HỒI KÝ của một THẰNG HÈN - Nhạc sĩ TÔ HẢI
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 20 trên tổng số 20 bài trong đề mục
lyenson 30.06.2009 11:24:57 (permalink)
MẤY ĐOẠN VIẾT THÊM:
VÌ SAO TÔI VÀO ĐẢNG?
VÌ SAO TÔI CHUỒN KHỎI ĐẢNG?

Lớp trẻ có chút học hành chúng tôi ít nhiều đều chịu ảnh hưởng cuộc Cách Mạng Pháp 1789, nhờ sách báo Pháp mà giác ngộ ba chữ Liberté, Égalité Fraternité – Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ái. Tiếc thay, chúng không dành cho dân Anamít mình!

Sự thật phũ phàng là không chỉ dân nhà quê, răng đen, đóng khố phải đói khổ, sống như trâu ngựa, mà chính chúng tôi cũng thấy thân phận nô lệ của người Việt ngay trên ghế học đường, trên phố xá. Thành thử trong những ngày sôi động Tháng Tám 1945, ai ai cũng sẵn sàng theo ... bất cứ ai đứng ra phất cờ giành Độc Lập, Tự Do, giành cơm no, áo ấm cho 20 triệu đồng bào đang... “rên xiết lầm than” như lời ca bài Diệt Phát Xít của Nguyễn Đình Thi.

Chúng tôi sướng như điên khi thấy Nhật bắt hàng loạt tây, đầm lóc nhóc đi chân đất vào trại giam trong ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945. Chúng tôi hô đến vỡ giọng, đến khan tiếng khẩu hiệu “Việt Nam Độc Lập muôn năm!” “Đại Đông Á muôn năm!” Hàng vạn thanh niên tay cầm cờ quẻ ly miệng hát vang “Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng”... Sự thật là chúng tôi gần như sống trên mây, trên gió cả 5, 6 tháng trời trong “độc lập tự do” vu vơ mà chẳng cần biết ai là người đứng đầu cái đất nước đang chết đói này? Tôi đã đứng trong hàng ngũ Thanh Niên Khất Thực đi xin cơm từng nhà để cứu đói, ra quân sau khi hát vang quốc ca “Này thanh niên ơi!...” được chính khâm sai đại thần Phan Kế Toại bắt nhịp! Ở miền Trung, nghe nói Bảo Đại trở lại làm vua...Những chuyện chính trị chính chiếc nghe cứ ù ù cạc cạc. Thôi, cứ đuổi cổ thằng Tây đi đã, rồi chế độ gì cũng được, miễn người Việt dạy dỗ, bảo ban nhau là tốt rồi!

Trong khi đó, người Nhật càng ngày càng lộ bộ mặt tàn ác hơn Tây thực dân bằng những hành động cướp của giết người dã man khắp nơi. Dân quê đổ ra tỉnh nằm chết đầy đường. “Chính phủ lâm thời” hoàn toàn bất lực.

Nghe nói nhiều nơi ở nông thôn dân chúng nổi dậy phá kho thóc, cướp chính quyền...Cũng lại “nghe nói” ở Vĩnh Yên, Quốc Dân Đảng đã lập chiến khu đánh cả Nhật lẫn Pháp. Nổi trội lên là một tổ chức có tên Việt Minh được Đồng Minh giúp vũ khí tiền bạc để chống phát xít Nhật...

Rồi hai trái bom nguyên tử rơi xuống đất Nhật và Nhật đầu hàng vô điều kiện. Chính phủ Trần Trọng Kim với các tên tuổi nổi danh ra mắt và Bảo Đại tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật. Không còn các sĩ quan Nhật lê thanh kiếm dài sát đất đi khắp nơi, chém chẻ tre bất cứ ai. Không còn ông toàn quyền, thống sứ, không còn lính Tây, chủ Tây! Lũ chúng tôi ùa ra đường tay cầm cờ quẻ ly, miệng hát “Xứng danh nòi giống Tiên Rồng”!

Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, ([1]) đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng...Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh như thế đó!

Sau này, loại thanh niên “yêu nước hồn nhiên” bọn tôi đâu có dám lên tiếng khi nghe người ta tự tâng bốc kể công với lịch sử rằng: “Đảng đã lãnh đạo toàn dân nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật dành tự do, độc lập cho đất nước!”

Và các nhà viết sử nhà nước cộng sản cũng lờ tịt luôn cái chuyện Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim — Không khác vụ lật đổ chính phủ Kerensky ở nước Nga trong lúc nội tình nước này đang bối rối. Thực tế lúc ấy là Việt Minh đã xuất hiện như tổ chức duy nhất, chỗ dựa duy nhất, lá cờ duy nhất, để lũ thanh niên “yêu nước ngơ ngác” chúng tôi đi theo. Chúng tôi có biết gì đến cái đảng cộng sản cộng xiếc, nhất là ông Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau đó còn công khai tuyên bố GIẢI TÁN ĐẢNG của ông ta trước thế giới và đồng bào cả nước! Trong chính phủ có đầy đủ các vị Huỳnh Thúc Kháng ([2]), Phan Kế Toại, Nguyễn Hải Thần ([3]), Nguyễn Tường Tam ([4]), Vũ Hồng Khanh ([5])... và cả “cố vấn” Bảo Đại nữa.

“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây!

Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây!

Tại sao Việt Nam không độc lập như Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Thái Lan, Phi Luật Tân...mà phải qua 30 năm chém giết kẻ thù thì ít...mà chém giết nhau thì nhiều?

Chính lòng yêu nước mù quáng đã biến lũ trẻ thời ấy thành “đồ hèn” suốt nửa thế kỷ, nghĩa là hết cuộc đời... vì khi hát lên câu “Đoàn giải phóng quân một lần ra đi”.. chúng tôi chỉ vừa tròn 18 tuổi, hoàn toàn ngây thơ trước thời cuộc, sẵn sàng làm “hạt nổ” cho bất cứ quả bom nào miễn là giật tung được cái chế độ nô lệ kéo dài 80 năm của thực dân Pháp! Cứ thế, chúng tôi “lạnh lùng vung gươm ra sa trường” như câu hát của Văn Cao. Tôi viết những dòng này trong mối thương tiếc vô hạn bạn bè đã ngã xuống không ai biết, không ai nhắc tới…trong cuộc lừa đảo vĩ đại mà không phải ai cũng nhận ra, lúc ấy.

Trường đoạn 1: Tôi đi Vệ Quốc đoàn

Chẳng ai trong chúng tôi học qua trường quân sự nào, vậy mà vừa vào bộ đội, tôi đã được hơn một trăm “đồng chí” của đại đội 1 tiểu đoàn Thái Bình giơ tay bầu làm phân đội trưởng! Đó là một đơn vị thành lập tháng 9-1945 gồm đa số nông dân, 99% mù chữ, 30% răng đen, lần đầu trong đời có hai bộ quần áo màu nâu đỏ, được ăn hai bữa tạm no, nhờ “may mắn” đứng trong đoàn quân vũ trang “cách mạng”. Anh em bầu tôi vì thấy tôi mặt mũi sáng sủa, ăn nói lưu loát, nhất là biết đọc những gì mà đại đội trưởng Thu và tiểu đoàn trưởng Nam (Voi) ra lệnh bằng chữ viết — có khi nguệch ngoạc ngay trên vỏ bao thuốc lá Philipps Morris, Mélia.

Bài học quân sự đầu tiên mà tôi huấn luyện cho lính của tôi, là...“Tập hợp! Đằng trước... thẳng! Đi đều... bước”! Tôi đi ở ngoài hàng, đếm “Một, hai... một, hai... một!”

Vũ khí thì cả đại đội được trang bị 4 khẩu Rebel, 2 khẩu Sten, hơn chục khẩu Mousqueton...,vài chục lựu đạn ... khói! Còn lại là gậy gộc, mã tấu. Vậy mà chúng tôi “vui như mở hội” lao vào học tập những từ mới toanh trong đời như “phản đế”, “bài phong”, “tư bản”, “đế quốc”, “phát xít”... đặc biệt được kích động tối đa lòng căm thù giặc, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, sẵn sàng “da ngựa bọc thây lòng này vẫn vui” như lời ca của Hoàng Quý.

Những bài học quân sự đầu tiên đều do mấy ông cai, ông đội khố xanh, khố đỏ “giác ngộ cách mạng” chỉ dẫn. Từ cách tháo lắp súng đến cách nằm bắn, đứng bắn, quỳ bắn, rồi cả chiến thuật.., tóm lại tất cả những gì các vị này được quan Tây dạy thì dạy lại lũ chúng tôi. Chưa hết, do nhiều danh từ chưa có trong tiếng Việt nên các ông cứ “nổ” liên hồi bằng tiếng “Tây bồi” chẳng cần biết đám lính tráng nông dân mù chữ nghe các ông cứ ù ù cạc cạc... Điều này giải thích vì sao, một năm sau, vừa nổ súng đánh Tây mà các bạn tôi, những Phó Bá Hùng, Phan Năng, Lê Đăng, Lê Phú, Trần Kim... và nhiều nhiều nữa, những con người nhiệt tình yêu nước đã sớm ngã xuống như những “chiến sĩ không tên” vì chưa làm được gì để được gọi là... “anh hùng”! Đáng nhớ nhất trong ký ức tôi là cái chết của toàn bộ đoàn Tuyên Truyền Giải Phóng Quân Chiến Khu 3 (văn công quân đội ngày nay) tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng, cùng trung đội anh Nở, bảo vệ Nhà Hát Lớn trước sức tấn công của pháo binh, xe tăng có máy bay bà già chỉ điểm. Họ bị hy sinh không sót một người. Một trường đoạn cực kỳ bi hùng và đau xót của lớp trẻ yêu nước “ngây thơ ngơ ngác”, chẳng biết chủ nghĩa gì ngoài chuyện ghét Tây.

 Trường đoạn 2: Cuộc chiến không thấy kẻ thù

Sau cuộc thử lửa đầu tiên của tôi trên mặt trận Hải Phòng, cuộc chiến chống trả người Pháp gây hấn được tạm thời xếp lại do cuộc điều đình với phái đoàn Hoàng Hữu Nam. Tôi được điều về làm việc trong không khí hết sức phức tạp ở Phòng Quân Nhu Bộ Tư Lệnh 3, đóng trên đường Cát Dài. Tất cả đều đang chờ “cụ” Hồ đi thương lượng ở Fontainebleau về tương lai đất nước nên Tây và ta tạm thời chung sống hòa bình.

Tôi được giao nhiệm vụ đi làm việc với Tây vì biết tiếng Tây, tuy đúng hơn nên dùng cái từ “thông ngôn” (interprète), vì tôi chỉ dịch những gì mà các ông Sĩ, ông Quất, ông Tài phát biểu. Ngày ấy, ông nào cũng tự mua cho mình một cái lon nền đen có vạch kim tuyến trắng, lúc đeo lon trung tá, lúc đeo lon thiếu tá, tùy mức độ quan trọng của vấn đề cần bàn với người Pháp hoặc tùy đối tác thuộc cấp gì. Tôi cũng có hai cái lon, một thiếu úy, một trung úy. Không ai dám có sáng kiến đeo quân hàm cao hơn hai ông Hoàng Minh Thảo và Lê Quang Hòa lúc ấy chỉ gọi là... đại tá chứ chưa ông nào là tướng cả! Tôi thích thú công việc này vì đỡ phải lãnh trách nhiệm cầm quân đi đánh đấm, ít rủi ro mất mạng, và trên cả mong đợi là được mặc y như sĩ quan...Mỹ (!), được đeo kè kè bên hông, lủng lẳng trên chiếc thắt lưng Mỹ, khẩu Colt bạt, được cưỡi xe Zeep đi lại thành phố Hải Phòng đang âm ỉ cuộc chiến mà tôi cứ nghĩ sẽ không xảy ra nhờ tài chính trị khôn khéo của Nguyễn Ái Quốc vĩ đại!

Nhân dân Việt Nam sẽ được độc lập tự do, được đứng trong khối Liên Hiệp Pháp, được sự che chở của những người đã đập tan phát xít Đức để giành lại tự do cho nước Pháp mới. Tôi cùng một số bạn bè, kể cả vài sĩ quan Pháp mà tôi có dịp quen biết trong các vụ giao dịch, rủ nhau đi bát phố, đến nhà riêng của vài người, cùng nhau đàn hát các bài ca của Vincent Scotto, Văn Cao, Đặng Thế Phong... thậm chí đã hẹn nhau sẽ có ngày cùng đi thăm tháp Eiffel, bảo tàng Louvres, đi Moulin Rouge...

Một hôm, J. J. Aimovich, gốc Nam Tư, hẹn gặp tôi tại cửa Bar Dancing “Black Cat”, trên đường Cầu Đất. Anh nói trong ray rứt “C’est foutu! C’est foutu!”([6]) rồi kéo tôi vào bar, gọi hai chai bia. Aimovich uống và nói rất dài về cái mà sau này ông Sainteny ([7]) đã viết trong cuốn Histoire d’une Paix Manquée. Tóm lại, hòa bình vứt đi rồi! Họ —phía Pháp — không chịu dù ông Hồ nhượng bộ rất nhiều vì...họ cho là có nhiệm vụ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản chứ không chống dân tộc Việt Nam đòi độc lập tự do... “Việc ông Hồ của chúng mày giải tán đảng cộng sản là trò...lừa đảo!” (nguyên văn:“bluff”) nên chúng ta đành chia tay nhau thôi. C’est regrettable! Infiniment regrettable!- Thật đáng tiếc! Vô cùng đáng tiếc!”

Anh ta vội vã trở về vì có lệnh cấm trại từ 9 giờ tối hôm đó. Trên đường trở về Phòng Quân Nhu Bộ Tư Lệnh, tôi ghé qua đại đội 3 Lê Khắc Tư, thấy cảnh chuẩn bị chiến đấu đang diễn ra rất khẩn trương. Những bao cát chất đầy ngay cổng gác, những thùng đạn các cỡ đang được bật tung để phân phối cho từng khẩu đội, từng người.

Phòng Quân Nhu bắt đầu sơ tán kho tàng tài liệu ra khỏi thành phố. Toàn thể cán bộ, nhân viên theo lệnh của phó phòng Lê Văn đều nhanh chóng chuyển về Bộ Tư Lệnh ở Kiến An. Riêng ba chàng trai trẻ ưu tú nhất, mạnh khỏe nhất là Lê Kim Ưởng, Nguyễn Văn Đăng, Vương Đình Hoàng với tôi là bốn được giao nhiệm vụ ở lại chiến đấu bảo vệ cơ quan. Mỗi người được phát một khẩu thompson mua lại của chính lính Tây qua một trùm “bấu xấu” –– nay gọi là “cò” –– có tên là Đinh Đồng! Không một ai sợ hãi xin rút lui khi lần đầu được có trong tay một khẩu súng Mỹ hiện đại, sẵn sàng phục kích diệt quân thù sau những đống đồ đạc lỉnh kỉnh, sa lông, giường, tủ... làm chiến luỹ y như trong Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo! Vì tổ quốc Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng làm những Gavroche. Ngây thơ và trong sáng như thế đó! Nhưng, gần cả tuần chẳng thấy bóng thằng Tây nào xuất hiện ở đầu đường Cầu Đất - Cát Dài cũng như ngã tư Cát Cụt cả.

Trái lại, khi chiến sự diễn ra, quân Pháp cứ theo các toạ độ được tính sẵn trên bản đồ rót xuống các nơi có trại lính, cơ quan Việt Minh đủ loại ô-buy, moóc-chiê 75 ly, 105 ly để “hất” chúng tôi ra khỏi thành phố. Cũng may mà thời ấy, không lực Pháp gần như chưa hề tham chiến. Mãi vài năm sau mới thấy mấy cái Junker, Spitfire xuất hiện, nếu không, có lẽ tôi cũng chẳng còn ngồi để viết những dòng hồi ký chiến đấu ngây thơ ngớ ngẩn này.

Gần một tuần tránh đạn đại bác nhờ cái boong-ke ([8]) tạo bằng các kiện vải vóc, lương khô, sữa, đường, chocolat ... mà chúng tôi mới tiếp nhận của Việt Kiều (hầu hết là lính thợ ONS về nước trên một chuyến tàu thủy), gửi tặng Vệ Quốc Đoàn. Cứ mỗi anh một bunker, chén đồ Tây đến phát... táo bón! Chẳng ai ngó đến mấy chàng lính công tử chúng tôi. Chẳng có lệnh chiến đấu hay rút lui gì...

Đến một hôm, tiếng súng bỗng im bặt khá lâu. Trời có ánh trăng lưỡi liềm chiếu sáng lạnh lẽo. Tôi liều ra khỏi boong-ke, chui qua một loạt tường nhà đã được đục thông nhau suốt đường Cát Dài, mò đến đại đội bộ Lê Khắc Tư để nghe tin tức thì... chẳng thấy chiến luỹ, chẳng thấy khẩu 12ly7 đặt ngạo nghễ trên những bao cát trước cửa đại đội bộ nữa! Tất cả chỉ là cảnh ngổn ngang của một vụ oanh tạc mà chúng tôi từng chứng kiến ở Chợ hàng Da Hà Nội! Họ đã...rút lui để “bảo toàn lực lượng” mà quên béng mấy anh lính quân nhu chúng tôi.

Mấy thằng lính bị bỏ quên vội vã lên đường chỉ có bộ quần áo trên người và khẩu thompson trên vai. Bỏ lại tất cả kỷ niệm vui buồn của một năm làm lính trên đất Cảng, làm lính mà chưa hề bắn một viên đạn vào bất cứ ai, bất cứ cái gì. Sau này tôi mới hay các đơn vị chính quy được lệnh rút lui ngay ngày thứ hai khi địch xơi tái các đơn vị Vệ Quốc Đoàn ngây thơ đóng quân ngay những nơi mà chỉ cần nhìn bản đồ, một tên chỉ huy pháo binh hạng bét cũng thừa sức tiêu diệt!  Ở lại chiến đấu đến cùng chỉ là những đơn vị tự vệ khu 1,2,3...nổi bật có tự vệ khu 7, tự vệ An Đông. Họ tự túc từ khẩu súng đến bộ quân phục, đôi giày, cái mũ sắt hoàn toàn... America lấy từ kho quân nhu Pháp và chiến đấu như Jean Gabin của La Bandéra thời đó hoặc Tom Cruise của Le Dernier Samourai thời nay! Và họ đã ngã xuống, rất nhiều, rất nhiều... Những thanh niên hầu hết là tiểu tư sản thành thị, là bạn bè đồng học, đồng niên với tôi. Cái “số” đã bắt những Phó Bá Hùng, Nguyễn Sơn Lâm (con nhà tư sản nổi tiếng Nguyễn Sơn Hà)...phải chết sớm. Nhưng chết vì cái gì, vì quyền lợi của ai? Câu trả lời chỉ có với người còn sống sót qua các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản...mà gia đình, cha mẹ họ thành đối tượng tiêu diệt của cộng sản!

Trường đọan 3: Chọn con đường làm... tướng

Sau một đêm trắng bì bõm băng đồng, qua các con đường làng trơn trợt, thỉnh thoảng phải nằm ép xuống bùn để tránh những quả obus rực đỏ lừng lững đuổi theo, chúng tôi về tới doanh trại Bộ Tư Lệnh Chiến Khu 3 đóng tại trại Bảo An Binh, Kiến An. Các vị lãnh đạo như Hoàng Minh Thảo, Lê Quang Hòa, Vũ Hiển đều đã rút về nông thôn chuẩn bị chiến tranh nhân dân, chống Pháp trường kỳ! Còn lại một ông “to” nhất là ông chánh văn phòng có tên Quất. Ông này tuy ở quân đội, hét ra lửa, nhưng chưa bao giờ tôi thấy ông mặc quân phục. Quanh năm ông com-lê, ca-vát chỉnh tề, nước hoa thơm phức. Nghe nói ông từng làm tham tá cho Tây. Lần này cũng vậy, dù nước “sôi lửa bỏng” ông vẫn thư thái đàng hoàng, miệng phì phèo điếu Lucky, hai chân gác lên bàn, đốc thúc mọi người thu dọn hồ sơ tài liệu để về nơi đóng quân mới. Thấy ba thằng thanh niên, mặt mày ngơ ngác hỏi phải làm gì, ông gắt lớn “Muốn làm gì thì làm!” Rồi nhận ra tôi, cái thằng “thiếu úy” nói tiếng Tây từng cùng ông đi móc ngoặc bọn lính Tây ăn cắp súng, giao dịch đặt hàng nhiều đợt khá thành công ngày nào...ông đổi giọng: “Này! Hải, hoặc là về nhà tiếp tục đi học, lấy nốt cái bắc-ca-lô-rê-a (tú tài Tây) hoặc là về Khu, tớ sẽ cho đi học quân sự. Compris? (Hiểu chứ!)”...

Hai tên được đóng dấu cái cộp...về địa phương! Từ đó, tôi không gặp lại hai “lính công tử” giải ngũ khỏi Vệ Quốc Đoàn không giấy tờ quyết định gì! Còn tôi, đi theo ông Quất về An Lão vì không còn con đường nào khác khi bên tai tôi vẫn vang lên câu chửi của bố tôi bằng tiếng Pháp: “Đi theo Cộng Sản, lúc thua, đừng có vác xác về đây, tao tống cổ ra ngoài đường đấy!” Thật tình ngày ấy tôi vẫn cho là bố tôi vì đọc quá nhiều sách ba lăng nhăng –– tôi đã dùng chữ “hétéroclite” ([9]) làm ông nổi nóng ném cả một bình trà vào mặt tôi –– nên ông có định kiến với cái Đảng mà ông ghét cay ghét đắng, chứ bao lâu nay, tôi đi “lính cụ Hồ” có thấy anh cộng sản mặt mũi thế nào đâu? Cộng sản mà như ông Quất này thì... “chơi” được chứ! Và tôi tiếp tục lao theo con đường do ông Quất, chánh văn phòng Bộ Tư Lệnh vạch.

Nhưng than ôi! Chính những ngày sống ở ngay cái “đầu não của một khu” (sau trở thành Liên Khu), tôi đã thấy rõ tôi trở thành một thứ “xa xỉ phẩm” cho họ thế nào. Mọi công việc tham mưu, chính trị, quân nhu lúc ấy được chỉ thị tuyệt đối bí mật, tuyệt đối cảnh giác với Việt Gian. Tôi hết hồn khi chứng kiến các cảnh thủ tiêu (gọi là “cho đi tàu suốt”) bằng búa (để đỡ ồn ào, để tiết kiệm đạn) sau một cái lệnh ngắn gọn viết trên bao thuốc Lucky của ông Vũ Hiển, tham mưu trưởng gửi Hoàng Hữu Phấn, chánh án TAB, tòa án binh, do chính tay tôi chuyển... Tôi cũng vô tình nghe trộm được một cuộc họp chi bộ khi ngủ quên trong kho thóc nhà ông Phó Hữu và đã suýt... vãi đái vì thấy họ bàn bạc: “Quần chúng này cần “phát triển”, quần chúng kia cần theo dõi, tên này cần cho ra mặt trận đường 5, tên kia cho ra Tiên Yên, Ba Chẻ”...

May cho tôi, “đoàn thể” (lúc đó chưa dùng chữ đảng) quyết định trả về phòng Quân Nhu Tài Chính vì “cậu này” có thể bồi dưỡng làm cán bộ khung cho các đơn vị cần văn hóa!? Té ra họ vẫn có đảng cộng sản! Câu hỏi đầu tiên đặt ra với tôi là họ chỉ có một dúm người sao lại quyết định số phận, thậm chí cả tính mạng của bao con người?

Tôi càng nhìn rõ cái giá trị không... đáng tin cậy của tôi khi trở về đơn vị cũ là người ta không cần cái khả năng giao dịch với Tây của tôi, nhất là những người “Tây học” như tôi, chẳng hiểu sao, cứ dần dần, nhân lúc thời thế lộn xộn mà “biến” về mái nhà xưa hết! Cái đầu và trái tim tôi bắt đầu làm việc, không còn vô tư, thơ ngây nữa.

Tôi quyết định phải tìm cách thoát khỏi sự ràng buộc nguy hiểm này. Nhưng làm thế nào thì tôi chưa thể tính ra nên đành chấp nhận làm một công việc không tên, không dính dáng đến bí mật quân sự: Thường trực của phòng quân nhu tài chính! Công việc hàng ngày chỉ là...nằm khểnh ngay đầu xóm, nhận công văn và báo khách vào Bộ Tư Lệnh. Tối đến, tôi có nhiệm vụ trèo lên cái chòi đầu làng, dùng chiếc loa sắt cầm tay đọc tin “quân ta thắng lớn, thắng to khắp mọi nơi”, qua các bản in li-tô lèm nhèm, chẳng hiểu ở đâu cung cấp. Xen kẽ các đoạn tin, tôi cất cao giọng hát đủ thứ, từ Suối Mơ đến Bắc Sơn, từ Con Chim Lạc Đàn đến Ngựa Phi Đường Xa cho...cả làng nghe! Những lúc bí bài, nhờ năng khiếu trời cho và được học nhạc chút ít ở trường sơ, trường dòng, tôi “bịa” ra đủ thứ hành khúc, tình ca... về những mối tình câm thuở còn đi học và “bịa” ra những mối tình tôi chưa vướng bao giờ! Chẳng ai kiểm duyệt, chẳng ai xuất bản. Thế mà cũng khối bài được người này, người khác có dịp về Khu lãnh phiếu, lãnh đồ học được, mang đi xuất bản... bằng mồm và lan đi khá nhiều nơi, kể cả vào nội thành. Điển hình là ca khúc có phần hòa âm theo kiểu “cột đèn” mà tôi học thuở hát trong dàn đồng ca không nhạc đệm (a capella) của nhà thờ dưới sự dàn dựng và chỉ huy của cha Rangel.

Gần một năm được xếp làm công việc dành cho “phần tử không đáng tin cậy” này đã giúp tôi chuẩn bị rất sớm để rẽ sang con đường khác, con đường khốn nạn hơn, gian khổ hơn và dễ bị nghi ngờ, dễ bị...“tiêu” hơn: Con đường làm văn nghệ chuyên nghiệp!

Sau cuộc Đại Hội Văn Nghệ Kháng Chiến đầu tiên tôi được đi họp tại làng Khuốc, được trực tiếp thấy mấy thứ kênh kiệu của những Vũ Anh Thường, Huấn, Châu... những nét bê tha của Đinh Hùng và vài vị mà con các vị đang rất có tiếng hiện nay nên tôi không nỡ gọi đúng tên, đã làm tôi trở về nhận thức ban đầu: Không thể đứng trong hàng ngũ “xướng ca vô loài” được...

Trở về Bộ Tư Lệnh, tôi được ông Hoàng Thế Hùng, tức “Hùng hét”, trưởng ban Quản Trị Bộ Tư Lệnh lúc đó, một người rất mê tôi, có lẽ cũng có “tâm sự”, không được tín nhiệm như tôi. Ông tốt nghiệp Hoàng Phố như các ông Hoàng Minh Thảo, Hoàng Văn Thái, Hoàng Sâm, Hoàng Điền (Ngũ Hoàng)...nhưng chẳng hiểu sao không được đi họp “tổ chức”, gọi tôi lên và cho biết: “Cậu là người tốt, tớ đã tìm cho cậu một cách để tiến thân hơn chứ không phải làm cái trò “leo thang đọc tin” nữa...Hãy chuẩn bị đi học quân chính Nguyễn Huệ để thành anh lính thực thụ. Tốt nghiệp rồi cậu sẽ được kết nạp vào “tổ chức”, được nắm quân và sẽ...“một là xanh cỏ...hai là đỏ ngực”! Nhưng phải chú ý về cái tính bất cần đời, “phớt ăng lê”, coi thường mọi người đi! Nếu không thì chỉ có...xanh cỏ mà chẳng có đỏ điếc gì đâu!”  Thế là... tôi hăm hở lên đường.

Lúc này, trường từ Quảng Yên rút về một địa điểm tại Quỳnh Côi, Thái Bình. Một năm trời ở nhà dân, ăn đứng, lên lớp ngồi...bệt xuống đất, trong ngôi đình khá lớn, tôi ra sức học đủ thứ các thầy giảng và luôn là học sinh xuất sắc vì tiếp thu lý thuyết và thực hành tốt. Có gì đâu: Giáo sư vẫn là các sĩ quan của quân đội Pháp cũ giảng. Khác hơn là những ông thầy ở đây có vẻ uyên bác hơn về cái “nghề giết người mà không bị xử tội!” Nổi bật có ông “Hai Giá”. “Hai” là quan hai (lieutenant) tốt nghiệp võ bị Saint Cyr tận bên Pháp. Sau là ông Võ An Khang, cũng sĩ quan Pháp, và một loạt giáo viên tôi không nhớ tên. Tất cả đều là người được “binh vận” theo ta!

Những bài giảng về mọi mặt chiến đấu đều lấy từ tài liệu giáo khoa Pháp mà đôi khi, trước giờ lên lớp, các thầy gọi tôi và Văn Hùng lên Hiệu Bộ để hỏi xem cách dịch các khẩu lệnh tiếng Pháp thế nào cho ổn. Chỉ riêng sự nhìn nhận và đánh giá của hai ông thầy chính này với tôi cũng đủ làm “tổ chức” –– tôi nhớ là không quá... 5 người, ngoài ông hiệu trưởng kiêm chính trị viên Dương Chính! –– phải đặc biệt theo dõi!

Và quả là như vậy: do tình cờ, tôi nhặt được cuốn sổ tay của Vũ Đình Hải, một người “trong tổ chức”, rớt tại cầu tiêu kiêm chuồng lợn của chủ nhà. Lật ra, tôi thấy dòng chữ ghi “họp chi bộ ngày...tháng...năm 1947”... Đáng chú ý nhất là đoạn phân công phụ trách quần chúng, trong đó có tên Tô Hải bị gạch đít, hai chấm: “Chú ý quan hệ đặc biệt giữa Tô Hải với X5 và X6!” Tôi giật mình nhớ tới câu nói của tham mưu trưởng liên khu Vũ Hiển: “Thà giết oan 10 người còn hơn để lọt một tên Việt Gian” mà ớn xương sống! Vậy là muốn sống được với “tổ chức” trong cuộc “kháng chiến thần thánh” thì phải biết giữ mình, nếu không muốn bị “tiêu.” Kiếp sống Hèn của tôi bắt đầu!

Của đáng tội, tôi còn anh dũng một lần cuối khi quyết định báo cho hai ông thầy (tất nhiên bằng tiếng Pháp) biết tình hình nghiêm trọng này và từ đó đến hết khóa học, chúng tôi không bao giờ gặp nhau riêng nữa.

Tôi không còn hứng thú học tập nên trả bài qua loa, thậm chí thao tác tháo lắp khẩu 12 ly 7 tôi cũng để thừa tới hai, ba bộ phận! Cuối khóa, tôi tốt nghiệp loại trung bình, nhưng cũng được giấy chứng nhận do ông Hoàng Minh Thảo ký (tôi còn giữ đến bây giờ, 2006) và được đề nghị chức vụ (lúc ấy chưa có cấp bậc)... trung đội phó! Nghĩa là sau hơn một năm, từ phân đội trưởng, lên “trung úy”, “thiếu úy tự tạo” (để “lấy le” với quân đội Pháp) sau bao tháng trời đổ mồ hôi trên thao trường, học đủ thứ quân sự ba lăng nhăng, tôi bị... giáng cấp!

Xem ra con đường làm “tướng” không dễ như tôi tưởng! Những bạn đồng học của tôi, những Dương Tử Giang, Kỳ Vẩu, Huệ Xồm... lần lượt kẻ trước người sau bỏ mình khắp các chiến trường Khu 3. Một số, học xong... quay về vùng địch, “dinh tê” để tiếp tục đi học, sau này trở thành sĩ quan phía đối địch, thậm chí lên đến cấp tá, tướng của ông Thiệu sau này như chuẩn tướng Lương, đại tá Thọ... Tôi vô cùng kinh ngạc thấy trong bọn họ có cả Nguyễn Bá Lai, Vũ Đình Hải...những người “trong tổ chức” chuyên theo dõi chúng tôi.

Phần tôi, không phải tôi không có tư tưởng rời bỏ cái hàng ngũ mà tôi coi khinh vì dốt nát, vì nói một đằng làm một nẻo, như hô hào đoàn kết nhưng lại tổ chức thành băng đảng do thám nhau, ám hại nhau! Nói “giải tán” nhưng vẫn có các chi bộ bàn bạc, theo dõi, dò xét từng người còn hơn cả mật thám thời Tây! Nhưng, bi kịch của tôi chính do tôi gây ra: Đó là sự tự ái với những gì bố tôi đã chửi tôi. Hoá ra…quá đúng! Vậy mà mãi sau này, tôi vẫn không đủ can đảm quay về, quì trước mặt ông mà nói: “Con xin nhận là con lạc đường! Bố đã đúng!” Tôi đã hèn, hèn cả với bố tôi, hèn với chính mình. Tôi không dám làm điều mình nghĩ! Và tôi đã tự làm khổ tôi suốt cuộc đời...

Tốt nghiệp quân chính Nguyễn Huệ nhưng chưa là người “trong tổ chức” (đảng viên), tôi trở về Bộ Tư Lệnh chờ phân công tác. Đó là những ngày chờ đợi sáp nhập thành Liên Khu, những ngày lẽo đẽo theo ông “Hùng hét” “ngựa hồng côn bạt” đi kiểm tra điều lệnh nội vụ các trung đoàn, tiểu đoàn mới thành lập. Tôi còn nhớ trung đoàn 66 của ông Phùng Thế Tài (biệt danh Phùng Thế Ục vì tính hay “ục” lính), có ông Lê Quân, thư sinh trường Bưởi, ông An Giang, ông Ngô Lân, ông Mạnh Hùng, ông Đinh Thìn, ông Thiết Trụ (Vương) và ông Võ An Khang, nguyên hiệu phó trường quân chính Nguyễn Huệ của tôi còn sót lại.

Các trung đoàn trưởng (thời đó chưa có sư đoàn) ([10]) chẳng hiểu đánh đấm ra sao chứ một tháng ít nhất hai ba lần đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Liên Khu họp và họp. Có nghĩa là bàn việc quân sự thì ít mà bàn “chính trị” thì nhiều. Sở dĩ tôi biết được nhiều chuyện “thâm cung bí sử” vì cứ tối đến, trung tâm để các “anh hùng bất biết say” mượn chén trút đủ thứ bất bình kèn cựa, phê phán nhau, chính là nơi ở của ông “Hùng hét” và tôi!  Khi chưa sáp nhập Liên Khu là làng Gạo huyện Phù Dực Thái Bình, sau khi sáp nhập là Thung Gio, Thung Vôi, ở bên kia Chồng Mâm, Chợ Giời, Kim Bôi, Hạ Bì... Những cái tên sở dĩ tôi còn nhớ vì chính là những nơi tôi đã để lại nhiều “mẩu trái tim” mình qua những sáng tác bắt đầu có tiếng vang trong giới “sĩ quan tiểu tư sản”!

Với các vị thường họp mặt sau hội nghị ở Bộ Tư Lệnh xung quanh ông “Hùng hét”, lúc này, tôi đã nhận ra đều là những trung đoàn trưởng đại bất mãn, hầu hết đều có học và nhận thức khá sâu sắc về sự bành trướng quyền hành của mấy ông chính trị dốt nát nhưng đại cơ hội. Sau này tôi chẳng ngạc nhiên khi thấy một loạt các vị như Trần Ích (phụ trách tình báo) Hoàng Hữu Phấn (TAB), Hoàng Thiết Trụ (tức Trụ Vương) đều lần lượt...trở cờ! Trụ Vương chạy vào Phát Diệm, trở thành cánh tay phải của giám mục Lê Hữu Từ, chống cộng khét tiếng. Một số sau này không còn bao giờ nghe thấy ai nhắc tới, kể cả trong lịch sử quân đội Nhân Dân Việt Nam.

Thế là lại thêm một năm tôi chẳng có nghề ngỗng gì ngoài việc sống dưới sự bao che của ông “Hùng hét” làm chuyên viên...chạy giặc! Gian khổ nhất là những ngày ở Kim Bôi, Hạ Bì. Cứ có máy bay bà già bay trên đầu hôm trước là hôm sau di chuyển. May mà thời ấy, phương tiện thông tin, không lực của Pháp đang kiệt quệ sau đại chiến thứ 2 nếu không thì...cái cơ quan Bộ Tư Lệnh đã đi tiêu như phòng Quân Nhu Liên Khu vì nhiều thứ cồng kềnh nên bị hai chiếc Spitffire “làm cỏ”, kể cả trưởng phòng Nguyễn Văn Sĩ, nhân vật số 3 trong Bộ Tư Lệnh!

Vì phải di chuyển liên miên, nhất là lúng túng với quân số quá đông lại hầu hết bị sốt rét ác tính, có người chỉ sau một giấc ngủ là vĩnh viễn không dậy nữa, chủ trương “phân tán nhỏ gọn” được cấp tốc thi hành... Nói ngay là chúng tôi bị địch đánh cho tan tác, mạnh đơn vị nào đơn vị đó kiếm chỗ ẩn thân, nhất là sau các chiến dịch Mercure, Kangourou... Lợi dụng việc “tùy nghi di tản này”, không ít người đã...“tung cánh chim tìm về tổ ấm” dù đang ở hậu phương hay đang hoạt động trong lòng địch – dinh tê! Riêng tôi ôm cái tự ái với bố trong lòng... và không thể bỏ qua cái hạnh phúc nhỏ nhoi là được ông “Hùng hét” o bế nên vẫn cặp kè bên ông, vẫn cặp kè cái cặp lúc nào cũng đầy tiền, chẳng bao giờ thiếu ăn, thiếu mặc nên kiên trì...kháng chiến bằng...đôi chân và giọng hát trời cho!

Một ngày cuối năm 1948, ông “Hùng hét” gọi tôi lên ngôi nhà sàn mà ông thường tụ họp với mấy cha bất mãn số 1, nói nửa giễu cợt, nửa ngợi khen: “Này chú nhạc sĩ! ([11]) Lần này thì “trên” đã chọn cho chú đúng chỗ tha hồ mà thi thố tài năng. Chú được cử đi học Võ Bị Trần Quốc Tuấn khóa chuẩn bị Tổng Phản Công. Nghĩa là: Sẽ có nhiều thứ vũ khí mới, chiến thuật mới, cần nhiều cán bộ có tài năng, có thể lái được xe tăng (!) bắn được ca nông theo pa-ra-bôn…Nhưng quan trọng nhất là học xong cậu sẽ được đứng “trong tổ chức” vì lần này có chủ trương phát triển tổ chức đại trà đấy! Chỉ tiếc rằng...lúc ấy chẳng biết tớ đã được đứng trong “tổ chức” chưa, nếu không thì tớ đành về nhà xua gà cho vợ vậy!”

Thế là chẳng còn con đường nào khác, lại một ba lô, một cây ghi-ta mà ông Hùng sắm cho bằng tiền quĩ để làm công tác dân vận, tôi lên đường đi tìm con đường làm... tướng, làm người có “mác” – đứng trong “tổ chức”!

Chính ở trường này tôi được kết nạp vào đảng Cộng Sản Việt Nam cùng lúc với tất cả đồng khóa, không trừ một ai vì Đảng đang cần đảng viên hơn bao giờ hết. Đảng cần những người sẵn sàng “khó khăn đi trước, sung sướng hưởng sau”, “Suốt đời vì nước quên thân vì dân quên mình”! Tôi say sưa với cái tên “Võ Bị Trần Quốc Tuấn” mà 90% đều là thanh niên thành phố, trí thức, đẹp trai, đàn giỏi, hát hay. Kể từ các tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng đến anh học sinh quân lính trơn, ai cũng thông minh, hoạt bát, đối xử với nhau như những người có văn hóa. Nói tóm lại, toàn là người... tử tế và quả là tử tế với nhau cho đến hết đời thật. Những cái tên Trịnh Minh Quát, Văn Khắc Lân, Trần Đăng Vân...sau này luôn là những người thương yêu nhau, dù có anh “gặp may”, lên đến tướng, tá, dù có người không may trở thành anh thợ dập gác-đờ-bu xe đạp ở vỉa hè như Bùi Khuê, làm khán chợ Tân Định như Nguyễn Lục, hoặc... tự tử, sau hai năm sống không hộ tịch ở xóm Liễu Hà Nội như Khắc Thứ!...

Cũng không thể không nhắc đến ông thầy cực kỳ thông minh, yêu văn nghệ, người đảng viên mang “tội” to sau này vì đã kết nạp lũ chúng tôi và cho “ra lò” một lô các sĩ quan sặc mùi tiểu tư sản: đại tá Hoàng Điền! Ông luôn tin vào người có học, ông mời các vị Lộng Chương, Tống Ngọc, Nguyễn Xuân Huy, Phạm Duy...đến trường để nói chuyện về văn nghệ cho lính nghe. Hơn một lần ông nói: “Đỏ mà dốt nát thì đồng nghĩa với thất bại”. Binh nghiệp lâu dài là thế, công lao là thế, nhưng khi quân đội bắt đầu phong hàm, không thấy tên Hoàng Điền trong hàng tá mà trong hàng tướng cùng thời với ông như Trần Tử Bình, Chu Văn Tấn...cũng không nốt! Người ta đã sắp cho ông... “chỗ làm mới”: Cục Điều Tra Rừng, bộ Lâm Nghiệp. Ông sống đơn độc trong một phòng nhỏ ở phố Đỗ Hạnh, Hà Nội. Năm 2005, nghe tin ông qua đời, đến dự tang lễ ông đông nhất vẫn là những chàng trai Lục Quân Trần Quốc Tuấn năm xưa... Trên cáo phó của bộ Nông Nghiệp chỉ ghi “Hoàng Điền, nguyên cục trưởng Cục Điều Tra Rừng”. Chấm hết! Y như Lê Liêm, người chính ủy mặt trận Điện Biên khi chết chỉ có mấy chữ: Nguyên thứ trưởng bộ Giáo Dục và Trần Độ có lúc giữ chức Phó chủ tịch Quốc Hội là nguyên thứ trưởng bộ Văn Hóa, chấm hết!

Với tôi, là đảng viên sĩ quan Lục Quân Trần Quốc Tuấn, tôi cảm thấy vô cùng phấn khởi trong những năm 1949-1950 của giai đoạn chuẩn bị tổng phản công. Tôi lao vào học tập quân sự, chính trị, đồng thời sáng tác bất cứ cái gì theo đảng ủy nhà trường yêu cầu. Thôi thì đủ thứ đề tài, tử tổ tam tam đến tiểu đội, tiểu đoàn tấn công, thậm chí cả đề tài hóc búa như “tổng kết giai đoạn tân binh”, tôi cũng có ngay bài... Đã Qua Rồi Một Thời Tân Binh.

Có gì đâu, trong tôi đã có đủ thứ âm nhạc tả pí lù, chỉ cần cầm ghi-ta lên “nghêu ngao vài ba câu nhạc có lời theo yêu cầu” của các ông Sơn Hùng, Hải Hùng trưởng phòng chính trị, trưởng ban tuyên giáo, xào xáo lại một chút là thành ngay một “bài nói có giai điệu!” mới toanh!

Còn nhịp điệu, tiết tấu thì chủ yếu là... swing, rumba, blue, mà lũ chúng tôi, những Văn Phụng, Lê Điệp, Đỗ Phú, Hoàng Dũng, anh nào chẳng có sẵn “máu” do thuộc lòng từ các phim Mỹ, Pháp... Quần chúng lại chính là lũ chúng tôi, những dân gọi là có học, đã sống với những bài hát đó thuở 1940-1950. Điều này giải thích tại sao nhạc lai Tây, lai Mỹ thật sự vẫn sống, sống tốt nữa! Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa, Mùa Không Biên Giới... tồn tại được đến hôm nay chính là đã “lỡ được phổ biến” vào thời “tư tưởng Mao đồ tể” chưa tràn qua biên giới, gieo rắc tai họa cho dân tộc Việt Nam nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng. Nghĩa là...ở Việt Nam, trước 1949, chưa có đường lối văn nghệ gì của “tổ chức” vì “tổ chức... dốt đặc về văn nghệ”!

Lý do tôi được kết nạp có lẽ nhờ thành tích dùng âm nhạc phục vụ động viên lính cụ Hồ. Ngoài ra, thành tích học quân sự của tôi thua xa những bạn bè mà tôi kể ở trên. Tôi đã say sưa với thành tích, say sưa với cái tên “nhạc sĩ Tô Hải”, nhất là khi Liên Đoàn Nhạc Sĩ Liên Khu IV kết nạp và đề cao tôi trong một đêm biểu diễn của các chàng trai Lục Quân Trần Quốc Tuấn với một chương trình toàn là tác phẩm của...tôi. Cứ thế, vừa làm lính trong “tổ chức” –– lúc này tôi đã biết là Đảng Cộng Sản –– vừa sáng tác, vừa biểu diễn với cả tâm hồn và trái tim, rất tự nguyện, rất hiến dâng, không mảy may mặc cảm, suy tính, tôi đã sẵn sàng ra chiến trường chết như một chiến sĩ với câu hát “Đấu tranh này là trận cuối cùng... ” trên môi.

Nhưng (lại nhưng)...cuộc đời không cho phép tôi... chết sớm như các bạn Xiêm, Ích, Tước, Niệm, Hòa... mà bắt tôi phải sống, sống để trở thành một thằng hèn, hèn cho đến những ngày “vừa viết vừa run” tập hồi ký này.

Sau khi kết thúc khóa học Chuẩn Bị Tổng Phản Công thì...chẳng thấy tổng phản công đâu mà nhà trường lại chiêu sinh thêm một khoá mới, không có tên “Hậu chuẩn bị Tổng Phản Công” hay “Tổng Phản Công tập 2” gì mà là Lục Quân Trần Quốc Tuấn Khóa VI! Tôi được ông Sơn Hùng gọi lên và tuyên bố: “Đảng đã quyết định mở rộng huấn luyện, phát triển trường chúng ta thành một trường chính qui hiện đại...Công tác chính trị lúc này cực kỳ quan trọng. Toàn bộ kế hoạch tổ chức đã được Trung Ương thông qua, được các cố vấn Trung Quốc góp ý tỉ mỉ. Một đoàn văn công –– lần đầu tiên tôi nghe hai từ này –– bao gồm đủ ca, múa, nhạc, kịch đã được duyệt. Cậu sẽ ở lại trường, không đi đâu cả. Mặt trận văn hóa tư tưởng đang rất thiếu những đảng viên như cậu!” Thế là...từ anh lính nuôi tham vọng làm...tướng, tôi trở thành anh lãnh đạo văn nghệ cách mạng, muôn năm chỉ ở lại cấp “sĩ”, nhạc sĩ!

Đã là đảng viên thì nhiệm vụ nào Đảng giao cũng phải cố làm cho tốt như lời ông Hùng nói. Tôi lên đường đi tuyển sinh cùng rất nhiều đoàn cán bộ “khung” khác. Việc đầu tiên tôi phải làm là tới các trường trung học cấp 2, cấp 3 để kiếm “nhân tài”. Tôi lôi kéo được khá nhiều tên tuổi như Hoàng Thi Thơ, Phạm Long, Hoàng Linh, Thi Thi Tống Ngọc, nhà văn Nguyễn Xuân Huy... và một loạt nhân tài đang sống vất vưởng ở Thanh Hóa, sau khi ông tướng Nguyễn Sơn ([12]) về Tầu!

Trong những năm 1949-1950 ấy, chúng tôi chưa bị bất cứ áp lực nào của đường lối “văn nghệ phục vụ công nông binh”, về “đảng tính” “nhân dân tính”... trong hoạt động. Ông Lộng Chương dàn dựng vở đầu tiên là Ngưỡng Cửa của Đinh Ánh, rồi Nhật Xuất của Tào Ngu và một số trích đoạn trong Lôi Vũ vv... toàn là những vở kịch ra kịch. Còn tôi, vẫn cứ đề tài... người lính lục quân. Nào Anh Tân Binh Ơi, nào Thầy Tu Giết Giặc, nào Đen Gì Mà Đen... theo kiểu Ngọc Bích với các tiết tấu, nhịp điệu swing, rumba, blue như đã làm. Chẳng ai phê phán gì, thậm chí còn khen ngợi, vỗ tay liên hồi, kể cả khi có mặt các ông “nhớn” như Hoàng Anh, Nguyễn Chí Thanh, Đặng Thai Mai, Lê Chưởng…

Cho đến một hôm, tôi được ông Hoàng Lưu, lúc này làm chính ủy, trên cả ông Hoàng Điền, gọi lên nói như chặt sắt: “Từ nay ngừng ngay những bài hát Trường Lục Quân Đang Cần Lính Đánh Tây, Tiếng Kèn Báo Động, ngừng ngay những hoạt cảnh lắc mông ngoáy đít đi! Phân hiệu bên Côn Minh đã được lệnh dẹp bỏ rồi... Đường lối văn nghệ của giai cấp vô sản phải khác. Không thể chấp nhận nhạc Mỹ, nhạc Tây, rất có hại cho lập trường vô sản. Cậu phải thay đổi ngay kiểu sáng tác, nếu không, khi các cố vấn Trung Quốc sang, sẽ khó ăn nói với họ đấy!”

Tôi bàng hoàng vì vừa hôm qua thôi, ông còn khen chương trình biểu diễn là khá, và ông nói tiếp: “Tớ nói thật, đường lối văn nghệ cách mạng tớ cũng i-tờ thôi! Nay có đường lối của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ta không theo không được! Thôi, cứ...cố gắng lên!”

Cố gắng? Cố gắng làm khác với lòng mình? Cố gắng làm theo ý người khác, rung cảm bằng trái tim người khác, nhất là người ngoại quốc?

Tôi trở về Đoàn, suy nghĩ mung lung về con đường trước mặt, về những khó khăn mới, những dằn vặt mới bởi cuộc phiêu lưu vào con đường “văn nghệ có lãnh đạo” này. Và tôi chọn con đường... ngừng viết!

Sự thật thì thời gian này tôi cũng đẻ ra mấy bài cho mình và cho một số bạn bè nghe như Đứt Dây Đàn, Chán Chường, Khi Mùa Xuân Đến...viết bằng trái tim thật của mình, nhưng không dám phổ biến, không dám đưa lên sân khấu mà chỉ nhai đi nhai lại những Sông Lô, Tiến về Hà Nội, Du Kích Sông Thao... Ngoài ra, tôi để kệ anh Lộng Chương dựng hàng loạt kịch cách mạng Tàu do ông Đặng Thai Mai dịch. Mọi cuộc biểu diễn có đoàn cố vấn do tướng Vu Bội Huyết đứng đầu, khi xem đều: “Hảo! Hảo! Hảo!”...Tôi thấy được cái hèn của mình nhưng bất lực vì nhiều lẽ, trong đó lẽ quan trọng nhất, quyết định nhất đến cả cuộc đời tôi sau này là tôi sớm... lập gia đình!

Số là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn trong nước được lệnh “sáp nhập” vào phân hiệu Côn Minh mà sau này tôi mới hiểu là trường sĩ quan mà các cố vấn Tầu, sau một thời gian giúp đỡ củng cố đã nhận xét là một trường của giai cấp... tiểu tư sản, tổ chức “sai lầm cả về nội dung lẫn hình thức”! Chỉ có thể “uốn nắn” bằng cách...cho nhập luôn vào trường bên Tầu! Như thế là trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn của chúng tôi, tới khóa VI, đã bị xóa tên người anh hùng trong lịch sử Việt Nam! Đến nay người ta chỉ gọi là Trường Sĩ Quan Lục Quân 1, Lục Quân 2, mà chẳng cần giải thích gì hết! Nói trắng ra từ ngày đó, anh “lính cụ Hồ” đã trở thành “lính cụ Mao”! Từ chân đến đầu, từ khối óc đến trái tim, từ hột cơm đến miếng nước, tất cả đều nhờ Đảng Cộng Sản Trung Quốc dạy dỗ và nhân dân Trung Quốc “nhường cơm sẻ áo”!

Có thể nói chưa bao giờ trong quân đội lại có sự tan đàn xẻ nghé dữ dội như vậy. Hàng ngàn con người đi đâu, về đâu? Sang Tầu? Xuống đơn vị? Xin giải ngũ về nhà?

Rất nhiều bạn bè tôi đã “ra đi vĩnh viễn” trong giai đoạn này, không bao giờ gặp lại. Nhận được mảnh giấy “quyết định điều động” in li tô bằng bàn tay, đa số anh em từ học sinh, thanh niên ngoài quân đội được chiêu sinh vào trường đều...tự điều động về luôn...nhà mà chẳng ai hay ai biết! Hầu hết đảng viên cốt cán đều được bổ sung cho các sư đoàn mới thành lập có cố vấn Tầu sang nắm quyền chỉ huy toàn diện!

Cũng thời gian này, học sinh võ bị Trần Quốc Tuấn, nhất là những anh chưa được “tổ chức”, “dinh tê” nhiều nhất. Đặc biệt những tay có tài năng văn nghệ sau này về Sài Gòn tôi còn gặp một số là những nhà văn, nhà thơ, diễn viên, tá, tướng, có cả quận trưởng, tỉnh trưởng như Mai Thảo, Võ Hải, Hoàng Thi Thơ, đặc biệt có nhân vật Hồ Mậu Đề, một đảng viên lắm lý luận nhất. ([13])

Còn tôi, đảng viên cốt cán trong hàng ngũ “chiến sĩ văn nghệ” của Đảng, tôi chấp nhận sự điều động của Đảng về Bộ Tư Lệnh Địa Phương Liên Khu IV! Thi hành lệnh này có cái lợi là được...lấy vợ, được ưu tiên mang vợ đi theo, để có người mà thương yêu, mà quên nỗi nhớ nhà ray rứt giữa hoàn cảnh “thân cô thế cô”, lạc lõng giữa “sa mạc kháng chiến”, chẳng biết kéo dài đến bao giờ.

Như “cưới vợ chạy tang”, tôi vội vã làm lễ thành hôn do nhà trường tổ chức tại một sân đình làng ở Hậu Hiền, Thanh Hóa. Dưới ánh trăng, ông Sơn Hùng thay mặt đảng ủy nhà trường, trịnh trọng như một cha đạo đứng lên công nhận hai chúng tôi, Tô Hải và Hương Mai, kể từ nay... thành vợ, thành chồng! Vài lời chúc mừng, vài bài hát, kết thúc bằng một điệu nhảy tập thể theo kiểu ương ca ([14]) Trung Quốc và...chấm hết! Ai về nhà nấy, chuẩn bị ngày mai giải tán lên đường!

Tôi biết đang có nhiều người dứt khoát rời bỏ hàng ngũ cộng sản, lợi dụng thời cơ quân hồi vô phèng lo tính chuyện tương lai của riêng mình! Nhiều người trên đường tìm về đơn vị mới (có khi chẳng biết nơi đóng quân cụ thể ở đâu?) đã lấy lý do này để về quê lấy vợ, để trở lại mái trường xưa, để... giã từ kháng chiến vĩnh viễn!

Chấp nhận sự mai mối của Đảng, lấy vợ là một diễn viên của đoàn, với tôi lúc ấy là cứu cánh cuối cùng giúp cho tôi, nhất là cho vợ tôi, có lối “tạm thoát”. Vì, cũng như hàng chục cô gái được tuyển vào làm việc tại hiệu bộ, vợ tôi đang vô cùng hoang mang, chẳng biết đi đâu? Một số cô phải chấp nhận lấy chồng để được ở lại theo chồng. Một số có cơ sở văn hoá, gia đình vững vàng đã chọn con đường trở về tiếp tục đi học trong đó có nhiều người khá thành đạt sau này!

Riêng tôi được nhà trường ưu ái cử hẳn một đảng ủy viên, phó phòng chính trị Vũ Kỳ Lân, về tận nơi gia đình vợ tôi sơ tán ở Diễn Châu, Nghệ An làm chủ hôn một lễ cưới chính thức! Chính cái gia đình được Đảng vun vén cho tôi một cách tận tình, đến nơi đến chốn, đã giữ chân tôi mãi sau này, hết đường cựa quậy, nếu không muốn vợ con mình... ăn mày!

Tôi đã tự tạo thêm một cái gông trên cổ, một chiếc cùm dưới chân...

-----------------------------------------------------------------------

([1]) Thứ súng lục bắn nhiều phát một lúc, bao súng cũng là báng súng.

([2]) Huỳnh Thúc Kháng, còn có tên Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên (1876-1947), chí sĩ yêu nước, học rộng, tài cao. Năm 1946 làm quyền Chủ Tịch nước trong khi là chủ tịch Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam (Liên Việt).

([3]) Nguyễn Hải Thần (1878?-1959), nhà cách mạng chống Pháp, sáng lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, phó chủ tịch chính phủ liên hiệp VNDCCH 1946, sau bỏ Việt Minh sang Hoa Nam.

([4]) Nguyễn Tường Tam (1905-1963) nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, đồng thời là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20, một trong những người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn.

([5]) Vũ Hồng Khanh (1898-?), một lãnh tụ VN Quốc Dân Đảng, bộ trưởng Quốc Phòng chính phủ liên hiệp lâm thời VNCH 1-1946, sau 4-1975 bị đưa đi cải tạo rồi quản chế tại miền Bắc cho đến chết. 

([6]) Thế là hết! Thế là tong! (tiếng Pháp).

([7]) Jean Sainteny lúc ấy là đặc sứ Pháp. Giữa Sainteny và Hồ Chí Minh đã đạt một thoả ước theo đó, Pháp thừa nhận Việt Nam là nước tự do trong Liên Hiệp Pháp, quân đội Pháp được đồn trú tại Việt Nam tới 1951. Về sau Sainteny viết hồi ký về giai đoạn này trong cuốn Histoire d’une Paix Manquée –– Lịch Sử Một Cơ Hội Hoà Bình Bị Bỏ Lỡ.

([8]) Lô cốt cố thủ.

([9]) Hétéroclite = hỗn tạp, chắp vá, hổ lốn. (tiếng Pháp).

([10]) Sự hình thành QĐNDVN qua các giai đoạn: đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung (gồm 3 hoặc 4 đại đội), trung đoàn rồi sư đoàn. 

([11]) Lúc này tôi đã có một số bài hát được phổ biến truyền khẩu như Nụ Cười Sơn Cước, Trở Lại Đô Thành…

([12]) Nguyễn Sơn (1908-1956), có các bí danh Lý Anh Tư (1925 khi gia nhập Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội), Hồng Thuỷ (1927, khi gia nhập Đảng CS Trung Quốc, là sĩ quan nước ngoài duy nhất trong hồng quân Trung Hoa), một trong ít người Việt Nam được phong quân hàm tướng (thiếu tướng) QĐNDVN trong đợt đầu tiên năm 1948. Ông cũng được Trung Quốc phong quân hàm trung tướng năm 1955.

([13]) Tức Hồ Hán Sơn, từ 1954 trở thành đại tá tham mưu trưởng quân đội Giáo Phái Cao Đài của trung tướng Nguyễn Thành Phương và bị chính Cao Đài thủ tiêu năm 1956 tại căn cứ Giang Tân, Tây Ninh khi phát giác Hồ Mậu Đề toan tính theo ông Ngô Đình Nhu. Hồ Mậu Đề còn làm thơ ký tên Hồng Nam, tác giả bài Tình Nghèo do Phạm Duy phổ nhạc, rất được ưa chuộng giữa thập niên 1950.

([14]) Một điệu nhảy múa tập thể phổ biến ở Trung Quốc thời ấy –người tham gia quây thành một vòng tròn chuyển động vừa hát (sòn la sòn la đố…) vừa vỗ tay.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2009 14:08:28 bởi lyenson >
#16
    lyenson 30.06.2009 11:29:17 (permalink)
    CUỘC ĐỜI TỦI NHỤC CỦA TÊN BỒI BÚT

    Đã hèn lại hèn thêm là như vậy! Tôi trở thành một trong những tên bồi bút bất đắc dĩ đắc lực nhất!

    Bi hài kịch tiếp tục kéo dài như sau:

    Từ một đơn vị chính quy, tôi rơi vào môi trường không điều lệnh, không điểm danh, không kèn báo thức, báo ngủ, không đứng nghiêm chào cờ...chào! Tất cả đều giải quyết 100% du kích! Vừa họp vừa sòng sọc cái điếu cày. Sinh hoạt y như không phải quân đội! Tuy tôi rất vui được làm việc với các tên tuổi lớn như Thanh Tịnh, các diễn viên thực tài như Minh Trâm, Nguyễn Thị Tần, Vĩnh Cường, Phùng Quán, Đình Quang, Nguyễn Phiên, Xuân Bình... nhưng trong vẫn băn khoăn bứt rứt về những gì đang diễn ra tại đoàn văn công Bộ Tư Lệnh Liên Khu IV: kịch là Trúng Tủ, múa là Ương Ca, Bà Chu Cho Trứng, hát là Thắm Thiết Tình Việt-Trung-Xô...và đặc biệt bài Túng phang hồng, thài dzòang xâng ([1]) ca ngợi Mao Trạch Đông, hát bằng tiếng Tàu hẳn hoi! Rõ ràng cách mạng trong giai đoạn mới này không có chỗ cho thứ âm nhạc tiểu tư sản của tôi nữa.

    Cuối cùng, tôi chỉ biết “Thôi thì làm gì…cũng được!”

    Đơn ca, lĩnh xướng đã có Vĩnh Cường, Đình Quang, dàn nhạc đã có thầy Quảng (ông là frère ([2]) bỏ nhà thờ đi theo cách mạng), đoàn trưởng đã có Duy Đức, một nhân vật biết chiều trên, chiều cả dưới và cũng có đôi chút năng khiếu âm nhạc, vào Đảng trước tôi một năm nên được giữ chức đoàn trưởng phụ trách chính trị. Vợ tôi trở thành diễn viên múa, còn tôi thì lúc đóng kịch, lúc múa, lúc hát, lúc đơn ca, lúc đánh đàn, đủ trò. Biểu diễn khỏi cần sân khấu, treo hai cái đĩa đèn dầu lạc có ba bốn cái bấc lên một sợi dây thép chăng ngang hai cái cột. Thế là bắt đầu!

    Tôi vừa buồn vừa ngán thứ văn nghệ lạ lùng này. Nhưng biết làm sao khi mà mỗi lần sinh hoạt chi bộ, các ông Tính, Hoạt ở phòng chính trị đều nhắc: “Phải nhớ, chúng ta là văn nghệ phục vụ nông dân mặc áo lính trong Liên Khu là chính. Chúng ta không có các đơn vị chính qui, không có các sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực mà chỉ là những đơn vị dân quân du kích và một số đại đội tập trung ở các tỉnh đội thôi! Do đó, đừng nghĩ đến cái gì “nghệ thuật nghệ thiếc” ghê gớm lắm! Dễ hiểu, dễ nghe, bè bối lủng củng, nông dân chẳng hiểu gì đâu... Chú ý: đây không phải trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn!”

    Chết tôi rồi! Xin về làm lính chiến thì kể từ khi được cái chức danh “nhạc sĩ” đã chẳng còn máu “oong đơ” nữa! Làm nhạc sĩ thì ở đây người ta không “xực” được “tiếng tơ lòng” của tôi. Hơn thế, phục vụ công nông binh lại là “nông binh khu IV” thì ai cũng biết là những người nghèo nhất nước, quanh năm khoai khô, mắm nhút.([3])

    Dù sao nỗi buồn chán về sự nghiệp, về tương lai của tôi cũng “có chỗ mà quên”, có nơi mà chia xẻ là Hương Mai của tôi, từ nay luôn ở bên tôi như...một “cô láng giềng” vừa hiền, vừa tốt bụng. “Cô láng giềng”, bởi tuy là vợ tôi nhưng vợ chồng không được ở chung vì tập tục người dân xứ này không cho người lạ được “sinh hoạt” trong nhà họ!

    Lấy cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó làm thuốc an thần, tôi cố gắng hòa nhập với số anh chị em mà tôi thừa biết họ chỉ...tạm thời chịu cúi đầu làm quấy quá cho xong những việc trước mắt theo cấp trên yêu cầu. Còn trong cái đầu và con tim họ, trời biết họ đang tính toán gì? Thực tế đã trả lời: đa số bằng cách này, cách khác chuồn lẹ khỏi cái tổ chức đặc sệt nông dân tính này. Có người về sau trở thành giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ nhân dân, ưu tú...như Thanh Tịnh, Cao Xuân Hạo, Đình Quang... Có người chẳng còn bao giờ được nhắc tới như Nguyễn Phiên, Nguyễn Đãi, Minh Trâm, Vĩnh Cường... Đặc biệt Phùng Quán trở thành “cái gai” cho Đảng đến hết cuộc đời.

    Với tôi, những năm tháng ở Liên Khu IV kéo dài tới 1960 dù trải hàng vạn biến cố mà không có cách nào thoát nổi, vì cái danh “đảng viên” cứ như cái vòng kim cô xiết chặt tôi vào hết bi kịch này đến bi kịch khác...

    Một ngày kia, “cuộc cách mạng long trời lở đất” có tên Cải Cách Ruộng Đất nổ ra! Nó được mang từ bên Tàu sang, nổ súng vào toàn dân Việt Nam, tạo một vết nhơ trong lịch sử dân tộc, thay đổi toàn bộ nhận thức, tình cảm của tôi về cái đảng mà tôi đã chẳng may rơi vào đó.

    Chỉ một thời gian ngắn, hàng loạt cán bộ chủ chốt từ tham mưu trưởng đến tỉnh đội trưởng, thậm chí cả tư lệnh trưởng đều phải nhận “tội” trước các đoàn ủy, đội ủy cải cách ruộng đất. Hàng loạt chi bộ đảng Lao Động đều biến thành Quốc Dân Đảng (?!), thậm chí thành tổ chức phản động? Không ít người bị đánh gãy chân, què tay và vất xác trôi sông hoặc tự tử. Lý lịch được mang ra phê phán. Có người vì muốn thoát chết đành gọi bố mình là “thằng Việt gian” chỉ vì thời Tây, bố đã làm công chức cho Pháp.

    Ở ngoài dân chúng thì sao? Một cảnh tượng ghê rợn bao trùm khắp làng xóm nơi chúng tôi đóng quân. Người ta bắt “kẻ thù giai cấp” — 99% là bị vu oan — quỳ cả tiếng đồng hồ, hai tay trói giật cánh khuỷu để các ông bà nông dân xỉa xói vào mặt kể tội. Điều ngược đời là ai có nhiều công nuôi cán bộ, đóng góp tiền bạc, thóc gạo cho bộ đội đều bị gán cho tội...“mua chuộc cán bộ”! Con phải đấu cha, vợ phải đấu chồng, thậm chí quan hệ riêng tư trong gia đình, vợ cả, vợ lẽ, nàng hầu, con ở, cũng thành trọng tội mà kẻ bị xử bị đem bắn ngay trong đêm...

    Những gì tôi chứng kiến trong “cuộc cách mạng long trời lở đất này” có viết hàng nghìn trang cũng không thể hết. Đó là một cuộc cách mạng vô lý, vô luân, vô đạo đức, tàn bạo nhất được các đoàn chuyên gia giết người, diệt chủng Mao-ít đưa sang Việt Nam để huỷ diệt dân tộc ta. Cũng cần phải nói thêm sở dĩ những người làm văn nghệ ít bị chết — theo nghĩa đen — trong đợt cải cách ruộng đất này là nhờ hai lẽ sau:

    — 1/ Hầu hết chúng tôi đều không thuộc cơ sở nông thôn nào. Người thì sinh hoạt ở các tổ chức phi nông nghiệp, người thì ở tổ chức tuyên huấn văn hóa cấp tỉnh, cấp khu hoặc trung ương. Một số sinh hoạt không thuộc Nhà Nước thì làm nghề tự do như dạy học, dạy nhạc, thậm chí bán phở, mở cửa hàng ăn... nên có muốn “đôn” lên địa chủ cường hào, kẻ thù giai cấp cũng khó. Tuy vậy, một số do gia đình ở địa phương bị quy là địa chủ cũng bị dẫn độ về để tố khổ bố mẹ, ông bà mình. Một số kẻ “siêu hèn” đã phải kể “tội” bố mẹ để thoát chết. Vài tên sau này thành tay sai đắc lực, và với tôi, đến chết tôi không bao giờ muốn nhìn mặt. Một số, do được đánh giá là “chưa thực sự cải tạo tư tưởng” thì về đến đơn vị mất tuốt tuồn tuột từ Đảng đến chức vụ luôn. Một số khá hơn được cho xuống đơn vị làm lính cho đến khi bỏ xác nơi chiến trường.

    — 2/ Loại thứ hai, trong đó có tôi, được “trên” huy động đi tuyên truyền, cổ võ cho phong trào đấu tranh quần chúng trong Cải Cách Ruộng Đất, trở thành cán bộ của Cải Cách Ruộng Đất. Thế là...thoát! Một cuộc vận động sáng tác lớn từ trung ương tới địa phương được tổ chức, khuyến khích văn nghệ sĩ “lập công dâng đảng”. Tất cả, để tránh tai bay vạ gió, để tồn tại, gần như ai cũng cúi đầu dấn thân vào con đường hèn hạ: góp sức quảng cáo cho cuộc diệt chủng ghê gớm, bẩn thỉu nhất trong lịch sử.

    Tôi rất lạ vì cho tới nay vẫn còn một số văn sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ thống kê các sáng tác trong thời kỳ diệt chủng này vào thành tựu của đời mình! Riêng tôi, kỷ niệm 70 tuổi, nhân người ta đưa tôi lên tivi, tôi đã công khai tuyên bố: “Tôi không có nhiều tác phẩm thật sự là tác phẩm! Nhiều lắm chỉ là 20 đến 25 chứ không dám 500, 1000 như các nhạc sĩ khác...” Hành động ấy còn xa mới sánh được với họa sĩ Dương Bích Liên: Sau khi tuyên bố ra đảng, ông đã đốt hết tác phẩm của minh, rồi đóng cửa... tự tử!

    Trở lại với những ngày đầy máu và nước mắt của cuộc “đấu tranh long trời lở đất” những năm 1953-1954, tôi, một nhạc sĩ đảng viên, dù thấy tận mắt các tội ác gớm ghiếc mà Đảng của tôi gây ra, nhưng vì...Hèn, Quá Hèn, Sợ, Quá Sợ nên không còn đường nào khác, đành nhắn mắt lao vào cuộc tàn sát…bằng âm nhạc!

    Qua hai, ba đợt đi cải cách, qua thực tế thâm nhập đời sống nông dân, tôi đã thấy rõ bộ mặt thật của cuộc cướp của giết người không gớm tay đó! Vậy mà tôi vẫn cố nặn ra nhiều bài được Đảng đánh giá là “Tốt! tốt! tốt!... ”

    Có khó gì đâu, ca khúc là thứ mà ai cũng làm được nếu muốn! Nó chỉ là lời nói lồng giai điệu, tiết tấu! Cộng sản chỉ không chấp nhận...trái tim và tâm hồn rung động. Vậy thì xếp cái tâm hồn lại. “Nôm na chửi cha mách qué” là hợp với Đảng, với quần chúng nông dân! Và...có ngay! Còn hơn cả mong đợi của Đảng ở một anh “nhạc sĩ tiểu tư sản cả gia đình theo địch”, tôi vào hẳn vai kịch bằng cách tự nhận mình là nông dân trong lúc sáng tác! Nó thể hiện ở mọi “tác phẩm” tung ra thời kỳ này đều nhân xưng ở ngôi thứ nhất! Ví dụ ở bài Chúng Ta Không Muốn Đói đoạt giải nhì không có giải nhất: “Từ ngàn vạn đời xưa rồi cha ông chúng ta nghèo đói...”, hoặc “Ba chúng ta cùng rời đồng lúa xanh”...“Anh với tôi cùng khổ đau, nghèo đói”... và hàng loạt nhạc cảnh, hợp xướng “đứng hẳn về phía nông dân vạch mặt địa chủ, vạch mặt nhà thờ lừa dối giáo dân” ở Tiếng Chuông Tội Ác, Nông Dân Biết Ơn Bác...Cứ thế, qua mấy đợt cải cách, hàng loạt tác phẩm của tôi và các văn nghệ sĩ đại hèn” được tung ra! Đủ kiểu nói dối, đủ kiểu đề cao giai cấp nông dân, đủ kiểu vạch “tội ác kẻ thù giai cấp”. May mắn hơn các ngành văn học nghệ thuật khác, cánh làm nhạc chúng tôi đều hiểu “Lời hát gió bay” nên cứ hét lên những điệu Hò Dân Cày” (Văn Chung) mà chẳng lo gì vì thời ấy chưa có ghi âm, ghi hình, chưa có phương tiện truyền thông hiện đại như ngày nay, ngoài mấy bản in li-tô trên giấy bản mỏng tanh mà in xong thì làm giấy vệ sinh cũng không... đắt!

    Chỉ khổ mấy bác nhà văn, sách in ra cả đống để ca ngợi công lao Đảng, Bác, ca ngợi giai cấp nông dân vạch tội tưởng tượng cha chú mình, ngày nay đã nằm trong thư viện cả bên Mỹ lẫn Việt Nam, các bác làm thế nào để hủy chúng bây giờ? Các bác nghĩ gì khi tới những năm đầu thế kỷ 21 này, người ta vẫn trích các “tác phẩm tội ác” đó vào chương trình giảng dạy con em các bác?

    Giới nhạc sĩ đảng viên chúng tôi biết rằng chỉ làm cái “loa tuyên truyền” nhất thời cho Đảng, ồn ào và kịp thời nhất. Sau đó, tất cả đều rơi tõm vào không trung, “khẩu thiệt vô bằng” nên tha hồ... nói láo! Chính tôi đã là một cái loa khá đắc lực, một cái loa không biết ngượng, nhưng may thay, thứ gọi là “tác phẩm” của tôi được đề cao, được tặng giải thưởng, huân, huy chương, tôi đã biết thân, biết phận tự xóa bỏ đi, không để lại dấu vết gì. Vả lại, chính các cơ quan quyền lực cao nhất về văn hóa tư tưởng của Đảng sau này cũng chẳng hãnh diện gì khi nghe những lời ngợi ca các tội ác diệt chủng của các bậc tiền bối của họ!

    Tiếc thay và cũng đáng khinh thay, mấy tên “nhạc sĩ” nô bộc suốt đời cho Đảng, tới nay, nhờ nắm được các “đầu ra” của âm nhạc như phát thanh, tivi vẫn không ngừng cho phát ra...không khí những “Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng”, những “Đảng đã cho tôi mùa xuân”, “Đảng là lẽ sống của tôi”... thậm chí đến năm 2006 này, họ vẫn tiếp tục kiếm chác bằng những cuộc vận động sáng tác ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ!

    Bọn chó chết này, tôi mong các thế hệ mai sau gạt bỏ chúng khỏi lịch sử văn học nghệ thuật nước nhà. Chúng là ai? Giấy trắng mực đen, băng đĩa, băng hình đang còn đó. Không “lời hát gió bay” được nữa! Làm thân bồi bút đến tận đầu thế kỷ 21, khi cả thế giới cộng sản đã sụp đổ, khi những cái tên Mác, Lê đã bị đập nát từ lý luận đến tượng đài từ gần 20 năm qua, bọn chúng đâu còn có đầu óc, có trái tim?

    Không ít người trong các giới văn, thơ, họa, trong đó có tôi, đã tìm đến sự im lặng, chịu khổ, chịu đói để được viết những gì mình cảm, mình nghĩ. Đặc biệt giới nhạc chuyên nghiệp (không kể bọn “thợ lời có âm thanh”) đều cố viết những gì là âm nhạc đích thực để thỏa mãn chính bản thân mình mà chẳng lo ai bắt bỏ tù cả.

    Chỉ thương cho lũ con cháu đang bị đầu độc bởi mấy thằng cha “bồi bút thời kỳ đồ đểu” (thơ Lê Phú Khải). Nhưng biết làm sao đây khi đất nước chưa có một cuộc cách mạng thật sự để đập nát cái hệ thống cai trị độc đảng, độc tài, phản nước, hại dân của cái Đảng nhiều tội ác nhất trong mọi thời đại lịch sử. Tôi cũng may mắn khi về cuối đời, không phải đứng vào hàng ngũ tôi tớ đắc lực cho cái tập đoàn lưu manh cộng sản “Mười – Anh – Mạnh”.

    Sự thật thì việc “đào thoát” khỏi Đảng Cộng Sản của tôi không đơn giản chút nào. Không để họ khai trừ, không nộp đơn xin ra Đảng, không tuyên bố ly khai — hành động chỉ có từ những năm đầu thế kỷ 21 — nhưng tôi vẫn chuồn được khỏi cái tổ chức mà tôi khinh bỉ, ghê tởm... một cách êm nhẹ mà không bị theo dõi, trả thù, thậm chí bị thủ tiêu là cả một quá trình gian nan, vất vả, nguy hiểm. Tôi sẽ “xưng tội” với vợ con, bạn bè, người thân trong chương cuối của cuốn hồi ký này.

    Nó mang tên... Bi Hài Kịch Vào Đảng... Ra Đảng.

    -----------------------------------------------------------------------

    ([1]) Lời Việt: Đông phương hồng, mặt trời lên.

    ([2]) Thầy. (Tiếng Pháp).

    ([3]) Mít xanh băm nhỏ như một thứ dưa ở miền Bắc, rất nặng mùi.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2009 14:20:11 bởi lyenson >
    #17
      lyenson 30.06.2009 11:36:55 (permalink)
      5 NĂM ĐÓNG KỊCH VÀ DỐI TRÁ

      Quá trình bỏ trốn, hay vượt ngục, của tôi khỏi cái tổ chức Đảng là vở kịch bi hài kéo dài nhiều năm có thể tóm tắt những trường đoạn kịch bản như sau:

      Năm 1953-1954, sau những cái tát tỉnh người, tôi đã có tư tưởng phải bỏ ngay hàng ngũ những kẻ đầy nợ máu với nhân dân, những kẻ đã làm hỏng cuộc đời tôi, biến tôi thành tên đầy tớ hèn nhát, chuyên ngợi ca hành động phản nước, hại dân của chúng. Nhưng chuồn khỏi hàng ngũ chúng bằng cách nào?

      Thật nát óc!

      Bố mẹ vợ tôi lúc ấy đang bị đấu tố trong cải cách ruộng đất đợt 2 vì tuy không có ruộng đất nhưng “có vẻ giàu” nhất làng nơi tản cư nên bị “đôn” lên thành địa chủ. Tôi đang lo cho số phận vợ chồng tôi liệu có bị triệu về địa phương để bị đấu tố hay đấu tố cha mẹ hay không thì... đoàn văn công của tôi được Tổng Cục Chính Trị điều đi phục vụ chiến dịch Điện Biên.

      Thế là tôi thoát khỏi cái địa ngục Liên Khu IV.

      Dọc đường đi bộ hàng tháng trời lên Việt Bắc, tôi gặp hàng đoàn dân công, xe thồ, vừa đi vừa hát hò, hồ hởi phấn khởi vì “quê nhà đã hoàn thành cải cách”, đánh đổ địa chủ cường hào, ác bá. Tôi được xem cả những cuốn phim đen trắng, những bức ảnh trong đó các ông già, bà mẹ răng đen miệng cười tươi rói đang đi đóng cọc, cắm biển chia ruộng có ghi tên Nguyễn Thị Mít, Trần Thị Tèo... hẳn hoi. Khí thế rần rần ra mặt trận. Hậu phương tiền tuyến đều nô nức theo các đoàn xe Tàu, pháo Mỹ do Nga mở kho từ thời kỳ chiến thắng phát xít Đức để lại. Thế là trong tôi, cái máu “nhạc sĩ đảng viên” lại nổi lên. Ừ, có lẽ đây chỉ là cái sai lầm của một địa phương thôi, chứ quê hương miền Bắc rõ ràng là cải cách đã đổi đời tất cả. Khí thế này tôi chưa từng thấy bao giờ. Nó làm tôi như “củng cố lại lập trường”! Tôi lại lao vào viết. Đủ thứ khẩu hiệu, đường lối của Đảng lại được “âm nhạc hóa”.

      Kết quả: Tôi được tín nhiệm thêm và được bầu vào... cấp ủy một lần nữa! Sau gần một năm trời được về tập trung cùng 24 đoàn văn công quân đội, được phân công đi chiến dịch Điện Biên thắng lợi, chúng tôi được giao nhiệm vụ rất sớm: Chuẩn bị tiếp quản Hà Nội.

      Tôi dần dần trở lại thành một nhân vật tên tuổi, được tặng hết huân chương này đến huân chương khác, lại thành thằng Tô Hải “tuần chay nào cũng có nước mắt” như ngày nào. Cái miếng đỉnh chung thời ấy chỉ là đỉnh chung “hão” mà còn có tác dụng thế huống hồ mấy ông ăn phải bả đỉnh chung... “tiền” như hôm nay! Họ còn nói gì được ngoài câu “biết công ơn Đảng muôn đời” thể hiện trong những bài Ca ngợi Tổ Quốc. 

      Hết chiến dịch Điện Biên, nhận bộ quân phục “của bác Mao tặng”, một chiếc mũ vải có vành, một đôi giày Tàu, một cái ca sắt tráng men, cũng “của bác Mao tặng” in hình cờ hai nước “anh em” đỏ loét, tất cả diễn viên văn công quân đội đều được trang bị tươm tất để thành ba mũi vào tiếp quản thủ đô, nơi đó, không ít người chúng tôi đang có gia đình cha mẹ, anh em kẹt lại hoặc...“dinh-tê”.

      Đùng một cái, quân lệnh: “Tô Hải trở lại khu IV xây dựng một đoàn văn công mạnh, phụ trách đầu cầu giới tuyến”. Tôi lại rơi trở lại mảnh đất hãi hùng mà những cái tát nổ đom đóm mắt của cải cách ruộng đất đã làm tôi tỉnh người. Nhưng trong cái rủi cũng có cái may. Tôi không được Trở Lại Đô Thành như bài hát tôi viết năm 1947 sau bị “dẹp” vì những câu “trong toán quân về đếm thiếu những ai?”, hoặc “bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng”... thật ra, may nhiều hơn rủi, vì:

      — a/ Gia đình tôi không còn ai ở lại Hà Nội để chung sống với Cộng Sản cả. Một lần nữa, bố tôi lại chọn đúng con đường của mình, theo cơ quan “địch” vào Sài Gòn!

      — b/ Giả sử tôi được về Hà Nội, con đường “tiêu ma” của tôi sẽ nhanh chóng là cái chắc! Lý do: Tôi sẽ không do dự chọn con đường của các đảng viên Tử Phác, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, của “quần chúng” Hoàng Cầm, Phùng Quán... nghĩa là tôi sẽ đứng trong hàng ngũ Nhân Văn Giai Phẩm xuất phát từ văn nghệ quân đội.

      Sự may mắn đã tránh cho tôi phải nhận cái số phận ấy để mở đầu cho một cuộc sống đầy mưu mẹo trong đó tôi phải đóng vai trò “đảng viên tiên phong văn nghệ sĩ” duy nhất còn lại ở đất khu IV lúc nào cũng hừng hực lửa căm thù đối với những người có học.

      Lúc này Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý, Văn Ký, Lê Yên... đều đã về Hà Nội nên chỉ còn lại một nhạc sĩ là tôi. Dù ở trong quân đội, tôi cũng được “cơ cấu” vào thường vụ chi hội văn nghệ khu IV cùng với Xuân Hoàng, Minh Huệ... Vậy là, Đảng đã nuôi cái Hèn cố hữu của tôi bằng cách trao thêm nhiệm vụ mới, nghe có vẻ quan trọng nhưng sự thật chỉ là chấp hành nghiêm chỉnh những gì Tuyên Huấn Liên Khu chỉ thị hàng tháng phải làm. 

      Để tồn tại ở cái đất dữ này, tôi đã sắm vai hèn sĩ suốt 5 năm! Tôi lấy lý do cần tập trung vào sáng tác, không nhận bất cứ chức vụ phụ trách nào trong “đoàn văn công mạnh đầu cầu giới tuyến”! Mục đích của tôi là tránh mọi trường hợp đối đầu về quan điểm nghệ thuật với hệ thống chính trị đang thống soái, đang “lãnh đạo toàn diện”, thậm chí lãnh đạo kiểu mật thám Tây thời xưa đối với tác phẩm văn nghệ, với văn nghệ sĩ một cách thô bạo.

      Có những chuyện không thể tin nổi như chuyện chi bộ đoàn ra nghị quyết về...bỏ hát bè vì...nghe như...cái chợ, nghị quyết về phông màn, về...mặc váy hay mặc quần cho nữ, thậm chí chi ủy đoàn văn công còn ra cả nghị quyết không được đánh các bản nhạc Tây, không được tập kỹ thuật Tây, bỏ hẳn luyện tập cơ bản ba lê...

      Đó là những năm 1955-1956, đoàn văn công quân khu IV sáp nhập với một loạt đoàn văn công các sư đoàn 304, 308, 371 để trở thành một đoàn “mạnh”. Trên thực tế đó là sự tập hợp cả trăm diễn viên...không nghề, hoặc có nghề nhưng “nửa dơi nửa chuột”, tập trung về khu IV để tăng cường cho phong trào “văn nghệ công nông” ở đầu cầu giới tuyến. Đứng đầu đoàn văn công này là một bí thư kiêm đoàn trưởng cực kỳ lưu manh và dốt nát, có tiểu sử là “gác-đờ-co” cho một đoàn cải lương thời Pháp thuộc nhưng được tên tướng giết văn nghệ nổi tiếng có tên Hoàng Minh Thi cử về để chỉ đạo văn nghệ.

      Giữa không khí luôn luôn nghi ngờ đó, tôi thu mình lại, cố nén mọi uất ức trước các nghị quyết thậm ngu chí ngu của cái chi ủy — lúc này không có tôi dù tôi được 99% phiếu bầu nhưng...liên chi không duyệt — gồm chính trị viên Đồng Ngọc Vân, y tá Nguyễn Đức Chiểu, quản lý kiêm giữ kho Vũ Văn Phúc, anh nuôi Đinh Văn Mẫn... Cái “đầu não trí tuệ” này như là được đào tạo ở Bắc Kinh trở về, nắm trong tay số phận tương lai nghề nghiệp của hàng trăm nghệ sĩ diễn viên. Bảo đi là đi, bảo diễn là diễn, bảo không dựng cái này, bỏ bài hát kia là chỉ có chấp hành. Thỉnh thoảng lại có các phái đoàn tổng cục xuống duyệt chương trình gồm các vị lãnh đạo văn nghệ cấp trên, những Nguyễn Văn Bàn, Trần Văn Ghế nào đó. Đôi khi họ cũng đưa vài văn nghệ sĩ có tên tuổi đi cùng nhưng người quyết định mọi chuyện vẫn là họ.

      Hầu hết những gì tôi viết đều được thông qua ngay lập tức vì tôi có viết bằng cái đầu và trái tim của tôi đâu. Toàn là thứ “nói hộ” Đảng, nói hộ tuyên huấn quân đội mà tôi bịa ra hàng đống từ ca khúc, nhạc múa, đến nhạc đệm cho kịch. Tất cả đều đánh một bè. Chẳng còn chỗ nào thấy là tôi “kỹ thuật thuần túy”, “tư tưởng tư sản” nữa! Lúc này ở ngoài quân đội đang đi vào Cải Cách Ruộng Đất đợt 3 mà khu IV lại được Trung Ương, cử về những đoàn ủy, đội ủy ác ôn nhất. Sơ hở là...mất mạng như không!

      Suốt thời gian ở miền đất dữ Khu IV, không lúc nào tôi không nuôi ý đồ “vượt ngục”. Bất cứ dịp nào chuồn được ra Hà Nội để gặp những người có thể “giải phóng” cho tôi, tôi đều tranh thủ lên đường. Tôi đã dùng “khổ nhục kế” bằng cách xin cấp ủy cho đi học... đàn accordéon 3 tháng! Tất cả thời gian “đi học” này, tôi dùng vào việc vận động hành lang “giải phóng” cho vợ tôi trước. Nhờ quan hệ cả ngoài nhân dân lẫn trong quân đội khá rộng, tôi lợi dụng chủ trương “tiến dần lên chính quy và hiện đại” tìm cách đưa vợ tôi đi học lớp kịch nói của đạo diễn Liên Xô Vassiliev ở Nhà Hát Kịch Nói Trung Ương. Sau đó tôi xin đi học lớp sáng tác chính quy 18 tháng cho các nhạc sĩ do chuyên gia Triều Tiên hướng dẫn.

      Chỉ tiếc vợ tôi thì thoát, tôi thì chưa.

      Kết thúc lớp học của Vassiliev, Đoàn Kịch Nói Trung Ương đề nghị “xin” vợ tôi về để phát triển thành Nhà Hát Kịch Nói Trung Ương. Lúc ấy, bên Quân Đội đang học tập đường lối của “Bác Mao” chủ trương các đoàn văn công phải “lấy ca múa làm chính, lấy đại đội làm nhà”, họ sẵn sàng cho vợ tôi đi. Thế là thoát được một “cái còng tự tạo” là bà vợ khốn khổ của tôi, suốt mười năm múa hát thì dở ẹc mà kịch cỡm cũng không có nghề!

      Phần tôi, sự học thành công quá mức mong đợi lại đưa tôi tới con đường suýt chết lần nữa. Lớp học của chúng tôi được mở giữa năm 1957 và kết thúc cuối năm 1958, trùng vào thời kỳ đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng tôi đang học rất căng thì được lệnh tập trung tại lăng Hoàng Cao Khải. Cuộc họp tập trung nhiều người này, nếu có thể gọi nó là một cuộc họp, có quy tắc “nội bất xuất ngoại bất nhập”, đã được gọi đi họp là không thể ra ngoài, nhằm đấu tố anh em Nhân Văn và...đấu tố nhau!

      Chỉ đạo trực tiếp cuộc đấu tố này là anh hoạn lợn Đỗ Mười! Đây là cuộc “đấu tranh tư tưởng” dài ngày nhất, tập trung đông đủ văn nghệ sĩ nhất. Người trong từng giới đấu nhau, nhạc đấu nhạc, họa đấu họa, văn đấu văn... theo tổ.

      Đưa ra đấu điển hình tại hội trường là mấy tên “phản bội” đã được chọn trước, với lời dặn từ “trên” là “không khoan nhượng.”  Đó là Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán...

      Tôi chỉ xin nhắc sơ một số nét nổi bật trong vụ đấu tố lớn nhất này mà tới tận bây giờ chưa thấy có người nào tả lại. Đó là:

      — 1/ Thái độ cực kỳ đểu giả, cơ hội của những nịnh thần cố biểu lộ bằng mọi cách “lòng trung thành vô hạn với Đảng”. Chính những tên nịnh thần này sau khi cuộc học tập kết thúc đã ra mặt trực tiếp thi hành “án lệnh” của Đảng đầy đoạ một số văn nghệ sĩ đến “tuyệt nọc sáng tác” tận cuối cuộc đời. Chúng dùng mọi hình thức trấn áp, trong đó độc ác nhất là chính sách “tước nồi cơm” để diệt luôn cả con cháu những người bị Đảng muốn trừng trị. Thử hỏi nếu những Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Tử Phác, Đặng Đình Hưng... và nhiều nhiều người nữa không bị cái thủ đoạn “giết người không dao” này hành hạ, làm cho sống dở chết dở, thì sẽ có bao nhiêu tác phẩm xứng đáng để lại cho đời?

      Bọn lưu manh văn nghệ đã triệt để lợi dụng cuộc đấu tố ở lăng Hoàng Cao Khải để kiếm chác trên xác đồng đội. Để tỏ ra sẵn sàng “lập công dâng Đảng” bằng mọi cách, ngoài những “tội” thuộc lĩnh vực chính trị, văn phong, bút pháp, chúng dựng đứng những chuyện thuộc đời tư, mà là những bịa đặt đểu giả không thể tưởng tượng nổi. Càng không thể tưởng tượng nổi khi người đứng lên tố lại là những gương mặt “đáng kính” ở ngoài đời. Ví dụ: một nhà văn nổi tiếng về một cuốn truyện dành cho thiếu nhi, đã đứng tuổi, tố Trần Dần có tư tưởng dâm ô đồi truỵ, bằng chứng là ông ta biết và thấy tận mắt ông bạn hay… “thủ dâm” (kèm theo minh hoạ bằng…tay cách ông bạn làm thế nào). Hoặc một nhà văn không phải chỉ có tài trong lĩnh vực văn chương, mà đa tài trong cả lĩnh vực thơ, nhạc, xưng xưng tố Nguyễn Hữu Đang có tật thích chơi gái, mà đã chơi thì chơi “hai con cùng một lúc”. Tôi xấu hổ khi viết ra những chuyện này, nhưng chúng có thật, là cái mọi người nên biết để thấy hết bộ mặt khả ố của một bầy nô lệ đã mất hết mọi khái niệm đạo lý. Tôi có thể viết thẳng tên những người bị trấn áp, nhưng tránh viết thẳng tên những kẻ tố cáo họ những “tội” bẩn thỉu ấy vì một lẽ đơn giản là không muốn con cháu những tên lưu manh nọ phải đỏ mặt, phải đau khổ vì đã có người cha, người ông khốn nạn đến thế. Tôi tiếc mình không đủ tài, và cũng không còn đủ sức nữa, để viết ít nhất một chương riêng về cái trại tập trung Hoàng Cao Khải này.

      Mong rằng sau này, các nhà văn có mặt trong những ngày ấy, nếu còn sống, sẽ viết lên đầy đủ hơn những câu chuyện thật đã diễn ra. Chỉ cần viết đúng sự thật thôi cũng đủ làm nên một thiên tiểu thuyết rùng rợn, ly kỳ không thua Một Ngày Của Ivan Dennissovich hay Quần Đảo Ngục Tù của Solzhenitsyn.

      — 2/ Thái độ quá run sợ trước bạo quyền của một số bị đưa ra đấu tố cũng rõ rệt. Những người đó, nay người đã qua đời, người đã được lẳng lặng “phục hồi” không một giấy tờ chính thức, nhưng với tôi, người chứng kiến cuộc đấu tố kinh tởm đó, tôi thấy họ quá hèn! Không một người nào dám công khai lên tiếng bảo vệ cái chân lý quá đúng của mình. Không một ai, cho đến hôm nay, dám cãi lý với bọn cầm quyền bất lương, dám hô to “Đả đảo!” hoặc “Tự do sáng tác hay là chết”, dù biết rằng cái chết của mình đã được cái Đảng táng tận lương tâm ấy định đoạt! Hầu hết đều chọn thái độ chịu đựng đến ngạc nhiên, thậm chí, cúi đầu nhận “tội” một cách quá dễ dàng?

      Đó là chưa kể một số, do quá sợ hãi, đã trở mặt “phản thùng” anh em, kể ra những chuyện “nghe nói thế này thế nọ”, làm hại nhau một cách cố ý để “lấy điểm”. Thậm chí, có người như đạo diễn Phan Vũ còn “thành khẩn” đến mức run rẩy khai: “Tôi bị chúng nó dí điện (ý nói kích động) tới mức nếu có biểu tình, tôi sẽ là người cầm cờ đi đầu!?” Thì ra cái hèn nó đã làm giới văn nghệ Việt Nam, bị coi như con giun, cái kiến mà chẳng mấy ai “biết quằn”, nói theo cách Trần Mạnh Hảo.

      Tôi không tin cái Hèn còn lẵng nhẵng đeo đuổi các anh ấy đến tận hôm nay để hy vọng có thể các anh cũng vẫn có “một cái gì đấy” đã viết hoặc đang viết mà chưa có điều kiện và có “gan”công bố. Được như thế thôi cũng đủ cho con cháu chúng ta tha bớt cho cái tội cộng tác với lũ giết người ít nhiều rồi! Bằng không, muôn đời sau, hậu thế sẽ xếp chúng ta vào “tư liệu về bọn văn... nô” dưới cái thời đen tối cộng sản!

      — 3/ Những người có thái độ chấp nhận bị xếp vào loại “lừng chừng”, “không dứt khoát” của “đa số im lặng”, thái độ mà chính tôi cũng lựa chọn, vì thế sau này đều bị Đảng xếp vào loại đảng viên “không có tinh thần bảo vệ Đảng”. Câu này được ghi vào “lý lịch đảng viên” của tôi chỉ vì tôi nhất định không phát biểu một lời nào trong những cuộc đấu tố! Chỉ một lần tôi lớn tiếng thốt ra: “Lâche!” ([1]) trong giờ giải lao ngoài hội trường, khi Thịnh Cóc,  trưởng đoàn văn công quân khu III, hỏi tôi nghĩ gì về thái độ ghê tởm “tự tố” thêm cho mình để ra cái điều thành khẩn của đạo diễn Phan Vũ. Chẳng hiểu do Thịnh Cóc kể lại, hay có kẻ nghe lỏm được rồi “tâu” lên “trên”, nhưng thế là ngay hôm đó trong tổ học tập — ngày nay có lẽ chỉ Tô Vũ còn sống — tôi bị những tên cơ hội nhao nhao ép phải khai ra: “Đồng chí chửi ai hèn?” Tôi cãi là tôi “chửi bọn chơi gái, bọn hút thuốc phiện, bọn... thủ dâm bị tố ở hội trường chứ ai nữa!” Chả là ở hội trường có hai nhà văn lớn, thuộc loại cây đa cây đề, đã xưng xưng tố Trần Dần là “vua thủ dâm”, tố Nguyễn Hữu Đang là “chơi gái thì chơi hai con cùng một lúc”. Thật điếm nhục! Một lần nữa tôi phải xin lỗi bạn đọc không nêu đích danh hai tên “lãnh đạo” bỉ ổi ấy, vì không muốn con cháu chúng phải cúi mặt trước bạn bè vì có cha ông đốn mạt đến thế.

      Trong buổi họp tổ ấy, câu trả lời của tôi không làm bọn cơ hội hài lòng, chúng tiếp tục dồn tôi vào chỗ phải “thành khẩn” nói cho rõ bằng đủ cách. Thậm chí có tên còn trắng trợn tra hỏi tôi: “Có ý định theo gia đình vào Nam không?”, “Có tham gia Nhân Văn không, nếu ở Hà Nội?” Tôi bác bỏ một cách giận dữ chưa từng thấy, mặc dầu chúng đã nói...đúng tim đen của tôi đến 90% chứ không phải ít! Tiếc cho chúng, và cũng may cho tôi, là lúc ấy không ít người có thái độ “không bảo vệ đảng” (im lặng) như tôi nên chúng chẳng thể nào kết tội tôi chỉ bằng vào một tiếng “Lâche” vu vơ (chẳng có số ít hay số nhiều).

      Thế là tôi lại thoát!

      Chính từ cái lớp đấu tố văn nghệ sĩ này mà tôi càng nhìn rõ bộ mặt thật đểu cáng, nham hiểm của bọn lãnh tụ cái Đảng mà không may tôi đã là đảng viên.

      Sau những chủ trương công khai giết người, công khai cướp của trong cải cách ruộng đất, đến cuộc đàn áp trí thức lần này, chưa bao giờ trong tôi nung nấu đến thế tư tưởng rời bỏ cái tổ chức khốn nạn này bằng mọi cách, nếu không muốn có lúc chính tôi sẽ bị chúng “làm thịt”. 

      Cũng chính trong cuộc đấu tố “cải cách ruộng đất trong văn nghệ” nói trên mà tôi có dịp nhận diện những tên khốn nạn nhất, lưu manh nhất mang danh văn nghệ sĩ, thấy rõ bộ mặt thật của những kẻ cơ hội đủ mọi màu sắc, điểm mặt được từng đứa đang lãnh nhiệm vụ diệt tận gốc nền văn nghệ đích thực, thiết lập cái “văn nghệ chuyên chính vô sản” ngu độn.

      Càng tởm lợm, tôi càng quyết tâm rời xa hàng ngũ chúng. Muốn thế trước mắt phải ra khỏi quân đội, nhưng phải ra khỏi một cách lành lặn. Không bị đẩy xuống đơn vị, không bị khai trừ đảng...Tôi nghĩ khi đã “ra ngoài nhân dân” rồi, tôi sẽ tìm cách “tự giải phóng mình” khỏi mọi ràng buộc về “biên chế tổ chức” ăn lương của Đảng. Từ đấy, tôi sẽ dựng lại cuộc đời cho tôi, cho gia đình bằng chính cái đầu và bàn tay của mình, chẳng chịu sự lãnh đạo của bất cứ thằng nào, con nào. Tôi sẽ cố gắng trang bị cho mình thật nhiều vốn liếng về âm nhạc qua lớp sáng tác của các chuyên gia (đang phải tạm ngưng vì cuộc đấu tranh này) để khẳng định chức danh “nhạc sĩ” trong xã hội bằng “một cái gì đó” thật là... âm nhạc để tên tuổi tôi được nhân dân cả nước, thậm chí cả nước ngoài biết đến.([2])

      Tôi phải vượt lên trong lãnh vực chuyên môn để có thể đứng vững, có thể kiếm sống bằng chính tài năng của mình. Ước mơ trở thành một composer đích thực, viết hết sonate số 1 đến số 2, số 3... symphonie số I, số 2, số 3... đã động viên tôi nhịn nhục trở lại ngôi nhà 13 Lý Nam Đế, tiếp tục kiếm cách thoát khỏi muôn ngàn cái bẫy chết người mà bọn “đồ tể văn nghệ”, thay mặt Đảng đang giăng sẵn để triệt hạ những kẻ “không tin được” như tôi.

      Nhưng, tôi lại thất bại, thất bại đắng cay một lần nữa, vì mọi mưu toan của tôi không thể vượt qua những cú đánh hiểm độc của bọn xen đầm văn nghệ.

      Sau lớp học đấu tố, chúng tôi quay về ngôi nhà 13 Lý Nam Đế “dùi mài kinh sử” hòa thanh, phối khí, sáng tác, luyện ngón piano cho hết chương trình “đại học của đại học”. Tôi vùi đầu, ôm bụng loét dạ dày, ngày đêm viết và viết...Chi bộ, lúc này do Vũ Trọng Hối làm bí thư, đã nhiều lần góp ý nên tập trung vào những gì có lợi cho trước mắt hơn là thức cả đêm làm chuyện vô bổ! Tuy nhiên tôi vẫn “liều mạng” làm một cái gì đó “có vẻ âm nhạc một chút”. Tôi “bắt” giáo sư chấm cả những khúc piano, violon... và hơn thế, tôi dán các tờ giấy kẻ nhạc viết ca khúc lại với nhau thành những tờ tổng phổ 18, 24 dòng rồi bắt đầu viết giao hưởng — hợp xướng (cantate) 4 chương Tiếng Hát Biên Thùy đưa cho thầy chấm. Ôi! Thầy Mao Vĩnh Nhất, ông thầy đưa tôi vào con đường nhạc sĩ chuyên nghiệp đích thực, sau này về nước đã bị đấu tố vì “tội” mở đường cho đường lối “văn nghệ tư sản” xâm nhập nước bạn Việt Nam. Ông đã bị tước hết học vị, đưa đi cải tạo và... “biến mất” đến nỗi có ai ở bên nước “Kim Tướng Quân” sang, kể cả vợ ông, một ca sĩ nổi tiếng, khi tôi tìm đến hỏi thăm, đều trả lời: “Chết rồi!” Đó là thời gian mà bên nước ông, người ta bắt đầu nổ súng vào những nhân vật bất đồng chính kiến từ ông Nam Nhật, bộ trưởng bộ Quốc Phòng, đến nhà vũ đạo nổi tiếng thế giới Thôi Thừa Hỷ!

      Ở Việt Nam, cũng manh nha hình thành cái xu hướng chết người đó! Tại ngôi nhà số 11 Lý Nam Đế của ông Lê Chưởng, sát nách ngôi nhà 13 của chúng tôi, các ông Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh ... thường gặp nhau để bàn về việc “lãnh đạo tư tưởng” trong Đảng, đôi khi khá hùng hồn, to tiếng nên đã lọt vào tai bọn tôi, chỉ sống cách các ông không đầy 10 mét! Thật là cơ may cho chúng tôi để thấy được những cái “đầu lớn” nhất nước lại chứa đựng những bộ óc đầy...bã đậu đến thảm hại, đến...nực cười!

      Tuy nhiên, cũng có mấy “ông to” do có nhận thức không giống họ thì không ngớt bị họ lên án, bị cười khẩy sau lưng. Tướng Võ Nguyên Giáp, tướng Lê Liêm do học piano cũng bị dèm pha từ đây. Nghĩa là đã manh nha một sự “chống ngu”, kháng cự bọn “ngu lâu”, tuy còn yếu ớt.

      Việc có nên tập trung 3, 4 đoàn văn công, 7, 8 dàn nhạc để lần đầu tiên cho ra mắt một tác phẩm của bản thân tôi, dù tôi không hề có ý định dàn dựng, phải thảo luận lên xuống cả tháng trời! Cuối cùng, phe “tiến bộ” đã thắng! 80 diễn viên hát, 60 nhạc công của cả quân đội lẫn nhân dân được tập trung về Hà Nội để làm một việc chưa từng có trong lịch sử âm nhạc Việt Nam thời ấy: dàn dựng bằng được cantate Chiến Sĩ Biên Thùy của Tô Hải!

      Tôi đã viết hợp xướng 4, 6 bè cùng với giao hưởng hai quản ngay từ khi nước nhà chưa biết dàn nhạc giao hưởng là cái gì. Chỉ riêng chương trình in trong ngày biểu diễn đầu tiên đã có bàn cãi nên ghi là đồng ca, hợp xướng, đại hợp xướng hay tổ khúc? Sau gần 1 tháng, dưới sự dàn dựng và chỉ huy của chuyên gia Triều Tiên Triệu Đại Nguyên, sáng tác của tôi ra mắt chào đời, dù còn thiếu một số nhạc cụ như timpani, cor, trombone.

      Lúc này Chu Minh, Hoàng Vân đang ở Tàu, Đỗ Nhuận, Nguyễn Đức Toàn đang ở Liên Xô, trường nhạc chỉ mới có hệ trung cấp “tự dạy tự học” do ông Tạ Phước làm hiệu trưởng. Sáng tác của tôi đã gióng lên hồi chuông báo động: “Không học thì đừng mong làm nhạc sĩ!”

      Khi viết cantate này, lúc đầu tôi chỉ nhằm mục đích “moi” thật nhiều những gì chuyên gia có trong đầu để trang bị cho mình cái vốn sau này. Thực tế đã chứng tỏ Lương Ngọc Trác, bạn đồng học của tôi đúng, khi anh rỉ tai tôi: “Cắn răng mà học rồi ấm vào thân đấy, Hải ạ!”

      Tôi cũng không ngờ phe ủng hộ Cái Mới...thắng thế, để một tác phẩm âm nhạc tạm gọi là “tầm cỡ” vào những năm 1959-1960 ấy được ra đời! Đặc biệt hôm chính thức ra mắt tại Nhà Hát Lớn nhân dịp kỷ niệm 15 năm thành lập quân đội ngày 22-12-1959, tác phẩm đã được gần như cả Bộ Chính Trị, trừ ông Hồ, đến xem và hoan hô nhiệt liệt. Tôi ngồi bên giáo sư Mao Vĩnh Nhất nên khi “các cụ” đến bắt tay cũng được “rờ nhẹ” bàn tay các cụ. Riêng “anh Văn” Võ Nguyên Giáp đang bị dèm pha về chuyện dỗi hơi đi học nhạc lý nhạc sĩ Tô Vũ, học piano Hồng Hạnh, nghệ sĩ dương cầm của Đoàn Văn Công Tổng Cục Chính Trị đã kèm theo câu: “Khá lắm!” Bạn bè khen nức nở. Chiến sĩ từ biên giới, hải đảo viết bài trên báo, gửi thư cảm ơn.

      Nhưng khốn nạn cho tôi, tôi đâu có ngờ đây chính là giai đoạn mở đầu một cuộc đấu đá, nhân danh giai cấp vô sản, để triệt tiêu cá nhân tôi, bằng cách đưa tôi vào đường ngắm bắn của đường lối văn hóa vô sản!

      Mở đầu là việc đưa tôi về đâu sau khi tốt nghiệp với khá nhiều tiếng vang như thế? Không còn chuyện đường lối văn nghệ văn nghẽo gì mà bao trùm lên cả là lòng đố kỵ. Những tên văn nghệ chính trị cơ hội đã ngăn cản không cho tôi “thừa thắng xông lên” khi không ít ý kiến của lãnh đạo, cả trong và ngoài quân đội, là tôi nên về các đoàn văn công đang tiến lên chính qui hiện đại ở Trung Ương để phát huy khả năng phục vụ. Đây là ý kiến của các ông Lê Liêm, Lưu Hữu Phước. Nhưng bọn sợ tôi sẽ là “ngôi sao” át mất chúng, đặc biệt là tôi biết rõ chúng dốt đến mức nào. Chúng đã đưa ra mọi lý do để lại “đầy” tôi về một đoàn văn công gian khổ nhất, hãi hùng nhất, để chịu đựng thêm mấy năm bị đánh lên đạp xuống vì đủ thứ tội như “mất lập trường”, “tư tưởng tư sản trong nghệ thuật”, “chống đối có hệ thống” với...cấp ủy.

      Sau đó là những năm người ta giải tán dần các đoàn văn công bằng cách đưa ra khẩu hiệu “hướng về đại đội phục vụ chiến sĩ”. Lấy “hướng dẫn phong trào” là mục tiêu chính, thậm chí để đàn, để kèn ở nhà, “hạ phóng” làm lính, làm thợ xây, phu hồ xây dựng doanh trại vv...nghĩa là tất cả cái gì tôi và các bạn tôi được học chính quy đều nằm trong mục tiêu: Phải...dẹp!

      Cũng thời gian này, giữa những năm 1960, báo Văn (gọi là “hậu Nhân Văn”) bị tấn công tới tấp. Sự thèm khát tự do, nổi lên bề mặt của cuộc sống tinh thần là tự do sáng tác vẫn không thể giết chết hẳn với việc xử trảm Nhân Văn Giai Phẩm. Người ta viết bài chào mừng hồng vệ binh, trích Mao tuyển, ca ngợi thành tựu vĩ đại bên nước bạn nhờ có “Đại Cách Mạng Văn Hoá Vô Sản”. Các đoàn văn công, nghệ sĩ tiếp tục “hạ phóng” đi về nông thôn học tập lao động và tự “cải tạo tư tưởng bằng lao động”.

      Một cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân, chỉnh Đảng mới, được phát động nhằm chống lại “khoa học kỹ thuật thuần túy”. Người ta giương ngọn cờ “chính trị là thống soái” để đánh vào người muốn đích thực “làm nghề”, kết tội ai muốn chuyên tâm vào khoa học hay nghệ thuật. Bắt đầu sự tiến băng băng trên hoạn lộ của những bác sĩ không đọc nổi tên thuốc, những nhạc sĩ không biết và cũng không cần biết các giao hưởng của Beethoven, Chaikovsky hay ở chỗ nào.

      Mọi tin tức từ khắp nơi dồn về dù chỉ là qua những cái đài transistor Liên Xô, Hungari to đùng cũng đủ để tôi thấy chủ nghĩa cộng sản đã bước vào chương... bắt đầu của sự kết thúc! Bộ mặt ác quỷ của nó đã hiện ra sau các vụ đập phá tan tành những đền đài, di tích văn hoá, đốt sách, làm nhục, bức tử giáo sư, nghệ sĩ, tàn sát hàng loạt người vô tội ở Trung Quốc, các vụ hồng quân Liên Xô đưa xe tăng vào Budapest, nã súng vào người Hungary, treo cổ Imre Nagy, sau cuộc tiến quân của liên minh Warszawa vào Praha, nhất là sự kiện hàng vạn đảng viên trí thức, văn nghệ sĩ tuyên bố ly khai khỏi các đảng cộng sản…Tất cả những cái đó càng thôi thúc tôi phải mau chóng vứt bỏ cái danh hiệu xấu xa, nhơ nhuốc “đảng viên cộng sản”.

      Giữa lúc đó, tôi được lệnh gọi về Trung Ương.

      Để làm gì đây?

      Hoá ra ông Lê Liêm đã nhân dịp này giải phóng cho tôi ra đảng theo chính...con đường của Đảng!

      Nhờ các ông Lê Liêm, Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước.., ân nhân nhớ đời của tôi, tôi được chọn làm cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”, một thứ của hơi hiếm, biệt phái sang bộ Văn Hóa. Thật nực cười! Dù sao đây cũng là cơ hội ngàn năm một thuở cho tôi thoát khỏi cái “lồng quân đội” mà tôi cho là tệ hại nhất trong các nhà tù tư tưởng của chủ nghĩa xã hội!

      Đang được điều động đi phục vụ Đại Hội VI, viết nhạc cho vở kịch lớn Trước Giờ Chiến Thắng của Đào Hồng Cẩm, tôi cùng một số anh em như Hà Mậu Nhai, Hà Minh Tuân…nhận được giấy tập trung tại ban Tuyên Huấn Trung Ương ở số 5 Nguyễn Cảnh Chân để nghe phổ biến tình hình thế giới phe xã hội chủ nghĩa đang lộn xộn thế nào, tình hình trong nước, giai cấp tư sản đang ngóc đầu dậy ra làm sao? Nhiệm vụ trước mắt, nhiệm vụ hàng đầu của chúng tôi, những người lính văn nghệ được Đảng tín nhiệm, là phải phát huy vai trò người “lính gác cửa”, kiên quyết không để cho tư tưởng phi vô sản lọt qua vv ...

      Thế là áo bốn túi, mũ cối đỏ choét phù hiệu, vai vàng khè quân hàm trung úy, tôi bước vào ngôi nhà 94 Tô Hiến Thành, nhận nhiệm vụ “lính gác cổng văn nghệ vô sản” với chức vụ biên tập nhà xuất bản Mỹ Thuật Âm Nhạc! Chính từ chủ trương tăng cường cán bộ cốt cán của quân đội cho bộ Văn Hóa mà sau này bộ Văn Hóa bị những cú vả sái quai hàm. Một số chẳng hiểu biết ất giáp gì về văn hóa văn nghệ như Võ Hồng Cương, Mai Vy, Trần Văn Hải từ bộ đội chuyển sang, nhận những chức vụ quan trọng vụ trưởng, vụ phó, giám đốc. Có thể kể thêm Trần Ngọc Lê, giám đốc nhà hát giao hưởng, Nguyễn Đình Tính, giám đốc nhà xuất bản Mỹ Thuật Âm nhạc, Lý Thương, giám đốc nhà hát ca múa nhạc trung ương và cả những tên cơ hội từ tiểu đội trưởng khai man là tiểu đoàn trưởng để được giao nhiệm vụ giám đốc như Hồng Việt, giám đốc xưởng phim đèn chiếu...

      Kể cũng tội cho họ. Đảng đã quyết thì họ phải “liều mạng” mà thi hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, trong họ cũng có người tốt, kẻ xấu. Như cái ông Nguyễn Đình Tính, giám đốc của tôi thì tôi rất biết ơn ông. Làm gì, thu thanh bài nào, bỏ hoặc thông qua bài nào, ông đều hỏi ý kiến anh em chuyên môn. Có những lúc không thể nhịn cười, khi ông gạch đít một bài dân ca mà theo ông “có vấn đề” bởi có câu “Chiều chiều ra đứng (tây mà...) lầu tây” rồi viết bên cạnh: “Giai cấp nào mà có lầu đây?” Nhưng khi tôi giải thích như thế như thế thì ông nghe ngay. Không những thế, ông còn không ngớt đề cao tôi, kiếm nhà cho vợ chồng tôi, ký quyết định thu thanh một loạt tác phẩm kể cả Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy  để tôi có số vốn ban đầu ổn định lâu dài tại đất Hà Nội! Tôi trở thành cánh tay phải, thậm chí bộ óc của ông một thời gian và cũng trở thành mục tiêu đố kỵ của một số “rạc sĩ giời đánh” đang kèn cựa nhau để có tí chức quyền dù chỉ là phó phòng!

      Trưởng phòng thì đã có một ông đại úy pháo binh đảm nhiệm tên là Nguyễn Đình Quý. Phó giám đốc có ông Châu mù (tôi quên mất họ)... mù tịt về mỹ thuật, dù dưới quyền ông có những cỡ lớn trong giới hội họa như Huỳnh Văn Gấm, Quang Phòng... cũng như Xuân Giao, Thái Cơ, An Chung bên phòng nhạc. Họ không được giao nhiệm vụ gì hết, do họ chưa là đảng viên!

      Còn tôi, lý do duy nhất khiến tôi chỉ là biên tập viên vì... chưa có giấy giới thiệu và lý lịch chính thức từ Quân Khu IV cho chuyển Đảng! Tôi sang “bên nhân dân” chỉ có cái quyết định (bản sao) của ban Tuyên Huấn Trung Ương đóng dấu chữ nhật to đùng do ông Tố Hữu ký. Tất cả các cán bộ được điều chuyển đều còn chờ một tờ giấy gửi từ Khu IV ra để tôi nhận nhiệm vụ phó giám đốc vì lúc này, ở bên họa cũng như nhạc từ Phan Huỳnh Điểu, An Chung, Thái Cơ, Xuân Giao chưa ai được “bất hạnh” là đảng viên!

      Phải nói them rằng điều kiện để tôi rút khỏi cái tổ chức nguy hiểm chết người cũng nhờ một phần khách quan từ trên “trời” rơi xuống. Đó là ngay trong Đảng, hai phe thân Tàu, thân Nga đã lộ diện. Phe này chửi phe kia là tả khuynh, hữu khuynh, là xét lại... Sự thật là lý luận Mác-Lê Nin đã đi vào khủng hoảng ngay ở nước mẹ của nó, ở cả hai nước anh cả, anh hai... từ lâu rồi.

      Ở Hà Nội, lũ học trò chữ Tây cũ chúng tôi, những Chính Yên, Thiết Vũ, Trần Đĩnh...đâu có thiếu báo chí tài liệu nước ngoài. Ngay trong giới văn nghệ, những anh có học và vô học lúc này càng phân hóa rõ ràng. Mấy cha “bần cố giả vờ”, không nghe, không đọc gì ngoài đài phát thanh của ông Trần Lâm, báo Nhân Dân của ông Hoàng Tùng, thì chơi với nhau. Mấy cha nghiện Paris Match, Le Figaro, Le Monde thì nhìn bọn “Dạ! thưa anh” bằng con mắt cực kỳ khinh bỉ.

      “Hiện thực xã hội chủ nghĩa”, “thẩm mỹ Mác-Lê Nin” bị biến thành chuyện tiếu lâm. Chúng tôi cười vào mũi mấy anh “thành phần cơ bản” bằng cách dẫn chứng sự thoái hóa của chủ nghĩa Mác với chính lý luận của Marx, Engels, Zinoviev, Garaudi... Có anh “bảo lưu” quan điểm “xét lại”, công khai treo ảnh Khrushov ngay giữa sa-lông. Chúng tôi viết bài (không đăng) vạch ra cái dốt về lý luận cơ bản như “Thế nào là hiện thực trong các loại hình nghệ thuật?”, “Hiện thực xã hội chủ nghĩa là cái gi? “Thế nào là Đảng tính, giai cấp tính, nhân dân tính”? Nổi bật là việc báo Văn bị coi là “hậu Nhân Văn”. Rồi đến các tác phẩm Vào Đời của Hà Minh Tuân, Đống Rác Cũ của Nguyễn Công Hoan, mấy truyện ngắn của Nguyên Ngọc (Mạch Nước Ngầm), Vũ Thư Hiên (Đêm Mất Ngủ), Ngô Ngọc Bội (Chị Cả Phây) … bị chính lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu đánh. Một loạt tùy bút tưng tửng của Nguyễn Tuân (đặc biệt là Phở) bị xếp vào loại... vô chính trị. Mà đã vô chính trị tức là không chịu sự lãnh đạo của Đảng.

      Riêng tôi, cũng bị dính vào loại “có vấn đề” qua những bài hát như Qua Sông Lại Nhớ Con Đò, những bài hợp xướng rối rắm, lắm bè nghe như...cái chợ, “sặc mùi tiểu tư sản”! Tiếng Hát Biên Thùy bị cắt hai chương, không cho biểu diễn là các chương có giai điệu êm ái tiết tấu nhẹ nhàng. Cũng chính lúc này, trong quân đội, nhân dịp tổ chức lại các sư đoàn, quân khu người ta giải tán luôn các đoàn văn công lớn, xé lẻ mọi tổ chức văn nghệ cồng kềnh khó lãnh đạo dễ cho mọi tư tưởng phi vô sản luồn vào!

      Cơ may từ trên trời rơi xuống cho tôi nhờ chính sự phá hoại của bản thân những tên lãnh đạo ngu dốt nhất đang ôm chặt chân Mao để “khử” những người không đồng chí hướng, khép họ vào “xét lại”, khai trừ họ khỏi Đảng, thậm chí thủ tiêu, bỏ tù hàng loạt. Trong số người có công nhất với giới văn nghệ, ông Lê Liêm là người bị đánh ngay đòn phủ đầu do anh thư ký của ông tên Thẩm, nghe đâu bị bắt vì tội đã chuyển văn bản nghị quyết 9, chống xét lại cho Cherbakov, đại sứ Liên Xô.

      Tiếp theo là những Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Vịnh... và nhiều nhiều người nữa bị bỏ tù, bị khai trừ Đảng, bị quản thúc tại gia. Riêng trong giới văn nghệ đi tù, thời này chỉ có Vũ Thư Hiên, Lê Huy Vân... còn lại đều bị kiểm điểm, hoặc mất chức, hoặc thu hồi tác phẩm.

      Tóm lại các tổ chức văn nghệ, vừa tiến lên chính quy và hiện đại được một bước thì phe Mao-ít nhân danh “chống xét lại” đẩy lùi về thời nghiệp dư tới 10 bước.

      Vậy mà, tôi mừng quá, mừng hơn khi “giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về”! Vì chính nhờ sự “phá hoại do chống nhau có tổ chức” này, tôi có cơ hội thoát khỏi nhà tù nhỏ đang nhốt một anh “nhạc sĩ đảng viên” mặc áo lính một cách êm re.

      Tôi chẳng bị khai trừ, nhưng chẳng phải quần chúng, chẳng phải đảng viên, chẳng phải nhân dân, cũng chẳng phải quân đội! Năm 1986, khi về hưu tôi mới trả lại tất cả quân hiệu, quân hàm, chứng minh thư quân nhân, chẳng thèm đòi hỏi bất cứ chính sách nào, sau 25 năm bị Đảng, bị Quân Đội bỏ quên! Hơn thế nữa, cái tổ chức lèm nhèm đến vô tổ chức đó cũng chẳng cần để ý xem Tô Hải là lính hay là dân, là đảng viên hay quần chúng, dù khi tôi từ giã hẳn cái tổ chức rất... vô tổ chức đó, họ vẫn cấp cho tôi một tờ quyết định có tiêu đề Đảng Cộng Sản Việt Nam - Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đóng dấu hình chữ nhật đỏ loét do phó bí thư thành ủy Nguyễn Võ Danh ký!

      Thật là lạ đời!

      Rút kinh nghiệm 40 năm sống chung với Đảng, tôi kiên quyết không chìa cái giấy quyết định có thể “kiếm chác” này ra khi trở về khu phố. Vài ông bạn già, khi đi lĩnh lương hưu, gặp tôi thường hỏi: “Sao không thấy ông đi sinh hoạt chi bộ?”. Tôi chẳng ngượng ngùng gì khi trả lời: “Các cụ nhầm rồi! Tuy có 43 năm “đi làm cách mạng” thật đấy, nhưng “tôi chưa hề là đảng viên đảng cộng sản!”

      Vợ tôi có lúc khuyên tôi nên khiếu nại về cái sự vô trách nhiệm trong quản lý cán bộ để tôi bị “mất liên lạc”! Bởi nếu được tính 55 tuổi Đảng thì, khi hóa giá căn hộ mà Nhà Nước cho thuê từ năm 1975, tôi sẽ được “ưu tiên”. Tôi đã trả lời vợ tôi: “Bao nhiêu năm “đóng kịch”, bao nhiêu mưu mẹo để được đứng trong hàng ngũ nhân dân, chối bỏ cái quá khứ làm “xen đầm văn nghệ”, làm đầy tớ cho những thằng ngu, nay được tự do, được tuyên bố “Tôi không là đảng viên cộng sản” là may, là tốt lắm rồi.

      Tôi càng không phải chịu trách nhiệm, không ai coi tôi là đồng lõa của bọn “ngụy cộng sản” thời Đổi Mới này”. Hãnh diện quá đi chứ, vinh quang quá đi chứ! Hà cớ bây giờ, chỉ vì căn hộ chưa đầy 60 mét vuông, lại phải muối mặt làm “lão già hèn” nữa hay sao?

      Hãy cho tôi được chết như các anh Trần Độ, Lê Liêm... khi đăng “cáo phó” không có cái mục “ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM”, dù so với các anh, tôi chỉ là con tôm, con tép!

      Các anh đã “ĐƯỢC KHAI TRỪ”.

      Các anh đã dám “công khai chống Đảng cộng sản”, dám công khai nhận “bản án đầy vinh quang”!

      Không hề sợ hãi, cúi đầu.

      Không hèn lâu như tôi. /.



      Viết thêm, xong ngày 20 tháng 4 năm 2007 khi bước vào tuổi 80 được 8 tháng 26 ngày.

      ----------------------------------------------------------------------

      ([1]) Lâche = hèn (tiếng Pháp).

      ([2]) Năm 1968, tên tôi đã được ghi trong Encyclopédie de la Pléiade của Pháp cùng 10 nhạc sĩ miền Bắc Việt Nam.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2009 14:53:36 bởi lyenson >
      #18
        lyenson 02.07.2009 11:59:43 (permalink)
        Khi quyển: "Hồi Ký Của Một Thằng Hèn" được ra mắt tại vùng Nam California ngày 13 tháng 06 vừa qua thì đã được độc giả nồng nhiệt đón tiếp. Ấn bản đầu của quyển sách nầy (ở Tủ Sách Tiếng Quê Hương) đã bán hết sạch. Ngay sau buổi ra mắt cũng có các bài viết phê bình (Nhạc Sĩ Tô Hải, Hèn Hay Không Hèn? của tác giả Đỗ Văn Phúc đăng ở vài trang web và diễn đàn khác nhau, không ghi rõ ngày tháng), và ở bài khác (Bức Chân Dung Tự Hoạ của Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất). Nội dung chính trong hai bài viết kể trên chỉ nhằm phê bình vào tác giả Tô Hải là người con trai "mất dạy" vì đã "ra lệnh đập vỡ tấm bia mộ" của thân sinh mình.
         
        ... "Hội đồng gia tộc trong họ của anh ta đã họp lại và nhất quyết khai trừ khỏi họ hàng “thằng con mất dạy” dám đập mả bố nó.” (trích trong: Bức Chân Dung Tự Hoạ, Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất) và "Tô Hải đã biểu lộ bản chất CS mất dạy của mình bằng cách lớn tiếng chửi bới và ra lệnh đập vỡ tấm bia mộ cha mình". (trích trong: Nhạc Sĩ Tô Hải, Hèn hay Không Hèn? Đỗ Văn Phúc).
         
        Ở đây, PTV (tác giả) không bàn về các bài viết kể trên cũng như về quyển sách Hồi Ký Của Một Thằng Hèn (HKCMTH), hoặc viết về tiểu sử của nhạc sĩ Tô Hải (vì đã có các bài viết của tác giả khác về các chuyện nầy rồi) mà chỉ muốn trình bầy cho quí độc giả các bài viết khác của ông, để xem con người ông ra sao? Trong trường hợp nào mà ông tự nhận là: MỘT NGƯỜI HÈN.
         
        Nhạc sĩ Tô Hải có HÈN như lời ông bộc bạch không? Thực ra từ rất lâu, nhạc sĩ Tô Hải đã viết các bài viết ngắn như bút ký, tự sự ... về những chuyện quá khứ trong đời ông đã trải từ lúc ông còn là một Vệ Quốc Đoàn (thời 9 năm đánh Tây), các tản mạn về những sự việc đã, đang xẩy ra trong nước của những lúc gần đây (Dự án xa lộ Đông Tây, vụ biểu tình về Hoàng Sa-Trường Sa...), về bạn bè (những cựu bộ đội đồng khóa VI trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn, về các họa sĩ Lưu Công Nhân, Dương Bích Liên, các văn-thi sĩ Phùng Cung, Phùng Quán, Tuân Nguyễn ...), và những thực tế trong xã hội đã làm ông sáng mắt (những người dân thành thị miền Nam sau ngày 30-4-1975). Những bài viết của ông được đặt tên là những điều đang "từ hiện tại làm ông nhớ phải đến quá khứ", những "suy nghĩ lẩm cẩm vào đầu năm" hoặc về các cá nhân nổi tiếng như ông Trần Thiếu Bảo (Giám Đốc Nhà Xuất Bản Minh Đức trong vụ án văn hóa Nhân Văn-Giai Phẩm trong cuối thập niên 1950), về anh nhạc sĩ trẻ Nguyễn Thanh Toán (Toán Xồm) và với cá nhân Lê Khả Phiêu cũng như cả với lãnh tụ Hồ Chí Minh nữa. Ta hãy đọc các đoạn viết dưới đây của ông:
         
        Những ngày tháng trong giai đoạn 30-4-1975:
         
        ... " Và đi đâu tớ đều thấy cái THỰC TẾ RÀNH RÀNH là miền Nam sướng gấp trăm lần miền Bắc, dù tiếng súng chỉ mới im lặng sau miền Bắc có hơn 2 năm trời (chỉ tính từ khi Mỹ ngừng ném bom miền Bắc). Hàng hóa, thực phẩm từ nông thôn đến thành thị, đâu đâu cũng thấy thừa mứa, rẻ rề. Trong khi ở miền Bắc, miếng đậu phụ, lạng thịt cũng phải có phiếu thì ở miền Nam, bác ngư dân Hai Tường ở Cà Mâu có thể ngồi tại nhà quờ tay xuống nước vớt lên cả một cần xé cá, tôm đang còn giãy đành đạch, chiêu đãi đoàn nhạc sỹ cánh tớ nhậu suốt một ngày! Buồn cười Huy Du, có tiếng là thật thà còn hỏi nhỏ bác chủ nhà: "Ba bữa nhậu ngày, một bữa cháo rắn hổ mang đêm, thế này, có làm bác tốn kém lắm không"? Bác ta cười ha hả trả lời: "Tôm cá dưới sông, rắn nằm trong bụi, có mất tiền mua đâu mà tốn với kém!". Nói rồi, bác cầm bao "555", rút một điếu, xé giấy, vứt đầu lọc, nhồi thuốc vào... nõ điếu thuốc lào, rít một hơi dài, rồi nói thêm trong khói thuốc: "Các chú thế là chưa biết gì về miệt Cà Mâu này rồi! Chim trên trời, cá tôm dưới nước, thiên nhiên này nuôi sống chúng tôi bao đời nay! Chẳng lo phải thiếu miếng ăn đâu mấy chú ạ! Bây giờ hòa bình rồi, tha hồ mà đi khơi, đi lộng, chẳng lo tên bay đạn lạc, lo tàu Hải Quân xục sạo tìm Việt Cộng, cản trở làm ăn, thế là sướng rồi! Nào! Nhậu đi mấy chú!". Thế đấy, một người ngư dân bình thường đã "tuyên truyền" về cái sướng vật chất (và có lẽ cả tinh thần?) hơn hẳn của miền Nam bị "kìm kẹp", cho chúng tớ quá đơn giản nhưng cực kỳ ... thuyết phục! Tớ không đến nỗi bất ngờ mà phải "ngồi xuống vệ đường mà khóc vì thấy mình bị đánh lừa" như Dương Thu Hương. Trái lại tớ lo, lo cho tương lai của bác ngư dân này khi "bị" vào hợp tác xã, phải bán sản phẩm cho Mậu Dịch, phải cấm cả miệng mình ăn một con tôm do chính tay mình câu lên (một trong những điều cấm của các hợp tác xã đánh bắt thủy hải sản ở Đồ Sơn, ở Cát Bà, Cát Hải mà Sở Thủy Sản Hải Phòng đã tổ chức cho một đoàn nhạc sỹ chúng tớ đi thực tế để ...trái tim thấy nhiều lần nhói lên về cái thực tế phũ phàng này!). Trên đường về, trên xe, một trong những đề tài thường được chúng tớ tranh luận là: Miền Nam có thể nào đi theo con đường tiến lên XHCN kiểu miền Bắc không? Và gần như ai cũng nhận thức được "Cái mảnh đất giầu có trời cho", cái con người miền Nam sống tự do như dân vùng Cà Mâu này khó có thể chịu cái cảnh sống của ngư dân Đồ Sơn, Cát Hải được! ... Tuy nhiên, đêm đó tại căn hộ của tớ cũng nổ ra một cuộc tranh luận về đề tài: Liệu "Ta" có cải tạo tư sản, có cấm buôn bán, liệu có đóng cửa hết mọi cửa hàng ăn, các cafeteria, các bar như Rex, Givral, Maxim's ... không? Chỉ riêng tớ là dám nói: "Sẽ cấm!" Còn tất cả đều ngờ vực ... Vì tớ là một anh ăn nói liều mạng nhất nên tớ dám phát ngôn "vô trách nhiệm" là ...trong tay ông X, ông Z thì ... mười Chợ Lớn các ông ấy cũng phá tan như không! Chủ nghĩa xã hội đâu chấp nhận cái cảnh giai cấp trung gian (tức là thương nghiệp), đâu có chấp nhận công cụ sản xuất (nhà máy) nằm trong tay bọn tư sản! Nhân đây cũng xin kể một chuyện vui mà có thật 100%. Em ruột tớ (Tô Hiền), nhân có dịp các văn nghệ sỹ miền Bắc vào cũng có ý "khoe" tớ và đám bạn bè tớ cho mấy anh em trí thức văn nghệ sỹ miền Nam, bèn tổ chức một bữa tiệc mừng tại biệt thự Tĩnh Tâm của bố tớ để lại. Trong lúc Tô Hiền đang còn dài dòng giới thiệu chưa xong thì, họa sỹ Lưu Công Nhân, bạn học của Hiền thời kỳ Pháp thuộc, bỗng cầm cốc rượu Napoléon lên, đứng phắt dạy, ngắt lời: "Này thôi thôi! Mời các vị nâng cốc uống mau đi, kẻo ít nữa chẳng có ... *** gì nữa mà tiệc với tùng đâu!!". Cử tọa lặng người vì câu nói quá "bá láp" của cái ông họa sỹ cộng sản này! Kể ra LCN nói cũng thiếu ... văn nghệ một chút nhưng những điều anh nói ra rõ ràng là sau này trở thành sự thật khi nhu yếu phẩm, từng lạng thịt, thìa bột ngọt cũng phải chia về cơ quan, khối phố! Cũng xin nói thêm sau này chính anh là người thứ hai, sau Dương Bích Liên xin ra Đảng và còn cười giỡn và nói: "Tao vào Đảng sau mà lại được ra trước, khối thằng vào trước tao mà cũng chưa được ra!". Chuyện này trong giới văn nghệ miền Bắc còn kể cho nhau nghe mãi về sau ... khi anh đã không chiụ "lệnh trục xuất" về Bắc của ông Bảy Bảo Định Giang mà sẵn sàng ra khỏi biên chế để được ở lại miền Nam làm một anh "họa sỹ tự do" cho đến năm 2007 thì qua đời ở Đà lạt. Thực tế ở miền Nam nó phản tỉnh vào tâm hồn con người văn nghệ sỹ bằng nhiều cách nhưng nói chung là mọi nhân sinh quan, mọi lập trường, quan điểm nó đảo lộn tất cả trong mọi cái đầu và trái tim của những người đã từng làm văn nghệ minh họa (mà đại tá nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết lời ai điếu). Dẫn chứng gần nhất là lời tuyên bố của nhà văn nổi tiếng là khôn, Nguyễn Khải, trên giường bệnh lúc sắp giã từ cuộc đời được đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 11/1/2008 là: "Miền Bắc cho tôi Độc Lập, miền Nam cho tôi Dân chủ và Tự do", thì đủ biết THỰC TẾ MIỀN NAM đã giải phóng cái đầu và trái tim tụi tớ như thế nào! Và chẳng phải một mình giới văn nghệ, giới chính trị cũng phải nhận thức ra "Không thay đổi cách nhìn, cách lãnh đạo là ... nguy to! Và ... "Đổi Mới" đã ra đời ... Cả hai miền đã đuợc ... "cởi trói" tiến vào kinh tế thị trường nhưng ... đang còn vướng cái đuôi ... XHCN???????? ( trích trong: Đi thực tế miền Nam mới "giải phóng").
         
        ... "Cho nên, tớ càng thấy mến phục những nhân tài thật sự của miền Nam bao nhiêu thì lại càng ... thương cho mấy bác văn nghệ bị ăn quá nhiều "lạp xường" ở miền Bắc bấy nhiêu. Cứ tưởng Đảng ta thắng về quân sự phen này thì văn nghệ của Đảng cũng đại thắng ở vùng mới giải phóng ... Sự thật ra sao, cho đến ngày hôm nay, sang năm con chuột mậu (chưa dịch) này từ con nít cũng biết Văn Nghệ Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa đã "hô biến" trên thị trường! Diễn biến của cuộc đấu tranh ai thắng ai trên mặt trận văn hóa văn nghệ này là cả một quá trình trên 30 năm, trong đó có tớ tham gia 11 năm rồi "bỏ của chạy lấy người" (về hưu năm 1986)...
         
        ... "Bởi vậy, chưa giải phóng miền Nam mà tại miền Bắc đã vang lên từ các gia đình cán bộ đến quán trà đầu phố những tiếng hát Thái Thanh, Lệ Thu, Hà Thanh, Elvis Phương và nhất là Khánh Ly, cái giọng ma quái đã hút hồn kể cả nhưng nhà lãnh đạo "có cỡ" bằng những ca khúc của Trịnh Công Sơn, chẳng ủng hộ ai mà cũng chẳng chửi ai cả!". (trích trong: Thần Tốc Vô Sài Gòn).
         
        ... "Phải nói thẳng ra rằng: Tớ yêu Sài gòn, yêu miền Nam chẳng vì bất cứ cái lý tưởng chính trị nào mà chỉ thèm được sống trong vòng tay yêu thương của gia đình, bè bạn và được sống, ăn, ở, mặc, đi lại, ít nhất cũng bằng bác cai Thư, chuyên làm loong toong sai vặt cho Sở của bố tớ trước 45! Nói trắng ra rằng: Tớ hoàn toàn tin tưởng ở cuộc sống vật chất của miền Nam hơn hẳn miền Bắc ngay từ những khi còn đi học, huống hồ 30 năm viện trợ Hoa Kỳ đổ vào, lẽ nào vô Sài gòn tớ không có cuộc sống vật chất gấp 100 lần khi còn ở miền Bắc sao? Với niềm tin không thể lay chuyển đó, tớ đổ bộ xuống sân bay Tân Sơn Nhất mà người cứ lâng lâng như say rượu, cứ ngơ ngơ ngác ngác, luống ca luống cuống kể cả tới khi khi leo lên chiếc xe Ford 8 máy ra tận máy bay đón bọn tớ! Có lẽ cậu lái xe (cháu nhà văn Nguyễn Văn Bổng) muốn khoe "Hòn Ngọc Viễn Đông" để "hù" mấy anh văn nghệ miền Bắc nên anh đã cho xe chạy đi khắp cả những con đường đông vui nhất, nhiều nhà hàng, khách sạn nhất...trước khi đưa bọn tớ về cái building 83 Phan Kế Bính, nơi tạm đặt trụ sở của Nhà Xuất Bản Giải Phóng!". (trích trong: Sài Gòn, những cú sốc liên tiếp...).
         
        ... "Và tớ tin hoàn toàn vào những gì mà các bạn trẻ hôm nay và mai sau sẽ còn được đọc nhiều "những trang đời" rất thật của nhiều tác giả khác nữa sau này ... trong đó có tớ! Tóm lại là, như tớ đã viết trong một entry, văn nghệ sỹ miền Bắc chúng tớ, so với anh em ở miền Nam thì ... thua đứt đi cái Tự Do Sáng Tác! Họ không phải viết theo yêu cầu của một cơ quan, đảng phái hay một tổ chức, nhà nước nào, không ăn lương của ai để làm văn nghệ! (tất nhiên không thể tránh được cũng có một số nào đó dùng văn nghệ để kiếm chác tí chính trị). Nhưng phải khẳng định là họ tự do, tự do và tự do ... kể cả tự do làm ... hại cái chính thể mà họ đang phải sống! Có người còn mang tiếng "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản!? "(tội nghiệp Trịnh công Sơn, cho đến nay vẫn bị gán là "Đặc Công Đỏ" mà chết rồi vẫn chưa được Đỏ tặng cho một danh hiệu, một giải thưởng gì so với các nghệ sỹ cải lương Phùng Há, Diệp Lang, Bạch Tuyết!)!".
          
        Nỗi buồn của ông về ngày 5 tháng 5, kỷ niệm miền Bắc mở đường Trường Sơn:
         
        ... "Chẳng biết có "lực lượng thù địch" nào xúi giục hay không mà lúc sắp từ giã cuộc đời, ông Võ văn Kiệt lại phát biểu và viết ra nhiều ý kiến ở "lề bên trái", thậm chí "nghênh ngang giữa đường" như thế? Nào là: "Đảng không thể giữ độc quyền yêu nước", nào là "mỗi khi tháng 5 về có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn ... ". Có lẽ khi ông Kiệt nói đến "triệu người buồn", ông chỉ tính đến những người bị ... buồn là những người ở "phía bên kia", những người chết trận, những người chạy trốn chủ nghĩa cộng sản, những gia đình có người làm mồi cho cá đại dương, những người "trót" ở lại vì tin vào lời ông Trần Văn Trà là mọi gia đình có một người tham gia cách mạng cũng được coi là "gia đình cách mạng", cùng các gia đình có con em được khuyến cáo đi "đăng ký học tập mang theo lương thực 20 ngày", để rồi ... mất hút ở những nơi thâm sơn cùng cốc hoặc có trở về cũng ít nhất sau ... 10, 15 năm ... để rồi tiếp tục ra đi theo diện HO, hợp thành một cộng đồng di cư bỏ nước ra đi lớn nhất khắp thế giới" ...
         
        ... Không hẳn thế đâu ông ạ! Tôi và nhiều người "ở phía bên này" cũng là trong số người "buồn" đấy. Ngay từ những ngày đầu vào SÀI GÒN, tôi đã không đến nỗi như Dương Thu Hương phải ngồi xuống bên lề đường mà khóc vì thấy mình bị lừa đâu! (lời của bà DTH tuyên bố với toàn thế giới). Tôi chẳng những buồn mà lại còn lo cho số phận của hàng triệu gia đình trong đó có gia đình tôi, bạn bè, thân thích của tôi ... sẽ phải chịu đựng tất cả những gì mà miền Bắc đã phải chịu đựng. Nghĩa là không thể không có đấu tố, tịch thu ruộng đất, công cụ sản xuất, tiền bạc, tài sản, cải tạo công thương, nhà đất ... nghĩa là tất cả sẽ được nhà nước quản lý, tất cả sẽ trở thành sở hữu toàn dân ... nghĩa là tất cả sẽ phải tem phiếu, xếp hàng ... nghĩa là nhà nước sẽ quản lý con người từ lúc mới sinh ra đời đến lúc chết, kể cả quản lý cái đầu và con tim!. Và một nửa nỗi lo đó của tớ đã thành sự thật những năm cuối của thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80. Nói là một nửa vì miền Nam đã thoát được cái "đại họa" lớn Đấu Tố, Cải Cách Ruộng Đất (dù đã có chỉ thị "đến năm 80" phải tiến hành xong hợp tác hóa nông nghiệp), một sai lầm lớn nhất, đẫm máu và gây hận thù dai dẳng nhất không kém hận thù gây ra cho hơn 2 triệu con người bỏ quê hương xứ sở mà ra đi (theo con số ước đoán mơi nhất thì sau 34 năm con số này đã tăng lên tới trên 4 triệu người). Nỗi buồn và lo của bọn tớ, những người có học, có đọc, có nghe, có tí chút tư duy độc lập và nhất là, bị cuộc sống thực tế của "thiên đường xã hội chủ nghĩa" quăng quật suốt 30 năm trời mà đành cam chịu câm miệng! Ai mà không biết cái chủ nghĩa "tư bản nó giãy chết" là điều vô cùng láo khoét. Ai mà không biết cuộc chiến vừa qua là cuộc chiến để áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên cả thế giới này. Chẳng có ma nào "xâm lược nước ta cả". (trích trong: Tháng 5 Buồn, Tháng 5 Vui).
          
        Hồi ức của ông về cuộc chiến biên giới Việt-Hoa vào tháng 2 năm 1979.
         
        ... "Hỏi: -Mày còn nhớ ngày 17 tháng 2 là ngày gì không? Sau một hồi ú ớ ... trả lời: -Ngày gì? Sinh nhật ông à? Của khỉ! Lú lẫn hết rồi à? Ngày mày xuýt chết cùng Takano trên Lạng Sơn, quên dễ thế à? -À, à, ừ, ừ, nhớ chứ, nhớ chứ nhưng nhớ mà làm gì thêm tổ ... bực mình khi "người ta" đã muốn chúng ta phải quên đi! ... Thế rồi anh kể một lô, một lốc những chuyện cũ, những đơn vị, những con người, những địa điểm, những tên đồi có đánh số, điểm cao nào có hai đại đội đã hy sinh gần hết ... mà suốt thời gian đi làm phóng sự tại chỗ, anh đã thoát hiểm để có được những thước phim, phát trên Tivi tố cáo "tội ác trời không dung đất không tha của quân bành trướng Trung Quốc" ... được vài lần rồi ... xếp kho".
         
        ... "Tớ cũng được xem ảnh "Nghĩa trang Vị Xuyên", nhìn rõ những tấm bia mộ của 1600 chiến sĩ hy sinh vì cuộc chiến ngắn ngủi nhưng nhiều người bị giết hại nhất. Tớ cũng được nghe những lời phỏng vấn các bà mẹ như Hoàng Thị Lịch, 72 tuổi, đang còn là nhân chứng sống cho cuộc tàn sát đẫm máu tại thôn Tung Tháp, xã hưng Đạo, huyện Hòa An-Cao Bằng. Ở đó, 43 người bị giết chết một cách thảm thương trong đó 21 phụ nữ (7 người đang có mang) và 20 trẻ em. Tất cả đều bị (Tàu khựa) chặt bằng dao kiếm thành nhiều khúc rồi vứt xuống giếng và, khi đã quá đầy, chúng bèn vứt rải rác các mảnh xác người khắp hai bờ suối quanh làng. Cũng được nghe chính ông Lương Đức Toa, bí thư chi bộ xã này thời đó nay còn sống, (người đã tự tay mình vớt từng mảnh xác đồng bào mình từ giếng lên), giắt một blogger có tên tuổi đi thăm lại cái "giếng căm thù ngày xưa", nay đã bị bỏ hoang, cây cỏ mọc rậm rịt che hết lối vào. Và các ông Quế, mẹ Dự ... những người có con là tự vệ công nhân đường sắt đã hy sinh ngay trong trận đầu khi ngăn chặn bước tiến của các "đồng chí bốn tốt" từ phương Bắc tràn vào ... , nói lên nỗi căm hờn kẻ thù truyền thống, về nỗi oan ức của họ khi không được nhận bất cứ một danh hiệu "chiến sỹ thi đua" hay "anh hùng diệt giặc" Tầu nào! Và càng đắng cay hơn, khi đến ngày kỷ niệm "chiến thắng biên giới" như thường thấy trước khi "bình thường hóa quan hệ", người ta đã lờ tịt đi tất cả, coi như không hề có cái cuộc chiến này bao giờ !?". (trích trong: 17 Tháng 2 Ngày Dzì Dzậy?).
         

        Để rồi ông cũng đã tham dự (biểu tình) chung với những người trẻ trong nước về vụ Hoàng Sa-Trường Sa:
         
        ... "Cả tuần nay, lòng yêu nước bẩm sinh bỗng trỗi dậy. Không làm việc được. Không ngủ được. Không ăn được. Càng không thể ngồi vào computer "kể chuyện xưa" cho các friends nghe nữa. Ôi! Cái thân già ngoài 80 lúc này thấy bất lực đến thảm hại ... Nghe mọi lời kêu gọi trên các Blog, khắp nơi tham gia biểu tình chống bọn Tầu cướp đất mà thấy nôn nao trong lòng. Định chỉ hưởng ứng bằng ... keyboard, ủng hộ các cháu, các con bằng lý lẽ thì bỗng dưng qua khe cửa ai đã nhét vào một tờ giấy in vi tính hẳn hoi (như một lời đe dọa): "Không tham gia mọi cuộc biểu tình do bọn phản động, bọn khủng bố Việt Tân (?), bọn này, bọn khác ... Tóm lại ai đi biểu tình ngày 16 tháng 12 này sẽ là bị bọn phản động đủ mọi mầu sắc ... lợi dụng và sẽ có nguy cơ ra tòa lãnh án không phải chống chính phủ Trung Quốc mà là chống Chính Phủ và Đảng CS Việt Nam là cái chắc! Thế là tớ không còn nén được nỗi uất hận nữa. Tớ vùng lên khỏi giường bệnh, mặc quần áo quân phục (lúc nào cũng ghim sẵn cả đống huân chương) và ... quyết tâm lên đường.
         
        ... Đúng 9 giờ tớ có mặt tại ngã tư Hai Bà Trưng-Nguyễn Thị Minh Khai! Eo mẹ ơi là cá lớn, cá nhỏ, hàng rào ngăn chặn đường vào Tòa Lãnh Sự của ông Anh! Tớ càng nổi khùng, ... cứ tập tễnh, chống gậy quẹo phải ... Một con cá non choẹt hỏi tớ: "Bác đi đâu?" Tớ điên tiết trả lời: "Đi yêu nước!" và cứ lừng lững tiến về hông nhà Văn Hóa Thanh Niên, sẵn sàng gây xì-căng-đan nếu mấy tên này cấm đường đi lại của công dân! Có lẽ thấy cái lão già sắp chết này cũng chẳng mấy nguy hiểm cho an ninh quốc gia nên họ đành lờ. Tớ hiên ngang (nhưng hơi lập cập!), cứ nhằm chỗ nào có nhiều người gác, chỗ nào có nhiều bọn chỉ điểm tay luôn bấm điện thoại di động mà không bị bọn mặc cảnh phục "ý kiến" là xông tới! Tớ vào thẳng cổng chính Nhà gọi là Văn Hóa Thanh Niên để định chất vấn hẳn chú Nguyễn Thành (chưa)Tài về tại sao chú nuốt lời hay chú nhận được lệnh của Hà Nội cấm không cho biểu tình theo như chú đã hứa tuần trước. Lập tức có hai tên "cánh tay phải" của Đảng ra trả lời thẳng thừng: "Không có gì trong này hết! Mời bác đi tới, đi tới đi! Đi! ... Đi!". Có một điều hơi lạ là: Có rất nhiều chú Tầu con, mặc đồ xi-vin, đứng rải rác 4 góc cái nhà văn hóa đó, liên tục gọi nhau dưới sự "cho phép rõ ràng" (hoặc đồng lõa) của lực lượng an ninh Việt! Sở dĩ tớ dám chắc là bọn an ninh Tầu hoặc nhà báo Tầu vì bọn này có lẽ coi thường thằng già ở cái ... huyện Việt Nam này không biết tiếng Tầu (!) nên chúng cứ nói oang oang thoải mái!
         
        ... Tớ theo dõi một con đĩ trạc 35-40 tuổi, nó dắt một chú công an trang bị đủ thứ công cụ đàn áp (súng, dùi cui, còng số 8 ...) đến từng người mà nó yêu cầu "dẫn đi" (hầu hết là những người trong tay có khẩu hiệu rất biết điều như "TS, HS là của Việt Nam"... nhưng không làm vừa lòng các đồng chí Tầu vì các đông chí đó vừa được Quốc Vụ Viện thông qua là của các đồng chí đó!). Tớ chờ đến cuộc "dẫn đi" thứ ba và tớ bắt đầu la lớn lên: "Tại sao lại bắt người yêu nước!". Cái con mụ này, từ nãy nó chỉ điểm bắt ba người rồi đồng bào ơi!". Thế là đồng bào vây tới. Bọn chúng vớt vát ... "Ấy! ... ấy ... có bắt bớ gì đâu bác!? Chỉ giải thích để họ đừng làm khó cho việc ngoại giao của nhà nước thôi mà". Thế là, tớ được dịp được nói lên tất cả những gì ấm ức trong lòng mình. Tớ nói rất hăng về quá khứ của cánh tớ đi bảo vệ tổ quốc đâu có phải để ngày hôm nay mất dần mất mòn vào tay bọn kẻ thù ngàn đời phương Bắc. Nhưng cái tớ muốn để mọi người nghe nhất lại là cái tuyên bố mới nhất của thằng Tần Cương, cái trang web của Bộ Ngoại Giao Tầu mới tung ra mọi văn bản mà Đảng và Chính Phủ Việt Nam đã "lỡ ký" khi đang còn chung một lý tưởng đỏ hóa khắp thế giới này, dù phải hy sinh 500 triệu người dân Trung Quốc (nghĩa là đất nào khi không còn biên cương, đều chả là của giai cấp vô sản toàn thế giới chứ! Ai quản lý nó chẳng được). Tớ cũng nói lên cái ý nguyện của lớp trẻ ngày nay quyết không chấp nhận những ký kết bất bình đẳng đó ... Tớ cũng không quên gọi tên những đồng chí của tớ đã chết để tổ quốc quyết sinh ra ... Tớ đập ngực tớ bình bịch và tuyên bố: "Hôm nay tôi đến đây để ... chết tại chỗ, để bị bắt cùng đồng bào yêu nước của tôi! Tớ hăng quá đến nỗi mất tự chủ và không thở được nữa, thần kinh hoàn toàn mất điều khiển, chỉ còn nhớ có gương mặt bà xã, từ nãy đến giờ đứng lẩn trong đám đông, xuất hiện cùng cô Thục, báo SGGP, ở cùng chung cư, dìu tớ vào một phòng nào đó của nhà Văn Hóa Thanh Niên. Có một anh "Sáu gì đó" ra định đối thoại với tớ nhưng tớ không thèm nói chuyện với bọn nhãi nhép! Và tớ đành nghe lệnh bà xã lên xe ... về nhà ... để lại cái dư âm gì đây cho cuộc "tụ tập đông người" này không biết? ... Cuộc tham gia "tụ tập không có phép" này, tớ chỉ làm được có thế. Tuổi già, sức yếu, chân què ... cuối đời mong đóng góp tí chút cho lớp trẻ về lòng yêu nước, tớ chẳng mong được cái lợi lộc gì, ngoài cái ... nửa ngày nằm không thở được, không ăn được cho đến bây giờ ... 5 giờ chiều, ngồi dậy là mở máy viết báo cáo này gửi các friends yêu quý rằng: NHÁT SĨ BẠO THỬ đã có ... tí ti tiến bộ mà chẳng cần ai kích động, mà chẳng để kẻ phản động này lợi dụng chống kẻ phản động kia cả! Và biết đâu đấy, từ hôm nay, trong sổ đen của An Ninh Quốc Gia, chẳng có tên tớ đứng cùng 100, 1000 loại phản động đủ mọi mầu sắc rồi? (trích trong: Tớ Đi Bầy Tỏ Lòng Yêu Nước).
         

        Những bất nhẫn của ông khi thấy hình ảnh về nhà riêng của một đầy tớ nhân dân Việt:
         
        ... "Nhân tiện laptop của tớ chưa shut down, tớ giới thiệu để các cụ xem một lô ảnh mà đồng hương Thanh Hóa của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đã chụp nhân dịp đến thăm tác giả "Mênh mông tình dân". Nhìn cặp ngà voi to tổ đùng đang ôm gọn tấm chân dung nguyên tổng bí thư. Nhìn cái trống đồng "O-la-zin" bầy chình ình giữa phòng khách ... , nhìn bức tượng đồng nguyên TBT to gần bằng tượng Hồ chủ tịch ở nhà khách chính phủ, nhìn mảnh "vườn tự động" dành riêng cho bữa ăn của TBT ... , các bạn có biết các cụ đã có những ý nghĩ khác nhau thế nào không?
         
        - Cụ A: Có thiệt thế không? Liệu có phải là ảnh lắp ghép không nhỉ?
         
        - Cụ B: Đây là bọn phản động nó bịa ra nhằm bôi xấu Đảng mình đó thôi!
         
        - Cụ C: Có đấy! Có đấy! Tớ mới được xem cái này tuần trươc do con tớ, thỉnh thỏang thấy gì "hay hay", nó thường gọi tớ vào phòng riêng cùng nhau xem rồi bình luận rất là ... dân chủ ... ! Tuy nhiên, vì nó đang là bí thư Đảng ủy của một công ty lớn nên nó luôn thận trọng dặn dò tớ: "bố biết vậy thôi. Chẳng nên nói lại làm gì, rách việc lắm, để xem "các cụ" xử lý thế nào khi chuyện này được tung hê lên internet. Quả là xấu xa nhục nhã cho một tổng bí thư của một Đảng vô sản lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin là mục tiêu đấu tranh suốt đời"! Tớ vừa giả vờ "ngây thơ cụ" đặt ra một câu hỏi: "Nếu những tấm ảnh này là có thật thì sao nhỉ? ... ". Thì chẳng cụ nào hỏi ý kiến cụ nào đều hăng hái phát biểu: "Thì cho "Nó" vào ... tù chứ còn sao nữa ...Tội tham ô tài sản quốc gia rõ rành rành như ban ngày ... Chẳng còn đường chối cãi ... ". Có cụ còn nói: "Cái thằng nào nó chụp những tấm ảnh chết người này quả là "chơi khăm" anh Phiêu và uy tín của Đảng dễ sợ!". Một cụ thận trọng hơn: "Để xem các bố ở Bộ Chính Trị xử lý vụ này thế nào!". Tớ vội báo cáo bổ xung: "Xử lý rồi, xử lý rồi!" ... Và thông một cái tin cũ với tớ nhưng ... mới toe với các lão đồng chí của tớ biết rằng: "BCT đã giao cho ông Lê Hồng Anh "điều tra làm rõ" ... KẺ NÀO ĐÃ CHỤP VÀ ĐƯA NHỮNG TẤM ẢNH CÓ HẠI CHO ĐẢNG LÊN INTERNET, ... chứ không phải là điều tra xem chú Phiêu lấy đâu ra tiền mà sắm sửa những thứ đáng giá cả triệu đô la đâu! ... Thế là gần như tất cả các cụ, chẳng ai bảo ai, đều buông tiếng thở dài: "Nếu thế thì ... khốn nạn cho cả nước đến nơi rồi! ... ". (trích trong: Gặp Lại Các Cụ Chiến Sĩ).
         

        Ông viết về Trần Thiếu Bảo (Giám Đốc Nhà Xuất Bản Minh Đức, một nạn nhân trong vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm trong cuối thập niên 1950):
         
        ... "Chuyện xảy ra cách đây chỉ còn thiếu hai tháng nữa là đúng ... 60 năm! Có một con người mê văn nghệ và yêu văn nghệ sỹ tới mức ... luôn đi theo các bậc "tiền bối", những vị mà ông ta cho là các "trưởng lão" trong làng văn nghệ nước nhà để thực hiện những chuyện ... "điếu đóm" cho các "thầy", và sẵn sàng làm ... "bà đỡ" cho các "đứa con" của các thầy khi chúng đã tới lúc cần cất ba tiếng khóc chào đời! Nghĩa là ông sẵn sàng bỏ tiền túi ra, ứng trước cho văn nghệ sĩ, sẵn sàng chạy nháo nhào bằng chiếc xe đạp cà tàng, từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, vào tận nhà dòng Bùi Chu để kiếm chỗ in bằng được những tác phẩm của các tác giả mà ông ... mê.!
         
        ... "Ông chính là người đầu tiên, dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã làm cái công việc "đỡ đẻ" cho tác phẩm, không vì kinh doanh lời lãi. Ông dám tự mình đứng ra chịu trách nhiệm trước nhân dân về các xuất bản phẩm mà ông đã góp sức tạo ra. Đặc biệt nhất, ông là người tôn trọng, thậm chí tôn sùng những con người mà theo ông là đặc biệt nhất, là vĩ đại nhất, là có tài nhất trong giới văn nghệ. Vì họ, ông sẵn sàng hy sinh cả tài sản, cả quyền lợi bản thân, chỉ mong sau này có những tác phẩm xuất sắc nhất ra đời lại có tên ông: "bà đỡ đẻ" Minh Đức ... Cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm kết thúc, ông trở về Hà Nội tiếp tục làm nghề xuất bản tự do ... một cách vất vả ... Tuy nhiên, ông vẫn nắm vững phương châm hoạt động "xuất bản không phải là cách kiếm sống" mà là chọn đưa tới người đọc những gì là "của ngon vật lạ" nhất để họ thưởng thức. Từ ngôi nhà ở nhờ một người bạn tại ô Quan Chưởng, ông chuyển trụ sở về 25 Phan Bội Châu. Và chính "ngôi nhà định mệnh này", nơi ông thường tổ chức các cuộc "tao ngộ chiến" trên bàn rượu, đã đưa ông đến với những Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Thụy An ... Và ông lại quyết tâm làm "bà đỡ" cho những người mà ông vô cùng cảm phục này. Số phận của ông từ đầu năm 1956 đã được ông tự quyết định, không tính toán, không ân hận. Sẽ ... vinh quang hay "mạt rệp" cùng những con người này, dù ông chưa từng trực tiếp cầm ngòi bút, chưa hề có cao vọng lớn như các bậc tiên chỉ, đàn anh mỗi khi phát biểu hay viết lên giấy trắng mực đen! Nói chính xác: Ông chỉ là người thực hiện phổ biến không quá 3 tập của Giai Phẩm và Đất Mới! Nghĩa là trong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, ông chỉ có xoay sở cho ra mắt bạn đọc được có phần Giai Phẩm. Còn Nhân Văn, đã có ông bạn cùng quê Nguyễn Hữu Đang, với uy tín sẵn có, nhiều lính tráng cũ đang nắm các nhà in, lo cả!. Đầu năm 1959, sau các vụ đấu tố, xử lý cho đi cải tạo, cấm sáng tác, cấm xuất bản hàng loạt văn nghệ sĩ ... thì vụ án gián điệp thông qua một số văn nghệ sĩ và Nhà Xuất Bản Minh Đức do De Bon Fils (cái tên "Con trai tốt" này thật dễ nhớ!) chỉ đạo, qua gián điệp Thụy An, được mang ra xét xử ... bí mật!. Đây không hề là một vụ án văn nghệ mà đơn thuần chỉ là một vụ án gián điệp. Riêng Nhà Xuất Bản Minh Đức thì bị coi như là người "nắm tài chính của kẻ thù cung cấp" để phá hoại tư tưởng ngay trong đội ngũ những văn nghệ sĩ của Đảng!!! Toà tuyên án riêng Giám Đốc Nhà Xuất Bản Minh Đức Trần Thiếu Bảo 11 năm tù giam ... Thế nhưng, chẳng hiểu sao (có lẽ bận việc chạy bom Mỹ? hay ... do không cải tạo tốt?) mãi đến tháng 4 năm 1973, ông mới được trở về với gia đình. Vẫn đam mê với sách báo, ông mở một xạp hàng bán sách báo cũ tại số 5 Bát Đàn ... Và chính ở cái sạp sách báo nhỏ xíu này mà tớ thường hay lui tới thăm hỏi nên "xuất bản gia" Minh Đức Trần Thiếu Bảo đã phổ biến cho tớ cũng như nhiều đồng hương, "đồng chí" cũ (Tớ sinh tại Hà Nội nhưng quê hương gốc gác lại chính là Tiền Hải Thái Bình) tất cả những gì là áp đặt, là vô căn cứ, là mớm cung trong cái "vụ án gián điệp chết người" mà nhóm các ông bị kết án ... Nhưng gay go nhất là bị hỏi về những mối quan hệ với nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm ... Ai cung cấp thuốc phiện, bàn đèn cho Hoàng Cầm, Tử Phác? ... Tiền ở đâu mà tổ chức các buổi gặp gỡ, tọa đàm, nhậu nhẹt ở 25 Phan Bội Châu? Toàn những câu hỏi mà ông Minh Đức chỉ lỡ miệng một chút, là được ... "cho đi dựa cột" ngay. Ông nói: "Chết thì chết, tớ không bao giờ nhận cái tội phản bội Tổ Quốc, phản bội dân tộc. Tớ cũng khai ra các ông Việt Minh cỡ bự nào đã được gia đình tớ chăm sóc, nuôi dưỡng ... Tớ chỉ kiên trì một ý: "Tôi chỉ phục vụ những văn nghệ sĩ mà tên tuồi và tác phẩm đã nổi tiếng khắp trong nước và thế giới ... Nay mấy ông này không làm các vị vừa lòng, tại sao các vị lại giận cá chém ... thớt là cái thằng làm xuất bản nghèo kiết xác như tôi"?. (trích trong: Có một giám đốc xuất bản tư nhân).

         
        Ông viết về một vụ CS Hà Nội xử án kiểu "Muốn diệt ai thì diệt":
         
        ... "Ngoài những vụ cho đi cải tạo hàng chục năm không xét xử mà cả thế giới đều biết thì có một vụ công khai đưa ra toà, một vụ án "văn nghệ đồi truỵ". Gọi là vụ Toán Xồm (bây giờ chắc được gọi là "nhạc sĩ" Nguyễn Thanh Toán là cái chắc) mà tớ là người được hân hạnh mời dự từ đầu đến cuối, để ... học tập (hay là để răn đe cũng rứa vậy thôi!), không phải ai cũng biết.
         
        ... “Ngày ... tháng ... năm, tại Thư Viện Trung Ương (?) sẽ có phiên toà "xét xử công khai vụ văn hoá đồi truỵ" do Toán Xồm và Kiên Già chủ mưu. Các cơ quan sắp xếp cho văn nghệ sĩ, đặc biệt là các nhạc sĩ, nhạc công đến dự đông đủ". Cầm tờ thông báo có chữ phê: "đ/c Tô Hải bố trí toàn thể cán bộ biên tập đi dự đầy đủ" của thủ trưởng Nhà Xuất Bản Âm Nhạc Nguyễn Đình Tính (một người rất tốt nhưng chỉ phải mỗi cái tội chẳng biết âm nhạc nó là cái giống gi mà tớ đã có lần giới thiệu ở một entry trước), tớ giật mình cái thót năm bảy phát. Lý do:
         
        1- Ai chứ cái tên Toán Xồm này tớ và một số nhạc sĩ có thẻ của Hội và ăn lương của nhà nước, thường hay lui tới thăm hỏi vì:
         
        a/. Anh ta là một người tuy bề ngoài hơi ... Hippy một chút, râu chỉ lười cạo nên thường mọc tua tủa, chứ chưa "xồm nhân tạo" như mấy cụ nghệ sĩ trẻ mà làm ra xồm ngày nay đâu! Gọi anh ta là Toán Xồm kể ra cũng hơi oan cho anh ta thiệt! Nhưng Toán là một người tớ có thể khẳng định là có văn hoá âm nhạc, hiền lành, dễ thương và có văn hoá (Dân Lycée Albert Sarrault đàng hoàng chứ đâu phải trung học chuyên khoa tốt nghiệp lớp 10 ở rừng về!).
         
        b/. Do có nhiều quan hệ gia đình hay bạn bè gì đó mà Toán luôn có máy nghe nhạc, có những đĩa hát rất "up to date", thậm chí toàn là dĩa Steréo ngay những năm đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, khi mà cánh nhạc sĩ chuyên nghiệp như tớ đang phải nghe nhạc bằng những chiếc électrophone mono của Liên Xô, chỉ hơn cái máy quay tay Béka chút đỉnh! Nghĩa là đến Toán Xồm để được nghe nhạc cho ra nhạc nhờ, và thỉnh thoảng có cái đĩa nào thích thì ... tán anh ... mua lại!
         
        c/. Nhà Toán ở cách cơ quan tớ không đến 30 mét trên đường Tô Hiến Thành nên tớ vẫn nghe hàng ngày tiếng ghi ta điện (lần đầu tiên có ở miền Bắc XHCN), do Toán tự chế từ một ghi ta thùng, âm thanh được đưa vào một ampli cũng tự chế bằng một hộp bánh bích-quy gồm 2 bóng đèn điện tử to tổ đùng, rồi dẫn tới một thùng loa một chiếc, có đóng bafle bằng gỗ thông, nghe cũng có bass có treffle tạo nên được các "âm thanh lạ" mô phỏng gần đúng các âm thanh ghi trên các đĩa của bọn "xét lại"!
         
        Thế là, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Nhà Toán Xồm càng ngày càng đông người lui tới đặc biệt là đám trẻ mới lớn lên lại càng mê anh Toán Xồm. Nhất là từ ngày anh tập hợp thêm đuợc Lộc Vàng ca sỹ kiêm batteries tự chế từ những cái trống thiếu nhi,một vài cái cymbale còn sót lại từ thời "Đế Quốc Sài Lang" và "Kiên Ha Vai" (guitare hawaienne).Tiết mục chỉ là bắt chước trên các đĩa hát "xét lại" được phép bán công khai và phát oang oang ở ngay cửa hàng Ngoại Văn giữa phố Tràng Tiền! Chẳng cần đến ai "phối khí, hoà âm" gì như thời nay người ta thượng ngộ nhận! Một "dàn nhạc nhẹ tư nhân không chuyên" đã ra đời "tự nhiên như không khí, chẳng cần lý thuyết , lý luận gì" (trích l’aventure Pop của H.Leproux) và được một "đa số tối thiểu" (Jacques Juillard) ưa thích vì đã quá ngán với những bài hát chiến đấu và sản xuất. Tiếng "lành" đồn xa đã đến tai một ông giám đốc Công Ty Ăn Uống và ông đã dám mời ban nhạc Toán Xồm ra biểu diễn live ở khách sạn Phú Gia mỗi tối thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần. Thế là chuyện bé đã xé ra to. Tiếng "dữ" đã đồn về mấy ông "tham mưu âm nhạc" cho Đảng và nhất là những tay văn nghệ-chính trị-cơ hội đã không bỏ lỡ dịp này để leo lên bằng cách ngăn chặn và dẹp ngay cái thứ âm nhạc "phi chiến đấu tính, phi nhân dân tính, phi đảng tính" này ngay tắp lự ... Và họ đã "ra tay" để cánh cáo những kẻ nào đang manh nha muốn làm cái thứ nghệ thuật ... chỉ vì nghệ thuật ... , chỉ để giải trí!
         
        Toán Xồm là một con vật bị đem tế thần chung với một nhà nhiếp ảnh cùng thời với nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh: Nhiếp ảnh gia Nguyễn Duy Kiên. Thời ấy, ngoài hai tờ nhật báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân, chẳng còn tờ báo nào mà lên án, xét xử, phân tích tội trạng, kết án trước cả toà án ầm ỹ như bây giờ, nên chỉ những người nào yêu mến nhóm Toán Xồm mới biết tin khi đến thăm anh. Riêng tớ, cả tuần không nghe tiếng éo éo của cây ghi ta điện tự tạo của anh, tưởng anh ốm đau gì, sang hỏi thăm mới hay anh đã bị còng tay giải đi vì tội công khai "tuyên truyền văn hoá đồi truỵ". Tuy nhiên, ở cái thời hậu Nguyễn Hữu Đang-Thuỵ An ... những người biết "Sợ" như tớ vẫn nghĩ tới một kịch bản xấu nhất có thể xảy ra cho Toán là ... "có yếu tố chính trị nước ngoài", thì lần này Toán chỉ có mà đi tù mút mùa. Hơn thế nữa, những người hay ra vào nhà Toán, cũng như ông giám đốc Công Ty Ăn Uống, có khi cũng ít nhiều ... bị liên quan chưa biết chừng nên ... miễn bình luận là thượng sách.
         
        Cho đến cái ngày nhận được "giấy mời" tham dự phiên toà tớ mới hiểu thêm: Đây là một vụ án văn nghệ đầu tiên được mang ra xét xử công khai. Không hề có chuyện chính trị, không có "bàn tay thù địch" nào kích động ... Tất cả chỉ là làm văn nghệ không theo đúng đường lối của Đảng, làm văn nghệ theo tiếng gọi của ... thú tính cá nhân, sa đoạ, truỵ lạc, làm hư khiếu thẩm mỹ của thanh thiếu niên ... vv và vv (trích các lời buộc tội, lời kết án của ông chánh án, lời xác minh của các giám định viên mà tớ vừa nghe vừa muốn cười vừa muốn khóc). Một phiên toà hiếm có mà người buộc tội cũng như bị cáo đều như hai người ... ngoại quốc, người này nói mà người kia chẳng hiểu là nói cái gì! Tớ xin trích vài câu hỏi và đáp của toà với "can phạm" để các friends cười năm phút:
         
        Chánh án: - Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?
         
        Toán Xồm: - Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!
         
        Chánh án: - Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
         
        Toán Xồm: - Dạ! Paloma là của nước bạn Cuba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà Xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!
         
        Chánh án: - Vậy anh có biết Cha Cha Cha là cái gì không? (chắc có một "thày dùi" nhạc sỹ nào đó mách nước).
         
        Toán Xồm: - Dạ! Có ạ! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cuba ạ!
         
        Chánh án: - Thế còn Tango Bleu chắc anh cũng đổ cho Cuba hết hả?
         
        Toán xồm: - Dạ không! Tango là một điệu nhảy ác–giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều xử dụng cả ạ!
         
        Chánh án: - Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác!!? Đừng có ngụy biện!
         
        Toán Xồm: - Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn, ... chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!
         
        Chánh án: - Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!
         
        Cái cuộc xét xử, toà án thì ở hội trường Thư Viện Trung Ương, quan toà (một ông già tên Vinh hay Vĩnh gì đó) nói gần như hết buổi và khi thấy mình bị "hố" thì luôn xử dụng cái câu "Im miệng! Đồ ngoan cố" để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa (lúc này cái chức danh luật sư đã bị gạt ra khỏi tự điển Việt Nam), ngay thời điểm ấy đối với tớ cũng là một trò hề vô văn hoá. Nó phơi bày sự ngu dốt, kể cả trong biên bản giám định của Vụ Âm Nhạc (được tòa đọc lên chứ không có cá nhân nào đứng ra trình bày trước tòa) đều toát lên cái ý đồ từ đâu đó muốn "dằn mặt những ai muốn xa rời đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh của Đảng mà thôi". Đây chính là ý kiến của anh Văn Cao tâm sự với bọn tớ buổi chiều vào thăm anh trong bệnh viện khi anh được đưa từ Tây Bắc về vì chảy máu dạ dày.
         
        2- Còn cái vụ nhiếp ảnh truỵ lạc của ông già Kiên, cánh tay phải của ông Tổng Thư Ký Hội Nhiếp Ảnh Đinh Đăng Định một thời, cũng kéo dài một ngày. Tuy nhiên, cụ Kiên thì ít lời tự bào chữa vì khó mà cãi được khi mà hoạ sĩ vẽ nude còn phải vẽ "chui" và có trường hợp đã có hoạ sĩ phải gọi lên đồn CA "làm việc" vì bị hàng xóm tố cáo! Đằng này cụ lại dám chụp ảnh nghệ thuật nude bằng cách bố cục một cái tẩu hút thuốc, gác ngang cặp kính râm, zoom vào giữa "cái ấy" của người đàn bà. Làm người xem cứ tưởng là cụ chụp trên một quả đồi cỏ mọc um tùm! Tội to quá đi chứ nhất là khi có giám định viên lại tán "rộng và sâu" đến chết người rằng. Đây là có ý đồ équivoque (hai mặt-hiểu thế nào cũng được) muốn diễn tả pháo binh của ta trên đồi A1! Có một điều lạ là: Tất cả mọi người dự phiên toà chẳng ai được chứng kiến tận mắt những "tấm ảnh đồi truỵ" mà cụ Kiên chụp cả! Tất cả chỉ được xem bằng ... tai, nghĩa là toà tả lại cụ thể từng tấm mà thôi! (Có lẽ toà sợ làm hư hỏng, truỵ lạc hoá cử toạ chăng?).
         
        Và sau 3 ngày làm việc toà tuyên án Toán Xồm, Nguyễn Duy Kiên 7 năm tù giam vì "tuyên truyền văn hoá đồi truỵ". Không có đụng đến một chức danh nhạc sĩ hay nhiếp ảnh gia nào! Vụ án khép lại và cũng chẳng cần đưa lên báo, kênh truyền thanh, truyền hình như ngày nay. Tuy nhiên, trong giới văn nghệ không ai không biết "Đây chỉ là một đòn cảnh cáo cho những ai muốn ôm lấy những tàn dư của văn hóa ... Đế Quốc" hoặc "Những ai muốn theo chân bọn xét lại ... Hãy coi chừng!".
         
        Cho đến hôm nay, trước tình hình âm nhạc loạn cào cào mà còn được bảo kê công khai, nghĩ lại, thấy thương cho Toán Xồm, cho cụ Kiên vô cùng. Trước khi viết bài này, tớ có gọi điện hỏi thăm mấy người thân của Toán còn sống trên đường Tô Hiến Thành-Hà Nội thì được biết: Anh đã qua đời, không vợ con, thân thích cách đây 4 năm ... vì buồn, vì giải sầu bằng ... rượu nên anh đã chết một cách rất thê thảm. "Chết đường chết chợ", ngay khi vừa ra khỏi một quán rượu nhỏ ven đô ... Người ta đưa anh vào nhà xác và ở đấy, không biết báo cho ai, người ta đã chôn anh như một cái xác vô thừa nhận. Nếu tin này là chính xác thì quả là số mệnh anh đúng bị ngôi sao quả tạ chiếu vào thật!
         
        Một nén nhang thắp viếng hương hồn anh.! Nỗi oan của anh hôm nay đã có tôi và nhiều người lôi ra ánh sáng. Mong anh "dưới ấy" thanh thản được phần nào. Riêng nhiếp ảnh gia Nguyễn Duy Kiên, nếu nay còn sống chắc phải đã qua tuổi 100. Điều này không thể có với một "người tù oan sai" vì ngay khi nhận bản án, cụ đã 72 tuổi. (trích trong: Một vụ án văn nghệ).

         
        Và, đặc biệt khi viết về Hồ Chí Minh, người mà nhạc sĩ Tô Hải cho là KHỔ NHẤT THẾ GIỚI như sau:
         
        ... "Vài lời phi lộ về nhân xưng. Trong entry này, tớ xin phép những người ghét hai chữ Bác Hồ mà vẫn dùng hai chữ đó chỉ khác ở chỗ chữ "bác" của tớ không viết hoa vì tớ luôn coi ông Hồ cũng như ông Nguyễn Tuân, ông Tú Mỡ, cụ bơm xe, bà bán bún chả ... Ai đã hơn tớ tuổi, tớ đều có quyền và thậm chí phải gọi là ông, là chú, là bác ... thế thôi, đừng có nghe thấy hai tiếng Bác Hồ viết hoa đã nhảy dựng lên nhé! Tớ viết "bác Hồ" hoặc "bác ấy" là cái sự học thời Tây nó dạy, viết văn là như dzậy đó.!!.
         
        ... Mấy tuần nay, để viết một entry "độc đáo" về sinh nhật bác Hồ, về những kỷ niệm cá nhân của tớ về bác ấy, về những nghĩ suy, đánh giá về Bác ấy, nên tớ phải lên mạng để cập nhật liên tục, muốn phát ốm! Nào ngờ, càng đi sâu tìm hiểu thì tớ mới thấy là tớ đã đi lạc vào một rừng tư liệu làm rối tung cái đầu và tớ ... phát ốm thật. Tớ tự trách tớ: Ai bảo đi vào con đường của những nhà "Việt Nam Học", "Hồ chí Minh học", có lương tâm nghề nghiệp làm gì! Họ có nhiệm vụ làm sáng tỏ thêm hay bác bỏ các lập luận của các nhà đã viết ra những tập sách nổi danh về Hồ Chí Minh như William J.Duiker, Sophie Quinn Judge, Douglas Pike, Anatoli Sobolov ... và cả trăm ngàn hồ sơ mới được "bạch hóa" từ các cơ quan KGB, STASI ... sau cuộc sụp đổ tan tành cái khối cộng sản tưởng như bất khả xâm phạm. Ngoài ra, tớ tin tưởng ở các nhà nghiên cứu có lương tâm, đã mê say nghề nghiệp này sẽ chẳng ngại xin phép nhà nước hoặc tự bỏ tiền túi ra bay ngay qua Nga, qua Pháp để được đọc nguyên bản những gì Hồ Chí Minh đã làm, đã viết đang còn được lưu trữ rất cẩn thận ở trung tâm lưu trữ hồ sơ hải ngoại (C.A.O.M). Vạn dĩ nhà nước không cho tiền thì các học giả nào biết tí chút ngoại ngữ và biết xử dụng computer đâu có cần ai mách đường chỉ lối, đều có thể cập nhật hàng vạn tài liệu khi gõ vào "Ho Chi Minh, biography". Riêng tớ, vì quá câu nệ là "nói phải có sách, mách phải có chứng" nên tớ đâm ... loạn tài liệu và đành ... STOP và xin mời các tiến sĩ, các học giả, cũng như các vị tiến sĩ-giáo sư cấp tướng như các bác (hay chú?) Nguyễn Hồng Dung (Viện Lịch Sử Quân Đội), Vũ Quang Hiển (Đại Học Quốc Gia Hà Nội) hãy "dấn thân" để bạch hóa cái màn đen đang phủ kín lên sự nghiệp, lên uy tín của một con người. Còn nếu như các vị đó lại chỉ lập luận bằng những chứng cứ lấy từ ... Bảo Tàng Hồ Chí Minh hay đọc toàn sách của nhà Xuất Bản Sự Thật hay Chính Trị Quốc Gia vì không biết tiếng Tây thì ... than ôi! ... than ôi! Riêng tớ, tài hèn sức mọn và với cái bản chất văn nghệ là chuộng biểu hiện bằng hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc chứ không ưa những con số, những dẫn chứng cụ thể nên chỉ xin nói thật cái gì mà tớ cảm nhận và yêu, ghét bác Hồ Chí Minh mà thôi.! Cho nên tớ mới kể ra cái quá trình tớ đã từ yêu đến ghét bác ấy và cuối cùng thương bác ấy như sau:
         
        1- Ngay từ tấm bé, tớ là một người thích đọc, xem những cái gì "cấm trẻ con" (interdit aux enfants), rồi đến lúc biết tìm hiểu suy nghĩ, trình độ tiếng Pháp đã đủ để có thể đọc được những tác phẩm chính trị, triết học và báo chí Pháp (mỗi tuần đều được gửi qua sở PTT của bố tớ do các quan Tây, quan ta đã com-măng). Thế là tớ quen cái tên Nguyễn Ái Quốc từ đầu những năm 42, 43 gì đó ... Đối với tớ, mỗi khi bố tớ (ngày nay được quy tội nhẹ nhàng là lợi dụng chức vụ, làm trái ấy mà!) mang những thứ "quốc cấm" ấy về, ông đều hạ giọng nói nhỏ vào tai tớ: "Đừng có đọc, đừng có cho ai mượn kẻo Tây nó không muốn cho dân Anamít ta biết những thứ này đâu! Tù mọt gông đấy!", thì lại càng làm tớ thêm tò mò. Và tớ luôn tranh thủ mọi lúc, mọi nơi ... đọc ngốn, đọc ngáo các thứ quốc cấm đó. Cái tên Nguyễn Tất Thành sau luôn thay đổi, các bản chụp đơn xin học ở trường thuộc địa (trung tiểu học?) ở Pháp, các lệnh truy nã, thậm chí cái mandat gửi tiền về cho ông Nguyễn Sinh Sắc ... và sau này ... những tài liệu truy tố ông, thậm chí ông bị đưa ra các thứ tòa án "đế quốc", ông vẫn thoát hiểm. Chỉ riêng cái tài thiên biến vạn hóa của ông như thay tên, đổi dạng để mật thám Tây,Tầu chẳng biết đâu mà lần cũng đủ làm ông, dưới mắt tớ, quả là một "điệp viên, tình báo ngoại hạng" (Tớ vốn là độc giả trung thành của những Conan Doyle, Yang Flemming, Ken Follett mà).
         
        "Oai danh" cuả ông cả thế giới đều biết, thế mà khi có phong trào Việt Minh đánh Pháp đuổi Nhật, ông anh họ tớ, ở chiến khu về cho biết "Nguyễn Ái Quốc đã về nước lãnh đạo toàn dân đấy" thì tớ mừng như bắt được của ... và trở thành fan của ông tức thì! Càng lạ lùng hơn là khi ông lại xuất hiện với cái tên lạ hoắc: Hồ Chí Minh đến nỗi một lãnh tụ cộng sản ở Miền Nam phải thốt lên: "Hồ chí Minh? Thằng nào dzậy?" và khi được chính thức phổ biến là Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc thì Trần Văn Giầu và các đồng chí Xứ Ủy Nam Bộ mới chịu chấp hành lệnh Tổng Khởi Nghĩa! Xem thế mới biết cái chuyện đổi tên của ông nó lợi hại đến mức nào. Nếu đúng như ông có tới 40 cái tên (theo Douglas Pike) hoặc thậm chí 145 tên đủ loại Pháp, Anh, Mỹ, Tầu, Nga ... (theo Anatoli Sokolov) thì càng làm cho tớ thêm kính phục về con đường bôn ba hải ngoại làm cách mạng của ông mà thôi!
         
        Tớ càng cực kỳ phục ông về những hành động "cao cả, sáng suốt, khiêm tốn, giản dị" có một không hai là:
         
        a/. Khi đã có chính quyền trong tay, ông tuyên bố cùng thế giới ngay lập tức GIẢI TÁN ĐẢNG CỘNG SẢN, ký Tạm Ước 6 tháng 3, thiết tha đề nghị được Độc Lập trong Khối Liên Hợp Pháp, mở cửa cho quân đội Pháp trở lại Việt Nam, đuổi được hàng vạn quân Tầu phù về nước. ... và trước những thắc mắc của đồng chí, đồng bào, nhất là ở miền Nam, ông lên đài thống thiết vỗ ngực: "HỒ này không bao giờ bán nước!".
         
        b/. Thành lập Chính Phủ Liên Hiệp, gồm đa số những người không cộng sản và mời cả những Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Phan Kế Toại, Nguyễn Tường Tam ... ra thành lập nội các với cố vấn tối cao là nhà vua Bảo Đại, mặc cho sau khi thành lập xong chẳng có mấy nước tư bản cũng như cộng sản công nhận.!? Phải mãi 1950 Mao Trạch Đông nhúng tay vào Việt Nam thì "phe ta" mới manh nha hình thành với nhiều thắc mắc như "Hồ Chí Minh có thật là cộng sản không?" hoặc "Hồ Chí Minh chỉ là một tên theo ... cải lương chủ nghĩa"? Kèm theo những câu trả lời báo chí hoặc do chính bác ấy tuyên bố khi tìm đến chủ nghĩa cộng sản là: Đây là "cái chúng ta cần" để giải phóng quê hương rồi!. Vậy là Hồ chí Minh chỉ coi Chủ Nghĩa Cộng Sản là PHƯƠNG TIỆN chứ không coi nó là MỤC ĐÍCH ... Cho nên báo chí Pháp một thời gian dài thậm chí cả đến những nhân vật một thời đối đầu với bác ấy (Sainteny–Histoire d’une paix manquée) cũng đều viết và nói: "Hồ Chí Minh, trước hết và trên hết là một người yêu nước" (HCM, avant tout et surtout un patriote)!?
         
        c/. Tất cả trong tớ về huyền thoại Nguyễn Ái Quốc dần dần, qua thực tế trước mắt, đã biến thành một chính trị gia thiên tài bậc nhất mà người ghét bác ấy thường dùng từ "thủ đoạn, mưu mô" ... , là "lừa đảo" ... mà theo tớ thì có ai làm chính trị mà không thủ đoạn miễn là thủ đoạn gì có lợi cho nhân dân cho đất nước chứ không thủ đoạn để an vị trên ngôi vàng, cho mình, cho con cháu, chút chít mình suốt đời nọ sang đời kia ... Tớ cứ bám vào những sự tự biện minh như thế để tiếp tục "theo chân" bác ấy, thậm chí không ít văn nghệ sĩ đã xúc động thật sự trước những hình ảnh "Bác hành quân ở chiến dịch Đông Khê", "Bác vừa đi vừa phơi quần áo trên một cành cây vác trên vai", "Bác câu cá, đập ruồi", "Bác về thăm nông dân, lội ruộng, đạp guồng nước với bộ quần áo nâu, khăn mặt khoác vai cùng "đôi dép lốp" muôn đời vẫn thế", mà cho ra nhiều tác phẩm đến nỗi bác ấy trở thành người được đi vào thi ca, văn học, sân khấu, điện ảnh ... đồ sộ, đến kinh khủng, vượt mọi kỷ lục của mọi thời gian, mọi không gian. Không một anh hùng dân tộc của bất cứ dân tộc nào, thời đại nào lại có thể được nhiều người sáng tác xưng tụng mình bằng những ngôn từ hoa mỹ, đại ngôn đến mức ... hết cả chữ trong tự điển mà cứ phải nhai lại của người khác và của chính mình đến rỗng tuếch như thế như Bác là vầng dương, là lương tâm của nhân loại", "Bác là niềm tin, là ước mơ của nhân loại" (tớ cũng đã có góp phần được ghi trên bằng "Giải thưởng nhà nuớc" ngay đợt đầu bằng "Chúng ta không muốn đói" và "Nông dân biết ơn Bác" đấy!
         
        CHO ĐẾN MỘT NGÀY ...
         
        Niềm tin, yêu ở bác ấy trong tớ cứ lạt dần ... rồi từ tin yêu chuyển sang ... nghi ngờ và ... sau cùng là ... thương hại.! Không phải là do tớ đọc nhiều tài liệu vu khống của các lực lượng "thù đich" nào đâu. Sự thể cái vụ biến chuyển tư tưởng của tớ nó bắt đầu ngay từ rất sớm, chẳng có "anh téc nét, chị téc niếc" gì. Nó biến chuyển theo những trang lịch sử đất nước mà tớ đã sống và chứng kiến tận mắt và tự thấy mình cần điều chỉnh con mắt, cái đầu và con tim không sợ gì cái "tiếng xấu" mà người ta đã khẳng định cho bọn tớ là bọn "tiểu tư sản luôn chao đảo, lập trường luôn bấp bênh". Cái sự mất lập trường của bọn tớ nó diễn ra theo trình tự như sau:
         
        1- Cuộc cách mạng long trời lở đất có tên là "Cải Cách Ruộng Đất–Chấn Chỉnh Tổ Chức" (mà người ta thường vô tình hay cố ý quên đi cái vế sau, không kém phần "chết người", không kém phần ác độc như vế trước) mà tớ đã, nhân danh một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam được học tập mọi nghị quyết để sản xuất ra các "tác phẩm" tuyên truyền cho những nghị quyết đó, được tham gia (gọi là đi thực tế), được chứng kiến trực tiếp những cảnh cướp bóc, giết người không tòa án, không xét xử, chia của của nhà giầu hoặc có bát ăn, bát để hơn người nghèo ở nông thôn (theo đúng chỉ tiêu mỗi xã phải có tối thiểu 5% địa chủ!?). Tớ không thể nào quên được cái cảnh con, (sau khi được "phát động") chỉ mặt cha gọi là: "thằng kia!" ... Vợ chỉ mặt chồng hét lên: "Thằng địa chủ cường hào gian ác kia, mày hiếp dâm bà mỗi tuần 3 bận đến khi bà có mang mày mới nhận bà là vợ hai để tiếp tục bóc lột ... !". Tớ cũng không thể nào quên được cái cảnh bố vợ tớ, chẳng có một thước đất nào trong tay nhưng do đi sơ tán còn tiền, còn vàng nên mua được mảnh vườn trồng cây na, cây bưởi, nuôi con cái tiếp tục áo dài đi học, nhưng cũng bị đôn lên cho đủ 5% là địa chủ để cướp từ cái xoong, cái nồi, đánh ông bố vợ tớ gẫy hết cả hàm răng vì ông bị cho là "ngoan cố" không chịu nhận tội là địa chủ!? Ấy vậy mà khi sửa sai thì ông cũng như trăm ngàn người khác, chẳng được trả lại bất cứ cái gì vì còn đâu nữa những thứ mà các "ông bà nông dân" đã chia nhau, đã tranh cướp sạch sành sanh cho hết những gì bọn "kẻ thù giai cấp" đã có nhờ ... bóc lột (!?) và gọi hành động "cướp có lãnh đạo" đó là ... thoái tô! Riêng bên nội bên ngoại nhà tớ thôi đã có bảy gia đình "oan sai" mà đến lúc sửa sai thì chẳng ... sửa được cái gì! Nguy hiểm nhất là những cốt cán được kết nạp vào Đảng trong cải cách ruộng đất thì sau "sửa sai" vẫn tiếp tục chung sống "không hòa bình" với những đảng viên bị quy kết oan sai (?) gây nên một nỗi mâu thuẫn không thể giải quyết âm ỉ mãi đến bây giờ. Tớ bắt đầu nghi ngờ: Lẽ nào chuyện này bác Hồ Chí Minh không biết mà khi ra trước công chúng để nhận sai lầm, bác còn sụt sùi khóc lóc rút mùi xoa chấm nước mắt cứ ... y như những cái tội tày đình đối với dân tộc này là của ai ấy chứ bác ấy, bác ấy không hề hay biết!? Thế là trong tớ xụp đổ thần tượng y như một fan ca nhạc bị ca sỹ lừa một quả bằng ... "hát nhép"!
         
        Dù sau đó bác có cách chức ... Đảng của Trường Chinh, "hô biến" tên Hồ Viết Thắng nào đó khỏi Trung Ương cho mãi đến bây giờ (?) thì một câu hỏi được đặt ra trong tớ ngay lúc bấy giờ: Liệu bác ấy có tội gì trong vụ diệt chủng này không trên cương vị Chủ Tịch một nước? Sau này, hồi kí của Hoàng Tùng có thanh minh cho bác ấy, là "bác không bao giờ đồng tình cải cách ruộng đất kiểu đó, không đồng tình phát súng nổ đầu tiên của "cuộc cách mạng long trời lở đất" lại nhằm vào một người phụ nữ có công với cách mạng là bà Nguyễn thị Năm", nhưng tớ vẫn cứ giữ nguyên cái ý nghĩ "phản động" đó trong đầu là: Trong vụ sai lầm "giết người cuớp của, cướp đất" này bác ấy phải là người nhận tội về mình đầu tiên ... Làm theo chỉ đạo của người Tầu giết hại dân mình, phá tan mọi tổ chức, cơ cấu xã hội Việt Nam tuy nghèo khổ nhưng thắm tình yêu nước, yêu con người. Thắc mắc to đùng ấy về Hồ Chí Minh cứ theo thời cuộc mà phát triển dần dần.
         
        2- Khi về Hà Nội, tớ còn một chút tin tưởng ở huyền thoại Hồ Chí Minh lại bị sụp đổ nốt khi: Trước những vụ cướp nhà, cướp xưởng máy, cướp cửa hàng, cải tạo tư sản (cướp hết của cải của những người giầu kể cả những người được xếp là "tư sản tiến bộ"), của những người "có máu mặt" mà chẳng phải tư sản tư siếc gì (như một loạt các cửa hàng thợ may nổi tiếng ở phố hàng Trống với dăm bảy cái máy may và 3, 4 người học nghề, thợ phụ) ... thì bác ấy cũng chẳng rút được một chút kinh nghiệm gì về sự sai lầm vĩ đại ở cuộc đấu tranh giai cấp diệt chủng ở nông thôn mà giơ một ngón tay út lên để mà ngăn cản!?
         
        Còn về ngoại giao thì bác ấy luôn vô tư ... "đi hai dây" thậm chí có lúc ba bốn dây mặc cho những bạn bè đồng chí, những người quanh năm phục vụ bác ấy bị đi tù có án (Nguyễn Hữu Đang), bị đi cải tạo mút mùa như bố con ông Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Nguyễn Văn Vịnh ... bác ấy cũng ... ngậm tăm luôn.
         
        Chuyện chia ruộng cho nông dân, bác cũng dự các buổi cắm bảng căng dây, nhận ruộng (có quay phim chụp ảnh với các bà mẹ răng đen bế con, hồ hởi) thì chỉ mấy tháng sau ruộng đất lại bị tập trung làm hợp tác hóa nông nghiệp, đưa nông dân vào cảnh "gõ kẻng đi làm", "chấm điểm ăn công", trên cương vị Chủ Tịch nước bác ấy cũng chẳng có trách nhiệm gì chăng?
         
        Riêng chuyện phát động cuộc chiến tranh để hòan thành nhiệm vụ cách mạng vô sản tức là "đỏ hóa" toàn bộ nước VN và làm "nhiệm vụ quốc tế" đối với Lào, Cam Pu Chia có phải bắt đầu bằng lời hịch hùng hồn của bác ấy "Này hỡi Giôn-Xơn! ... Dù phải chiến đấu mười năm, hai mươi năm hay lâu hơn nữa ... Dù Hà Nội, Hải Phòng có tan thành bình địa" ..."Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn chúng ta cũng quyết chiến đấu " ... vv và vv ... Lẽ nào những lời kêu gọi đó bác ấy không nhân danh chủ nghĩa quốc tế vô sản mà chiến đấu đến người Việt Nam cuối cùng đấy sao? Bác thừa biết là chẳng có bọn "thực dân mới" nào xâm lược nước ta nên bác ấy chỉ làm thơ rằng "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" mà thôi. Chiếm được miền Nam là chiến thắng cuối cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản chứ đâu như chống Pháp giảỉ phóng quê hương năm nào.
         
        Vậy mà đến nay, một số các nhà "Hồ Chí Minh học", "Việt Nam học", một số "sử gia" đánh giá bác ấy "quá thấp" về ý thức chính trị khi có những công trình nghiên cứu, những hồi ký, những tham luận tại Sầm Sơn là "kể từ đầu những năm 64 trở đi, Bác Hồ đã không còn thực quyền gì ... Họp Bộ Chính Trị cũng không có Bác ... mọi quyết định đều do một tay ông này, ông nọ ... , thậm chí Bác đã bị "vô hiệu hóa", bị "giam lỏng" ở K5, K6 nào đó!?". Riêng điểm này thì tớ hòan tòan phủ nhận 100%! Hãy tìm hiểu từng chữ nghĩa trong bản tuyên bố lịch sử "Này hỡi Giôn-Xơn ... " năm 1964 đi hỡi các "nhà học giả", lãnh tiền tỷ để làm các "đề tài khoa học cấp nhà nước" muốn biện hộ cho bác ấy không can dự vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, gây đau thương, chết chóc cho hàng triệu triệu gia đình, gieo rắc hận thù trong hàng triệu triệu con Hồng cháu Lạc khó có thể xóa nhòa, các vị trước sau cũng bị lịch sử xóa tên, ít nhất là hai cái chữ tắt G/S hay T/S mà thôi!
         
        Tóm lại, trong suốt hai mươi bốn năm bác ấy cầm quyền (chính bác ấy viết trong di chúc là: Đảng ta là Đảng cầm quyền) niềm tin vào Đảng vào Bác, trong tớ cứ mất dần mất dần ... cho đến ngày ... mất hẳn !
         
        Ấy vậy mà! Từ khi tớ biết xử dụng Internet, không còn phải bỏ tiền túi ra mua những tờ báo Nouvel Obs, Paris Match, Newsweek, bầy bán công khai trên đường Đồng Khởi-Nguyễn Huệ ngay từ khi chưa có "Đổi Mới" để thoát khỏi cái nỗi khổ mù thông tin thì bỗng dưng tớ lại dần có những nhận định rất mới về Ông Cụ này: Đó là một con người khổ, cực kỳ khổ, khổ suốt cuộc đời, hổ cả lúc chết và khổ cả sau khi chết và ... muôn năm khổ. Có một CON NGƯỜI nào như thế này không?
         
        1- Tên tuổi không có thật. Lúc thì gọi là Nguyễn Tất Thành, lúc thì gọi là Ba, là Nguyễn Ái Quốc, là Lý Thụy, là Tống Văn Sơ, là Linov, là Victor, là Lucius (lúc "làm việc" với O.S.S–tiền thân của C.I.A với bí số 19 dưới sự chỉ huy trực tiếp của trung tá Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti) ... và hàng trăm cái tên khác nhau để rồi cuối cùng dừng lại ở cái tên ... Hồ Chí Minh mà cả những nhà cộng sản chính cống như Trần Văn Giầu, hoàng đế Bảo Đại cũng phải hỏi: "Hồ chí Minh? Ai vậy!?". Một cái tên mà cả núi sách trên thế giới phải truy tìm nguồn gốc mãi cho tới ngày nay và chắc sẽ còn tốn nhiều giấy mực. Chỉ riêng cái họ Hồ, tớ đã đọc được cả một mớ những tài liệu, đặc biệt là những lời đồn đại và cả bàn tán vỉa hè về bài phát hiện của giáo sư Trần Quốc Vượng viết thành văn bản hẳn hoi là Hồ Chí Minh chính là dân Quỳnh Lưu???
         
        2- Có ai ngày sinh cũng mập mờ như bác ấy. Tài liệu của các sở mật thám, trên các hộ chiếu mà nhiều nước cấp cho bác thì cả chục ngày sinh khác nhau. Trên hộ chiếu thông hành gần nhất số 1829 của Đức cấp cho bác thì đề rõ là Nguyễn Chen Wang sinh ngày 15/1/1895.
         
        Riêng tớ, cái ngày 19/5 được chính ông Hoàng Minh Giám khi nói chuyện về "tài ngoại giao của Bác Hồ" với một số văn nghệ sĩ cho biết là ngày 19/5 chính là bác Hồ đã cùng ông ... "sáng tác" ra để tránh một cuộc “cụng ly” với những người mà bác chắc chắn rằng không thể tránh khỏi một cuộc chiến đấu trường kỳ chống lại họ: Một cách từ chối khéo và phải "bịa" ra một ngày sinh nhật đột ngột và được tổ chức ... y như thật là như dzậy đó. Kể từ ngày 19 tháng năm 1946 đó, mỗi năm báo chí, phát thanh, truyền hình đều bắt toàn dân phải nghe, phải đọc, phải xem những điều "nói dzậy mà không phải dzậy" suốt bao nhiêu năm và chẳng hiểu sẽ còn tái diễn đến tận bao giờ đây hỡi các nhà "khoa học"?
         
        3- Suốt hai mươi bốn năm hoạt động chính trị làm chủ tịch nước là hai mươi bốn năm luôn phải đối phó thậm chí nói dối, lừa đảo, đóng kịch, bị cấm cưới vợ, bị cấm nhận con để hoàn thiện vai trò một "ông thánh" mà "người ta" muốn tạo dựng lên để thờ như một vị thần linh hơn cả Bà Trưng bà Triệu, Trần Hưng Đạo ... để Con Rồng Cháu Tiên phải biết ơn và noi gương bác cùng các học trò xuất sắc của Bác ngàn đời: Bác là chân lí, bác là đỉnh cao trí tuệ, bác là "niềm tin tất thắng", bác là "lương tâm của nhân loại", càng ngày càng được các văn nghệ sỹ phóng đại lên trong những tác phẩm văn nghệ nhất là thi ca và âm nhạc cho đến tận ngày nay.
         
        4- Ngay cả khi chết, bác ấy lại chết đúng vào ngày mồng 2 tháng 9. Thế là "người ta" cũng sửa ngày chết của bác ấy là mùng 3 tháng 9 (?) chắc là để khỏi "xui" hoặc là để sau những cuộc tiếp đón, nổ xâm banh, tiệc tùng đón bạn bè quốc tế, công bố hết các điện chúc mừng của các nước lớn, nhân ngày quốc khánh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ... rồi sau đó một hôm mới long trọng tuyên bố với thế giới và đồng bào trong nước là "Hôm nay , vào lúc ... giờ ... phút ngày 3 tháng 9 Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã ra đi".
         
        Bản di chúc bác ấy viết chính tớ được nghe đọc đi đọc lại nhiều lần (phổ biến nội bộ) nhưng khi công bố ra thì bị sửa chữa lung tung. Đặc biệt có lời yêu cầu "không nên làm tang lễ linh đình, tốn kém" và lời yêu cầu được "chôn tại một ngọn đồi, dưới chân đồi nên dựng một túp lều để nhỡ có bà con nào nhớ đến bác tới thăm thì có chỗ nghỉ chân" thì bị cúp hẳn! ... Thì ra "người ta" đã quyết không vâng lời Bác và quyết tâm làm ngược lại những điều bác dạy!, "Người ta" mang bác ấy vào bệnh viện 108, ... mổ bụng, moi gan, bửa óc, khoét mắt rồi ngâm bác trong một bể formol để mỗi tuần phải vớt lên kì cọ, thay nước ... Chuyện này các bác sĩ, y tá ở 108 trong đó có những người trực tiếp mổ, xẻ, cưa, đục và những người chứng kiến trực tiếp các công đoạn phẫu thuật và hậu phẫu thuật chưa từng có trong đời họ đều phải ngán ngẩm mà thốt lên: "Sao mà cái kiếp ông cụ nó khổ thế?!". Chuyện cực kỳ bí mật này nếu chỉ trong một vài tháng thì còn giữ được. Đằng này, vì xây lăng quá to, quá tốn kém trong hoàn cảnh đất nước nào có phương tiện gì hiện đại như ngày nay phải kéo dài quá lâu nên với dân Hà Nội, bí mật đó đã bị bật mí hết. Chẳng mấy ai mà không biết là xác của ông Hồ Chí Minh đặt ở trong lăng chỉ còn là ... cái vỏ, được bơm silicon và hóa trang như thật mà thôi!
         
        Riêng tớ, có những dịp phải đứng trong danh sách những người vào lăng viếng bác, bao giờ tớ cũng tìm cách trốn lủi vì tớ luôn bị ám ảnh cái hình tượng xác chết bị mổ bụng, moi gan nằm trong thùng formol mà ớn lạnh. Thế đấy, chỉ riêng cái lăng bác đã làm cho biết bao người yêu cũng như ghét bác phải tranh cãi mãi không thôi. Và những kẻ chống cộng quá khích nhất, đã không ngừng lấy đó làm đề tài để bôi xấu bác ấy. Thế là tớ cảm thấy cần phải nói lên một tình cảm có thể gây sốc cho nhiều người:
         
        HỒ CHÍ MINH LÀ MỘT NGƯỜI TỪ LÚC RA ĐỜI ĐẾN KHI CHẾT ĐỀU SỐNG DỞ, CHẾT DỞ, LUÔN PHẢI ĐÓNG KỊCH, SỐNG GIẢ VỜ, SỐNG KHÔNG LÍ LỊCH, TÊN TUỔI, KHÔNG NGÀY SINH THÁNG ĐẺ, KHAI TỬ KHÔNG RÕ RÀNG, KHÔNG GIA ĐÌNH VỢ CON VÀ CẢ CHẾT RỒI CŨNG CHẲNG ĐƯỢC CHÔN CẤT TỬ TẾ, MÀ CÒN BỊ ĐỐI XỬ TÀN ÁC HƠN CẢ BỊ TỘI VOI GIẦY NGỰA XÉ! (trích trong: "Bác Hồ", Một Con Người Khổ Nhất Thế Giới).
         
        Còn khá nhiều bài viết khác của nhạc sĩ Tô Hải mà tác giả bài viết nầy không thể kể hết ra ở đây. Như vậy, ta thấy là nhạc sĩ Tô Hải đâu có phải là một người HÈN như lời ông nói. Rõ là nhạc sĩ Tô Hải, người đầy đủ phẩm cách của một trí thức đức hạnh. Nội cái việc sống giữa bầy Sói Cộng Sản mà ông vẫn cố sức giữ tư cách riêng cho bản thân mình, khéo léo để tránh cảnh bị chúng "làm thịt" vì gốc gác (thân sinh là công chức cho Pháp và toàn gia đình ông gồm bố-mẹ và 6 người em ruột đã di cư vào Nam năm 1954), ông phải sống trong ... đối phó và luôn luôn sợ hãi về những nỗi ám ảnh sẽ bị đấu tố, kết án ... cả bao nhiêu năm trời như vậy (và ông thoát được), thì ông phải rất gan dạ. Giờ đây! Ông, một cụ già 83 tuổi, sống qua 5 chế độ, đã chứng kiến tận mắt những chuyện đau lòng suốt 65 năm làm người (của chế độ CS mà ông đã phục vụ). Vậy mà ông vẫn nặng lòng với đất nước Việt, vẫn cố sức trải lòng mình ra trên trang Blog của riêng ông (có khi bằng văn phong hài hước) để nói lên những nỗi buồn và niềm vui của riêng ông về quê nhà cùng những người Việt xa xứ ... Bài viết dưới đây của ông (sau một đợt dưỡng bệnh, nghỉ viết tới 100 ngày):
         
        ... "NIỀM VUI:
         
        1- Tình hình thế giới và trong nước đang được bánh xe lịch sử vận hành đúng như những điều mà tớ và bạn bè tớ mong ước. Chỉ qua một cuốn tiểu thuyết "Thời của thánh thần" dày hơn 600 trang của Hoàng Minh Tường lại được chính nhà xuất bản của Hội Nhà Văn TW do Tổng Biên Tập Trung Trung Đỉnh và Nguyễn Khắc Trường chịu trách nhiệm xuất bản (biên tập Tạ Duy Anh), cũng đủ thấy được cái chữ "Sợ" của cụ Nguyễn Tuân đã không còn nữa ở những nhà văn này. Vậy là 1 số văn sỹ (sau Nguyễn Khải, Đào Hiếu, Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo ... ) đã đến lúc xuất hiện những tên tuổi mới, dám nói lên hoặc ủng hộ những cái gì mà lâu nay, vì ... Hèn mà đành "im hơi lặng tiếng". Trên các Blog, dù đã có nhiều răn đe, nhưng mọi người vẫn cứ "nghĩ gì nói nấy" vì tất cả đều tin là mình đang đứng về phía sự thật. Tiện đây tớ cũng xin nhắn nhủ với tất cả các bạn trẻ hãy bỏ thì giờ vào mạng (Việt Nam Thư Quán) đọc cuốn tiểu thuyết nói trên. Với tớ, đó là những trang sử có thật của đất nước từ năm 45 tới đầu thế kỉ XXI này. Các bạn sẽ gặp ở đó tất cả những nhân vật điển hình cho mọi thành phần giai cấp, đã sống qua cái bi hài kịch hãi hùng đau đớn nhất của dân tộc, của mọi gia đình, mọi tầng lớp: Những điều mà không ít các nhà văn, nhà viết sử chân chính từng ấp ủ, từng mơ ước (cũng như bản thân tớ), chưa có "gan", chưa có khả năng làm. Quả là "hậu sinh khả úy", khi một nhà văn sinh sau tớ cả hai chục năm lại viết được những gì mà chính chúng tớ cả gần nửa thế kỷ sống trong thực tế đau buồn, bi thảm kéo dài đó, đã anh dũng nói hộ lũ già nua hèn-kém chúng tớ!. Dù có một số sơ xuất khi phải xử dụng tài liệu, nhân vật có thật xen lẫn với hư cấu, nên đôi chỗ, những kẻ "không ưa nghe chuyện cũ" có thể dễ khép anh vào tội "xuyên tạc", "nói xấu" hoặc cho là anh "bịa", nhưng tớ xin đem cái mạng già này ra mà bảo đảm rằng: "Tất cả mọi chuyện xảy ra trong cuốn "tóm tắt lịch sử Việt Nam 60 năm này" của H.M.T là hoàn toàn có thật! Nó rất đáng để các bạn trẻ đọc và tin ở nó! Nó có thể thay thế tớ đóng góp cho cái nhìn của lớp trẻ lâu nay bị "quáng gà lịch sử", muốn biết rõ thêm về những điều mà các nhà viết sử chính thống muốn dấu kín!(Ý đồ của bản thân tớ khi blogging cũng chỉ mong kể về "những chuyện có thật", qua những entry "kể chuyện xưa" qua từng vụ việc, từng con người ...). Vậy là, tớ đã có đồng minh và nhiều đồng minh khác nữa sẽ thay thế tớ sau khi tớ không còn ở trên cõi đời này! Làm sao không vui được giữa lúc phải đóng đinh trên giường mà lại có trong tay một cuốn sách "cực kỳ" như thế để quên đi cái lão Thần Chết đang cầm liềm đứng ngoài cửa sổ muốn "hái" tớ đi.
         
        2- Chính trong cái thời gian 3 người đồng đội, dòng dõi nhà vua của tớ khi xưa "ra đi cứu nước" lần lượt qua đời (Bảo Tân, Bửu Huyền, Vĩnh Cường) với danh nghĩa ... "chiến sĩ lão thành-hưu trí-bạch vệ" thì chẳng hiểu sao, lệnh từ đâu (?) người ta lại công khai xét lại cách đối xử "không công bằng" với các triều đại của chúa Nguyễn, lên án việc hủy bỏ những cái tên đường phố như Nguyễn Hoàng, Phan Thanh Giản, Tự Đức ... là sai lầm, là ấu trĩ, giáo điều.? Mà nào có phải lời lẽ của 3 anh cầm bút trẻ người non dạ gì cho cam . Tòan những giáo sư, tiến sĩ đầu ngành của Viện Khoa Học Lịch Sử nước nhà cả. Tiếc rằng mấy người bạn mang giòng họ Vĩnh, Bửu ... nói trên không còn đươc hưởng cái "niềm vui mới" đó để dịu bớt đi nỗi đắng cay của những ngày người ta đấu tố mình trong các cuộc chỉnh quân, chỉnh huấn, ép mình phải nhận rõ cha ông mình là ... "Kẻ Thù Giai Cấp"!
         
        3- Sau khi cho ra mắt các tác phẩm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Trần Dần, Tuân Nguyễn ... Người ta long trọng tổ chức lần đầu "100 năm ngày sinh của giáo sư Trương Tửu" tại trường Đại Học Sư Phạm-Hà Nội! Trong các bản tham luận hua-ra (có quay phim đưa lên VTV), các giáo sư, tiến sĩ có uy tín nhất nước đã công khai "tung hô" "tên tờ-rót-kít cực kỳ nguy hiểm", "tên kích động sự bất phục tùng và phản kháng" trong giới văn nghệ sĩ, kẻ muốn "tách văn nghệ ra khỏi chính trị hàng đầu" ... như là "người đầu tiên đi vào phê bình văn học cách mạng ", "giáo sư hàng đầu", "người đặt nền móng cho khoa lý luận văn học trong trường Đại Học" ... "người phát triền lý luận văn học cách mạng" ... vv và vv... Điều ngạc nhiên lại chính là những tiến sĩ, giáo sư đã từng là học trò của ông nhưng đã từng phải "tẩy não" để lên án thầy về "tư tưởng cực kỳ phản động" qua những điều ông nói và viết như "chất men bất phục tùng và phản kháng của người nghệ sĩ", ... "Nhiệm vụ lãnh đạo con tim của người cầm bút".! Cũng chính do những lập luận này mà không ít kẻ đã lợi dụng để "giết" ông, đẩy ông về vườn nhẫn nhục và câm nín làm nghề châm cứu trên 20 năm cho đến lúc qua đời (tìm đọc tài liệu chửi Trương Tửu trên Talawas). Những niềm vui nói trên, tới hôm nay, tuy vậy, vẫn chưa lấy gì làm vững chắc vì trên một số tờ lá cải vẫn còn không ít những kẻ (chẳng biết đi lề bên phải hay bên trái?), vẫn tung ra những bài phê phán ngược chiều.! Cũng may, đó chỉ là những tên cầm bút vô tên tuổi, cơ hội chủ nghĩa, không một xu uy tín với người đọc, chẳng một gam tín nhiệm với lớp trẻ hôm nay. Nhưng cứ cho là có một áp lực nào đó phải cải chính lại "những niềm vui" của tớ đi thì ít nhất cũng là những "tiếng pháo cấm" đã đì đẹt nổ báo hiệu mùa xuân!
         
        Và bây giờ nói đến NỖI BUỒN:
         
        Với một người ham sống, mê làm việc, đói thông tin như tớ thì 100 ngày qua là ... 100 năm Buồn Bực và một ngàn nỗi ... Buồn Đau! Thôi thì chỉ kể ra những "nỗi buồn cơ bản" nhất.
         
        1- Buồn vì, năm 2008 vừa qua, đời sống của nhân dân lao động trong đó có gia đình tớ chẳng thấy đuợc "tăng trưởng" dù chỉ 1, 2, 3%, mà chỉ thấy, theo bà xã tớ thì thụt lùi ... thậm chí đến 100%! Bả đưa ra những con số mà đố ông thống kê nhà nước nào dám cãi lại. Đó là gạo năm ngoái bả mua có 5000 đồng một ký thì nay ... 12.000 đồng! Thịt năm ngoái 35000 đồng thì nay là ... 55-60000 đồng! Rau cải từ 1000 đồng nay vọt lên 3000 thậm chí có lúc lên đến 5000 đồng! Còn chuyện học hành của đứa con gái tớ, từ ngày lên cấp tú tài thì ... bất kể! Có tháng lên cả tiền ... triệu! Tớ lại nghĩ tới hàng vạn công nhân thất nghiệp hoặc ... " không có việc" (nhà máy đóng cửa, giám đốc nước ngoài bỏ trốn như báo chí đã không thể không đăng), nghĩ tới những người nông dân phải chở lúa, gạo lên Saigòn bán cho người tiêu thụ với giá rẻ mạt mà ... buồn cười cho những con số thống kê chẳng có tác động gì đến nồi cơm của hàng triệu con người cũng như của gia đình tớ! Tớ lại buồn và ... bực cho những cảnh đời trái ngược khi nghĩ tới: Năm 2008 có triệu kẻ đói, thèm miếng cơm ngay trên vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long (qua bài viết của Võ Đắc Danh đăng trên báo Tuổi Trẻ), trên vùng Mã Pì Lèng-Tây bắc (qua VTV), thì trong các quán bar, nhà hàng, khách san, những đêm vui chơi thác loạn, những cuộc lễ hội hoành tráng kỷ niệm, kỷ niếc 100 năm, 120 năm thành lập Tỉnh này, Hội nọ, Ban kia ... (dù cho Thủ Tướng đã gần như ra lệnh "hãy màn màn" để chống suy thoái, lạm phát.!), với nhưng chương trình chẳng ra múa, chẳng ra rước, chẳng ra kịch câm, aerobic, hay diễn võ-tuồng Tầu ... dài cả 5 chương, 7 màn ... vẫn cứ diễn ra đều đều (kỷ niệm 310 năm thành lập thành phố Biên Hòa-Đồng Nai, nơi có số công nhân đình công lớn nhất vừa qua). Tớ lại liên tưởng đến số tiền người ta đổ ra để chỉ may mặc cho cả ngàn diễn viên, giá mà đem đổi lấy vài ngàn cái áo, cái quần để mặc cho mấy em bé người Mông trần truồng của một bản người Mông mà VTV đã cố tình đưa lên sóng khi quay về chuyến "vượt gian khổ đi xóa đói giảm nghèo" ở một cái xã rất khó đọc tên mà ông chủ tịch xã, người địa phương 100%, lại xuất hiện trước camera để "cảm ơn Đảng và Chính Phủ" với com-lê-cà vạt và bộ mặt ... chẳng đói tí nào! Tóm lại chỉ đọc báo nhà nước, xem Tivi nhà nước thôi rồi đối chiếu ngay với cái xã hội quanh tớ và ngay nhà tớ thì tớ chẳng còn tin gì ở những con số lạc quan đươc người ta tung hê ra mà biết chắc chẳng có ma nào kiểm tra nổi! Bị coi là con nít, bị coi là quần chúng vô học, dân trí thấp kém, dễ đánh lừa, dễ "bảo sao-nghe vậy", làm sao mà không buồn và bực cơ chứ.
         
        2- Về đời sống chính trị của xã hội thì tớ thấy càng buồn hơn: Thì ra ... ở ngay sát ta, nước bạn Kam Pu Chia, người ta được tự do hơn hẳn cái nước "đã giải phóng họ khỏi nạn diệt chủng". Qua Internet, cứ nhìn và nghe thấy họ đã cho tự do lập Đảng, lập Hội, tự do bầu cử có quốc tế kiểm soát, tự do báo chí để rồi cuối cùng cái Đảng Nhân Dân Cách Mạng của Hun Xen, với tôn chỉ và mục đích hoàn toàn "Đổi Mới" đã được nhân dân tín nhiệm tới mức mấy ông lãnh đạo Funcipec cũng phải xin gia nhập thì ... ở nước ta, chẳng có gì tiến bộ mà chỉ có ... thụt lùi. Vẫn là "kiên trì đường lối Mác-Lê Nin", vẫn là "kinh tế thị trường" nhưng có định hướng xã hội chủ nghĩa??? Trong khi đó, ở nước Tầu, họ đã khai trừ không tuyên bố mấy cái ảnh to đùng của Mác-Lê-Mao khỏi chủ tịch Đoàn Đại Hội Đảng ... và trong các báo cáo văn kiện chính thức của họ sau Đại Hội, họ cũng không hề nhắc tới cái cụm từ "kiên trì đường lối Mác-Lê Nin, Mao Trạch Đông". Trái lại ở xứ này, người ta lại làm rùm beng trong những ngày sinh, ngày chết của các ông Mác, ông Lê, ngày kỷ niệm CM tháng 10 ... Thật là buồn nhưng sau đó là buồn ... cười! Tớ càng thấy bài thơ "Tại sao bố mình không giỗ lại giỗ bố thằng hàng xóm?" của Lê Phú Khải quả là ... chí lý!
         
        3- Sau cùng là nỗi buồn về sự "lật thế cờ" của cái Ác chống cái Thiện. Nỗi buồn này trong tớ là có thật. Nó có thể là nỗi "buồn ... tiêu cực" nhưng tớ cứ nói ra. Mong các friends giúp tớ giải tỏa nó đi vì tớ cảm thấy nó sẽ theo tớ mãi mãi khi đã ... vào lò thiêu, khó mà theo khói bay lên trời. Cụ thể là:
         
        a/. Những vụ "tiêu cực vĩ đại" như Pờ Mu 18, vụ Nguyễn Đức Chi, vụ Điện Kế Dỏm, vụ PCI, vụ Sừng Tê Giác, vụ New Century, vụ Ăn cắp có tổ chức dính líu tới 58 người VN tại Nhật ... và còn hàng trăm vụ "nhục quốc thể" khác mà báo chí thế giới, và trong nước đã phanh phui ... đưa tới cắt viện trợ ODA, vẫn ù lì giậm chân tại chỗ (có vụ kéo dài cả 4, 5 năm mà "Trên" vẫn họp bàn nên xử thế nào? "Xử ai", "xóa tội" cho ai? Vẫn chưa đến hồi kết thúc!). Thậm chí có vụ dư luận còn bị những cú "rơ-ve" đến tỉnh người như vụ Thứ trưởng-đảng viên gương mẫu Nguyễn Việt Tiến! Thế cờ đã bị lật ngược bằng cách bỏ tù những ngươi đã "bịa" ra những tin tức không hề có cho ông ta! Gần đây,trên báo chí, các trang mạng chính thức của "Ta" đã cải chính công khai cho cái mà chính các nhà báo đã đăng tải là "New century, ổ ăn chơi sa đọa ngay sát công an quận Hoàn Kiếm và Sở Công An Hà Nội suốt 4 năm trời" là ... chỉ có phạm "tội kinh doanh rượu không dán tem" mà thôi! Không những thế, chủ của cái tổ quỷ đó lại còn thách thức pháp luật trên các trang Net là: "Ngay cả tội kinh doanh rượu của ông ta cũng hoàn toàn hợp pháp mà nếu ra tòa, ông ta sẽ đủ giấy tờ chứng minh cho sự hợp pháp này". Ông ta còn lập luận về "sự cần thiết phải có chỗ vui chơi cho giới trẻ thủ đô trong thời đại văn minh tiến bộ của thế giới!". Tóm lại: Ông ta có công chứ không có tội. Còn cái việc huy động một lực lượng công an cả mấy trăm người để bắt gần ngàn các em về đồn thử phản ứng thuốc lắc là ... có ai đó chủ tâm ghép ông ta vào cái tội tầy đình vì lắc hay không lắc là "chuyện của các em" chứ ông ta không kinh doanh những thứ đó. Ôi! Đọc những tuyên bố hùng hồn của cái ông Đại Dương này mà buồn cho ... những người đang ra sức tuyên truyền cho phong trào "học và làm theo Đạo Đức Hồ Chí Minh", và ngượng thay cho Ai (?) đã chỉ huy cái lực lượng công an của Bộ đã đánh "nhầm" phải cái điểm "bất khả xâm phạm" này! Liệu có bị ra tòa như các ông Quắc, ông Huynh không? Một lần nữa giữa cái Ác và cái Thiện có phải đã có một cuộc chiến mà cái Ác đã thắng?
         
        Sau cùng (cũng phải tạm sau cùng thôi vì tớ đã lợi dụng sức và thời gian học thi của con tớ quá nhiều rồi), đó là:
         
        Việc bắt bớ và ra tòa hoặc vào tù, hoặc phong tỏa, "mời làm việc", khám nhà, tịch thu máy tính, điện thoại, cắt Internet của quá nhiều những người mà tớ luôn theo rõi lời nói, bài viết ... trên các trang web, trên blog của họ. Không một ai hô hào lật đổ, nổi loạn ... mà chỉ đòi hỏi những gì mà mọi người trên trái đất này cần có tối thiểu. Đó là: Tự do lập Hội, tự do làm báo, tự do phát biểu kể cả "trái chiều", tự do được biểu tình phản đối bất cứ kẻ nào xâm lược dù một tấc đất của cha ông. Vậy mà, Phạm Thanh Nghiên, bị bắt giam chờ ngày ra tòa vì dám ngồi tại nhà (tọa kháng) với những khẩu hiệu (chỉ treo trên tường nhà mình ) lên án nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lược, sau khi cùng bạn bè làm đơn "xin phép biểu tình" bị bác bỏ. Còn Hoàng Hải đã bị tù giam (về tội "trốn thuế-cho thuê nhà”). Một bản án nặng nề chưa từng có tại Việt Nam vì có đến hàng vạn người đang cho thuê nhà mà không hề nộp thuế, kể cả các cán bộ cao cấp, về hưu mà tớ và bà xã tớ có thể "chỉ điểm" cho các cơ quan thuế hàng lô, hàng lốc! Rõ ràng đây là cái " tội" dám làm chủ trang Web "Câu Lạc Bộ Các Nhà Báo Tự Do", làm chủ Blog Điếu Cày và đã từng ba lần "phạm tội" giương cao khẩu hiệu đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa công khai giữa đường phố Sài Gòn, giăng hàng ngang đứng ngay giữa thềm nhà hát thành phố .
         
        Có lẽ cũng do vụ án quá bất hợp pháp này mà cái thông tư quản lý Blog đã ra đời để sau này có bắt ai thì đã có "luật pháp quy định"? Kèm theo các lời giải thích của các vị có nhiệm vụ kiểm soát cái đầu và trái tim của hơn 80 triệu dân này thì, rõ ràng là một cái tóc cũng sẽ là một cái tội. Vì Blog chỉ là nhật ký cá nhân, không có chức năng thông tin và nếu Blog lại trở thành "báo chí công dân" thì sẽ xử theo luật báo chí nghĩa là sẽ theo hai anh Hải-Chiến ra trước vành móng ngựa tắp lự! Báo nhà nước còn thế nữa là báo cá nhân! Mới thấy cái roi mây đập mấy phát xuống giường kèm theo vài lời "Nằm xuống! Liệu hồn!" mà tớ đã thấy một số "giai téo" vội vàng "đóng Blog", im hơi lặng tiếng cả mấy tháng trời! Có vị "giáo sư" còn vội vàng cải chính về những trang hồi ký tung lên mạng "có hại cho uy tín lãnh tụ", gây ảnh hưởng xấu đến an ninh đất nước là "tôi không hề tự tay tung lên Internet”(?) ... là "tôi viết chỉ để ... giải tỏa ... không hề có ý này ý nọ". Chỉ còn thiếu "Em lạy các anh công an, em trót dại nghe các "thế lực thù địch" nên trót lỡ ... Đừng bắt em, ội nghiệp!". Đọc những bản viết như thế sao mà không buồn, nhưng mà ... buồn nôn!
         
        b/. Đã thế mấy trang web của người Việt hảỉ ngoại mà tớ thường hay lướt qua thì thấy ... càng ngày họ càng ... tự đánh phá nhau thậm tệ. Trang này chửi bới trang kia bằng những lời lẽ chưa hề có trong văn viết bao giờ. Đọc xong thấy lợm cả giọng. Và ở Mỹ, ở Pháp, ở Balan, nếu quả là có thật như những bài báo chuyên nghề chửi bới, vạch mặt nhau thì ... "Phản gián Việt cộng quả là giỏi nhất thế giới!", một màng lưới "đặc công đỏ", "dân chủ cuội", "Công an trá hình" đã được phản gián Cộng Sản, dùng khổ nhục kế và dùng hàng triệu đô la để cài người đánh phá "cộng đồng người Việt tự do" ngày càng ác liệt?! Cha chả! ... Còn "phong trào dân chủ ", khối 8406 trong nước ư? Toàn là những đồ "đi tù giả", "dân chủ cuội", "phản tỉnh vờ" ... Chẳng một ai không bị chửi, ngoài hai nhà tu hành: Thích Quảng Độ và Linh mục Nguyễn Văn Lý!?
         
        Thế đấy! tại quốc nội thì sự đàn áp ngày càng khắt khe, băng keo dán miệng đã cùng với cả một lô quyết định, thông tư ... sẵn sàng ban bố, kể cả CẤM TƯ NHÂN KHÔNG ĐƯỢC XỬ DỤNG INTERNET cũng có thể ra đời. Đuổi cổ Google, Yahoo ra khỏi cái đất nước tự do theo kiểu Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là điều rất có thể!.
         
        "Mặc ai phản đối kêu trời,
        Nhân quyền, Dân chủ kiểu tôi, tôi làm"!
         
        Thách 10 bà Loretta Sanchez, thách trăm ông Nghị EU, cứ vào đây coi ... Tôi sẽ đếch cấp visa như 4 vị vừa qua với lý do "không bảo đảm an ninh" thì ... cứ ngồi ở bên Tây, bên Mỹ mà đòi cái nhân quyền theo kiểu các vị!
         
        Làm sao không buồn cho cái thế giới phẳng này đang bị đào bới, xới lộn, đặt "lô cốt", kẹt xe ... y hệt các con đường ở thành phố Hòn ... "Ngọc Viễn Đông" chẳng dũa chẳng mài này chứ!
         
        Còn ở quốc ngoại thì "Người Việt Tự Do" bị chia năm xẻ bẩy! Ai cũng có thể trở thành "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản", ai cũng có thể là "công an cộng sản nằm vùng", là "đặc công đỏ", nếu không theo đúng chủ trương, đường lối của nhóm này, nhóm nọ ... (trích trong: Tớ trở lại sau 100 ngày).

         
        Nếu gọi những người từng một thời là đảng viên CS hay tôn thờ chủ nghĩa CS mà nay đã bỏ đảng hoặc thôi không "ủng hộ" lý tưởng CS nữa là những người phản tỉnh thì thực tế là hiện nay con số người như vậy có rất đông tại quê nhà. Trước đây thì có người đã phản tỉnh ngay sau khi họ tận mắt chứng kiến cảnh đấu tố giết người vô tội trong Cải Cách Ruộng Đất như trường hợp của Võ Hải, Hồ Mậu Đề, Lê Hoan, Trần Lãm ... đã trở thành những tá tướng ở "phía bên kia" với những cái tên hoàn tòan mới. Đó là những anh lính lục quân Trần Quốc Tuấn, sau chiến dịch Điện Biên về tiếp quản Hà Nội đã ... tranh thủ thời gian 300 ngày, theo hiệp định Giơ-neo, được "tự do lựa chọn nơi làm ăn sinh sống" đã tranh thủ xuống Hải Phòng mà "một đi không trở lại"! Họ đã tự mình xóa bỏ mọi thành tích "chiến đấu giải phóng dân tộc" để tự nguyện chuyển sang hàng ngũ những người chống cộng hàng đầu (trích trong: Gặp lại các cụ chiến sĩ). Có người thì sau khi tập kết ra sống ở miền Bắc mới sáng mắt (khi đã biết xã hội CS) rồi nhân có cơ hội hồi kết (trở về miền Nam), cũng đã bỏ hàng ngũ CS như trường hợp của nhà văn Xuân Vũ, ca sĩ Bùi Thiện ... Hoặc ngay cả khi họ đang ngồi trong hàng những tù binh Bắc Việt được chính quyền miền Nam VNCH trao trả lại cho CS tại sân bay Lộc Ninh năm 1973. Có người thì phải đợi đến khi có sự sụp đổ của Liên Xô và khối CS Đông Âu thì họ mới phản tỉnh (như trường hợp của Bùi Tín, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ...). Dù vậy, vẫn có người kiên trì tin vào lý thuyết CS cho đến khi những hình ảnh Đầy Tớ Nhân Dân thành Tư Bản Đỏ xuất hiện đầy rẫy ở trong nước (cùng sự lấn ép của bọn Tàu Cộng) thì họ mới chịu rũ bỏ niềm tin vào lý tưởng CS. Có thể nhạc sĩ Tô Hải nằm trong trường hợp (hết còn kiên nhẫn nổi với bọn CS) người phản tỉnh sau cùng nầy ... dù muộn màng. Phản tỉnh với chủ thuyết CS và mong muốn thay đổi cái chế độ đương thời tại quê nhà. Với người viết bài nầy, dù nhạc sĩ Tô Hải cho mình là HÈN (khi viết quyển sách HKCMTT kể trên) vì ông cho là đã im hơi-lặng tiếng khá lâu với những điều "trông thấy mà đau đớn lòng", có khác gì là thỏa hiệp, là đồng lõa với chế độ CS. Thì với các bài viết của ông kể trên đây (cùng quyển HKCMTH), nhạc sĩ Tô Hải vẫn còn hơn nhiều người trong hàng ngũ CS hiện nay (trẻ hay đã lão thành) vẫn "... còn đó một vài cái mặt trơ, trán bóng hoặc ù lỳ ngồi xe lăn hưởng lộc trời" (trích trong: Một entry lạc đề). Vả lại, sự im lặng của ông cũng giúp ông ... yên ổn tấm thân, để biết nhiều chuyện trong xã hội CS Việt Nam mà nay ông mới có cái để nói cho chúng ta được biết.
         
        Thực ra thì ngay cả những đảng viên cao cấp của CS Việt Nam hiện nay còn mấy ai tin vào lý thuyết CS nữa? Cứ nhìn vào lối sống cá nhân và gia đình của họ. Họ không còn tin tưởng gì với chủ thuyết CS nhưng vẫn bám vào chủ nghĩa nầy để hưởng lợi cá nhân. Họ cũng là những con người "phản tỉnh" với lý thuyết CS nhưng lại không muốn thay đổi bằng một chủ thuyết khác. Nói cách khác là quyền lợi của bọn người nầy gắn liền với sự tồn tại của cái gọi là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (việc Tao, Tao nói. Việc Mầy, Mầy cứ làm hoặc Tao nói vậy mà không phải vậy, Mầy nghe chưa?) hiện nay, dù người đó có là một đảng viên CS hay là một người từng có thời đứng trong hàng ngũ miền Nam VNCH trước đây. Họ câu kết (làm ăn) với nhau để cùng làm băng hoại đất nước Việt. Khi đất nước Việt còn phân qua hai miền Nam-Bắc thì chế độ miền Nam VNCH là nơi để cho những người phản tỉnh CS chạy đến. Nay thì thực thể miền Nam VNCH không còn nữa, nơi để nhũng người phản tỉnh, những người đấu tranh cho tương lai nước Việt nhắm đến chính là một nhà nước Việt Nam có Dân Chủ-Tự Do thực sự trong mai hậu.
         
        Dù sao, thái độ của nhạc sĩ Tô Hải rất đáng trân trọng và mong rằng ngày càng sẽ có thêm nhiều điển hình: TÔI LÀ MỘT THẰNG HÈN như trường hợp của ông ở nước Việt. Bất cứ ai biết mình đã từng HÈN (vì im lặng quá lâu trước điều Ác, sai trái...) nay mới dám nói (tố cáo) ra (sự việc đã không dám nói) thì người đó đã hết HÈN. Thái độ đó khác xa với thái độ (của bọn người) miệng oang oang: Ghét Điều Giả Dối, Thích Sự Trung Thực như các tay đầu lãnh nhà nước CS Việt Nam bây giờ.
         
        Phạm thắng Vũ
        July 01, 2009.
        #19
          Ct.Ly 22.08.2009 22:11:42 (permalink)
          #20
            Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 20 trên tổng số 20 bài trong đề mục
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9