III– Thập dực được coi là của Khổng tử soạn gồm các phần sau
đây: 1) Thoán truyện có nội dung giải thích rõ ý nghĩa từng quẻ, bổ
sung ý nghĩa của Soán từ. Thoán truyện chia làm hai phần thượng và
hạ.
2) Tượng truyện được chia làm hai phần là Đại tượng truyện –
giải thích hình ảnh (tượng) của mỗi quẻ; Tiểu tượng truyện có nội
dung giải thích tượng của mỗi hào (cửu, lục) và vị trí của mỗi quẻ
trong hệ thống 64 quẻ Hậu thiên.
3) Hệ từ truyện còn gọi là Hệ từ đại truyện, cũng chia làm hai
thiên thượng và hạ nhằm giải thích những vấn đề và những hiện tượng
liên quan đến kinh Dịch.
4) Văn ngôn cũng chia làm hai phần thượng và hạ. Thiên thượng
bàn về quẻ thuần Càn, phần hạ bàn về quẻ thuần Khôn và các hào của
hai quẻ này.
5) Thuyết quái nội dung giảng về 8 quái đơn và ý nghĩa cũng
như hình tượng của mỗi quái.
6) Tự quái truyện nội dung giải thích về thứ tự của 64 quẻ trong
hệ thống Chu dịch cũng chia làm hai phần thượng và hạ.
7) Tạp quái truyện nội dung là giải thích thêm về một số quẻ.
Trên đây, chỉ xin được tóm tắt nội dung của những lời kinh văn
trong kinh Dịch. Do phần kinh văn quá nhiều, nên trong cuốn sách này
chỉ trưng dẫn những lời kinh văn có liên quan – nhằm chứng minh cho
giả thuyết đã nêu; mong được bạn đọc thông cảm, lượng thứ. Bạn đọc
nếu muốn tìm hiểu sâu về kinh Dịch hoặc kiểm chứng những vấn đề
nêu ra trong sách này, có thể tham khảo và đối chứng qua những sách
dịch về kinh Dịch đã giới thiệu với bạn đọc ở trên, hoặc qua các sách
tham khảo được trình bày ở cuối cuốn sách này.
39
Chương III
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ
THỜI ĐIỂM XUẤT XỨ
VÀ TÁC GIẢ CỦA KINH DỊCH Như phần trên đã trình bày, mặc dù hầu hết các học giả khi
giới thiệu về kinh Dịch đều nhắc đến lịch sử và thời điểm
xuất xứ như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên
cứu có những quan điểm khác như sau:
VỀ THỜI ĐIỂM XUẤT XỨ .
Theo sách Chu Dịch và dự đoán học (Nxb Văn hóa Hà Nội 1995
– Thiệu Vĩ Hoa – trang 27) viết:
Thời gian hình thành Bát quái và 64 quẻ khoảng đời nhà Hạ.
Điều đó có “Ngọc Hải” dẫn chứng từ “Sơn hải kinh” như sau: “Phục Hi
được Hà đồ, do đó người Hạ nói “Liên sơn”; Hoàng đế được Hà
đồ, do đó người Thương nói “Quy Tàng”. Liệt Sơn thị được Hà đồ,
do đó mà người Chu nói “Chu dịch”. “Dịch tán”, “Dịch luận” của
Trịnh Huyền nói : “Hạ viết “Liên Sơn”, Ân viết “Quy Tàng”, Chu viết
“Chu dịch”.
Trong “Chu lễ” có ghi: Cung Xuân đại bốc “nắm cả phép của
ba bộ dịch là “Liên sơn”, “Quy tàng”, “Chu dịch”. Quái của các
kinh đó đều là 8, quẻ đều là 64”. Còn nói: cuối thời kỳ đồ đồng ở An
Dương đã xuất hiện những dấu hiệu Bát quái (trang 77 sách “Lịch sử
chữ viết trên xương của Trung Quốc”). Do đó có thể thấy thời kỳ hình
thành Bát quái và 64 quẻ nên vào đời nhà Hạ. Còn những người đời
sau nói Văn Vương đã làm lại 64 quẻ, điều đó chắc không đúng, tuy
nhiên Văn Vương đã sắp xếp lại cho nó chỉnh hơn thì rất có thể.
Hai quyển sách “Liên sơn”, “Quy tàng” đã mất từ lâu, quyển
sách người đời sau nhìn thấy chỉ là “Kinh Dịch”. Nhưng thời kỳ ra đời
của kinh Dịch từ xưa tới nay vẫn còn bàn cãi mãi. Căn cứ kết quả khảo
cứu của hơn ba mươi năm nay thì có ba loại ý kiến.
1. Kinh Dịch ra đời thời Xuân Thu. Quách Mạc Nhược nói:
Quan niệm trời đất đối lập xuất hiện rất muộn trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc. Những văn tự đời nhà Chu không có vết tích của Bát
quái, thậm chí không có chữ “địa”; những chữ như “Càn, Khôn” trong
40
sách cổ mãi về sau mới xuất hiện… đủ thấy “Kinh Dịch” không thể ra
đời trước thời Xuân Thu.
2. Kinh Dịch ra đời đầu thời Tây Chu. Trương Đại Niên, căn cứ
câu chuyện trong hào từ quẻ như “táng ngưu ư dịch”, “táng dương ư
dịch”, “Cao tôn phiệt quỷ phương”, “Đế Ất quy muội”, “kỳ tử chi minh
di” v.v… đều là các câu chuyện của nhà Thương và Tây Chu. Những
sách về sau của Chu Thành Vương, không viện dẫn đến, nên suy ra
kinh Dịch thành sách không thể sau đời Thành Vương.
3. Kinh Dịch thành sách vào thời kỳ giao thời nhà Ân và nhà
Chu. Kim Cảnh Phương v.v… cho rằng: Kinh Dịch là tác phẩm giao thời
giữa nhà Ân và nhà Chu. Họ khẳng định “quái xuất ư thi”. Thi sử đời
xưa dần dần được tổng kết lại qua nhiều bài ghi chép hoạt động của
chiêm thi, qua sàng lọc, chỉnh lại mà thành “Kinh Dịch”. Có học giả
còn từ tiến trình lôgíc phát triển tư tưởng của Trung Quốc và từ trong
mâu thuẫn xã hội các đời nhà Ân, nhà Chu mà nghiên cứu các niên đại
thành sách của kinh Dịch, họ cho rằng đó là thời kỳ giao tiếp giữa nhà
Ân và nhà Chu.
TÁC GIẢ CỦA KINH DỊCH Ngoài những ý kiến khác nhau về thời điểm ra đời của kinh
Dịch, ngay cả vấn đề tác giả của kinh Dịch, những nhà nghiên cứu
cũng có những ý kiến không thống nhất:
Tác giả Tiên thiên Bát quái
Về đồ hình Tiên thiên Bát quái – mặc dù xuất hiện vào đời Tống
– nhưng được coi là do vua Phục Hy làm ra hầu như không có ai phản
bác. Bởi vì, người công bố đồ hình này là ông Thiệu Khang Tiết cũng
thừa nhận tác giả của nó là ngài Phục Hy và được bảo chứng ở đoạn
sau đây trong Hệ từ hạ chương II của Chu Dịch:
Ngày xưa họ Bào Hy cai trị thiên hạ, ngẩng lên thì xem tượng ở
trên trời, cúi xuống thì nhìn hình ở dưới đất, xem cái vẻ sắc của chim
muông, cùng những tiện nghi của mặt đất, gần thì lấy ở thân mình, xa
thì lấy ở mọi vật; do đó mới làm ra Bát quái để cảm thông cái đức của
thần linh và để phân loại cái tính tình của muôn vật.
Tuy nhiên sự việc cũng không đơn giản như vậy, cũng có học giả
đặt vấn đề ý nghĩa của hai đồ hình này qua tên gọi của nó. Đoạn trích
dẫn sau đây trong sách Kinh Dịch – Đạo của người quân tử (Nguyễn
Hiến Lê – sách đã dẫn, trang 28) chứng tỏ điều này:
41
Hình I gọi là Tiên thiên Bát quái, hình II là Hậu thiên Bát quái.
Hai tên đó không có trong Kinh Dịch, hiển nhiên là do người đời sau,
hoặc một đời Hán, hoặc Thiệu Khang Tiết đặt ra.
Tiên thiên Bát quái có nghĩa là Bát quái tượng trưng vũ trụ
(thiên) hồi đầu, Hậu thiên Bát quái tượng trưng vũ trụ hồi sau. Hồi đầu
là hồi nào? Hồi sau là hồi nào? Không ai biết chắc. Có người giảng hồi
đầu là hồi vũ trụ còn vô hình, hồi sau là hồi vũ trụ đã hình thành. Vô
lý: khi vũ trụ còn vô hình thì sao đã có núi, có chằm?
Có người lại giảng Tiên thiên Bát quái là những hiện tượng xảy
ra trên các thiên thể (nghĩa là khi vũ trụ đã thành hình), còn Hậu thiên
là những hiện tượng ở trên mặt đất (Bửu Cầm – Tìm hiểu kinh Dịch –
Saigon 1957). Vậy là trên các thiên thể cũng có trời, có đất, có núi,
chằm... như trên trái đất?
Có người đem thiên văn học của phương Tây mà giảng Tiên
thiên Bát quái, chẳng hạn bảo Càn gồm ba hào dương, toàn là dương
khí, sáng rực rỡ chính là một biển lửa, một định tinh, Khôn có ba hào
Âm, toàn khí Âm, đen lạnh, “có thể ví các sao đen tối của nhà thiên
văn học Emile Belot”... (Bùi Thị Bích Trâm, Thiên Văn, Huế 1942.
Nguyễn Duy Cần dẫn trong Dịch học Tinh hoa – Saigon 1973).
Từ một số học giả đời Hán dùng kinh Dịch để giảng về thiên
văn, về nguồn gốc vũ trụ, nhất là từ khi có hai hình Tiên thiên và Hậu
thiên Bát quái, chắc đã có nhiều người căn cứ vào hai hình ấy, rồi vào
hai hình Hà đồ, Lạc thư mà lập ra những thuyết mới sau này khoa thiên
văn của phương Tây có một phát kiến nào mới thì tất sẽ có những
người giảng lại, Tiên thiên và Hậu thiên Bát quái cho hợp với những
phát kiến mới. Chỉ có tám hình hai mươi bốn vạch liền và đứt, cho nên
rất dễ gợi sự tưởng tượng của con người.
Tác giả Hậu thiên Bát quái Đồ hình Hậu thiên Bát quái, căn nguyên của 64 quẻ thuộc hệ
thống Hậu thiên cũng được Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống,
nhưng ông cũng thừa nhận tác giả của nó là Chu Văn Vương làm ra.
Đây cũng là một nhận thức phổ biến của hầu hết các nhà nghiên cứu
dịch học từ trước đến nay. Nhưng đến đời nhà Mãn Thanh các nhà
nghiên cứu căn cứ theo phương pháp khảo chứng học cho rằng: Dịch
kinh không phải của Chu Văn Vương, Chu Công. Đến thời Dân Quốc,
Thôi Đông Bích và nhiều người khác cũng đồng nhận xét như trên.
Gần đây, Quách Mạc Nhược trong tác phẩm Chu Dịch chế tác chi thời
đại cũng cho rằng: kinh Dịch không thể xuất hiện sớm hơn thời Xuân
42
* Chú thích: Theo tài liệu chép tay của lương y Lê Hồng Sơn tại thư viện Viện nghiên
cứu Đông y Hà Nội, “Những nét cơ bản về kinh Dịch”, do giáo sư Cao Xuân Huy trình
bày.
thu và Dịch truyện còn xuất hiện sau đó (*).
Tác giả trùng quái Việc trùng quái để tạo ra 64 quẻ thì những nhà nghiên cứu từ đời
Hán trở lại đây cũng có những ý kiến khác nhau:
1– Theo Tư Mã Thiên đời Tiền Hán thì cho rằng do vua Chu
Văn Vương trùng quái.
Tư Mã Thiên căn cứ vào việc vua Văn Vương bị giam ở ngục
Dữu Lý và đã trùng quái trong thời gian này.
2– Theo Trịnh Huyền đời Hậu Hán cho rằng do vua Thần Nông
trùng quái.
Trịnh Huyền căn cứ vào đoạn văn trong Hệ từ hạ viết: “Họ Bào
Hy mất họ Thần Nông lên thay, lấy tượng quẻ Ích để làm cày bừa và lấy
tượng quẻ Phệ Hạp định thể chế họp chợ”. Quẻ Ích và quẻ Phệ Hạp là hai
quẻ trùng quái.
3– Theo Tôn Thịnh đời Tấn cho rằng do vua Đại Vũ trùng quái.
Tôn Thịnh căn cứ vào câu trong sách Chu Lễ Tam Dịch Chú của
Trịnh Huyền nói: “Nhà Hạ là Liên Sơn, nói họ Liên Sơn lấy việc trùng Cấn
làm đầu” nên nhận việc trùng Cấn là việc của vua Đại Vũ.
4– Theo Ngu Phiên, Vương Bật đời Hán thì do vua Phục Hy
trùng quái.
Vương Bật, Ngu Phiên thì căn cứ vào chương I Hệ từ hạ có câu:
“Khi Bát quái thành hàng, tượng ở ngay trong đó; nhân đấy mà trùng lên, thì
hào cũng đã có trong đó”. Do đó cho rằng vua Phục Hy tạo ra đồ hình
Bát quái thì trùng quái ngay.
Với những ý kiến trên đây, nhà nghiên cứu Dịch học Việt Nam
là Thu Giang Nguyễn Duy Cần cho rằng:
Theo 4 giả thuyết trên đây ta không thấy giả thuyết nào đứng
vững, vì không có chứng cứ xác thực. Chỉ có giả thuyết thứ nhất và thứ
43
tư là được truyền tụng. Vậy, ta hãy tạm nhận như thế: có thể do vua
Phục Hy hoặc Văn Vương sáng chế, không sao.
(Dịch học tinh hoa – Nxb T/p HCM – 1992 – Thu Giang – Nguyễn
Duy Cần)
Nhận xét của học giả Nguyễn Duy Cần cũng là nhận xét của
hầu hết các nhà nghiên cứu về Dịch học từ trước đến nay.
Tác giả của Soán từ và Hào từ Có hai giả thuyết:
1)– Giả thuyết này do Mã Dung và Lục Tích thời Hán đặt ra.
Thuyết này phù hợp với sự tóm lược về sự phát triển của kinh Dịch đã
trình bày ở trên, được lưu truyền đến ngày nay và cho rằng Soán từ là
của Chu Văn Vương, còn Hào từ là của Chu Công làm ra.
2)– Thuyết này do Trịnh Huyền (cuối thời Đông Hán, đầu thời
Tam Quốc) cho rằng Soán từ và Hào từ đều do Chu Công làm ra.
Tác giả của thập Dực
Có 3 thuyết sau đây:
1– Thuyết của Hán thư: Hán thư lại chia làm hai phái Cổ văn và
Kim văn. Phái Cổ văn cho rằng thập Dực là do Khổng tử làm ra. Phái
Kim văn phản bác cho rằng Khổng tử không quan hệ gì đến thập Dực
mà do người đời sau Khổng tử viết.
2– Thuyết của những người theo Sử ký: thập Dực là do những
người đời sau Khổng tử viết.
3– Thuyết của học giả Nhật Bản Đông Điền Nhất Đường: Dịch
truyện viết vào khoảng đời nhà Tần.
Đại Kiều Chính Thuận – một học giả người Nhật nói:“thập Dực
do Khổng tử viết, chỉ thấy có Tư Mã Thiên trong Sử ký nói đến mà thôi.
Các sách Kinh truyện (của Nho giáo cổ trước Hán), không thấy
trưng dẫn. Vì thế Âu Dương Tu (một học giả thời hậu Hán) mới sinh
nghi, các học giả sau này đua nhau biện bác… Soát lại lời văn của thập
Dực, quyết không phải của một người làm ra…”. Đành thế nhưng Thân
Vương tử có nói: “Lời văn Hệ Từ, tiên Nho nhiều người cũng đã nghi
ngờ không phải do Khổng tử làm ra, nhưng ở trong đó tác giả Dịch
44
Truyện đã phát minh được mọi lẽ cương yếu của Dịch, chỉ vẽ cho
người ta ứng dụng các phép tắc của Dịch một cách gãy gọn, vỡ vạc, rõ
ràng có “điều”, có “lý”, vậy nếu không phải ở một đầu óc đã có đầy đủ
hoàn toàn được cái học Dịch , quyết không thể nào nói rõ ra được như
thế”.
Tịnh Mộc Chính Thiều (người Nhật) nói:
“Thập Dực truyện là của Khổng tử, các hậu Nho thường có lời
bàn ra nói vào. Tôi đọc Hệ Từ, thường thấy hai chữ “tử viết” thì cũng
nghi không chắc Khổng tử đã thân hành viết ra. Nhưng rồi nghĩ kỹ lại,
xét rõ lại, thấy ở Hệ từ, tác giả đã xiển phát được nhiều lẽ tinh vi rõ
ràng hết sức, đã ghi lại được đầy đủ dấu vết của Âm dương Tạo Hoá,
cùng những mầu nhiệm của Quỷ Thần, của Trời Đất, của Nhân Loại,
không có một cái nào là chẳng khải phát một cách rõ ràng để chỉ vẽ
cho người đời sau. Nếu chẳng phải việc làm của một bậc đại thánh
nhân thì ai đã đủ tài sức làm nổi ? Nếu lại đem so sánh lời nói của các
bậc thầy như Tử Tư, Mạnh tử thực có thể làm “biểu lý” cho nhau
được”(*).
Về ý nghĩa chữ Chu trong Chu Dịch Xin bạn đọc tham khảo đoạn sau đây trong Kinh Dịch – Đạo
người quân tử (Nguyễn Hiến Lê – sách đã dẫn):
Có hai thuyết:
a) Một thuyết, đại biểu là Trịnh Huyền (đời Hán), bảo Chu đó
không có nghĩa là nhà Chu, mà có nghĩa là hết một vòng rồi trở về
(Chu nhi phục thuỷ), là chu lưu trong vũ trụ, là phổ cập. Chu Dịch có
nghĩa là: đạo dịch, phổ biến khắp vũ trụ; là hết một vòng rồi trở về.
Trịnh Huyền lấy lẽ rằng ba sách Dịch đời Chu: Liên Sơn, Qui Tàng,
Chu Dịch, trên hai sách trên không chỉ thời đại, thì tên cuốn cuối cũng
không chỉ thời đại (để khỏi rườm, chúng tôi chỉ tóm tắt như vậy thôi).
b) Một thuyết nữa, đại biểu là Khổng Dĩnh Đạt (đời Đường) bác
lẽ đó, bảo người ta gọi hai sách trên là Liên Sơn, Qui Tàng, không
thêm chữ dịch ở sau, mà Chu dịch là có chữ dịch tức là chữ dịch này
không thể tách khỏi chữ Chu được mà như vậy Chu dịch phải có nghĩa
là dịch của đời nhà Chu.
* Chú thích: Dịch học tinh hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần – Nxb TP Hồ Chí Minh
– 1992.
45
Lý luận của Trịnh và Khổng đều không vững, và chúng ta chỉ
cần biết rằng ngày nay mọi người đều hiểu Chu là đời Chu, mà tên
Chu dịch xuất hiện sau Khổng tử, Mạnh tử vì trong Luận ngữ, Mạnh tử,
chỉ thấy dùng tên Dịch thôi, không dùng tên Chu dịch.
Một cuốn sách rất quan trọng mà từ nguồn gốc đến chúng tôi,
thời đại xuất hiện, ý nghĩa của tên sách đều gây nhiều thắc mắc, mấy
nghìn năm sau chưa giải quyết được; đó cũng là một lẽ khiến cho Chu
dịch thành một kỳ thư.
Trên đây là tóm lược và trích dẫn những ý kiến khác nhau tiêu
biểu về quá trình hình thành và phát triển của kinh Dịch mà hầu hết
các sách nghiên cứu hiện đại về Kinh Dịch đều ghi nhận. Những ý
kiến phản bác, kể cả những ý kiến thừa nhận diễn biến lịch sử Dịch
học theo cổ thư chữ Hán đều thiếu những luận cứ chặt chẽ, như phần
trích dẫn giới thiệu với bạn đọc ở trên. Nhưng những ý kiến này dù
mâu thuẫn với nhau và hết sức mơ hồ, vẫn mặc nhiên thừa nhận kinh
Dịch là sản phẩm của nền văn minh Hoa Hạ.