"The time traveler's wife" - cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất đã được dựng thành phim
gemine 17.08.2009 15:49:28 (permalink)
THE TIME TRAVELER’S WIFE

Một tiểu thuyết của Audrey Niffenegger
Thời gian trên đồng hồ là người quản lý ngân hàng, người thu thuế, thanh tra cảnh sát của chúng ta; thời gian bên trong là vợ của chúng ta.
-J.B. Priestley, Con người và Thời gian

The Time Traveler’s Wife, xuất bản năm 2003, là tác phẩm đầu tay của nhà văn người Mỹ Audrey Niffenegger.



TÌNH YÊU NỐI TIẾP TÌNH YÊU

Thời gian sẽ đến
khi , với niềm hân hoan,
Em sẽ tự mình đón chào việc tới
nơi cánh cửa của chính em, trong chiếc gương của chính em;
và cánh cửa sẽ mỉm cười với sự đón chào của chiếc gương,

và nói rằng , ngồi xuống đây. Ăn đi.
Em sẽ lại yêu người xa lạ là chính em
Mời rượu. Mời bánh. Trả lại trái tim em
cho chính trái tim em, cho người xa lạ đã yêu em

suốt cả cuộc đời, mà em không để ý
vì một người khác, người rất hiểu rõ em
Lấy những bức thư tình từ trên giá sách

Những bức ảnh, nhưng ghi chú tuyệt vọng
xóa nhòa hình ảnh của em ở trong gương
Ngồi xuống đi em. Hãy dự bữa tiệc cuộc đời em.

-Derek Walcott

Tặng Elizabeth Hillman Tamandl 20/05/1915 – 18/12/1986

Norbert Charles Tamandl 11/02/1915 – 23/05/1957

"The time traveller''''''''s wife" - cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất ĐÃ ĐƯỢC DỰNG THÀNH PHIM


Cuốn tiểu thuyết trở thành bestseller sau lời nhận xét của một nhà văn – cũng là một người bạn của gia đình – Scott Turow  trên chương trình The Today Show, và cho đến tháng 3/2009 đã bán được gần 2.5 triệu bản tại Mỹ và Anh. Độc giả rất ấn tượng với quan điểm độc đáo của Niffenegger về du hành thời gian. Một số ca ngợi tính cách của cặp tình nhân, tán thành những tình cảm của họ; số khác  thì bình phẩm lối viết văn của cô qua cường điệu và cốt chuyện thì cũ rich. Cuốn tiểu thuyết đã dành giải Exclusive Books Boeke và Giải thưởng Sách Anh quốc. Phiên bản phim dự kiến sẽ được ra mắt vào tháng 9/2009 tại Việt Nam.

Về bộ phim chuyển thể từ truyện
Quyền làm phim The Time Traveler’s Wife thuộc về Công ty sản xuất của Jennifer Aniston và Brad Pitt - Plan B Entertainment, hợp tác với New Line Cinema thậm chí từ trước khi cuốn sách được xuất bản. Kịch bản chuyển thể được viết bởi Bruce Joel Rubin và được đạo diễn bởi Robert Schwentle với diễn viên chính Eric Bana và Rachel McAdams. Bộ phim được khởi quay từ tháng 9/2007 và dự kiến công chiếu bởi Warner Brothers vào 14/8/2009. Khi được hỏi về triển vọng của cuốn tiểu thuyết khi được dựng thành phim, Niffenegger đã nói: “Tôi đã tự có một bộ phim nhỏ của chính mình chạy trong đầu. Và tôi tin tưởng rằng với tài năng của dàn diễn viên và đạo diễn Robert. Bộ phim sẽ thành công như cuốn tiểu thuyết vậy”.



PHẦN MỞ ĐẦU



CLARE: Thật là khó khăn khi bị bỏ lại đằng sau. Tôi đợi Henry, mà chẳng biết anh ấy ở đâu, và cứ lo lắng không biết anh ấy có ổn không. Làm người ở lại thật là khó.

Tôi phải tạo cho mình mọi sự bận rộn. Thời gian trôi qua nhanh hơn theo cách đó.

Tôi đi ngủ một mình, và thức dậy một mình. Tôi đi dạo. Tôi làm việc đến khi mệt nhừ cả người. Tôi xem gió chơi đùa với rác đã bị vùi dưới tuyết trong suốt cả mùa đông. Chuyện có vẻ đơn giản cho đến khi người ta nghĩ về nó. Tại sao tình yêu lại mãnh liệt khi ta thiếu vắng nhau?


Xa xưa, những nguời đàn ông đi ra biển khơi, còn phụ nữ chờ đợi chồng mình trở về, họ cứ đứng chôn chân ở mép nước, đăm đăm nhìn về phía chân trời tìm kiếm bóng dáng những con thuyền bé nhỏ. Bây giờ tôi ngóng đợi Henry. Anh ấy biến mất tăm ngoài ý muốn, không một lời nhắn nhủ . Tôi ngóng đợi anh ấy. Cảm giác tôi là mỗi khoảng khắc dài như cả một năm trời, dài vô tận . Mỗi giây phút trôi chậm chạp và trong suốt như thủy tinh. Qua từng khoảng khắc tôi có thể thấy những khoảnh khắc vô tận xếp thành dãy dài và đang chờ đợi. Tại sao anh ấy lại đi đến nơi mà tôi không thể đi theo?





HENRY: Nó cảm giác thế nào? Nó cảm giác thế nào? Đôi khi cảm giác như mối quan tâm của bạn chỉ lãng đãng trôi có một chút thôi. Rồi, với một sự khởi đầu là , bạn nhận ra quyển sách bạn đang cầm, chiếc áo choàng cotton màu đỏ với những chiếc cúc trắng, chiếc quần jean bạn yêu thích và đôi tất màu hạt dẻ với một chiếc sờn sắp thủng thành một lỗ duới một bên gót chân , phòng khách, ấm đun nước sôi sắp vang lên tiếng báo hiệu trên bếp: tất cả đã biến mất. Bạn đang đứng, trần trụi như một chú chim giẻ cùi, duới nước lạnh buốt ngập đến mắt cá chân trong một cái rãnh bên con đường vùng nông thôn nào đó . Bạn đợi một phút để xem liệu bạn có thể sẽ quay ngược trở về cuốn sách của bạn, căn hộ của bạn, vân vân và vân vân… được hay không. Sau năm phút **** thề , run rẩy và hi vọng cực độ rằng bạn có thể biến mất, bạn bắt đầu đi bộ theo một hướng nào đó mà cuối cùng dẫn đến một nông trại, nơi bạn có lựa chọn hoặc là ăn trộm hoặc là giải thích. Ăn trộm đôi khi sẽ dẫn bạn vào nhà tù, nhưng giải thích thì dài dòng và tốn thời gian, thế nào cũng có cả việc nói dối, và đôi khi kết cục cũng bị đẩy vào tù, nên việc quái gì phải giải thích chứ..

Đôi khi bạn cảm giác như thể bạn đứng bật dậy quá nhanh dù bạn đang nằm lơ mơ ngủ trên giường. Bạn nghe thấy máu xông lên đầu, cảm thấy cảm giác ngã xuống vì chóng mặt. Tay và chân bạn đang ngứa ran và rồi chúng không còn có ở đó nữa. Bạn lại không đặt mình xuống đúng chỗ . Nó chỉ xảy ra trong giây lát, bạn chỉ có đủ thời gian để cố giữ chặt, để lướt qua xung quanh đó (có thể gây hư hại đến bản thân bạn hay những tài sản giá trị) và rồi bạn đang trượt qua hành lang trải thảm màu xanh của khu rừng của một nhà nghỉ 6 ở Athens, Ohio, vào 4:16 sáng, thứ Hai, ngày mùng 6 tháng Tám năm 1981, bạn đập đầu vào cửa phòng ai đó, làm cho một người, một cô Tina Schulman đến từ Philadenphia, mở cửa phòng và bắt đầu hét lên vì thấy một người đàn ông trần truồng, đầy vết lằn của thảm, trượt qua chân cô ấy. Bạn tỉnh dậy trong Bệnh viện Quận , cảm thấy bị đe dọa vì một cảnh sát đang ngồi bên ngoài cửa nghe trò chơi Phillies qua cái đài bán dẫn vang lên những tiếng lách tách. Thật may mắn sao , khi bạn rơi trở lại tình trạng vô thức và vài giờ sau tỉnh dậy ở trên giường của bạn, còn vợ bạn đang cúi xuống nhìn bạn với vẻ đầy lo lắng.

Đôi khi bạn cảm thấy phởn phơ. Mọi thứ đều hùng vĩ và đều có hương thơm, rồi đột nhiên bạn bạn buồn nôn dữ dội và rồi bạn biến mất. Bạn đang nôn lên một cây phong lữ ở ngoại ô, hoặc lên đôi giầy tennis của ba bạn, hoặc trên sàn phòng tắm của bạn ba ngày trước đó, hoặc ở lối đi bộ bằng gỗ trong Công viên Oak, Illinois, khoảng năm 1903, hoặc một sân tennis trong một ngày mùa thu rất đẹp những năm 1950, hoặc lên đôi chân trần của chính bạn trong ở những khoảng thời gian và không gian khác nhau.

Nó cảm giác thế nào?

Cảm giác chính xác như ở một trong những giấc mơ mà trong đó bạn bất ngờ nhận ra bạn là bạn phải làm một bài kiểm tra mà bạn chưa ôn tập hoặc bạn đang không mặc quần áo. Và bạn để quên ví ở nhà.

Khi tôi ở bên ngoài đó, đúng lúc đó, tôi bị đảo ngược, đổi thành một phiên bản khinh khủng của chính mình. Tôi trở thành một kẻ trộm, một kẻ lang thang, một con vật phải chạy trốn. Tôi làm những bà già giật mình và làm lũ trẻ ngạc nhiên. Tôi là một trò thủ thuật, một ảo giác ở mức độ cao nhất, thật đến mức không thể tin được tôi sự thực là như vậy.

Có một logic, một quy luật gì đây cho tất cả những việc đến và đi, tất cả những sự biến vị này không? Có một cách nào để lưu lại, để giữ chặt lấy hiện tại với từng ngóc ngách nhỏ không? Tôi không biết. Có những manh mối; như là với bất kỳ căn bệnh nào cũng đều có những hình mẫu và những khả năng. Sự kiệt sức, những tiếng ồn lớn, căng thẳng, đứng dậy đột ngột, tia chớp – bất kỳ cái gì trong số đó có thể mở màn một đoạn tình tiết. Nhưng: tôi có thể đang đọc tờ Thời đại Chủ nhật, cốc cà phê ở trong tay và Clare đang ngủ lơ mơ bên cạnh tôi trên giường của chúng tôi thì đột nhiên tôi lại ở năm 1976 đang xem chính tôi 13 tuổi đang cắt vạt cỏ của nhà ông bà tôi. Vài tình tiết chỉ kéo dài một lúc; giống như là đang nghe đài phát thanh trên ô tô mà tôi đang loay hoay bắt sóng. Tôi thấy mình trong đám đông, đám khán giả, đám đông hỗn tạp. Nhưng thường thì tôi một mình, trên cánh đồng, trong nhà, trong xe ô tô, trên bãi biển, trong lớp học ngữ pháp vào giữa đêm. Tôi sợ thấy mình trong phòng giam nhà tù, trong một chiếc thang máy đầy người, hay ở giữa đường cao tốc. Tôi xuất hiện từ đâu đó, trần trụi. Làm sao tôi có thể giải thích được? Tôi chưa bao giờ mang theo gì cả. Không quần áo, không tiền, không chứng minh thư. Phần lớn thời gian tạm trú tôi dành để xin quần áo và để cố ẩn náu. May mắn là tôi không đeo kính.

Thật sự là mỉa mai. Tất cả niềm vui thích của tôi là như ở nhà: vẻ tráng lệ của ghế bành, niềm vui thú bình thản của cuộc sống gia đình. Tất cả điều tôi muốn là niềm vui thích khiêm tốn. Một cuốn tiểu thuyết bí ẩn ở trên giường, mùi ẩm của mái tóc dài màu đỏ ánh vàng của Clare khi vừa mới gội, một tấm thiệp từ một người bạn đang đi nghỉ, chút kem hòa trong cà phê, làn da mềm mại bên dưới ngực của Clare, sự cân đối của những túi rau cỏ và tạp phẩm nằm trên bàn bếp đang đợi mở ra. Tôi yêu làn khói vơ vẩn qua ống khói ở thư viện khi người chủ đã về nhà, nhẹ nhàng chạm vào những gáy sách. Đó là những thứ có thể làm tôi nhức nhối khao khát khi tôi bị dịch chuyển đi chỗ khác bởi cỗ máy thời gian.

Và Clare, luôn luôn là Clare. Clare vào buổi sáng, bộ mặt ngái ngủ và nhăn nhó. Clare với cánh tay thọc vào thùng làm giấy, kéo khuôn lên và lắc nó để tạo các thớ giấy. Clare đang đọc, tóc nàng thả qua lưng ghế, mát-xa dầu thơm cho đôi tay đỏ rực vì nứt nẻ trước khi đi ngủ. Giọng nhỏ nhẹ của Clare thường ở trong tai tôi.

Tôi ghét phải ở nơi mà không có nàng, khi không có nàng. Vậy mà, tôi luôn đi và nàng không thể đi theo.



:sweet_kiss:
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2009 15:52:35 bởi gemine >
#1
    gemine 17.08.2009 15:53:49 (permalink)
    NGƯỜI ĐÀN ÔNG KHÔNG ĐÚNG NHỊP

    Ôi không phải vì hạnh phúc không tồn tại,
    để nắm bắt mối lợi vội vàng khi tiếp cận thất bại.

    Nhưng vì thực sự ở đây là quá nhiều; vì mọi thứ ở đây
    rõ ràng là cần chúng ta, trái đất phù du này, những con đường lạ
    vẫn tiếp tục gọi chúng ta. Chúng ta, điều phù du nhất trong mọi thứ trên đời

    … À, nhưng chúng ta có thể mang theo gì
    vào vương quốc khác? Không phải nghệ thuật nhìn,
    cái được học sao chậm vô cùng , và không có gì xảy ra ở đây. Không gì cả.
    Những nỗi khổ đau. Và, trên tất cả, sự buồn phiền,
    và sự trải nghiệm dài của tình yêu , - chỉ là hoàn toàn
    Không thể nói được.


    -Từ Duino Elegy 19
    Rainẻ Maria Rilke
    Stephen Mitchell. dich

    Hình này đã được thu nhỏ. Click vào thanh này để xem hình gốc. Kích thước hình là 800x350.

    NGÀY ĐẦU TIÊN, MỘT

    Thứ Bảy, ngày 26 tháng Mười , năm 1991 (Henry 28 tuổi, Clare 20 tuổi)

    CLARE: Thư viện mát mẻ và có mùi giống như máy giặt thảm, mặc dù tôi có thể thấy là nó được lát đá cẩm thạch. Tôi ký vào Sổ ra vào: Clare Abshire, 11:15 26/10/1991 Những sưu tầm đặc biệt. Trước đây tôi chưa từng vào thư viện Newberry, và lúc này tôi đã qua cảm giác tối tăm, bắt đầu linh tính thấy sự hứng thú. Tôi thấy kiểu cảm giác buổi sáng Giáng sinh của thư viện như một cái hộp to đầy những quyển sách đẹp đẽ. Thang máy được chiếu sáng lờ mờ, hầu như im lặng. Tôi dừng ở tầng ba và điền vào đơn xin làm Thẻ đọc, rồi tôi đi lên gác đến chỗ Những sưu tầm đặc biệt. Gót ủng của tôi gõ vào sàn gỗ. Căn phòng yên tĩnh và đông đúc, đầy những cái bàn chắc và nặng chất đầy sách và những người đọc ngồi xung quanh. Ánh sáng của buổi sáng mùa thu Chicago chiếu qua những khung cửa sổ lớn. Tôi tiến đến chiếc bàn và lấy một xếp phiếu mượn. Tôi đang viết một bài cho lớp học lịch sử mỹ thuật. Chủ đề nghiên cứu của tôi là cuốn Chaucer của Kelmscott Press. Tôi tìm quyển sách rồi điền vào phiếu mượn nó. Nhưng tôi cũng muốn đọc về việc làm giấy ở Kelmscott. Danh mục hơi khó hiểu. Tôi trở lại bàn để xin giúp đỡ. Khi tôi giải thích với một phụ nữ về cái tôi đang cố tìm, cô ta liếc qua vai tôi nhìn ai đó đang đi qua phía sau tôi. Cô nói “Có lẽ ông DeTamble có thể giúp cô”. Tôi quay lại, chuẩn bị giải thích lần nữa, và thấy mình đối diện với Henry.

    Tôi không nói được lời nào. Đó là Henry, điềm tĩnh, mặc chỉnh tề, trẻ hơn là khi tôi nhìn thấy anh ấy trước đây. Henry đang làm việc ở Thư viện Newberry, đang đứng trước mặt tôi, trong hiện tại. Ở đây và lúc này. Tôi vui sướng. Henry đang nhìn tôi kiên nhẫn, không chắc chắn nhưng lịch sự.

    Anh ấy hỏi: “Tôi có thể giúp được gì cho cô không?”

    “Henry!” Tôi vừa kịp kiềm chế mình không vòng tay ôm choàng lấy anh ấy. Rõ ràng là anh ấy chưa bao giờ nhìn thấy tôi trước đây trong cuộc đời anh ấy.

    “Chúng ta đã gặp nhau à? Tôi xin lỗi, tôi không…” Henry liếc nhìn quanh chúng tôi, lo lắng là%luững người đọc, những đồng nghiệp có đang chú ý chúng tôi không, anh rà lại trí nhớ của anh và nhận ra rằng vài phần nhận thức tương lai của anh ấy đã gặp cô gái vui vẻ rạng rỡ đang đứng trước mặt anh. Lần cuối tôi thấy anh ấy, anh ấy mút ngón chân tôi ở khu Đồng cỏ .



    Tôi cố gắng giải thích. “Em là Clare Abshire. Em biết anh khi em còn là một cô bé…” Tôi hoàn toàn bối rối vì tôi yêu người đàn ông đang đứng trước mặt tôi, người mà không hề có chút trí nhớ nào về tôi. Mọi thứ là ở tương lai của anh ấy. Tôi muốn phá lên cười vì cái sự kỳ cục của tất cả chuyện này. Tôi đang chìm ngập trong nhứng năm trời trong ý thức về Henry, trong khi anh ấy đang nhìn tôi lúng túng và sợ hãi. Henry đang mặc chiếc quần câu cá cũ của bố tôi, kiên nhẫn đố tôi bảng cửu chương, những động từ tiếng Pháp, rồi đố tôi tên tất cả thủ phủ các bang; Henry đang cười vì một bữa trưa khác thường mà cô bé là chính tôi lúc 7 tuổi đã mang đến khu Đồng cỏ ; Henry đang mặc bộ đồ đấu bò , anh chỉnh lại trang trí trên áo sơ mi của anh và bắt tay trong ngày sinh nhật thứ mười tám của tôi! Ở đây! Lúc này! “Hãy đi uống cà phê với em , hoặc đi ăn tối, hoặc cái gì đó…” Chắc chắn là anh ấy phải nói đồng ý, chàng Henry này, người từng yêu tôi trong quá khứ và trong tương lai, bây giờ cũng phải yêu tôi trong tiếng ríu rít của loài dơi của ngày xưa. Anh ấy nói đồng ý làm tôi cảm thấy được sự giải tỏa mêng mang. Chúng tôi định gặp nhau tối nay ở gần một nhà hàng Thái ở gần đó, tất cả chuyện diễn ra dưới cái nhìn chằm chằm ngạc nhiên của người phụ nữ phía sau chiếc bàn, và tôi rời khỏi đó, quên hết về Kelmscott và Chaucer, tôi luớt như trôi xuống theo những bậc cầu thang cẩm thạch, lướt qua sảnh và đi ra dưới ánh mặt trời Chicago tháng mười, chạy qua công viên, làm mấy chú *** nhỏ và sóc chạy tỏa ra, tôi reo hò và hoan hỉ.

    #2
      gemine 17.08.2009 15:58:44 (permalink)


      HENRY: Đó là một ngày bình thường của tháng Mười, nắng và thời tiết khô và lạnh. Tôi đang làm việc ở một phòng nhỏ có điều khiển độ ẩm không có cửa sổ trên tầng bốn của Newberry, tôi đang ghi vào mục lục một bộ sưu tập các giấy tờ có vân cẩm thạch vừa được người ta đem tặng cho thư viện. Những tờ giấy rất đẹp, nhưng việc ghi chúng vào danh mục lại rất chán , và tôi cảm thấy buồn , thấy tội nghiệp cho chính mình. Thực tế tôi đang cảm thấy già đi, theo cái cách mà chỉ một người hai mươi tám tuổi có thể cảm thấy sau khi thức đến tận nửa đêm để uống rượu vodka đến say mèm rồi cố gắng, mà không thành công, đưa anh ta trở lại phong cách trang nhã của Ingrid Carmichel. Chúng tôi dành cả buổi tối để đánh nhau, bây giờ tôi thậm chí không nhớ chúng tôi đánh nhau vì cái gì. Đầu tôi nhoi nhói. Tôi cần cà phê. Rời khỏi đống giấy vân cẩm thạch trong trạng thái sự lộn xộn được kiểm soát, tôi đi qua văn phòng, và qua một cái bàn giấy ở Phòng đọc. Tôi bị giọng nói của Isabelle giữ lại: “Có lẽ ông DeTamble có thể giúp cô” mà ý của cô ấy là “Henry, anh đang né tránh, anh đang lén đi đâu?” Và cô gái cao mảnh khảnh tóc màu hổ phách xinh đẹp đến sững sờ quay lại và nhìn tôi như thể tôi là chúa Jesus riêng của cô ấy vậy. Bụng tôi sôi lên. Rõ ràng là cô ấy biết tôi, và tôi không biết cô ấy. Chỉ có Chúa mới biết điều tôi đã nói, đã làm hay hứa hẹn với sinh vật đang tỏa sáng kia, nên tôi đã bị ép phải nói như cách của một người thủ thư tốt nhất “Tôi có thể giúp gì cho cô không?” Cô gái thốt ra “Henry!” với cái cách mà rất khiến tôi liên tưởng và thuyết phục tôi rằng có một lúc nào đó chúng tôi đã từng thực sự có điều gì đó đáng kinh ngạc cùng nhau. Tệ hơn là tôi không biết gì về cô ấy cả, thậm chí cả tên của cô ấy. Tôi nói “Chúng ta đã gặp nhau à?” và Isabelle đưa cho tôi một ánh nhìn ngụ ý rằng Anh thật tồi. Nhưng cô gái nói “Tôi là Clare Abshire. Tôi biết anh khi tôi còn là một cô bé” và mời tôi đi ăn tối. Tôi chấp nhận, vẫn còn sững sờ. Cô ấy đang làm tôi nóng bừng, mặc dù tôi không được cạo râu , ăn mặc lôi thôi , mọi thứ như bị lộn tùng phèo và không thể hiện được mình trong trạng thái tốt nhất. Chúng tôi sẽ gặp nhau để ăn tối vào tối nay, ở Beau Thai, và Clare, người buộc chặt với tôi sau này, đi ra khỏi Phòng đọc.

      Khi tôi đứng trong thang máy, u mê, tôi nhận ra vé sổ xố thắng lớn cho tương lai của tôi đã rơi xuống đầu tôi hiện tại, và tôi bắt đầu cười. Tôi đi qua sảnh, và khi tôi chạy xuống cầu thang đi ra phố, tôi thấy Clare đang chạy qua Quảng trường Washington, đang nhảy và hò reo, tôi gần như suýt khóc mà tôi không hiểu tại sao.
      #3
        gemine 17.08.2009 16:00:25 (permalink)
        Sau đó vào buổi tối :

        HENRY: Vào đúng 6 giờ tối. Tôi phóng về nhà và cố gắng làm cho mình trông thật hấp dẫn. Nhà của tôi trong những ngày này là một căn hộ độc thân nhỏ nhưng đắt điên rồ ở North Dearborn; tôi liên tục va phải những bức tường, mặt phẳng, và đồ đạc phiền phức. Bước một: mở cái khóa thứ mười bảy trên cửa căn hộ, nhào vào phòng khách mà cũng là phòng ngủ của tôi và bắt đầu cởi đồ. Bước hai: tắm và cạo râu. Bước ba: nhìn vô vọng vào sâu trong phòng để đồ của tôi, dần dần nhận ra rằng không có gì sạch thực sự. Tôi tìm thấy một cái áo sơ mi trắng vẫn ở trong túi giặt khô của nó. Tôi quyết định mặc bộ complê đen, áo bẻ cổ , và cà vạt màu xanh nhạt. Bước bốn: làm xong tất cả những thứ đó và nhận ra rằng tôi trông giống một đặc vụ FBI. Bước năm: nhìn quanh và thấy căn hộ thật là lộn xộn. Tôi quyết tâm tránh đưa Clare về căn hộ của tôi đêm nay dù chuyện đó có thể được đi chăng nữa. Bước sáu: nhìn vào tấm gương dài trong phòng tắm và trông xương xương, nhìn giống như một Egon Schiele mười tuổi nhướn mắt to trong chiếc áo sơ mi sạch và bộ đồ người điều khiển tang lễ. Tôi tự hỏi người phụ nữ này đã nhìn thấy tôi mặc trang phục gì vì rõ ràng là tôi không từ tương lai đến quá khứ của cô ấy với trang phục của mình. Cô ấy đã nói cô ấy là một cô bé à? Một đống thứ không trả lời được chạy qua trong đầu tôi. Tôi dừng lại và hít thở trong một phút. Được rồi. Tôi cầm lấy ví và chìa khóa của tôi, và tôi đi: khóa ổ khóa thứ ba mươi bảy, đi xuống bằng thang máy nhỏ tròng trành, mua hoa hồng cho Clare ở quầy hoa ngoài sảnh, đi bộ hai khu nhà đến nhà hàng với thời gian kỷ lục nhưng vẫn muộn năm phút. Clare đã ngồi trong quán và cô ấy có vẻ nhẹ người khi nhìn thấy tôi. Cô ấy vẫy tôi như là cô ấy đang ở một cuộc diễu hành vậy.



        Tôi nói “Xin chào”. Clare mặc một bộ áo nhung màu rượu và đeo ngọc trai. Trông cô ấy như một Botticelli theo cách của John Graham: đôi mắt to màu xám nhạt , mũi cao, miệng nhỏ nhắn như một geisha. Cô ấy có mái tóc dài màu đỏ phủ qua vai và rủ xuống ngang lưng. Clare rất nhợt nhạt, trông cô ấy như nặn bằng sáp trong ánh nến. Tôi giúi hoa hồng vào cô ấy. “Tặng em.”

        Clare nói “Cảm ơn anh”, vẻ hài lòng rất buồn cười. Cô ấy nhìn tôi và nhận ra tôi đang bối rối vì phản ứng của cô . “Trước đây anh chưa bao giờ tặng em hoa”

        Tôi trượt vào trong chỗ ngồi đối diện cô ấy. Tôi bị mê hoặc. Người phụ nữ này biết tôi; đây không phải biết chút ít thoảng qua về kỷ nguyên tương lai của tôi. Người bồi bàn xuất hiện và đưa menu cho chúng tôi.

        “Nói cho tôi biết đi.” Tôi đề nghị.
        “Gì cơ?”
        “Mọi thứ. Ý tôi là, em có hiểu tại sao tôi không biết em không? Tôi rất xin lỗi về điều đó”
        “Ồ, không, anh không phải thế. Ý em là, em biết… tại sao lại thế.” Clare nói thấp giọng. “Đó là vì với anh chưa có gì xảy ra cả, nhưng với em, vâng, em đã biết anh một thời gian dài rồi.”
        “Bao lâu?”
        “Khoảng mười bốn năm. Em gặp anh lần đầu khi em sáu tuổi”
        “Chúa ơi. Em có gặp tôi thường xuyên không? Hay chỉ vài lần?”
        “Lần cuối em gặp anh, anh đã bảo em mang cái này đến bữa tối khi chúng ta gặp lại lần nữa” Clare chỉ cho tôi xem một cuốn nhật ký của trẻ con màu xanh nhạt, “nên nó đây” – cô ấy đưa nó cho tôi – “anh có thể đọc đi .” Tôi mở cuốn nhật ký đến chỗ nó được đánh dấu bởi một mẩu báo. Trang mà có hai chú *** Cốc con tai cụp đang núp ở góc trên bên phải là một danh sách các ngày. Nó bắt đầu là ngày 23 tháng 9 năm 1977, và kết thúc sau mười sáu trang *** con màu xanh nhỏ sau đó vào ngày 24 tháng 5 năm 1989. Tôi đếm. Có tất cả 152 cuộc hò hẹn , được viết rất cẩn thận bằng cây bút bi Palmer Method to màu xanh của một đứa trẻ sáu tuổi.
        “Em đã làm bản liệt kê này à? Tất cả chúng đều chính xác chứ?”
        “Thực ra, anh đã đọc chúng cho em. Vài năm trước đây anh đã bảo em là anh nhớ những ngày trong bản liệt kê này. Nên em không biết chính xác cái này là thế nào; ý em là nó có vẻ giống như một dải Mobius. Nhưng tất cả đều chính xác. Em đã dùng chúng để biết khi nào đi xuống khu Đồng cỏ để gặp anh.” Người bồi bàn lại xuất hiện và chúng tôi gọi món: Tom Kha Kai cho tôi và Gang Mussaman cho Clare. Một người hầu bạn mang trà ra và tôi rót mỗi người một chén.
        “Khu Đồng cỏ là gì?” Tôi thực sự nhảy bật lên thích thú. Trước đây tôi chưa bao giờ gặp ai từ tương lai của tôi, hơn nữa lại là một Botticelli người đã gặp tôi 152 lần.



        “Khu Đồng cỏ là một phần nơi ở ba mẹ em ở gần Michigan. Một bên có rừng cây còn ngôi nhà ở phía bên kia. Khoảng giữa là một mảnh rừng thưa với chu vi đọ vài chục mét có những viên đá to, và nếu anh ở trong khoảng rừng thưa đó không ai ở trong nhà có thể thấy anh vì có một giồng đất gồ lên và rồi lõm xuống ở giữa đó. Em thường chơi ở đấy vì em thích chơi một mình và em nghĩ không ai biết em ở đó. Một hôm khi em lên lớp một , em đi từ trường về nhà và đi ra bìa rừng , anh đã ở đó.”
        “Trần như nhộng và có thể là đang nôn”
        “Thực tế, anh có vẻ khá tự chủ . Em nhớ là anh biết tên em, và em nhớ anh đang tan biến đi một cách ngoạn mục. Hồi tưởng lại, rõ ràng là anh đã ở đó trước đây. Em nghĩ lần đầu tiên cho anh là năm 1981; em mười tuổi. Anh vẫn thốt lên “Ôi, lạy chúa tôi”, và nhìn em chằm chằm. Anh cũng có vẻ khá choáng về tình trạng khỏa thân, và từ đó em cứ coi như gã khỏa thân già sẽ xuất hiện một cách thần diệu từ tương lai và xin quần áo.” Clare mỉm cười. “Và thức ăn nữa”
        “Cái gì kỳ cục vậy?”
        “Em đã làm cho anh vài bữa ăn khá lạ trong những năm đó. Bơ đậu phộng và bánh sandwich cá. Khoai sọ và củ cải đường với quy Ritz. Em nghĩ một phần em đã muốn xem liệu có cái gì anh không ăn không và một phần là em đã cố làm anh ấn tượng với tài năng nấu nướng của em.”
        “Anh lúc đó bao nhiêu tuổi?”
        “Em nghĩ em nhìn thấy anh già nhất là khoảng bốn mấy tuổi. Em không chắc lắm về lúc trẻ nhất, có thể là ba mươi chăng? Bây giờ anh bao nhiêu tuổi?”
        “Hai mươi tám”
        “Đối với em bây giờ anh trông rất trẻ. Vài năm trước anh gần như ở tuổi bốn mươi, và anh có vẻ có một cuộc sống biến động… Rất khó nói. Khi anh còn nhỏ tất cả người lớn đều có vẻ to lớn và già.”
        “Vậy chúng ta đã làm gì? Ở khu ‘Đồng cỏ ấy ? Ở đó khá lâu mà .”
        Clare mỉm cười. “Chúng ta làm rất nhiều thứ. Việc đó thay đổi tùy vào tuổi của em, và thời tiết. Anh dành nhiều thời gian giúp em làm bài tập về nhà. Chúng ta đã chơi trò chơi. Phần lớn chúng ta chỉ nói chuyện về mọi thứ. Khi em còn bé em đã nghĩ anh là một thiên thần; em đã hỏi anh rất nhiều câu hỏi về Chúa. Khi em ở tuổi thiếu niên em đã cố bắt anh làm tình với em, và anh không bao giờ làm, điều đó tất nhiên làm em quyết tâm về nó hơn. Em nghĩ anh đã nghĩ là anh sẽ làm em suy nghĩ lệch lạc về tình dục, không biết nữa. Theo cách nào đó anh rất có lối cư xử kiểu cha chú gì đó .”
        “Ồ. Đó có thể là tin tốt nhưng dù thế nào lúc này tôi không có vẻ muốn bị nghĩ như là cha chú .” Mắt chúng tôi gặp nhau. Cả hai chúng tôi đều cười và chúng tôi là những kẻ đồng lõa. “Thế còn mùa đông? Mùa đông của Michigan khá khắc nghiệt.”
        “Em thường lén đưa anh vào trong tầng hầm của nhà em ; ngôi nhà có một tầng hầm lớn với nhiều gian nhỏ , và một trong những gian đó là kho và lò sưởi ở bên mặt kia của bức tường. Chúng em gọi đó là Phòng đọc vì tất cả những quyển sách cũ và tạp chí cũ không dùng nữa được cất ở đó. Một lần anh ở dưới đó và có một trận bão tuyết, không ai đi đến trường hay đi làm được và em nghĩ là em đã phát điên với việc cố gắng lấy được thức ăn cho anh vì không có nhiều thức ăn trong nhà. Etta đã định đi chợ khi cơn bão đến. Nên anh bị kẹt phải đọc cuốn Tập san Độc giả trong suốt ba ngày, sống nhờ cá mòi và mì.”
        “Nghe mặn nhỉ. Tôi sẽ mong đến lúc đó.” Món ăn cúa chúng tôi đến. “Em đã bao giờ học nấu ăn chưa?”
        “Chưa, em không nghĩ là em sẽ phải biết nấu ăn. Nell và Etta luôn phát rồ khi em làm cái gì đó ở trong bếp của họ ngoại trừ lấy một lon Côca cho bản thân mình , và tử khi em chuyển đến Chicago thì không còn ai nấu cho nữa, nên em đã phải buộc mình làm việc đó. Thường là em quá bận ở trường và tất cả, nên ăn luôn ở đó.” Clare ăn một miếng cari của cô ấy. “Cái này thật là ngon”
        “Nell và Etta là ai?”
        “Nell là đầu bếp của nhà em” Clare mỉm cười. “Nell giống như đầu bếp hạng nhất gặp Detroit; bà ấy biết Aretha Franklin sẽ thế nào nếu bà ấy là Julia Child. Etta là người quản gia và trông nom mọi thứ . Bà ấy thực sự gần như là mẹ của chúng em; ý em là mẹ em thì… ờ, Etta thì luôn luôn ở đó, bà ấy là người Đức và nghiêm khắc, nhưng bà ấy rất biết an ủi, còn mẹ em thì là luôn luôn ở trên mây , anh hiểu không?
        Tôi gật đầu, mồm đấy súp.
        “Ồ, và có Peter nữa” Clare nói thêm. “Peter là người làm vườn”
        “Wow. Gia đình em có những người giúp việc. Nghe giống như không thuộc thế giới của tôi. Tôi đã bao giờ, ờ, gặp ai trong gia đình của em chưa?”
        “Anh đã gặp bà ngoại Meagram của em ngay trước khi bà mất. Bà là người duy nhất em từng kể về anh. Lúc đó bà gần như mù rồi. Bà biết là chúng ta sẽ lấy nhau và bà đã muốn gặp anh.”
        Tôi dừng ăn và nhìn Clare. Cô ấy nhìn lại tôi, trong sáng, thiên thần, hoàn toàn thư giãn. “Chúng ta sẽ cưới nhau à?”
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9