NỤ CƯỜI NỬA MIỆNG.
Toctien1 30.06.2009 02:03:38 (permalink)
0
Tác giả : VICENTE RIVERA, là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của Philippins.
Tác phẩm ALL OVER THE WORD là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của văn hào. Tạm dịch NỤ CƯỜI NỬA MIỆNG.
Người dịch: VanTienSinh.




ONE evening in August 1941, I came out of a late movie to a silent, cold night. I shivered a little as I stood for a moment in the narrow street, looking up at the distant sky, alive with stars. I stood there, letting the night wind seep through me, and listening. The street was empty, the houses on the street dim—with the kind of ghostly dimness that seems to embrace sleeping houses. I had always liked empty streets in the night; I had always stopped for a while in these streets listening for something I did not quite know what. Perhaps for low, soft cries that empty streets and sleeping houses seem to share in the night.

Có một lần, vào một buổi tối tháng tám năm 1941, sau khi đã coi xong cuốn phim trong suất cuối cùng của rạp, tôi ra ngoài đường và ngay lập tức ùa vào là sự im lặng lạnh lẽo của màn đêm. Tôi chợt hơi rùng mình khi đứng trên con phố nhỏ, đầu ngẩng lên nhìn vào bầu trời xa xăm đang lấp lánh ánh sáng của muôn vì sao. Tôi yên lặng dứng một mình nghe tiếng gió đêm vi vút lướt qua người lành lạnh. Trên các con đường vắng lặng, các căn nhà hiện lờ mờ âm u đang chìm vào giấc ngủ. Tôi luôn thích ở một mình trên những con đường vắng vào những đêm khuya, luôn dừng lại một chút để lắng nghe trong đêm những âm thanh thỉnh thoảng vọng tới. Nó có lẽ là những tiếng khóc nỉ non của sự trống vắng trong đêm khuya cần được chia xẻ.

I lived in an old, nearly crumbling apartment house just across the street from the moviehouse. From the street, I could see into the open courtyard, around which rooms for the tenants, mostly a whole family to a single room, were ranged. My room, like all the other rooms on the groundfloor, opened on this court. Three other boys, my cousins, shared the room with me. As I turned into the courtyard from the street, I noticed that the light over our study-table, which stood on the corridor outside our room, was still burning. Earlier in the evening after supper, I had taken out my books to study, but I went to a movie instead. I must have forgotten to turn off the light; apparently, the boys had forgotten, too.

Tôi hiện đang ở trong một căn nhà đã già cỗi theo thời gian, gần như là mục nát đối diện với rạp chiếu phim. Từ ngoài đường nhìn vào nhà, tôi có thể nhìn thấy cái sân, bao xung quanh là các phòng được cho thuê, mỗi phòng là chen chúc cả một gia đình. Phòng tôi, như tất cả các phòng khác trên tầng trệt, quay nhìn ra sân . Ngoài tôi ra còn có thêm ba người anh em họ cùng chung phòng. Khi tôi rời đường bước vào sân, tôi nhận thấy rằng ánh sáng trên bàn học của tôi vẫn còn bật sáng chiếu ra hành lang bên ngoài phòng. Sau bữa cơm chiều, tôi đã lấy cuốn sách ra để học, nhưng rồi lại đổi ý để đi xem phim. Tôi hình như đã quên tắt đèn và các anh em họ của tôi chắc có lẽ cũng đã sơ ý mà quên luôn.

I went around the low screen that partitioned off our “study” and there was a girl reading at the table. We looked at each other, startled. I had never seen her before. She was about eleven years old, and she wore a faded blue dress. She had long, straight hair falling to her shoulders. She was reading my copy of Greek Myths.

Tôi bước vòng qua tấm ván ngăn dùng để ngăn riêng ra một "khu học tập" và vô tình bắt gặp một cô gái đang đọc sách bên bàn. Chúng tôi nhìn nhau và cùng đồng thời giật mình. Tôi chưa hề gặp cô bé này trước đây. Cô bé hình như là khoảng chừng mười một tuổi, và đang bận một chiếc váy đầm màu xanh. Mái tóc của cô bé dài và thẳng thả xuống ngang vai. Cô bé đang chăm chú đọc bản sao "Thần thoại Hy Lạp" của tôi.

The eyes she had turned to me were wide, darkened a little by apprehension. For a long time neither of us said anything. She was a delicately pretty girl with a fine, smooth. pale olive skin that shone richly in the yellow light. Her nose was straight, small and finely molded. Her lips, full and red, were fixed and tense. And there was something else about her. Something lonely? something lost?

Mắt cô bé mở to tròn xoe nhìn tôi, và chợt tối đi một chút trong sợ hãi. Sau một lúc lâu chúng tôi vẫn im lặng. Cô bé là một cô gái đẹp duyên dáng với nước da mịn màng màu ôliu nổi bật lên dưới ánh đèn. Mũi cô bé thẳng, nhỏ, tuyệt đẹp như khuôn đúc. Môi của cô bé đỏ hồng và căng mọng. Và có một chút hơi khác nơi cô bé? Hình như có chút gì đó cô đơn? Và có chút gì đó trống vắng?

“I know,” I said, “I like stories, too. I read anything good I find lying around. Have you been reading long?”

- Tôi cũng rất thích những câu chuyện. Tôi cũng hay đọc để tìm thấy bất cứ điều gì tốt đẹp nằm ở xung quanh mình. Em đã đọc lâu chưa? - Tôi nói.

“Yes,” she said. not looking at me now. She got up slowly, closing the book. “I’m sorry.”

- Cũng lâu rồi. - Cô bé nói mà không hề nhìn tôi. Một cách từ từ cô bé đứng lên và đồng thời gập cuốn sách lại, sau đó lại nói tiếp. - Em xin lỗi.

“Don’t you want to read anymore? I asked her, trying to smile, trying to make her feel that everything was all right.

- Em có muốn đọc nữa không?- Tôi hỏi cô với một nụ cười, cố gắng để làm cho cô bé cảm thấy sự thân thiện nơi tôi.

“No.” she said, “thank you.”

- Không. Cảm ơn anh. - Cô nói.

“Oh, yes,” I said, picking up the book. “It’s late. You ought to be in bed. But, you can take this along.”

- Ồ, đúng rồi. Trời đã quá khuya, em cũng nên đi ngủ nhưng mà em có thể cầm nó theo. - Tôi cầm cuốn sách lên.

She hesitated, hanging back, then shyly she took the book, brought it to her side. She looked down at her feet uncertain as to where to turn.

Cô bé hơi phân vân đôi chút và một cách e thẹn cầm lấy cuốn sách tôi đưa. Cô bé ngập ngừng nhìn xuống những đầu ngón chân còn chưa biết là đã nên đi hay chưa.

“You live here?” I asked her.

- Em sống ở đây? - Tôi buột miệng hỏi.

“Yes.”

- Dạ.

“What room?”

- Phòng nào?

She turned her face and nodded towards the far corner, across the courtyard, to a little room near the communal kitchen. It was the room occupied by the janitor: a small square room with no windows except for a transom above the door.

Cô quay đầu và hất về phía góc xa, ngang qua sân, hướng về một phòng nhỏ ở gần khu bếp chung. Phòng này là của người gác cổng: một phòng nhỏ hẹp hình vuông không có cửa sổ mà chỉ có một lỗ thông hơn phía trên cửa ra vào.

“You live with Mang Lucio?”

- Em sống cùng với Mang Lucio?

“He’s my uncle.”

- Ông ấy là bác của em.

“How long have you been here? I haven’t seen you before, have I?”

- Em đã ở đây lâu chưa? Sao anh chưa từng thấy em?

“I’ve always been here. I’ve seen you.”

- Lâu rồi. Em biết anh.

“Oh. Well, good night—your name?”

- Ồ. Chúc em ngủ ngon. À, nhân tiện cho anh hỏi em tên gì?

“Maria.”

- Maria.

“Good night, Maria.”

- Chúc ngủ ngon, Maria.

She turned quickly, ran across the courtyard, straight to her room, and closed the door without looking back.

Cô bé quay người, nhanh chóng chạy băng qua sân, thẳng tới phòng của cô, và đóng cửa không một lần ngoái nhìn lại.

I undressed, turned off the light and lay in bed dreaming of far-away things. I was twenty-one and had a job for the first time. The salary was not much and I lived in a house that was slowly coming apart, but life seemed good. And in the evening when the noise of living had died down and you lay safe in bed, you could dream of better times, look back and ahead, and find that life could be gentle—even with the hardness. And afterwards, when the night had grown colder, and suddenly you felt alone in the world, adrift, caught in a current of mystery that came in the hour between sleep and waking, the vaguely frightening loneliness only brought you closer to everything, to the walls and the shadows on the walls, to the other sleeping people in the room, to everything within and beyond this house, this street, this city, everywhere.


Tôi cởi đồ, tắt đèn và nằm trong giường mơ màng. Tôi đã hai mươi mốt tuổi và đã có một việc làm. Tiền lương thì thật hạn hẹp và tôi sống trong một căn nhà đang đổ nát từ từ, nhưng dường như cuộc sống có vẻ vẫn tốt đẹp. Và đêm đến, khi những tiếng động ồn ào ban ngày đã lùi bước và lúc ta đã nằm an toàn trong phòng, ta có thể mơ đến những điều tốt hơn, dù cho là nhìn về quá khứ hay hướng tới ngày mai, ta vẫn cảm thấy rằng cuộc sống thật là đẹp, dẫu rằng hãy còn nhiều gian khó. Và sau đó, khi đêm đã trở nên lạnh hơn, và bất chợt thình lình ta lại cảm thấy cô độc một mình trên thế giới này, trôi dạt mơ màng đâu đó trong tiềm thức, thì ta lại chợt phát hiện ra một điều, sự lẻ loi khủng khiếp mơ hồ đó sẽ mang ta bay đến gần tất cả vạn vật, vượt qua các bức tường và bóng tối của nó, bay đến với những người khác đang ngủ trong phòng, bay đến với tất cả mọi thứ trong hay ngoài ngôi nhà, bay ra đường phố, thành phố, và bay đến khắp mọi nơi.


I met Maria again one early evening, a week later, as I was coming home from the office. I saw her walking ahead of me, slowly, as if she could not be too careful, and with a kind of grownup poise that was somehow touching. But I did not know it was Maria until she stopped and I overtook her.

Tôi gặp lại Maria vào một buổi nhập nhoạng tối một tuần sau đó, lúc tôi từ văn phòng trở về nhà. Tôi thấy cô bé đi trước tôi một cách chậm rãi như thể nếu không cẩn thận thì có một cái gì đó sẽ đụng vào cô. Nhưng tôi lại không biết là Maria cho đến khi cô bé ngừng lại và tôi đã đuổi kịp cô bé.

She was wearing a white dress that had been old many months ago. She wore a pair of brown sneakers that had been white once. She had stopped to look at the posters of pictures advertised as “Coming” to our neighborhood theater.

Cô bé bận một váy đầm màu trắng nhìn thật cũ kỹ. Cô bé lại mang một đôi giày chơi quần vợt màu nâu mà có lẽ trước đây nó từng là màu trắng. Cô bé ngừng lại nhằm để xem các hình ảnh của tấm quảng cáo "Đang đến" của rạp chiếu phim.

“Hello,” I said, trying to sound casual.

- Chào em. – Tôi cố cất giọng thật nhẹ nhàng.

She smiled at me and looked away quickly. She did not say anything nor did she step away. I felt her shyness, but there was no self-consciousness, none of the tenseness and restraint of the night we first met. I stood beside her, looked at the pictures tacked to a tilted board, and tried whistling a tune.

Cô bé cười nhìn tôi và vội quay đi chỗ khác. Cô bé im lặng nhưng cũng không bước đi. Tôi cảm thấy sự e thẹn của cô bé, nhưng không còn thấy sự mất tự chủ của cô bé, không còn thấy sự căng thẳng và thận trọng của đêm đầu tiên cô bé gặp tôi. Tôi đứng bên cạnh cô bé, nhìn những hình ảnh được ghim trên bảng, và mồm khe khẽ huýt sáo.

She turned to go, hesitated, and looked at me full in the eyes. There was again that wide-eyed—and sad? —stare. I smiled, feeling a remote desire to comfort her, as if it would do any good, as if it was comfort she needed.

Cô định quay đi nhưng sau đó lại mở to mắt nhìn tôi. Tôi nhìn thấy là hình như trong đôi mắt đó thoáng chút nét buồn? Tôi mỉm cười, chợt trong tôi trào dâng lên cảm giác mong muốn được làm cho cô được vui hơn nếu có thể được.

“I’ll return your book now,” she said.

- Em sẽ trả anh cuốn sách bây giờ. - Cô bé nói.

“You’ve finished it?”

- Em đã đọc xong?

“Yes.”

- Dạ.

We walked down the shadowed street. Magallanes Street in Intramuros, like all the other streets there, was not wide enough, hemmed in by old, mostly unpainted houses, clumsy and unlovely, even in the darkening light of the fading day.

Chúng tôi thả bộ trong bóng tối trên đường. Đường Magallanes ở Intramuros, giống như tất cả các đường phố khác, chật hẹp, được bao bởi những ngôi nhà không sơn phết, cũ kỹ, xấu xí, nhìn cũng chẳng khá hơn bao nhiêu dưới bóng đêm về.

We went into the apartment house and I followed her across the court. I stood outside the door which she closed carefully after her. She came out almost immediately and put in my hands the book of Greek myths. She did not look at me as she stood straight and remote.

Chúng tôi đã vào trong căn nhà và tôi theo sau cô bé ngang qua sân. Tôi đứng chờ ngoài cửa mà cô bé đã đóng cẩn thận ngay sau khi cô bé vào phòng. Cô quay ra gần như ngay lập tức và đưa vào tay tôi cuốn sách "Thần thoại Hy Lạp". Cô không nhìn tôi và đứng cách một khoảng xa.

“My name is Felix,” I said.

- Tên anh là Felix. - Tôi nói.

She smiled suddenly. It was a little smile, almost an unfinished smile. But, somehow, it felt special, something given from way deep inside in sincere friendship.

Đột ngột cô bỗng hé môi cười. Đó chỉ là một chút của nụ cười, hay chỉ là nửa nụ cười, chỉ gần như là một nụ cười chưa kịp thành hình. Nhưng tôi chợt cảm thấy thoáng qua có chút gì đó thật đặc biệt, hình như là có sự chân thành của tình bạn.

I walked away whistling. At the door of my room, I stopped and looked back. Maria was not in sight. Her door was firmly closed.

Tôi bước về miệng huýt sáo khe khẽ. Dừng ngay cửa phòng, tôi quay lại. Maria đã biến mất. Cửa phòng của cô bé đã đóng lại.

August, 1941, was a warm month. The hangover of summer still permeated the air, specially in Intramuros. But, like some of the days of late summer, there were afternoons when the weather was soft and clear, the sky a watery green, with a shell-like quality to it that almost made you see through and beyond, so that, watching it made you lightheaded.

Tháng tám của năm 1941, là một tháng thật nóng. Sự oi bức của mùa hè cứ luẩn quẩn trong không khí, đặc biệt là ở Intramuros. Nhưng giống như những ngày cuối mùa hè, có những buổi chiều khi thời tiết đã được dịu bớt đi và trở nên trong lành, bầu trời xanh ngát làm cho ta có cảm giác bồng bềnh như muốn bay lên tận trời cao.

I walked out of the office one day into just such an afternoon. The day had been full of grinding work—like all the other days past. I was tired. I walked slowly, towards the far side of the old city, where traffic was not heavy. On the street there were old trees, as old as the walls that enclosed the city. Half-way towards school, I changed my mind and headed for the gate that led out to Bonifacio Drive. I needed stiffer winds, wider skies. I needed all of the afternoon to myself.

Tôi rời khỏi văn phòng trong một ngày có một chiều như vậy. Một ngày thật là bận rộn trong công việc giống như tất cả những ngày làm việc đã qua. Tôi cảm thấy người mệt mỏi. Tôi bước đi thật chậm, hướng về phía xa của thành phố xưa cũ, nơi mà lưu lượng xe cộ đã giảm đi đáng kể. Trên đường phố nơi đây có những cây cổ thụ, có những bức tường cổ bao quanh thành phố. Được một nửa đường tới trường học, tôi đã đổi ý và quay đầu đi về phía cổng dẫn tới Bonifacio Drive. Tôi cần những cơn gió mạnh hơn, bầu trời rộng lớn hơn. Tôi cần tất cả những gì có thể có được của buổi chiều cho riêng bản thân mình.

Maria was sitting on the first bench, as you went up the sloping drive that curved away from the western gate. She saw me before I saw her. When I looked her way, she was already smiling that half-smile of hers, which even so told you all the truth she knew, without your asking.

Maria đang ngồi trên chiếc ghế đầu tiên, chiếc ghế mà bạn sẽ thấy nếu bạn tới đó bằng việc lái xe ra khỏi góc cua từ cổng phía Tây. Cô bé đã thấy tôi trước khi tôi nhận biết là có cô bé ở đó. Lúc tôi nhìn thấy cô bé, cô bé đã mỉm một nụ cười nửa miệng quen thuộc, mà nhìn nó tôi thấy nói lên mọi điều trong tâm tư của cô.

“Hello,” I said. “It’s a small world.”

- Chào em. Thế giới nhỏ bé thật. - Tôi nói.

“What?”

- Sao anh?

“I said it’s nice running into you. Do you always come here?”

- Anh muốn nói thật là tuyệt vời khi gặp em ở đây. Em hay thường xuyên đến chỗ này?

“As often as I can. I go to many places.”

- Thường xuyên lắm. Em cũng còn đi nhiều nơi khác.

“Doesn’t your uncle disapprove?”

- Bác em không cấm à?

“No. He’s never around. Besides, he doesn’t mind anything.”

- Không. Ông ấy không bao giờ đi đâu. Mặt khác, ông ấy chẳng lấy đó làm phiền.

"Where do you go?"

- Em bây giờ định đi đâu?

“Oh, up on the walls. In the gardens up there, near Victoria gate. D’you know?”

- Ồ, em sẽ leo lên các bức tường thành. Tới những khu vườn trên kia, gần cổng Victoria. Anh biết chứ?

“I think so. What do you do up there?”

- Anh biết. Em sẽ làm gì khi leo lên đó?

“Sit down and—”

- Ngồi xuống và..

“And what?”

- Và làm gì?

“Nothing. Just sit down.”

- Chẳng làm gì cả. Đơn giản chỉ là ngồi thôi.

She fell silent. Something seemed to come between us. She was suddenly far-away. It was like the first night again. I decided to change the subject.

Cô đã rơi vào im lặng. Dường như có cái gì đó ngăn cách giữa chúng tôi. Cô lại đột ngột trở nên xa cách. Nó trở lại giống như đêm đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Tôi quyết định thay đổi chủ đề câu chuyện.

“Look,” I said, carefully, “where are your folks?”

- À. Những người thân khác của em đâu? - Tôi hỏi với một sự cẩn trọng.

“You mean, my mother and father?”

- Anh muốn nói đến ba và mẹ của em?

“Yes. And your brothers and sisters, if any.”

- Ừ. Và cả anh chị của em nữa.

“My mother and father are dead. My elder sister is married. She’s in the province. There isn’t anybody else.”

- Ba và mẹ của em đã chết. Chị của em đã có gia đình. Chị ấy hiện sống ở Tỉnh. Chẳng còn ai khác nữa cả.

“Did you grow up with your uncle?”

- Vậy là em đã sống và lớn lên dưới sự chăm sóc của bác em?

“I think so.”

- Dạ.

We were silent again. Maria had answered my questions without embarrassment. almost without emotion, in a cool light voice that had no tone.

Chúng tôi lại rơi vào im lặng. Maria đã trả lời các câu hỏi của tôi mà chẳng hề lúng túng, hầu như không có một chút cảm xúc, với một giọng lành lạnh không âm sắc.

“Are you in school, Maria?”

- Em có đi học không, Maria?

“Yes.”

- Có.

“What grade?”

- Lớp mấy?

“Six.”

- Sáu.

“How d’you like it?”

- Em có thích không?

“Oh, I like it.”

- Có.

“I know you like reading.”

- Anh biết là em thích đọc sách.

She had no comment. The afternoon had waned. The breeze from the sea had died down. The last lingering warmth of the sun was now edged with cold. The trees and buildings in the distance seemed to flounder in a red-gold mist. It was a time of day that never failed to carry an enchantment for me. Maria and I sat still together, caught in some spell that made the silence between us right, that made our being together on a bench in the boulevard, man and girl, stranger and stranger, a thing not to be wondered at, as natural and inevitable as the lengthening shadows before the setting sun.

Cô lại im lặng. Nắng chiều đã tắt. Những ngọn gió từ biển thổi vào đã trốn đi đâu mất. Hơi ấm áp cuối cùng của mặt trời cũng đã dần tan trong cái lạnh đang kéo tới. Những cây cổ thụ và các tòa nhà đang lấp dần khoảng cách hòa quyện với nhau trong một bức tranh màu vàng đỏ trong buổi chiều tà. Đây chính là khoảnh khắc trong ngày mà tôi yêu thích nhất. Maria và tôi vẫn ngồi cạnh nhau, cùng tìm hiểu cái điều đã tạo nên sự im lặng của hai chúng tôi, cái điều mà đã mang chúng tôi cùng ngồi bên nhau trên chiếc ghế bên dại lộ, một nam và một nữ, một người lạ với một người lạ, một điều khó thể hiểu được, nó vừa tự nhiên và vừa như khó nắm bắt như những chiếc bóng trãi dài trước khi mặt trời lặn.

Other days came, and soon it was the season of the rain. The city grew dim and gray at the first onslaught of the monsoon. There were no more walks in the sun. I caught a cold.

Những ngày sau đó là chuyển sang mùa mưa. Thành phố trở nên âm u và xám xịt trong những đợt gió mùa đầu tiên thổi về. Không còn nhiều dịp để đi dạo trong ánh nắng mặt trời. Tôi chợt cảm thấy trong lòng cũng trở nên giá lạnh.

Maria and I had become friends now, though we saw each other infrequently. I became engrossed in my studies. You could not do anything else in a city caught in the rains. September came and went.

Maria và tôi đã trở thành bạn bè, mặc dù chúng tôi không gặp nhau thường xuyên. Tôi cố gắng dành thời gian nhiều hơn trong việc học. Nói chung ta chẳng có thể làm thêm được gì nhiều ở một thành phố trong mùa mưa. Tháng chín đến và rồi cũng qua đi nhanh chóng.

In November, the sun broke through the now ever present clouds, and for three or four days we had bright clear weather. Then, my mind once again began flitting from my desk, to the walls outside the office, to the gardens on the walls and the benches under the trees in the boulevards. Once, while working on a particularly bad copy on the news desk, my mind scattered, the way it sometimes does and, coming together again, went back to that first meeting with Maria. And the remembrance came clear, coming into sharper focus—the electric light, the shadows around us, the stillness. And Maria, with her wide-eyed stare, the lost look in her eyes…

Vào tháng mười một, mặt trời le lói qua những đám mây, và khoảng ba hoặc bốn ngày, chúng tôi có thời tiết sáng sủa. Khi ấy, tôi lại cho phép mình mơ màng nhớ lại cảnh tôi rời khỏi bàn làm việc, ra khỏi các bức tường bên ngoài văn phòng, vào trong khu vườn trên tường thành và tới cái ghế dưới tán cây ở đại lộ. Có một lần, trong khi làm việc với một bản sao xấu trên bàn làm việc, tâm trí của tôi lại chợt quay về cuộc gặp gỡ lần đầu tiên với Maria. Và trong ký ức nó hiển hiện thật rõ ràng như trước mắt, ánh đèn điện, bóng tối bao quanh chúng tôi, sự im lặng. Và Maria, với đôi mắt mở to hơi tối lại, có gì đó trống vắng trong đôi mắt ấy...

IN December, I had a little fever. On sick leave, I went home to the province. I stayed three days. I felt restless, as if I had strayed and lost contact with myself. I suppose you got that way from being sick,

Trong tháng mười hai, tôi đã bị một cơn sốt nhẹ. Để dưỡng bệnh, tôi về nhà ở tỉnh. Tôi đã ở nhà ba ngày. Tôi cảm thấy không thoải mái như thể mình không còn là chính mình. Tôi thầm giả định rằng chắc ai cũng như vậy khi bị bệnh.

A pouring rain followed our train all the way back to Manila. Outside my window, the landscape was a series of dissolved hills and fields. What is it in the click of the wheels of a train that makes you feel gray inside? What is it in being sick, in lying abed that makes you feel you are awake in a dream, and that you are just an occurrence in the crying grief of streets and houses and people?

Một cơn mưa thật to giận dữ đổ xuống trên đường xe lửa khi chở tôi quay lại Manila. Bên ngoài cửa sổ, phong cảnh nối nhau bởi những quả đồi trọc và những cánh đồng. Tôi đang tự hỏi tiếng bánh xe nghiến vào đường ray có phải đã làm lòng tôi trở nên một màu xám u ám. Có phải lúc ta đau ốm, lúc ta nằm trên giường bệnh, chính điều đó làm cho ta cảm thấy ta đã được đánh thức ra khỏi giấc mơ, và rằng ta sẽ nhớ trong nỗi đau đầy nước mắt về những con đường, những ngôi nhà và con người?

In December, we had our first air-raid practice.

Cũng trong tháng mười hai, chúng tôi đã bị những cuộc không kích đầu tiên.

I came home one night through darkened streets, peopled by shadows. There was a ragged look to everything, as if no one and nothing cared any more for appearances.

Tôi về nhà vào một đêm mà bóng tối phủ lấp các con đường và mọi người. Mọi thứ dường như tơi tả, như là không có ai quan tâm đến bất cứ thứ gì chung quanh.

I reached my room just as the siren shrilled. I undressed and got into my old clothes. It was dark, darker than the moment after moon-set. I went out on the corridor and sat in a chair. All around me were movements and voices. anonymous and hushed, even when they laughed.

Tôi về đến phòng mình vừa kịp lúc tiếng còi báo động rú lên. Tôi thay đồ bận vào bộ đồ cũ. Trởi tối đen, còn tối hơn nữa sau khi trăng lặn. Tôi đi ra hành lang và ngồi vào trong một chiếc ghế dựa. Xung quanh tôi mọi người đang chuyển động và tôi nghe những giọng nói thì thào thật khẽ ngay cả khi họ cười.

I sat still, afraid and cold.

Tôi ngồi trong sợ hãi và lạnh lẽo.

“Is that you. Felix?”

- Phải anh đó không. Felix?

“Yes. Maria.”

- Anh đây. Maria.

She was standing beside my chair, close to the wall. Her voice was small and disembodied in the darkness. A chill went through me, She said nothing more for a long time.

Cô bé đang đứng bên cạnh chiếc ghế của tôi, tựa sát vào tường. Tiếng nói của cô bé nhỏ và ma quái trong đêm tối. Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng của tôi.
Cô bé bỗng im lặng một lúc lâu.


“I don’t like the darkness,” she said.

- Em ghét bóng tối. - Cô nói.

“Oh, come now. When you sleep, you turn the lights off, don’t you?”

- Ồ. Khi em ngủ thì em phải tắt đèn đúng không?

“It’s not like this darkness,” she said, softly. “It’s all over the world.”

- Nó không giống. Bóng tối này như nuốt lấy cả thế giới. - Cô bé nói giọng khe khẽ.

We did not speak again until the lights went on. Then she was gone.

Chúng tôi không nói gì với nhau nữa cho đến khi đèn được bật sáng trở lại. Sau đó cô về phòng.

The war happened not long after.

Không bao lâu sau đó chiến tranh nổ ra.

At first, everything was unreal. It was like living on a motion picture screen, with yourself as actor and audience. But the sounds of bombs exploding were real enough, thudding dully against the unready ear.

Ban đầu, tất cả mọi thứ có vẻ như là hư ảo. Nó như là cuộc sống trên màn ảnh ta hay xem, và ta vừa là diễn viên vừa là khán giả. Nhưng những âm thanh của bom nổ là hiện thực, nó đập vào tai của chúng ta một cách thật rõ ràng thức tỉnh chúng ta ra khỏi giấc mơ.

In Intramuros, the people left their homes the first night of the war. Many of them slept in the niches of the old walls the first time they heard the sirens scream in earnest. That evening, I returned home to find the apartment house empty. The janitor was there. My cousin who worked in the army was there. But the rest of the tenants were gone.

Ở Intramuros, hầu như mọi người rời khỏi nhà của mình ngay đêm đầu tiên của cuộc chiến tranh. Nhiều người trong số họ bò xuống những cái góc dưới chân những bức tường thành cũ, khi lần đầu tiên họ nghe tiếng còi báo động vang lên. Buổi tối đó, tôi trở về nhà và phát hiện ra ngôi nhà trống không. Người gác cổng vẫn còn ở lại. Anh họ của tôi làm việc trong quân đội cũng ở lại. Tất cả những người khác đã đi hết.

I asked Mang Lucio, “Maria?”

- Maria? - Tôi hỏi Mang Lucio.

“She’s gone with your aunt to the walls.” he told me. “They will sleep there tonight.”

- Cô bé đi cùng với bác gái tới tường thành. Có lẽ đêm nay họ sẽ ngủ ở đó. - Ông ta nói với tôi.

My cousin told me that in the morning we would transfer to Singalong. There was a house available. The only reason he was staying, he said, was because they were unable to move our things. Tomorrow that would be taken care of immediately.

Anh họ của tôi đã nói với tôi rằng vào buổi sáng chúng tôi sẽ phải chuyển tới Singalong. Có một căn nhà có sẵn. Lý do anh ta còn ở lại, theo anh ta nói, là bởi vì đã không thể di chuyển được đồ đạc của chúng tôi. Ngày mai cần phải di chuyển đồ đạc của chúng tôi ngay lập tức.

“And you, Mang Lucio?”

- Thế bác thì sao, bác Mang Lucio?

“I don’t know where I could go.”

- Tôi không biết là phải nên đi đâu.

We ate canned pork and beans and bread. We slept on the floor, with the lights swathed in black cloth. The house creaked in the night and sent off hollow echoes. We slept uneasily.

Chúng tôi ăn thịt heo hộp cùng với đậu và bánh mì. Chúng tôi lăn ra ngủ trên sàn nhà, dưới ánh đèn mờ mờ tỏa ra được bọc trong những tấm vải đen. Ngôi nhà rên lên cót két trong đêm khi có tiếng bom dội tới. Chúng tôi ngủ mệt mỏi trong chập chờn.

I woke up early. It was disquieting to wake up to stillness in that house which rang with children’s voices and laughter the whole day everyday. In the kitchen, there were sounds and smells of cooking.

Tôi dậy sớm. Thật là khó chịu khi thức dậy trong ngôi nhà mà mới hôm qua còn vang tiếng cười của trẻ nhỏ giờ lại yên ắng đến rợn người. Trong nhà bếp, có tiếng động và có mùi của thức ăn bay ra.

“Hello,” I said.

- Chào em. - Tôi nói.

It was Maria, frying rice. She turned from the stove and looked at me for a long time. Then, without a word, she turned back to her cooking.

Đó chính là Maria, đang chiên cơm. Lúc này cô bé đứng bên bếp liền quay lại và nhìn tôi một lúc lâu. Sau đó, không hề nói một lời, cô quay trở lại với công việc đang làm.

“Are you and your uncle going away?” I asked.

- Em và bác em có đi không? - Tôi nói.

“I don’t know.”

- Em không biết.

“Did he not tell you?”

- Ông ấy không nói gì với em?

“No.”

- Không.

“We’re moving to Singalong.”

- Bọn anh sẽ chuyển tới Singalong.

“Yes, I know.”

- Em biết rồi.

“Well, anyway, I’ll come back tonight. Maybe this afternoon. We’ll not have to say goodbye till then.”

- Dù sao đi nữa, anh sẽ quay lại tối nay. Hoặc có lẽ chiều nay. Chúng ta sẽ không nói lời tạm biệt nhau cho đến khi đó.

She did not say anything. I finished washing and went back to my room. I dressed and went out.

Cô bé không nói gì thêm. Tôi vội vàng vệ sinh cá nhân rồi trở lại phòng của tôi. Tôi thay đồ và đi ra ngoài.

At noon, I went to Singalong to eat. All our things were there already, and the folks were busy putting the house in order. As soon as I finished lunch, I went back to the office. There were few vehicles about. Air-raid alerts were frequent. The brightness of the day seemed glaring. The faces of people were all pale and drawn.

Vào lúc trưa, tôi đã đi tới Singalong để ăn. Tất cả các đồ đạc của chúng tôi đã được chuyển về, và mọi người đang bận rộn thu xếp trong căn nhà theo thứ tự. Ngay sau khi tôi kết thúc bữa ăn trưa, tôi đã quay trở lại văn phòng. Có vài xe tải ở đó. Những cuộc không kích được báo động thường xuyên. Ánh sáng ban ngày dường như sáng chói lóa. Nhìn trên những khuôn mặt của người dân thấy tái nhợt đầy mệt mỏi như đang run rẩy trong màu vẽ ảm đạm chết chóc của bức tranh chỉ có hai gam màu xanh và xám.

In the evening, I went back down the familiar street. I was stopped many times by air-raid volunteers. The house was dark. I walked back to the street. I stood for a long time before the house. Something did not want me to go away just yet. A light burst in my face. It was a volunteer.

Buổi tối, tôi quay về con đường phố quen thuộc. Tôi đã phải dừng lại nhiều lần bởi các tình nguyện viên làm công tác báo động. Căn nhà chìm trong bóng tối âm thầm. Tôi đi ngược trở lại lên đường phố. Tôi lại đứng một lúc lâu trước căn nhà. Có cái gì đó níu tôi lại không muốn tôi rời đi xa. Một ánh đèn rọi vào mặt tôi. Đó là một bác tình nguyện viên.

“Do you live here?”

- Cháu sống ở đây?

“I used to. Up to yesterday. I’m looking for the janitor.”

- Đã từng. Tính cho đến hôm qua. Cháu đang tìm người gác cổng.

“Why, did you leave something behind?”

- Tại sao, cháu đã để quên cái gì lại à?

“Yes, I did. But I think I’ve lost it now.”

- Dạ, cháu đã quên. Nhưng cháu nghĩ rằng cháu đã mất nó ngay từ bây giờ.

“Well, you better get along, son. This place, the whole area. has been ordered evacuated. Nobody lives here anymore.”

- Ồ vậy sao, vậy thì cháu tốt hơn nên đi đi. Nơi này, toàn bộ khu vực này đã được lệnh di tản. Không còn có ai sống ở đây nữa đâu.

“Yes, I know,” I said. “Nobody.”

- Dạ, cháu biết. Không còn có ai. - Tôi nói.
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9