Tứ Quái TKKG (1 - 45)
Thay đổi trang: << < 4 | Trang 4 của 4 trang, bài viết từ 46 đến 47 trên tổng số 47 bài trong đề mục
dragolsdragol 02.06.2009 02:26:41 (permalink)

Tác giả : Stefan Wolf
Tác phẩm : Tứ quái TKKG
Dịch giả : Vũ Hương Giang - Bùi Chí Vinh
Thể loại : Truyện phiêu lưu mạo hiểm
Nguồn : Nhà xuất Bản Kim Đồng




Tập 44
Con quỷ bên hồ Waiga





MỘT: CHÌA KHÓA PHÒNG 406
Sau bữa ăn trưa, Tarzan quay lên “Tổ đại bàng” thay quần áo. Khi hắn ngó vào gương chải những lọn tóc quăn nâu, Tròn Vo đang nằm trên giường xem truyện tranh vui, liền ngóc đầu dậy:
- Ê, có chuyện gì mà đại ca chải chuốt dữ vậy hả?
- Tao phải ra đón Gaby. Rồi hai đứa sẽ đến Đại Khách Sạn.
- Quý vị thì có việc gì ở cái nhà trọ sang trọng đó nhỉ?
- Hừ. Nếu mày muốn biết nội dung thì cứ việc tháp tùng.
- Giữa lúc nóng nực thế này hả? Không đời nào!
- Có gì đâu mà mày thắc mắc, mập. Gaby đang đợi tao ở bến tàu số 34 sau khi tiễn bà dì đi điều dưỡng, hiểu chưa? Còn vụ đến Đại Khách Sạn là vì chuyện của tao. Bà Isabella Scheidlitz, gọi tắt là Isa, bạn của má tao luôn mắc bệnh buồn chán, luôn du lịch từ Đại Khách Sạn này qua Đại Khách Sạn khác. Bà ấy đang ở thành phố mình đây.
Tròn Vo thả cẳng xuống giường, gật gù:
- Rõ rồi, mày phải thăm hỏi xã giao người bạn giàu có của má mày chớ gì.
- Cũng không hẳn vậy. Tao đến để lấy cái đồng hồ má tao gởi thì đúng hơn.
- Hả? Đồng hồ nào?
- Thì cái đồng hồ má tao tặng hồi sinh nhật mười bốn tuổi đó. Lúc tao về thăm nhà cách đây mấy tháng nó bỗng bị hư. Má tao phải giữ lại sửa và nhân có bà Isa tới đây thì nhờ bà ấy cầm giùm tới cho tao.
- Thế mày định bỏ cái đồng hồ đeo tay hiện giờ ư?
- Tao sẽ để dành cái thứ hai mới sắm này, chỉ dùng khi tập thể thao. Mày thấy hợp lí không?
Tròn Vo có vẻ nghĩ ngợi:
- Đại ca và Gaby sẽ chén thử bánh ngọt của Đại Khách Sạn chứ?
- Không. Mày quên giá cả ở đó rồi sao?
Mập ta liền lại kềnh ra giường, tuyên bố dứt khoát:
- Vậy thì mày cứ việc đi một mình. Chúc lành.
Trưa nay không phải chỉ một mình Tarzan ngắm nhân dạng hắn trong gương, tối thiểu cũng còn một người nữa. Người này là con gái và chẳng hề dính dáng gì đến hắn. Cô vừa ăn sinh nhật hôm mười hai tháng sáu cho tuổi mười lăm của mình với cái tên dài thượt: Thea von Durstilitsch. Chỉ có điều đáng buồn là bữa nay cô bé không soi gương tại nhà mà là soi gương tại phòng vệ sinh trong khu ga. Tấm gương dính đầy cứt ruồi khiến cô chạnh lòng thổn thức:
- Lạy Chúa, mình có cần thiết phải làm như thế này không đây?
Mặt Thea sa sầm. Hôm qua cô đã lên đường như một “du khách ba-lô” bất đắc dĩ chỉ vì không chịu nổi những người lớn. Người lớn còn ai khác ngoài hai đấng sinh thành ra cô?! Thật kinh khủng, tại sao lúc nào họ cũng bất đồng hoặc cãi cọ. Mà thực ra thì ai là người có lỗi trong những chuyện hiểu lầm vớ vẩn đó chứ? Thea cay đắng nghĩ thầm: “Ấy thế mà ai cũng tưởng gia đình mình là một gia đình kiểu mẫu đấy”.
Thea tóc vàng, nước da trắng như sữa, không bao giờ bắt nắng. Cô là một cô bé dễ thương. Với chiếc quần Jeans, áo phông, đôi giày thể thao mòn đế, cô tiểu thư cuối cùng và duy nhất của một dòng họ quý tộc Áo ngó y hệt đám du lịch ba-lô. Cô rời nhà vệ sinh, bước ra sảnh ga. Cô bé thực sự ngơ ngác trước cơn sóng người cuồn cuộn. Đi đâu bây giờ đây? Ở thành phố, thiên hạ đổ xô ra đường đông khiếp đảm, khác xa cái làng quê heo hút cổ kính của cô. Thea hoảng sợ chọn một chỗ có cửa hiệu, tương đối ít người qua lại hơn. Bởi vậy mà cô chợt chú ý tới gã.
Gã ăn mặc bảnh bao, xách một cái túi du lịch bằng nhiều mảnh da nâu ghép lại, trên vai phải vắt một chiếc áo măng-tô màu sáng. Gã tần ngần đứng sững bên một thùng rác. Ngay lập tức, thái độ kì lạ của gã đã khiến Thea chú ý. Tuy cô không lí giải được, cô vẫn linh cảm ở gã có gì đó không đàng hoàng. Hay gã cũng trốn nhà ra đi như cô? Hoặc gã định quẳng đi thứ gì đó gây ô nhiễm cho xung quanh chăng? Gã đàn ông chợt rút tay khỏi túi và ném vào thùng rác một chiếc chìa khóa. Cái nhìn nhiều lòng trắng của gã ném về Thea trong ba giây. Giây thứ tư gã bỏ đi một mạch.
Lạy Chúa! Thea phát hoảng. Cô biết gã! Hình như cô đã trông thấy gã ở đâu đó rồi? Trong lúc suy nghĩ, bàn chân cô bé tự động nhích tới bên cạnh thùng rác. Cô tò mò nhặt chiếc chìa khóa có đính cả móc treo nằm trên một túi vỏ chuối lên. Chà, chiếc chìa khóa phòng treo vào một tấm đồng hình ô van, viền rất đẹp. Một mặt có dòng chữ Đại Khách Sạn, mặt kia là số phòng 406.
Cô bé chưa kịp tính toán gì thì một giọng vang khỏe và vui vẻ đã vang lên bên cạnh:
- Hay quá. Bạn có thể trao nó cho tôi. Tôi sẽ ghé đó và trả cho họ.
Mặt mày Thea trắng bệnh vì hoảng sợ. Cô bé quay lại và bớt sững sờ khi thấy trước mặt mình là một anh chàng cao lớn trên môi đang nở một nụ cười dễ coi. Còn phải hỏi, hắn là thủ lĩnh của nhóm Tứ quái chớ ai. Trên đường đi đón Gaby và đến Đại Khách Sạn, hắn đã tình cờ phát hiện ra… một gã đàn ông, một cô bé và một cái thùng rác. Hắn cười rộng miệng:
- Đừng sợ. Tôi thường chỉ ăn thịt các cô bé khi họ đã bị rán vàng lên thôi.
Câu pha trò khiến Thea nhẹ hẳn người. Tự nhiên cô thú thật:
- Xin lỗi bạn. Bữa nay tôi hơi hoảng hốt. Ít nhất thì bạn cũng không phải cảnh sát đến bắt tôi về trả cho gia đình.
- Ủa, trốn nhà à?
- Không phải để đi bụi đâu. Tôi là Thea von Durstilitsch.
Tarzan chìa tay ra:
- Chào Thea. Tôi là… Tarzan.
Thea không hiểu ý, vội đưa cho hắn cái chìa khóa và tiếp tục kể:
- Tôi không định bỏ nhà đi hẳn đâu, Tarzan ạ. Tôi chỉ tính làm cho cha mẹ mình lo lắng một chút thôi, rồi khi cạn túi sẽ lại trở về nhà. Gia đình tôi giống như một địa ngục. Tôi chịu không nổi.
- Nhà bạn ở đâu vậy?
- Làng Goschendorf bên hồ Waiga, nước Áo. Trang trại của gia đình tôi ở đó.
- Chà, tuyệt đó! Còn tôi là học sinh nội trú ở đây. Bạn có bỡ ngỡ lắm không? Tôi quen biết nhiều người ở thành phố này. Tôi có thể giúp bạn việc gì chăng?
Cô bé cười rạng rỡ:
- Bạn tốt quá. Nhưng hãy để tôi học cách tự lập đã. À, mà chiếc chìa khóa bạn đang cầm trên tay là do một kẻ vừa liệng đi đấy.
- Tôi đã thấy gã. Đáng tiếc là chỉ thấy từ xa và chỉ thấy sau lưng. Nếu không tôi đã không để gã yên. Thật vô liêm sỉ! Lỡ quên đem theo chìa khóa phòng khách sạn là chuyện bình thường, nhưng lí ra gã phải tìm cách trả lại chứ.
- Bạn định ghé Đại Khách Sạn trả lại cho phòng trực à?
- Ừ. Tôi có người quen trọ ở đó. Có điều trước hết tôi còn phải ra bến tàu số 34 trước đã. Bạn gái tôi đang đợi. Còn bạn sẽ đi đâu bây giờ đây?
- Tôi muốn tham quan thành phố này.
- Rất nên đó. Có thể chúng ta sẽ còn gặp nhau. Tạm biệt!
*
Gaby nhìn theo con tàu đang khuất dần. Cô bé toan quay lại thì đôi mắt bỗng tối sầm vì bị hai bàn tay to tướng bịt chặt. Đôi bàn tay sặc mùi tỏi khiến cô bé kinh hãi biết rằng đó không phải là Tarzan…
Đột nhiên Gaby thấy cái mùi kinh tởm ấy loãng đi, tiếp theo là một tiếng “hự” đau đớn. Kẻ nào đó cả gan bịt mắt cô hình như vừa bị rớt phịch xuống đất. Lúc này thì mới đúng là Tarzan. Hắn rít qua kẽ răng:
- Nếu anh còn động đến bạn tôi lần nữa, tôi sẽ bẻ vụn xương anh ra.
Gaby mở lớn mắt. Coi, ngồi bệt sau lưng cô là một gã thanh niên chừng mười bảy tuổi nồng nặc men bia. Gã há hốc mồm hệt con cá mắc cạn, thở dốc:
- Tôi… tôi chỉ… giỡn chút xíu. Tôi… tưởng cô ấy là… là bạn tôi.
- Anh Hugo!
Một giọng con gái the thé phía bên tàu số 32. Cô nàng đang nhảy loi choi nhìn sang bên này.
- Hugo! Em đây nè. Anh sao vậy? Ngã à?
Tarzan ngó cô ta, cười nhạt:
- Bạn anh đó hả? Chà, tất nhiên rồi, cô ta dễ bị lẫn với người khác lắm.
Cô gái nọ cao hơn Gaby một cái đầu. Mái tóc đen nhánh cắt theo kiểu bàn chải, tun ngủn chừng một phân, giữa gáy thò lò một lọn đuôi dế, nhuộm hồng. Đã vậy lại còn mắt xanh mỏ đỏ, mặc đen tuyền từ đầu đến chân.
Hai quái nắm tay nhau vừa cười vừa bỏ đi. Gaby rùng mình:
- Khiếp, tay gã sặc mùi tỏi.
- Gã say. Mới đầu giờ chiều đã uống tới bí tỉ.
- Người gì mà kì. Dám bịt mắt người lạ. Ghê quá. Mình chỉ muốn rửa mặt một cái.
- Ô-kê, chúng ta sẽ tới Đại Khách Sạn thăm cô Isa. Bạn sẽ rửa mặt ở phòng cô ấy.
Tarzan rút từ túi quần ra cái chìa khóa:
- Khi không có một tên khùng liệng chiếc chìa khóa này vô thùng rác. Mình tình cờ trông thấy, và cũng vừa làm quen với một cô bạn tên là Thea…
Hắn kể lại mọi chuyện cho Gaby nghe. Cô bé bình luận:
- Gã vô trách nhiệm thật. Nếu chiếc chìa khóa rơi vào tay một tên trộm thì chuyện gì có thể xảy ra chớ!
Khách sạn trải đầy thảm quý, giẫm lên thấy tiếc hùi hụi. Mọi ghế bành đều có người ngồi, toàn những khách sang trọng quý phái. Tiếng đàn piano thánh thót. Tarzan kéo Gaby đến quầy thường trực, nơi có bốn người đàn ông mặc đồng phục đứng đón khách. Họ mỉm cười niềm nở với Tarzan và Gaby, dù thừa biết hai đứa đâu phải cậu ấm cô chiêu con các tỉ phú. Tarzan cũng mỉm cười nhũn nhặn:
- Tôi có hẹn với bà cô tôi. Bà Isabella Scheidlitz ạ.
Người trẻ tuổi nhất trong bốn nhân viên liếc nhanh như chớp lên bảng danh mục rồi trả lời:
- Bà ấy ở phòng 406. Mời cô cậu…
- Sao, phòng 406?
Tarzan rút chiếc chìa khóa ra, ngạc nhiên nói thêm:
- Tôi tưởng phòng 406 do một người đàn ông thuê chớ. Như anh thấy đó, gã đã liệng cái chìa này
vô thùng rác gần nhà ga và tôi đã nhặt được đây này.
Anh chàng nhân viên khách sạn trợn tròn mắt nhìn chiếc chìa khóa:
- Nhưng bà Scheidlitz trọ phòng 406 mà. Bà ấy mới nhận phòng từ tối qua.
Anh ta cầm ống nghe, quay số điện thoại, lắng nghe một lát. Hình như không có ai thưa máy. Tarzan sững sờ. Hắn bóp chặt cái chìa trong lòng bàn tay.
- Để chúng tôi lên xem thử.
- Tôi cũng muốn lên đó kiểm tra xem sao.
Tarzan và Gaby phóng vào thang máy. Anh nhân viên lễ tân trẻ tuổi cũng vào theo. Thang máy ngừng lại ở tầng bốn. Tarzan hồi hộp bấm chuông phòng 406. Tiếng chuông kêu reng reng suốt mà không có hồi âm. Đành phải sử dụng cái chìa có sẵn vậy.
Cửa mở. Từ ngoài sảnh có thể nhìn vào phòng ở. Giường vẫn phẳng phiu, phủ mền hẳn hoi. Nhưng giữa bàn và giường thò ra đôi chân đi bít tất lụa. Hai bàn chân bị trói vào nhau. Có tiếng rên khe khẽ. Tarzan quỳ xuống. Trời ạ, người bạn gái của mẹ hắn bị trói nghiến hai chân, giẻ nhét đầy mồm.
Bây giờ thì khỏi phải bàn. Anh nhân viên khách sạn kinh hoàng, ông giám đốc tuyệt vọng. May ra chỉ mình vị bác sĩ riêng của khách sạn là vẫn còn bình tĩnh. Có điều nạn nhân còn bình tĩnh hơn ông ta. Bà Isabella Scheidlitz sau khi từ chối thuốc an thần, đã uống tới hai li sâm-panh và nhiều lần soi gương xem mặt mũi mình có bợt bạt quá không. Và bà có vẻ hài lòng thấy mình vẫn còn nhuận sắc chán. Isabella chừng 40 tuổi, mắt nâu, mặt nhỏ, vóc dáng gọn gàng. Tarzan an ủi bà:
- Ba của Gaby đến bây giờ, cô Isa ạ. Cô muốn kể lại mọi việc ngay hay đợi ông thanh tra đến ạ?
- Mất hết rồi Tarzan ạ. Toàn bộ đồ nữ trang, tiền mặt, séc du lịch… đó là chưa kể chiếc đồng hồ của cháu mà má cháu gửi.
- Sao ạ? Cả đồng hồ của cháu.
Tarzan lập tức nhận thấy mình đã thiếu tế nhị, bèn thêm:
- So với số nữ trang của cô thì cái đồng hồ ấy chẳng nghĩa lí gì. Nhưng đó là quà tặng của má cháu. Ồ, giá cháu biết thế này từ lúc ở ga.
Ông bác sĩ thấy sự có mặt của mình trở nên thừa bèn cáo lui. Giám đốc khách sạn và anh nhân viên cũng chực bỏ đi theo. Tuy nhiên bà Isa đã quay sang phía họ, kể:
- Hồi nãy tôi chỉ để ngỏ cửa phòng có một tí. Trong lúc tôi ra hành lang tính kiếm cô hầu phòng yêu cầu cô ấy đem tới một cái áo choàng tắm thì tên lưu manh đã lẻn vào, nấp sau cửa. Thực tôi không hiểu các vị làm ăn ra sao mà để tên bất lương chui vô khách sạn dễ dàng như vậy. Lúc bước vào cửa tôi lập tức bị gã túm lấy từ phía sau rồi bị một miếng giẻ thuốc mê hôi rình ập vô mặt. Kinh khủng. Và tôi đã xỉu ngay tại chỗ các vị tìm thấy tôi. Lát sau, tỉnh dậy tôi lơ mơ có cảm giác tên lưu manh đó lục tung tóe đồ đạc và sau đó sập cửa phòng. Tôi còn nghe rõ gã rút chìa khóa khỏi ổ.
Tarzan hỏi:
- Cô không thấy gã… nghĩa là cô không thể mô tả tí gì về gã sao cô?
Bà Isabella nhún vai.
- Cháu cũng chẳng hơn gì. Tệ thật. Cháu chỉ thấy gã từ phía sau và khá xa. Gã cao khoảng 1 mét 80, cân đối, mặc complê màu xám, áo choàng vắt vai, tóc sẫm, xách cái túi du lịch.
Tarzan nhìn sang hai vị kia:
- Có vị khách nào giống như thế không ạ?
Ông giám đốc dĩ nhiên chẳng biết gì vì ông chỉ ở lì trong văn phòng. Anh nhân viên lễ tân cố nhớ, nhưng chẳng nhớ ra là ai. Chợt Tarzan reo lên:
- Cháu nhớ rồi. Cô bé cháu gặp ngoài ga chắc sẽ mô tả gã được. Cô ấy nhất định phải trông thấy mặt gã…
Rồi hắn kể lại chuyện vì sao mà hắn có chiếc chìa khóa.
Chuông điện thoại reo. Bà Isa ra dấu cho Tarzan nhấc máy. Quầy lễ tân báo lên rằng ông thanh tra Glockner đang trên đường lên phòng 406.
*
Thanh tra Glockner đi trước. Hai cảnh sát thì rẽ theo hướng khác. Tất nhiên Tarzan và Gaby theo sau ông thanh tra rồi. Nhà ga lúc này còn đông hơn cả hồi nãy. Tarzan chép miệng:
- Cứ như là thiên hạ đang đổ di du lịch hết cả.
Gaby cười:
- Tụi mình cũng sắp được nghỉ hè rồi.
- Ờ há. Chắc mình sẽ về với má. Đáng tiếc là hãng của má mình kì này gặp đợt thanh tra định kì tới hai tuần lễ liền. Bởi vậy, hai tuần đầu tiên chắc má con mình hiếm khi thấy mặt nhau lắm. Chán vậy.
- Sao đại ca không ở lại nhà Kloesen hoặc Karl, ba mẹ các bạn ấy đều coi bạn như con ruột mà.
- Ừ… ừm, để từ từ tính. Mình cũng ngại làm phiền…
Ông Glockner đột ngột dừng bước:
- Chưa thấy gì sao Tarzan?
- Dạ chưa, thưa chú. Thâm chí một cô gái giống Thea thôi cũng không ạ.
- Ờ, các cô gái du lịch ba-lô thì có cả ngàn. Nhưng chúng ta cứ kiên nhẫn xem.
Họ tìm kiếm suốt một giờ. Cả hai viên cánh sát ga cũng tích cực truy lùng cô gái theo mô tả của Tarzan. Gaby còn vào cả nhà vệ sinh nữ, vẫn không thấy Thea. Còn nói chi chuyện dò la dấu vết tên cướp. Ông Glockner đã hơi nản:
- Chắc gã lên tàu đi mất rồi. Chà, giá mà tìm được cô bé và nhờ cô ấy dựng bước chân dung tội phạm thì… Nhưng biết tìm Thea ở đâu bây giờ đây?
- Thea nói với cháu rằng bạn ấy muốn tham quan thành phố. Mà thành phố thì có tới 1001 thắng cảnh. Cháu sẽ không bỏ cuộc đâu, thưa chú. Tối nay cháu lại đi tìm. Rồi ngày mai, sau giờ học, tụi cháu lại sẽ ra đây.

HAI: THỦ PHẠM LÀ AI?
Sau một đêm thời tiết ấm áp. Thea, cô bé tiểu thư lần đầu tiên bỏ nhà đi giang hồ dụi mắt tỉnh giấc từ một băng ghế kín đáo nằm khuất dưới bụi cây trong công viên. Cô lại đeo ba-lô tìm đường ra ga và lại vào nhà vệ sinh để soi gương, chải tóc. “Ồ, ngó mình chưa đến nỗi là một con lang thang!” – cô bé tự nhủ.
Đoạn cô tìm đến một quầy điểm tâm trong ga. Ít phút sau trước mặt Thea là một li cà phê và một chiếc bánh sừng bò nóng hổi. Ê, cô bé chưa kịp ăn xong miếng bánh thì con mắt đã muốn hoa lên trước dòng tít lớn ở trang bốn của một tờ báo không biết ai bỏ quên nơi mặt bàn. Cái gì vậy hả? Lạy Chúa, nội dòng tít “cướp ở ĐẠI KHÁCH SẠN” khiến cô giật thót. Thea đọc mà toát mồ hôi hột: “Vợ góa của một nhà doanh nghiệp, Isabella S., bị một hung thủ vô danh từ phía sau ập tới đánh thuốc mê, rồi trói chân tay, nhét giẻ vào mồm, cướp sạch toàn bộ tiền bạc và tư trang trong phòng 406…”
Thea đánh rớt cả cà phê. Hai tay cô run bắn lên. Cô không ăn nổi chiếc bánh nữa. Cái… cái tên khốn đó! Tarzan… Hình như đó là tên giả? Không thể tưởng tượng nổi! Vậy là hắn đã lợi dụng cơ hội. Một kẻ tội phạm.
Lạy Chúa. Mình thật không hiểu gì về người đời. Vậy mà mình lại nghĩ hắn là một chàng trai tuyệt vời kia đấy. Rất đáng mến. Thậm chí mình còn hơi thất vọng khi hắn bảo hắn đi đón bạn gái. Quân lừa đảo. Và hắn đã lấy chiếc chìa khóa, đến ngay khách sạn để tiến hành vụ cướp. Cảnh sát có thể dựa vào lời mô tả của mình để truy lùng hắn, nhưng mình lại không thể đến gặp họ. Mình sẽ bị bắt quay trở lại nhà mất.
Cô bé chợt ngẩng phắt đầu vì cảm thấy có cặp mắt nào đó đang theo dõi mình. Kia kìa, chính là… hắn! Vẫn với cái áo mặc hôm qua, hắn đang đứng cách cô chừng một trăm mét. Nhanh như cắt, Thea lủi như lươn vô đám đông. Bến tàu số 14 ngay trước mặt cô. Con tàu Inter-City đã đầy khách, đang hụ còi sẵn sàng khởi hành. Thea chạy dọc sân ga mà không dám ngoái lại. Cô bé quyết định lên tàu, không cần biết sẽ đi đâu, miễn là thoát khỏi gã trai nguy hiểm kia. Cô định bụng sẽ mua vé trên tàu.
Ngồi vào ghế rồi, Thea nhìn xuống sân ga. Người lố nhố, nhưng không thấy cái kẻ cao lớn, tóc sẫm quăn nọ. Ơn Chúa! Coi, cô bé vừa thở phào đã nghe tiếng cửa khoang tàu xịch mở. Cô nghẹn thở khi ngước mắt lên, tim đập thon thót. Hay là kêu cứu? – cô chợt nghĩ.
Nụ cười tươi rói của Tarzan thân ái nhất đời:
- Chào Thea. Bạn đây rồi! Tôi vừa trông thấy bạn, thế mà bạn lại vội vã bỏ đi.
Nhận thấy vẻ mặt hoảng hốt cực đổ của Thea, hắn ngạc nhiên:
- Này, không lẽ bạn bỏ chạy vì tôi?
Môi Thea run bần bật. Cô bé không đáp. Tarzan chợt hiểu. Hắn lại cười rộng miệng:
- Thôi, tôi hiểu rồi. Bạn đã đọc báo sáng nay chứ gì. Và đã nghi ngờ tôi là thủ phạm vụ cướp?
Hắn vỗ mạnh tay xuống đùi:
- Thea ơi, thanh tra Glockner và tụi này tìm bạn suốt từ hôm qua. Bạn hiểu không, chỉ mình bạn là người duy nhất tả được hình dạng tên cướp. Gã chính là cái kẻ đã quăng chiếc chìa khóa vô thùng rác. Khi tôi đến Đại Khách Sạn, vụ cướp đã xảy ra rồi. Và nạn nhân lại chính là cô Isabella Scheidlitz, bạn thân của má tôi. Giờ thì bạn đã hoàn hồn chưa? Trong số các tài sản bị cướp, có cả chiếc đồng hồ quý mà má tôi nhờ cô Isa mang cho tôi nữa.
Thea thở dài nhắm mắt một lát. Cô biết mình đã nhầm, và hoảng hốt vô ích.
- Bạn đã thấy mặt tên cướp đó phải không?
- Có, tôi có thấy.
- Đừng quên chi tiết nào nhé.
- Ừ.
- Thea, bạn không thể rời thành phố lúc này được. Tụi mình phải đến Tổng nha cảnh sát.
Cô bé bắt đầu cười được:
- Thì tôi có định đi đâu đâu. Tôi lên tàu để trốn thôi.
- Cũng còn hên là bạn chưa chui xuống gầm tàu. Thôi, ta đi nào. Các bạn tôi hẹn gặp ở đằng kia.
Thea lẽo đẽo theo sau Tarzan chớ sao. Mắt cô bé mở to khi chạm trán ba nhân vật mới. Gaby ôm cặp sách. Karl tựa lưng vào một ki-ốt. Tròn Vo thì đang nhai sô-cô-la. Thea thấy thân thuộc liền khi Gaby nhoẻn cười:
- Bạn đúng y chang như Tarzan đã diễn tả. Có điều theo tôi, bỏ nhà đi không phải là một giải pháp hay, Thea à. Tất nhiên, tụi tôi hoàn toàn không muốn can thiệp vào việc riêng của bạn đâu.
Thea cúi đầu:
- Đêm qua ngủ ở ghế băng công viên tôi cũng đã nghĩ kĩ. Có lẽ tôi sẽ trở về nhà.
Tarzan còn lạ gì tâm tình lê thê của đám con gái, hắn chuyển hướng:
- Chúng ta nên đi gặp ba của Gaby ngay bây giờ. Có lẽ chú ấy sốt ruột lắm.
Tại Tổng nha cảnh sát, Thea đã chứng tỏ cô có trí nhớ gần bằng quân sư Máy Tính:
- Tên cướp cao khoảng 1 mét 80 hoặc hơn, cân đối và ra dáng lịch sự. Cặp mắt gã sắc và lạnh, tóc sẫm dài chải mượt như có bôi sáp. Nhìn gã, người ta có thể đoán được gã có hai hàm răng tốt và là người thường xuyên luyện tập thể thao. Cằm chẻ đôi, sống mũi thanh, hơi khoằm. Còn một điểm nữa: tai gã hơi vểnh.
Thanh tra Glockner khen:
- Cháu nhớ rất chi tiết đó.
Ông bật máy computer, gọi ra các dữ kiện về những kẻ tiền án tiền sự mang những đặc điểm trên. Sau khi loại bỏ dần, còn lại một trăm tên lần lượt xuất hiện trên màn hình. Ái chà, mới chiếu đến bức ảnh thứ 40 là Thea đã nhảy dựng.
- Gã đó.
- Cháu nhớ chắc chắn chứ?
- Dạ, hoàn toàn chắc chắn ạ.
Ông thanh tra bèn nhấn nút. Trên màn hình, lí lịch của tên lưu manh lồ lộ hiện ra: “Poldgar Pruffe sinh năm 1950 tại Viên, công viên Áo, từng lãnh án về tội lừa đảo, đánh người thành thương tật, ăn cắp xe hơi và trấn lột. Gần đây nhất y ngồi tù ở Đức nhưng đã vượt ngục hôm 2 tháng 5 vừa rồi. Từ đó sống lẩn lút”. Ông Glockner thở dài:
- Tên này quả gan cùng mình. Đang bị truy nã mà vẫn lẻn vào Đại Khách Sạn được. Tôi không tin gã vẫn ở thành phố này. Chắc gã sẽ tìm cách qua biên giới về Áo thôi. Gã đã tuồn ô-tô ăn cắp từ Viên sang tiêu thụ ở các nước vùng cận đông.
*
Tòa nhà của gia đình Durstilitsch được xây dựng từ thế kỉ 18 và cứ mỗi một thế hệ lại được tu sửa, nâng cấp. Hiện thời lâu đài lộng lẫy này có 38 phòng trong khi toàn bộ gia đình chỉ có ba người cộng thêm một người cháu trai là Oldo von Durstilitsch mười chín tuổi. Phòng ốc vì thế dư là cái chắc.
Từ mọi cửa sổ mặt trước của tòa nhà có thể nhìn ra hồ Waiga. Trên khoảng cách một cây số từ nhà ra hồ là bình nguyên, còn phía xa xa sau hồ là một rặng núi cao trùng điệp. Hàng xóm gần của gia đình Durstilitsch chỉ vọn vẹn một nông trại lụp xụp và tiêu điều. Khốn khổ hơn nữa, vị chủ nông trại này điên điên tỉnh tỉnh tùy theo thời vụ nên thưòng bị thiên hạ mỉa mai là lão… Mát. Căn nhà của “lão Mát” Schelldorn nằm khuất tầm nhìn của lâu đài và hầu như gia đình Durstilitsch cũng chẳng ai bận tâm đến lão.
Gia đình Durstilitsch còn có một mảnh đất lớn ven hồ Waiga. Cách đây tám năm ông bá tước đã cho dựng một căn nhà gỗ cạnh bờ hồ Waiga nhưng hầu như chẳng sử dụng đến. Từ đây đến thị trấn Weinfurth chỉ mất mười lăm phút ô-tô.
Lúc này Thea đã về nhà được 24 giờ, sau khi được thanh tra Glockner khuyên nhủ ân cần nhưng nghiêm khắc. Thậm chí ông thanh tra còn phôn trước cho ông bà bá tước Durstilitsch khiến Thea chẳng những không bị trách móc mà còn được hai đấng thân sinh đón nhận bằng thái độ nhẹ nhàng. Bà Eugenie ôm chầm lấy con gái, chỉ trách móc qua loa. Ông bá tước vốn khắt khe cũng nghĩ rằng cần phải bình tĩnh để tránh những hiểu lầm thường xuyên với con gái. Lúc này, hai mẹ con đang ngồi trong phòng khách. Thea nũng nịu:
- Mẹ ơi!
- Gì thế con?
Bà bá tước người thon thả, tuổi gần 40. Bà có mái tóc nâu dài, cặp mắt tím vẫn lấp lánh, bất chấp cuộc hôn nhân không toại nguyện. Giữa bà và ông chồng giờ chỉ còn những sự khó chịu hoặc được che giấu, hoặc lộ liễu. Không chút tình yêu. Cuộc sống chung ngày càng lạnh lẽo. Và đó là nỗi khổ tâm ghê gớm của Thea.
- Con muốn… xin mẹ một điều.
- Điều gì con?
- Mẹ đã nghe con kể về Tarzan và các bạn của cậu ấy rồi đấy.
- Ừ, họ tự xưng là gì nhỉ?
- TKKG ạ, bốn chữ cái đầu tiên của bốn người. Ôi, con chỉ mơ ước được cùng học một lớp và gia nhập nhóm thám tử của họ.
- Hừm…
- Mẹ có biết con muốn nói đến chuyện gì không?
- Mẹ chịu đó Thea.
- Họ sắp nghỉ hè. Con muốn mời họ nghỉ hè ở chỗ mình mẹ ạ. Nhà mình có tới 24 phòng dành cho khách mà quanh năm hiếm khi dùng đến.
- Ờ, phải. Nhưng… ba con muốn được yên tĩnh.
- Nhưng ý mẹ thì sao ạ? Mẹ cho phép con mời họ nhé?
- Nếu ba con đồng ý.
- Được rồi. Con sẽ hỏi ba ngay lập tức.
- Vậy cũng tốt. Mẹ cũng thích thay đổi không khí một chút. Tối ngày cứ ngồi bên cái ti-vi, chán lắm. Lâu quá chúng ta chưa đi Viên chơi.
- Nghĩa là mẹ bằng lòng cho con mời?
- Riêng mẹ thì… được.
- Cảm ơn mẹ. Vài ngày nữa những người bạn mới của con sẽ nghỉ hè. Con sẽ điện trước cho họ.
Thea tíu tít như chim rời khỏi phòng. Vậy là cô thắng lợi được một nửa rồi còn gì!
Còn lại một mình, bà Eugenie lặng lẽ rút từ dưới tờ tạp chí ra một bức ảnh chụp cách đây mười lăm năm. Trong ảnh là cô gái trẻ Eugenie và một gã trai khôi ngô mà cô say mê. Mặc dù gã là kẻ vô tích sự. Gã thanh niên từng làm trái tim bà bá tước say đắm trong mối tình đầu ấy chính là Poldgar Pruffe. Bà thở dài. Thấy báo đăng anh ta đang bị truy nã. Tội nghiệp.
Đúng lúc đó chuông điện thoại réo vang khiến Eugenie giật thót người. Bà có cảm tưởng nếu đặt tay vào ống nghe chắc chắn quá khứ ngày xưa sẽ sống lại. Không hiểu sao bà có linh tính kì cục như vậy. Eugenie hồi hộp nhấc máy:
- Dạ tôi nghe.
Năm giây im lặng đến rợn người. Phải đến giây thứ sáu một giọng nam trầm mới chịu cất lên:
- Bà có phải nữ bá tước Durstilitsch?
Eugenie tức khắc hiểu rằng mình đang nói chuyện với ai. Bà nghẹn thở:
- Vâng.
- Anh đây. Em còn nhận ra anh chứ?
- Chúa ơi, tôi lạnh hết sống lưng đây anh Poldgar. Đã lâu quá rồi.
- Em đang ở một mình phải không?
- Ôi, tôi vừa nghĩ đến anh, tôi thấy hình anh trên báo. Cảnh sát đang truy nã anh.
- Đâu phải một mình anh bị truy nã trên thế gian này.
- Poldgar, anh ở đâu vậy?
- Rất gần em, Genie ạ. Ở thị trấn Weinfurth. Với cặp kính râm của em ngày nào trên mắt anh. Em thấy sao?
- Nguy hiểm lắm.
- Không có gì nguy hiểm cả, em yêu. Biết bao thời gian đã trôi qua. Em còn nhớ thời đẹp đẽ của tụi mình không? Chồng em đâu, Genie?
- Ở dưới sân. Tôi nghĩ… cháu Thea đang đi tìm ông ấy.
- Thôi, anh nói thực nhé. Genie em, anh cần em giúp anh. Em hãy cho anh lánh tạm được không? Chỉ vài ngày thôi.
- Lạy Chúa! Nhưng… nhưng… bằng cách nào đây?
- Chỉ vài ngày thôi. Xin em. Gia đình em ở vùng quê rộng mênh mông. Thế nào cũng có chỗ cho anh lánh tạm.
Eugenie thở nặng nề. Bà chợt nhớ đến căn nhà gỗ ven hồ, cửa sổ có song sắt, cửa cái có ổ khóa chắc chắn. Mang tiếng là một căn nhà nghỉ dành cho thú vui câu cá nhưng có bao giờ ông chồng bá tước của bà héo lánh tới đó. Giọng bà ngậm ngùi:
- Anh đã đến đường cùng nên tôi không thể quay mặt. Poldgar ạ, anh còn nhớ căn nhà gỗ ven hồ Waiga không? Anh có thể trốn ở đấy.
- Anh nhớ rồi. Căn nhà gỗ, còn gì bằng!
- Hãy nghe đã, Poldgar! Ở vùng này, từ mùa hè năm ngoái, có con quỷ không ngớt hoành hành đấy.
- Ha ha ha, con quỷ ư? Anh không tin có ma quỷ.
- Ôi, có mà. Báo chí gọi y là con quỷ hồ Waiga. Nạn nhân của y là các kho chứa cỏ, các ngôi nhà lớn, các nông trại. Tất cả chìm trong ngọn lửa cháy bùng. Y có thể lặn đi vài tuần rồi lại trồi lên tàn phá khủng khiếp gấp bội. Chưa có ai giáp mặt y lần nào.
- Và em cho rằng con quỷ đó có thể nhằm vào căn nhà gỗ hả?
- Đó chỉ là nguyên nhân phụ. Cái chính là ông chồng tôi có thể xuất hiện tại căn nhà gỗ vào bất cứ lúc nào. Ông ấy rất lo số đồ câu cá cất trong nhà bị con quỷ thiêu trụi. Tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ di chuyển mớ dụng cụ ấy.
- Cảm ơn em về thông tin đó. Anh sẽ thận trọng Genie ạ. Nào, bây giờ làm sao anh vào nhà được đây?
- Chúng tôi có hai chìa khóa. Tôi sẽ để một chìa trên cái rầm phía trên cửa nhà. Nhưng… anh không thể ở đó mãi được đâu, Poldgar…
- Sao em đã vội xua đuổi anh thế?
- Tôi đang liều lĩnh vì anh đó, Poldgar.
- Thôi được, Genie. Các bạn anh sẽ tới đón anh. Paul Handrischek Chuột Chũi và Josef Mutzberger Nhạc Trưởng biết anh đã có mặt ở đây. Họ còn bận chút công chuyện và sẽ giải quyết thật nhanh để cùng anh sang Thổ Nhĩ Kì. Từ Thổ Nhĩ Kì tụi anh sẽ sang Ai Câp. Hãy kiên nhẫn vài ngày nữa. Sau vụ này anh sẽ vĩnh viễn biến khỏi cuộc đời em.
*
Tứ quái cùng gia đình Gaby quây quần bên bàn tiệc trà. Tarzan đang cố hiểu nụ cười tủm tỉm của ông thanh tra. Hình như ông có tin gì vui vẻ.
- Các con nghe đây. Sáng nay ta vừa nhận được một bức thư khẩn từ Goschendorf kèm theo bốn tấm vé khứ hồi từ đây tới đó. Nói ngắn gọn: Các con được mời. Thea rất mong các con đến. Và để các con không thể từ chối, ông bà bá tước Durstilitsch đã gửi luôn cả vé tàu.
Tứ quái há hốc mồm vài giây. Tròn Vo kêu:
- Tuyệt vời!
Tarzan thận trọng hỏi lại:
- Nghĩa là tụi cháu sẽ được tới lâu đài của gia đình Thea ạ?
- Đúng. Họ viết rằng các con có thể ở bao lâu tùy thích.
Tròn Vo hớn hở:
- Cháu muốn ít nhất là một tuần. Thì người Áo vốn nổi tiếng về những món bánh ngọt tuyệt vời mà.
Tarzan lúc này mới dám tin chuyến đi sắp tới là có thực. Hắn cười tươi:
- May quá. Hè này cháu có về sớm cũng buồn, vì má cháu có công chuyện phải làm thêm giờ suốt hai tuần sắp tới ạ.
Karl gãi đầu. Nó khổ sở nhìn ông thanh tra:
- Tarzan thì đã được thân mẫu bật đèn xanh. Còn Tròn Vo quanh năm cắt hộ khẩu khỏi gia đình. Phần cháu, hơi khó, thưa chú. Ba mẹ cháu chưa biết gì về việc này ạ.
Ông Glockner tủm tỉm:
- Khỏi lo, thưa ngài… quân sư. Chú đã xin phép ba mẹ các cháu qua điện thoại rồi. Không ai phản đối cả.
Nhưng rồi nụ cười của ông chợt tắt. Ông trở nên ưu tư:
- Còn việc này nữa, các con cần phải biết để tránh gây tình huống khó xử. Số là chú đã liên hệ với cảnh sát thành Viên về vụ Poldgar Pruffe, nhằm phối hợp truy nã. Các đồng nghiệp nước láng giềng còn cung cấp giữa Poldgar và bà mẹ của Thea đã từng có một mối quan hệ.
Tròn Vo bật ngửa. Nó sặc cả trà ra khỏi miệng:
- Saaao ạ? Trời đất. Một nữ bá tước và một tên cướp?
- Đừng nôn nóng, Willi. Nữ bá tước Durstilitsch hồi con gái tên là Eugenie Harberl. Gần 20 năm trước, bà đã đính hôn với Poldgar Pruffe ngay trước khi gã bước vào con đường tội phạm chuyên nghiệp. Có lẽ cũng vì thế mà họ chia tay nhau và Eugenie đã nhận lời cầu hôn của bá tước Durstilitsch. Hẳn là cô Eugenie thời đó rất xinh đẹp.
Tarzan cố nhịn cười:
- Vậy là nhà quý tộc đã xuất hiện kịp thời cứu người đẹp khỏi hiểm họa. Chú Glockner ạ, cháu nghĩ rằng có thể Thea biết chuyện này. Thậm chí cô ấy còn biết mặt gã Poldgar nữa. Lúc ở Tổng nha, cháu nhận thấy Thea đã rất bối rối khi chân dung tên cướp hiện trên màn hình computer.
Ông Glockner gật đầu:
- Chú cũng nhận thấy, nhưng không lí giải nổi thái độ ấy của Thea.
Gaby triết lí:
- Thế giới đôi khi mới nhỏ bé làm sao chứ. Gần hai mươi năm trước, Thea chưa ra đời thì tên cướp đã tồn tại trong cuộc sống của mẹ bạn ấy. Còn bây giờ thì chính Thea lại là nhân vật chủ chốt để giúp cảnh sát tìm ra gã. Hay thật.
Tarzan trầm ngâm:
- Mọi thứ chỉ là tình cờ thôi, Gaby. Thea có thể biết Poldgar nhưng tên cướp này thì không hề biết bạn ấy là con gái của vị hôn thê cũ. Nếu gã biết thì chắc không có chuyện gã bỏ đi dễ dàng vậy ngoài ga, sau khi liệng chiếc chìa khóa. Vấn đề chỉ còn ở chỗ vì sao Thea biết mặt gã.
Thanh tra Glockner nhắc lại:
- Tạm thời cứ biết vậy đã. Các con nhớ đừng nói gì tới chuyện truy nã Pruffe nhé. Đừng đẩy bà chủ nhà hiếu khách của các con vào tình thế khó xử.

BA: GIA ĐÌNH THEA
Hồ Waiga như dát bạc dưới ánh mặt trời. Nữ bá tước Eugenie đang ngồi trang điểm trước bàn phấn. Bà không muốn bất cứ ai nhận ra mắt mình thâm quầng sau một đêm mất ngủ. Nhưng thực ra bà quá lo xa, ông chồng hờ hững của bà, bá tước Gebacht, còn gọi là Bachti, vẫn ung dung chúi mũi vào tờ báo sau khi ăn điểm tâm liền tù tì ba quả trứng luộc lòng đào. Thea giờ này chưa tỉnh ngủ. Trong sự im lặng tuyệt đối, bà Eugenie uống một li nước bưởi rồi nhâm nhi một tách nhỏ cà phê, lơ đãng nhìn ra ngoài trời. Giọng ông Bachti khàn khàn. Ông bỏ tờ báo xuống.
- Tôi phải vô trị trấn ngay bay giờ. Mình có muốn đi với tôi không?
- Không. Em hơi bị nhức đầu.
- Vậy hả.
Bachti đứng dậy. Ông có dáng dấp của một kị sĩ 40 tuổi, lưng thẳng đơ, chân vòng kiềng. Hơi thở ông toát ra mùi xì-gà, còn trên gương mặt là cả một sự mâu thuẫn: bộ ria mép mỗi ngày một rậm thêm trong khi mái tóc càng lúc càng thưa thớt. Ông có bằng kĩ sư nông nghiệp.
Bà Eugenie không nói gì nhưng vành tai hứng gọn tiếng rền rĩ của động cơ chiếc Landrover. Coi, khi chiếc xe bắt đầu lăn bánh mang theo ông bá tước là bà như bừng tỉnh. Poldgar đã đến căn nhà gỗ chưa nhỉ? – Bà nghĩ. Bà đã quá nhẹ dạ khi dám chứa một người đang thách thức pháp luật, và thách thức cả đám trẻ con sắp nô đùa ở đây nữa chứ. Trời ạ, chắc chắn đám bạn bè của Thea và con bé sẽ tung tăng khắp bờ hồ. Giả sử chúng khám phá ra anh ta thì sao? Trời ơi… phải đánh động cho Poldgar mới được.
Bà đứng lên. Có điều bà chưa kịp nhúc nhích thì cánh cửa bật mở. Thea ào vào như một con gió thốc.
- Con chào mẹ. Con rất muốn cảm ơn ba mẹ về chuyện vừa rồi.
- À, việc chúng ta mời các bạn con đến chơi hả?
- Dạ. Mẹ biết không, họ đều là cư dân thành phố lớn nhưng dễ thương và vô tư hơn lũ nhóc trong làng mình nhiều. Rồi mẹ sẽ thấy con chọn bạn không trật đâu.
Eugenie mỉm cười gượng gạo:
- Con đã lo thu xếp chỗ ở cho khách chưa?
- Xong từ khuya mẹ ạ. 12 giờ 01 phút trưa mai, họ sẽ đến thị trấn Weinfurth.
- Con phải đi đón bạn chứ.
- Đương nhiên mà mẹ. Oldo đã hứa sẽ cùng đi với con. Đúng giờ.
Miệng Thea “linh” cực kì. Cô bé vừa phát ngôn xong là anh chàng trẻ tuổi tên Oldo hiện ra, ủng trái giắt một tờ nhật báo Weinfurth. Vị cháu trai của ông bá tước này tuổi cỡ mười chín và là một chuyện gia… đi ủng. Oldo Durstilitsch có thói quen để đủ thứ hầm bà lằng trong ủng, từ lược chải đầu, đồ nghề sửa xe, thuốc lá cho đến bóp, tiền bạc. Đừng ai ngạc nhiên khi thấy anh ta có tới mười ba đôi ủng da.
Oldo cũng là một thành viên trong tòa lâu đài, dù trường hợp anh ta gia nhập hộ khẩu căn nhà khá đặc biệt. Cha mẹ anh ta đã lìa đời một cách bi thảm khi đi săn sư tử bên châu Phi cách đây nhiều năm. Theo lời của nhà đương cục địa phương kể lại thì mẹ Oldo bất ngờ bị sư tử tấn công. Cha Oldo đứng gần đó lập tức nổ súng. Oái oăm thay, viên đạn không trúng con sư tử mà trúng bà vợ khiến bà chết tại chỗ. Cha Oldo đau khổ quá bèn rút khẩu súng ngắn giắt ở thắt lưng bắn vào tim mình. Thế là con thú bị săn đuổi lại trở thành kẻ sống sót duy nhất và phi như bay vào rừng. Bá tước Gebacht von Durstilitsch thương thằng cháu mồ côi nên rước về nuôi. Dòng họ Durstilitsch lại sum họp dưới một mái nhà. Và Oldo có thể ngày ngày chiêm ngưỡng bộ sưu tập tranh độc nhất vô nhị của dòng họ mình. Còn phải hỏi, đó là bộ tranh sưu tập gồm nhiều kiệt tác của các danh họa châu Âu đã khiến dòng họ Durstilitsch trở nên lừng danh. Giá trị của những bức tranh là không ước lượng nổi. Ngoài ra, theo di chúc của các bậc tiền bối, chúng chỉ được phép trao lại cho một người thừa kế nam. Và Oldo yên tâm chờ đợi ngày ông chú qua đời để… sang tay cho mình bộ sưu tập. Dòng họ Durstilitsch vốn có truyền thống phong kiến “trọng nam khinh nữ”. Trước sau gì bộ sưu tập tranh có giá trị kếch sù ấy cũng sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh ta.
Đó cũng là nguyên nhân khiến bá tước Gebacht khó mặn nồng với vợ. Lí do gì bà không sinh cho ông một hoàng nam chớ? Đáng thương cho Thea. Cô bé vô tình trở nên một cái gai trước sự định kiến của hai người lớn.
Lúc này Oldo hất hàm một cách hách xì xằng:
- Còn quả trứng luộc nào cho anh không Thea?
Cô bé nhún vai:
- Ba em lại ăn hết rồi. Ai bảo anh đến muộn.
Oldo thở dài đánh sượt. Anh ta rất giống cụ cố Branco-Josef trên bức chân dung còn để lại. Oldo tướng mạo cao lớn, tóc sẫm, mắt xám, cử động hấp tấp, khi cười thường chỉ nhếch mép trái. Cũng giống cụ cố, Oldo thích rượu. Ông bá tước thường thấy cậu cháu say khướt nằm lăn ra nhà kho ngáy khò khò. Nhưng làm sao “chỉnh” thằng cháu nối dõi tông đường bây giờ, khi động đến là nó lại mếu máo: “Cháu buồn vì cái chết thảm của song thân quá”. Mà ông bà bá tước thì lại giàu lòng trắc ẩn.
Chỉ Thea là hiểu Oldo hơn cả: Sau bề ngoài vui vẻ là một gã trai cục súc, không có cá tính và liều lĩnh. Nhưng cô dửng dưng vì không thấy điều đó can hệ gì đến mình…
Oldo chụp một ổ bánh mì không và bẹo má Thea, nhếch mép trái cười:
- Thôi vậy. Không trứng thì không điểm tâm nữa!
Đoạn anh ta bỏ đi.
Thằng cháu trời gầm vừa biến mất là bà Eugenie bật dật ngay:
- Mẹ cũng đi đây, Thea ạ. Mẹ tính… Thôi, chào con.
Thea so vai chịu đựng. Cô bé đã quen ăn sáng một mình giữa tòa lâu đài lạnh lẽo này.
Trong lúc cô mơ màng nhớ đến Tứ quái TKKG thì nữ bá tước Eugenie đang thả guồng chân trên chiếc xe đạp tuyệt đẹp, về phía bờ hồ có căn nhà gỗ.
Poldgar Pruffe ngồi xuống trước căn nhà gỗ. Chiếc áo khoác để bên cạnh, sơ-mi mở phanh ngực. Tên lưu manh đang tận hưởng ánh mặt trời buổi sáng. Có tiếng cát lạo xạo bên hông nhà. Pruffe nhảy phắt dậy, ghé mắt dòm qua góc nhà. Coi kìa, Eugenie chứ ai. Người đàn bà nhảy xuống xe, trông thấy người xưa và luống cuống thấy rõ.
Cố nhiên năm tháng cũng để lại dấu vết trên khuôn mặt dãi dầu của Poldgar. Nhưng ngó anh ta vẫn phong độ, y như trong ảnh, chỉ già dặn hơn – Bà bá tước nghĩ thầm. Bà cũng hiểu đó chỉ là vẻ già dặn bề ngoài. Việc anh ta liên tục phạm tội chứng tỏ Poldgar không hề trưởng thành lên được chút nào. Nhưng Eugenie tạm thời gạt điều đó qua một bên. Bà đang quá xúc động về cuộc hội ngộ sau bấy nhiêu năm. Poldgar cười thăm dò:
- Bà còn đẹp hơn cả ngày xưa, thưa bá tước phu nhân.
Eugenie nghe trống ngực đập rộn ràng, tuy nhiên bà vẫn giả tảng:
- Anh đã quen với cuộc sống… bên hồ này chưa?
- Rồi. Và hi vọng được em ban ân huệ đến thăm đôi lần trước khi Chuột Chũi và Nhạc Trưởng tới đón anh đi.
- Hừ, thế còn biệt danh của anh trong giới… giang hồ là gì vậy?
- Hãy gọi anh là “Nghệ Sĩ Khất Thực”. Trong hoàn cảnh hiện giờ, cái tên ấy là thích hợp hơn cả.
Bà Eugenie lẳng lặng gỡ một túi nhựa căng phồng khỏi giá đèo hàng sau xe đạp. Bà đã lén đem tới cho Poldgar: xúc xích hun khói, bánh mì, pho-mát, cà phê bột, một chai vang và… trứng luộc. Poldgar cười, phô đủ hai hàm răng:
- Anh chỉ muốn hôn em. Lúc này anh cảm thấy mình như thượng khách vậy.
Bà Eugenie vẫn cố giữ vẻ nghiêm nghị:
- Nhân anh nhắc đến khách. Từ ngày mai, ở đây sẽ rất nhộn nhạo. Con gái tôi đã mời bốn người bạn Đức của nó qua chơi. Chắc chắn lũ trẻ sẽ rong chơi quanh đây.
- Hà hà, em yên trí. Bọn nhãi thì chưa thấy người đã thấy tiếng. Anh dư sức tránh gặp chúng.
Đúng lúc đó một tia sáng lóe lên đập vào mắt Eugenie. Bà có cảm tưởng tia sáng kì lạ ấy còn lóe lên một lần nữa ở bìa rừng cách chỗ họ đứng chừng một cây số. Bà kêu lên:
- Vô nhà lẹ lên Poldgar. Lẹ lên nào!
Tên lưu manh phản xạ nhanh như cắt. Gã vớ áo khoác lẫn túi đồ ăn chui tọt vô cửa nhà. Gã hỏi vọng ra:
- Có chuyện gì vậy?
Bà Eugenie đứng cạnh cửa:
- Có kẻ đứng ở bìa rừng, chĩa ống nhòm về phía căn nhà. Ánh mặt trời chiếu đúng mắt kính ống nhòm. Anh không thấy gì sao?
- Không. Em cho rằng… chồng em theo dõi chúng ta à?
- Bachti đã lái xe ra thị trấn. Nhưng cậu cháu Oldo của chúng tôi dạo này thường ở khu vực ấy. Chúng tôi đốn gỗ mà. Ngoài ra, cũng có thể là lão Schelldorn mát thần kinh. Cái nông trại bên đường kia là của lão đó.
- Anh đã đi ngang căn lều đó. Nó có vẻ sắp sụp tới nơi.
- Lão Schelldorn không còn minh mẫn, nhưng vô hại.
- Giờ em có thấy ai không?
- Không. Bìa rừng im lặng như tờ. Tôi phải về đây. Vì Chúa, xin anh hãy thận trọng.
Pruffe đáp gì đó nhưng Eugenie không nghe thấy nữa. Bà đã lên xe, đạp đi.
*
Con tàu dừng lại trong tiếng loa ầm ĩ:
- Đã đến ga thị trấn Weinfurth bên hồ Waiga!
Cú phanh quá gấp làm Gaby đổ nhào vào người Tarzan. Hai đứa cùng nhìn ra cửa sổ tàu. Thea đang nhảy nhót dưới sân ga. Cô bé đã nhận ra những vị khách quý của mình. Khỏi phải nói cảnh tay bắt mặt mừng của cả đám rùm beng đến cỡ nào. Bàn tay xinh xắn của Thea kéo một gã trai cao lớn đến gần, giới thiệu:
- Đây là ông anh họ Oldo của tôi.
Oldo bắt tay từng đứa, niềm nở nhếch mép:
- Thea thật sáng kiến, đã mời mấy cô cậu. Ở nhà tụi tôi buồn tẻ quá. Cũng cần đổi gió một chút.
Trên đường ra xe, Tarzan chú ý tới một tờ áp-phích. Hàng chữ in đậm in trên đó thật kì cục: “Con quỷ hồ Waiga không biết xót thương ai”. Quái đản thật, ma quỷ gì trong thời buổi này. Hắn hỏi Thea:
- Này, ở thị trấn đang có chiếu một phim kinh dị hả?
- Phim gì đâu, chuyện thật đó. Đây là một vùng nguy hiểm. Bên Đức các bạn không nghe nói gì sao?
- Nói nghiêm túc coi Thea. Ở đây có một con quỷ thật à?
- Chứ gì nữa.
Thea vừa nói vừa leo lên xe. Tròn Vo nghệch mặt tò mò:
- Có sừng và có đuôi không Thea?
Oldo ngồi vào sau tay lái, cũng góp chuyện:
- Chưa ai hân hạnh gặp con quỷ đó cả. Chỉ biết rằng con quỷ đi đến đâu là bình địa đến đó. Khắp vùng ven hồ đều bị nó hỏi thăm.
Tarzan ngơ ngác:
- “Hỏi thăm” là sao?
- Nó khoái cái món ném bom tự tạo vào các kho chứa cỏ, nhà nông dân… Nó đã gây thiệt hại nhiều triệu schilling chớ ít đâu.
- Không lẽ các vị cứ để mặc con quỷ hoành hành vậy sao?
- Cảnh sát ở đây bất lực hoàn toàn. Có lẽ vì con quỷ không hành sự vào giờ hành chính. Nó luôn tác quái khi các ngài cảnh sát đang ngon giấc. Công bằng mà nói, nó tinh ranh thật, cái con quỷ ấy. Ha ha. Nếu không tôi đây đã tóm được nó. Tôi cũng thường lùng sục dữ lắm chứ bộ.
- Anh chiến đấu sô-lô thì làm sao thành công được. Nếu có tụi tôi bổ sung thì khu vực rộng lớn này dễ kiểm soát hơn đấy. Tụi tôi có thừa kinh nghiệm đối phó với bọn tội phạm.
- Và cả quỷ sứ nữa chắc?
Oldo hỏi đầy vẻ hoài nghi. Gã moi bao thuốc lá từ trong ủng phải ra và móc tiếp chiếc bật lửa nơi ủng trái, hỏi Tarzan:
- Hút không?
- Không bao giờ. Tụi tôi không đứa nào hút cả.
Oldo hạ cửa sổ xuống, phà khói. Ít ra thì gã cũng được một chút tế nhị. Chiếc xe lao nhanh về phía tòa lâu đài. Thea đóng vai trò “người hướng dẫn du lịch”:
- … ngôi nhà lụp xụp kia là của lão Dagobert Schelldorn. Ông lão sống lủi thủi một mình và tính tình mát mát.
Oldo xía vô:
- Lão mà mát. Có lúc lão khôn như quỷ.
Tarzan giật mình:
- Vậy phải để mắt đến lão. Nếu lão lúc mát lúc tỉnh, lão có thể nổi khùng mà quăng bom lắm chứ.
- Chú mày nói chí phải. Chưa ai nghĩ đến điều đó vì lão già ở đây từ đời nảo đời nào rồi. Nhưng biết đâu đó, trong cơn điên, lão có thể giở những trò ma quái lắm chớ.
Thea nhìn ngôi nhà tồi tàn:
- Kể ra lão cũng ngang ngang sao đó. Lại cáu bẳn rất khó gần.
Oldo cười lớn:
- Ha ha, mấy đứa có óc thám tử ghê há. Mới vừa chân ướt chân ráo đến đã tìm ngay ra một kẻ khả nghi rồi.
Hồ Waiga rộng hơn Tứ quái tưởng nhiều. Gaby sực nhớ đến con Oskar liền hỏi Thea:
- Nhà bạn có nuôi chó không?
- Có chứ. Một con cún tiểu thư hai tuổi tên Blanka. Nó rất đáng yêu, chỉ phải tội hay hờn lẫy.
Họ về đến lâu đài nhà Durstilitsch vừa lúc một người đàn ông ria rậm, đi chân vòng kiềng đang vội vã bước lên bậc tam cấp, vào nhà. Cô chưa kịp giới thiệu với các bạn đó là cha mình thì một vị khách khác đã đâm sầm ra. Ông ta nhảy phóc lên chiếc Rolls Royce sang trọng đậu trước cửa, vẻ mặt hầm hầm. Hai người đã gây gổ với nhau chăng?
Thea chợt hết hồn khi thấy con chó trắng khoang đen Blanka ở đâu trong góc nhà vọt đến mũi chiếc Rolls Royce. Trời đất. Người khác trên xe rõ ràng thấy con chó nhưng ông ta dửng dưng rồ ga phóng tới hết cỡ.
Ẳng! Con Blanka sủa lên một tiếng chói tai, nhảy phắt sang một bên theo bản năng, nhưng vẫn bị va vào chắn bùn. Nó lăn lông lốc, kêu ăng ẳng đau đớn, nhưng lại đứng lên ngay.
Thea rú lên. Gaby đưa hai tay bưng miệng. Chiếc Rolls Royce vẫn lao như tên bắn suýt chút nữa là chạm phải xe của Oldo. Hai chiếc xe chạy sát sạt nhau. Tarzan thoáng thấy kẻ ngồi trên chiếc Rolls Royce. Lão trạc ngũ tuần, đầu to, lông mày chổi xể, vài sợi tóc lưa thưa dính da đầu. Một bên mép trễ xuống bởi điếu xì-gà, coi thấy ghét. Hắn nói:
- Lão đười ươi ấy suýt chẹt chết con Blanka của bạn, Thea ạ. Tụi mình đuổi theo lão, dạy cho lão biết phân biệt chó và thú hoang chăng?
Oldo thì chẳng quan tâm gì tới chuyện con chó. Gã ngạc nhiên vì lí do khác:
- Đó là Angelo Alensky. Lão muốn gì ở ông chú tôi vậy cà?
- Sao? Tụi mình không định cảnh cáo lão à?
Oldo lắc đầu:
- Kẻ nào cả gan đương đầu với lão thì hãy đào huyệt cho mình trước đã.
Tarzan vờ co rúm người:
- Hả? Lão là trùm quản lí nghĩa địa chắc?
Oldo cười khẩy:
- Trùm tài phiệt nước Áo thì có. Nói cho chú em biết, Alensky là một tay buôn vũ khí đầy tai tiếng, có mạng lưới tiêu thụ khắp thế giới. Ở đâu nổ ra chiến tranh là ở đó lão vô mánh dài dài. Mà Trái Đất của chúng ta đã có khi nào im tiếng súng đâu, cho nên Alensky cứ thế mà phất đều. Thị trường màu mỡ nhất của Alensky là vùng Cận Đông. Khách hàng của lão là các quốc gia hiếu chiến và các tổ chức khủng bố. Tiền bạc chảy vào túi lão như nước. Bây giờ bơi lội trong tiền bạc rồi, lão bắt đầu lo tìm kiếm danh vọng. Lão đang cố tỏ ra là người quý phái, tử tế, lịch thiệp.
Thea bổ sung:
- Nghe nói lão đam mê sưu tập tranh nghệ thuật lắm.
Oldo cãi:
- Chỉ để khoe khoang thôi. Lão sưu tầm tranh chẳng qua để phô trương với thiên hạ.
Oldo dừng xe trước các bậc thang dẫn lên lâu đài. Tứ quái đã đến đích của chuyến du lịch.
Trong sảnh lớn của lâu đài Durstilitsch, các “vị khách” đến từ Đức không ngớt trầm trồ trước
những bức tranh vô giá treo san sát trên tường. Oldo rút gói thuốc lá khỏi ủng rồi cất giọng oang oang:
- Những bức tranh này, có thể nói là của dòng họ chúng tôi cho chú Bachti tạm giữ. Sau này tôi sẽ thừa kế tất cả. Dòng họ Durstilitsch có truyền thống chỉ trao kho báu nghệ thuật cho một người đàn ông quản lí. Tội nghiệp cho Thea, con bé thuộc phe tóc dài, hề hề…
Thea ngúng nguẩy:
- Em chẳng thèm tranh giành với anh làm gì. Nhưng anh nói “tạm giữ” là không đúng. Suốt 150 năm nay, các chi của họ Durstilitsch đều góp phần mua thêm vào số tranh ấy. Cha mẹ anh chỉ thuộc chi phụ, còn em thuộc dòng đích tôn. Đáng tiếc em sinh ra là con gái, chớ là con trai thì anh đừng hòng.
- Hừm, chi phụ biến thành chi chánh mấy hồi. Là người đàn ông sau chót mang họ Durstilitsch, anh chẳng thừa kế đám tranh thì còn ai nữa chớ.
Tarzan can:
- Thôi nào. Chuyện đó còn khuya mà. Thiếu gì đề tài hay ho hơn để tranh luận.
Thea cười. Oldo lại phì phèo thuốc lá. Rồi Thea vui vẻ kêu to:
- Mẹ ơi, ba ơi, tụi con đã vềềề.
Nữ bá tước Eugenie mỉm cười bước xuống các bậc cầu thang, còn bá tước Bachti hiện ra từ một vòm cửa cao rộng cạnh lò sưởi. Mọi người chào hỏi nhau vồn vã. Món quà tặng độc đáo của Tứ quái là một album ảnh đắt tiền về thành phố quê hương bốn đứa. Ông bá tước có vẻ hài lòng khi nhận nó từ tay Gaby. Ông mỉm cười:
- Các cháu cứ tự nhiên như ở nhà nghe. Thea, con đưa các bạn về phòng đi.
Như thường lệ, ba thằng con trai ở chung một phòng. Gaby ở phòng nhỏ hơn, ngay cạnh.
Sau khi thu xếp xong phòng ốc, Tứ quái kéo xuống phòng ăn. Coi, tại phòng ăn, một chiếc bàn lớn đủ chỗ cho 20 thực khách và cả gia đình Durstilitsch đang chờ chúng. Thea thoăn thoắt như con thoi bê đồ ăn giúp chị bếp. Sau hai thìa súp, Oldo chép miệng:
- Chậc, hồi nãy chú em Tarzan đây định kêu cháu bám theo để tẩn lão Alensky một trận. Nhưng cháu đã kịp cản lại.
Tarzan ngạc nhiên:
- Khoan đã Oldo! Nói gì kì vậy. Cháu đâu định đánh ông ta, thưa bá tước. Nhưng cháu cũng định nói cho ông ta một trận. Suýt nữa thì Alensky chẹt chết con Blanka, dù ông ta có thấy con chó hẳn hoi.
Bà Eugenie thốt lên:
- Kinh khủng!
Ông bá tước gật gù:
- Lão có lí do để giận cá chém thớt như vậy.
Tarzan bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hắn thắc mắc:
- Thưa bá tước Durstilitsch, nhưng cho dù Alensky có bực bội với bác thì lão vẫn không có quyền chẹt chết con chó vô tội.
- Cháu nói đúng. Có lẽ lúc ấy ông ta tưởng tượng là đang cán chính tôi cho hả giận đó mà.
Món súp khai vị ngon tuyệt. Nhưng ông bá tước đã đặt thìa xuống quay qua gã cháu họ:
- Oldo này, hôm nay Alensky đã bị ta trừng phạt. May mà có lí do khiến lão không thể ăn cướp số tranh của ta. Lí do đó chính là thói kêu căng vô độ của lão.
Chà, chuyện gì nghe thú vị thế này? Tarzan nheo mắt với ba quái. Ông bá tước tiếp tục:
- Các cháu là khách mới đến chắc chưa biết. Số là trong nhà này đang chứa một bộ sưu tập tranh hiếm có. Toàn tranh của các danh họa Hà Lan, trường phái ấn tượng và Clau de Lorrain. Dòng họ Durstilitsch nổi tiếng là những nhà sưu tầm nghệ thuật sành sỏi khác xa với dòng họ Angelo Alensky chuyên thao túng xã hội đen. Alensky chính là sếp sòng buôn bán vũ khí đấy. Lão chỉ cần búng tay một cái là cả tá trộm cướp sành sỏi sẽ bu đến đợi lệnh. Chứ gì nữa, nếu hôm nay lão búng tay là ta đành từ giã bộ sưu tập tuyệt vời. Nhưng không, lão sẽ không giở trò đó.
Tarzan nuốt từng lời của gia chủ. Hắn ngước mắt:
- Chỉ vì thói kiêu căng ạ?
- Chí phải. Lão muốn mua bộ sưu tập tranh của ta với giá mười lăm triệu mark.
Oldo muốn nhảy chồm khỏi ghế:
- Giá được đấy, chú.
- Ngồi yên Oldo. Hôm qua lão gọi điện hẹn đến xem tranh, ta không thể từ chối. Vì - thật kì lạ - cho dù cực kì vô lương tâm, Alensky vẫn là một trong những nhà sưu tầm nghệ thuật tầm cỡ. Lão đến, ngắm các bức tranh tới hai giờ liền. Ta cứ sởn hết gai ốc. Và thế là…
Vẫn giọng Oldo phang ngang:
- Thế là mười lăm triệu mark hiện ra hả chú. Cái giá thật ngon lành. Thế chú trả lời sao ạ?
- Không, Oldo. Ta đã trả lời ta là người yêu tranh chớ chẳng phải người buôn tranh.
- E… hèm. Thì cháu cũng biết vậy rồi.
Tarzan vẫn thắc mắc:
- Nhưng cháu vẫn chưa hiểu thói hợm hĩnh của lão thì liên quan gì đến việc mua bán tranh.
- Dễ hiểu thôi mà. Ở biệt thự của Angelo Vũ Khí hiện giờ đầy ắp tranh và tranh. Mỗi lần tậu thêm một bức tranh mới, lão lại mở tiệc mời các “bố già”, cơ quan báo chí, truyền hình… đến để khoe. Lão thường lo sao cho cả thiên hạ đều biết chuyện đó… Thế mới gọi là hợm hĩnh đến vô độ.
- Cháu bắt đầu hiểu rồi. Lão muốn công khai hóa những tác phẩm lớn, bởi lão thừa sức mua nó. Còn nếu cho đệ tử đi ăn cướp thì phải xếp xó trong kho đâu có vẻ vang hoặc lên mặt với bàn dân thiên hạ được. Có đúng không hả bác?
Ông bá tước sửng sốt:
- Ồ, cháu luôn nhanh trí vậy sao, Tarzan?
Tarzan lảng đi bằng một câu hỏi khác:
- Alensky là người vùng này ạ?
- Phải. Lão có một biệt thự ở đầu kia làng Goschendorf. Và vô số vợ. Bà vợ chính thức thứ tư vừa chia tay lão. Lão chỉ có một đứa con gái duy nhất tên Ilona năm nay mười bảy tuổi. Con bé này là con của người vợ đầu tiên và… không được dễ coi cho lắm.

BỐN: LÃO SCHELLDORN BÁO THÙ
Paul Handrischek biệt hiệu Chuột Chũi lái chiếc Mercedes cũ kĩ mang biển số thành Viên phóng như bay. Bự con như gã cũng phải kiệt sức. Chớ gì nữa, suốt hai ngày nay gã cực kì mệt mỏi sau chuyến đánh quả ở một nhà băng mà chỉ cướp được có 212.000 schilling vỏn vẹn. Hai ngày nay Chuột Chũi lái xe chạy như điên chỉ sợ cảnh sát bám theo. Trên xe là thằng đồng nghiệp Josef Mutzberger biệt hiệu Nhạc Trưởng nằm sốt li bì bởi một viên kẹo đồng của cảnh sát găm ngay vào mông phải. Chúng luồn lách xuyên nước Áo mà không dám dừng lại nơi nào. Dừng là chết, Chuột Chũi tự hiểu như vậy. Chiếc Mercedes xấu xí đã bị cảnh sát nhận dạng và truy nã. Con đường đồng nội lúc này tung bụi mù buổi trưa. Nắng nóng tựa sa mạc nhưng Chuột Chũi chợt có cảm tưởng sắp được uống một dòng suối mát. Gã nhìn tấm biển bên đường và reo lên:
- Hồ Waiga! Mày nghe không, Nhạc Trưởng? Đến nơi rồi!
Giọng Josef yếu ớt:
- Tụi mình sẽ gặp nó ở đâu đó tại… Weinfurth hả?
- Ừ. Tại bưu điện Weinfurth lúc 13 giờ 33 phút trưa mai. Nó hẹn tụi mình rất rõ ràng.
- Vậy mắc mớ gì mà mày reo lên chớ?
- Đồ ngu. Weinfurth nằm cạnh hồ Waiga.
- Hả? Tao biết cái hồ ấy. Hồi đó tao còn kéo đàn. Rồi… ôi, tao mệt quá.
- Ai chẳng biết mày là nhạc sĩ lang thang trước khi đi ăn cướp. Rồi sao mày?
- Chẳng sao cả.
Chuột Chũi căn vặn:
- Rõ ràng mày đã nghĩ tới điều gì đó mà.
- Ồ, có gì đâu. Xưa rồi. Nếu mày lái xe về hướng Goschendorf và rẽ trái thì… hồi trước ở đó có một nông trại trơ trọi.
- Trơ trọi thì được. Nhưng liệu mình có trốn đến mai được không, mày bị thương ngay mông làm sao nhúc nhích xa được.
- Nhắc đến chỗ trúng đạn, tao thấy… đuối quá.
Chuột Chũi im bặt. Giờ này gã là cứu tinh của cả hai thằng. Phải căng mắt sáng suốt mà lao đúng hướng Goschendorf. Thân hình hộ pháp của gã tì lên tay lái. Mặt gã đỏ, cặp mắt ếch màu xanh lơ, tai trái đeo một cái khuyên nhỏ bằng vàng. Cho dù có cặp mắt ếch, những nét trên mặt gã khiến người ta nhớ đến giống chuột chũi. Băng sau tiếng thều thào vang lên:
- Khát!...
- Mày bị sốt nên khát nước đấy thôi.
- Tao cóc cần biết vì sao. Tao muốn uống!
- Yên trí. Tao sắp tấp vào cái nông trại trơ trụi mà mày mê sảng hồi nãy đây.
Chuột Chũi dừng xe trước ngôi nhà xác xơ. Trên gác hai có rèm hoa sau cửa sổ. Tạ ơn trời đất, vậy là ngôi nhà có người. Gã chưa kịp chuẩn bị thái độ gì thì một ông già khệnh khạng từ bên trong bước ra. Mặt mũi ông già coi bộ hắc ám hết biết. Chuột Chũi nhảy phóc xuống xe kéo khóa áo khoác lại che kín con chó lửa dắt ở thắt lưng. Gã vui vẻ:
- Chào cụ, tôi là trung úy cảnh sát Handrischek. Chúng tôi đuổi theo một tên cướp của giết người. Đáng tiếc là đồng nghiệp Mutzberger của tôi bị trúng đạn của hắn, nằm trên xe. Tôi cần được giúp đỡ. Nhà có ai nữa không?
Bộ râu có lẽ cả đời chưa cạo của ông già thoáng mấp máy. Ông lão ngơ ngác nhìn, mãi mới thủng câu hỏi.
- Ở đây chỉ có mình tôi. Tôi không thể giúp gì cho các ông.
- Tên gì?
- Dagobert Schelldorn tự lão Mát. Bọn trong làng gọi tôi như thế đấy, và cứ tưởng tôi không biết. Cái bọn tồi ấy.
Chuột Chũi rút súng lục thật lẹ:
- Mát hay không mát gì cũng cần tỉnh lẹ đi. Ê, tụi này sẽ vào trú trong nhà lão, lão Mát ạ.
Schelldorn chưng hửng. Lão ngó khẩu súng, thè đầu lưỡi ra liếm môi:
- Các… các ông không phải sĩ quan cảnh sát à?
- Chứ sao, lão Mát! Nào, ra xe ngay. Thằng bạn ta đang cần ngả lưng trên cái giường của lão.
- Vậy là du côn hả?
- Ờ, mà tụi này khó gặm lắm đấy. Lão không nghe lời thì, cha nội ơi, ta cho lão về chầu cụ tổ liền.
Ông già đành một mình ra xe. Chuột Chũi cảm thấy nhẹ người. Gã đứng tại chỗ vung vẩy chó lửa đợi lão Mát mở cửa xe lôi thằng chiến hữu bị thương vào. Hà hà, lão già có khùng cách mấy cũng phải thấy quan tài đang ở kề bên. Đố lão dám cự nự, hả!
Đúng là lão Schelldorn không dám cự nự. Lão rúc bộ râu rối mù vào xe để rồi sửng sốt khi thấy Josef Nhạc Trưởng. Lão đang gặp một cơn ác mộng. Lão gãi gãi cằm nghĩ: Thằng khốn, còn lâu tao mới quên mặt mày. Cách đây nhiều năm mày đã ở đây, cũng cái trán rộng có bướu, cái mũi gãy và cái sẹo căng cả một bên mép. “Nó quay trở lại. Nhưng nó không nhận ra ta. Có gì lạ đâu. Giờ ta già rồi. Nhưng ta vẫn tinh khôn lắm, hơ hơ hơ hơ!” – Lão Mát đắc chí nghĩ thầm như vậy.
*
Đám trẻ kéo ra trước nhà hóng mát sau bữa ăn. Tarzan khều vai Thea hỏi nhỏ:
- Hình như Oldo thay đồng hồ xoành xoạch, bạn có thấy điều đó không Thea? Lúc ra ga đón tụi này, anh ta đeo một chiếc đồng hồ khác kia mà.
Cô gái người Áo gật đầu:
- Ông anh họ của tôi ghiền đồng hồ. Có thể nói như vậy. Anh ta sưu tầm đủ loại đồng hồ đeo tay, cả rẻ tiền lẫn đắt giá. Theo tôi biết hiện thời gia tài đồng hồ của Oldo có hơn 20 chiếc và con số sẽ còn tăng nữa. Ngoài chơi đồng hồ, Oldo còn có thú chơi ủng. Ảnh coi ủng như những cái túi, nhét đủ thứ đồ đạc trong đó.
- Chà, gia đình bạn lạ thường nhỉ. Ba của bạn thì mê tranh, anh họ thì mê ủng và đồng hồ. Còn bạn?
- Tôi sưu tầm ảnh.
- Ảnh các thần tượng âm nhạc hoặc điện ảnh à?
Thea cười, lắc đầu:
- Tôi chỉ sưu tầm ảnh những người trong gia đình, bạn bè, người thân thôi.
Tarzan nhíu mày. Khi cả đám bước đi theo sự hướng dẫn của Thea, Tarzan mới nhỏ nhẹ lựa lời:
- Thea này, tôi có cảm giác rằng bạn có biết tên cướp Poldgar Pruffe phải không? Đừng giận tôi nhé. Lúc tụi mình ở văn phòng thanh tra Glockner, tôi thấy bạn có vẻ gì lạ lắm.
Thea dừng chân. Nụ cười biến mất. Cô bé trân trối nhìn Tarzan, rồi hốt hoảng đưa mắt ra xung quanh. Gaby giận run:
- Tarzan! Bạn nhất thiết phải nói chuyện đó sao? Tụi mình là khách, vừa chân ướt chân ráo đến đây, bạn đã hỏi cung liền. Ích gì chớ, chỉ làm Thea thêm buồn.
Thea khẽ nói:
- Đừng trách Tarzan. Bạn ấy đúng đấy. Tôi không muốn giấu các bạn đâu, nhưng thực tình lúc gặp Pruffe ở ga tôi cứ ngờ ngợ mà chẳng nhớ ra nổi. Giờ thì… nhớ rồi.
Tarzan nở một nụ cười:
- Bạn đã thấy gã ở một tấm ảnh, đúng không?
Thea gật đầu. Tarzan tiếp tục:
- Cảnh sát Viên đã dò ra rằng hai mươi năm trước Pruffe từng quen với mẹ bạn. Không trách mẹ bạn được, vì ai mà biết được sau này bạn mình sẽ trở thành người ra sao. Mẹ bạn còn giữ hình của
gã. Phải không Thea?
Thea lại gật đầu. Lúc này trông cô thật khổ sở. Cô nói gượng gạo:
- Chuyện này quả là chẳng hay ho gì, cho dù mẹ tôi hoàn toàn không có lỗi. Tôi nghĩ Pruffe từng là bồ thời trẻ của mẹ tôi. Các bạn hiểu không, khi thuật lại vụ cướp ở khách sạn, tôi đã giấu biệt tên kẻ tội phạm để bà đỡ khổ tâm. Riêng bức ảnh tên cướp thì đúng như Tarzan đã đoán, tôi tình cờ phát hiện nó trong cuốn album cũ ở trên bàn trong phòng mẹ. Mẹ tôi không hề biết điều đó.
Tarzan vỗ về:
- Cũng nên nói ra với tụi này cho nhẹ người một lần rồi bỏ luôn Thea ạ. Hãy quên đi. Đằng nào chúng ta cũng sẽ chẳng chạm trán Pruffe nữa. Coi như mất tiêu số nữ trang của cô Isa và chiếc đồng hồ của tôi. Nào, bây giờ bạn định dẫn tụi tôi đi đâu đây hả Thea?
- Đầu tiên hãy ra hồ đã nhé? Chúng tôi có một căn nhà gỗ ở đó.
Tứ quái hoan nghênh cấp kì. Con Blanka cũng nhập bọn.
*
Trong ngôi nhà xập xệ của lão Mát, tên cướp bị thương rên rỉ và lại hôn mê – đây là lần thứ ba trong ngày. Chuột Chũi nhún vai:
- Để mặc cho nó ngủ. Nó sẽ quên đau.
Giọng lão Schelldorn hơi hằn học:
- Anh ta chỉ nằm sấp được thôi, hả?
Chuột Chũi không đáp.
- Đói quá. Nhà có gì ăn không lão già?
Schelldorn gật đầu. Hai người đi xuống căn bếp rộng. Chuột Chũi ngó quanh. Trên tường treo bức ảnh lớn chụp một thanh niên trạc tuổi đôi mươi. Trên giá gỗ dưới bức ảnh là một lọ hoa nhỏ.
- Con trai lão đấy à?
- Ừ, nó chết rồi.
- Vậy hả? Tôi xin lỗi.
- Nó bị giết. Cách đây nhiều năm. Khi ấy nó mới mười chín tuổi đầu và là thằng con trai độc nhất của tôi.
Dưới lọ hoa chặn một bài báo, giấy đã ố vàng. Chuột Chũi tò mò rút ra đọc. Mẩu tin ngắn ngủn.
- Hừ, con trai lão bị giết bao giờ? Báo đăng rằng Siegfried Schelldorn, mười chín tuổi qua đời do tai nạn cơ mà.
Lão già mỉm cười, mắt lại ánh lên tinh quái:
- Ấy là do ông đồn trưởng cảnh sát bày đặt ra như thế.
- Cái gì?
- Siegfried bị một chiếc ô-tô cố tình cán chết, đếch phải tai nạn gì cả. Người ta đã cung cấp tin giả cho các nhà báo, tạo cho hung thủ cảm giác yên tâm và để dễ bề bắt hắn.
- Ra thế. Rồi sao?
- Chẳng kết quả gì.
- Sao vậy?
- Tên sát nhân chạy thoát. Nhưng tôi đã biết mặt gã. Tôi cũng biết vì sao gã giết con tôi. Cảnh sát đã truy nã nhưng cho đến nay con ác thú ấy vẫn không bị bắt.
Chuột Chũi nhún vai. Rồi ngáp dài:
- Có thể lão còn gặp hắn.
Schelldorn gật gật:
- Ồ phải, gặp chớ!
- Nhưng giờ thì đem cái gì ra đây chén đã. Cả bia nữa, nếu lão có.
Tên cướp nhà băng ngồi vào bàn.
- Ê, ông cướp. Rượu anh đào tôi tự cất lấy, được không?
- Hết sẩy. Đem đây uống thử coi.
Lão Schelldorn bước vào kho để đồ ăn cạnh bếp. Cánh mũi lão giật giật trên hàng râu rậm rạp. Trong hộp bìa là thuốc ngủ mà lão phải dùng hàng đêm để quên đi nỗi đau mất con. Nhưng không đêm nào lão chợp mắt nổi quá ba tiếng. Schelldorn lựa một cái li cối, rỏ vào đó đúng 20 giọt thuốc ngủ. Lượng thuốc này mà không làm lăn kềnh một con ngựa thì lão đi dưới đất bằng… đầu. Đoạn lão rót cỡ hai phần ba li rượu. Nghe nói rượu làm cho thuốc ngủ tăng tác dụng.
Chuột Chũi chỉ ngó sơ cái li cối là đã đủ chếnh choáng. Gã hít hà liên tục:
- Tuyệt vời! Bao nhiêu độ vậy?
- Cầu cả trăm độ, à không, tôi ăn nói mát dây quá. Nói chung là nặng đó.
- “Đô” càng nặng càng tốt. Chậc chậc, đập ngay vô chảo năm quả trứng. Nhớ thêm cả mỡ muối vào.
Lão già gật đầu nhưng chưa vội đi ngay. Thằng lưu manh đã bưng li ực một lèo. Chà! Ngon!
Nhưng rồi Chuột Chũi bắt đầu lác xẹo cả mắt. Lưỡi gã nặng như chì. Gã nhìn lão thấy có đến cả trăm mắt ngàn tay.
- Phù phù… rượu thánh… thật…
- Tôi đã bảo mà. Làm li nữa nha?
- Thôi… cho… trứng mỡ muối…
Khỏi phải lè nhè thêm mất công, Chuột Chũi đổ ập về phía trước đập đầu xuống mặt bàn cái rầm. Đố gã biết là gã lão già đang xốc nách mình đi đâu.
Rượu nặng thật, hả. Đồ dòi bọ! Schelldorn lôi Chuột Chũi xuống tầng hầm chớ còn phải hỏi. Lão phủi tay trở lên cầu thang mồm mép thở hồng hộc. Một nụ cười nở trên gương mặt nhăn nheo của lão:
- Té ra vẫn còn có công lí trên đời. Ta sẽ báo thù cho mày, con trai ạ.
Nào, bây giờ thì đến phiên tên cướp bể mông có biệt hiệu là Nhạc Trưởng. Lão Mát không nương tay như đối với Chuột Chũi. Lão kéo lê tên cướp xềnh xệch và cố tình dận mông gã xuống sàn hầm.
Nhạc Trưởng tru lên đau đớn, mở choàng mắt, ngơ ngác nhìn quanh. Bộ râu cả đời chưa cạo của Schelldorn ghé xuống mặt gã:
- Tao còn chưa biết sẽ làm gì với mày đây. Nhưng sẽ khủng khiếp đấy. Tao còn nghĩ đã…
Lão đóng sầm cửa lại, khóa kĩ và cất tiếng cười chói tai.
*
Trời thì nóng nhưng bầu trời vẫn xanh trong. Cảnh thiên nhiên vùng này đẹp đến nỗi lần đầu tiên Tròn Vo quên cả làu bàu ta thán về thời tiết. Tứ quái đang tiến gần căn nhà gỗ bên hồ Waiga. Con Blanka nhảy nhót theo sau. Tarzan đột nhiên giật thót mình. Hắn giơ bàn tay che nắng:
- Hình như có người chạy vào rừng! Mình có nhìn nhầm không nhỉ? Cái gì đó xam xám…
Thea không hề ngạc nhiên. Cô bé giải thích:
- Đôi khi vẫn có những người lang thang ghé qua đây mà.
- Họ có mượn căn nhà câu cá làm chỗ nghỉ qua đêm không?
- Không. Cửa khóa then cài kiểu đó làm sao vô được. Thông thường thì họ ngồi trên băng ghế. Nếu thấy người nhà xuất hiện là họ bỏ đi.
- Té ra là vậy. Ủa, Blanka! Blanka đâu rồi? Blanka!!!
Tarzan, rồi Thea gọi to. Nhưng con chó có dòng máu thợ săn trong mình đã lao như mũi tên về phía bìa rừng trước mặt, biến sau các rặng cây. Chợt có tiếng nó kêu ăng ẳng đau đớn. Coi, con chó cụp đuôi chạy từ rừng ra. Karl giơ tay đón nó, xem xét:
- Blanka đã bị kẻ nào đó đá vào bụng. Đại ca ơi, cái hình thù xam xám mày trông thấy có lẽ là người thật đó.
Tarzan nói qua kẽ răng:
- Hành hạ súc vật à. Được, kẻ ấy sẽ biết tay tao.
Hắn nói xong là phóng đi như bay. Hắn cứ theo vệt cỏ mềm bị xéo nát mà lần tìm. Đến một khoảng rừng thưa, hắn đi dọc một chồng gỗ dài cao ngất.
Hắn vừa di chuyển qua đống gỗ thì thoáng thấy một vật gì chuyển động bên cạnh. Tên gian rình nấp sau góc chồng gỗ! Tarzan nhận ra điều đó quá muộn và không thể dừng lại, cũng không thể tránh đòn. Để thoát hiểm, hắn chỉ còn biết lao mình lên trước. Nhưng vẫn dính đòn.
Trong tích tắc, hắn thấy đau dội sống lưng. Chân tay hoàn toàn bị tê liệt. Mặt hắn chúi xuống nền đất ẩm, má trái chạm mạnh vào một hòn đá.
Mình chưa chết, nhưng không cử động nổi nữa – Tarzan nghĩ và mở mắt ra. Bù cho nỗi đau nhức, hắn chợt phát hiện sát mũi mình là một đôi giày da lịch sự màu nâu có những đường trang trí cầu kì. Đôi giày còn thơm mùi da. Đôi tất lụa màu vàng kem.
Tarzan cố lắm cũng chỉ ngước đến đầu gối của gã lưu manh. Ống quần màu be được ủi cẩn thận của gã chứng tỏ tên đánh lén rất sành ăn mặc. Thậm chí thích chải chuốt và trưng diện nữa. Bàn chân xa lạ nhấc lên. Trong chớp nhoáng mũi giày đá thốc vào sườn thủ lĩnh TKKG. Tarzan kêu lên một tiếng rồi… nằm im. Chân tay hắn buồn buồn như có kiến bò. Gã kia bỏ đi.
Tiếng Gaby vọng vào rừng:
- Tarzan ơi!
Chân tay Tarzan bắt đầu cục cựa được.
- Tarzan!
Hắn đứng dậy, khó nhọc. Lưng vẫn còn đau. Nhưng may quá không bị thương. Tarzan lảo đảo quay ra và gặp các bạn ở bìa rừng. Tròn Vo vốn ỷ y vào tài nghệ của đại ca nên hớn hở hỏi ngay:
- Tẩn nó một trận ngon lành chớ đại ca?
- Nó tẩn tao thì có. Tao chỉ trông thấy… ống quần nó. Nằm đài vì bị chơi một gậy từ đằng sau chớ sao. Đến giờ còn ê ẩm.
- Ừ… ừm. Không có sao đâu đại ca. Thất bại là mẹ thành công dài dài mà. Thêm nữa, đôi khi cũng phải biết thua mới là hảo hán.
Karl Máy Tính quạu:
- Thôi nào mập. Bỏ cái kiểu triết lí vớ vẩn ấy đi. Vần đề là tụi mình sẽ truy tìm tên tội phạm ra sao đây.
Thea tròn xoe mắt:
- Tội phạm?
Tarzan gật đầu:
- Toàn bộ vụ này rất kì quái. Các bạn thấy đấy, có một cái bóng biến vào rừng, rồi chó Blanka bám theo và bị đánh, tiếp theo là đến phiên tôi bị cú đòn lén. Tại sao? Do đâu mà gã phải làm vậy chứ? Một thằng điên muốn ẩn mình không cho ai phát giác chăng? Bạn có nghi ngờ là ai không hở Thea?
Cô bé ngơ ngác lắc đầu. Tarzan trầm ngâm:
- Hay là con quỷ hồ Waiga định dằn mặt tụi mình?
- Không chắc đâu. Con quỷ chưa bao giờ họat động vào ban ngày. Chỉ ban đêm nó mới xuất hiện thôi.
Tròn Vo lanh chanh:
- Biết đâu bữa nay nó mắc chứng mộng du trong lúc ngủ ngày…
Karl hỏi:
- Mày không định đuổi theo gã sao đại ca?
- Tao cho là vô ích thôi. Hẳn là gã đã chạy thoát rồi.
Thea đồng tình:
- Có thể lắm. Rừng này hẹp thôi. Sau rừng đã là con đường chạy về hướng Klein-Kieferheide.
Đúng lúc này Tarzan phát hiện thấy Oldo. Từ đây đến căn nhà gỗ có đến tám trăm mét nhưng cái dáng khệnh khạng quen thuộc kia thì hắn có cảm giác như đang đối diện trước mặt mình. Oldo đi từ trong nhà ra đang lúi húi xuống ủng giấu hoặc lấy ra một cái gì đó.
- Thea nhìn kìa, anh họ của bạn vừa ở trong căn nhà gỗ đấy.
- Oldo như ma xó ấy. Đâu chẳng dòm ngó. Để ý làm gì cho mệt.
Oldo và đám trẻ đi hai hướng khác nhau. Anh ta lủi một mạch về lâu đài còn Thea và Tứ quái dừng trước căn nhà. Cô bé trố mắt:
- Chúa ơi, cửa bỏ ngỏ! Sao lại thế này được nhỉ?
Gaby hỏi lại:
- Vậy bình thường không để ngỏ cửa à?
- Không. Ba tôi cất đồ câu cá trong đó mà.
Tarzan ngắm cánh cửa: Cực kì chắc chắn, có khóa an toàn.
- Tôi vào nhé Thea.
Hắn vừa nói vừa bước vào. Căn phòng mát rượi và âm u, đồ đạc chất đống như trong một nhà kho. Máy sấy quần áo, máy hút bụi, xô chậu, đồ chơi hồi còn bé của Thea… nằm ngổn ngang khắp sàn nhà. Góc trái xếp đủ thứ lỉnh kỉnh, kìm, dao, búa… Những cần câu cá thì đựng ở góc tường. Trên một trong hai chiếc ghế dài có phủ chăn, hình như có ai đã ngủ ở đó. Karl đã đến bên cạnh Tarzan. Quân sư cúi xuống:
- Có người vừa ăn sáng ở đây. Đại ca thấy không: bánh mì vụn, xúc xích hun khói, vỏ trứng, cả một chai rượu vang rỗng.
Thea rùng mình:
- Vô lí quá. Hay là con quỷ hồ Waiga? Làm sao nó lọt vào đây được nhỉ?
Tarzan xem xét cánh cửa. Ổ khóa vẫn nguyên vẹn, điều đó chứng tỏ “con quỷ” của Thea có chìa khóa hẳn hoi.
- Có thể trong gia đình bạn có người quên khóa cửa cũng nên.
Tròn Vo tò mò cúi xuống gầm ghế. Nó hí hửng lôi ra một túi du lịch màu xám và chiếc áo choàng mùa hè sáng màu. Nó mở túi. Cả bọn nhòm vào.
Một chiếc sơ-mi vải bông, một quần lót nam màu xanh dương, một túi đựng kem đánh răng, bàn chải, dao cạo râu bằng da thứ thiệt, và một túi ni-lông rỗng không. Karl phá lên cười:
- Giả thuyết của chúng ta về kẻ xâm nhập căn nhà đã trật lất. Không phải “ma xó” Oldo cũng chẳng phải con quỷ hồ Waiga đâu. Thea này, có khi câu chuyện lại cực kì đơn giản: một kẻ bụi nào đó đang gặp khó khăn lang thang qua đây và… a lê hấp, nhào vô ngủ đại.
Tarzan gật đầu:
- Cũng dám lắm. Kẻ đó có một chìa khóa vạn năng, chuyên đi mở các căn nhà nghỉ vắng người để vào trú chân. Khi nghe tiếng con Blanka sủa, y hoảng hồn tông cửa chạy trối chết không kịp đem theo cả… quần lót. Rồi tôi và con Blanka lần lượt bị y cho đo ván.
Karl kết luận:
- Dù thế nào, đây cũng là một vị khách không mời mà đến và tính tình hung bạo.
Tarzan thọc tay vô các túi áo choàng. Hắn tìm thấy một mẩu bìa nhỏ màu tím viền nhũ vàng láng bóng. Mẩu bìa chỉ còn sót lại một chữ Đ. Những chữ tiếp theo đã bị mất cùng với phần bị xé. Hắn nhăn mũi:
- Có mùi diêm sinh. Vậy cái này là vỏ một vỉ diêm.
Karl cười:
- Có nghĩa y đích thị là con quỷ còn gì.
Tarzan quăng mẩu bìa vì nghĩ rằng nó chẳng nói lên điều gì.
- Tốt nhất là đem nộp chiếc áo choàng và cái túi du lịch cho cảnh sát. Họ sẽ tìm dấu vân tay trên ấy và sẽ xác định người hay quỷ đột nhập. Ở đây có đồn cảnh sát chứ Thea?
- Tận Weinfurth. Ba tôi quen với ông đồn trưởng Hobl.
Đám trẻ đem mớ “chiến lợi phẩm” về lâu đài. Tròn Vo được quyền xách chúng, lấy làm lãnh diện lắm.
Chiếc Landrover màu vỏ chuối của Oldo không còn trong ga-ra. Đám trẻ chạm trán ngay với bá tước Gebacht từ nhà kho đi tới với bình thuốc trừ sâu cắp nách.
- Chào các bạn nhỏ.
Thea mau mắn kể những khám phá li kì cho bố nghe. Ông bá tước sửng sốt nhìn chiếc áo choàng và cái túi.
- Lạ thật. Ta chưa thấy mấy thứ quỷ quái này bao giờ. Chúng ở đâu ra chớ?
Ông để mớ tang vật lên băng trước chiếc ô-tô đậu sẵn rồi cau mày:
- Ta sẽ đưa chúng đến cho ông bạn Hobl của ta. Sẽ chẳng có kết quả gì đâu, nhưng làm vậy cho đúng bổn phận. Còn Thea, con và các bạn vô nói với mẹ đưa chìa khóa căn nhà gỗ. Phải khóa lại kẻo đám cần câu của ta mất sạch đó.
Bá tước Gebacht bỏ cả bình thuốc trừ sâu vào trong xe và đề máy.

NĂM: QUỶ KẾ CỦA OLDO
Chiều hè nóng nực. Chiếc ô-tô thể thao nhãn Italia của Ilona Alensky đậu trên một bãi xe khuất sau câu lạc bộ quần vợt của thị trấn Weinfurth. Cô nàng mười bảy tuổi xấu như ma lem nhưng lại là ái nữ của trùm buôn vũ khí đang đỏng đảnh từ sân quần vợt bước ra. Ilona mới có chiếc xe từ ba tuần nay, cùng với tấm bằng lái xe do lão bố tài xoay xở mà có. Giờ tập của cô ả bữa nay không mấy kết quả. Đón trúng được có ba quả thì hai lại rúc lưới.
Ilona ném chiếc xắc tay vô buồng lái. Rồi suýt nữa thì cô ta vặn gãy cả chìa khóa điện, mỗi lúc một cáu hơn. Chó chết thật, máy không nổ. Ả nhảy xuống xe lầm bầm chửi rủa:
- Mới tinh mà như cứt!
Đúng lúc đó một giọng nam trầm quyến rũ từ sau lưng Ilona vang lên:
- Nó không chịu nổ sao?
Ilona quay lại. Oldo von Durstilitsch chớ ai. Anh ta từ sau một bụi cây bước ra. Nụ cười lóe bên mép trái. Oldo điệu bộ nghiêng mình:
- Nếu cô cho phép giúp cô. Tôi có hiểu chút ít về máy móc.
Ilona thở phào sung sướng:
- Vậy thì còn gì bằng.
Oldo mở nắp máy bằng một động tác thật… điệu nghệ. Bữa nay anh ta diện sơ-mi trắng, người thoang thoảng mùi bạc hà vì vừa ngậm kẹo xong.
Trong ống tay áo của Oldo, giờ xắn gọn, đã có sẵn những vết dầu mỡ. Thì lúc nãy, anh ta đã lén “phá phách” tí chút chiếc xe của quý tiểu thư Ilona mà. Bây giờ anh ta điềm nhiên lắp lại những chỗ bị dỡ ra. Vậy là “sửa chữa” xong!
Ilona mặt mày rạng rỡ. Khỏi nói rồi.
Oldo vừa lau tay vừa nhìn sâu vào cặp mắt ti hí của cô ả:
- Tôi biết cô, thưa tiểu thư. Cô là Ilona Alensky đúng không?
Ilona bủn rủn:
- Ồ vâng, tôi đây. Mà tôi cũng từng trông thấy anh rồi.
- Tôi là tiểu bá tước Oldo Durstilitsch, cháu của bá tước Genbacht Durstilitsch. Cha tôi là bá tước Arthur-Istvan Durstilitsch, mẹ tôi là nữ bá tước Pomeranza Durstilitsch, thời con gái là nữ tử tước Puspokladany. Tiếc rằng cha mẹ tôi đã không còn nữa.
- Anh thuộc dòng họ quý phái mà. Ở nhà tôi ai cũng chỉ chung một họ Alensky thôi.
- Vậy cũng hay đó.
Ilona cố che giấu sự hân hoan cứ lồ lộ trên nét mặt. Cô ta thích Oldo. Oldo thầm nghĩ: “Xấu như quỷ dạ xoa. Ngó cứ như cái bánh bao thiu từ mấy ngày. Nhưng lão bố lại có máu mặt mới chết!”. Anh ta nhẹ nhàng nhắc:
- Cô có thể lái xe đi được rồi.
- Vâng. Tôi rất biết ơn anh. Tôi nên chở anh đi một quãng chăng?
- Cảm ơn cô. Xe của tôi đậu ngoài kia.
- Ờ nhỉ. Vậy tôi biết cảm ơn anh thế nào đây?
- Không có gì đâu. Đươc giúp cô là tôi vui rồi. Tuy nhiên tôi cũng có một điều thỉnh cầu. Nhưng không nên để cho chú tôi biết. Ông ấy sẽ bất mãn lắm.
- Bất mãn? Về cái gì vậy?
- Nghĩa là chú tôi luôn cho rằng bộ sưu tập tranh của ông ấy là nhất. Nhưng tôi biết ba của cô có một bộ sưu tập còn xịn hơn nữa cơ. Và tôi rất muốn thèm được chiêm ngưỡng chúng.
Ilona hớn hở:
- Tưởng gì chớ ba cái vụ lẻ tẻ đó, ba tôi sẽ rất vui. Tối nay anh đến nhé. Khoảng mười tám giờ. Anh đồng ý không?
Khi chiếc ô-tô thể thao Ý phóng vút đi rồi, Oldo hoan hỉ xoa tay. Dự định của gã sẽ không mảy may dính gì đến gã. Bọn khác cứ việc nhúng tay vào tội lỗi, kể cả giết người. Còn gã, rốt cuộc sẽ đút túi mười lăm triệu mark – mark Đức hẳn hoi nhé!
*
Nữ bá tước Eugenie mặt tái nhợt khi nghe Thea kể lại đầu đuôi sự cố ở căn nhà gỗ ven hồ. Bà lắp bắp:
- Thế… thế người đàn ông… kẻ đã đánh… đánh Tarzan trốn… trốn… rồi à?
Tarzan gật đầu:
- Nhưng tụi cháu không biết gã trốn đi đâu. Có lẽ gã không có ô-tô. Nếu cảnh sát truy lùng ngay, có thể tóm được gã. Tụi cháu thì thế nào cũng phải tìm gã rồi.
Bà bá tước kinh hoàng:
- Không được! Các cháu không nên…
- Tại sao không ạ?
- Vì… các cháu là khách của chúng tôi. Chúng tôi phải chịu trách nhiệm về các cháu. Các cháu còn trong tuổi vị thành niên. Mà người đàn ông đó biết đâu lại là… là… một tên tội phạm.
Karl đế vào:
- Điều đó thì tụi cháu tin chắc đó, thưa bà bá tước.
- Vì Chúa, xin các cháu… đừng tìm gã!
Bọn trẻ đều thở dài đánh sượt. Rồi Tarzan đành nói:
- Thôi được ạ. Tụi cháu sẽ không trực tiếp tìm gã nữa. Bác trai có dặn tụi cháu khóa cửa căn nhà gỗ. Bác đang giữ chìa phải không ạ?
Mặt bà bá tước lại còn tái hơn nữa. Tarzan chột dạ. Chết rồi, không biết hắn lại gây ra chuyện gì nữa đây? Mẹ của Thea hít sâu một hơi và như bừng tỉnh:
- Chìa khóa! Ồ phải.
Bà lảo đảo đứng dậy, tới bên một cái tủ sách cổ, lục lọi ngăn kéo dưới cùng hồi lâu.
- Ôi lạy Chúa. Tôi để lẫn nó vào đâu mất rồi thế này?
Thea ngạc nhiên:
- Lẫn ạ? Kìa mẹ, xưa nay mẹ có bao giờ để lẫn cái gì đâu?
- Mẹ đã bảo là mẹ để lẫn mà, Thea.
Tarzan không muốn không khí căng thẳng. Hắn xoa dịu:
- Chắc chắn không ai lấy cắp rồi. Thưa bác, liệu có khả năng một gia nhân nào trong nhà thủ chiếc chìa khóa tuồn cho kẻ kia để hắn đột nhập căn nhà gỗ không ạ?
Bà bá tước khổ sở:
- Không có chuyện ấy đâu Tarzan. Gia nhân của chúng tôi đều trung thành tuyệt đối. Xưa nay vẫn thế.
- Nếu vậy, rõ ràng hung thủ đã xài chìa khóa vạn năng rồi.
- Nhưng chúng tôi còn có một cái chìa nữa để dưới phòng làm việc của ông nhà tôi. Các cháu có thể dùng nó.
Nhận được chìa khóa thứ hai xong, cả đám lên đường ra bờ hồ tức khắc, trừ Kloesen. Thằng mập khoái ngồi ở bậc tam cấp thưởng thức sô-cô-la và nghe radio hơn là tới căn nhà gỗ.
Lúc nguyên băng trở lại, cu cậu cười khì khì:
- Mình thật sáng suốt khi ngồi lại đây. Hồi nãy đài phát thanh vừa loan báo một tin động trời.
Karl hỏi liền:
- Tin gì?
- Vùng hồ Waiga không còn yên tĩnh nữa.
- Vậy mà cũng nói. Họ lại nói đến con quỷ chớ gì?
- Không phải. Cảnh sát thành Viên báo rằng có hai tên cướp nhà băng nguy hiểm đang xớ rớ đâu đó bên hồ Waiga. Dấu vết dẫn tới đây.
Tarzan ngước mặt nhìn trời:
- Sao lại tới hai tên? Mình nghĩ chỉ có một tên đang nương náu tại căn nhà gỗ chớ nhỉ.
Gaby phản đối:
- Làm sao tụi mình dám chắc điều đó chớ?
Tròn Vo lắc đầu quầy quậy:
- Thằng đó chẳng liên quan gì tới hai tên cướp nhà băng mà đài đưa tin. Một trong hai tên kia bị thương nặng và mất nhiều máu sau cuộc đọ súng với cảnh sát. Chúng bỏ chạy trên một chiếc Mercedes màu lơ sáng đời cũ, biển số thành Viên, chở theo trên 200.000 schilling ăn cướp. Hai thằng ác ôn đó tên là Handrischek và Mutzberger. Biệt hiệu của chúng mới tức cười chớ. Một tên là Nhạc Trưởng, còn một tên là Chuột Chũi, hì hì… Nhưng phần giật gân nhất tôi còn chưa nói ra đâu nha…
Gaby ra lệnh:
- Thôi nào, Willi, có gì lạ kể lẹ đi.
- Theo thông báo của cơ quan an ninh thì Chuột Chũi và Nhạc Trưởng đổ bộ về vùng này là để bắt liên lạc với tên lưu manh đang bị truy nã: Poldgar Pruffe! Sao, nghe được đấy chứ?
Cả đám há hốc miệng. Tarzan thoáng thấy mặt Thea tái đi. Giọng Gaby xúc động:
- Nếu quả vậy thì có thể Pruffe cũng có mặt ở đây.
Karl nhướng cặp kính cận:
- Tụi mình luôn phải cảnh giác thôi.
Đúng lúc ấy, chiếc Landrover của Oldo sà đến. Gã anh họ của Thea nhảy xuống, vẻ mặt mãn nguyện thấy rõ. Gã toan moi bao thuốc thì khựng lại vì câu chuyện Thea kể cho nghe. Oldo ngó về căn nhà gỗ, nhướng mày ngạc nhiên:
- Tôi cũng mới ở đằng nhà gỗ về.
Tarzan hỏi:
- Vậy hả. Anh không thấy gì à?
- Không. Chỉ thấy cửa mở. Tôi tưởng các cô cậu bỏ đi đâu đó rồi sẽ quay lại.
Dóc tổ. Dóc hoàn toàn. Tarzan nghe trống ngực mình đập thình thịch. “Hãy bình tĩnh! Hãy lạnh như băng! Cố mà đóng kịch! Đừng để gã nhận thấy!” – Hắn tự nhủ. Bởi vì – không nghi ngờ gì nữa – trên cổ tay trái của Oldo đang ngự chiếc đồng hồ kỉ niệm của chính hắn. Chiếc đồng hồ quý giá mà Pruffe đã cướp tại Đại Khách Sạn.
- Thôi, cứ để cảnh sát lo nốt. Hơi đâu dính vào, nhọc xác.
Oldo nói, đoạn bỏ đi. Thea cũng bảo:
- Mình phải về để trả cái chìa khóa cho mẹ đây.
Còn lại Tứ quái với nhau, Tarzan mới thông báo cái tin “động trời” nọ:
- Các bạn ơi, Oldo đang đeo đồng hồ của mình!
Tròn Vo hồn nhiên:
- Giỡn hoài đại ca. Cái “đổng” trên tay đại ca còn nguyên si mà.
- Tao muốn nói cái đồng hồ mà dì Isa cầm tới kìa.
Gaby tròn xoe đôi mắt biếc. Karl gỡ kính lau lấy lau để, vì quá xúc động. Tròn Vo há hốc mồm:
- Nhưng vậy thì… cướp ở Đại Khách Sạn đâu phải Pruffe, mà là Oldo chớ?...
Tarzan gạt đi:
- Không có đâu, Willi. Tao cho rằng Oldo đã vớ được chiếc đồng hồ, và có lẽ cả mớ trang sức của cô Isa nữa, khi gã mò vào căn nhà gỗ.
Gaby đột nhiên thì thào:
- Chúa ơi. Ý đại ca là Pruffe đã bỏ chạy khỏi căn nhà và sau đó đánh lén bạn trong rừng?
- Đúng thế. Tên cướp đã trốn trong đó cho đến khi nghe tiếng sủa của con chó thì đào tẩu. Gã phi quá nhanh nên không kịp đem theo đồ. Lúc chúng ta mò theo dấu vết gã thì Oldo mò vào trong nhà. Tình cờ chăng? Mình không cho là vậy. Mình cho rằng Oldo có thể đã nhận thấy sự có mặt của gã khách trọ bí hiểm từ trước đó. Thậm chí gã có thể biết Pruffe có quan hệ với bà bá tước nhưng giấu nhẹm để thực hiện ý đồ của mình. Gã thường xuyên vào rừng và vì thế có thể phỗng tay trên chiến lợi phẩm của tên cướp bất kì lúc nào. Hừ, mình nhớ ra rồi.
Ba cái miệng la lên đồng loạt:
- Nhớ gì vậy?
- Lúc chúng ta phát hiện ra Oldo, mình đã thấy gã cúi xuống nhét cái gì đó vào ủng.
Khỏi phải nói, ba chiến hữu của Tarzan đều sững sờ. Gaby vẫn chưa thật tin, còn hỏi thêm:
- Có chắc đó là đồng hồ của đại ca không?
- Chắc chớ! Trên dây đồng hồ có hai vết trầy, một vết hình chữ X, một giống dấu hỏi, nhưng không có chấm đen ở dưới.
Gaby lắc đầu hạ giọng:
- Sợ thật!
- Có thể suy ra rằng: Pruffe đã được bà bá tước giấu trong căn nhà gỗ. Bà đã đưa chìa khóa cho gã. Bởi vậy bà mới suýt ngất xỉu trong khi nghe chuyện và khi tụi mình hỏi chìa khóa.
Karl trầm ngâm:
- Tội ác được giăng ở đây như tơ nhện. Vì Pruffe có mặt tại nơi này, hẳn cái tin về Chuột Chũi và Nhạc Trưởng không phải tin vịt.
Tarzan chợt a lên:
- Giờ mới thấy mình quá chậm hiểu. Cái mẩu bìa có chữ “Đ” hồi nãy trong túi áo choàng tên cướp chính là một phần vỏ bao diêm của Đại Khách Sạn. Còn áo choàng và túi du lịch thì y như của tên vứt chìa khóa ngoài ga.
Karl hỏi:
- Bây giờ tính sao?
- Không hé lời nào với bất cứ ai! Không thể tin Oldo được nữa. Còn Thea, bạn ấy sẽ hóa điên nếu biết mẹ mình chứa chấp tên tội phạm.
Tròn Vo gật gù:
- Và sẽ lại bỏ nhà ra đi tức thì. Có lẽ lần này thì sang tận Beirut. Có trời tìm…
Tarzan thì thầm:
- Suỵt, Thea trở ra kìa. Cấm ai lỡ lời đấy nhé.
*
Lúc mười tám giờ, ông trùm Angelo nghiêng cái đầu to bự, cặp mắt đen lạnh lùng dưới đôi mày rậm săm soi vị khách mới tới. Hai người ngồi đối diện nhau trên sân thượng, mỗi người cầm một li vang. Gã thanh niên mười chín tuổi cất tiếng:
- Tôi là bá tước Oldo Durstilitsch.
Alensky hít hít li rượu:
- Té ra anh bạn trẻ là cháu ruột ông bá tước ở đầu làng đằng kia hả. Rất vui được làm quen. Tôi có nghe nói về anh.
Oldo cười cầu tài. Cặp mắt láu cá của gã nheo nheo tình tứ khi thấy Ilona xuất hiện với đĩa hạnh nhân trên tay. Giọng ông trùm lạnh lùng:
- Anh đã từng bị phiền phức vì lái xe trong trình trạng say rượu.
Nụ cười của Oldo nhạt hẳn. Gã bào chữa gượng gạo:
- Ồ vâng. Tôi vốn không phải sâu rượu. Nhưng chẳng may bị họ vớ trúng thôi.
- Nghe nói nếu anh bị bắt gặp như thế lần nữa thì khốn đó. Tôi có thể nhờ bạn bè can thiệp giúp.
Alensky khoát tay như thể lão bỏ túi tất cả các nhà đương cục vậy.
- Rất cảm ơn ông. Nhưng tôi cũng đã thận trọng hơn.
- À, bây giờ chắc anh muốn thưởng ngoạn bộ sưu tập tranh của tôi.
Angelo đứng lên. Hai kẻ gian hùng đi vào nhà. Oldo không ngớt trầm trồ trước mỗi bức tranh. Có trên 30 bức. Ilona bám sát gã, bổ sung những lời thuyết minh của ông bố.
Mặt Angelo Alensky đỏ ửng, muốn nổ tung vì kiêu hãnh. Những bức tranh là biểu tượng cho sự giàu có, thế lực và cuộc sống vương giả của lão mà. Phải là người thế nào mới làm chủ được bấy nhiêu kiệt tác chứ! Oldo làm như không sao thoát khỏi trạng thái ngất ngây. Gã hót:
- Ông là một trong những nhà sưu tầm vĩ đại nhất, thưa ông Alensky. Chẳng bù cho tôi, tôi thật thiếu kiến thức về hội họa. Sau này mới gay go đấy. Thật nan giải.
Alensky gật gù:
- Thế hả?
- Vâng. Lâu nay tôi vẫn suy ngẫm xem sau này tôi phải làm gì đây chứ.
- Ý anh là khi bộ sưu tập tranh của dòng họ sẽ thuộc về anh chứ gì, anh bạn trẻ?
- Ông có biết chuyện này sao?
- Sao không chớ!
- Vâng, tôi cứ nghĩ đám tranh ở chỗ tôi liệu có đúng chỗ không? Có lẽ tôi sẽ bán chúng thôi.
Alensky cụp mắt xuống để giấu ánh mắt sáng lóe:
- Vậy thì tôi sẽ là người mua, anh bạn trẻ ạ. Chớ có quên đấy.
- Thật sao? À, vâng. Chú tôi có kể lại chuyện ông hỏi mua tranh.
- Và nói cả giá nữa chứ?
- Có lẽ vậy. Nhưng tôi đâu có để ý.
- Tôi đã trả ông ấy mười lăm triệu mark Đức. Và tôi vẫn giữ nguyên giá đó.
Oldo hờ hững gật đầu, như chẳng mảy may quan tâm tới tiền bạc. Rồi gã phá lên cười:
- Tôi sẽ nhớ. Nhưng chỉ sợ tôi lại ngỏm trước cả ông chú ấy chứ. Còn xa lắm.
Ái nữ của ông trùm vũ khí nhảy dựng:
- Anh nói thế nghĩa là sao?
- Tôi thí dụ thôi mà. Thí dụ tôi bị xe đụng chết và chú tôi cũng không còn thì toàn bộ số tranh sẽ thuộc về nhà nước. Di chúc trong dòng họ đã ghi rõ như vậy.
Alensky rên rẩm:
- Sao lại thuộc về nhà nước hả? Cô con gái không được hưởng sao?
- Không. Kho báu đó chỉ thuộc về những người đàn ông. Đàn ông mà mất là kho báu cũng mất!
Họ dừng bước trước một bức tranh của Van Dyck. Hai người đàn ông, một già một trẻ đều theo
đuổi những ý nghĩ đen tối trong đầu. Rồi Ilona bảo:
- Thôi, ta quay lại sân thượng nào. Oldo, anh phải nếm thử hạnh nhân xem. Ngon tuyệt vời!
Oldo vừa về là Alensky châm ngay một điếu xì-gà rồi cầm lấy điện thoại trong phòng làm việc. Ở thành Viên xa xôi có người nhắc máy:
- Cậu thế nào, Pritsch?
- Cảm ơn, tồi tệ thôi.
- Này, tôi cần một tay cứng cựa.
- Cứng cựa? Rất cứng cựa? Hay siêu cứng cựa?
- Siêu cứng cựa!
Theo tiếng lóng của chúng, có nghĩa là Alensky đang cần một tên giết người chuyên nghiệp.
- Hừm, Angelo, hiện thời không còn tên “siêu cứng cựa” nào thất nghiệp cả.
- Thôi đừng phách lối nữa! Tôi chấp nhận mọi giá mà.
- Vấn đề không phải giá cả. Mà là chúng được thuê hết rồi.
- Làm gì có chuyện đó.
- Vậy mà có đấy, Angelo! Thiên hạ ngày càng ác độc hơn. Có nhiều kẻ thích tiêu diệt nhau lắm.
- Tôi cần một đứa, Pritsch!
- E… hèm, đợi tôi nghĩ xem. Thằng Rồ… ồ không được rồi. Thằng Lì… lại không nốt! Thằng Trố… cũng bị bận! Thằng Gà Gô… Ồ, lại kín lịch rồi.
Alensky bắt đầu cáu:
- Đồ chó chết! Mày bày đặt hòng ép giá chứ gì?
- Không, không! Ai lại làm vậy với chỗ bạn bè. Quả thật chỗ tôi không còn đứa nào. Ê… đợi chút. Tôi biết một kẻ!
- Thằng nào? Mà phải thuộc loại “siêu cứng cựa” đấy?
- Hi vọng thế. Nó thừa khả năng vươn lên đẳng cấp đó.
-Ô hô, tốt lắm. Phái nó đến chỗ tao gấp!
- Nó đang ở vùng của anh đấy. Anh phải nghĩ ra cách tự “câu” lấy nó.
- Cái gì?
- Tôi đang lo làm hộ chiếu du lịch hạng nhất cho nó và hai thằng bạn của nó đây. Ba thằng định bốc hơi sang Thổ Nhĩ Kì rồi hình như sang cả Ai Cập… Tôi phải gửi ba cuốn hộ chiếu của tụi nó tới một kẻ trung gian ở Weinfurth. Pruffe sẽ tới đó lấy.
- Mày nói gì? Pruffe? Cái tên Pruffe nghe quen quá.
- Poldgar Pruffe. Còn hai thằng kia là Paul Chuột Chũi và Josef Nhạc Trưởng. Nhưng tương lai, chúng sẽ mang tên khác. Ha ha ha ha!
- Mẹ kiếp, Pritsch! Mày định chơi tao hả? Bộ ba ăn cướp đó đang bị truy nã.
- Thì đã sao?
- Nghe nói một thằng bị thương.
- Nhưng anh đâu cần thằng ấy cho nhiệm vụ “siêu cứng cựa” của anh. Yên tâm đi, Angelo. Thằng Pruffe thuộc loại ác chiến. Nó lại đang gặp vận bĩ. Hãy trả cho nó hậu hĩnh, thế là việc của anh được hoàn tất.
- Mày nghĩ Pruffe sẽ nhận việc à?
- Nó làm tuốt luốt. Trước kia nó có “nghệ” ăn cắp xe hơi. Tụi tôi biết nhau vì thế.
- Vậy tao sẽ liên hệ với Pruffe qua tên trung gian hả?
- Đúng thế!
- Địa chỉ?
- Ờ nhỉ. Xin lỗi. Tôi đang hết cả hơi. Bữa nay toàn chuyện đau đầu. Tụi tôi nhận ba chuyến hê-rô-in từ Thổ, năm chuyến đồ ăn trộm từ Đức, Italia và Thụy Sĩ. Giờ lại đang bực mình vụ tiền giả. Chẳng hiểu thằng ngu nào đã xếp nhầm bản in. Và bây giờ trong kho của tôi có tới 10.000 tờ bạc mà mặt trước là đồng 100 mark Đức đẹp đẽ, nhưng mặt sau lại là đồng 10 franken Thụy Sĩ mới khốn nạn chớ.
Alensky cười rống lên:
- Tiện lợi quá còn gì, nhất là cho đám du lịch. Này, nói địa chỉ tên trung gian cho tao đi chớ.
- Hắn là Gustl Kartner, ngõ Vua Franz Fosef… số 4, tôi nhớ vậy. À không, số 58, tầng 3.

SÁU: LÃO MÁT ĐÁNH LỪA
Gaby và Thea dấn bước lên trước. Thea chớp mắt:
- Mình đã trả chìa khóa cho mẹ mình rồi. Giờ thì chúng ta có quyền thoải mái tham quan tiếp. Kia là nông trại của lão Dagobert Schelldorn mà tôi đã kể.
Tròn Vo thắc mắc:
- Ông lão này không sửa nhà bao giờ à?
- Bạn đi mà hỏi lão. Nhưng thôi đừng dại, nhỡ lão nổi điên lên, mập như bạn làm sao chạy kịp.
Tarzan gật gù:
- Ờ, mọi người gọi lão là lão Mát mà. Lão ở vậy ngó cũng tội nghiệp quá.
Thea nói thêm:
- Nhưng tôi cứ sờ sợ lão sao đó. Tôi rất ngại gặp lão.
Khi còn cách nông trại lão Mát chừng 20 mét, Thea rẽ lối khác tức thì. Gaby, Karl và Kloesen cũng theo gót cô bé. Chỉ một mình Tarzan khựng lại:
- Mình thử ngó vào kho cỏ chút nghe. Biết đâu lại vớ được một con chuột đồng.
Gaby đùa với theo:
- Đừng để bị nó cắn nghe, Tarzan.
Tarzan cười đáp lại. Hắn thừa biết làm gì có con vật nào. Nhưng chẳng hiểu sao, hắn lại cứ muốn bước vào cái nông trại tiêu điều này.
Lúc này hắn đã đứng sau kho cỏ. Những tấm ván quanh tường cái gãy cái thiếu, có chỗ dư sức một con lợn rừng chui qua. Hắn bước lại sát tường, ghé mắt trái dòm vô quan sát. Trời ạ, trong kho cỏ có hẳn một chiếc ô-tô! Hiệu Mercedes đàng hoàng. Biển số thành Viên với màu lơ sáng ngó bắt mắt. Lão Mát cũng có ô-tô xài chớ đùa đâu.
Tarzan chợt ngửi thấy mùi xăng, rồi cả mùi động cơ khen khét vì nóng máy. Nghĩa là chiếc xe mới đây còn chạy, chỉ vừa được cất vào kho sao? Trời đất! Tròn Vo đã nói sao nhỉ? Mercedes màu lơ sáng, đời cũ, biển số thành Viên! Chà!
Tarzan liếc mắt nhìn quanh. Không một bóng người. Hắn dễ dàng tháo một thanh ván mục chui vào bên trong. Coi, chìa khóa điện còn cắm trong ổ. Hắn vô cùng kinh ngạc khi thấy những vết loang màu gỉ sắt trên nệm ghế. Những vết máu!
Tarzan lặng người. Rõ rồi, một trong hai thằng bị thương mất nhiều máu. Và chúng đang làm mưa làm gió trong căn nhà tội nghiệp của lão Schelldorn. Dám lúc này chúng đã trói gô ông lão lại và đang lai rai nhậu nhẹt cũng nên.
Tarzan lẳng lặng trườn ra ngoài. Sau khi đặt thanh ván lại vị trí cũ, hắn phóng như bay về phía các bạn. Gaby nghe tiếng thở hào hển liền quay lại cười:
- Sao, bị chuột đồng rượt hả?
- Có tới hai con chuột cống chớ không phải chuột đồng. Nào, các bạn bình tĩnh đi tiếp, chớ dại dột ngoảnh lại kẻo hai con chuột cống chột dạ và lủi mất. Mọi người nghe đây, chiếc Mercedes màu lơ sáng của hai tên cướp đang đỗ trong nông trại của lão Mát. Và bây giờ lão Schelldorn đang là tù nhân của chúng – Chuột Chũi và Nhạc Trưởng.
- Cái gììì?
Tròn Vo la lên, suýt nữa thì ngoái lại. Nhưng Tarzan đã túm chặt tay cu cậu kéo đi.
- Bước tiếp đi Willi! Làm như không có chuyện gì! Không thấy gì, biết gì. Hãy để tụi nó yên trí lớn.
Thea rùng mình:
- Hết con quỷ hồ Waiga lại đến bọn tội phạm. Ở đây rồi sẽ ra sao chứ?
- Tụi mình sẽ báo cảnh sát bắt chúng, Thea ạ. Ông đồn trưởng quen ba bạn tên là gì nhỉ, Hobl hả?
Thea gật đầu. Tarzan quyết định:
- Bây giờ tụi mình nên về lâu dài. Phải báo ngay.
Lâu đài của gia đình Thea hiện thời chỉ còn bà bá tước Eugenie. Trong khi Thea kể cho mẹ nghe biến cố đột ngột thì Tarzan gọi điện tới đồn cảnh sát. Giọng ông đồn trưởng Hobl nghe hiền khô:
- Ồ, cảm ơn sự phát hiện của cháu. Hồi nãy ông Bachti có mang đến đây một chiếc áo choàng và cái túi du lịch. Bây giờ thêm hai tên tội phạm nữa à. Được thôi, tôi sẽ đến hiện trường cùng bốn người nữa. Bước đầu chúng tôi sẽ phục kích ở hõm Dachsenke để quan sát nhà lão Schelldorn. Rồi tôi sẽ quyết định cách phá án bằng một chiến thuật thích hợp.
Chiến thuật ư? Trong khi chỉ cần bắt có hai tên lưu manh mà một tên đã sống dở chết dở. Nghĩ vậy nhưng Tarzan chỉ im lặng. Để rồi xem! Thea giải thích:
- Dachsenke là một khoảng lõm cạnh đường đi thị trấn Weinfurth. Lúc nãy tụi mình có đi qua đấy. Khi trời mưa, hõm ngập nước.
- Từ hõm Dachsenke, chúng ta có thể thấy rõ nhà lão Schelldorn không?
- Thấy chớ. Cách có năm trăm mét thôi mà.
Trên thực tế khoảng cách giữa địa điểm phục kích và nông trại của lão Mát tới tám trăm mét. Chiều xuống muộn hơn mọi ngày. Đám trẻ núp sau rìa hõm.
Có tiếng động cơ ô-tô. Năm đứa trẻ quay lại nhìn. Một chiếc xe Jeep của cảnh sát đang băng tắt đường đồng, chắc là để bọn tội phạm khỏi trông thấy. Khi chiếc xe đi xuống hõm, tưởng chừng nó lật đến nơi. May mà viên cảnh sát cầm lái khéo léo giữ được thăng bằng.
*
Đồn trưởng Holb giống như ông già Noel đã cạo sạch râu. Gương mặt hiền hậu của ông có vẻ như không thích hợp với nghề nghiệp. Bên trong bộ sắc phục cảnh sát là một thân hình quá nhiều mỡ. Bốn viên cảnh sát đi theo ông ta tướng tá cũng chẳng mạnh mẽ gì hơn. Họ mang theo mấy cặp ống nhòm. Tarzan liền mượn một cặp và cũng quan sát.
Đúng lúc hắn chỉnh ống kính sắc nét nhất thì một bóng người từ nhà lão Schelldorn đi ra. Hắn la khẽ:
- Nhìn kìa! Một ông già…
Hobl lẩm bẩm:
- Lão Mát Schelldorn đấy. Lạy Chúa! Chúng để cho lão đi lại tự do sao?
Tarzan thực sự kinh ngạc khi thấy lão già ung dung biến vào kho cỏ một lúc lâu.
- Hoặc là lão già cùng băng với hai tên tội phạm. Hoặc là cháu đã báo hoảng. Để minh bạch việc này cần phải có người thám thính mới được. Cháu sẽ đóng vai một người đi dạo ghé qua xin li nước. Nếu không có gì nguy hiểm cháu sẽ ra dấu. Còn nếu chúng bắn vào cháu thì ông sẽ biết liền, thưa ông đồn trưởng.
- Ờ, khôn ngoan đó. Nhưng phải thận trọng nghe, cậu bé.
Gaby chồm lên:
- Mình đi với.
- Không! Bạn ở lại đây. Thưa ông Hobl, nhờ ông bảo vệ cho Gaby. Bạn ấy giỏi lắm. Nhưng con gái chẳng nên tới gần bọn cướp làm gì.
Tròn Vo hăng lên:
- Tụi tao sẽ ở bên mày, đại ca!
Và ba thằng cùng lên đường. Lúc chúng đến gần nhà Schelldorn thì lão đã đi vào nhà từ hồi nào.
Ba đứa đứng trước căn nhà tồi tàn. Tarzan gõ vào cửa nghe ngóng động tịnh. Cửa dường như mở ra tức thì. Nhìn gần lão Mát y chang con bù nhìn đuổi chim cau cau có có. Lão nhìn ba đứa chằm chằm. Chúng toe toét cười, chào lão. Rồi Tarzan bảo:
- Tụi cháu đi dạo suốt ngày quanh đây nên bây giờ khát quá. Ông làm ơn cho tụi cháu xin ít nước mát được không?
Lão già gãi mớ tóc bù xù:
- Muốn uống nước à?
Tròn Vo líu lo:
- Ca cao càng tốt ông ạ.
Karl lựa đúng lúc đó để thì thầm:
- Ông đang bị đe dọa tính mạng phải không ạ? Tụi cháu thấy cảnh sát đang siết chặt vòng vây. Chờ trời tối là họ sẽ xông vào nhà đó.
Lão Mát trợn trừng mắt:
- Có chuyện gì vậy? Tôi mà bị đe dọa ư? Ai đe dọa? Tại sao cảnh sát lại muốn xông vào nhà tôi chớ?
Lão bô bô, đâu có ngán ai. Tam quái nín thở. Nhưng không nghe tiếng súng nổ để trừng trị lão. Chẳng thấy động tịnh mảy may. Tarzan có cảm giác bị hớ nặng:
- Vậy nghĩa là ông không bị nguy hiểm? Không có kẻ nào trong nhà ông, không có hai tên lưu manh mà một tên dính đạn của cảnh sát sao?
Lão già nghiêng đầu:
- Sao? Không! Chuyện gì nữa đây?
- Chuyện chiếc Mercedes trong kho cỏ của ông đó!
- Ê, đâu phải xe tôi.
- Thì xe của hai tên cướp đang bị truy nã chớ sao!
Lão Schelldorn xoa xoa cái cằm râu lởm chởm:
- Thiệt hả? Ờ ờ, ta nhớ rồi. Hồi nãy có một người đàn ông mò vô đây gửi nhờ xe. Ta tính không nhận nhưng gã mua của ta một mớ dăm-bông và bánh mì nên ta xiêu lòng. Thôi thì cho gã gửi tạm ở
kho cỏ vậy. Gã đi lâu rồi. Chẳng biết đi đâu.
Vậy là rõ cả còn gì – Tarzan thất vọng nghĩ. Hắn quay về phía hõm Dachsenke, khua khua cánh tay. Lát sau chiếc xe Jeep tiến lại, dừng trước ngôi nhà. Lão già bây giờ mới thấy… động ổ. Lão rụt cổ vào hai vai như rùa núp vào mai. Rồi lão phải tả hình dạng tên lưu manh đã đến gửi xe. Theo lời lão, thì đó đúng là Paul Chuột Chũi. Đồn trưởng Hobl phán đoán:
- Nếu vậy chắc Josef Nhạc Trưởng bị thương quá nặng đã bỏ mạng dọc đường. Chuột Chũi bèn vứt bạn lại ở đâu đó. Giờ thì gã cuốc bộ trốn tiếp. Thôi, chúng ta tiếp quản chiếc Mercedes đã. Đây cũng là một thành công đáng kể rồi.
Một cảnh sát lái chiếc Mercedes ra khỏi kho cỏ. Mọi người xúm xít rì rầm. Tarzan chỉ cho các bạn những vết máu loang trên băng sau. Thea kéo tay Gaby lùi lại kinh hoàng. Lão Mát bảo rằng lão đang rán dở món trứng, cau có bỏ vào nhà rồi đóng cửa cái sầm. Vậy có nghĩa là: “Các người biến lẹ đi cho!”. Lúc này chỉ còn cảnh sát và đám trẻ. Đồn trưởng Hobl giải thích:
- Lão mát thần kinh từ ngày cậu con trai Siegfried qua đời. Lão luôn tưởng tượng ra những điều quái đản.
- Ông giải thích rõ hơn được chứ ạ?
- Dạo đó Siegfried bị chết vì tai nạn ở tuổi mười chín. Cậu ấy đâm mô-tô vào một gốc cây. Nhưng ông lão không tin. Lão cứ khăng khăng rằng con trai lão bị một kẻ nào đó sát hại. Và thế là từ đó lão cứ tự truy tìm hung thủ. Những năm đầu hầu như ngày nào lão cũng có mặt ở đồn cảnh sát, nghi hết người này đến người nọ. Lão liên tục thuyết phục tôi giăng bẫy tên sát nhân tưởng tượng ấy. Tôi cứ lo lão quẫn quá hóa liều. May sao lão không nặng về bạo lực.
Karl hỏi:
- Hiện giờ ông lão Schelldorn có còn tiếp tục truy tìm hung thủ nữa không ông?
- Còn dài dài, lê thê và mãi mãi. Có điều lão chọn lọc hơn xưa. Lão biết lựa ra những kẻ khả nghi nhất trong danh sách. Năm vừa rồi, lão chỉ còn ép tôi có năm lần bỏ tù một ai đấy. Họ thường là khách du lịch, hoặc nhà kinh doanh tình cờ dừng chân ở đây.
Tarzan thở dài:
- Ông già thật đáng thương. Ông tin chắc rằng ông ta vô hại chứ ạ?
- Schelldorn không làm hại dù chỉ một con ruồi.
- Nhưng rõ ràng lão tràn đầy thù hận. Và vẫn tìm kẻ có tội.
- Ờ, điều đó thì đúng.
- Những kẻ như lão dám làm mọi chuyện. Ông đã bao giờ cân nhắc xem liệu lão có dính dáng gì tới sự phá phách của con quỷ bên hồ Waiga chưa ạ?
Hobl mở lớn mắt ngạc nhiên. Rõ ràng ý tưởng này hoàn toàn mới mẻ với ông. Nhưng rồi, ông phảy tay:
- Không đời nào đâu cháu! Lão Mát không phải loại người ấy đâu.
Tarzan cũng chỉ mong rằng Hobl hiền hậu có lí.
*
Không phải chỉ có mình cảnh sát và đám trẻ rình mò nhà lão Schelldorn. Còn một vị khách không mời mà đến nữa. Đó là Poldgar Pruffe. Gã rúc trong một bụi cây ở trong tầm nhìn ngôi nhà, nhưng cách xa hõm Dachsenke vì ở hướng bên kia. Và gã nhìn thấy hết. Bao nhiêu hơi men từ chai rượu vang tan biến, chiếc xe Jeep của cảnh sát làm gã chột dạ. Poldgar tỉnh táo hẳn.
- Mạt vận!
Gã buông hai tiếng cụt ngủn rồi rút “chó lửa” lăm lăm nơi tay.
- Tao sẽ chiến đấu với viên đạn cuối cùng.
Nhưng lạy Chúa, trong ổ đạn chỉ còn hai viên đúng. Mà cũng không biết cái khẩu súng gã chưa hề dùng này có nổ không nữa kìa. Poldgar tự hầm hè:
- Mẹ kiếp, bao nhiêu công sức mình làm, thằng khác hưởng ráo. Mất cả áo khoác lẫn túi xách. Số đồ cướp được hẳn đã dâng cho đứa khác, chắc như bắp rồi. Tay trắng hoàn trắng tay.
Gã hằn học nhìn ba thằng ôn con xuất hiện bên nhà lão nông dân. Đúng là bọn nhóc tì ban nãy. Kìa, vẫn cái thằng cao lớn dám cả gan đuổi theo gã vào rừng và đã bị gã cho ăn một gậy nhớ đời. Pruffe căng mắt nhìn đến nỗi chảy cả nước mắt. Gã khum tay che bớt nắng.
Và gã bỗng giật thót người. Coi, khi không chiếc Mercedes màu lơ sáng của Chuột Chũi và Nhạc Trưởng hiện ra, mà lại do một tên cớm lái mới chết dở. Trời đất. Thế là nghĩa lí quái gì nhỉ? Hai thằng quỷ sứ ấy đâu rồi? Còn cái hẹn 13 giờ 33 phút trưa mai trước bưu điện thị trấn Weinfurth tính sao hả? Pruffe ngó chiếc xế hộp lùi ra khỏi kho cỏ mà chới với. Hai chiến hữu chí cốt của gã sa lưới rồi chăng? Nhưng đâu thấy cảnh sát còng tay thằng nào? Đầu gã muốn nổ tung vì vô số câu hỏi không lời giải đáp.
Cảnh sát đã rút. Hai chiếc xe đều đã khuất về hướng Weinfurth. Ba thằng ôn con và hai con nhóc thì đi về phía lâu đài. Tội nghiệp, Eugenie hẳn đang gan ruột rối bời. Cũng may là chìa khóa vẫn còn trong túi gã đây! Xung quanh yên ắng.
Pruffe rón rén đến cửa nhà lão Schelldorn. Gã ngó quanh một lượt và thử vặn nắm cửa. Cửa để ngỏ. Tên cướp xộc vô nhà tức khắc. Ê, hình như lão già rách rưới đang chiên xào cái gì trong bếp mà nghe tiếng mỡ nổ xèo xèo. Lưng lão khốn lại quay về phía gã nên gã tha hồ vểnh tai “thưởng thức” tràng cười điên loạn của lão.
- Chúng chuồn hết rồi, hi hi hi – không thèm dòm vô tầng hầm nữa, hi hi hi – chúng ngu như bò, sao mà ngu vậy, hi hi hi – bỏ sót tầng hầm, hi hi hi…
Pruffe liền hỏi:
- Dưới tầng hầm có gì vậy?
Lão già tiếp tục ngoáy thìa trong nồi mà không màng quay đầu:
- Chẳng có gì cả!
Chợt lão hoảng vía quay phắt lại. Cái nồi bay xuống đất. Thịt hầm văng tung tóe. Cũng may mà chảo trứng ngoài tầm tay với của lão, nếu không thì lát nữa chưa chắc Pruffe có miếng ăn.
Schelldorn sững người, giơ cao cái thìa, mắt trợn tròn nhìn vào mũi khẩu súng:
- Sao…?
- Im mồm. Ta mới là người được hỏi. Nhưng trước hết hãy xuống hầm đã. Sự tò mò của ta sẽ có câu trả lời ngay. Đi nào, hỡi ông nội bù nhìn. Đừng buộc ta phải xóa sổ lão trước kì hạn chầu trời.
- Ông là… cảnh sát?
- Ta là con quỷ của hồ Waiga đây.
Schelldorn cười rúc rích:
- Hi hi hi, quỷ gì mà chẳng có sừng.
- Ban đêm ta mới đeo sừng. Alê, đằng trước bước… tới tầng hầm!
Ánh mắt lão già trống rỗng. Có trời biết lão tư duy cái gì. Lão lê bước đi trước. Tới trước cửa hầm, lão còn tỏ vẻ khoái trá khi hàng loạt tiếng rên rỉ từ bên trong vọng ra.
Lão mở chốt cửa.
Chuột Chũi lảo đảo cố đứng dậy. Nhạc Trưởng thì nằm sấp rên ư ử, mắt bạc phếch nhìn ra cửa. Pruffe thì thào:
- Ôi Chúa tôi!
Thuận chân phải, gã tống cho lão già một đạp vào mông, khiến lão bay vèo qua Nhạc Trưởng, húc vô tường và rơi bịch xuống. Chuột Chũi mừng rỡ:
- Quỷ sai mày đến cứu tụi tao, Poldgar! Sao mày biết mà đến đây?
- Tình cờ thôi, sau liên tiếp thất bại. Tụi mày sao?
Nhạc Trưởng rên rỉ:
- Thì mày thấy đó. Đúng là số con rệp. Tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Bọn cớm đã phơ trúng mông tao.
Chúng khóa trái cửa nhốt lão già trong hầm. Tên cướp bị thương đu người lên vai hai tên đồng bọn. Cả lũ kéo lên nhà.
Ba thằng lưu manh sa cơ tâm sự hàn huyên không dứt. Nhạc Trưởng được đặt nằm trên giường. Pruffe moi trong tủ lạnh ra một mớ bia dự trữ của lão Mát, thảy lên bàn.
- Mày uống thay thuốc mê, Nhạc Trưởng. Uống rồi ngủ cho đỡ nhức đít.
Đợi thằng bạn ngủ thiếp đi, gã mới quay sang Chuột Chũi nhún vai:
- Có hỏng một vài việc thật, nhưng không sao. Ở Viên, Pritsch sắp làm xong hộ chiếu cho tụi mình. Tao đã ứng đủ tiền cho y. Pritsch có thể tin cậy được.
Chuột Chũi gật gù. Chúng chia nhau món trứng rán. Chảo trứng sạch bách trong một thời gian kỉ lục. Chuột Chũi xông vào kho thực phẩm của Lão Mát lấy dăm-bông và xúc xích hun khói ra ăn tiếp. Pruffe lại bảo:
- Pritsch cho biết sẽ giao hộ chiếu cho Gusth Kartner, số 58 ngõ Vua Franz Jose – thuộc làng Goschendorf.
- Vậy thì mày còn đợi gì mà không phôn cho thằng trung gian thử coi. Biết đâu chẳng có hộ chiếu rồi.
Pruffe tìm mãi trong cuốn danh bạ điện thoại mà không thấy ở Goschendorf có ai tên là Gusth Kartner. Gã vỗ trán:
- Trời đất, Kartner ở thị trấn Weinfurth chớ không phải làng Goschendorf. Tao nhớ lộn.
Gã tìm ra số máy không có gì khó khăn. Một giọng ẽo ợt bên kia đầu dây:
- Kartner đây!
- Pruffe gọi. Poldgar Pruffe.
- A, anh bạn đó à. Tôi đang lo không biết làm sao liên lạc được với anh.
- Hộ chiếu của tụi tôi có rồi hả?
- Chưa thấy! Nhưng tôi có việc rất bở cho anh đây. Anh biết bố già Alensky chứ. Angelo Vũ khí ấy mà. Lão đang cần anh. Ở Viên người ta giới thiệu. Mà khoan đã, anh đang ở đâu thế?
- Một nông trại gần hồ và gần lâu đài bá tước Durstilitsch. Chủ nhà là lão nửa điên nửa khùng Dagobert Schelldorn. Lão đã lập mưu giam hai thằng chiến hữu của tôi ở đây. May là tôi đến kịp.
- Tôi có nghe nói về lão. Lão quả có điên điên, luôn tưởng tượng có kẻ đã giết cậu con trai bị chết do tai nạn của lão. Từ đó lão cứ truy tìm tên sát nhân.
- Ra vậy. Tụi tôi đã giam lão lại rồi. Alensky cần gì vậy?
- Cái đó thì anh phải tự hỏi ông ta. Alensky chỉ bảo rằng sẽ trả bộn bạc.
- Tiền thì lúc nào cũng quý anh bạn ạ.
- Nhưng nhờ chừa phần trăm môi giới cho tôi nghe.
- Sao?
- Năm phần trăm. Đó là số tiền ít ỏi anh phải chi khi đến lấy hộ chiếu.
- Ê này, anh là bạn của lão loạn óc Schelldorn hả?
- Hãy biết điều, Pruffe!
- Tôi sẽ điện cho Pritsch ở Viên để thông báo vụ làm tiền trắng trợn này.
- Pritsch lấy huê hồng tới mười phần trăm lận. Tôi nhắc lại: năm phần trăm, và anh sẽ có ngay số điện thoại của Angelo Vũ Khí.
Pruffe đau lòng đúng ba giây. Đành phải nhượng bộ thằng chó đẻ trung gian này vậy. Còn phải nhờ nó kiếm một bác sĩ tư biết ngậm miệng cho Nhạc Trưởng nữa kìa. Gã thở dài trong máy:
- Thôi được. Cho số phôn lão trùm đi.

BẢY: BẮT SỐNG CON QUỶ HỒ WAIGA
Sau bữa ăn tối thịnh soạn, Thea còn mải giúp chị bếp dọn dẹp, dù không ai yêu cầu cô bé. Tứ quái có cơ hội ngồi riêng với nhau. Bốn cái đầu chụm lại bên chiếc bàn gỗ sồi thấp lè tè. Tarzan bắt đầu khai trương cuộc họp:
- Giờ này chắc Pruffe và Chuột Chũi đã gặp nhau.
Tròn Vo trề môi:
- Lí do?
- Chiếu theo bản tin trên đài do mày cung cấp chớ còn phải hỏi.
- Tao chậm hiểu.
- Này nhé, có phải radio loan báo Chuột Chũi và Nhạc Trưởng âm mưu kết hợp với Pruffe để làm ăn không nào?
- Ờ há.
- Vì thế chuyện Pruffe và Paul Chuột Chũi cùng có mặt ở bờ hồ Waiga này đâu phải tình cờ. Josef Nhạc Trưởng thì có lẽ đã chầu ông bà và đang trên đường xuống địa ngục. Cuộc tụ họp của băng đảng của chúng chỉ còn lại hai thằng. Lúc này chắc chúng đang rình mò đâu đó.
Karl xen vào:
- Có điều chúng ta không biết điểm hẹn hoặc sào huyệt của chúng là ở đâu.
- Không biết thì đoán.
Gaby mở lớn mắt:
- Đại ca nghĩ được thêm điều gì rồi hả?
- Mình nghĩ có thể giờ này cả Chuột Chũi và Pruffe chưa biết chuyện cảnh sát đã tịch thu chiếc Mercedes trong kho cỏ. Tụi nó có thể quay lại với một biển số ăn cắp nào đó để gắn lên chiếc Mercedes. Ít ra là chúng cũng yên tâm hơn và có thể sử dụng chiếc xe.
Gaby hết ý kiến:
- Bạn nghĩ cứ như chính bạn là tội phạm vậy.
- Thì mình thử đặt mình vào địa vị của chúng mà.
Karl nhướng mắt:
- Có nghĩa là tụi mình sẽ phải để mắt tới kho cỏ của lão Schelldorn?
- Ừ. Đó chính là điều tao muốn nói.
Tròn Vo đung đưa đôi cẳng chân ngắn chũn trên chiếc ghế cao, thở dài:
- Tức là lại phải thức trắng đêm đó.
- Có sao đâu. Không lẽ tụi mình tới đây để ngủ?
- Đại ca không biết sao, tất cả các cuốn sách hướng dẫn du lịch đều khuyên du khách một câu rằng: ngày đầu đến nơi lạ, cần nghỉ ngơi thích hợp.
- Hừ, vậy nhà ngươi cứ việc thẳng cẳng mà ngủ. Ai cấm.
Tròn Vo nhe răng cười:
- Ngủ một mình trong tòa lâu đài toàn phòng trống hả? Đàn em xin kiếu. Nếu không bị con quỷ hồ Waiga hút máu thì cũng bị các hồn ma thế kỉ 17 của dòng họ Durstilitsch hỏi thăm sức khỏe. Thêm nữa, Mập này đâu có khi nào bỏ đồng đội ngang xương vậy chớ.
Gaby hỏi:
- Rồi mình sẽ nói với Thea thế nào đây?
- Chúng ta cứ nói thật. Tuy nhiên chỉ tuyên bố là đi rình Chuột Chũi chớ đừng đả động đến Pruffe. Rồi tùy bạn ấy quyết định ở nhà hay đi cùng.
Đúng lúc đó Thea từ bếp đi ra. Gaby bèn thì thầm dự định của cả đám vào tai cô gái Áo. Thea có vẻ thán phục:
- Các bạn đúng là những thám tử cừ khôi. Nhưng tôi không đi cùng các bạn được. Lát nữa mẹ tôi sẽ xem tiếp tập 11 của bộ phim truyền hình dài kì “Tình yêu và đau khổ ở thành Viên”. Mẹ muốn tôi cùng xem.
Tarzan đề nghị:
- Nếu thế bạn hãy báo với bác rằng tụi mình mệt, xin phép đi ngủ sớm, được không?
- Dễ thôi. Nhưng các bạn tính làm gì khi Chuột Chũi xuất hiện thật hả Tarzan?
Tarzan cười nhẹ:
- Tùy cơ ứng biến thôi Thea. Có thể tụi tôi sẽ phải nhờ tới ông Hobl.
*
Nhạc Trưởng rên như bọng. Gã nằm sấp trên phòng ngủ lão Schelldorn tít tầng hai nhưng tiếng rên rỉ vẫn vọng xuống dưới nhà. Pruffe đã suy nghĩ, bàn bạc kĩ với Chuột Chũi về thông báo của Kartner. Rồi gã quay số nhà Alensky. Giọng con gái bên kia đầu dây nghe uể oải:
- Ilona Alensky.
- Cho tôi gặp ông trùm
- Ông là ai?
- Nói với ông trùm rằng có Gustl Kartner cần gặp.
Gã giấu biệt tên mình, cố nhiên rồi. Chưa đầy hai mươi giây, Pruffe muốn điếc ráy bởi một giọng đầy thức ăn:
- Kartner hả? Tao đang xực bữa tối.
- Không. Tôi là Poldgar Pruffe.
Alensky vẫn nhai, có vẻ mừng rỡ:
- A! Tốt quá, anh đã gọi cho tôi. Anh đang một mình chứ? Không được để ai nghe chúng ta nói chuyện!
Pruffe ngó Chuột Chũi cam đoan:
- Tôi chỉ có một mình!
- Tốt, tốt. Anh hiểu thế nào là một tay “siêu cứng cựa” không anh bạn?
- Một sát thủ theo đơn đặt hàng chớ gì.
- Hừm, tốt! Nhưng mà cái từ nghe ghê quá, hả?
- Ông muốn gì, ông trùm?
Angelo Vũ Khí vẫn nhai thức ăn ngốn ngấu:
- Anh sẵn sàng chứ?
- Giá cả, thưa ông?
- Tôi bảo đảm không để anh thiệt thòi đâu, Pruffe. Sao, làm được chứ?
- Tôi có thể bắn rụng sao trên trời, nếu ông muốn. Ai vậy?
- Bá tước Durstilitsch.
Pruffe nín thở:
- Gebacht Durstilitsch ấy à?
- Chính thị.
- Hừm. Trước kia tôi có quen biết lão. Tôi và lão không ưa nhau.
- Ha ha, cơ hội ngàn vàng cho anh rửa hận đấy. Đúng là trời muốn.
- Tôi muốn một triệu schilling. Phải chi trước phân nửa.
Alensky lưỡng lự năm giây. Giây thứ sáu, lão mạnh miệng:
- Đồng ý.
- Coi như tên bá tước phải vào quan tài. Còn bằng cách nào thì ông không cần biết.
- Nếu là anh, tôi sẽ làm sao để mối ngờ rơi vào con quỷ hồ Waiga.
- Cũng láu cá đó.
- Ê, nhưng nếu sắm vai con quỷ thì không cần dùng súng. Chỉ cần xài một quả bom cháy hoặc một “trái na” chẳng hạn. Durstilitsch tình cờ có mặt và thế là…
- Hừm, phải phải….
- Vậy là thỏa thuận rồi nhé.
- Chưa đâu, ông trùm.
- 500.000 schilling sẽ đến tay anh vào ngày mai.
Pruffe ho húng hắng:
- Tôi không nói chuyện đó.
- Cái gì?
- Tôi không phải là một robort “siêu cứng cựa” thiên hạ ai bấm nút thì làm. Tôi chỉ làm việc gì khi đã hiểu tường tận. Có vậy tôi mới lường được hết mức độ nguy hiểm của việc mình làm.
- Nghĩa là anh muốn biết tại sao hắn lại gây phiền cho tôi?
- Phải, nếu ông có thể vui lòng giải thích.
Alensky trề dài môi:
- Được. Thế này: thằng cha bá tước đang sở hữu một bộ sưu tập tranh mà tôi mơ ước từ khuya. Kẹt một nỗi hắn đếch chịu bán.
- Nếu vậy tôi có thể chôm sạch bộ sưu tập cho ông mà không ai phải chảy máu.
Alensky cười hô hố:
- Đồ ngu. Anh làm vậy để tôi phải “dím” kĩ mớ đồ ăn cắp đó trong tầng hầm chắc? Tôi là một đại nghệ sĩ, anh hiểu chưa? Cần phải triển lãm công khai bộ sưu tập đó cho thiên hạ biết rằng tôi là chủ nhân của chúng.
- À, thì ra vậy. Nhưng ông cũng đâu có xơ múi gì khi lão bá tước qua bên kia thế giới?
- Có đó chú mày. Thằng cháu Oldo của lão sẽ thừa kế hết. Mà với nó thì tôi đã thỏa thuận xong xuôi. Nó đã giả nai đến đây bảo với tôi rằng nó chẳng thiết tha gì với bộ sưu tập tranh mà nó sẽ được thừa kế, rằng nó rất muốn bán cả lại cho tôi, rằng tôi hãy ráng đợi, bởi nó luôn luôn cầu chúc cho ông chú nó sống lâu trăm tuổi… Ha ha ha!
Pruffe rủa:
- Đồ láu cá.
- Thì anh thấy đấy.
- Vậy nó đặt hàng ông giết chú nó?
- Tất nhiên. Nó đã chỉ cho tôi rất rõ: giữa giấc mơ của nó và giấc mơ của tôi có cùng một vật cản. Chỉ cần xóa sổ ông chú nó là Oldo sẽ có tiền còn tôi thì có tranh.
- Đồng thời cái thằng Oldo ấy làm cho ông hiểu rằng: nó đánh giá ông là người biết cách dọn cái vật cản ấy đi?
- Cố nhiên. Thực ra, tôi cũng hơi phật ý đấy. Không lẽ con người tôi gây ấn tượng đó sao? Vậy thì còn chó gì thanh danh trong mắt người đời chớ? Mẹ kiếp!...
- Tôi không phải người vùng này ông Alensky ạ. Nên không hiểu gì lắm.
- Nhưng không sao. Làm một người biến mất để đạt được mục đích yêu nghệ thuật thiết tưởng cũng là việc nên làm.
- Tôi tin rằng sau này người ta sẽ nhắc đến ông như một ông chủ lớn hào phóng. Tên tuổi ông sẽ sống mãi cùng các bộ sưu tập hội họa.
Alensky không còn miếng thức ăn nào trong mồm. Lão ngoác mồm cười:
- Tôi cũng nghĩ vậy.
- Tôi sẽ nhận tiền trả trước vào lúc nào và ở đâu đây?
- Chiều mai. Sau nhà thuyền bên bờ đông của hồ Waiga.
*
Bầy muỗi đồng con nào con nấy kim chích dài thượt. Tròn Vo mím môi vỗ thật lực:
- Chết mày nè.
Tarzan nhắc nhở:
- Khẽ chứ mập!
- Nhưng lũ chúng nó cứ tập trung tấn công tao. Tại sao chúng không hút máu mấy người hả?
- Vì tụi tao ít mỡ hơn mày, hiểu chưa ông Địa.
- Không hiểu.
Lúc này Tứ quái còn cách nhà lão Schelldorn khoảng hai trăm mét. Trời mỗi lúc một đen thui. Cả đám vừa ngồi bệt xuống cỏ thì Tròn Vo đã nhảy dựng lên. Không hiểu nó hậu đậu làm sao mà đặt mông trúng một bụi gai mới chết dở.
- Trời ơi là trời. Số tao xui quá, hết muỗi cắn rồi gai chích, sống sao nổi.
- Suỵt, mày làm ăn vậy khác gì lạy ông con ở bụi này hả?
Tròn Vo nhịn đau. Coi, tại căn nhà xiêu vẹo của Shelldorn bộ có lễ hội hay sao mà đèn sáng cả trên gác lẫn dưới nhà. Tarzan bóp trán:
- Ái chà, không lẽ lão Mát có thuật phân thân ra hai nơi ư?
Karl bảo:
- Hay lão cứ chạy lên chạy xuống liên tục cho vui cửa vui nhà? Hoặc lão quên tắt đèn ở một tầng?
Gaby ái ngại:
- Tội nghiệp ông già quá. Khoản tiền hưu đã “hẻo” mà còn không biết tiết kiệm điện.
Tròn Vo xuýt xoa:
- Ờ há. Người ta đang kêu gọi tiết kiệm năng lượng. Để Trái Đất đã cạn kiệt này khỏi bị tiêu diệt từ hôm nay. Ngày mai bị tiêu diệt cũng chưa muộn. Như tôi đây, từ lâu tôi đã góp phần tiết kiệm năng lượng.
Karl trố mắt:
- Sao, mày đã làm được việc gì vậy? Chà, lạ đó.
- Tao hạn chế vận động! Hê hê hê…
Tarzan bấm Tròn Vo:
- Lạy Chúa, cười khẽ chứ!
Gaby hỏi:
- Bạn sợ rằng Pruffe và Chuột Chũi đã ở trong nhà rồi hả?
Tarzan nói nhỏ:
- Cứ theo dõi xem sao đã.
Trời tối đen như mực. Bốn đứa kiên trì nghe tiếng ếch uềnh oang khoảng nửa tiếng đồng hồ thì Tarzan phát hiện ra một bóng người. Ê, cái bóng lướt như ma dưới ánh sáng hắt từ cửa sổ. Hắn định báo động, nhưng ba quái cũng đã nhìn thấy. Đứa nào cũng căng mắt nhìn. Nhưng rồi lại chẳng thấy gì nữa.
- Phải đến gần hơn xem sao.
Tứ quái lao lên như bốn con sóc nối đuôi giữa màn đêm tối om. “Bốn con sóc” nhào vô một bụi cây. Tarzan thì thào:
- Nó đang ở trước kho cỏ.
Hắn vừa dứt lời là một tia sáng lóe lên tựa ánh chớp. Không phải chớp mà là sét đánh. Trời ạ, sau cánh cổng kho cỏ mở toang, một tiếng nổ long trời lở đất kèm theo lửa cháy rừng rực. Và trước đám lửa sáng rực đó, thoáng hiện trong vài giây một hình hài đen thẫm giơ hai tay lên trời nhảy nhót. Tarzan bật dậy, kêu lên:
- Con quỷ hồ Waiga!
Tròn Vo cũng la thất thanh, át cả tiếng lửa phần phật:
- Nó… nó liệng bom… cháy!
Tarzan lập tức vọt theo cái bóng đang ba chân bốn cẳng tẩu thoát. “Mày đừng hòng thoát khỏi tay tao” – Hắn nghĩ.
Cuộc đua tốc độ diễn ra cực kì hồi hộp. Tên phóng hỏa chạy về hướng Weinfurth. Tarzan bám theo gót. Hắn thoáng thấy cửa nhà lão Shelldorn bật mở nhưng làm gì có thời giờ để tâm chuyện đó. Giờ đây mọi ý nghĩ và hành động của hắn đều tập trung vào “con quỷ” kia đã.
“Con quỷ” chạy không tồi, tuy nhiên còn lâu nó mới bốc hơi trước cặp giò vô địch nước rút của Tarzan. Tarzan hét:
- Đứng lại!
Con quỷ đứng lại thật. Nó xoay người đột ngột và tung móng vuốt ra. Linh cảm được cú tấn công, Tarzan đưa tay lên che đầu và ngực, lao thẳng vào đối thủ.
Cú va đập thật kinh hồn! Tarzan cảm thấy như thế ở nắm tay và cùi chỏ. May sao đó là hai chỗ “chai” nhất trong cơ thể một người siêng năng luyện tập. Vô tình mà hắn tống trúng quai hàm “con quỷ hồ Waiga”. Khỏi phải nói, kẻ kia bị hất tung ra sau thê thảm. Nó nằm gần như bất động dưới ruộng khoai tây.
Tarzan chạy đến. Cố nhiên đầu “con quỷ” chui trong mặt nạ. Vừa lột mặt nạ ra, Tarzan vừa đe:
- Nếu mày còn động đậy, sẽ nếm thêm đòn đấy!
Mắt Tarzan đã quen với bóng tối. Hắn dòm con quỷ lom lom và nín thở. Chúa ơi, Diêm Vương của hồ Waiga hóa ra là Oldo Durstilitsch, sặc mùi rượu. Tarzan mỉa mai:
- Chào con quỷ hồ Waiga. Cho tới nay, mày đã gây ra bao nhiêu thiệt hại rồi, hả?
- Mười sáu triệu schilling, đồ…
- Giọng mày sao vậy? Đau hả?
- Mày đấm rớt hết răng của tao rồi.
- Tại mày chớ. Tại sao mày lại tác yêu tác quái như thế chứ?
- Vì lũ dân ở đây là giống mọi hết. Đáng đời chúng. Hơn nữa tao khoái nhìn lửa cháy, tường đổ, cảnh hỗn loạn, tuyệt vọng… Tao thích nghe tiếng kêu cứu thảm thiết và đống tro tàn ngày hôm sau.
- Lần nào làm bậy, mày cũng say khướt thế này sao?
- Đúng vậy. Nhưng tao đếch mượn rượu. Tao chỉ tăng cường rượu cho cảm hứng của tao.
- Số nữ trang mày vớ được trong căn nhà gỗ đâu rồi? Cái đồng hồ nữa? Tình cờ nó là của tao đó.
- Chuyện nhỏ. Cái “đổng” của mày còn nguyên trong xe tao. Này, món trang sức tao với mày cưa đôi chứ hả? Tao nhét chúng trong cái hộp dẹt dưới ghế bên tay lái ấy.
Oldo chống tay ngồi nhỏm dậy. Tarzan nghĩ: “Gã điên này tưởng mua chuộc được mình rồi đây.”
- Tình cờ mà mày vớ được số đồ đó à?
- Không hẳn vậy. Từ hôm qua tao đã phát giác ra trong căn nhà gỗ có người trốn. Cho đến khi bà Eugenie mang đồ ăn thức uống thì tao mới biết mặt cái gã trốn chui trốn nhủi ấy. Tao đã thấy hình gã bị truy nã trên báo dưới cái tên Poldgar Pruffe. Hê hê hê, tao cũng vừa biết bà cô Eugenie là bồ xưa của gã. Với cái ống nhòm bá phát trong tay, tao chiếu tướng đâu vào đó. Và rồi khi nhìn thấy lũ nhóc chúng mày cùng con cẩu Blanka đuổi gã khỏi nhà tao nhập nha ẵm đồ đạc của gã liền. Này, đồng hồ của mày đếch đâu hả? Mày giỡn chơi chứ gì?
Tarzan đẩy vào ngực gã. Oldo ngã ngửa ra, rú lên.
- Mày là thằng đốn mạt. Ai nuôi dưỡng mày trước giờ hả? Nếu mày hé ra với bất cứ ai rằng đã trông thấy bà bá tước ngồi cùng với Pruffe thì tao sẽ cho mày ra cám! Rõ chưa?
Oldo mếu máo:
- Tại sao chớ? Tao…
- Rõ chưa?
- Thôi được. Rõ rồi!
- Tốt. Bây giờ mày đứng lên đi. Hãy giữ mồm giữ miệng đó.
- Cảm ơn nha. Tao phải phới đây…
- Đi đâu? Mày sẽ bị giao cho cảnh sát. Đồ tội phạm. Thần kinh của mày cần được cải tạo trong tù. Nhớ những lời tao dặn dò đó. Nếu không, đừng trách tao!
Oldo ú ớ. Gã tuyệt vọng hoàn toàn. Lúc này kho cỏ cháy không có cách gì ngăn nổi. Tội nghiệp hai quái Karl và Tròn Vo múc nước dội liền tù tì mà chẳng ăn thua. Ban đêm đám cháy ngó từ xa hệt một bó đuốc khổng lồ. Máy Tính hổn hển báo cáo với Tarzan:
- Gaby đã gọi điện thoại cho đội cứu hỏa và ông đồn trưởng Hobl, bây giờ đang ở trong nhà gọi tiếp cho ông bá tước.
- Mày coi tao tóm được ai đây, quân sư?
- Hả? Oldo! Anh ta là…
Tròn Vo để rớt xô nước:
- … là con quỷ hồ Waiga? Trời đất!
Tarzan nhếch mép:
- Tụi mày thấy không. Oldo không thù oán gì lão Schelldorn mà vẫn đốt kho cỏ của lão mới khốn nạn chớ. Ờ, mà lão Mát đâu rồi?
- Tao không thấy. Lúc mày vừa đuổi theo con quỷ… à Oldo, thì có hai gã đàn ông từ trong nhà
cuống cuồng xô cửa chạy ra. Lửa cháy và tiếng nổ làm hai gã bị động ổ. Chúng chạy như ma rượt về phía hồ. Hay hai tên đó là Chuột Chũi và Pruffe. Lúc đó trời tối lắm.
Tarzan huýt qua kẽ răng:
- Vậy thì ông lão vẫn còn ở trong nhà rồi.
- Có thể lắm. Tụi tao chưa tìm. Chỉ mới vào bếp lấy nước dập lửa thôi.
- Ăn nhằm gì nữa mà dập. Phải cứu lão Schelldorn trước khi lửa bén vào nhà. Hai đứa canh thằng Oldo giùm để tao vô nhà thử coi.
Đúng lúc đó, Gaby chạy ngược ra suýt đâm sầm phải Tarzan:
- Tarzan ơi, có một tên cướp bị thương nặng nằm trên phòng ngủ.
- Cái gì? Dám gã là Nhạc Trưởng Josef lắm. Bạn có gặp lão Schelldorn không?
- Không. Mình mới kiểm tra trên gác thôi.
- Vậy là bọn tội phạm chỉ có thể giam lão dưới tầng hầm.
Quả là gia chủ bị an trí dưới tầng hầm. Lúc Tarzan mở cửa ra, lão ủ rũ ở một xó nhìn thật thảm não.
- Lạy Chúa, không dè lại hội ngộ ông ở đây. Con quỷ hồ Waiga đã ném bom cháy hết kho cỏ rồi. Ông đi theo cháu nhanh lên. Bọn tội phạm thì ông khỏi lo nữa. Hai tên đã trốn, chỉ còn một thằng trúng đạn nằm lại.
Schelldorn hổn hển:
- Hên quá, thằng giết con trai tôi vẫn còn. Tôi phải khử nó gấp mới được, nó phải trả nợ sinh mạng cho thằng bé Siegfried.
- Ông lại tưởng tượng nữa rồi. Con trai ông bị tai nạn mô-tô cơ mà. Lên cầu thang lẹ đi ông nội.

TÁM: CƯỚP Ở LÂU ĐÀI DURSTILITSCH
Lúc lão Schelldorn lê được lên tầng trệt cũng là lúc hai chiếc xe Jeep của cảnh sát ập đến. Đội cứu hỏa tới sau mười giây và ngọn lửa nhanh chóng được dập tắt. Lão già Mát khoái chí quỳ xuống tạ ơn Thượng Đế đã cứu ngôi nhà thoát khỏi ông Hỏa.
Đồn trưởng Hobl bật ngửa khi biết Oldo chính là con quỷ hồ Waiga. Ông hơi thất vọng vì cái kẻ mà cảnh sát nhọc công truy lùng lâu nay lại chỉ là một thanh niên tối ngày nhậu nhẹt không đáng mặt cao thủ. Điều hơi bất ngờ là tên cướp bị thương sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của ông một cách sốt sắng. Còn phải hỏi. Nhạc Trưởng Josef chỉ mong sớm được nhập bịnh xá nhà tù cho bác sĩ khám… mông chứ sao. Tarzan đợi cho Nhạc Trưởng phun đã đời mới khều nhẹ ông Hobl:
- Lão Schelldorn đã giăng bẫy bắt hai tên cướp vì cho rằng Josef là hung thủ giết con trai lão đấy ạ.
Nhạc Trưởng Josef giãy nảy:
- Làm gì có chuyện giết chóc. Cả đời tôi chưa rờ đến cọng tóc của ai, trừ tiền của họ. Lão già đó là một kẻ điên khùng xuyên tạc bậy bạ. Đúng là mười năm trước tôi có giang hồ ngang qua đây. Tôi đã tắm dưới hồ Waiga và còn đứng trước nhà lão Schelldorn nữa. Tôi đứng để… kéo vĩ cầm. Tôi là nghệ sĩ lang thang mà. Ai ngờ lão “ghim” tôi vô óc lão vậy. Hồi ấy tôi chưa lao vào con đường phạm tội, còn lão thì đã “chập mạch” sẵn.
Gaby không nín được cười. Quả tình Nhạc Trưởng gặp vận rủi, tuy nhiên đoạn kết cũng gỡ gạc phần nào. Gã được hai cảnh sát dìu ra xe mà trong bụng còn run, chỉ sợ lão Mát xách dao chém sảng.
Oldo số phận hẩm hiu hơn. Gã bị bập còng vào cổ tay và tống lên chiếc Jeep. Từ bên ngoài đám
đông, bá tước Durstilitsch và Thea thấy hết. Xe hơi của ông đã đến tự nãy giờ. Tarzan tiến lại bên cạnh bá tước, kể lại mọi chuyện cho ông nghe. Thea oà lên khóc. Cô bé nói thật não nùng:
- Nhục nhã cho dòng họ Durstilitsch, không thể nào chịu nổi nữa. Oldo lại là một con quỷ dữ, chắc mình phải bỏ nhà một lần nữa Gaby ơi…
- Thôi nín đi mà Thea. Gã đâu phải là anh ruột của bồ.
Cả đám bước lên xe ông bá tước để quay về lâu đài. Riêng Tarzan không vào nhà, hắn còn phải ghé vô ga-ra để thu hồi những món nữ trang của bà cô Isa. Quả nhiên dưới ghế cạnh tay lái chiếc Landrover có một hộp sắt dẹt. Hắn lôi cái hộp ra và mở nắp. Tuyệt thật, đồ trang sức của cô Isa và chiếc đồng hồ của hắn vẫn còn nguyên.
Tarzan cầm cái hộp thong thả đi vô cửa chính. Ồ, sao Gaby lại nấn ná bên trong cửa một cách kì cục vậy kìa. Hình như cô bé cố tình mở hé cửa cho hắn thì phải. Bỗng Tarzan nghe một giọng đàn ông cất lên đanh gọn:
- Không ai được động đậy!
Cái hộp sắt suýt nữa tuột khỏi tay. Hắn đảo người lẹ như cheo dòm qua khe cửa, tóc gáy dựng đứng. Trời ạ, trong một giây hắn có cảm giác máu mình như đông lại. Coi, đứng hai bên trong sảnh là hai thằng hung thần gườm gườm. Pruffe và Paul Chuột Chũi chớ ai, đúng như người ta đã mô tả về Chuột Chũi, tay đều lăm lăm súng lục.
Ba người trong gia đình Durstilitsch và ba quái kia bị dồn thành một cụm. Mười hai cánh tay đều giơ cao. Hai hung thần quả khéo léo chọn giờ đột nhập, đám gia nhân của ông bà bá tước giờ này đã đi nghỉ hết. Bá tước Durstilitsch ấp úng:
- Các… các… ông muốn gì?
Pruffe lầm lì:
- Ngươi sẽ biết ngay thôi, cố nhân ạ. Ngươi không nhận ra ta sao Bachti? Ừ nhỉ, dù gì cũng hai chục năm đằng đẵng. Hồi đó ta với người còn trẻ măng, còn mơ mộng. Chà, ngươi bây giờ ngó tàn tạ quá rồi, trong khi ta vẫn còn phong độ thế này.
- Poldgar Pruffe!
- Chính thế! Ta còn chiến hữu đây đang gặp chút khó khăn cho nên mới vào đây tá túc. Hồi nãy con quỷ hồ Waiga đã đốt thành tro nơi bọn ta ở rồi. Bởi vậy, bọn ta đành tháo thân. Hi vọng cứu hỏa đến kịp. Tiếc là bọn ta không kịp lo cho anh bạn Nhạc Trưởng và lão già.
- Hai vị mà ông nói đều được an toàn. Cảnh sát đã cứu họ.
- May phước. Nào, giờ thì ta tháp tùng ngươi vào phòng làm việc của ngươi. Két tiền lớn để trong đó hả? Bọn ta cần tiền. Nào, động đậy lên!
Tarzan thấy ông bá tước và Pruffe biến mất trong một cánh cửa. Ánh mắt đỏ ngầu lẫn họng súng của Chuột Chũi chĩa ra cửa làm hắn giật thót. Hắn lẳng lặng chuồn êm ra phía sau.
Giấu cái hộp sắt vào một bụi cây rồi Tarzan chạy vòng ra cửa hậu. Chỗ này có một giàn nho bằng gỗ chắc chán mọc dính vào tường lâu đài. Hắn thừa biết trên tầng hai, cửa sổ sau phòng tranh lúc nào cũng để mở. Khéo léo và nhẹ nhàng như vượn, Tarzan bắt đầu trèo theo giàn nho lên trên.
*
Bá tước Durstilitsch mở két tiền mà mồ hôi tuôn như tắm. Ngày hôm nay thật chẳng ra làm sao. Thọat tiên là chuyện Oldo bị vạch mặt rồi bây giờ đến vụ cướp động trời. Lạy Chúa, lại nhè đúng lúc két đang đầy tiền mới chết. Ông lẳng lặng xét từng cọc tiền mới cáu lên bàn giấy. Pruffe liếc sơ cũng
đã thấy hoa mắt. Gã cười thật nham nhở:
- Tuyệt đó Bachti. Số tiền này là bù cho số tiền giết mướn mà ta đã tình nguyện từ chối. Phải, đó là sự thực! Có kẻ thuê ta giết ngươi đó, Bachti.
- Sao? Ông nói gì?
- Còn nói gì nữa. Ngươi, bá tước Durstilitsch vừa rồi lẽ ra đã được thần chết lựa chọn.
Mặt ông bá tước dại hẳn đi:
- Tôi ư? Vô lí. Tôi đâu có gây thù chuốc oán với ai?
- Người ta trả ta một triệu mark nếu ta giết ngươi.
- Điều… điều đó là bịa đặt.
- Vậy mà đúng đó, Bachti. Ngươi muốn biết kẻ nào thuê ta không? Trùm Vũ Khí Angelo Alensky đó. Và ngươi biết ai xúi lão không? Chính là thằng cháu ruột ngươi: thằng Oldo!
Môi ông bá tước run bắn lên:
- O… O… Oldo…?
- Chính nó.
Durstilitsch nghẹn ngào:
- Không! Tôi không tin!
- Tùy ngươi thôi.
- Nhưng… vì sao chứ?
Pruffe cười nhăn nhở:
- Nghe đây. Bố già Alensky thèm bộ sưu tập tranh của ngươi nhưng ngươi lại lắc đầu. Trong khi thằng Oldo đâu dại gì lắc. Nó mò đến hiến kế cho lão Alensky thịt ngươi để sớm thừa hưởng bộ sưu tập và sang tay cho lão. Còn ta chỉ là một sát thủ thuần túy như bao sát thủ khác thôi.
Bá tước Durstilitsch rớt phịch người xuống ghế. Rất hợp lí, khớp với thực tế, và có lẽ là sự thật còn gì, cái điều gã lưu manh vừa nói ấy. Ông lắp bắp:
- Ông… sẽ không bắn…?
- Không. Ta đã giả bộ gật với Alensky nhưng chuyện giết người thì miễn. Ta còn tính nếu không bị còn quỷ hồ Waiga quấy rối thì ngày mai ta sẽ nhận tiền tạm ứng của Alensky rồi ôm tiền dông thẳng kìa…
Gã ngừng lại vài giây rồi nuốt nước bọt nhìn đống tiền trên bàn:
- Nào, giờ thì tiếp tục. Bỏ hết tiền vào một cái túi, hoặc một phong bì lớn cho ta! Ta cần cả chiếc xe của ngươi nữa. Để còn chìm ngay đêm nay.
*
Tarzan nhảy vô cửa sổ tầng hai không một tiếng động. Phòng tranh được trải thảm dày. Chùm đèn pha lê ở dưới sảnh tỏa ánh sáng trắng. Hắn mon men ra hàng lan can nhìn xuống.
Coi nào, ba quái đứng ở bên trái cầu thang. Bà Eugenie và con gái đứng trước bậc thang cuối cùng. Chuột Chũi đã cho phép đám đông vô hại này được bỏ tay xuống. Gã hí hửng đứng nhịp giò ngay đúng chỗ Tarzan đang cúi xuống. Con chó lửa trên tay gã chĩa vào bà bá tước đầy hăm dọa. Tarzan có cảm tưởng Gaby phát hiện ra hắn. Nhưng cô bé không cử động gì, chỉ liếc lên dưới hàng mi cong thẫm.
Ngay khi mũi súng của Chuột Chũi vừa chúc xuống là Tarzan đu người nhảy qua lan can. Độ cao đáng kể. Nếu không có đệm đỡ, có thể bị trẹo khớp. Nhưng đã có Chuột Chũi thay đệm. Tarzan hạ xuống đúng vai gã, đồng thời chém cạnh bàn tay vào gáy gã. Tên lưu manh đổ ập xuống, mặt chúi vào thảm, bất tỉnh. Tarzan thì thầm:
- Suỵt! Khẽ chứ.
Hắn vẫy Karl. Hai đứa kéo xềnh xệch tên tội phạm bị đo ván vào gầm cầu thang giấu kĩ. Hai mẹ con bà Eugenie nhìn cảnh tượng đó với nét mặt kinh hoàng trong khi Tròn Vo đã “bắn” một mẩu sô-cô-la vô mồm cười toe toét tỏ ra ta đây đã “đầy mình kinh nghiệm” hiểm nguy.
Tarzan đã khẩu súng lục của Chuột Chũi xuống dưới mép thảm, đoạn nhón chân về phía cánh cửa mà ông bá tước và Pruffe trước đó đã bước vô. Hắn đứng dán người vào tường, sát bên cửa.
Hắn chẳng phải đợi lâu. Ông bá tước thất thểu bước ra trước. Rồi đến Pruffe, một tay cầm chiếc phong bì căng phồng, tay kia là khẩu súng ngắn.
Tarzan bèn chém tay vào gáy gã. Pruffe rú lên, buông thõng cánh tay. Chưa hết, mũi giày của Tarzan bay thẳng vô ống quyển làm gã té sấp mặt. Gã tuyệt vọng quơ tay đấm lung tung khiến Tarzan phải kiến thúc sớm cuộc cận chiến bằng chiêu thức khóa “giật cánh khỉ”. Trong chớp mắt, tứ chi Pruffe như bị tê liệt.
- Đầu hàng đi, nếu không ngươi sẽ phải cần đến bác sĩ về xương đấy.
Pruffe gào lên:
- Dừng lại! Gãy tay tao bây giờ!
Karl và Tròn Vo nhảy xổ đến. Hai quái lột phăng dây thắt lưng của tên lưu manh trói nghiến gã lại. Tròn Vo cười khanh khách trong khi đại ca của nó thọc tay lục các túi áo quần đối thủ và tìm được thứ hắn cần. Chiếc chìa khóa căn nhà gỗ nằm trong túi quần bên trái của Pruffe. Hắn bí mật lấy chiếc chìa khóa. Nào, bây giờ thì có thể yên tâm quay qua bá tước Durstilitsch.
- Thưa bác, bác gọi giúp cháu cho ông Hobl được chứ ạ? Bác nói rằng ông ấy đến nhận thêm hai tên nữa.
Gia chủ lúc này tạm hoàn hồn. Ông vội chạy đến chỗ đặt máy điện thoại. Karl và Kloesen đi kiếm dây trói nốt Chuột Chũi lúc này vẫn bất tỉnh.
Tarzan lôi Pruffe ra xa đám phụ nữ trong nhà. Hắn gằn giọng nói nhỏ với tên cướp:
- Ông nghe đây. Hãy chứng tỏ sự biết ơn đối với người đã cưu mang ông. Không được nói gì về cái chìa khóa căn nhà gỗ. Hãy khai rằng ông có chìa khóa đa năng, và đã làm rơi đâu mất. Rõ chưa?
Pruffe hơi co mình lại. Thấy rõ là gã đã đầu hàng. Gã lẩm bẩm:
- Đồng ý. Cậu không dặn thì tôi cũng không định kéo Eugenie vào vụ này. Phải quân tử với các bà các cô chứ.
Nửa đêm về sáng, đồn cảnh sát của ông Hobl còn xôn xao vì phải thực hiện thêm hai vụ bắt tội phạm nữa. Kẻ bị bắt đầu tiên là Angelo Alensky, kẻ thứ hai là tên trung gian Gustl Kartner. Hai tên tội phạm đều bị dựng khỏi giường bởi… Pruffe đã cung khai sạch. Alensky thê thảm nhất. Lão cứng họng không nói một lời nào. Đúng là ông trùm bị sụp lỗ… chân trâu. Sau đó còn thêm lời thú tội của Oldo. Thế là Alensky chỉ còn nước vào nhà đá. Kartner làm trung gian, chưa lãnh một xu nào đã phải bóc lịch, có điều nhẹ hơn bọn lưu manh kia.
Tứ quái bây giờ tha hồ dung dăng dung dẻ bên hồ Waiga mà khỏi sợ con quỷ quấy rầy. Lâu lâu Tarzan lại giơ chiếc đồng hồ quý giá lên ngắm nghía. Hắn bồi hồi:
- Mày đã trải qua một cuộc phiêu lưu từ Đức sang Áo, quả là kỉ niệm nhớ đời.
Sau những sóng gió khủng khiếp tưởng có thể xô dạt mọi nền tảng đạo đức của gia đình, vợ chồng ông bá tước bắt đầu hiểu nhau hơn và hạnh phúc đã đến với họ.
Ngày tiễn chân Tứ quái ra tàu, trong lúc bá tước Durstilitsch và Thea trò chuyện vui vẻ với Karl,
Gaby và Kloesen thì Tarzan lẳng lặng dúi vào tay bà Eugenie chiếc chìa khóa căn nhà gỗ. Mẹ của Thea giật mình nhét vội chiếc chìa khóa vô xắc tay. Và đột nhiên, bà ôm ghì lấy Tarzan khiến hắn suýt đỏ mặt. Hắn còn kịp nói nhỏ với bà:
- Bác nên đốt một vài tấm ảnh cũ đi.
Bà Eugenie cũng thì thầm:
- Bác hiểu. Cảm ơn cháu, cậu bé tốt bụng.
Rồi con tàu sẽ đưa Tứ quái trở về Đức vào ga. Mọi người lần lượt ôm hôn nhau. Riêng Tròn Vo hình như có hôn má Thea hơi lâu một chút. Thì mập ta vốn hay cảm tình linh tinh mà lại.
#46
    dragolsdragol 02.06.2009 02:28:34 (permalink)

    Tác giả : Stefan Wolf
    Tác phẩm : Tứ quái TKKG
    Dịch giả : Vũ Hương Giang - Bùi Chí Vinh
    Thể loại : Truyện phiêu lưu mạo hiểm
    Nguồn : Nhà xuất Bản Kim Đồng




    Tập 45
    Tiếng nói từ thế giới ngầm





    MỘT. CÔ GÁI MÙ BÍ ẨN
    Tarzan buộc phải quan sát cô ta mười phút, bởi cô ta ngồi chắn tầm nhìn của hắn.Cũng vì thế mà hắn đoán chắc rằng cô ta, cái cô gái trẻ ngồi cạnh bàn kia không thể bị mù.
    Ngoài cửa sổ, phong cảnh mùa hè màu xanh chói chang lướt qua vun vút.Những bông hoa cắm bình đặt ở các bàn ăn lắc la lắc lư. Tròn Vo cần gì phải biết tâm trạng của đại ca làm chi cho mệt. Đây là toa ăn của tàu tốc hành Alpen và đây là kem sôcôla hấp dẫn. Nó xúc lấy xúc để làm rớt cả kem ra khăn bàn. Cu cậu cáu kỉnh gắt nhặng xị:
    - Tàu bè gì mà cứ nhảy cẫng lên vậy chớ. Đường ray bị vênh chắc?
    - Này, nếu mày ngậm thìa hơi lâu nó sẽ bị bẻ cong đấy!
    Tròn Vo ngó cái thìa:
    - Ồ, Karl này. Thìa bạc chánh hiệu, ghê chưa. Tao phải cuỗm mới được.
    Gaby can thiệp liền:
    -Thôi đi ông mập. Tụi mình đang là khách du lịch đó nha. Thêm nữa, bạc đâu mà bạc.
    Tarzan suỵt khẽ:
    - Mọi người đừng quay lại nhé. Tại bàn cuối cùng bên trái có một cô nàng đeo băng tay người mù, kính đen và mang gậy. Nhưng mình tin chắc cô ta giả đò đóng vai bị mù thôi. Vì sao các bạn hiểu không, vì khi cô ta cảm thấy không bị ai để ý thì cô ta chăm chú đọc bản thực đơn để trên bàn.
    Tròn Vo khoái chí:
    - Biết đâu đó là phép lạ của thượng đế. Tàu chạy lắc lư dữ quá làm cho mắt người mù sáng ra cũng nên.
    Gaby nhìn cậu bạn hay nói nhăng cuội, thở dài. Karl thì thầm vào tai Tarzan:
    - Đại ca nhận xét chí lý. Tao đã kiểm tra rồi. Thậm chí chị ta còn hưởng thụ cả phong cảnh ngoài trời trong khi bàn tay vờ vĩnh sờ soạng trên mặt bàn, làm như đang sống giữa đem đen.
    Gaby thắc mắc:
    - Tại sao chị ta lại giả mù cho cực nhỉ?
    Tròn Vo liến láu:
    - Để đỡ tốn tiền đi tàu xe chứ sao. Người bị khiếm thị luôn được ưu tiên mua vé hạ giá.
    Tarzan lắc đầu:
    - Không đơn giản vậy đâu Kloesen. Muốn mua vé hạ giá, phải có thẻ chứng nhận là người mù đàng hoàng kia.
    Máy tính nhận xét:
    - Ngó chị ta, không hiểu sao mình lại thấy có cảm tình. Mà chị ta có giả mù đi chăng nữa cũng đâu có liên quan gì tới tụi mình, đại ca.
    Tarzan không đồng tình:
    -Tất cả những gì có vẻ mờ ám điều liên quan tới tụi mình, Karl à. Bởi vậy, không thể bỏ qua vụ này.
    Cô gái mù khoảng gần 30 tuổi có mái tóc màu đỏ như lông chồn, màu mắt gì thì không rõ, nhưng tròng mắt luôn đảo đi đảo lại sau cặp kín đen, ấy là Tarzan cảm thấy vậy. Cô ta có vóc người thanh mảnh, da trắng hồng. Tròn Vo nhìn lén “nhân vật chính” một cái rồi thở dài:
    - Tiếc là không có dượng mình ở đây. Tuy chỉ là một bác sĩ nông thôn, không phải bác sĩ nhãn khoa, nhưng chắc chắn ông sẽ nhận ngay ra một người mù.
    Karl làu bàu:
    - Bỏ cái từ “dượng”đi Tròn Vo. Anh trai của ba mình đáng lẽ phải gọi bằng “bác” chứ?
    - Bởi vì bác sĩ Sigismun Holmam yêu cầu tao phải gọi ông ấy là dượng.
    - Và những gì ông ấy yêu cầu đều được coi là mệnh lệnh hả?
    - Ít nhất cũng là như vậy. Ba tao coi dượng ấy là một trong những người khó chịu nhất kể từ thời Thành Cát Tư Hãn tới nay. Dượng Sigismun chê bai mọi thứ và luôn tìm cách gây sự với người khác. Ba tao rất ngac nhiên khi thấy ông dượng theo ngành y khoa, một bác sĩ thường giúp đỡ thiên hạ chớ ai nhăn như khỉ kiểu ông dượng mình bao giờ. Thực là nghịch lý. Kiểu đó bệnh nhân của ông dượng chắc cũng khốn khổ với ổng.
    Gaby phản đối:
    - Bạn nói xấu bác ấy nhiều quá đấy. Nếu đúng vậy, tại sao bác ấy còn mời cả tụi mình tới chơi, mặc dù ngay cả bạn còn chưa biết mặt bác ấy?
    Tròn Vo ngoáy chiếc muỗng trong ly kem, bối rối:
    - Ừ, chà, hừm, hừ, chậc…
    Tarzan chằm chằm nhìn thằng bạn cùng phòng, hỏi thẳng:
    - Mày ỡm ờ vậy nghĩa là sao vậy Kloesen?
    Tròn Vo lúng túng đến mức bẻ cong cả chiếc muỗng:
    - Hừm…mình cũng chẳng biết phải nói với các bạn thế nào bây giờ…
    - Có gì đâu. Mày nghĩ sao nói vậy đi mập. Ngắn gọn thôi.
    - Đâu có đơn giản vậy đại ca. Các bạn cần phài thông cảm với hoàn cảnh và vai trò của mình.
    - Vai trò gì vậy kìa?
    Tròn Vo thở ra nặng nhọc:
    - Đầu đuôi thế này. Bác sĩ Sigismun Holmam là ông anh lớn tuổi nhất cùng cha khác mẹ với ba mình. Ôi họ hàng lộn xộn quá. Ngay từ lúc đi chập chững, ổng đã chẳng liên lạc gì với cô dì chú bác. Trong 50 năm qua, ổng không hề có ý định nối quan hệ với bà con dòng họ. Ngày giỗ, ngày Tết, đám ma, đám cưới… ổng luôn luôn vắng bóng. Holmam sống ở Áo, nơi chúng ta sắp tới…
    - Trời đất ơi, vòng vo hoài. Nói đại coi, mày giữ vai trò gì với ổng đi mập.
    -Thì nói liền đây đại ca. Tới đâu rồi hả, à…năm nay ông cụ thầy thuốc Sigismun Holmam đã 75 tuổi, góa vợ, không có con nhưng tiền của thì vô số. Đùng một cái, ông cụ gọi điện thoại cho ba mình. Khi nghe tin hãng sôcôla Sauerlich có một đứa con trai kế thừa duy nhất, ông cụ khoái quá nói với ba mình rằng ổng muốn trao gia tài cho tôi. Haha, thằng Tròn Vo này sắp làm tỉ phú đây. Nhưng… chỉ dự bị thôi, vì ông cụ Holmam còn muốn nhìn mặt và kiểm tra năng lực của thằng cháu chưa một lần diện kiến. Ấy thế là…
    Tarzan ngắt lời thằng mập:
    - Nhà mày bảnh vậy còn nhận thêm gia tài “ông dượng” làm gì?
    - Thì ba tao cũng trả lời với ông cụ thầy thuốc trong điện thoại như vậy. Ba tao nói nhà mình tiền của chất đống hơi sức đâu mà luồn cúi ông cụ bẳn tính chứ. Nhưng…cái tao cần không phải là tiền của ổng mà muốn coi ổng đánh giá về tao như thế nào.
    - Rồi sao nữa?
    - Ông bố ép tao phải lên đường. Dù gì Holmam vẫn là bà con, chưa nói đến chuyện đã 75 tuổi sống nay chết mai mà không biết mặt mũi cháu ra sao thì có khi chết không nhấm mắt nổi. Tao đành phải…mặt khác tao lại thấy chờn chờn không muốn đi một mình. Có mặt các bạn, tao sẽ yên tâm hơn…
    Tarzan không buông tha, gặng tiếp:
    - Vì thế…
    - …nên tao bịa ra chuyện dượng Sigismun Holmam mời ba bạn ấy mà. Thực ra thì dượng đâu có biết ba bạn là ai, tính ông ta hình như lại ghét con nít.
    Tarzan dằn mạnh cốc nước khoáng trên bàn đến nổi nước văng ra tung tóe. Gaby trợn tròn mắt. Còn Karl bình tĩnh hơn.Thằng quân sự phân tích:
    - Không thể tưởng tượng được, bọn mình đã nghĩ rằng sẽ được đón tiếp tử tế ở nước ngoài. Bây giờ phải tính đến chuyện cái lão nửa điên nửa khùng kia có thể tống cổ những vị khách không mời mà đến chơi. Ái chà, đêm nay lạng quạng để tụi tao ngủ đường ngủ chợ lắm.
    Tròn Vo nói ngay:
    - Không bao giờ! Tao mang theo đầy tiền Áo đây. Đêm nay rủi có chuyện đó xảy ra, tụi mình sẽ từ giã… dượng đi tìm một khách sạn xịn.
    Tarzan nói:
    - Cả đám không coi việc ngủ ngoài trời là quan trọng. Vấn đề là mày đã lừa dối anh em, hiểu chưa mập?
    Tròn Vo cúi gầm mặt, lí nhí:
    - Hơi hơi lứa dối thôi. Tao sợ bạn bè bỏ mặc tao đi một mình.
    - Thằng…khùng. Đã ai bỏ mặc mày bao giờ chưa?
    - Về cơ bản thì không, nhưng trong chuyện này…
    Tarzan chán nản lắc đầu:
    - Thì mày cứ không nhận nhưng tụi tao vẫn tháp tùng mày sang Áo để mày có can đảm nói lên sự thật với ông dượng. Ê, đừng quanh co nữa Kloesen. Cái trò này làm chúng tao xấu hổ quá.
    Tròn Vo cười… gượng, nhìn đồng hồ:
    - Còn 15 phút nữa, chúng ta sẽ tới nơi.
    Gaby huých cùi chỏ vào sườn thằng mập:
    - Từ nhà ga về chỗ ông dượng mất bao lâu?
    - Dượng Holmam nói trong điện thoại rằng sẽ tốn khoảng nửa giờ đi xe hơi. Dượng còn dặn tụi mình chờ ở quán TRÁI NHO đối diện với nhà ga.
    - Thế thì ông cụ sẽ ngất xỉu tại quán. Chứ sao, ông dượng cần một công tử trong khi chúng ta trình diện tới bốn vị thần.
    Trong lúc Tròn Vo, Karl và Gaby tiếp tục nói chuyện thì Tarzan lại quan sát cô gái mù. Hắn hoàn toàn sửng sốt khi thấy cô ta đưa cho anh bồi bàn tờ giấy bạc cao giá nhất và ngượng nghịu rờ rẫm tờ giấy bạc đó. Lúc này cô gái đã đứng dậy, cầm gậy khua khoắng đi khỏi toa ăn về hướng toa hạng nhất. Tarzan nghĩ thầm: Cứ như một diễn viên sắp lên sân khấu. Ừ nhỉ, biết đâu cô nàng đóng vai người mù trong một vở kịch sẽ trình diễn và bây giờ đi “thực tế” để nhập vai. Biết đâu.
    Con tàu mỗi lúc chạy một nhanh hơn. Gần đến bến rồi. Giọng Tròn Vo không có gì là lo lắng:
    - Hồi hộp hả, mình sẽ giới thiệu các bạn với ông dượng và…
    Karl vui vẻ:
    - Và tụi tao từng đứa một tiến vô quán TRÁI NHO cho dượng mày ngạc nhiên chơi.
    Tarzan nhìn đồng hồ, nhắc các bạn:
    - Các vị chuẩn đồ đạc xuống tàu nhé.Karl giữ giùm tao cái túi, tao cần phải đi theo cô gái mù này một đoạn.
    Con tàu tốc hành giảm tốc độ rồi dừng lại. Susi Welmhoff sửa lại cái kính râm và chìa gậy ra phía trước dò đường đi như một người khiếm thị thứ thiệt. Susi dò dẫm từng bước dù trong toa không còn ai. Phải cẩn thận tuyệt đối mới được, sơ hở một chút là coi như nhiệm vụ miễn hoàn thành. Từ ba ngày qua cô phóng viên 28 tuổi này đã sống như một người không-nhìn-thấy-gì giữa đồng loại trong nhiều tình huống khác nhau. Tờ báo tỉnh giao cho cô nhiệm vụ viết về nỗi khổ, sự khó khăn trong sinh hoạt của người mù trong cộng đồng.
    Susi quả là dũng cảm.Cô đã trải qua những gì mà người mù thật phải trải qua. Cô chẳng được ưu tiên hơn mọi người, nhưng cũng không ai chen lấn, xô đẩy cô. Không ai lợi dụng sự “tàn tật”của cô để lừa đảo. Tại bất cứ đâu, người ta cũng trả lại tiền thừa cho cô đầy đủ.
    Đúng lúc đó, một người đàn ông bị trượt té ngay trong toa cuối cùng cách cô chỉ vài bước chân. Cô giật mình.
    Loại người này trông thật dữ tợn, chẳng khác gì một con rắn độc. Gã gương mắt mhìn cô, mặt trắng bệch hoảng hốt. Sau đó gã quay ngoắt người đii về phía cửa toa tàu đằng kia. Tàu dừng, gã vọt ra khỏi tàu cứ như là trong toa có người bị bệnh dịch hạch.
    Mặt trời xế bóng tỏa sáng trên mái tóc đỏ của Susi, cặp mắt tinh tường sau màu kính đen ngó ra cửa sổ. Gã đàn ông bị té hồi nãy đang chạy như bị ma đuổi và bốc hơi sau những lùm cây.
    Susi vẫn tiếp tục dò dẫm bước đến toa cuối cùng và… nhìn vô trong toa. Cô giật mình cảm thấy chân tay rụng rời. Bên trong toa, một người đàn ông trung niên đầu gục xuống tựa vào tấm kính cửa sổ, hai tay buông thõng, máu chảy đầm đìa phía sau gáy làm chiếc cổ áo đỏ lòm. Trên gáy có một cục u bầm tím. Susi hét lên.
    Một thanh niên cao lớn tóc xoăn cùng với ba người bạn chạy xộc tới.
    Tarzan nghe tiếng hét và nhanh chóng lao lên phía trước. Cô gái mù nhìn cậu, cô bỏ chiếc kính râm ra. Cô cảm thấy không cần thiết phải ngụy trang nữa, suốt ba ngày giả bộ mù để rồi hôm nay mở lớn mắt trước một biến cố khủng khiếp. Cánh tay cầm gậy của cô run run chỉ vô toa.
    - Một… một người… hình như bị chết trong ấy…
    Tarzan đẩy mạnh cửa lao hẳn vào trong toa. Người đàn ông hói trán không cựa quậy. Ông ta mặc một bộ trang phục bằng da hươu, kế chỗ ngồi là một chiếc mũ. Tarzan thăm mạch ông ta tức khắc, mạch tuy yếu nhưng vẫn đập đều đều. Hắn ngước mắt nhìn cô gái.
    - Ông ấy còn sống.
    Hắn cẩn thận kéo nạn nhân lên ghế nằm. Sơ sẩy một chút là ông ta có thể bị nghẹt thở. Susi đã nhìn rõ mặt nạn nhân. Cô thốt lên:
    - Chúa ơi! Ông… ông Mair-Chateaufort… tại sao…? Ôi, chúng ta phải gọi cảnh sát gấp.
    - Có thể ông ta bị chấn thương não. Chị là người mù nhưng nhìn tốt lắm.
    - Ồ không, tôi chỉ giả bộ mù. Tôi làm phóng viên và đang viết một phóng sự về cuộc sống người mù trong cộng đồng xã hội. Người này ở khá gần nhà tôi. Tên ông ấy là Macxen Mair-Chateaufort. Tôi…tôi đã nhìn thấy thủ phạm. Có lẽ gã tưởng tôi bị mù nên không làm gì tôi và bỏ chạy một mạch.
    Tarzan lục túi áo nạn nhân. Hắn nói:
    - Bộ quần áo nông dân truyền thống loại sang này giá không dưới 5.000 mark. Chẳng thấy bóp, đồng hồ và nhẫn đâu cả. Chắc đây là một vụ cướp. Ông ấy có giàu không?
    Người nữ phóng viên gật đầu:
    - Ông ta rất giàu có. Tôi biết rằng bao giờ ông ấy cũng đeo hai cái nhẫn và một chiếc đồng hồ vàng. Cái nhẫn của ông ấy khắc hai chữ SH.
    - Tại sao không khắc MMC là tên tắt của ông ta?
    - À, thật ra cái nhẫn này vốn là sở hữu của ông bác sĩ Sigismun Holmam. Ông Maacxen Mair-Chateaufort đã trở thành chủ nhân mới của nó nhờ chiến thắng trong một cuộc đánh bài.
    Tuyệt thật, Tarzan nghĩ, đúng là tụi hắn đã rơi vào cuộc này rồi. Tarzan đứng dậy.
    - Chị đứng đây nhé, phải lo đưa ông ta đi bịnh viện trước khi tàu chạy tiếp.
    Hắn nói xong là ba chân bốn cẳng chạy hộc tốc xuống đường tàu và đâm sầm phải ông trưởng tàu. Cuốn sổ ghi chép của ông ta rơi xuống đất. Không để ông ta kịp quát tháo, Tarzan ngắt lời ông:
    - Lên toa nhìn kìa bác. Bác có chuyện làm đó.
    Ông trưởng ga sững sờ. Đối với hành khách đi tàu thì tất nhiên sẽ bị trễ 5 phút, nhưng 5 phút đáng gì với tàu tốc hành. Dù sao thì tốc độ con tàu sẽ được bù lỗ khi tới đường biên giới Nam Tư.
    Không khí ở nhà ga nhỏ nhốn nhao hẳn lên vì vụ tai nạn. Ông trưởng ga đầm đìa mồ hôi. Năm nhân viên dưới quyền ông hầu như hoàn toàn không còn khả năng tập trung làm việc. Lúc này xe cứu thương đã đưa nạn nhân đi.
    Susi và tứ quái ngồi trong phòng viên trưởng ga. Susi và Tarzan là hai nhân chứng nên phải khai báo với nhà chức trách. Ông thanh tra Wondras-chek không nhanh như ông bác sĩ cấp cứu. Susi và Gaby thì thầm trò chuyện còn ba quái nam ngồi luyện sự kiên trì. Tròn Vo nói:
    - Mình sẽ không trình diện ông dượng nếu không có các bạn. Chúng ta đến trễ nhưng có lí do chính đáng. Ông ta có thể loại tao khỏi danh sách kế thừa nhưng tao cũng sẽ nói cho ổng biết cái tội nửa thế kỷ không thèm ngó tới họ hàng. Đối với tao, ông ta vẫn còn là một người xa lạ.
    Susi nói với Tròn Vo bằng một giọng thân mật:
    - Trước sau chúng ta cũng là những người hàng xóm với nhau vì cùng ở trong thung lũng Mit-tebriss. Phong cảnh vùng này rất thơ mộng, bốn bề là núi với rừng trùng điệp, hồ nước và đồng cỏ mênh mông. Toàn bộ thung lũng rộng lớn ấy trước kia chỉ có bốn trang trại nhưng sau đó những người chủ cũ đã bán sạch. Hiện thời trang trại đẹp nhất thuộc về bà Pauline Mehrfelder, vợ góa của một nhà công nghiệp. Trang trại lớn thứ hai thuộc về bác sĩ Holmam, bác của Tròn Vo. Nghe đồn trang trại này lộng lẫy lắm nhưng chị chưa tới bao giờ. Trang trại thứ ba là của thương gia Mair-Chateaufort. Ông vốn là một thương gia về phomat. Có thể nói ông ta cung cấp cho phân nửa nước Áo mặt hàng này. Ông ấy đã góa vợ và hiện về hưu. Còn chị và người bạn đời của chị ở trang trại thứ tư. Đây là một trang trại nhỏ và khiêm tốn nhất.
    - Anh ấy có làm báo như chị không?
    - Không. Anh ấy làm nghề quay phim truyền hình. Phần lớn thời gian làm việc ở Viện và chỉ về đây vào dịp cuối tuần. Đáng tiếc là lần này ảnh vắng mặt nên không có dịp làm quen với các em. Ảnh tên Bernd.
    Tarzan nói:
    - Tiếc hả. Hôm nay là thứ sáu. Tụi em có thể ở lại đây đến thứ tư tuần sau nếu mọi chuyện ổn thỏa.
    Tròn Vo hỏi:
    - Chị có quen dượng em không?
    - Biết thôi nhưng không rành. Bác sĩ Holmam không thích anh Bernd và chị mua trang trại ở đây.
    - Ổng là người thế nào ạ?
    - Ông ấy là người khó tính. Dượng em không mấy cảm tình với những người trẻ tuổi. Chẳng hạn với anh chàng bác sĩ Andreas Holmam, cháu ông ta ấy. Khi ông ta về hưu thì bác sĩ Andears đã tiếp nhận toàn bộ cơ nghiệp của ông. Bác sĩ Andears là một bác sĩ giỏi, chuyên gia chữa chấn thương thể thao và chữa bệnh bằng suối nước nóng.
    Tarzan gật đầu:
    - Té ra Tròn Vo còn một vị họ hàng. Ngay đến bác Sauerlich, ba của ông địa Kloesen cũng không nhớ nổi. Cũng chẳng có gì lạ. Trong 50 năm xa cách có biết bao nhiêu vật đổi sao dời.
    Xe cảnh sát đã tới.Thanh tra Wondrascheck và người trợ lí của ông nhảy ra khỏi xe.
    Viên thanh tra có cái mũi giống như củ khoai tây, chân ngắn ngủn, lại còn diện bộ comple dày cộm nên mồ hôi ướt đầm đìa. Tuy nhiên nhờ cái dái tai phúc hậu nên thanh tra Wondrascheck thuộc tuýp người tốt bụng, có khả năng tin cậy được. Giọng ông ồm ồm:
    - Chào cô Susi. Cánh nhà báo và cảnh sát như nước với lửa mà đi đâu cũng đụng độ với đang phiền toái hả?
    Susi tường trình lại câu chuyện cho viên trợ lí ghi chép lia lịa. Thanh tra Wondrascheck gật gù:
    - Cô hên đó, cô Susi. Chỉ vì tên tội phạm tưởng cô bị mù thật nên gã mới để cô yên. Bằng không thì…
    - …y sẽ hạ thủ tôi để bịt miệng chắc?
    - Có thể thế đấy.
    Tarzan nhìn ông thanh tra:
    - Chị Susi đã thấy tên tội phạm mặc áo khoác mỏng để hở ngực nhưng trong tay lại không có hung khí. Điều này quả thật mâu thuẫn trong khi nạn nhân thì bị hung khí đánh vào đầu.
    - Ừ…ừm. Các đồng nghiệp của chúng tôi ở thị trấn Triglit sẽ làm rõ việc này khi kiểm tra tàu tại trạm dừng.
    - Khi ông Chateaufort được đưa đi, cháu đã tìm khắp trong toa mà không gặp bất cứ một vật dụng nào của hung thủ bỏ lại.
    Wondrascheck mỉm cười:
    - Vậy thì có thể thủ phạm đã liệng vật gây tai họa ra ngoài cửa sổ.
    - Cửa sổ các khoang lại càng không thể mở được. Ở đó thông gió tự động, không khí được thổi qua kẽ hở bên dưới cửa sổ.
    - Nếu thế chắc nạn nhân đã bị một đòn chí mạng của một võ sư Karate?
    - Không thể bác ạ. Cháu cũng có chút nghề võ. Cháu có thể nhận biết những cú đánh bằng tay, cháu biết Karate, Kungfu và Judo. Nhưng không có cú chém bằng cạnh bàn tay nào gây ra vết thương ở gáy kiểu như thế.
    - Nào, giải thích về nghi vấn của cậu xem sao?
    - Rất tiếc cháu không giải thích được. Có thể hung khí nhỏ có thể đút gọn trong túi áo. Có thể nói thủ phạm đã hành động thật không khôn khéo. Gã không thể nghĩ tới việc hành khách vẫn qua lại trên toa. Nếu cháu là hung thủ, cháu cũng không tin ngay cả người mù.
    Wondrascheck nói:
    - Trước khi tới đây, chúng tôi đã rẽ qua bịnh viện. Ông Mair-Chateaufort đã tỉnh. Ông ta cũng không trông thấy hung thủ. Ông ấy nói rằng trong lúc dán mắt vào cửa kính ngắm phong cảnh thì cửa sau lưng ông bật ra và kế tiếp là… trời tối sầm.
    Ông ta quay sang Susi:
    - Gã khoảng 30 tuổi, tóc vàng nâu, người tầm thước, mặc comple màu sáng phải không?
    Susi nhún vai:
    - Tôi không thể mô tả gã khác hơn vậy, thưa ông.
    - Sau này cô vẫn nhận diện được gã?
    - Đúng thế.
    Ông thanh tra hất hàm với viên trợ lí ốm nhách:
    - Ghi chép đủ chưa hả chú mày?
    Viên trợ lí gật đầu.
    - Xong. Này cô Susi, tôi biết rằng cô sẽ tường thuật cho độc giả trên tờ báo của cô về vụ cướp này. Có điều cô sẽ bị nguy hiểm đấy. Loại cướp nhanh vọt lẹ này thủ đoạn rất tàn bạo. Gã sẽ biết cô giả bộ mù và thế là…
    - Ái chà, ông có nói gì thì nói nhưng viết phóng sự điều tra là nghề nghiệp của tôi. Không một phóng viên nào có cơ hội may mắn như tôi chứng kiến được tên hung thủ sau khi đã gây án đâu. Tôi sẽ tận dụng cơ hội ấy.
    - Hy vọng rằng đêm nay cô vẫn nghĩ như vậy khi ở trong trang trại chỉ có một mình. Cô sẽ được dịp nghe rõ tiếng cột nhà kêu răng rắc, tiếng gió hú, tiếng mèo kêu và tiếng chuột chạy. Cô sẽ run như cầy sấy tưởng rằng tên cướp gõ cửa. Chúng tôi sẵn sàng cứu cô, nhưng từ lúc cô gọi điện báo động cho đến lúc chúng tôi ra tới hiện trường cũng hơn nửa tiếng đồng hồ đó.
    Susi cười:
    - Không, ông không làm tôi sợ đâu.
    Viên thanh tra đứng lại:
    - Có lẽ gã không còn lẩn quất ở đây nữa, nhưng tất cả phải cảnh giác đấy.
    Tứ quái xốc hành lý lên vai đi như bốn kẻ lãng tử đến quán TRÁI NHO. Mặt trời đã khuất sau núi chỉ để lại những tia sáng le lói. Các quán ăn ở khu Bad Faesslift đầy nhóc khách du lịch và bịnh nhân tới chữa bệnh bằng suối nước khoáng. Chưa bước chân vô quán mà hai đầu gối của Tròn Vo đã lập cập như ông già khiến Tarzan phải trấn an.
    - Mày làm gì mà “hãi” ông dượng dữ vậy? Cứ bình tĩnh kẻo hỏng việc, không khéo mất toi khoản thừa kế đó.
    Tròn Vo chống chế:
    - Chẳng qua là tao kính lão đắc thọ đấy thôi.
    - Xạo nữa. Hãy nhớ rằng việc mày đến đâylà do ông ấy yêu cầu. Ông ta cần mày chớ không phải mày cần ông ta. Ông ta đang tìm một người thừa kế chớ có phải mày đâu.
    - Ờ ờ, tao hiểu rồi. Nhưng tao đề nghị cả đám vào một lượt nhé.
    Tarzan cố mím miệng cười. Hắn hiên ngang đi trước. Không khí trong nhà hàng mát lạnh vì các bức tường dày đến hàng mét. Một lô âm thanh loảng xoảng của chén dĩa chạm nhau, của tiếng người thì thầm lọt vào tai hắn, tất cả các bàn ăn đều kín chỗ. Tarzan đoán ông dượng của Tròn Vo chỉ có thể chờ bên quán giải khát. Chớ gì nữa, quầy rượu ở chỗ này đỡ ngộp hơn.
    Đằng sau quầy rượu là một người đàn ông đứng tuổi bụng phệ, mặt đỏ au. Ông ta rót một vại bia bự đi lạch bạch như con vịt bầu đến bàn khách. Có lẽ đó là ông chủ bởi nếu người làm mà đi lại như vậy thì bị đuổi việc từ lâu rồi. Tarzan nhã nhặn hỏi:
    - Thưa ông. Tụi cháu có hẹn gặp bác sĩ Holmam tại quán này. Ông có biết bác sĩ không ạ?
    Chủ quán ngó hắn lom lom như ngó một con đà điểu chạy lạc.
    - Cậu là cháu cụ phải không?
    Tròn Vo bước lên một bước đáp:
    - Vâng, cháu đây ạ.
    - Cụ Holmam bực vàng cả mặt. Ông cụ chờ ở đây cả buổi và chửi thề ỏm tỏi. Cụ vừa về cách đây khoảng 5 phút.
    Tròn Vo cực kỳ thất vọng:
    - Chúng cháu thật là không may.
    - Nhưng cậu làm gì mà lâu dữ vậy? Tàu đến đúng giờ, nhà ga thì bé. Tìm quán này dễ ợt mà.
    - Tụi cháu bị kẹt phải làm việc với cảnh sát với tư cách là nhân chứng của một tội ác.
    - Hừ thì ra thế. Cả quán tôi, người ta đang kháo nhau chuyện này.
    Người khách ngồi bàn bên nói xen vào:
    - Này, nghe đồn rằng lão khố rách ấy bị táng vỡ sọ hả?
    Tarzan ngước mắt nhìn người vừa nói. Gã khoảng 40 tuổi, to mập, mặc một bộ quần áo cổ lỗ đã sờn chỉ. Hắn nói:
    - Nạn nhân là một cụ già. Chỉ có những kẻ hồ đồ mới gọi ông cụ ấy là khố rách.
    Gã khách ngẩng ngay đầu dậy, ngoạc mồm khiến mẩu bánh mì trộn xúc xích dang nhai nhồm nhoàm rớt ra ngoài.
    - Mày dám ám chỉ tao là hồ đồ phải không?
    Tarzan bình tĩnh quan sát. Gã có khuôn mặt không đến nỗi nhưng rất đểu cáng, tóc chải ngôi chính giữa đầu, nước da bủng beo như người cớm nắng. Cái càm bạnh đưa đi đưa lại, gã như đang muốn chồm lên ăn tươi nuốt sống Tarzan. Hắn nhún vai:
    - Nếu phải thì sao?
    Gã đàn ông đứng bật dậy, nghiến răng:
    - Mày phải xin lỗi tao, nếu không sẽ biết tay tao.
    Ông chủ quán thở phì phò:
    - Không có chuyện đánh nhau trong quán tôi đâu nghe. Nếu ông muốn gây sự thì xin mời ông ra ngoài. Nhưng, làm ơn thanh toán tiền cái đã.
    Ông ta quay sang tứ quái:
    - Các cậu có thể phone cho cụ bác sĩ Holmam, điện thoại đặt ngoài hành lang ấy. Hoặc có thể đi taxi.
    Tarzan gật đầu:
    - Cám ơn ông. Tụi cháu sẽ đón taxi.
    Trước khi ra cửa. Tarzan còn quay đầu nghía lại gã đàn ông chải ngôi giữa có nước da vàng vọt một lần nữa. Gã cũng vớ chiếc vali cũ đứng móc túi trả tiền rồi rời quán ăn.
    Gã cũng mới tới đây bằng chuyến tàu tốc hành Alpen hay bây giờ mới ra đi? Hình ảnh gã mặt bủng, tóc chải ngôi giữa vẫn ám ảnh Tarzan khi cả bọn ra bãi đỗ xe taxi để về nhà bác sĩ Holmam

    HAI. VỢ GÓA VUA ĂN TRỘM
    Grobalki thấy mất cả ngon. Gã đẩy đĩa bánh mì và xúc xích sang một bên, làm một ngụm bia lớn cho tỉnh táo. Bọn mất dạy, cả lão chủ quán láo xược nữa. Té ra đám trẻ định đi đến nhà Holmann, kẻ thù không đội chung trời với y, kẻ mà thời gian tới y sẽ xin tí huyết.
    Gã xách vali đi ra. Dáng đi bất cần đời như một con sói thông thuộc mọi địa hình địa thế trong vùng. Mà thật vậy, hồi xa xưa gã từng sống ở đây. Chỉ vì xui mà gã lãnh án tù tám năm và mới được trả tự do vào cuối tuần trước. Gã về đây chỉ để trả thù bác sĩ Holmann. Gã hận ông bác sĩ này từ khi phải vào nhà đá.
    Có điều bây giờ không phải là lúc giải thích. Bây giờ phải gặm nhấm nỗi hả hê với chiến tích bất ngờ vừa đạt được. Hà hà, tên làm chứng Chatenaufort đã bị ta hạ gục ở trên tàu tốc hành. Không hiểu nổi trời xui đất khiến thế nào mà vừa sổ lồng thót lên tàu về tìm kẻ thù lại được kẻ thù lù lù mò đến nộp mạng. Rõ ràng là luật vay trả. Chính mày, mày đã cả gan ra trước toà làm nhân chứng buộc tội tao. Mày bể sọ là phải. Grobalki đắc chí thò tay vào túi quần. Con chó lửa vẫn còn đó. Cám ơn mày, súng ạ. Nhờ mày, tao đã nện được thằng Mair-Chateaufort. Tao với mày không nợ nần gì nhau nữa.
    Grobalki thả gót giày xuống lộ Kaiser. Khi lướt ngang cổng nhà in tờ báo địa phương, gã nhìn thấy một phụ nữ trẻ đẹp đang lục lọi cái gì đó trong túi xách màu vàng. Mẹ kiếp, cô ả kia hình như quen lắm. Thôi chết rồi, hồi nãy mình gặp ả trên tàu và thấy rất rõ ả bị mù cơ mà. Gã dừng chân, nhìn người phụ nữ trừng trừng.
    - Xin lỗi cô, nếu tôi không lầm thì cô đã từng xử sự như một người mù trên tàu tốc hành Alpen.
    Người phụ nữ trẻ chính là Susi. Cô mỉm cười:
    - Ông nói đúng. Tôi là phóng viên báo tỉnh và nhập vai kẻ khiếm thị để thực hiện nghề nghiệp riêng.
    - Thì ra thế. Cô định trắc nghiệm thái độ thiên hạ đối với người tàn tật à?
    - Đại khái như vậy.
    Susi không ưa gì khuôn mặt gã đàn ông lạ mặt. Cô gật đầu chào rồi bỏ đi một mạch. Grobalki nhìn theo cô, gã đổi chiếc vali sang tay khác rồi triết lý:
    - Đến người mù cũng không tin được.
    Gã ngoặt liền vào ngõ Schreber. Một ngõ cùng tuổi với thị xã, tồn tại từ 600 năm nay. Gã vừa đi vừa tìm số nhà. Đúng địa chỉ nó viết cho gã. Grobalki bấm chuông ngôi nhà tàn tạ ở sát ngã tư. Một lúc sau có tiếng động ở tầng trên. Một bà già tóc bạc trắng da mặt nhăn nheo thò hẳn đầu ra cửa sổ:
    - Ai đó?
    - Xin chào cụ Flinkfinger. Otvan nhờ cháu tới nhắn tin cho cụ.
    - Ông là cảnh sát hay sao mà biết thằng Otvan nhà tôi chứ?
    - Ngược lại đấy cụ ơi. Cháu là thằng chiến hữu của con trai cụ mà.
    - Cổ thằng Otvan có mấy nốt ruồi?
    -Sáu cái tất cả. Hai bên phải, bốn bên trái. Trong đó có một nốt rất bự.
    Bà già biến mất. Hú vía, Grobalki cứ tưởng mụ già sẽ lộn cổ xuống đường và gã sẽ phải đỡ mụ ta. Cánh cửa tầng dưới mở ra. Bà lão mẹ của chiến hữu Otvan đứng trước cửa, khoác khăn choàng màu đen.
    - Ông tên gì?
    - Cháu tên Heinrich Grobalki.
    -Vô nhà đi. Otvan có nhắc tới anh trong thư. Hai người ở với nhau bao nhiêu lâu?
    - Hai năm, thưa bác. Hai năm vừa rồi hai đứa cháu bị giam chung phòng. Otvan “kết” cháu lắm. Cháu được tha trước nó một tuần. Để cháu tính nhẩm xem, ơ… chiều mai Otvan về đến nhà rồi. Nó có dặn nếu báo tin cho bác thì cứ yên chí ở nhờ nhà bác.
    - Đúng. Trên gác còn một cái ghế xôpha. Anh ngủ trên đó nhưng cấm rờ đến rượu cônhăc của tôi.
    - Tất nhiên rồi, bác Alma ạ.
    - Đừng láu cá nữa. Tôi không ưa nịnh. Lên tầng trên đi.
    Bà già đưa gã vô một căn phòng đầy bụi và mạng nhện. Có lẽ mạng nhện là vật trang trí nội thấy duy nhất của căn buồng. Grobalki đặt vali xuống sàn, mở nắp và lôi chai cônhăc ra.
    - Cháu mới mua ở nhà ga đây, tuyệt lắm. Bác dùng với cháu một ly nhé.
    - Hi hi, uống chớ sao gì nữa. Otvan khéo chọn bạn đó. Nào, xuống phòng tôi. Bên dưới có đồ nhậu.
    Ực một hơi hết ly rượu, mụ già bắt đầu:
    - Hẳn anh đã nghe danh ông nhà tôi, hiện ông ấy an nghỉ ngoài nghĩa địa, nhưng lúc còn sinh tiền
    vốn là một tay ăn trộm cự phách nhất nước Áo đấy. Tay nghề ông nhà tôi siêu đến mức không có loại két sắt nào mà ông ta không mở được. Dân trong làng chôm chỉa gọi Poldi là Vua Mở Két mà. Đám anh chị trong thế giới ngầm xác định ông nhà tôi dính tới 212 vụ trộm trước khi bị… “múm”. Hi hi, bọn đầu gấu tính sai bét, trên thực tế Poldi đã xử tròn 500 vụ. Tôi còn nhớ hôm thực hiện vụ thứ 500, vợ chồng tôi còn làm lễ ăn mừng kia. Hồi đó cả hội kéo tới khách sạn “Hoàng Đế Franx Josef”. Ông nhà tôi thuê trọn gói một dàn kèn đồng cực kỳ rôm rả. Ôi, tối hôm đó rượu sâm panh tràn thả cửa.
    - Nào, cũng ly đã bác Alma. Chúng ta cầu chúc bác trai…
    - E… hèm, chỉ tiếc hùi hụi là thằng Otvan không đủ tầm cỡ như bố nó. Nó cũng cố gắng vớt vát thể diện gia đình bằng một số phi vụ, nhưng xét cho cùng, còn khuya mới có tên tuổi trong lịch sử ngành hình sự như Poldi.
    Grobalki nhếch mép. Gã chuốc cho mụ già đầy ắp. Mẹ kiếp, mụ cần phải phun ra thủ đoạn tuyệt vời của thằng Otvan đã. Mụ chưa biết ý đồ của gã đâu phải chỉ thuần tuý “thịt” lão Holmann, mà cái chính là moi được một vài bí mật từ vụ đánh quả lớn của thằng bạn tù ranh mãnh.
    - Bác Alma à, nghiệp vụ Otvan không có yếu như bác tưởng đâu. Cháu thấy nó giỏi lắm.
    - Nhằm nhò gì với ông bố Vua Mở Két. Cảnh sát đã chứng minh được nó tham gia 14 vụ và lấy được dấu vân tay của nó. Vì thế nó phải ngồi tù 5 năm. Nó dại quá, sao nó lại không đi găng tay kia chứ?
    - Bác không biết đó thôi. Trong nhà giam, cháu đã bàn với Otvan rằng khi ra tù, hai thằng sẽ làm việc với nhau. Nhưng Otvan láu cá lắm. Nó không chịu ngửa bài với cháu. Nó chỉ nhận đã thực hiện 14 vụ. Còn vụ thứ 15 thì nó nhất định không nhận.
    - Anh tính nói vụ đột nhập nhà mụ Pauline Mehrfelder chớ gì, Otvan có làm đâu mà chẳng lắc đầu. Nhưng nó không có bằng chứng ngoại phạm. Chẳng qua là rủi ro thôi. Mà chuyện này đã xảy ra 5 năm rồi còn gì. Tôi biết thằng con tôi. Nó không bao giờ đánh quả mà giấu tôi. Khoản châu báu mụ Pauline bị mấy giá trị tới 1 triệu mark chứ ít đâu.
    Grobalki cạn ly cônhăc thứ tư và cảm thấy nóng rực cả người. Gã nhếch mép cười nham hiểm. Trong tù, chỉ độc nhất mình gã biết tỏng thằng Otvan đã “chơi” vụ này. Nó đã phun ra khi ngủ mê. Trong cơn ác mộng, nó bị ám ảnh bởi đồng của cải to lớn chiếm đoạt được đến nỗi lải nhải không thành tiếng: “vàng bạc… châu báu… ta sẽ bán… không ai hay… giàu sụ…” còn của được giấu ở đâu thì tuyệt nhiên nó không nói tới. Grobalki nghĩ thầm: Tao sẽ phỗng tay trên của mày Otvan ạ, phỗng cùng lúc với việc trả thù thằng già bác sĩ Holmann. Làm xong hai vụ, tao sẽ biến vĩnh viễn và không ai biết tao ở đâu.
    Gã rót thêm rượu mời mụ già. Đúng lúc đó tiếng chuông cửa vang lên.
    Tứ quái vẫy taxi đến nhà bác sĩ Holmann. Trời càng lúc càng tối. Hương đồng cỏ nội bay vào trõnge ngây ngất. Người tài xế chỉ tay về một ngôi nhà mờ mờ.
    - Từ đây bắt đầu tới khu thung lũng Mittelrisa. Kia là nhà bà Pauline Mehrfelder, bà ta là người rất giàu có. Bà ấy chỉ chơi thân với một mình ông thầy thuốc Holmann, người ta kháo rằng ông Holmann chỉ ngán bà Paline thôi.
    Tarzan tò mò:
    - Đèn đuốc nhà bà ta sáng trưng. Dám bà Pauline có ở nhà?
    - Chưa chắc. Bà ta vốn có thói quen để đèn sáng như vậy. Nghi binh mà. Bà ta không muốn bị kẻ gian viếng thăm một lần nữa. Cách đây 5 năm, ngày 17 tháng 7, bọn trộm đã rinh một đống vàng bạc chau báu trị giá một triệu đồng của bà.
    - Thế bà ấy để tiền ở trong két ạ?
    - Chẳng hiểu. Nhưng có điều bà ta đãng trí lắm. Ra đường bà ta còn xỏ mỗi chân một chiếc giày khác nhau và mua hàng còn quên trả tiền thì hỏi sao bọn lưu manh không khai thác nhược điểm này. Mà hôm đó không riêng gì bà Pauline lú lẫn, bữa đó có mấy nhà cũng bị bọn trộm ghé thăm đó.
    - Trời đât. Không có ai ở nhà hôm đó hay sao ạ?
    - Chứ sao. Hôm đó là ngày hội đồng quê mà. Ai cũng khoá cửa đi vui vẻ hết.
    - Chẳng lẽ các nạn nhân không nghi ngờ ai sao?
    - Có chớ. Thằng Otvan Flinkfinger bị bắt ngay hôm đó và tới sáng nay vẫn còn ngồi tù. Nó là con trai của Vua Mở Két nước Áo đấy. Hình như vài ngày nữa, Otvan đã mãn hạn tù.
    - Hung thủ có nhận tội không anh?
    - Không. Nhưng toà chiếu theo tất cả các tình tiết tại hiện trường vẫn quyết định lên án nó. Hiện giờ người ta vẫn chưa tìm ra đống của cải bị mất, ái chà, đống của biệt tích suốt 5 năm.
    Xe taxi dừng lại trước cổng. Tarzan đang sẵn sàng ở tư thế ấn chuông thì cửa mở. Một người đàn bà lớn tuổi bước ra:
    - Cháu là Willi phải không? Vô đi. Dượng Holmann chờ cháu đã lâu. Dượng không ưa những ai thất hẹn.
    Bà chìa tay về phía Tarzan. Các ngón tay đều đeo nhẫn. Tarzan bắt tay bà, hắn nói:
    - Cháu là Tarzan bạn của Willi. Ba chúng cháu cùng đi với bạn ấy.
    Bà nhìn chúng cười niềm nở:
    -Ồ, đừng sợ các cháu. Vô hết đi.
    Tarzan giới thiệu từng bạn một với bà. Bà già quàng tay qua vai Gaby:
    - Cách đây 60 năm bà cũng từng là một cô gái xinh đẹp như cháu đấy.
    Tròn Vo “galăng” liền:
    - Dạ, bây giờ chúng cháu vẫn nhận ra vẻ đẹp xưa của bà.
    - Thế hử. Cám ơn cháu. Hãy gọi ta là Pauline nghe. Ta là bạn thân của dượng cháu đây. Hôm nay ông ấy mời ta đến đây để đón các cháu. Các cháu phải sửa soạn xin lỗi ông Holmann về việc đến trễ nhé.
    Tarzan tức giận nghĩ, mình đang ở đâu thế này? Hắn nói:
    - Tụi cháu không làm gì sai trái đến nỗi phải xin lỗi. Bạn Willi được mời đến chớ có phải tự đến đâu ạ. Đành rằng bạn cháu có báo trước về chuyấn tàu tốc hành Alpen nhưng những gì xảy ra trên tàu thì chúng cháu có lường được đâu. Tụi cháu tính rằng nếu có gì… thì cả bốn đứa sẽ quay về Fasalift ngủ trọ.
    Bà Pauuline cười rất tươi:
    - Ta nghĩ tối nay sẽ rất vui. Ta cũng sẽ ở đây với các cháu.
    Tức quái cảm thấy nhẹ người. Bà già đã 70 tuổi mà còn rất trẻ trung và bà cũng không muốn mọi người cảm thấy mình là một bà lão già nua. Có tiếng đàn ông trầm trầm. vẻ khó chịu:
    - Cái gì ở ngoài cửa thế Pauline? Ban đồng ca của bà đến rồi hở?
    *
    Mụ Alma liếm mấy giọt cônhăc bám trên thành ly. Grobalki nói:
    - Ồ, có ai bấm chuông cửa.
    - Kệ mẹ nó. Anh rót thêm rượu ra đi.
    - Vậy bác tự rót nhé, còn cháu ra ngoài đó coi ai tìm.
    Gã đứng dậy và vọt qua hành lanh lần mò mãi mới thấy nút bấm điện. Hành lang bốc mùi gì chua
    chua khiếp. Nếu không vì mục đích tranh thủ tình cảm của mụ già thì gã đã cất chai cônhăc từ lâu.
    Một người đàn ông to bè mặc bộ complê mùa hè màu sáng đứng chờ trước cửa. Chiếc cà vạt kéo dài tới tận bụng. Trên khuôn mặt nghiêm nghị của ông ta nổi bật cặp kính trắng không viền. Ông ta nói:
    - Chào ông. Tôi cần gặp bà Flinkfinger.
    - Bà già đang ở trong nhà.
    - Tôi là luật sư Posnickel. Rất tiếc là tôi đã làm phiền nhưng ngày mai tôi đã đi nghỉ phép rồi.
    Grobalki niềm nở:
    - Xin mời ngài luật sư vào trong.
    Gã đi trước dẫn đường. Gã đã biết tên tuổi luật sư Posnickel qua lời kể của Otvan. Nhờ tài hùng biện của ông ta mà Otvan chỉ bị lĩnh án 5 năm. Hồi đó chính báo chí đã bàn tán: không có Posnickel thì tội của Otvan phải 10 năm tù mới đáng. Viên luật sư ngửi thấy mùi rượu trước khi phát hiện chai cônhăc trên bàn. Grobalki líu lưỡi:
    - Tôi là Groobbbbaalki… bạn thân của gia đình. Ông luật sư dùng với chúng tôi một ly nhé.
    - Được. Tôi xin một ly.
    Posnickel rút trong túi áo ngực một cuộn giấy và đằng hắng.
    - Thưa bà, đáng lẽ là ngày mai hoặc mốt tôi mới giao cho con trai bà hồ sơ này, ừ… ừm, nhưng giờ chót vì bận quá nhiều công việc nên tôi muốn giải quyết sớm để còn kịp nghỉ phép.
    Mụ Alma Flinkfinger ngớ ra:
    - Hồ sơ nào vậy?
    - Về một ngôi mộ.
    - Ngôi mộ nào?
    - Thưa bà, cách đây năm tuần con trai bà có mời tôi đến nhà tù. Số là trong tù, cậu ta có đặt báo “Tin tức Fasslift”, và qua báo cậu ấy biết nghĩa trang thị trấn đang trong tình trạng thiếu đất chôn người chết. Chính vì thế những ngôi mộ đã tồn tại trên ba mươi năm ở nghĩa trang phải bị bốc lên để nhường chỗ cho những kẻ vừa từ trần.
    - Anh nói nghe ghê quá… Thằng con tôi còn sống sờ sờ ra đó còn tôi đã chết đâu.
    Viên luật sư cười:
    - Thế này thưa bà, trên báo có nói là những ngôi mộ sắp bị khai quật có thể được gia hạn thêm một đợt ba mươi năm nữa nếu nhân thân người chết chịu mua miếng đất đó với giá 3.000 mark.
    Mụ già làu bàu:
    - Rõ vớ vẩn, họ hàng tôi có ai chôn cất ở đó đâu. Ông nhà tôi chôn ở Watzelfuoc cơ mà…
    - Tôi biết, nhưng cậu con Otvan của bà đã uỷ nhiệm cho tôi mua đất một ngôi mộ của một người bạn thân thuộc diện khai quật. Cậu ta đã trả tiền đầy đủ cho tôi. Công việc được giải quyết xong và đây là hóa đơn thanh toán.
    Mụ Alma rít lên:
    - Thằng bé bị điên rồi. Nó chịu tốn kém như vậy để làm gì chớ? Thằng bạn nào vậy kìa?
    - Cậu Otvan rất thương một người tên là Flappe.
    - Flappe là lão mổ thịt súc vật trong làng. Lão đã ngoẻo lúc thằng Otvan mới lên 7 tuổi.
    Viên luật sư nhún vai:
    - Tôi chỉ cần hiểu cậu ấy muốn giữ phần mộ Flappe, có vậy.
    Mụ già thẫn thờ:
    - Thế mà tôi chẳng biết gì về chuyện đó cả.
    Luật sư Posnickel nói:
    - Thưa bà, tôi không có quyền can thiệp vào chuyện nội bộ gia đình thân chủ mình. Bà hãy cầm lấy các hoá đơn chứng từ. Xin chào.
    Ông ta đứng dậy. Mụ già đờ đẫn như người mất trí. Grobalki sốt sắng tiễn khách ra cửa, và không quên chúc ông có một kỳ nghỉ nhiều may mắn. Gã muốn nhảy lên vì sung sướng. Thật tuyệt vời! Không thể để cho mụ già biết. Thằng Otvan láu cá thật, nhưng vẫn thua ta. Ta sẽ cho nó trắng mắt ra, ta sẽ nẫng tya trên của nó. Toàn bộ châu báu lấy được nó đã khôn ngoan giấu trong ngôi mộ lão đồ tể. Ngay đêm nay ta sẽ đến đó và khuân đi bằng hết!

    BA. HUNG THỦ THẬT, HUNG THỦ GIẢ
    Mặt Tròn Vo trắng bệch. Nhưng cho dù cặp giò ngắn ngủn của nó có bị chôn xuống đất, Tarzan vẫn nhổ bật lên. Hắn đẩy thằng mập đi vô trước, kéo theo phía sau một hàng dài lần lượt gồm bà Pauline, Gaby và cuối cùng là Karl. Tròn Vo nói:
    - Xin chào bác Holmann.
    Chết cha rồi. Tarzan kêu khổ trong lòng. Cu cậu đã luyện chữ dượng suốt một ngày mà bây giờ quên bẵng. Bác sĩ Holmann gầm lên:
    -Ta ghét cái từ đó. Phải gọi ta là dượng, dượng, dượng… hiểu chưa?
    Tròn Vo tê tái cả người, đứng thuỗn ra. Tarzan quan sát cách bài trí trong nhà. Căn nhà phong kiến của vị bác sĩ khó tính đơn giản thế này sao? Nội thất hầu như không có gì, trừ những vật dụng bày biện khá thô kệch. Nhưng ông già thầy thuốc 76 tuổi trông rất tráng kiện. Ông mặc chiếc áo lụa thô màu mỡ gà, ống tay xắn cao, quần kẻ sọc đỏ. Giọng ông ta như sấm:
    - Bà Pauline, bà tắt thuốc lá ngay.
    - Đừng hòng. Chỉ giỏi ăn hiếp thằng bé. Nếu sợ mùi thuốc, mời ông ra khỏi cửa.
    - Trời hỡi, đây là nhà tôi.
    - Thế thì tôi đi đây, nhưng tôi cấm ông giận cá chém thớt đổ mọi thứ lên đầu tụi nhỏ đó.
    Tarzan kéo tay bà già dễ mến:
    - Bà khỏi lo. Tụi cháu sẽ rời khỏi ngôi nhà cùng với bà mà. Chúng cháu không thể để bạn Willi ở lại đây với con người thô thiển này được. Cũng may mà chúng cháu có vẻ khứ hồi. Này Kloesen, đưa thư của ba mày gửi ông bác sĩ ấy đi.
    Bác sĩ Holmann nói:
    -Hừ, té ra là con người thô thiển ấy.
    Holmann bước về phía Tròn Vo bắt tay nó và để tay kia lên vai đứa cháu mà ông chưa hề gặp mặt. Tròn Vo co rúm người lại. Tarzan phải huých cho nó đứng thẳng người lên.
    - Ta rất vui khi gặp cháu. Dượng nóng nảy quá, phải không? Ai kêu cháu hẹn dượng mà không đến đúng giờ giấc? Nghe ta nói đây: cháu sẽ không được về bây giờ, rõ chưa?
    Ông ta quay sang Tarzan:
    - Chúng ta sẽ còn chiến đấu với nhau đấy.
    Tarzan mỉm cười:
    - Bằng cận chiến tay không hoặc vũ khí, tuỳ bác chọn ạ.
    - Hừ, cháu tên là gì?
    - Dạ, Peter Carsten biệt hiệu Tarzan. Hai bạn cháu là Gaby và Karl. Bốn đứa cháu cộng lại thành TKKG thích những chuyện ly kỳ. Trên tàu tốc hành, tụi cháu đã nghe nói và chứng kiến các hoạt động táo bạo của bọn tội phạm ở đây. Việc tìm hiểu chúng là sở trường của tụi cháu.
    Bác sĩ Holmann đưa mắt nhìn bà Pauline.
    - Bà thấy thế nào?
    - Còn thế nào nữa. Tôi chỉ ao ước được làm bà nội hoặc bà ngoại của bốn đứa này.
    - Tôi đã chờ hơn nửa tiếng đồng hồ trong quán TRÁI NHO và thấy tàu tốc hành Alpen chạy qua mà chẳng gặp đứa nhóc nào kêu “dượng” hết. Giá lúc ấy bà ở trong hoàn cảnh tôi thì mới hiểu tôi bực mình đến cỡ nào.
    Tarzan không nói gì. Hắn lẳng lặng ngắm những ngón tay đầy nhẫn của bà Pauline mà bồi hồi. Trời ạ, hồi đó có lẽ bà chỉ bị mất một nửa của cải. Chứ sao, hãy ngó tướng mạo phong lưu của bà… là hiểu thừa. Rõ ràng kho báu bị mất chẳng làm bà bận tâm. Tròn Vo “tình cảm” với dượng Holmann:
    - Tụi cháu đến trễ vì vụ ông Mair-Chateaufort bị trấn lột.
    Bà Pauline bỗng giật mình. Bác sĩ Holmann như bị kim châm. Ông nói ngay:
    - Mair-Chateaufort là bạn thân của ta. Chúng ta vẫn thường hay chơi bài vời nhau, chắc ta phải phóng đến bịnh viện…
    Gaby lắc đầu:
    - Cháu cho rằng không nên gọi điện cho nạn nhân lúc này.
    Cô bé kể lại những điều mà thanh tra Wondrascheck đã nói với bốn đứa. Cô kết luận:
    - Bác sĩ cấp cứu nói rằng ông Mair-Chateaufort chưa đến nỗi nào.
    - Vậy thì được. Thiếu ông ta làm sao còn hứng thú đánh bài nữa. Ta biết Chateaufort chuyên chơi bịp nhưng ta còn bịp hơn.
    Tarzan trầm ngâm. Thầy thuốc Holmann bề ngoài thô bạo chớ thật ra ông là người đầy lòng trắc ẩn. Ông bác sĩ nhìn Tarzan chằm chằm:
    - Nghe các cháu kể về con mẹ phóng viên giả mù, với những lời tốt đẹp, ta nói thiệt, ta chẳng ưa nổi cánh nhà báo.
    Tarzan đáp:
    - Nhưng cô ta đã gây những ấn tượng tốt đẹp với tụi cháu. Tại sao bác lại thành kiến với cô ấy đến thế ạ?
    Bà Pauline thích thú về chỗ cái bàn có bình nước cam to tướng. Bà rót nửa ly để uống. Uống xong ly nước cam, bà già cho biết:
    - Các cháu biết không. Cái cô nàng Susi đó và anh bạn trẻ đã giành mất một trang trại nhỏ mà dượng Holmann định mua ở phía bắc thung lũng. Hỏi sao dượng chẳng hậm hực nào.
    Gaby nói nhẹ nhàng:
    - Không lẽ vì lý do bình thường đó mà bác tuyên chiến với chị Susi sao?
    Bác sĩ Holmann làu bàu:
    - Nhưng ả ký giả đó sống với gã quay phim truyền hình mà chẳng làm đám cưới công khai. Hừ, à ta coi khuôn phép đạo đức chẳng ra gì.
    Ba thằng quái cười. Bà Pauline giảng hoà:
    - Thôi ông ơi. Ông xưa như trái đất ấy. Thời buổi bây giờ văn minh bấm nút chớ chẳng lẽ cổ lỗi hoài. Miễn sao cô nàng chung sống hoà bình với chúng ta là được. Này, tôi rót ly nước cam cho ông uống hạ… nhiệt nhé.
    Holmann hoàn toàn bế tắc. Ông quay sang tìm cách sinh sự với Tròn Vo.
    - Với tư cách một thầy thuốc, dượng tuyên bố cháu phải ăn kiêng, nghe chưa? Tại sao mày… phát phì kinh dị thế hử?
    - Dạ... có lẽ do truyền thống gia đình. Ba cháu đồ sộ lắm.
    - Đồ sộ cái mốc xì. Béo thì nói béo còn bày đặt bào chữa. Riết rồi mày như một cái thùng phi biết lăn.
    Bà Pauline sốt ruột. Trời ạ, ông bạn chí cốt của bà còn kiếm chuyện kiểu này mãi thì tụi nhỏ ăn uống thế nào đây. Bà giục:
    - Gaby, phụ bà một tay đầu bếp cho sáu người ăn bữa tối nhé. Willi, cháu hãy dọn đồ vô phòng khách nhỏ kìa.
    Bà già ngước mắt chờ ý kiến gia chủ. Cũng may ông Holmann đã nguội đợt sóng thần. Ông ậm ừ:
    - Còn có một phòng có sẵn hai giường nữa đấy.
    - Tốt quá. Vậy thì Gaby sang ở với bà. Trang trại bà chỉ cách đây vài cây số. Cánh phụ nữ mình sẽ nhường hẳn giang sơn bên này cho lũ đàn ông.
    Gaby reo lên:
    - Thế thì tuyệt quá ạ.
    Mười phút sau, tất cả kéo nhau qua phòng ăn. Bà Pauline lo hậu cần chu đáo đến nỗi chiếc bàn dài như muốn gục xuống bởi những đĩa thức ăn ngồn ngộn.
    Tôi nghiệp Tròn Vo. Nó không được thoải mái. Ông dượng thẩm vấn còn hơn cả cảnh sát, nó muốn phát điên khi phải trả lời những câu hỏi liên quan đến hãng sôcôla Sauerlich và gia đình bên Đức. Trong khi Tarzan đã tì tì ăn đến cặp bánh thứ hai. Bà Pauline can thiệp kịp thời:
    - Thằng bé chết đói tới nơi rồi kìa. Ông ác vừa vừa chứ.
    Tròn Vo nhìn bà với con mắt đầy biết ơn. Nó thở phào vục đầu xuống bàn ăn.
    Chuông điện thoại réo, ông Holmann với tay nhấc máy nơi cửa sổ, cạnh chỗ Tarzan ngồi.
    - Tôi, Holmann đây.
    Giọng bên kia đầu dây se sẽ, nhưng Tarzan vẫn nghe rõ:
    - Holmann hả? Mày chuẩn bị đi đến đoạn chót của đời mi, tao sẽ tới rửa thù. Mày không thoát khỏi tay tao đâu, đồ lang băm.
    *
    Rudigo Klavim đi qua một bãi cỏ xanh và dừng lại trước băng ghế. Gã ngồi xuống xả hơi và tự sỉ vả mình. Mẹ kiếp, gã đã phạm sai lầm gì chăng? Gã đã cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng đến nỗi bỏ quên luôn cái vali trên tàu tốc hành. Cũng hên là trong vali không có giấy tờ, chỉ ít đồ lót, áo sơ mi và bộ complê. Thật không thể nào hiểu nổi. Gã nghĩ, hay tối nay với chùm chìa khoá vạn năng gã đã từng làm các buồng trong khách sạn phải thất điên bát đảo. Tại sao hôm nay chỉ ngẫu nhiên ăn cắp của một lão già ngất xỉu sẵn mà gã lại run như cầy sấy nhỉ? Gã chỉ lấy được vẻn vẹn một cái bóp, hai cái nhẫn, một chiếc đồng hồ vàng. Tình cờ, hoàn toàn tình cờ thôi. Tự nhiên gã bước đến toa cuối cùng và thấy cái chuyện đáng tiếc đó. Mà gã không thể không lấy cắp bất cứ vật gì quí giá trông thấy được. Từ hồi còn đi nhà trẻ đã thế rồi.
    Rudigo Klavim toát mồ hôi hột. Ai giết lão già và liệng xác lão ở toa cuối cùng? Gã hoàn toàn ú ớ, Gã hoảng thật sự khi có người đàn bà đột nhiên xuất hiện trước mặt, đôi kính đen nhìn chòng chọc mặt gã. Phúc tổ cho gã, mụ ấy bị mù, tay mụ ấy cầm gậy và đính một băng vải màu vàng có ba chấm đen dành cho người bị mù. Ấy thế mà gã đã phóng bán sống bán chết như một thằng mới vô nghề. Tất cả những đứa có tay nghề lão luyện đều biết rằng khi trốn thì phải đi thật chậm.
    Trời tối đã lâu rồi. Đèn đường thị trấn Faesslitft lúc này sáng rực. Gã thấy cảm cảnh. Năm nay gã 31 tuổi với mười năm ngang dọc khắp Châu Âu bằng nghề “nhập nha” các khách sạn. Gã tự mưu sinh trước mũi của bọn cớm nhưng lại run rẩy trước mặt một ả mù. Nhục nhã. Hay là đời mình sắp
    bị “lão hoá” rồi. Chó thật.
    Rudigo vén mái tóc màu vàng rịn mướt mồ hôi rồi thọc tay tìm cái bóp. Chủ nhân cái bóp tên mà Macxen Mair-Chateaufort, một cái tên nửa Pháp, nửa Áo. Trong ví có 6.000 schilling tất cả, tương đương 25.000 mark, và một chiếc đồng hồ vàng.
    Rudigo nhìn trời. Chẳng lẽ ta lại ngủ trên băng ghế đá này ư? Không đời nào, chẳng thà ra nghĩa địa ngáy. Ngủ ở công viên, bọn du côn du đãng nhiều như rươi, lạng quạng sáng mất toi 6.000 schilling thì khốn.
    Gã đứng dậy, sửa lại quần áo chỉnh tề và thong thả tới khách sạn. Gã vừa đói vừa khát. Gã đến khách sạn Kur, một khách sạn được xây dựng từ thế kỷ trước và mới tân trang lai. Phía trước khách sạn là những luống hoa. Hai bên đường dành cho ôtô chạy tới cổng được cắm cờ các nước Châu Âu. Trời lặng gió, cờ treo ủ rũ dưới ánh đèn sáng chói.
    Rudigo nhún vai. Cũng may là ba ngày trước gã đặt phòng trước tại khách sạn này. Đặt mà chưa ở. Gã bước vô phòng lễ tân, vào giờ này tại đây chỉ có một người làm việc. Gã nhanh nhảu:
    - Chào anh, tôi tên là Rudigo Klavim và có đặt buồng ở đây.
    Người nhân viên liếc danh sách:
    - Thưa ông, đúng. Ông viết phiếu đăng ký rồi chúng tôi sẽ kêu nhân viên mang hành lý lên buồng.
    Rudigo hí hoáy viết và nói:
    - Trên đường đi tôi bị mất hành lý, cũng còn hên là giấy tờ tuỳ thân lẫn tiền bạc vẫn còn.
    Viên trực phòng lễ tân hơi nhướn mắt, chứng tỏ có đôi chút nghi ngờ.
    - Thưa ông, theo qui đinh của cảnh sát, chúng tôi cần hộ chiếu của ông.
    Rudigo đưa hộ chiếu và nhận chìa khoá buồng 311 rồi đi về phía thang máy. Nhưng rồi gã lưỡng lự. Lên buồng làm gì nhỉ? Gã có gì để cất đâu. Chân tay cũng không bẩn lắm. Vậy thì phải kiếm cái gì đó bỏ bụng đã. Gã quay ngoắt về phía khu nhà cổ có rất nhiều cây cọ um tùm. Một nhà ăn mang đầy hương vị thiên nhiên. Rudigo chọn một bàn dành cho hai người sau một cây cọ. Thông qua một cửa sổ rộng, gã có thể quan sát dễ dàng toàn cảnh sân khách sạn. Gã búng tay cái chách:
    - Cho một vại bia lớn và đồ ăn nguội.
    Rudigo uống ừng ực sảng khoái. Chỉ trong vòng nửa phút, gã đã hốt hụi được 2 cái nhẫn, 1 đồng hồ vàng và 6.000 schilling. Gã mơ màng đếm 26 cây cọ chung quanh nhà ăn. Sau khóm cọ loà xoà hình như có khách mới kéo đến.
    Mùi nước hoa thoang thoảng làm gã tò mò. Gã rẽ đám lá dòm lên. Tiếng lá sột soạt khiến người đàn bà vừa ngồi xuống nhìn gã với vẻ khó chịu. Đúng lúc đó người bồi bàn đã đem thức ăn lên. Theo sau anh ta là một phụ nữ thoăn thoắt đi tới. Cô nàng mới xuất hiện ngồi vào chiếc bàn mà Rudigo đang dòm lén.
    - Xin lỗi làm bồ phải đợi. Mình bận viết cho xong một bài báo và mô tả hình dạng để cho hoạ sĩ trong toà soạn dựng lại hình ảnh tên cướp.
    - Ủa, sao lại có cướp ở đây. Chuyến đi thực tế vừa rồi, đề tài của bồ là “cô gái mù” cơ mà.
    Mẩu đối thoại của hai cô gái khiến Rudigo bàng hoàng. Gã toát mồ hôi hột, rón rén vạch đám lá và suýt hất tung bộ dao nĩa trên bàn bởi… người đàn bà mới đến. Trời ạ, mặc dù cô ả ngồi nghiêng nhưng gã cũng biết ngay đó là cô gái mù trên toa tàu. Ngay chóc. Cũng những lọn tóc màu đỏ đó, cũng bộ mặt trái xoan đó, cũng bộ quần áo màu da cam vờ vịt ngây thơ. Mẹ kiếp, chỉ có đôi mắt kia bây giờ không mù. Trông nó mới tinh nhanh làm sao. Không có gậy, không có băng của người mù.
    Ý nghĩ gã bị đứt đoạn bởi giọng Susi:
    - Bồ nhìn cái gì về phía chiếc bàn khuất ấy hở Tanja?
    - Có một tên đàn ông láu cá đang ngó trộm tụi mình đó. Nè, định nhòm lén suốt đêm hay sao đấy.
    Rudigo ấp úng:
    - Xin lỗi…
    Gã buông đám lá trong tay và chỉ muốn chui xuống lỗ nẻ. Ôi, quỷ sứ. Hình như con nhỏ già đui đã phát hiện ra mình. Tiếng Susi hỏi khe khẽ:
    - Ai vậy?
    - Không rõ, Susi ạ. Nếu gã nhòm lén nữa thì mình ra bàn khác ngồi.
    - Thôi bỏ đi Tanja. Này, nghe mình nói đây. Thanh tra Wondrascheck bảo mình rằng: tên cướp làm ông Mair-Chateaufort bị chấn thương sọ não trên tàu tốc hành Alpen bất cứ lúc nào cũng có thể thủ tiêu mình để bịt miệng. May mà lúc đó mình đang đóng vai cô gái mù nên gã bỏ qua. Thôi, để mình kể lại từ đầu cho bạn nghe.
    Susi hồn nhiên kể hết mọi chuyện mà không hề hay nhân vật bên chiếc bàn hàng xóm rùng mình ớn lạnh. Rudigo không ăn nổi một miếng dù trên bàn thức ăn đầy ắp và bụng gã đói mèm. Susi kết thúc:
    - Tội nghiệp ông Mair-chateaufort. Mình sẽ giúp ông ấy bằng bài phóng sự điều tra nóng hổi của mình. Bồ hiểu chứ, ngày mai báo sẽ đăng kèm theo bức chân dung của tên tội phạm. Mình đã nói với ông thanh tra rằng nếu nhìn thấy gã, nhất định mình sẽ nhận ra được.
    Rudigo nổi da gà. Gã chết lặng vì sợ hãi mà không cách gì trách cứ được Susi. Quả là một sự ngộ nhận man rợ, tình ngay mà lý gian. Đặt mình vào trường hợp cô nhà báo già mù, gã cũng buộc phải có cái nhìn về chính gã như vậy. Là một tên trộm chuyên nghiệp, gã biết rằng khi gặp dịp là không thể bỏ qua. Nhưng không phải vì thế mà gã có gan giết người để cướp của. Rudigo chỉ tạm nhẹ người khi biết rằng nạn nhân không chết mà chỉ bị ngất. Đỡ cái khoản lo ông già báo oán.
    Đúng lúc gã hoang mang đến cùng cực thì người bồi bước tới. Giọng anh ta ngạc nhiên:
    - Ủa, ông không dùng các món ăn sao?
    - Ồ… không. Ngon đấy nhưng… tôi không nuốt nổi. Anh cho tôi một vại bia và ly đúp rượu lê nhé.
    Rudigo cảm thấy vô cùng lo lắng.
    *
    Lời đe doạ trong điện thoại như gió thoảng nhưng lọt hết vào tai Tarzan. Giọng nói của kẻ nặc danh trong ống nghe lành lạnh mà khá quen với hắn. Mắt Tarzan chớp chớp. Thứ âm thanh được phát ra từ kẽ răng cắn chặt ấy hình như hắn đã nghe qua một lần. Đúng rồi, đa tạ ơn Chúa ! Nếu trí nhớ của hắn không phản thùng thì kẻ vừa phôn cho bác sĩ Holmann chính là tên đàn ông nói năng lỗ mãng ngốn bánh mì xúc xích nhồm nhoàm trong quán TRÁI NHO. Bác sĩ Holmann bỏ máy xuống, ông ngó Tarzan:
    - Cháu có nghe thấy không đó?
    - Dạ, cháu nghe rõ mồn một.
    - Thôi quên đi, toàn chuyện nhảm nhí.
    Bà Pauline lo lắng:
    - Có chuyện gì thế?
    Holmann nhấm nháp miếng bánh mì kẹp dăm bông và nói:
    - Không biết thằng điên nào đe doạ định làm thịt tôi, bà ạ.
    Tarzan ngồi thẳng người:
    - Gã không điên đâu, thưa bác. Gã đã nói rất rõ “… tao sẽ tới để rửa thù. Mày không thoát khỏi
    tay tao đâu, đồ lang băm”. Bác ạ, cháu nghĩ rằng không thể coi nhẹ chuyện này được. Gã doạ giết bác, thế mà bác lại cho rằng đó là chuyện nhảm nhí.
    Mặt bà Pauline nhợt nhạt hẳn:
    - Chúa ơi!
    Ông Holmann rất bình tĩnh. Ông nói:
    - Chẳng có gì ầm ĩ cả. Ta rất khinh bỉ những kẻ khủng bố qua điện thoại mà không dám chường mặt. Lối đe doạ kiểu này tiểu nhân còn thua cả trẻ con. Các vị phải biết, ở tỉnh lẻ này ta sống rất hoà thuận và đàng hoàng chưa bao giờ bị mang tiếng với ai. Ta đếch ngán thằng du đãng ma cô đầu gấu đại bàng nào cả. Có ngon cứ ra mặt.
    Bà Pauline cố nuốt thức ăn cho khỏi nghẹn họng rồi nói:
    - Ông Holmann, Tarzan nói đúng đấy. Chúng ta phải báo lời đe doạ giết người này cho thanh tra Wondrascheck.
    - Càng không báo. Ta ghét lão đó lắm.
    Gaby xoa dịu:
    - Sao bác lại không thích ông thanh tra. Cháu thấy ông ấy rất hiền lành.
    - Cháu không biết lão đâu, cháu gái. Lão dám hàm hồ tuyên bố ta đã điều trị bịnh “ziegenpeter” cho vợ lão sai phương pháp.
    Bà Pauline thở dài:
    - Trời ơi, chuyện đó đã xảy ra 40 năm nay, lúc ấy bà Hilde còn là một đứa bé. Mãi 12 năm sau bà ấy mới lấy ông thanh tra cơ mà.
    - Bởi thế mới tức chớ. Tôi có điều trị cho một đứa con nít nào đâu, thế mà lão thanh tra dám đổ thừa tôi làm cho vợ lão nghễnh ngãng.
    Gaby ráng nín cười. Cô bé nháy mắt với Tarzan. Hắn hiểu ý cất tiếng:
    - Theo cháu thì bác cũng không cần gõ cửa ông thanh tra cho tốn thời giờ. Tụi cháu thừa sức bảo vệ bác, ít ra là sau cú điện thoại vừa rồi, gã giấu mặt đã có sơ hở một vài điểm.
    Mọi người ngẩng đầu nhìn Tarzan trừ… Tròn Vo. Còn phải nói, thằng mập bận xực phàn để bù lỗ cho cuộc thẩm vấn chớ sao. Holmann hỏi một cách hồi hộp:
    - Cháu nói coi Tarzan?
    - Theo cháu nghĩ, kẻ nào thực sự có ý định giết người, kẻ đó không tiết lộ trước ý đó của mình. Bởi vì qua đó, cơ hội thực hiện tội ác sẽ ít đi. Trừ phi đó là một kẻ ngốc nghếch hoặc cố tình làm bác sợ hãi. Nếu gã thực sự muốn ra tay thì không cần thiết phải tạo dựng cú phôn làm chi. Thứ hai, gã kết thúc cú phôn bằng cách mạt sát bác là “lang băm”. Chẳng lẽ gã là một bịnh nhân của bác? Thế bác đã bao giờ bị bệnh nhân doạ trả thù chưa ạ?
    - Hừ hừ, làm sao ta nhớ được bịnh nhân nào căm thù ta chứ? Lúc ốm đau thì chúng năn nỉ ỉ ôi, xin chữa cho khỏi bằng bất cứ giá nào, lúc khỏi bịnh thì chúng chửi ta cắt cổ chúng vì tiền thuốc men chạy chữa quá cao.
    Karl Máy Tính im lặng nãy giờ, lúc này mới chịu hé miệng:
    - Bác đóng cửa bịnh viện để về hưu từ bao giờ vậy?
    - Cách đây 5 năm nhưng bịnh viện vẫn hoạt động do cháu ta điều hành. Bà Pauline nắm rõ vụ này đấy, ta đã cho thằng cháu thuê lại cơ sở này.
    Tarzan ngẫm nghĩ, theo lời kể của Susi thì bác sĩ Holmann có một người cháu cũng hành nghề y khoa tên là Andreas. Có nên đặt vến đề Andreas đã vô tình gây thù chuốc oán với ai trong khi điều trị và bây giờ ông Holmann lãnh nạn không? Có lẽ không nên. Bởi đã chắc gì tên sát thủ trong điện thoại là cựu bịnh nhân của Holmann hoặc Andreas. Biết đâu gã hận Holmann vì một lý do nào khác và ngứa miệng gào lên “lang băm” để tự hả hê chơi? Tarzan cảm thấy nhức đầu. Hắn thăm dò sang một khía cạnh mới:
    - Bác hãy nhớ lại coi ai là người có thể làm hại bác?
    Bác sĩ Holmann cũng căng thẳng không kém Tarzan. Ông nhún vai:
    - Có lẽ chẳng có ai. Tôi đâu có cãi cọ với ai, phải không bà Pauline?
    Bà già gật đầu:
    - Những năm gần đây, ba người lớn tuổi chúng tôi rất ít giao tiếp với bên ngoài. Tôi muốn nói đến ông Mair-Chateaufort, ông Holmann và tôi. Chúng tôi chỉ quanh quẩn với nhau.
    Tarzan lại tư lự. Vậy thì nếu đúng là “gã rẽ tóc ngôi giữa” thì gã muốn gì đây? Nguyên nhân nào khiến gã thâm thù ông bác sĩ đến vậy? Bữa ăn tối lại tiếp tục.
    Trong lúc Tròn Vo phải kể lại cuộc sống của gia đình Sauerlich bên Đức trong những năm vừa qua thì bà lão Pauline ngáp dài. Bà che miệng nói với Gaby:
    - Chắc hai bà cháu mình phải về sớm. Bà còn phải chuẩn bị giường chiếu cho cháu nữa.
    Hai bà cháu ra xe. Tarzan vịn cửa chiếc xe hơi mini nói vọng vào:
    - Gaby ơi, về đến nơi nhớ phôn liền nghe. Mình bắt đầu ngóng điện thoại sau mười phút nữa đấy.
    Bà Pauline cười hóm hỉnh với Gaby:
    - Tarzan quan tâm đến cháu quá nhỉ? Như thế là tốt.
    Xe lăn bánh. Giọng ồm ồm của ông Holmann từ bên trong làm Tarzan bừng tỉnh:
    - Đám phụ nữ đi rồi, giờ cánh đàn ông chúng ta dọn bếp rồi lên nhà trên. Mấy đứa làm được chứ?
    Ba đứa vào bếp thu dọn bát đĩa. Tròn Vo nhanh tay ăn thêm mấy lát pho mát, đương nhiên là ăn vụng, nhưng nào có khó gì vì ông Holmann ngồi mải mê đọc báo tít trong phòng lớn.
    Khi ba quái lên phòng khách thì đã quá thời điểm đợi cú phôn Gaby năm phút. Trời ạ, 15 phút đã trôi qua nhanh mà không thấy một tín hiệu gì. Không hiểu sao lòng Tarzan như có lửa đốt.


    BỐN. KHO TÀNG GIÁ BĂNG
    Rudigo điên tiết chỉ muốn xô bàn xông đến bóp cổ hai cô gái. Khủng khiếp, bọn chúng cứ tán hươu tán vượn toàn chuyện trên trời dưới đất trong khi gã ngồi đây sợ toát mồ hôi. Hãy coi tên bồi đang chòng chọc nhìn ta kìa. Mẹ kiếp, hình như nó đang nghi ngờ ta một cái gì đó.
    Rudigo vẫy tay gọi người bồi để…xoa dịu. Gã gọi vại bia thứ tư và ly rượu thứ ba. Lúc này trong nhà hàng cũng như ngoài sân chỉ còn vài người khách. Mấy người phục vụ nhàn rồi đi đi lại lại. Đúng lúc Rudigo tuyệt vọng nhất thì tiếng Susi vang lên:
    - Xin lỗi, đợi mình chút xíu.
    Susi bước thẳng đến nhà vệ sinh nữ khiến Rudigo nhẹ người.Gã vội vàng nói:
    - Tính tiền lẹ lên.
    Chà, không biết con bé rút trong toilette bao lâu đây? Trời trên tay đang sờ sờ cái bóp của Mair-Chateaufort, Rudigo hoàng vía. Gã xì tiền bo cho người bồi hậu hĩnh chưa từng thấy và…từ từ lách theo hàng cọ để đi. Khi cánh cửa sau lưng đóng sập, gã mới trút gánh nặng thở phào.
    Thôi, xin từ biệt khách sạn Kur. Chào luôn thị xã Fasslift. Bái bai xứ này. Ngày mai chân dung gã sẽ chường trên mặt báo.Vậy thì “tam thập lục sách, tẩu vi thượng sách”
    Rudigo lên tầng ba kiếm buồng 311 đã dọn sẵn. Phòng sạch sẽ ngăn nắp quá. Giá mà từ đây đi vơ vét các buồng khác thì thật tuyệt, nhưng nếu không muốn bị tóm cổ thì ngay bây giờ thì phải tìm
    cách đánh bài chuồn.
    Gã quay số điện thoại về đài dự báo thời tiết bang Bayern.Sau khi nghe đĩa trả lời chừng 5 phút, gã để ống nghe bên cạnh máy, đi rửa mặt mũi chuẩn bị cuốn gói. Rửa ráy xong, gã đặt phôn vào vi trí cũ. Rõ ràng gã đã làm việc bằng điện thoại và bây giờ có quyền xuống nhà thanh toán tiền bạc để lên đường. Rudigo hài lòng khóa cửa. Khách sạn bên dưới vắng tanh không thấy một ai. Tuyệt. Ngồi trực phòng tiếp tân vẫn là tay nhân viên cũ. Gã gật đầu:
    - Xui xẻo thiệt, tôi không có duyên nợ với khách sạn Kur. Tôi vừa phôn tới Nurmberg và được cho hay hãng cần triệu tôi gấp. Tôi đã bảo rằng họ cần phải tự giải quyết công việc khi không có tôi, ít ra là trong ba ngày nay. Ấy thế mà chẳng có ai dám đứng ra nhận trách nhiệm cả. Hôm nay rõ ràng tôi không gặp may. Hồi chiều bị mất vali, bây giờ thì…anh bạn làm hoá đơn cho tôi vậy.
    - Thưa ông chúng tôi rất lấy làm tiếc. Ông chưa ở ngày nào, trừ việc gọi điện thoại.Tôi chưa biết tính sao cho ổn. Ông có đồng ý thanh toán tiền ngủ qua đêm hay không ạ?
    - Tất nhiên, tất nhiên.
    Rudigo nhanh nhẹn giúi mớ tiền vô tay người trực. Gã không dám nấn ná thêm một phút nào nữa. Báo phát hành lúc 4 giờ sáng mai. Khách sạn sẽ là nơi đầu tiên nhận được báo ngày và chân dung gã trên báo hẳn sẽ làm gã nhân viên ìay trợn mắt. Gã nói cho qua ải:
    -Bây giờ tôi sẽ gọi taxi đi Muychen và từ đó đi tàu hỏa. Công việc của hãng ngập đầu. Chào.
    Một lúc sau Rudigo đã chễm chệ trên taxi và kêu tài xế đứng lại ở công viên có băng ghế đá hồi nãy. Gã xuống xe mà hai mí mắt cứ híp lại vì buồn ngủ, những vại bia uống liền tù tì đã có tác dụng. Nhưng vừa đặt lưng xuống băng ghế tối om, gã đã nhổm lên vì… hoảng. Không được. Nằm đây đụng cảnh sát đi tuần tiễu hốt về đồn thì sáng mai chỉ có toi.
    Gã lê tấm thân mệt mỏi dọc các phố xá, qua những ngôi nhà tối mù mù, qua nhiều mảnh vườn nho nhỏ. Bỗng nhiên hai bên đường không còn ngôi nhà nào. Gã đã ra tới cánh đồng.
    Rudigo mò mẫm cố phát giác một nhà kho nào trên cánh đồng để ngủ qua đêm. Nhưng gã đi hết con đường lại là một nghĩa trang. Gã đứng lại trước một bức tượng. Sau bức tượng ẩn hiện những ngôi mộ. Không khí mát lạnh bốc lên từ lòng đất. Gã lại rùng mình. Chẳng lẽ cuối cùng mình lại làm bạn với những con ma hay sao?
    Tiếng dế kêu lanh lảnh, hương thơm từ những bông hoa trong nghĩa trang lan tỏa tạo một cảm giác dễ chịu. Rudigo đi tới chiếc cổng sắt lắc lắc nhưng cổng không nhúc nhích.
    Rudigo nghĩ, đêm nay khô ráo và lạnh, gã có thể ngã lưng trên một tảng đá nào đó được quá đi chớ. Ở đây chẳng khác gì một căn phòng mở hết cửa sổ. Không biết người bạn câm lặng ở dưới mồ có bực mình khi gã ngáy khò khò không đây?
    Gã nhổ nước bọt vào lòng bàn tay và leo qua tường rào. Đường đi trong nghĩa trang rải sỏi, vang lên những âm thanh lạo xạo. Rudigo bước từ từ sợ sa chân xuống một lỗ huyệt đã đào sẵn. Gã dò dẫm khoảng một trăm mét thì cụt đường. Tại đây gã thấy một tấm bia cao gần đầu người, bên dưới là một phiến đá lớn, rộng như một chiếc giường đôi. Rudigo cởi chiếc áo ngoài gấp làm gối và nằm duỗi thẳn chân thoải mái. Mai mình sẽ là người đầu tiên có mặt ở ga…Gã chỉ kịp nghĩ như vậy trước khi chìm vào giấc ngủ mê mệt.
    *
    Tarzan cất chiếc khăn lau tay và đi vào phòng khách lớn. Ông Holmam vẫn cúi đầu vô tờ báo. Ông không ưa những tin thời sự quốc tế, ông nhăn mặt khi đọc những tin chiến sự hoặc bạo lực xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Tarzan lo lắng:
    - Cháu nghĩ rằng hai bà cháu đã đi hơn 16 phút. Trong khi đoạn đường chỉ hai cây số ngắn ngủi.
    Vị bác sĩ già ngẫng đầu lên:
    - Họ vẫn chưa gọi điện thoại cho cháu à? Có thể họ quên, mà bà Pauline này hay chọc tức bác lắm.
    - Thật thế hả bác?
    - Còn phải hỏi. Chính vì bị chọc quê liên tục mà đến nay bác vẫn chưa chính thức ngỏ lời cầu hôn bà Pauline. Bác biết bà ấy mê bác như điếu đổ, nhưng bác định tới 80 tuổi mới ngỏ lời.
    Tròn Vo góp chuyện:
    - Cháu nghĩ rằng là vợ của dượng, bà ấy có quyền thừa kế. Cháu không thắc mắc gì cả. Nhưng tại sao dượng còn muốn tìm hiểu cháu?
    - Khỏi lo Willi ạ, bà Pauline giàu lắm. Bà ấy chẳng thèm đến gia tài tao đâu. Mày vẫn là một đối tượng mà tao cần đầu tư lâu dài.
    Tarzan cảm thấy sốt ruột. Hắn không đủ thì giời nghe cuộc đấu khẩu của hai dượng cháu Kloesen.
    - Cháu muốn gọi điện thoại cho bà Pauline, thưa bác Holmam.
    - Có gì khó đâu. Cháu cứ việc quay số. A à, để ta đọc số phôn…
    Sau khi vị bác sĩ đọc số phôn, Tarzan nhấc máy. Trời đất, bên kia đầu dây chỉ có tiếng máy mà không có người nhấc máy. Hắn buông máy thở nặng nề:
    - Bác cho cháu mượn cái đèn pin. Đã 18 phút rồi, cháu phải chạy sang bên đó mới được.
    Holmam ngạc nhiên:
    - Cháu chu đáo quá, thôi được. Lấy chiếc pin trên kệ dùm dượng, Willi.
    Hai quái Karl và Tròn Vo đòi theo, nhưng Tarzan gạt đi. Tarzan mặc quần iean, áo phông và đi đôi giầy thể thao. Hắn đứng trong bóng tối một lúc cho quen mắt rồi bắt đầu chạy. Không cần bật đèn pin, hắn cũng biết mình phải rẽ ngõ nào. Từ bốn phía côn trùng đồng quê bay tới tấp vào mặt hắn, cũng may hắn hít thở rất bài bản, hít bằng mũi thở bằng mồm nên chẳng bị một con bù mắc hay ruồi muỗi nào chui tọt vào miệng. Ban đêm ruổi vó băng băng, Tarzan nghe cả tiếng chim ăn đêm bay xào xạc.
    Sau khi chạy khoảng một cây số, Tarzan hết hồn vì thấy một vật gì đứng lù lù. Hắn bối rối bật đèn pin và há hốc mồm trước chiếc xe hơi mini của bà Pauline bị đổ nghiêng sang một bên. Trời ạ, hai bà cháu đã bất tỉnh rồi chăng? Tarzan nhìn vào buồng lái và cực kỳ kinh dị khi thấy bên trong không có ai hết. Ngay cửa kính ôtô cũng chẳng hề sứt mẻ.
    Phía xa xa ngôi nhà bà Pauline le lói ánh đèn. Tarzan tăng tốc độ chạy. Gần về đến đích thì hắn đụng độ hai bà cháu vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Tarzan kêu to để hai người khỏi giật mình:
    - Cháu đây.
    Bà Pauline giật mình rơi điếu thuốc vừa cắm lên miệng.
    - Ồ, Tarzan.
    Bà bấm tay Gaby:
    - Tarzan lo cho cháu quá nhỉ? Giá mà ông Holmam cũng biết lo cho bà như vậy thì hạnh phúc biết chừng nào.
    Gaby nói:
    - Vì cháu chưa gọi điện nên Tarzan lo đấy mà.
    Tarzan nói:
    - Ở nhà cháu chờ hoài mà chẳng nghe ai gọi điện…
    - Ôi, sá gì cháu. Chuyện nhỏ mà. Bà tránh con thỏ rừng chút xíu đâm vô đèn pha nên lạc tay lái xuống rãnh. Hai bà cháu hơi ê ẩm một chút thôi. Làm sao mà bà và Gaby dựng chiếc xe dậy được, đi bộ là phải. Ồ, đến cái lều của bà đây rồi.
    Tarzan thấy “cái lều” trước mặt hắn là một căn nhà 12 phòng rộng thênh thang xây theo kiểu nông thôn vùng núi Alpen. Sân rộng đến mức có thể mở một bữa picnic chứa 50 vị khách. Đèn đuốc chỗ nào cũng thắp sáng.Tarzan lắc đầu, chán nản nghĩ thầm:Cách đề phòng kẻ gian bằng bật đèn sáng đêm quả là con dao hai lưỡi. Bà già làm như thế chỉ tổ tạo cho kẻ gian hoạt động. Gaby trợn tròn mắt khi bà Pauline đấy cửa ra
    - Ơ, bà không khóa cửa à?
    - Không. Ở nông thôn ai trộm cắp đâu mà sợ.
    - Không được.
    - Ờ ờ…cháu yên chí. Rồi cháu sẽ thấy trong nhà không mất mát tí gì.
    - Tarzan ơi, bạn đi kiểm tra các căn phòng thử xem. Bà liều lĩnh quá.
    Tarzan chỉ cần đảo mắt nhìn sơ đã hiểu nhà bà Pauline sang trọng hơn nhà bác Holmam. Nội thất bên trong đồ gỗ nhập từ Italia, chưa kể đồ sơn mài và một số tác phẩm nghệ thuật đắt giá. Tarzan nói:
    - Gaby đề phòng như thấ là phải đấy ạ. Bọn đạo chích thường lợi dụng cơ hội gia chủ vắng nhà hoặc đãng trí không khóa cửa là đột nhập hành động ngay.
    - Vậy thì cháu cứ đi kiểm soát theo ý cháu đi. Chỉ mong cháu không bực mình vì các phòng lộn xộn lắm.
    - Tụi cháu ở ký túc xá còn lộn xộn hơn chỗ bà nhiều. Nhưng…chưa bao giờ bị mất tới một triệu mark đâu. Có phải ngày 17 tháng 6 năm năm về trước, bà bị mất trộm không ạ? Cháu nghe người lái taxi nói như thế?
    - Chuyện đó cổ lỗ sĩ rồi. Anh tài xế chở các cháu kể đúng đó. Số châu báu bị mất vốn là kỷ niệm của chồng bà suốt 35 năm trời, toàn là quà tặng của ông ấy. Hôm ấy không hiểu trời xui đất khiến làm sao mà bà bê hết vô phòng ngủ để ngắm. Thế là mất tăm. Bà vẫn thường gọi kho báu đó là kho tàng băng giá.
    - Cái gì? Kho tàng băng giá à?
    - Ờ. Vì bà hay giấu chúng chung với các đồ thực phẩm đông lạnh như tôm, cá, thịt bò… Nhưng như bà nói, đó là chuyện xưa rồi. Bây giờ bà lại có vô khối thứ quà tặng mới, toàn của ông Holmam tặng đấy.
    Gaby reo lên:
    - Bác Holmam ga lăng quá nhỉ?
    - Ông Holmam rất tuyệt, nhưng vẫn chưa được trong sáng bằng chồng trước của bà. Mỗi lần tặng quà, ông ta lại cầu hôn với bà.
    Tarzan làm bộ ngạc nhiên:
    - Thật vậy sao, thưa bà?
    - Thế cháu tưởng ta lại xin ông ấy cầu hôn hay sao? Ông ấy còn thô lắm, phải sửa tính đi nữa mới được. Ta sẽ nhận lời lúc Holmam 80 tuổi. Chỉ thêm vài năm kiên nhẫn, ông ấy sẽ bớt nóng nảy.
    Bà già thoi một cú vào hông Tarzan. Tarzan cười ha hả. Hắn bắt đầu kiểm tra kỹ càng quanh nhà không bỏ sót phòng nào. Mười phút sau, hắn trở ra nhẹ nhõm.
    - Không có dấu hiệu kẻ gian xâm nhập.
    Bà Pauline gật gù:
    - Ta đã bảo trước mà. Chuyện bị mất trộm xưa rồi.
    - Chưa xưa đâu bà ạ. Theo lời ông lái xe taxi thì kẻ bị tình nghi ăn trộm kho báu của bà ngày mai sẽ mạn hạn tù đấy.
    - Thế ư? Cháu nói về thằng Otvan Flinkfinger à?
    - Dạ, tất nhiên là cháu chỉ lập lại lời ông tài xế mà thôi.
    - Hồi đó người ta không chứng minh được gã là thủ phạm. Và tài sản bị mất của bà cũng chưa thấy xuất hiện lại một lần nào. Thằng Otvan là người ở Fasslift, mẹ gã cũng là một mụ phù thủy đấy. Chồng của mụ hồi xưa cũng là Vua Mở Két của nước Áo.
    - Bà ơi, có phải tối hôm đó nhà ông Holmam cũng bị trộm đúng không ạ?
    - Đúng.Ông ấy chỉ mất ít tiền thôi mà cứ la quàng quạc cả lên như bị cháy nhà ấy.
    Gaby chạy vào:
    - Mình đã gọi điện cho Karl và Kloesen. Hai bạn ấy sẽ đến bây giờ để cùng nâng chiếc xe lên.
    Tarzan chúc bà Pauline ngủ ngon, Gaby tiễn hắn ra ngoài.Bầu trời yên tĩnh đến mức có thể nghe tiếng gió thổi dưới chân nhè nhẹ. Cỏ thì thào chung quanh chúng khúc nhạc đồng quê thanh bình. Gaby dựa hẳn vô người Tarzan. Cô thì thầm:
    - Xứ sở tưởng bình an này mà lại kinh khủng quá, đại ca a. Hết ăn trộm rồi đánh người cướp của trên tàu giờ đến đe dọa giết nhau bằng điện thoại. Đại ca nghĩ coi, tính mạng chị Susi như ngàn cân treo sợi tóc khi chị ấy công bố chân dung tên tội phạm trên báo. Rồi thằng Otvan ra tù ngày mai nữa cũng sẽ trở về Fasslift. Ôi, biết bao nhiêu chuyện.Mà thực ra thì tụi mình đến đây cũng để xem ông dượng Holmam đánh giá Tròn Vo như thế nào mà thôi.
    Tarzan cười:
    - Ông dượng bốc rằng bà Pauline đang theo đuổi ổng nhưg ổng chờ đến lúc 80 tuổi mới ngỏ lời kia.
    - Ôi trời ơi!
    - Đó là mối tình già đẹp đó chứ Gaby.
    Gaby cảm thấy lạnh. Cô bé hôn phớt lên má Tarzan và tiến vào phòng. Còn hắn thì chạy như bay trên con đường cũ với chiếc đèn pin trên tay đến chỗ chiếc xe mini bị lật nghiêng. Với sức vóc Samson của hắn và sự trợ lực của hai quái Karl và Kloesen, chắc chắn ba thằng sẽ lôi chiếc ôtô lên được mặt đường. Khi còn cách chiếc xe chừng 50 mét, Tarzan nghe tiếng thét của Tròn Vo:
    - Ai? Đứng lại?
    Sau đó là tiếng Karl:
    - Đứng lại ngay!
    *
    Hành lang kẽo kẹt dưới chân Grobalki. Gã đi xuống cầu thang. Màn đêm nặng nề bao trùm lên người gã. Mụ Alma đang ngáy như sấm trong buồng. Tốt.Cứ xỉn, càng tốt để cho gã tung hoành ngang dọc ngoài nghĩa địa. Hồi nãy Grobalki đã gọi điện cho Holmam và dọa sẽ giết ông ta. Đó mới là màn dạo đầu. Ngày mai gã sẽ ra tay. Nhưng trước khi “bùm” lão, Grobalki cần làm thịt kho báu đã. Viên luật sư đã cung cấp một thông tin cực kì quan trọng. Không còn nghi ngờ gì nữa về mục đích duy nhất mà thằng Otvan thuê đất cho nấm mồ của tên đồ tể Flappe. Ai mà ngờ thằng láu cá đã ém kho báu ăn trộm tại đó suốt 5 năm nay chớ.
    Đêm không trăng không sao. Grobalki sờ khẩu súng lục giắt ở thắt lưng. Khẩu súng chỉ có hai viên đạn. Gã đã mua “cây suông” này của một tên ma túy, ăn cắp đồng hồ, tiêu thụ tiền giả kiêm nghề buôn bán băng video bạo lực ở nhà ga Viên. Khẩu súng hơi bị gỉ, giá rẻ như bèo, không biết còn khả năng khạc đạn hay không nữa. Nhưng còn hay không thì nhằm nhò gì. Chính cục sắt gỉ này đã nện một cú xuống đầu lão Mair-Chateaufort khiến lão bất tỉnh nhân sự. Gã lục lọi các ngăn kéo, không thấy đèn pin nhưng lại kiếm được một đèn rọi có thể ngoắc vào tay và pha ánh sáng rất mạnh. Gã rọi thử và suýt chảy nước mắt vì đèn sáng lóa.
    Gã đi ra đường, khóa cổng và đút chìa khóa vào túi quần.
    Đã nửa đêm. Đường phố vắng hoe, chẳng mấy nhà còn để đèn. Grobalki quá sành sỏi vùng này. Gã thuộc làu địa điểm nghĩa trang thị trấn. Cả thị trấn Fasslift chỉ có 3.000 dân nhưng lúc chẳng có người chết, vì thế nghĩa trang ngày một rộng thêm.
    Kho tàng trị giá một triệu mark long lanh trong mắt Grobalki. Gã đi như chạy đến nghĩa địa. Ý nghĩ phản bội thằng bạn tù bị gã gạt phắt. Hê hê, mình đâu có phản nó, mình chỉ phổng tay trên đống của phi pháp của nó thôi. Hãy coi như một con chó hoang nào vô tình bới lên hay một thằng phu đào huyệt tò mò vậy mà.
    Trên đường đi Grobalki không gặp một ai. Tiếng cú kêu đâu đó sau bức tường trắng làm gã chột dạ. Gã bấm đèn, quét ánh sáng loang loáng. Ánh đèn dừng ở cổng sắt và đảo qua hàng bia mộ đầu tiên. Một con mèo xiêm ngồi thù lù trên nấm mộ, mắt sáng quắc vội nhảy vọt vào bụi cây gần đó.
    Sau khi xem xét và hiểu rằng còn lâu mới mở được khóa cổng, gã leo tường vô nghĩa trang. Trước mắt gã, mộ này nối mộ kia típ tắp. Grobalki thở nặng nề. Liệu trong một đêm gã có thể điểm danh hết các tấm bia được không nhỉ? Ấy là chưa nói đến việc mộ của tên đồ tể Flappe biết đâu chỉ có một cây thập ác cắm mà không có tên họ thì sao đây?
    Y cảm thấy rối bời.Nếu thế thì cứ tha hồ mà tìm.Grobalki cất bước dọc theo hàng mộ đầu tiên tưởng như dài vô tận và chúi đầu xuống đọc từng tấm bia một. Đầu óc gã mỗi lúc thêm mờ mịt. Mộ ở đây xen lẫn cái cũ với cái mới không theo thứ tự thời gian. Có những mộ bia dễ đọc, ngược lại có những ngôi mộ mà thầy bói cũng không thể đoán nổi. Chưa nói đến những tấm bia phủ rêu phong chẳng đọc được chữ nào. Rồi cả tấm bia bằng gỗ mục nát nữa chứ.
    Gã hoa mắt trước mộ và mộ. Tuy thế đợt duyệt binh hàng mộ đầu tiên cũng xong. Bây giờ sang hàng mộ thứ hai.Grobalki vừa nhá đèn lên đã thấy ánh sáng yếu hẳn. Mẹ kiếp, hết pin ư?
    - Khốn nạn!
    Gã gầm gừ. Chắc cái đèn chó má này là đồ nghề của thằng Otvan khốn kiếp đây. Nó đã ngồi tù 5 năm nên cái đèn xài pin tự nạp cũng xếp xó 5 năm chẵn. Thảo nào.
    Gã chúi mũi cố đọc các tấm bia tiếp theo trước khi ánh sáng tắt ngấm. Đúng lúc đó gã nghe thấy tiếng ngáy khò khò.
    Thực hãi hùng.Grobalki tắt đèn và đứng như bị trời trồng. Người chết sống lại chăng? Gã không còn tin vào hai mắt mình nữa. Gã dò dẫm bước rón rén nhưng tiếng sỏi lạo xạo dưới chân vẫn nghe rõ mồn một.
    Tiếng ngáy càng lúc càng lớn không hề thua sút cơn hò kéo gỗ của mụ Alma. Ôi chao! Không phải ma hiện hồn mà là một người còn sống hẳn hoi. Grobalki tiến thêm độ chục bước rồi dừng lại suy nghĩ. Gã thở ra. Té ra là một thằng lang thang, một thằng say.
    Thằng ma cà bông nằm đó. Gã mặc bộ quần áo màu sáng và nằm thẳng cẳng trên phiến đá một ngôi mộ. Hừm, hắn đã say xỉn hết biết nên tường nghĩa địa là nhà, bia đá là giường.
    Đúng lúc Grobalki tính bật đèn thì gã lang thang dừng tiếng ngáy. Cánh tay gã lờ quờ trong khoảng không như cố tìm một tấm mền tưởng tượng. Grobalki hoảng vía thụp xuống vừa kịp lúc gã mặc bộ đồ trắng bật dậy. Gã thở dài và đứng lên lê gót về chỗ núp của Grobalki. Ê, bàn tay nhám của Grobalki đã sờ cào con chó lửa ở thắt lưng. Nhưng không…cần thiết. Bởi gã lang thang đã dừng
    lại, cởi nút quần. Giờ thì Grobalki đã hiểu vì sao gã lang thang tỉnh dậy.
    Grobalki cảm thấy chân mình ươn ướt. Gã cúi mặt xuống cắn răng chịu trận. Cũng hên là tên bợm nhậu trong khi làm cái việc xả xú bắp đó vẫn nhắm nghiền mắt, sau đó gã tiếp tục lê về phiến đá và nằm thườn ra.
    Ngủ lẹ đi, con ạ. Grobalki cầu trời.Nhưng thằng kia có chịu ngủ liền đâu, gã hết nhỏm bên này, xoay bên kia, có lúc còn nhổ bọt. Grobalki hết chịu đựng nổi. Kiến lửa bò lên cắn nhiều đến mức gã phải bật đèn để phủi chúng. Mà đèn cũng chỉ lóe lên yếu ớt rồi tắt hẳn. Gã nghiến răng kèn kẹt vì tức giận. Không có đèn đóm trong tay thì làm sao tìm… kho báu bây giờ. Chẳng lẽ gã trụ lại đây tới sáng để ngáy thi với thằng say này sao? Không? Gã tức điên lên và lê chân về phía cổng nghĩa trang.
    Thất bại, hoàn toàn thất bại. Ai mà ngờ được chuyện đèn hết pin và gặp một thằng say giữa đêm hôm ở nghĩa trang cơ chứ. Gã tức lồng lộn và nghĩ phải trút cơn giận lên đầu bác sĩ Holmam. Mình sẽ gọi điện ngay cho lão.

    NĂM: TÂM SỰ KẺ GIANG HỒ
    Tarzan chạy như cơn lốc nên phát hiện cái bóng khá muộn màng. Lúc cái bóng lạ nháng lên trước mặt hắn, hắn mới phản xạ bằng cách tung cả hai tay vô đối thủ. Một người đàn ông văng xuống rãnh còn chiếc xe đạp của gã bắn sang một bên. Tarzan cũng cảm thấy đau nhói ở ống chân khi va mạnh vào tay lái xe đạp, hắn nhào một vòng qua tay lái, đúng theo bài bản của võ Judo và rớt xuống trong tư thế ngồi. Tròn Vo lao tới chụp ngực áo hắn.
    - Ngồi yên… ủa, đại ca hả? Nó đâu rồi?
    Có tiếng người nói từ vệ đường:
    - Sao, tôi đây, các người trấn lột hả?
    Máy Tính nói:
    - Thôi đi, ông định làm gì với cái xe? Tụi này đến đây để bảo vệ nó đấy.
    Tarzan xoa xoa chỗ đau ở chân. Không biết chiếc đèn pin trên tay hắn văng đi đằng nào. Hắn vừa rà tay tìm cái đèn pin vừa hỏi:
    - Té ra chúng đều ngộ nhận cả thôi. Ông có bị sao không hả?
    Tiếng người đàn ông nói trong bóng tối:
    - Các cậu nguy hiểm thật. Tôi… không sao, nhưng chiếc xe đạp đua của tôi đâu rồi?
    Đúng lúc ấy bàn tay Tarzan sờ soạng trúng chiếc đèn pin. Hắn quét ánh sáng loang loáng về hướng chiếc “xế điếc” nằm chỏng gọng.
    - Nó kìa!
    - Ờ, tôi thấy rồi. Chà, cậu như một con tê giác vậy. Tối nào tôi cũng phóng mấy vòng quanh thung lũng, đó là một môn thể thao có ích. Các cậu nên bắt chước tôi còn hơn là chìm trong khói thuốc hoặc chích choác linh tinh.
    Người đàn ông cúi xuống nhấc chiếc xe thể thao trong ánh sáng đèn pin. Khuôn mặt anh ta gân guốc, sạm nắng cỡ chừng 30 tuổi. Anh ta mặc quần sort ngắn sặc sỡ, một chiếc áo thun cùng kiểu và đội mũ bảo hiểm da. Quả là mô hình mẫu mực của một vận động viên đua xe đạp đường trường. Tarzan áy náy thấy rõ:
    - Tụi em xin lỗi.
    - Không sao. Nhưng các cậu hãy nói cho tôi hay các cậu là ai? Chiếc ôtô con này là của bà Pauline chớ đâu phải của các cậu.
    - Đúng vậy. bà ấy tránh một con thỏ rừng và lạc tay lái rớt xuống rãnh. Hồi nãy bạn gái em cùng
    ngồi trong xe này và hai bà cháu đã về nhà trước. Tụi em là khách của ông bác sĩ Holmann. Được bà Pauline báo tin nên có mặt ở đây.
    Người đàn ông kinh ngạc:
    - Thì ra thế. Các cậu là trường hợp ngọai lệ đấy, theo tôi biết ông Holmann không bao giờ chứa ai qua đêm đâu. Còn việc tôi lảng vảng quanh chiếc xe hơi là do nó nằm chình ình sát đường suýt nữa xe đạp tôi ủi phải.
    Tarzan cười:
    - Vậy… anh thông cảm nghe. Xin giới thiệu em là Peter Carsten còn gọi là Tarzan, hai bạn em la Karl Vierstein và Willi Sauerlich.
    Người đàn ông kinh ngạc:
    - Cái gì? Sauerlich? Vậy cậu có họ với ông Hermann Sauerlich à, Willi?
    Tròn Vo uỡn ngực:
    - Dạ, cũng hơi hơi có họ ạ. Ông ấy là bố em.
    - Trời đất. Vậy anh chính là Andreas Holmann đây. Anh đâu ngờ gặp họ hàng trong hoàn cảnh này. Nè Willi, hai dòng họ Sauerlich và Holmann từ thời xa xưa đã là hai chi nhánh trong họ tộc. Có đều chi nhánh Holmann giờ chỉ còn lạ hai người: bác Holmann và anh. Willi ạ, anh biết ba em qua lời kể của bà Pauline. Bà ấy chẳng bao giờ cho bác Holmann biết cả.
    Tarzan tủm tỉm:
    - Dượng Holmann chớ?
    - Ồ, ông ấy cũng nhiễu các em về việc ấy à? Thực ra dượng Holmann là một người dễ chịu, một bác sĩ giỏi, rất trung thực và không hề chịu khuất phục. Từ ngày anh tiếp quản cơ sở điều trị của dượng để lại, hai người gần như cãi nhau mỗi lần chạm mặt. Dễ đến nửa năm nay dượng không thèm nói chuyện với anh. Nhưng anh hy vọng cụ sẽ nguôi dần.
    - Thế thì anh thua bà cụ Pauline rồi. Bà già đã tìm ra phương pháp trị ông cụ. Ơ, mà anh biết Willi đến đây vì lý do nào chứ?
    - Anh biết. Dượng đang tìm người thừa kế chính. Như thế là phải thôi. - Andreas Holmann vỗ vai Kloesen thân mật: - Anh cũng có phần rồi, quyền thừa kế đối với anh chỉ cần cơ sở điều trị là đã quá đủ. Em ráng ăn ở cho xứng đáng để có thê kế thừa trang trại, mấy chiếc ôtô cổ và vô số tiền mặt. Em hãy cố gắng thể hiện tính cách tốt của mình.
    Tarzan cười:
    - Tụi em là những học sinh sống lành mạnh yêu thể thao. Nếu như anh trông vào những bệnh nhân như tụi em thì bảo đảm chỉ có chết đói.
    - Tuyệt lắm, các em hãy tiếp tục sống như vậy. Anh có họ với Willi, vậy chúng ta có thể đối xử với nhau như người thân trong gia đình, được không?
    Tròn Vo đáp:
    - Em còn ở lại đây đến thứ tư. Anh nhớ dắt chị ấy đến thăm tụi em ở nhà dượng nhé. Hy vọng bà chị sẽ là một đầu bếp giỏi.
    - Trật lất rồi Willi. Anh chưa lập gia đình mà mới có một cô bạn gái tuyệt vời nhưng chỉ mê du lịch thôi. Cô ta không thích nấu nướng. Anh sẽ rất vui nếu được các em tới thăm.
    Bốn anh em đẩy chiếc ôtô lên vệ đường không khó khăn gì lắm, Andreas ngồi vào buông lái nổ máy.
    - Chia tay nghe các em. Anh sẽ cho xe tới nhà bà Pauline rồi trở lại đây lấy xe đạp. Không mất đâu. Hệ thống đường sá ở đây chỉ chạy tới bốn hộ trong thung lũng, vì thế ít có ai qua lại, tha hồ cho
    chúng ta phóng xe thoải mái dẫu trời tối.
    Ba quái vẫy tay. Viên bác sĩ trẻ tuổi dòng họ Holmann cho xe chạy thẳng. Tròn Vo lẩm bẩm:
    - Thế là tự nhiên tao lại có thêm một người bà con nữa, anh Andreas khá đấy chớ. Chỉ hơi tiếc là người yêu của anh quá kém. Tao sẽ không bao giờ lấy một người vợ không thích nấu nướng.
    Karl nhăn mặt:
    - Mày mà kể điều đó với dượng Holmann, mày sẽ bị loại khỏi vòng đua tức khắc.
    - Tao cóc cần quan tâm đến viếc có được quyền thừa kế hay không. Cái điều tao thực sự quan tâm chính là cái sự kiện đã và đang xảy ra ở đây: vụ tấn công đánh trọng thương ông lái buôn phomat, cú điện thoại dọa làm thịt dượng Holmann và vụ mất trộm châu báu của bà Pauline.
    Tarzan cau mày:
    - Bà cụ gọi là “kho tàng băng giá”. Ái chà, cái tên nghe kêu đấy. Ngày mai thằng Otvan ra tù rồi, mụ phù thủy đẻ ra gã cũng đang sống tại đây. Tao nghĩ rằng trước khi tới thăm anh Andreas, chúng ta sẽ phải đảo qua nhà mụ một chút.
    Karl gật đầu:
    - Nếu đúng Otvan là thủ phạm chôm chỉa và bí mật giấu kho báu ở một chỗ nào đó thì chưa chắc cảnh sát buông gã dễ dàng đâu.
    - Ừa. Nhưng tao chỉ sợ thời gian chôn vùi lên tất cả. Năm năm rồi còn gì. Thằng Otvan đã chịu trận được năm năm thì gã cũng thừa sức gồng mình thêm vài tuần nữa. Tao dám cá gã chẳng cần chi phải vội vàng khui kho báu lên mà sẽ giả vờ như một công dân lương thiệt đã. Nhưng dù sao tụi mình cũng phải để mắt đến việc này.
    Tròn Vo thảy thanh sôcôla vô họng để tăng cường sinh lực… đi bộ. Coi, trong khi ba đứa đang sải chân thì Ông Địa Kloesen la lên:
    - Ê ê, phí đằng kia có ánh đèn…
    Tarzan và quân sư đồng lọat ngó theo cánh tay thằng mập. Rõ ràng ánh sáng phát ra từ một trang trại ở hướng Bắc. Karl nói:
    - Nằm sát với thị trấn Fasslift kiểu này chắc là trang trại của chị Susi. Lạ thật. Hồi nãy ở đó tối om sao bây giờ lại có điện. Chẳng lẽ bà chị phóng viên mới về hay sao?
    Tròn Vo dài mồm:
    - Người mù không thấy đường hèn chi về trễ là phải. Tao đoán bà chị mới từ đồn cảnh sát về xong. Phải công nhận chị Susi khá là can đảm khi dám tố cáo tên cướp trên mặt báo.
    - Người ta gọi đó là lương tâm nghề bào, có điều chưa chắc đám ký giả nam nhi đủ dũng khí như Susi. Chị ấy sẵng sàng gánh chịu mọi rủi ro do dám nhận diện tên cướp.
    - Vậy mình phải làm gì để hỗ trợ Susi chớ đại ca?
    - Ừ, về nhà rồi tính mà.
    Tròn Vo bỗng nổi hứng… tâm sự:
    - Sau này lỡ tao may mắn được thừa kế sản nghiệp của ông dượng, tao sẽ chia đều cho anh Andreas, ngoài ra còn thêm một cái ôtô cổ, cái nào để mai tao còn nghĩ đã, và chiếc xe đạp cũ nữa.
    Máy Tính cười ầm:
    - Sự rộng rãi của mày còn vượt xa cả thói phàm ăn đấy Willi. Anh Andreas hẳn vui sướng phát điên.
    Khi ba quái về đến trang trại thì thấy các rèm cửa đã khép kín. Các tấm rèm đều màu đỏ. Cổng và cửa ra vào đều khóa trái. Chúng bấm chuông bác sĩ Holmann mở cửa ra mặt đỏ bừng vì giận dữ:
    - Nó dọa ta phải cao tường, kín cổng bằng không nó sẽ bắn bỏ.
    Tarzan hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra, hắn hỏi ngay:
    - Có phải y vừa gọi điện hăm he không hả bác?
    - Ừ. Nó nói rằng ta là kẻ thù không đội trời chung. Nó thề sẽ gặp ta như hồi xưa ta đã từng gặp nó.
    - Trời đất. thế là sao ạ?
    - Ta không biết, cháu ạ, ta thề danh dự đó.
    *
    Rudigo Klavim vẫn nhắm mắt, lưng, bả vai và gáy của gã đau nhức kinh khủng. Dù sao thì trời cũng sắp sáng. Phiến đá dùng để làm giường nằm qua một đêm hứng sương giờ lạnh như băng. Gã rét run.
    Rudigo hấp háy mắt. Những tia sáng bạc đầu tiên đã ló ra và chim chóc đua nhau hót trên những cây bồ đề cao vút mọc xung quanh nghĩa trang. Tên trôm vặt trong các khách sạn châu Âu buồn bã. Gã rờ rẫm má và phát giác râu mọc lởm chởm.
    Ôi, tiếng chim hót mới hay làm sao! Những giọt sương sớm long lanh trên các nhành hoa. Những đám mây mù mỏng tang phủ lên nghĩa trang một lớp voan mỏng dính. Rudigo cảm thấy đói cồn cào. Giờ này có lẽ cũng cỡ 5 giờ thì phải.
    Thị xã vẫn chìm trong giấc ngủ say trừ những người hốt rác, đám đưa báo sớm, những nhân viên trực ca lác đác trên đường. Rudigo bật dậy như lò xo vươn vai răng rắc. Gã dự định sẽ chiêu một cốc cà phê nóng hổi ở quán nhà ga, ăn thật nhanh bữa điểm tâm và đón chuyến tàu đầu tiên qua biên giới.
    Tên trộm khách lên đường. Đường vắng hoe không một bóng người. khi đi qua ngôi nhà đầu tiên, Rudigo bất chợt giật bắn mình trước tờ nhật báo buổi sáng của vùng Fasslift gài nơi cánh cổng. Linh tính của một con thú bị săn đuổi khiến gã nhích bước chân ngắn lại.
    Lạ thật, mọi khi gã không hề thấy lương tâm cắn rứt khi vét sạch các phòng ở khách sạn, nhưng lần này, lần đầu tiên gả cảm thấy mình là một tên ăn cắp. Gã đi như chạy, tờ báo kẹp dưới nách. Gã “đua” một mạch cho tới khi cảm thấy không có ai theo dõi liền mở trang tin địa phương ra.
    Ngay tức khắc, cái nhìn của gã dính cứng vào một cái tít in chữ đậm, đóng khung, dài ba cột báo: “CƯỚP TRÊN TÀU TỐC HÀNH ALPEN”. Bên cạnh đó là tấm hình truy nã hung thủ. Đó là ảnh gã! Tên họa sĩ nào đó đã vẽ mặt mũi gã y như tạc, chỉ hơi xấu trai hơn một chút. Gã tuyệt vọng.
    Đáng lẽ không cần đọc hết bài phóng sự điều tra của Susi, gã cũng biết cô gái viết gì, tuy nhiên gã vẫn đọc. Bằng một giọng hết sức phẫn nộ, cô phóng viên viết về sự tàn bạo của hung thủ, kẻ đã giáng xuông đầu một ông già tuổi tác một thứ hung khí rắn từ phía sau. Nạn nhân không chết nhưng thủ phạm đáng bị dư luận nguyền rủa suốt đời.
    Mắt Rudigo nổ đom đóm vì sợ. Tình ngay lý gian. Rudigo tự an ủi mình bằng một câu thành ngữ. Khốn nạn quá, khi đã bình chân như vại ở nuớc ngoài, gã sẽ phôn về cho cô phóng viên biết về bí mật của vụ này. Rằng gã quả có “ăn ké” đồ đạc cá nhân nhân của ông già ấy, tuy nhiên ăn ké chiến lợi phẩm đâu phải là tên cướp tàn bạo như cô ta tung tin. Rudigo vừa dợm cất bước bất chợt lạnh toát người. Mồ hôi gã rớt thành hột dù trời không có nắng.
    - Thôi chết rồi. Biết đâu bức họa chân dung mình cũng đã được gửi tới các đồn biên phòng rồi. híc, nếu thế thì có mọc cánh cũng đếch thoát được.
    Gã có cảm tưởng đang động đất dười chân. Trái tim muốn văng khỏi lồng ngực. Gã thấy ớn lạnh đến tận xương sống. Nghĩ tới đồn cảnh sát biên phòng, gã sực nhớ tới hộ chiếu.
    Rudigo thọc tay vào túi sờ soạng. Hả, tấm hộ chiếu đâu rồi? Muốn qua đồn biên phòng mà không
    có hộ chiếu thì làm sao lọt ải đây? Hình như trong lúc vội vã, gã đã bỏ quên hộ chiếu tại khách sạn Kur rồi. Xui tận mạng. Rudigo càng ngẫm nghĩ càng run. Trăm sự cũng tại mình. Thay vì hồi sức hoặc cấp cứu ông già, mình lại lột sạch của cải của lão. Đứng là làm ác gặp… ác. Làm sao có thể giải thích được rằng gã không dùng bạo lực, gã không phải là một tên ăn cướp hung hãn, gã chỉ là một tên trộm vặt. Đến khai thật với cảnh sát ư? Họ sẽ cười vào mũi gã ấy chớ.
    Chỉ còn một cách duy nhất… Gã phải biến phương pháp duy nhất này thành hiện thực. Gã chạy hộc tốc đến trạm đện thọai gần nhất. Những ngón tay run rẩy bắt đầu lật vội cuốn danh bạ điện thoại. Cái nhìn của gã muốn rách toạc cuốn danh bạ.
    - A, địa chỉ con nhỏ đây rồi: Susi Welmfoff, điện thọai số 7108, Mittelress-Einoed Nr-3. Tại sao con nhỏ phóng viên lại ở địa chỉ này mà không ở ngay gần tọa soạn nhỉ?
    Rudigo rời buồng điện thọai ra nhà ga. Gã biết ở ga có tấm bản đồ khu vực trong phòng hướng dẫn.
    Phố xá vẫn vắng tanh. Vài căn nhà vén rèm cửa. Một con chó hoang chạy theo đường tàu vào một ngõ hẻm suýt nữa thì va phải gã. Đồng hồ nhà thờ đểm năm giờ ba muơi. Rudigo nuốt nước bọt khi đi qua một cửa hàng bán thực phẩm đặc sản. Lạ thât, hình như ngủ ngoài trời làm người ta đói hơn thì phải.
    Gã dừng bước ở trung tâm thông tin nhà ga mà không gặp ai. Gã ngước lên bản đồ chăm chú tìm kiếm. Mittelriss Tal ở chỗ này đây. Số 3 nằm đây. Sau 90 phút nữa, gã sẽ tới nơi.
    *
    Đối với Tarzan, một ngày mới bắt đầu vào lúc 6 giờ ruỡi. dù tối hôm trước đi ngủ lúc mấy giờ không cần biết, chỉ hiểu rằng ngày hôm sau hắn thức dậy lúc 6 giờ 30. Căn phòng ngủ vách tường bằng gỗ ghép thoang thoảng mùi thơm trầm dễ làm người khác ngáy say sưa, chẳng hạn… Karl, nó vẫn ngủ mê mệt.
    Ánh sáng mặt trời vừa hắt tia đầu tiên trên trán Tarzan là hắn đã nhảy phóc xuống giường. Tarzan hít thở và làm vài động tác thể dục căn bản rồi đóng bộ đồ thể thao lửng thững dạo quanh trang trại. Buồng của ông Holmann nằm ở phía tây cuối hành lang và chia đôi tầng trên.
    Sau khi làm một tách trà thơm Ấn Độ, hắn bắt đầu chuẩn bị vào cuộc chạy tinh sương của mình. Tuy nhiên Tarzan vẫn nhớ đến địch thủ vô hình đe dọa mạng sống ông Holmann. Hung thủ có thực là gã đàn ông tóc rẽ ngôi giữa hay không? Đáng tiếc là cú phôn tử thần thứ hai, hắn không nghe được. Nếu nghe và đối chiếu một lần nữa, may ra hắn sẽ có một kết luận rõ ràng. Có lẽ hắn phải ghé quán TRÁI NHO đểu hỏi thăm ông chủ quán thôi. Ông chủ quán là người có thể tin cậy được, may ra Tarzan sẽ có một khái niệm cụ thể về tên tuổi lẫn tung tích của vị khách tóc rẽ ngôi giữa đó.
    Tarzan đi vô hành lang, hắn khóa cửa rồi vất chùm chìa khóa qua cửa sổ nhỏ vô nhà. Một con bướm chập chới cánh rồi bỗng sà xuống vai hắn. Chắc tại chiếc áo thể thao của hắn có màu sặc sỡ chăng?
    Tarzan chạy quanh ngôi nhà kiểm tra các cửa nẻo. Hắn quẹo vào gara nơi để mấy chiếc ôtô cổ. Mọi thứ không thấy có dấu hiệu gì đáng nghi ngờ. Nào, bây giờ thì chạy. Hắn chạy về phía con đường mà hôm qua đã đi. Ban ngày trông con đường đẹp hơn nhiều.
    Tarzan lướt qua hoa và cỏ. Mùa hè đầy màu sắc dưới chân hắn. Mặt trời lên cao, hắn lao về hướng trang trại bà Pauline mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Khu nhà vẫn chìm trong im lặng. Tarzan ngước nhìn lên cửa sổ buồng ngủ Gaby. Tại sao không hái một bó hoa dại cho hai bà cháu bất ngờ chớ?
    Hắn lựa những cành hoa đẹp nhất và đặt trên ngưỡng cửa nhà bà Pauline. Hắn liếc nhìn chiếc xe con đã được Andreas đem về để trong sân. Cánh cửa bên phải có một vết lõm. Ơn Chúa, quả là một kỷ niệm suýt… chết người. Tarzan vọt về phía trang trại của cô Susi Welmhoff. Chắc Susi ở nhà một mình. Báo hôm nay hẳn sẽ đưa tin về vụ cướp ngày hôm qua. Cũng phải để mắt xem bên ấy có vấn đề gì không.
    *
    Đêm qua Susi bị mất ngủ. Tiếc rằng ông thanh tra Wondraschenk đã nói đúng. Ban đêm ở nhà một mình trong ngôi nhà trống vắng xa cách chòm xóm, cô cảm thấy rờn rợn. Lần đầu tiên, cô phóng viên biết sợ không khí u tịch của căn nhà. Trước kia chốn này thanh tịnh như một liều thuốc an thần, nhưng bây giờ sao ảm đạm, nặng nề đến vậy.
    Gần sáng, Susi mới thiếp ngủ. Cô tự trách mình ngớ ngẩn. Làm sao tên cướp biết được người chứng kiến vụ ăn cưóp của gã hoàn toàn không mù? Lúc nào thì người ta đọc báo? Phần lớn là buổi sáng. Trong cơn mơ màng Susi thấy hiện ra hai người đàn ông. Một người là Bernd, ban đời của cô. Người thứ hai là tên hung thủ. Cô thấy Bernd cầm chiếc máy quay phim đuổi theo hung thủ la hét đòi chụp ảnh vì bức ảnh trong báo chưa chính xác.
    Susi dậy lúc 6 giờ 45, mồ hôi ướt đẫm. Cô khát cháy cổ. Cô khoác chiếc áo choàng xanh đi ra ngoài rồi xuống cầu thang vô bếp để uống một chai nước khoáng cho tỉnh táo.
    Cạnh nhà bếp có một căn buồng rộng vừa để tiếp khách. Tên trộm khách sạn ngồi trong căn phòng này. Lạy Chúa, chính là gã. Tên cướp ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành vốn là chỗ ngồi của Bernd. Nhưng gã hoàn toàn không có vẻ thô bạo côn đồ, thậm chí gã còn mỉm cười. Cô như khuỵu xuống. Không còn gì nữa để nghi ngờ, gã sẽ thủ tiêu cô, người chứng duy nhất biết mặt gã. Tại sao cô lại để tên họ mình trên báo nhỉ? Nhưng giờ đây có lẽ muộn mất rồi. Ruidigo nói:
    - Tôi rất lấy làm tiếc đã để cô sợ hãi, nhưng tôi không còn cách nào khác.
    Susi lí nhí:
    - Ông nói sao?
    - Tôi đã tìm thấy địa chỉ cuả cô trong danh bạ đện thoại. Trong nhà có một mình cô vậy sao?
    - Anh Bernd… đi mua bánh mì. Anh ấy… sắp… sắp về rồi.
    Rudigo lắc đầu:
    - Không có ai đã rời khỏi nơi này. Tôi đã tới đây khá lâu và đã tuần tiễu tất cả các buồng, kể cả buồng của cô nữa. Cô đang ngủ ngon nên tôi không nỡ làm cô thức giấc. Cô nhìn thấy đó, tôi chưa làm hỏng bất cứ vật gì ở nhà cô. Đồ đạc vẫn còn y nguyên.
    Gã đứng lên và đi về phía Susi một cách nhã nhặn. Trời ạ, gã lại còn chìa tay nâng cô lên. Susi nghe hai hàm răng mình va lập cập vào nhau. Chắc chắn gã sẽ lôi cô xềnh xệch xuống dưới hầm và “bùm” một phát gọn ghẽ. Nhưng… Rudigo chỉ lôi rất dịu dàng cô gái đặt trên ghế salông. Gã khoanh tay đi đi lại lại:
    - Thưa cô, tôi buộc phải đến đây để chúng minh với cô rằng tôi không phải là thủ phạm tấn công ông già trên tàu tốc hành.
    Rudigo kéo tờ báo ngày ra khỏi túi áo và thảy lên bàn. Giọng gã cực kỳ bình tĩnh:
    - Hôm qua tôi ngồi trong nhà hàng của khách sạn thị xã. Cô cũng đã tới và trò chuyện khá lâu với bạn gái Tanja của cô. Tôi tình cờ nghe được cuộc đối thoại giữa hai cô. Tôi cũng nghe nói rằng hôm nay sẽ có bài của cô trên báo. Tôi không ngờ cô đã giả vờ bị khiếm thị. Nhưng cô đã không đúng. Tất cả là một sự nhầm lẫn. Tôi là thợ khóa nên biết cách đột nhập vào nhà người khác. Nhưng tôi không phải là hung thủ. Tôi rất hiền lành.
    Susi nói rất khẽ:
    - Thật thế sao?
    - Thưa cô, chuyện như sau: Tôi vừa bước vào toa tàu đó, say mèm. Tôi thấy có ông già đang ngủ gà gật và tôi nghĩ mình phải xoáy cái gì đó. Nghề tôi nó thế. Tôi sẽ sàng rút cái ví, lúc đó tôi thấy gáy ông lão đỏ lòm. Tôi hơi giật mình nhưng vì đã say thì còn biết sợ cái gì nữa? Tôi lột thêm hai cái nhẫn, cái đồng hồ vàng và lúc đó tôi mới thấy sợ. Sau đó tôi trượt chân rồi chạy thẳng.
    - Sao ông không gặp cảnh sát.
    Rudigo cười đau khổ:
    - Làm sao tôi có quan hệ tốt với những nhà bảo vệ luật pháp được? Tôi xin trao lại cho cô, từ hôm qua, tỉnh rượu rồi thì những thứ này như đốt cháy lòng tôi.
    Gã lôi trorg túi ra cái bóp, cái đồng hồ vàng và hai cái nhẫn đặt lên trên tờ báo. Gã lôi trong bụng ra một con dao cùn cắt bánh mì.
    - Đây là con dao của cô mà hồi nãy tôi lấy trong bếp. Nếu tôi là thủ phạm thì tôi đã thủ tiêu cô. Nhưng tôi chỉ tìm cách chứng minh cho cô biết là tôi vô tội.
    Ở ngoài nhìn vào thì dễ có cảm tưởng là gã định lao con dao vào Susi. Một bóng người đã ập đến bên mé cửa. Susi quay mặt ra nên thấy rất rõ. Cô la lên kinh hoàng:
    Không.. đừng… lầm rồi…

    SÁU: BẤT CỨ AI CŨNG MỘT LẦN LẦM LẪN
    Tarzan tốn mười hai phút để chạy từ trang trại bà Pauline đến trang trại Susi. Không khí thật tuyệt diệu. Những cọng cỏ quất vào hai chân trần. Người hắn từ từ nóng dần.
    Có lẽ đây là khu trang trại bé nhất trong thung lũng. Tarzan dừng lại trước một ngôi nhà theo kiểu vùng quê Alpen. Một chiếc xe Fiat đậu ngoài cửa, một cái giếng xây ở gần gara ôtô.
    Tarzan vục đầu xuống giếng và thưởng thức thứ nước ban mai mát lạnh. Hắn ngụp cả đầu trong chậu nước và thấy khoan khoái lạ lùng. Bây giờ thì lại đi một vòng quanh nhà để bảo vệ giấc ngủ cho người quen chứ. Vẫn còn một trang trại thứ tư của nạn nhân bị bỏ hoang mà mình chưa có cơ hội đến thăm sáng nay.
    Tarzan bắt đầu vòng đi từ phía trái nhà. Trong vườn có một bộ bàn ghế quét sơn trắng và nhiều chậu cây kiểng. Hắn hít một hơi dài mùi hương quỳnh mới nở và… tấp sát cửa kính.
    Trời đất. Có chuyện rồi. Coi kìa, trong phòng chính tầng dưới, rèm cửa không đóng. Tarzan chới với khi phát hiện một người đàn ông mặc bộ đồ trắng. Rõ ràng gã này không phải là người bạn đời của chị Susi, bởi vì cứ nhìn bộ mặt nhợt nhạt của người nữ phóng viên là đủ hiểu.
    Tarzan đảo mắt về phía chiếc bàn. Bên trên bàn là một tờ báo, một chiếc đồng hồ vàng, hai cái nhẫn và một cái bóp. Hắn khựng lại trong tích tắc khi sực nhớ mớ tang vật này chính là tài sản bị trấn lột cùa ông lái buôn phomát. Không còn gì nữa để nghi ngờ. Đích thị gã đàn ông trong phóng chính là tên cướp. Gã đột nhập nhà Susi nhằm thủ tiêu nhân chứng duy nhất chứ sao. Không tin thì ngó tờ nhật báo thử xem, gã đã quăng trước mũi cô gái trước khi cho cô ngắm củ cải từ dưới đất. Gã đã đọc tờ báo và biết chỗ ở của cô. Tarzan thở mạnh. Tạ ơn trời đã giúp mình đến đúng lúc.
    Tên côn đồ nói se sẽ. Các cửa sổ và cửa ra vào đều đóng, Tarzan không nghe được tiếng nói ở trong nhà. Kìa, gã thò tay vào trong bụng rút ra một con dao, gã vung dao lên.
    Mọi việc diễn ra trong tích tắc. Tarzan lao thẳng qua cửa kính với hai tay ôm mặt, che kín đầu. Hắn bay vào nhà như một cơn lốc, kính vỡ loảng xoảng. Không cần biết máu đang rỉ ra từ cạnh tay trái và bắp chân, Tarzan tung liền một cú atêmi dính vô gáy tên cướp. Một cú đánh còn nặng hơn búa tạ. Tên gian tế đổ ập như một thân cây bị trốc gốc. Con dao rơi cạch một tiếng khô khan trong tiếng kêu gì đó của Susi.
    Tội nghiệp cho kẻ giang hồ lãng tử ăn trộm vặt Rudigo. Lãnh cú đòn sát thủ của Tarzan cho dù gáy gã có làm bằng thép cũng bị hạ gục. Tarzan nhấc chân lên đề phòng gã cử động nhưng Susi đã níu tay hắn:
    - Trời ơi, em đánh lộn người rồi.
    - Sao?
    Susi gieo mình xuống ghế:
    - Anh ta có bị chết không?
    - Ồ không chết đâu. Ngủ khoảng nửa ngày là tối thiểu, nhưng sao lại lộn người hả?
    Susi nhắm nghiền mắt thở dốc.
    - Cám ơn em đã đến cứu chị, có điều anh ta không phải là thủ phạm.
    - Sao lại không? Mặt mày gã y chang tên cướp mà chị mô tả trên tàu tốc hành. Chưa kể mớ chiến lợi phẩm mà gã thu được của ông Mair-Chateaufort đang nằm kia. Gã lại còn rút dao ra nữa. Gã định thủ tiêu chị, đúng không?
    - Không... nghe đây Tarzan. Sự việc phức tạp hơn chúng ta tưởng tượng. Anh ta đúng là tên ăn cắp, và chỉ có vậy. Anh ta đến đây để...
    Và Susi kể lại cho Tarzan nghe câu chuyện vừa xảy ra. Tarzan suy nghĩ.
    - Có nghĩa là gã trấn lột này chỉ đục nước béo cò hay sao? Vậy hung thủ thực sự là ai?
    Nhưng mình không tin lúc đó gã say rượu, Tarzan nghĩ. Gã nói thế để chạy tội cho mình chớ sao. Gã đã phạm hai tội: không hề giúp đỡ nạn nhân lại còn có hành vi ăn cắp đê tiện. Nhưng xét xử gã như thế nào, đó không phải là việc của chúng ta.
    Tarzan cúi xuống bắt mạch cho tên trộm cùng đường. Mạch gã yếu nhưng vẫn đập đều. Hắn lẳng lặng xoay người gã để đề phòng bị sặc. Đúng lúc đó, chiếc ví mỏng dính của gã rớt ra. Tarzan nói:
    - Gã tên là Rudigo Klavim quê ở Nurmberrg, không căn cước lẫn hộ chiếu. Chị nên gọi điện cho ông thanh tra Wondrascheck.
    *
    Tarzan quay trở về trang trại của bác sĩ Holmann với bốn vết băng dính từ tủ thuốc của nữ nhà báo Susi.
    Lúc này thì trời đã sáng trưng. Các cửa sổ đều mở toang. Tarzan bước vào nhà bếp trong tiếng nhạc từ radiô thánh thót. Hắn nghe đủ ba giọng trò chuyện của ông bác sĩ già, Karl và Tròn Vo. Máy Tính nhận biết sự xuất hiện của đại ca. Nó hốt hoảng thấy rõ:
    - Trời ơi, tao cứ tưởng mày rèn luyện thân thể. Cả nhà đều nghĩ như vậy. Sao, bị thương hồi nào, ai băng bó hả?
    Tarzan giơ một ngón trỏ lên miệng ra hiệu cho thằng cận đừng làm ông Holmann phải giật mình. Tuy nhiên sự báo động của hắn đã muộn màng. Ông già hất tờ báo xuống há hốc miệng:
    - Cháu bị té ngã hả Tarzan?
    Tarzan ngượng nghịu:
    - Không phải, thưa bác. Cháu bị thương do một sự ngộ nhận. Chị Susi đã băng cho cháu. Nhưng ông thanh tra Wondrascheck thì cho rằng thà bị thương còn hơn là đứng ngoài không hành động. Bác Holmann ạ, sự việc diễn ra khá ly kỳ, các tình huống ở bên trong nhà chị Susi lúc đó cứ tưởng như một vụ án mạng.
    Cả ba người đều giương mắt nhìn Tarzan, Karl ngừng pha nước cam tươi còn Tròn Vo bỏ món trứng tráng nông thôn trên chảo mỡ xèo xèo, nó hỏi:
    - Có chuyện gì vậy?
    Trong lúc điểm tâm, Tarzan kề lại đầu đuôi câu chuyện. Ông Holmann nói ngay:
    - Ta tin là tên trộm vặt đó nói thật. Có điều nếu không phải gã thì ai đã tấn công ông bạn chơi bài của ta nào?
    Tarzan gật đầu:
    - Từ nãy đến giờ cháu cũng tự hỏi mình như vậy.
    Karl đẩy đĩa trứng tú hụ do Tròn Vo đạo diễn sang bên cạnh, nó nói:
    - Rõ ràng đây là một hành động có chủ định và tính toán trước. Hung thủ đã đập mạnh vào gáy nạn nhân, nhưng không cướp của. Động cơ của vụ này phải là một vụ án trả thù. Ông Mair-Chateaufort có kẻ thù không ạ?
    Vị bác sĩ già lắc đầu:
    - Mair là con người nhân từ, đôn hậu và trung thực. Ông ấy kinh doanh phomát nhưng không hề trục lợi, tham lam và làm hại người khác. Mair-Chateaufort chỉ có đánh bài ăn gian thôi. Nhưng ông ấy chỉ đánh bài với mỗi mình ta thôi mà. Và ta thì còn ăn gian hơn ông ấy nữa.
    Tarzan ngẫm nghĩ vài giây rồi nói:
    - Thủ phạm không thể là một thằng điên vô cớ đánh người. Bác cố nghĩ lại đi bác Holmann, cháu không nghĩ rằng ai cũng kính trọng ông Mair-Chateaufort như bác khằng định. Có người thương phải có kẻ ghét chứ?
    Holmann nhìn chằm chằm vào tách cà phê bốc khói. Bỗng nhiên ông nói:
    - Cháu nói đúng. Ông bạn ta có một kẻ thù.
    - Người nào vậy, thưa bác?
    - Lâu quá có khi ta không nhớ nổi. Đại khái hình như bắt đầu là “Grob” và kết thúc thì có chữ “Ki” gỉ đó.
    Tarzan gợi ý:
    - Vậy chúng ta cứ tạm gọi là Grobki nhé.
    Holmann gí tay lên cái mũi to tổ bố của mình, làm như là qua đó ông sẽ dễ nhớ hơn.
    - Chuyện xảy ra cách đây cũng đến bảy, tám năm rồi. Hồi đó ông Chateaufort đã tóm được một tên cướp nhà băng. Đầu đuôi cũng nhờ sự tình cờ. Tên cướp mang theo súng, đeo mặt nạ và đột nhập nhà băng thị xã uy hiếp một nữ khách hàng, vớ được một khoản tiền kếch xù. Gã ôm tiền chạy ra ngõ Salamand để nhảy lên xe đón sẵn. Tên cướp tự tin đến nỗi lột mặt nạ ra vì nghĩ rằng những ôtô đang đậu trong ngõ đều không có người. Gã đã phạm sai lầm vì trên một chiếc xe hơi, còn có ông Chateaufort đang ngủ gà ngủ gật chờ bà Pauline đi chợ ra. Trong lúc gà gật, Chateaufort ngồi tụt người xuống đầu ngoẹo sang một bên nên tên cướp không nhìn thấy ông. Nhưng chính ông lại trông thấy nó. Vì thế, theo lời mô tả nhận dạng của ông bạn ta, cảnh sát đã tóm cổ thủ phạm ngay hôm đó. Chateaufort lại còn ra trước toà làm nhân chứng buộc tội tên cướp nữa chứ. Ta nhớ rõ rằng ngay tại phiên toà, tên cướp thề sẽ trả thù ông.
    Tarzan hỏi:
    - Tên cướp có bị phạt tù không ạ?
    - Đúng 8 năm chẵn. Vì đó là một tên cướp có sẵn nhiều tiền sự.
    - Nghĩa là bây giờ gã đã mãn hạn tù.
    - Có thể lắm, Tarzan ạ.
    - Bác có nhớ một chút xíu nào về tướng tá của gã không?
    - Ta đâu có tham dự phiên toà. Ta chỉ nghe ông bạn Mair-Chateaufort kể lại mà.
    Tarzan gật gù. Mắt hắn sáng như sao.
    - Không biết ông Chateaufort đã tỉnh chưa, cháu muốn ông ấy xác định xem hung thủ có phải là gã đàn ông tóc rẽ ngôi giữa, da thịt như bị phù thủng, cỡ 40 tuồi…
    Hắn chưa dứt câu, hai quái đã đồng loạt la lên:
    - Thằng đàn ông ở quán TRÁI NHO?
    - Mình chưa dám khẳng định. Nhưng tối hôm qua, khi nghe cú phôn hăm doạ bác Holmann, nghe tiếng nói rin rít, quen quen làm mình nhớ đến gã. Hơn nữa, gã còn xách theo valy, rất có thể gã cũng có mặt trên con tàu tốc hành Alpen cùng với tụi mình.
    Holmann nghe lỗ tai lùng bùng. Mãi một lúc sau, ômg mới nói được:
    - Trong kho lưu trữ hồ sơ của cảnh sát thế nào cũng có ảnh gã.
    - Tại sao chúng ta không muợn chị Susi những số báo thời đó cho đỡ mất công nhờ vả pháp luật nhỉ?
    - Không. Ta không ưa bọn nhà báo nói láo ăn tiền. Tuỳ các cháu.
    Tarzan thở dài:
    - Susi là một con người nhiệt tình. Nhưng bác thì cố chấp như một bức tường bằng bê tông vậy.
    - Cháu không được nói với ta như vậy, Tarzan
    Tarzan tủm tỉm cười:
    - Cháu hiểu. Cháu biết người duy nhất dám phê bình bác là bà Pauline.
    - Không, bà ấy cũng chưa có quyền.
    Tarzan nở một nụ cười:
    - Bác Holmann ạ, hồi sớm trong khi chạy bộ, cháu đã thay mặt bác đặt một bó hoa đồng nội trước cửa phòng bà Pauline. Còn một bó nữa cháu tặng Gaby.
    Holmann hấp háy mắt. thằng nhãi thật ranh mãnh. Ông cũng cười:
    - Thôi được. ta nhớ rằng hồi đó ông Chateaufort có thu thập mọi tin, ảnh liên quan đến vụ án. Lát đến thăm ổng ở bịnh viện, ta sẽ muợn chìa khoá để tìm các tài liệu cần thiết cho tụi cháu. Chịu chưa?
    Tarzan chưa kịp trả lời thì tất cả đã quay ra ngoài sân. Chiếc xe con của bà Pauline đi tới làm bụi bay mù mịt.
    *
    Buổi sáng rực rỡ với nắng hắt trên nền trời trong xanh. Một buổi sáng đẹp như thế này không thể có đám ma được. Grobalki đã hằng tin như thế khi rời khỏi nhà mụ Alma để dấn bước về nghĩa trang. Mụ phù thuỷ vẫn còn ngáy. Kinh dị thiệt.
    Grobalki tiếp tục cuộc phiêu lưu dang dở đêm qua. Mẹ kiếp, chưa tới cổng nghĩa trang y đã nghe tiếng đào đất thình thịch. Hai thằng phu mộ cao lớn như hộ pháp mình mẩy đầm đìa mồ hôi đang đào huyệt. Grobalki bước tới. Gã cất tiếng chào và ngờ ngờ thấy một trong hai người có vẻ quen quen. Người nhiều tuổi hơn nói với bạn:
    - Mày nhớ thằng cha vừa chào hỏi tụi mình không? Thằng ăn cướp nhà băng đó. Tám năm trước tao làm dự thẩm để xử y. Thời gian trôi nhanh quá. Y đã mãn hạn tù rồi.
    Grobalki hết hồn. hèn chi cái gã khổng lồ này trông quen quen. Gã giả vờ lơ đãng né que một bên:
    - Hai ông lộn tôi với ai rồi. Tôi không phải tên Grobalki.
    Gã lại đi tiếp. Coi kìa, tấm bia ân sủng của trời cho đã sừng sững trước mặt. Gã không cần đọc hết cũng thuộc làu. Trên mộ bia ghi rành rành: “Baldur Flappe sinh ngày 18-8-1888…”.
    Trời đất! rõ ràng đêm qua y đã tiến sát ngôi mộ này thì bị phá bĩnh bởi tiếng ngáy khò khò của thằng lang thang say xỉn. Thôi nào, ghi nhận gấp và chuồn nhanh. Ở đây lâu hai thằng đào huyệt
    sinh nghi thì mang hoạ.
    Grobalki quay qua phía nhà thờ và phải kêu lên, sao hôm nay lắm đám ma thế! Một đám chôn 9 giờ sáng, một đám 11 giờ trưa. Vậy thì sáng nay cách gì làm ăn được. Chưa kể hôm nay thứ bảy, thiên hạ sẽ tới tưới hoa, nhổ cỏ, chăm sóc phần mộ của người thân. Chưa kể ngôi mộ của Flappe nằm cực kỳ lộ liễu. Từ bốn phía, người ta có thể dễ dàng quan sát việc gã làm. Vậy là phải gác công việc truy tìm kho báu đến ban đêm chứ sao.
    Grobalki rời gót khỏi nghĩa địa và ghé một quán ăn gọi hai khúc dồi nướng. Ai cũng biết khi nhai cũng là lúc người ta suy nghĩ và dễ nảy sinh sáng kiến. Chưa đầy hai mưới giây, sáng kiến đã hiện ra, gã tấp vô một cửa hàng mua gói thuốc lá và đi một mạch.
    Gã quyết định thực hiện kế hoạch trả thù đã nung nấu bao lâu nay. Grobalki lẩm bẩm:
    - Mittelriss là trang trại riêng của thằng thầy thuốc già Holmann, nhưng chỗ lão túc trực ở điểm khác. Hê hê, mày qua mặt tao sao được, Holmann. Dù đã trải qua 8 năm, tao vẫn nhớ như in cơ sở khám bịnh và điều trị của mày. Nó lúc nào cũng ở Fasslift.
    Grobalky rảo bươc đến khu nhà xa xa và dừng lại trước một tấm biển đồng có mũi tên chỉ. Trên tấm biển là hàng chữ khắc khá đẹp: “Bác sĩ Holmann”.
    Sau vài phút, gã đã có mặt ở cửa hậu khu nhà. Trên ban công tầng trên chỉ thấy có tấm dù che nắng và chiếc giường gấp. Còn tầng dưới các phòng đều đóng cửa kín mít. Những nhà xung quanh cũng không thấy một bóng người. Chẳng lẽ thứ bảy lão không đến nơi khám bịnh mà ru rú ở nhà riêng ư? May mà hôm qua gã đã gọi điện tới nhà riêng của lão. Để trả thù cho Veronica tội nghiệp, tao sẽ phá tan hoang cơ sở móc túi bịnh nhân của mày. Mày sẽ phải đau lòng khi nhìn thấy mọi thứ ở đây thành bình địa vào sáng thứ hai, thằng lang băm ạ.
    Gã vọt qua hàng rào và xồng xộc vào trong nhà. Thảm cỏ quanh nhà được cắt tỉa tuyệt khéo. Gã tránh nhìn hình ảnh con chim sâu đang nhảy nhót để bặm môi chui tọt vô cửa sổ. Ôi, cũng như mọi năm, cứ nghĩ đến Veronica là gã lại đau như dao cắt ruột. Bác sĩ Holmannn phải chịu trách nhiệm về cái chết của Veronica. Bịnh tình của em đâu có hiểm nghèo gì chỉ do thằng lang băm say bét nhè không đến mà em phải chết oan ức. Thằng già khốn nạn đó sẽ đền tội.
    Grobalki rút súng. Gã cảm thấy có một cái gì đó. Gã mở cánh cửa bọc đệm dẫn vào phòng khám. Gã trông thấy một tủ thuốc cao ngất, một cái bảng in các cỡ chữ cái từ nhỏ đến lớn, một bức hình vẽ con mắt to tướng và rất nhiều dụng cụ y tế. Grobalki đá thốc cánh cửa và chĩa súng vào lưng người mặc áo blu đang lúi húi sắp xếp các mẫu thuốc điều trị vô chiếc tủ đứng:
    - Mày mà la lên là tao bắn chết tại chỗ.
    Andreas Holmann xoay người lại từ từ. Anh nuốt nước miếng:
    - Ông định ăn cướp hả, tôi không kêu đâu. Nhưng ông muốn gì
    - Mày là...
    Grobalki trợn ngược mắt. Thằng thầy thuốc này trẻ quá, búng ra sữa. Tướng tá thế này đâu phải là lão Sigismun Holmann. Gã hất hàm:
    - Mày là ai, làm gì ở đây?
    - Tôi là bác sĩ Holmannn và đây là nhà của tôi. Tôi có quyền làm gì trong nhà của mình thì làm chớ.
    - Mày là… lão Holmannn ngoài 70 tuổi cơ mà.
    - À, chắc ông định nhắc đến bác tôi Sigismun Holmann? Còn tôi là Andreas Holmann.
    Grobalki sững sờ:
    - Ô hay, sao lại thế được?
    - Nếu ông muốn tìm bác tôi thì… thật đáng tiếc, ông đã đến chậm mất ba năm rồi
    - Lão chết rồi sao? Không thể được. Ta vừa nói chuyện điện thoại với lão tối qua kia mà.
    - Ông hiểu sai ý tôi rồi. Cách đây 3 năm ông ấy đã cho tôi thuê cơ sở này. Hiện bác tôi đã nghỉ hưu.
    Grobalki thở phào nhẹ nhõm:
    - Thì ra vậy. Nào, bây giờ thì mày nằm sấp suống.
    Y gí súng vào gáy người bác sĩ trẻ và chụp sợi dây nilông mà Andreas đang định buộc sách ở trên bàn bằng bàn tay còn lại. Người thầy thuốc nằm xuống, hai tay chìa ra phía trước. Grobalki kẹp súng vào đầu gối và trói tay bác sĩ Andreas. Làm xong, y ra lệnh gọn lỏn:
    - Mày ngồi vào cạnh bàn kia.
    Viên bác sĩ trẻ làm theo.
    - Nào, bây giờ thì tao sẽ nói chuyện với cái thằng lang băm trẻ nối nghiệp thằng lang băm già kia.
    - Tôi hiểu rồi. Tôi cũng không mời ông đến nhà tôi càng không muốn ông mang súng theo. Hơn nữa, ông xiết quá chặt khiến mười ngón tay của tôi hỏng mất.
    - Kệ xác mày. Làm bác sĩ mà không chữa nổi tay mình thì chữa bệnh cái chó gì. E… hèm, lão già của mày hiện đang ở trang trại hả?
    - Tôi không biết. Tôi và ông ta chẳng có quan hệ gì với nhau.
    - Bố láo quá. Lão là họ hàng với mày cơ mà. Đừng bịp tao. Này, lão có con cái gì không?
    - Không!
    - Vợ lão tên gì?
    - Bà ấy nguyên là bà Katharina.
    - Tại sao lại dùng chữ “nguyên” hử?
    - Vì bà ấy đã qua đời 7 năm trước.
    - Mụ đã ngủm củ tỏi?
    - Thì đã bảo chết rồi mà lại.
    Grobalki suy nghĩ một lát, sau đó, gã vớ lấy máy điện thoại.
    - Tao sẽ hỏi lại lão già. Mày mà làm ồn ào là qua đời con ạ.


    BẢY: ĐOẠN KẾT CỦA TÊN CƯỚP SI TÌNH
    Chiếc xe hơi mini của bà Pauline vừa tắt máy là Tarzan đã nhào ra mở cửa. Gaby trông gọn gàng diêm dúa và hoàn toàn tươi tỉnh sau một đêm ngủ ngon. Tarzan bắt tay cô bé và chào bà Pauline. Bà mặc bộ quần áo lụa trắng trông rất sang trọng. Mái tóc được buộc bằng ruy băng màu mỡ gà trông rất mát mắt. Tarzan khen:
    - Bà mặc đẹp nhất thung lũng này đấy.
    Bà Pauline hóm hỉnh:
    - Tất nhiên không nhất cũng nhì vì trong thung lũng này chỉ có ta và cô Susi mà thôi.
    Ông Holmann nói oang oang:
    - Hai người cũng đủ lắm rồi.
    Gaby ngồi vào bàn điểm tâm. Cô bé vui vẻ:
    - Thực ra thì hai bà cháu tính vào thị xã, nhưng khi ra đến cửa thì bắt gặp hai bó hoa. Không biết ai tặng để còn cám ơn.
    Tarzan cười:
    - Dượng Holmann tặng bà Pauline một bó, còn một bó mình tặng Gaby đó.
    Trong bữa ăn sáng, Tarzan kể lại mọi chuyện vừa xảy ra ở trang trại cô Susi. Hắn nói:
    - Thanh tra Wondrascheck và viên trợ lý của ông ta đã dẫn Rudigo Klavim về nhà giam. Nếu Rudigo khai đúng sự thực thì mối nghi ngờ hiện giờ đổ về tên tội phạm đáng ngại nhất vừa ra tù; chính gã “Grobki” gì đó đã thanh toán nhà lái buôn phomát về việc làm nhân chứng buộc tội gã 7, 8 năm về trước.
    Gaby nhíu mày.
    - Tên “Grobki” chẳng lẽ có tới hai kẻ thù? Tại sao sau khi đánh ông Chateaufort, gã lại còn gọi điện đòi giết bác Holmann chớ.
    - Tôi chưa thể giải thích điều này Gaby ạ. Cũng có thể gã thù luôn bác Holmann bởi bác là bạn chí cốt của người mà gã ghét.
    Ông Holmann đứng dậy.
    - Thôi nhé, chấm dứt đề tài này. Tôi phải đến bịnh viện thăm ông bạn đáng thương đây.
    Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo ầm ĩ. Holmann bực bội chụp máy và cố tình chìa ra để Tarzan cùng nghe.
    - Cái gì thế?
    Từ bên kia đầu dây, một giọng the thé quen thuộc cất lên khiến Tarzan rùng mình.
    - Mi sẽ biết ngay bây giờ đây, đồ lang băm.
    Holmann quát lớn:
    - Đây là lần thứ ba mày quấy rối tao. Tao không dư thì giờ nghe mày.
    - Khoan cúp máy mà nghe tao nói đây. Đây là lý do khiến tao phải trả thù mi. Mi còn nhớ một đêm mùa hè cách đây 5 năm chứ. Hồi đó người yêu của tao bị đau bụng khủng khiếp… tiếc rằng tao không có mặt ở nhà… tao bận đi… công tác.
    - Hiểu rồi, mày đã đi “công tác” trong nhà đá chí ít ra là 5 năm. Được, nói tiếp đi.
    Bây giờ thì Tarzan đã xác định rõ ràng tên gọi điện đe doạ đích thị là gã đàn ông tóc rẽ ngôi giữa ở quán TRÁI NHO.
    - Bà già của người yêu tao đã kể lại cho tao nghe chuyện buổi tối hôm đó. Hiện giờ bà cụ đã chết nên không còn nhân chứng để tố cáo mi. Bà già chết cách đây hai năm trong khi người mà tao yêu bị chết oan ức ngay đêm tháng 7 ấy. Hỡi lão già độc địa, mi còn nhớ cú điện thoại tối hôm đó chớ hả?
    - Mày điên rồi, ta không hề biết về cú điện thoại đó.
    - Mày nghe đây, bạn gái tao chết vì mày say rượu. Hiểu chưa, lão già. Mày đã nốc rượu nhiều quá và từ chối cứu bệnh nhân nên người yêu tao phải chết. Đồ lang băm. Tao sẽ giết mày để Veronica của tao được ngậm hờn nơi chín suối.
    - Ta khẳng định rằng, đêm tháng 7 ta chẳng nghe một cú điện thoại yêu cầu chữa bịnh nào cả.
    - Tao sẽ ăn miếng trả miếng với mày. Mày biết không, đối với tao, nàng là tất cả. Tao yêu nàng biết chừng nào. Ngần ấy năm trong tù, tao đã thề là sẽ thịt con vợ mày để cho hợp lẽ công bằng. Nhưng xui xẻo thay, con vợ mày đã ngắm củ cải từ dưới đất.
    Ông Holmann run rẩy:
    - Vậy là mày phải ở tù ít ra là 7 năm nếu không thì mày phải biết bà ấy mất đã 7 năm rồi chớ.
    Tiếng nói bên kia đầu dây rít lên:
    - Nhưng không vì thế mà tao tha tội cho mày. Tao sẽ giết thằng cháu duy nhất của mi để rửa hận.
    Holmann cười như điên dại:
    - Thật không? Ta có thể tin vào điều mi nói chớ?
    - Vậy nghĩa là sao hả?
    - Ý mày định nói mày đã xông vào trang trại kiêm cơ sở chữa bịnh của thằng cháu ta đấy à? Thì mày cứ việc ăn tươi nuốt sống nó. Ta chẳng bao giờ ưa cái thằng ngoan cố, bất trị và kiêu ngạo đó.
    - Mày… mày lập lại coi?
    - Tóm tắt thế này, ta thù thằng Andreas, mày rõ chưa, thằng ngu. Nó là một đứa hư đốn ngay từ hồi nhỏ. Đã bao nhiêu lần nó đái vào giày của ta. Chưa kể nó còn xéo nát hết hoa cỏ trong vườn. Lớn lên một chút thì nó lại xì bánh xe hơi của ta. Cái thằng Andreas láu cá láu tôm. Giữa mùa đông rét căm căm, nó dắt một lũ bạn bè mất dạy mang ủng vào trước cửa phòng khám của ta và giậm thình thịch cho ủng chảy nước tung toé. Đã hết đâu, bọn chúng còn vun tuyết thành đống cao gần mái nhà rồi tưới nước vô khiến nguyên một núi băng đó án ngữ ngay cửa ra vào. Các bịnh nhân của ta phải đi cửa ngách để thoát nạn. Cảm ơn mày đã tóm cổ thằng Andreas. Mày hãy thủ tiêu nó giùm ta.
    Tarzan, Karl và Gaby sững sờ. Ông già điên rồi chăng? Tuy rằng cả bọn đã biết về quan hệ căng thẳng giữa hai bác cháu nhưng không ngờ ông Holmann lại phản ứng đầy thù hằn và điên rồ như vậy. Tarzan nghĩ thầm, hay ông già xí gạt thằng kia? Bà Pauline tủm tỉm, bà đã biết cái mẹo của ông.
    - Mày đang lừa tao để cứu mạng thằng cháu hả tên lang băm? Hay là mày thích tao giết mày hơn. Thôi vậy, tao sẽ tính một trong hai đứa mày…
    - Vậy hả? Mày có ngon thì hạ ta đi. Dù sao thằng cháu ta vẫn còn trẻ, còn ta già rồi. Ta bây giờ là một tên vô tích sự.
    - Một trong hai đứa sẽ tử. Nhớ đó.
    Tên côn đồ cúp máy cái rụp. Giọng ông Holmann tỉnh bơ:
    - Các cháu thấy ta xử sự có được không?
    Gaby mấp máy môi:
    - Bác làm cháu sợ quá. Người ta có thể cho rằng bác muốn điều xấu xảy ra cho Andreas.
    Tròn Vo có vẻ lo âu:
    - Hy vọng là thằng cha “Grobki” gì đó không biết dượng còn một người cháu nữa. Không thì nguy cho tính mạng của cháu.
    Tarzan dứt khoát:
    - Cháu thấy không thể đùa được, bác Holmann. Chúng ta phải báo động cho Andreas biết để anh ấy đề phòng tên tội phạm xâm nhập.
    Ông Holmann đẩy điện thoại về phía Tarzan.
    - Cháu gọi cho nó đi.
    Ông Holmann đọc số cho hắn quay máy. Không có người trả lời.
    - Kỳ nhỉ. Không có ai ở nhà.
    - Vậy là chúng ta lên đường là vừa. Ta sẽ vào bịnh viện, à mà khoan, sẽ ghé cơ sở điều trị để báo tin dữ cho Andreas trước đã.
    Tarzan lao thốc vào buồng tắm dội nước. Sáu phút sau, hắn đã có mặt trên chiếc ôtô cổ lỗ sĩ. Giọng ông Holmann oang oang:
    - Đừng chê mấy chiếc xe hơi của ta xưa nghe. Ta đã hiện đại hoá chúng bằng tốc độ 170 cây số một giờ đấy.
    *
    Grobalki bỏ ống nghe xuống cười khoái trá. Y hất hàm với bác sĩ Andreas:
    - Mày nghe thấy tất cả rồi chớ? Lão bác xúi tao xơi tái mày đó.
    - Tôi không ngạc nhiên chút nào cả. Ông mà giết tôi là làm vừa lòng ông ta. Tôi quá rành lão già bị chập mạch ấy. Ổng thương tôi như người ở vậy. Nhưng cũng phải nói thực, ông Holmann là một bác sĩ rất có trách nhiệm. Tôi không thể tin rằng có điện cấp cứu của bịnh nhân gọi mà ông ấy lại không tới.
    - Nhưng đó lại là sự thật
    - Hay bà cụ mẹ bạn gái ông nhầm?
    - Không, không bao giờ.
    Grobalki thở dài. Y không hiểu có nên giết tên Holmann “nhí” này không nữa. Andreas hỏi:
    - Bây giờ ông định làm gì?
    - Mày có vợ con gì chưa?
    - Chưa, tôi sống độc thân.
    Andreas im lặng. Bác Holmann tuyệt thật. Ông già đã đánh lừa gã bằng cách chế tạo mối tử thù giữa hai bác cháu. Trời hỡi, hai người có thể không đồng sở thích với nhau chớ làm gì mà coi nhau như kẻ thù. Họ hàng chỉ còn có hai người thuộc tộc Holmann còn sót lại thương nhau không hết, nói chi là xích mích.
    Mà xích mích vì cái gì cơ chứ. Hồi đó ông già đòi giá cho thuê là 3.000 schilling (tương đương với 430 mark) nhưng Andreas cứ nằng nặc đòi trả 12.000 schilling. Từ ba năm trước, cứ tháng tháng Andreas lại chuyển vào tài khoản của ông bác 12.000 schilling, và ngay ngày hôm sau ông bác chuyển ra 9.000 vào tài khoản của anh. Việc này cứ diễn lại và trở thành đề tài đàm tiếu của đám nhân viên nhà băng. Sau năm sáu lần cò cưa, anh cháu đành chịu thua và phải lập một tài khoản riêng, chuyển vào đó số tiền chênh lệch 9.000 schilling để dành giao cho bác Holmann sau này. Số tiền dư ấy tính đến bây giờ có lẽ cũng bộn bạc.
    Giọng Grobalki cất lên đánh thức cơn mơ quá khứ của Andreas.
    - Thôi được; cho tới lúc tao trả được mối thù thì mày phải bị trói và nhốt ở dưới tầng hầm. - Gã ngừng lại rồi hỏi với vẻ khắc khoải: - Tao nhốt mày dưới đó có ai mở cửa không vậy?
    - Chắc là không. Bạn gái tôi không có nhà, bệnh nhân cần cấp cứu thì đã có bệnh viện.
    - Phúc tổ là tao tha chết cho mày đấy.
    - Tôi vô cùng sung sướng. Tôi yêu cuộc sống của mình. Giá như ông già thương yêu tôi, hẳn ông đã giết tôi để làm khổ ông ấy.
    - Mày nói đúng. Tao đau khổ vì cái chết của người yêu tao nên tao cũng thích làm bác mày bị đau khổ ngang ngửa bởi nỗi buồn chết vợ. Xúi quẩy cho tao là vợ lão lìa đời nhanh quá. Tao đành phải tìm một biện pháp khác. Thôi, tao đoán thế nào lão già cũng phải có bạn chứ, chắc mày cũng không biết phải không?
    Andreas nói ngay:
    - Nè, lão già khó tính đó không có ai chịu làm bạn đâu. Ông ấy chẳng gần gũi một ai.
    Trời ạ, chỉ cần gã hỏi bất kỳ ai bắt gặp trên đường là bà Pauline khó toàn mạng. Cả vùng này ai lại chẳng biết bà Pauline với ông Holmann rất gắn bó với nhau chứ?
    Grobalki gí súng vào gáy Andreas và tống anh xuống tầng hầm. Cả căn hầm chỉ có một cửa sổ bé tí, Andreas ngồi trên một thùng gỗ, ngoài chân tay bị trói như bó giò còn bị băng dính bịt ngang miệng. Gã đi ra ngoài đóng sầm cửa lại. Andreas tuyệt vọng nghe tiếng chìa khoá tra vào ổ lách cách.
    Grobalki lục lọi khắp phòng và thu được một mớ tiền mặt lẫn chiếc đồng hồ vàng loại xịn. Tên
    cựu tù từ từ đẩy cửa. Đúng lúc đó tự nhiên tiếng động cơ ô tô rên lên và một cô gái phóng xuống. Grobalki thất kinh đóng cửa nhẹ nhàng. Chưa đầy ba giây, gã đã nghe tiếng chuông reo.
    Cút mẹ mày đi, hôm nay là ngày nghỉ, gã thầm rủa. Grobalki nghe tiếng chuông bấm từng đợt muốn điếc ráy nhưng kiên trì chịu trận. Lúc này tiếng động cơ xe hơi lại rền vang rồi nhỏ dần. Gã nhẹ người. Làm sao gã biết được cô gái vừa rồi không phải là bịnh nhân mà chính là người yêu của Andreas.
    *
    Grobalki đi thẳng về nhà mụ Alma chớ không ghé nghĩa trang. Giờ này không thể đào kho báu lên được.
    Vừa đặt chân đến cửa nhà, gã đã cảm thấy một mùi gì không bình thường, thứ mùi mốc mốc đắng đắng: Phải rồi, mùi nhà tù đố lẫn vào đâu. Quả nhiên, từ trong buồng ngù cùa mụ Alma bước ra là thằng Otvan Klinkfinger có biệt danh Móng Vuốt, Grobalki làm bộ mừng rỡ.
    - Trời đất. Mày về hồi nào vậy. Tao cứ ngỡ phải đến tối mịt.
    - 6 giờ sáng tụi giám thị nhả tao ra là tao đua lên tàu ngay.
    Hai thằng ôm nhau, vỗ vai bồm bộp. Otvan có cái đầu cá trê quái đản. Đầu thì dẹp lép nhưng cái cổ lại to bè dính liền làm một khối thành thử mới nhìn ai cũng tưởng khuôn mặt gã hình vuông. Gã còn có cặp môi dày với cái nhìn lạnh lẽo nặng nề. Trông có vẻ ngốc, nhưng thực ra gã là đứa khôn ngoan và láu cá. Gã ngó thằng bạn tù ra trước mấy ngày.
    - Bà già tao nói mày gõ cửa hôm qua.
    - Ừ, tao bận du hí ở Viên nên hôm qua mới ghé nhà mày.
    Hai thằng lưu manh lôi nhau vô cái được gọi là… phòng khách. Trên bàn có sẵn một chai Whisky đã gần cạn. Grobalki nhấp một chút rượu mạnh.
    - Otvan này, mai tao vù.
    - Giỡn hoài. Tao cứ nghĩ rằng tụi mình lập băng làm ăn chớ.
    - Đúng. Trước kia tao đã tính như vậy.
    - Còn bây giờ?
    - Có chuyện không ổn đã xảy ra. Một thằng bác sĩ trẻ ở đây biết mặt tao nên tao không nỡ để mày bị liên luỵ. Chậm lắm là sáng thứ hai người ta sẽ biết nó mất tích và sẽ tìm thấy nó dưới tầng hầm. Tao để sẵn chìa trên ổ cho nó khỏi chết. Chắc chắn nó sẽ mô tả về tao với bọn cớm và… tao phải vù khỏi đây thôi. Tao sẽ hạ cánh ở Úc chẳng hạn.
    - Tao chẳng hiểu mày đang lải nhải cái gì.
    - Mày quên chuyện Veronica tao đã kể với mày trong tù rồi ư?
    - Quên sao được. Con bồ mày bị chết bịnh chớ gì.
    - Đáng ra cô ấy không bị chết, vì thế tao phải trả thù.
    Grobalki làm một hơi về kế hoạch trả thù của gã cho Otvan nghe. Mặt tên này cứ ngớ ra.
    - Tao không ngờ mày “thâm” thiệt. Chuyện năm năm trước xa lơ xa lắc mà vẫn ghim trong bụng đến giờ.
    - Hừ, không bao giờ tao quên đâu. Veronica mất đúng vào ngày 17 tháng 7 cách đây 5 năm.
    Lỗ tai Otvan đột nhiên lùng bùng. Mắt gã nháy lia lịa, môi dưới của gã trề ra.
    - Có phải đêm… 17 tháng 7… lão bác sĩ Holmann say quắc cần câu… và vì thế Veronica của mày… đứt bóng… không?
    - Ờ, ờ. Sao mày tự động run kỳ cục vậy hả? Bộ câu chuyện buồn cùa đời tao có liên quan gì đến mày à?
    Otvan lằng lặng dốc hết những giọt rượu cuối cùng trong chai Whisky vào mồm. Giọng của gã lạ hoắc:
    - Kinh dị thật. Tao chằng thể nào dè cuộc đời lại kỳ cục đến thế. Mọi sự hoàn toàn ngẫu nhiên như có bàn tay ma quỷ sắp đặt trước.
    Mụ Alma đã bước vào với một cái khay đầy thức ăn nghi ngút, Otvan sấn sổ ăn. Grobalki ngồi yên. Cho đến lúc mụ già vào bếp, Grobalki mới cất giọng:
    - Cho tao mượn chiếc môtô của mày một chút được không Otvan?
    - Mày mang nó sang Úc hả?
    - Không. Tao sẽ xài ở đây. Tao sẽ dùng nó bám con mồi già Holmann. Một thời điểm nào đó thế nào lão cũng phải rời khỏi trang trại chứ. Đợi khi lão rời khỏi nhà, tao sẽ “nhập nha” và giăng bẫy khiến lão đi đời. Mọi người sẽ tưởng đó là một tai nạn xui xẻo. Hà hà, đến khi bọn cớm truy tầm ra hung thủ thực sự thì tao đã bốc hơi qua Úc đời kiếp nào rồi.
    - Đồng ý.
    Otvan phán gút gọn và chẳng cần tò mò về kiểu giăng bẫy của thằng bạn ác ôn. Chính gã còn đang run sợ vì cái ngày 17 tháng 7 năm xưa. Luật ngẫu nhiên thật tàn bạo.
    Grobalki thầm nghĩ, mày đừng động đến kho báu vội, Otvan. Hãy chờ cho đến khi tao đi khỏi đây đã, sau đó mày hãy dùng tới móng vuốt của mày. Nhưng con ơi, đến lúc đó thì cái kho báu của mày dưới mộ lão Flappe đã bị rỗng tuếch rồi.
    *
    “Một trong hai tên chúng mày phải chết”. Lời đe doạ của tên côn đồ ẩn mặt cứ lảng vảng trong chiếc xe hơi cổ lỗ sĩ của ông Holmann khiến cho chuyến đi của mọi người mất vui. Tarzan nói:
    - Đáng lẽ chúng ta nên báo việc này cho thanh tra Wondrascheck.
    Holmann tỏ vẻ không hài lòng. Gaby nói:
    - Cháu có ý kiến thế này. Giả sử tên đe doạ ám sát bác là gã đàn ông tóc rẽ ngôi giữa ngồi ở quán TRÁI NHO và cùng đi chuyến tàu tốc hành với tụi cháu như Tarzan đã khẳng định thì… điều đang ngạc nhiên là, gã định trả thù cho người tình về một việc bác Holmann không hề biết. Và tại sao gã lại hành hung ông Chateaufort?
    Karl phát biểu:
    - Nói chung, chuyện này vẫn còn thiếu một vài chi tiết nào nữa nên chưa có được bức tranh chung.
    Ông Holmann lúc lắc đầu:
    - Trong cuộc đời thầy thuốc của mình, ta chưa lần nào bê trễ nghĩa vụ cho dù trời rét đến 40 độ âm hoặc các ngày nghỉ lễ. Ta có thể nóng nảy nhưng việc cứu người chưa bao giờ ta quay lưng.
    Tarzan nói:
    - Coi như chúng ta tạm có một bảng thống kê về gã tên là “Grobki” đi. Rằng trước kia gã từng sống ở đây và có một người tình. Sau đó gã cướp ngân hàng và bị ông Chateaufort phát hiện phải vào tù. Ra tù gã có âm mưu trả thù tất cả. Bác Holmann nằm trong danh sách những kẻ mà gã cần rửa hận.
    Xe đã tới Fasslift, diễu hành qua sự trầm trồ của mọi người trước kiểu dáng xưa như trái đất. Bác sĩ Holmann đánh tay lái và thắng két trước phòng khám của Holmann nhỏ, tức Andreas. Ông thấy một cô gái đứng gần ngưỡng cửa.
    - Cô Tanja Reutho, bạn gái của Andreas đó các cháu. Con bé rất ngoan.
    Tanja chừng 20 tuổi có khôn mặt trái xoan xinh xắn và mái tóc nâu. Cô gật đầu chào khi mọi
    người trên xe lục tục bước xuống, trừ ông bác sĩ già vẫn ngồi lại trên xe. Giọng nói cô lo lắng:
    - Chào bác Pauline và các em, tôi chờ ở đây cả tiếng đồng hồ mà không thấy anh Andreas đâu hết. Anh ấy chưa bao giờ thất hẹn với tôi như vậy.
    Bà Pauline giới thiệu Tứ quái với Tanja rồi nhíu mày:
    - Cháu không giữ chìa khoá mở cửa à?
    - Ôi, tối qua cháu đã bỏ quên túi xách đựng chìa khoá ở bên trong nhà anh ấy rồi.
    Tarzan giải thích:
    - Andreas có thể bị nguy hiểm vì một tên tội phạm đang lẩn khuất trong thị xã đe doạ giết một trong hai người: ông bác sĩ già Holmann và anh bác sĩ trẻ Holmann. Mọi người đợi ở đây, chờ tôi đảo một vòng quanh nhà đã.
    Tanja mặt tái mét, cô sợ hãi nhìn mọi người.
    Tarzan đi ra sau nhà, hắn khám phá một cửa sổ ban công để hở ở nhà sau. Tarzan đột nhập vào trong phòng chẳng khó khăn chút nào. Sau ba phút tìm kiếm khắp căn nhà, Tarzan lần ra dấu vết xuống tầng hầm. May phước, cái chìa vẫn còn tòn teng nơi ổ khoá. Hắn mở cửa và nhìn thấy Andreas. Hắn reo lên:
    - Anh Andreas, tụi này đi tìm anh mãi.
    Tarzan gỡ xong băng dính quanh mồm và cắt dây trói cho Andreas, chàng bác sĩ đã mở miệng liền:
    - Thằng khốn có súng. Anh không biết nó tên gì. Nó định giết bác Holmann.
    - Anh thấy gã thế nào?
    Andreas làm một màn mô tả cụt ngủn nhưng cũng đủ cho mắt Tarzan sáng lên:
    - Đúng gã rồi, tụi em đã gặp trong quán TRÁI NHO.
    Andreas mở cửa, Tanja ôm choàng lấy cổ anh sung sướng ra mặt. Ông Holmann cũng hồi hộp bước xuống xe.
    - Bác… bác rất mừng… là cháu không việc gì…
    - Suýt chết đó, dượng ạ. Cực kỳ cám ơn dượng đã chửi cháu như chó. Dượng không chửi là thằng điên đã giết cháu rồi.
    - Chửi cháu thì dễ lắm. Dượng vẫn không quên cái tội cháu đái vào giày của dượng.
    Cả đám cười rần. Tarzan đề nghị:
    - Bây giờ chúng ta phải phân công công việc: thăm ông Chateaufort ở bịnh viện, rồi thông báo cho thanh tra cành sát, rồi tìm chị Susi để lục lọi các tờ báo cũ truy tung tích của tên gọi là “Grobki”. Và còn phải đến quán TRÁI NHO để hỏi dò ông chủ về tên thuộc “thế giới ngầm” mát thần kinh ấy nữa. Các bạn làm dược chớ gì?
    Gaby thắc mắc:
    - Vậy đại ca làm gì?
    - Mình sẽ mượn chiếc xe đua của anh Andreas dạo một vòng quanh thị trấn.
    Trước cặp mắt ngạc nhiên của bốn vị người lớn, Gaby nhẹ nhàng giải thích:
    - Tarzan là vậy đó. Bí mật quân sự của TKKG mà.
    Tarzan bắt đầu gò cổ phóng. Hắn đã tự đặt mình vào trường hợp tên sát nhân và tự hiểu rằng để rửa hận thì tên giết người chẳng còn cách nào hơn là phải đột nhập vào tư gia kẻ thù.
    Cách đích chừng một cây số, Tarzan xuống xe và giấu vào bụi rậm ven lộ. Từ chỗ nay hắn băng đường tắt qua ruộng. Kinh nghiệm trinh sát đã đưa đến kết quả tốt: trước mặt hắn là một chiếc môtô, động cơ vẫn còn nóng được dựng gần trang trại ông Holmann.
    Tarzan nhảy bổ về phía đống củi chất cao cách cửa ra vào chứng năm mét. Cửa mở he hé chứng tỏ tên điên “Grobki” đã có mặt trong nhà. Mày định làm gì khi trong nhà không có ai?
    Tarzan rón rén tới cừa sổ và giật mình lúc nhìn vào. Trời ạ, tên khốn kiếp đang quỳ gối trước cái bếp ga. Gã lấy tuốc nơ vít trong hộp đồ nghề của gia chủ để nới lỏng joăng trong ống dẫn ga. Mũi Tarzan đã ngửi thấy mùi ga đang bay khắp căn phòng. Thật không tưởng tượng nổi! Gã đánh bẫy bằng ga! Khi ông Holmann về thì chỉ cần một tia lửa nhỏ, cũng đủ để toàn bộ ngôi nhà nổ tung.
    Tarzan nép người bên góc cửa. Sau vài phút tên gian đi ra. Ngay lập tức Tarzan xoay người rồi nói:
    - A, ông thợ chữa ống ga!
    Hắn tung một ngọn cước vào tên đột nhập không một chút thương xót. Khẩu súng trên tay tên gian tế văng ra và… gã ngã ngửa xuống đất như một trái mít rụng. Nhanh như cắt, Tarzan thu hồi con chó lửa và cái bóp của tên hung thủ rồi mở toang các cửa sổ cho ga thoát ra ngoài, sau đó hắn vặn chặt đường ống dẫn hơi đốt.
    Tarzan đọc giấy tờ tuỳ thân để trong bóp gã. Tên gian cũng đã tỉnh lại, đờ đẫn tựa người vô tường.
    - Thì ra tên thật cùa mày là Grobalki. Mày vừa chân ướt chân ráo ra khỏi nhà tù đã lại phạm tội ác. Nếu tao không phát hiện vụ ga đốt này thì chắc chắn sáu mạng người đã chết vì mày. Tại sao mày mọi rợ đến thế hả? Mày đã đập ông Chateaufort trên tàu phải không?
    - Biết rồi còn hỏi làm gì?
    - Tao nhận ra giọng nói trong điện thoại của mày. Sao mày lại buộc cho ông Holmann tội làm bạn gái mày bị chết?
    - Đó là sự thật.
    - Mày cụ thể ngày giờ thử coi?
    - Đó là đêm 17 tháng 7.
    - Ôi, té ra là vậy! Rõ cả rồi. - Tarzan nói rành rọt: - Đêm 17 tháng 7 là đêm hội của thị trấn Fasslift. Ông Holmannn cũng như mọi người trong làng đều đi dự lễ hết. Đêm hôm đó trang trại của ông Holmann và trang trại của bà Pauline bị kẻ gian đột nhập. Tên đạo chích đã ẵm kho báu tại nhà bà Pauline tới một triệu mark và sau đó nó mò qua nhà bác sĩ Holmann, cách đó hai cây số. Lúc bà mẹ người yêu mày phôn điện thoại mời bác sĩ Holmann cấp cứu thì cũng là lúc tên trộm giả dạng ông bác sĩ trả lời trong máy. Tao nghĩ rằng nó định đùa chơi để lấy le ai dè thiệt hại một mạng người.
    Grobalki mặt méo xệch, gã gầm lên:
    - Thằng Otvan. Trời ơi, thằng khốn nạn. Hèn chi nó biến sắc khi tao kể chuyện này. Chỉ có nó mới lè nhè say rượu trong ống nói như vậy. Khốn nạn. Nó đã vớ được đống châu báu đó… rồi uống rượu ở đây và… đùa giỡn với mạng sống của Veronica.
    - Có phải Otvan Flinkfinger không? Bữa nay nó được ra tù mà. Chính nó đã lấy trộm sao? Grobalki, mày không còn hy vọng gì nữa đâu. Hay mày tưởng sẽ vớ được đống của cải đó? Mày phạm quá nhiều sai lầm, Grobalki ạ. Thằng ác ôn giết bồ mày thì cứ nhơn nhởn trong khi mày lăm le tiêu diệt người vô tội. Nào, nói ra đi. Đống châu báu ở đâu? Mày có biết không?
    Mặt Grobalki trắng bệch, gã nghiến răng kèn kẹt, hai bàn tay nắm chặt như muốn ăn tươi nuốt sống Otvan. Gã rít lên:
    - Nó giấu những thứ đó trong ngôi mộ của lão đồ tể Bladua Flappe
    *
    Khi Tarzan gọi điện đến văn phòng ông thanh tra cũng là lúc bà Pauline, Andreas, Tròn Vo, Gaby, Karl đang tụ tập trong phòng ông ta. Hắn không có thì giờ kể lể dài dòng, chỉ vắn tắt về số phận tên Grobalki và địa điểm chôn giấu kho báu. Hắn nói thêm:
    - Grobalki đã thú nhận y chính là hung thủ trên con tàu tốc hành Alpen.
    Ông Wondrascheck líu lưỡi:
    - Cháu… cháu đang ở đâu hả Tarzan? Ta… ta sẽ đến ngay.
    *
    Tứ quái quyết định ở lại nhà ông Holmann và bà Pauline cho tới hết ngày thứ tư. Bà Pauline muốn thưởng công thật hậu cho Tarzan và các bạn vì đã tìm lại được cho bà những đồ trang sức quý giá. Cả bọn không nhận mà chỉ đòi phải tổ chức một buổi liên hoan linh đình tại nhà ông Holmann nhưng người đứng ra mời khách là Tứ quái chứ không phải ông bác sĩ già bẳn tính.
    Chị Susi đã đến và được ông Holmann tiếp đón niềm nở, ông không thấy cánh nhà báo là đáng ghét nữa. Andreas và bạn gái Tanja của anh hớn hở chào hỏi ông Holmann như là họ chưa bao giờ có va chạm. Ông thanh tra Wondrascheck cũng có mặt. Lúc đã cạn ly thứ ba, ông đề nghị kết nghĩa anh em với ông già Holmann.
    Khi chia tay nhóm Tứ quái trên sân ga, mọi người ôm hôn, bắt tay nhau quyến luyến không muốn rời nhau. Bà Pauline tặng cho Gaby một sợi dây chuyền vàng có mặt ngọc cực đẹp còn dượng Holmann cũng ôm chặt cậu cháu Tròn Vo không biết bao nhiêu lần. Tròn Vo ngồi vào chỗ của mình, nó để sẵn phong sôcôla lên mặt bàn rồi đủng đỉnh nói:
    - Chuyến đi hay thiệt nhưng cuối cùng tao vẫn không biết được là dượng Holmann có chọn tao là người thừa kế hay không. Tao nghĩ là bác ấy nên để lại tất cả cho anh Andreas và Tanja. Tao chỉ cần mỗi sôcôla thôi mà.
    Gaby cười:
    - Mọi chuyện sẽ rõ ràng khi bọn mình được mời tới dự đám cưới của ông Holmann và bà Pauline.
    #47
      Thay đổi trang: << < 4 | Trang 4 của 4 trang, bài viết từ 46 đến 47 trên tổng số 47 bài trong đề mục
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9