



                  Một loại rượu được bày bán rất nhiều dọc hai bên đường, quốc lộ 1A, thuộc khu vực chợ Gò Đen, địa phận huyện Bến Lức. Sản phẩm này được xem như một thứ đặc sản của miền Tây, có hương vị thơm đậm đà.
                  Rượu Gò Đen chính hiệu phải được nấu bằng chính loại nếp trồng tại địa phương như nếp mỡ, nếp mù u, nếp hương, nếp thổ địa, nếp than đen tuyền…. Chọn nếp ngon, nấu thành cơm nếp, để nguội rồi rắc men vào để ủ. Các loại men thường dùng như men mài rễ thảo mộc, hoặc men bí truyền được chế từ các vị thuốc bắc như quế khâu, quế chi, trần bì, đinh hương, đại hồi, nhãn lồng và trầu hương…. Cơm nếp trộn men ủ được ba đêm, tiếp tục rưới nước vào và ủ thêm ba đêm nữa trước khi đêm nấu.
                  Rượu được nấu qua phương pháp thủ công gia đình. Sao đó đem chưng cất sẽ cho ra một loại rượu có màu  trắng trong, hoặc trắng đục có nồng độ trên dưới 40. Ngoài ra, còn loại rượu có màu nho chín, do náu bằng loại nếp thang. Các “đệ tử lưu linh” thường gọi rượu đế là “nước mắt quê hương”.
                  Cách nấu rượu truyền thống mất thời gian ủ men và nếp khoảng một tuần, đem nấu lửa đượm mới chắt lọc được cái tinh túy nhất của men nồng, nếp thơm để có được mùi vị đặc sắc của rượu Gò Đen.

                  +Trước khi vượt cầu Bến Lức, tại ngã ba cách chân cầu khoảng 200 mét. Rẽ phải theo đường tỉnh 824 về thị trấn Đức Hòa khoảng 25 km, đến cụm di tích Bình Tả. Hoặc từ bùng binh Phú Lâm -  thành phố Hồ Chí Minh, theo đường Bà Hom và đường tỉnh 10 đến khu di tích này khoảng 22 km.


                  CỤM DI TÍCH BÌNH TẢ



                  Cụm di tích khảo cổ kiến trúc nghệ thuật Bình Tả thuộc ấp Bình Tả, xã Đức Hoà Hạ, huyện Đức Hòa. Đây là cụm di tích từ thời tiền sử đến sơ sử thuộc nền văn hóa Óc Eo – vương quốc Phù Nam có niên đại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên.
                  Cụm di tích Bình Tả có ba di tích đã được khai quật: di tích Gò Năm Tước, di tích Gò Xoài và di tích Gò Đồn tọa lạc trên một địa bàn tương đối gần nhau.
                  Ngôi đền Gò Đồn nằm ở độ sâu 1.70 – 1.90 mét có thể xem như là địa điểm hành lễ của dân Phù Nam xưa. Trong bộ sưu tập 26 hiện vật bằng vàng phát hiện ở cụm di tích này có một bản bằng chữ Phạn cổ (chữ Bali) khắc trên một lá vàng mỏng ghi câu kinh Phật giáo. Nhiều hiện vật được khai quật tại đây có giá trị như các tượng thần Siva, tượng Vinu, các linh vật Linga, Yoni. Nhiều mảnh kim loại, gốm, đá quí, sa thạch và rất nhiều di chỉ khác về con người từ thời tiền sử xung quanh ngôi đền, đã được phát hiện trong khoảng bán kính 10 km. Qua các di chỉ này đã chứng minh rằng người Phù Nam lúc bấy giờ rất khéo tay, có kỹ thuật điêu khắc cao. Ngoài ra, những đồng tiền cổ mà các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở vùng văn hóa này cho biết nền kinh tế của họ cũng phát triển và còn có quan hệ thương mại, trao đổi hàng hóa với người nước ngoài. Hiện nay, các hiện vật này đang được trưng bày tại Bảo tàng Long An.
                  Về mặt quân sự, người ta đã tìm được qua lần khai quật ở cụm di tích cổ này tấm thẻ bài bằng vàng được cán mỏng, trên đó cũng khắc chữ Phạn với nội dung là lệnh rút 500.000 quân của một vị vua Phù Nam. Như vậy, điều này chứng minh vương quốc Phù Nam xưa rất hùng mạnh
                  Các kiến trúc được phát hiện tại cụm di tích Bình Tả là các đền thờ thần Siva, vị thần tiêu biểu của đạo Bà La Môn ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Tôn giáo này được truyền bá mạnh vào miền Nam Đông Dương từ đầu Công nguyên. Cụm di tích này nằm trong một tổng thể di chỉ khảo cổ của vùng Đồng Tháp Mười và vùng phù sa cổ Đức Hòa. Di tích Óc Eo – Bình Tả được xây dựng ngoài việc đóng vai trò là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vương quốc Phù Nam – Chân Lạp xưa, nó còn nhằm mục đích quan trọng là phục vụ tôn giáo.

                  +Km 1934: cầu Bến Lức (cũ) dài 530 mét, bắc qua sông Vàm Cỏ Đông. Cầu mới xây dài 549 mét, hoàn thành tháng 8/2003, từ nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản (JBIC).
                  Sông Vàm Cỏ Đông dài trên 20 km. Bắt nguồn từ Campuchia chảy qua Tây Ninh, Long An, gặp sôngVàm Cỏ Tây ở Cần Đước rồi đổ ra cửa Soài Rạp vịnh Gành Rái. Đoạn cuối, lòng sông rộng trên một km.
                  +Km 1947: cầu Tân An

                  CẦU TÂN AN




                  Cầu dài 406 mét. Bắc qua sông Vàm Cỏ Tây. Con sông này cũng bắt nguồn từ Campuchia, gặp sông Vàm Cỏ Đông ở Cần Đước trước khi đổ ra biển.
                  Phía tay trái cầu, vào khoảng 10 km trên sông Vàm Cỏ Tây, gần ngã ba gặp sông Vàm Cỏ Đông là vàm Nhật Tảo. Trên vàm Nhật Tảo này, ngày 10/12/1861, người anh hùng Nguyễn Trung Trực xuất thân làm nghề chài lưới đã chỉ huy đoàn nghĩa quân đốt cháy chiến hạm Lorcha, thuộc đoàn tàu Espérance (Đoàn tàu Hy Vọng), gây chấn động lớn cho thực dân Pháp.
                  Lần đầu tiên người Việt Nam đã đánh chìm tàu Pháp với trang thiết bị hiện đại, làm nức lòng nghĩa quân.

                  NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838 – 1868)


                     

                  Ông tên thật là Nguyễn Văn Lịch. Sinh năm 1838, làng Bình Nhựt, huyện Cửu An, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Bình Đức – Bến Lức – Long An), trong một gia đình làm nghề chài lưới.
                  Năm 1861, ông tham gia lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông đứng đầu nhóm chống Pháp ở Tân An, thường được gọi là Quản Lịch. Dưới sự chỉ huy chung của Trương Định. Cũng năm này, ông đốt tàu Pháp trên sông Nhật Tảo.
                  Khi ba tỉnh miền Đông bị rơi vào tay Pháp, ông ra Bình Định nhận chức Lãnh binh. Đến giữa năm 1867, ông về lại Hà Tiên giữ chức Thành thủ úy.
                  Đêm 16/6/1868, ông chỉ huy đánh đồn Rạch Giá, làm chủ trong năm ngày. Sau đó, rút quân ra Phú Quốc. Tại đây, xảy ra nhiều trận giao chiến. Nghĩa quân trong thế bị bao vây, lương cạn, đói khát, ốm đau, sức khỏe bị kiệt huệ, ông tự ra nộp mình và bị giải về Sài Gòn. Giặc dụ ông hàng, ông khẳng khái nói: “Khi nào nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây”.
                  Ngày 27/10/1868, ông bị hành hình tại Rạch Giá. Nhân dân đã lập đền thờ ông tại Phú Quốc, Rạch Giá và tại quê hương ông. Nho sĩ Huỳnh Mẫn Đạt đã làm thơ điếu ông:
                  “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
                  Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỉ thần”.



                  DU LỊCH SINH THÁI ĐỒNG THÁP MƯỜI



                  Ngược dòng sông Vàm Cỏ Tây, đi thuyền đến trung tâm Đồng Tháp Mười, vùng du lịch sinh thái đặc trưng của vùng đất trũng Nam bộ. Thuộc các huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Thạnh Hóa và Tân Thạnh. Cách thị xã Tân An khoảng 50 km.
                  Vùng sinh thái nơi đây có những cánh rừng tràm bạt ngàn, thoang thoảng hương thơm với từng đàn ong mật lượn quanh. Những đầm sen rộng lớn với muôn vàn đóa sen khoe sắc. Nhiều loại động vật quí hiếm đang được bảo vệ như cò, sếu đầu đỏ, rùa, rắn…  làm tăng vẻ đẹp vùng sinh thái.
                  Đến đây, du khách có thể thưởng thức các món ăn rất đặc trưng như canh chua, cá kho tộ, gỏi ngó sen, cá lóc nướng trui chấm muối ớt hoặc mắm me với vài ly rượu đế của miền đồng bằng Nam bộ.

                  +Km 1952: di tích nghệ thuật lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức.

                  LĂNG MỘ NGUYỄN HUỲNH ĐỨC (1748 – 1819)



                  Ông tên thật là Huỳnh Công Đức (hoặc còn có tên Huỳnh Tường Đức). Được nhà Nguyễn tin yêu và cho đổi lấy họ Nguyễn, Nguyễn Huỳnh Đức là do vua Gia Long ban đặt. Nhớ ơn vị khai quốc công thần nhà Nguyễn, vua Minh Mạng ban tặng ông hiệu Thái Miếu.
                  Hơn nữa, vì ông rất tài giỏi và trung thành với nhà Nguyễn. Sau bao năm theo Nguyễn Ánh bôn ba khắp nơi, trong một trận giao chiến giữa quân Tây Sơn và quân của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đã bắt sống được ông. Biết ông là người tài giỏi, Quang Trung – Nguyễn Huệ đã mời ông làm việc cho nhà Tây Sơn. Trong hoàn cảnh này, ông chỉ chấp nhận sự tin cẩn của Nguyễn Huệ với ba điều kiện:
                  1.Nhà Tây Sơn không được đem quân đánh vào làng quê, nơi tổ tiên dòng họ ông đang sinh sống.
                  2.Ông không tham gia đánh lại quân của Nguyễn Ánh.
                  3.Khi biết nơi Nguyễn Ánh đang ở, nếu có dịp ông sẽ tìm về với họ.

                  Sau bảy năm làm việc cho nhà Tây Sơn (từ 1783 – 1790), ông tìm cách trở về với Nguyễn Ánh cho đến khi triều Nguyễn được khai sinh.
                  Lăng của ông thuộc xã Khánh Hậu, huyện Châu Thành. Cách thị xã Tân An khoảng 3.5 km trên quốc lộ 1. Lăng mang dáng dấp nét văn hóa đình làng Việt Nam nhưng vẫn ảnh hưởng phong cách kiểu dáng kiến trúc thời Nguyễn. Lối kiến trúc lăng mộ phục vụ tầng lớp quan lại phong kiến đầu thế kỷ 20. Diện tích khoảng 1.280 mét vuông. Đây là một quần thể kiến trúc cổ nhất Long An đầu thế kỷ 19 còn lại tương đối nguyên vẹn. Lăng gồm năm công trình: hai cổng ngoài, một cổng trong, đền thờ và lăng mộ. Ngoài ra, còn có nền nhà cũ của tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức.
                  Nơi chánh điện có hương án và di ảnh của ông. Một bức hoành phi được vẽ cách đây 150 năm. Bốn trụ cốt đều có bốn tấm liễn ghi lại công đức của ông bằng chữ Hán. Ngôi nhà thờ còn có một tấm ván cổ, kích thước khoảng 1.8*3.5 (mét), dày gần 20 cm. Một khánh lớn bằng đồng, được đúc từ năm 1819, nặng 40 kg. Hai  bên có hai bộ binh khí, một con ngựa và một con cọp làm tăng sự uy dũng, thế lực của ông.
                  Phía trái của lăng là phòng thủ tự (giữ lăng). Bên phải là phần mộ của ông theo hướng đông nam. Xung quanh được xây hai lớp khung thành bằng đá ong và ô dước. Trước mộ, một tấm bình phong tạc hình hai con nai vàng và một tấm bia ghi công đức. Sau mộ có bái đình ghi lại tiểu sử của ông.
                  Lăng Nguyễn Huỳnh Đức là di tích được Bộ Văn hóa – thông tin xếp hạng vào ngày 26/8/1993. Ngoài giá trị về kiến trúc, nơi đây còn lưu giữ những cổ vật độc đáo cách đây hơn 200 năm.

                  +Ngược về phía đông nam của tỉnh Long An. Theo quốc lộ 50, bắt đầu từ thành phố Hồ Chí Minh, tại ngã ba trên đại lộ Nam Sài Gòn để đến chùa Tôn Thạnh. Có thể kết hợp chuyến tham quan khu di tích này cùng với các di tích lịch sử văn hóa thuộc huyện Gò Công, Tiền Giang như: lăng Hoàng Gia, lăng Trương Định và bãi biển Nam Thành.
                  Km 16 của quốc lộ 50 là thị trấn Cần Giuộc. Tại trung tâm thị trấn có ngã năm, đi theo hương lộ 15 đến chùa Tôn Thạnh khoảng một km.

                  CHÙA TÔN THẠNH


                   
                  Đây là ngôi chùa cổ nhất của tỉnh Long An, thuộc ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc. Chùa được xây dựng vào năm 1808, do Hòa thượng Viên Ngộ khai sáng với tên Lan Nhã hay Lan Nhược. Hòa thượng tên thật là Nguyễn Ngọc Dót, có tài liệu ghi là Nguyễn Chất, con ông Nguyễn Ngọc Bình và bà Trà Thị Huệ. Ngôi chùa tọa lạc trong một khuôn viên có diện tích 5.000 m2, có nhiều cây xanh rợp bóng mát.

                  Tương truyền rằng: “Năm 20 tuổi, Hòa thượng Viên Ngộ xin phép cha mẹ để xuất gia theo Phật, nhưng gia đình không đồng ý. Sau nhiều lần thấy Ngài một lòng quyết tâm mạnh mẽ, cha của Ngài muốn thử lòng con mình có kiên trì hay không, nên bảo Ngài vào bếp bốc một cục than đỏ lửa mang ra cho ông mồi thuốc hút. Ngài đã vâng nghe theo ý của cha mình trước sự thán phục của cả gia đình”. Sau đó, Ngài thọ giáo với Hòa thượng ở chùa Vĩnh Quang, gần chợ Cần Giuộc và được nhận Pháp danh Viên Ngộ. 
                   
                  Người dân địa phương thường gọi ông là Tăng Ngộ.
                  Năm 1808, Ngài xin phép thầy Bổn sư đến rạch Thanh Ba lập một ngôi chùa mới lấy tên Lan Nhã, Pháp hiệu Tông Thạnh với mong ước dòng dõi hưng thịnh. Về sau, người dân quanh vùng quen gọi là Tôn Thạnh. Trải qua gần 200 năm, chùa Tôn Thạnh xưa đã xuống cấp, hư hỏng theo thời gian và được trùng tu nhiều lần trong thế kỷ 20. Cùng với quá trình trùng tu đó, ngôi chùa tráng lệ ngày xưa có phần thay đổi, mất đi đường nét cổ kính. Tháng 10/2003 đến cuối năm 2005, chùa Tôn Thạnh được xây dựng lại ngôi tiền điện, chánh điện và nhà thờ Tổ, phục hồi lại kiểu kiến trúc nhà cổ của Việt Nam cho phù hợp với giai đoạn lịch sử xây dựng ngôi chùa ngày xưa và kỷ niệm mái chùa là nơi lưu trú của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu từ năm 1859 đến năm 1862.
                  Trong thời gian ở chùa Tôn Thạnh, cụ Đồ Chiểu đã sáng tác bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” và hoàn chỉnh thi phẩm Lục Vân Tiên mà Cụ đã viết từ những năm 1850 đến năm 1854. Đây cũng là giai đoạn nhà nho Nguyễn Đình Chiểu mở lớp dạy học và làm thuốc trị bệnh cho dân làng làm bình phong, để cố vấn cho nghĩa binh kháng Pháp. Trong cảnh nước mất nhà tan, cụ Đồ Chiểu đã thốt lên nỗi thống thiết:
                  “… Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh,
                  Tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm”.

                  Con đường dài dẫn vào khu vực chính của chùa đi qua cổng lớn được dựng vào năm 1960. Bên phải con đường là bia tưởng niệm nhà chí sĩ Nguyễn Đình Chiểu được dựng năm 1973. Khu vực chính gồm có ngôi tiền điện, chánh điện, nhà thờ Tổ, trai đường và nhà giảng…. Vườn chùa phía phải chánh điện có ngôi mộ cổ được xây bằng đá ong với hồ ô dước, có dạng kiến trúc mộ táng tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ, mà giả thuyết cho rằng đây là mộ của thân sinh Hòa thường Viên Ngộ. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có hai ngôi mộ cổ khác cũng có kiến trúc gần giống như vậy. Vườn chùa phía trái là ngọn tháp ba tầng, cao 450 cm, hình lục giác của Tổ thiền sư Viên Ngộ được xây vào năm 1846 và được trùng tu năm 1959. Tấm bia mới trước sân chùa, cao 160 cm, rộng 130 cm có mái che ca ngợi công đức vì dân, vì nước của cụ Đồ Chiểu và lưu niệm ngày chùa Tôn Thạnh được vinh dự nhận bằng Di tích lịch sử – văn hóa, được dựng vào tháng 6/1998.
                  Chánh điện gồm hai nóc: tiền điện và chánh điện, mới được xây dựng khôi phục có kiến trúc nhà cổ tứ trụ hình vuông, cột tròn trên nền đúc lót gạch, cao 90 cm. Toàn bộ công trình được làm bằng gỗ quí được thiết kế, chạm khắc theo phong cách truyền thống, có bốn mái ngói mở rộng ra bốn hướng đều nhau và hình lưỡng long tranh châu được trang trí trên nóc. Bao lam bằng gỗ, sơn son thếp vàng được chạm khắc tinh xảo với hình ảnh chim muông, hoa lá. Chánh điện chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật thờ tự và pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật mang phong cách của thế kỷ 19. Trên thượng điện tôn trí trang trọng pho tượng Phật thích Ca Mâu Ni, Phật Di Đà, Quan Thế  Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra, còn có tượng hai ông Tiêu, thập bát La Hán…. Đèn Dược sư gồm 49 ngọn, dạng đèn chùm trên trần nhà là một trong những pháp khí đặc biệt của các chùa cổ Nam bộ được treo tại chánh điện. Đại hồng chung nặng 300 kg, cao 140 cm được Phật tử dâng cúng năm 2005 và một đại hồng chung nhỏ hơn đã có từ lâu. Đặc biệt là pho tượng Bồ Tát Địa Tạng ngồi trên lưng con đề thính, có tay phải ở tư thế kết ấn đang cứu rỗi cho con người, tay trái đặt ngửa ngang bụng có hạt minh châu trong lòng bàn tay để tăng trưởng trí tuệ. Tượng bằng đồng, cao 110 cm, được đúc tại chùa năm 1813, trong đó có ngón tay của Thiền sư Viên Ngộ “cúng dường”.
                  Truyền thuyết kể rằng: “Pho tượng Bồ Tát Địa Tạng bằng đồng được đúc hai lần. Sau khi đúc xong lần đầu, pho tượng còn khuyết một chỗ là khe nứt tương đương một  ngón tay ở phía sau, nên thợ phải đúc lại lần thứ hai. Lần này, Tăng sĩ Viên Ngộ chặt một ngón tay cho vào nồi đồng cúng dường, và pho tượng Địa Tạng hoàn thành viên mãn”.
                  Tôn Thạnh là một ngôi chùa cổ ở Nam bộ đã gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Ngày 27/9/1997, chùa Tôn Thạnh đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa của quốc gia. Hiện nay, chùa cổ Tôn Thạnh là một trong những điểm tham quan du lịch tín ngưỡng của tỉnh Long An, thu hút nhiều bà con Phật tử và du khách khắp nơi đến viếng chùa, vãng cảnh. Tìm về di tích lịch sử, nơi khai sinh hai áng văn bất hủ của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
                   
                  Nguồn: nxb TRẺ
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2009 18:29:49 bởi lyenson >
                  #9
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9