tiếp....
Calcium Calcium là chất chiếm số lượng nhiều nhất trong số khoáng chất trong cơ thể khoảng 2% tổng số sức nặng của cơ thể hay 40% tổng số khoáng chất trong cơ thể, 99% tổng số Calcium trong cơ thể được thấy trong xương và răng, 1% số còn lại trong máu, và trong các tế bào khác trợ giúp trong các hoạt động biến năng.
Số lượng Calcium được đem vào cơ thể được thẩm thấu nhiều nhất tại phần trên của ruột non vào máu. Sự thẩm thấu nầy tùy thuộc vào ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời, cơ thể được phơi bày ra nắng nhiều hay ít, những tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời tác dụng vào da thịt tạo nên Vitamin D hoặc uống Vitamin D và tùy thuộc ở tuổi tác già trẻ, nam hay nữ. Theo sự nghiên cứu và khảo sát của các nhà khoa học thì trẻ em đang tuổi trưởng thành có thể thẩm thấu vào máu được tới 70% số lượng Calcium được đem vào cơ thể. Trong khi đó người lớn chỉ có thể thẩm thấu được tới tối đa từ 30% đến 60% số lượng Calcium ăn vào cơ thể (5) và những người già nhiều khi chỉ thẩm thấu được khoảng 10% số lượng Calcium ăn hay uống (7).
Những đồ ăn giúp cho sự thẩm thấu Calcium gia tăng là các loại Amino acid như Lysine, Arginine, Vitamin D, Coca, đậu nành, rau dền. Những thực phẩm làm giảm sự thẩm thấu là những loại thực phẩm có nhiều chất Phosphorus như gạo lức (6), cám, lúa mì, những đồ ăn có chất kiềm. Các ảnh hưởng khác giảm sự thẩm thấu như thời gian tiêu hóa quá mau, không vận động, buồn chán, dùng thuốc Cortisol, thuốc ngăn ngừa kinh phong. Ðàn ông thẩm thấu Calcium vào nhiều hơn đàn bà (7) đó là lý do có thể giải thích được đàn bà bị bệnh Osteoporosis (xốp xương, loãng xương) nhiều hơn đàn ông.
Số lượng Calcium không thẩm thấu được vào máu bị đào thải qua đường đại tiện không những chỉ có số lượng Calcium ăn vào mà còn có số lượng Calcium được tế bào của ruột tiết ra không được tái thẩm thấu trở lại, khoảng chừng 15%. Số lượng Calcium được tế bào ruột tiết ra bị đào thải qua đường đại tiện trung bình khoảng 130mg mỗi ngày. Số lượng Calcium trong cơ thể còn bị thải ra qua đường mồ hôi mất đi khoảng từ 20 đến 350mg mỗi ngày tùy theo ra mồ hôi nhiều hay ít (8) và có thể lên tới 1.000mg mỗi ngày nếu một người thợ làm việc trong tình trạng nóng bức.
Khi Calcium vào được máu đi nuôi tế bào, máu lưu thông trong cơ thể đều phải liên tục qua thận để lọc. Mỗi trái thận có trên một triệu bộ phận lọc được gọi là phẫu cầu thận, mỗi một phẫu cầu thận có một cái như cái rổ để lọc được gọi là túi lược và túi Bowman có ống dài nối với những ống lớn tích lũy nước tiểu.
Chung quanh ống nầy có mạch máu quấn quanh. Máu được đổ vào túi lược, tất cả huyết thanh được chảy qua túi lược xuống túi Bowman, những chất bổ dưỡng, nước được thẩm thấu trở lại mạch máu bao quanh ống lọc, chất cặn bã dư thừa được tích lũy thành nước tiểu đào thải ra ngoài. Các tế bào của máu như hồng huyết cầu, bạch huyết cầu tiếp tục chạy theo mạch máu hòa vào với huyết thanh được thẩm thấu trở lại sau khi đã được lọc những chất bẩn. Mỗi ngày có khoảng 10.000mg Calcium được lọc qua túi lược và bị bài tiết qua nước tiểu khoảng 100 đến 150mg Calcium. Một người bình thường có thận khỏe mạnh số lượng Calcium được thẩm thấu trở lại máu lên tới 99% (9) (10) (11).
Tóm lại một người lớn mỗi ngày ăn vào khoảng 1.000mg Calcium, số lượng được thấm thấu vào máu khoảng 40% nghĩa là khoảng 400mg. Trong khi đó cơ thể tiết ra và bài tiết theo đường đại tiện khoảng 130mg, theo mồ hôi khoảng 100mg và bài tiết theo thận qua đường tiểu tiện khoảng 100mg. Tổng số bài tiết khoảng 330mg Calcium.
Calcium trong máu (huyết thanh) Số lượng Calcium trong máu được thấy qua ba trạng thái: (a) Calcium phối kết với chất đạm; (b) Ðiện ứng hóa Calcium (Ca++) và (c) Calcium hợp với chất hữu cơ như Citrate, hoặc chất vô cơ như Sulfate và Phosphate.
Trong huyết thanh, Calcium phối kết với chất đạm chiếm khoảng 46% tổng số, phần lớn phối kết với bạch đạm (81%) số còn lại 19% phối kết với cầu đạm. Số lượng điện ứng hóa Calcium trung bình khoảng 50% tổng số hay 5mg/100mL, khi số lượng nầy xuống thấp, máu thiếu Calcium đưa đến run rẩy tay chân, bắp thịt co giựt, vọp bẻ, tim đập giựt nhói, bị thiếu lâu ngày sinh ra mắt có màng, tay chân thỉnh thoảng bi tê, mất cảm giác, ảnh hưởng tới thần kinh suy yếu.
Nếu số lượng Ca++ trên lên quá cao, máu quá nhiều Calcium, đưa đến chóng mặt, nôn mửa, mệt mỏi cơ thể, táo bón, áp huyết cao, đái đêm, đái nhiều, bắp thịt suy yếu, sinh sạn thận. Tất cả các triệu chứng trên biến mất khi mức độ Calcium trở lại bình thường (12).
Nếu trong máu thiếu Calcium, nên uống bổ túc thêm Calcium với số lượng khoảng 1.000mg đến 1.500mg mỗi ngày, Calcium viên thường có Calcium Gluconate (9% Calcium), Calcium lactate (13% Calcium) Calcium Carbonate là tốt hơn cả, không nên uống Calcium Chloride hại bao tử, và nên ăn những đồ ăn có nhiều Calcium.
Calcium trong xương Xương được cấu tạo bằng một màng lưới sơ Collagen mọc ngang, dọc theo một khuôn được gọi là khuôn lưới. Những sơ Collagen nầy vài ngày sau trở thành Osteoid, giống như sụn, và từ tủy xương một loại tế bào nhân gọi là Osteoblast và Osteoclast tới vướng đọng tại khuôn lưới. Osteoclast trở thành Osteocytes là tế bào xương, sau đó ít ngày cho tới vài tuần một loại muối khoáng chất Calcium gồm có Calcium, Phosphorus và một số khoáng chất khác được gọi là Hydroxyapatite (Ca10(PO4)6(OH2) đóng đọng vào giữa khuôn lưới làm cứng lại thành xương vững chắc giống như xi măng cốt sắt vậy. Cùng lúc đó mạch máu và dây thần kinh mọc trong khuôn lưới.
Xương được liên tục đóng đọng muối khoáng Calcium do tế bào Osteoblast và sau đó tế bào Osteoclast soi rỗng mất chất muối khoáng, nhiều khi lỗ rỗng tới 1mm đường kính. Ngoại trừ thời kỳ xương đang mọc, tế bào Osteoblast đóng đọng muối khoáng Calcium đầy đủ cho xương lại biến đổi thành tế bào Osteoclast soi rỗng mất chất muối khoáng. Những tế bào nầy thay đổi cùng một lúc đều nhau làm cho toàn bộ xương không bị thay đổi độ cứng rắn của xương.
Sự biến đổi xương nầy tùy thuộc vào tuổi tác. Trẻ em sơ sinh tới một tuổi sự biến đổi tới 100% mỗi năm và giảm dần còn khoảng 10% đến tuổi trưởng thành. Khi lớn tuổi ở tuổi 25 xương không mọc dài ra được sự biến đổi khoảng từ 2 đến 4% mỗi năm theo bề ngang.
Số lượng Calcium đóng đọng tại xương trong thập niên đầu tiên của trẻ em khoảng 150mg mỗi ngày. Trong thời kỳ trưởng thành mỗi ngày Calcium đóng động khoảng từ 275mg đến 500mg mỗi ngày, đến tuổi 40 đến 50 xương dần dần bị rỗng, nhất là đàn bà, tổng số lượng xương khối bị giảm.
Những nguyên nhân đóng đọng muối khoáng Calcium, sự biến đổi các tế bào làm đóng đọng và soi rỗng xương, cùng những tiến trình phát triển và suy thoái xương theo tuổi tác hiện chưa được rõ, nhiều giả thuyết nêu lên nhưng không được đứng vững.
Công dụng của Calcium Ngoài công dụng chính là kiến tạo xương, răng, Calcium còn giúp cho sự chuyển mạch thần kinh.
Khi mạch thần kinh chuyển đến chỗ tiếp nối dây thần kinh với bắp thịt thì Calcium khích động để tiết ra một hóa chất gọi là Acelylcholine giúp cho sự chuyển mạch qua chỗ tiếp nối. Calcium giúp cho bắp thịt co, giãn, điều hòa, giúp cho máu đông (xem phần Vitamin K) giúp cho sự chuyển vận qua màng tế bào, giúp cho sự thẩm thấu Vitamin B2.
Thiếu Calcium ở trẻ em đưa đến bệnh Ricket, chậm lớn, người lớn thiếu Calcium sinh bệnh Osteomalacia, bệnh Osteoporosis. Các bệnh nầy được bàn kỹ trong chương sau.
Mức độ Calcium trong cơ thể thấp đưa đến sự nhiễm độc làm cho cơ thể giữ lại quá nhiều kim loại như nhiều Calcium sinh ra bệnh áp huyết cao, làm co mạch máu tại thận, làm hỏng thận (15). Thiếu Calcium làm cho chất Fluoride trong cơ thể gia tăng đưa tới mất men răng, răng bị mục và xương bị mục (15).
Nhu cầu dưỡng sinh Số lượng Calcium được đề nghị hằng ngày cho người lớn là 800mg. Số lượng nầy căn cứ vào số lượng Calcium bị mất đi hằng ngày khoảng 320mg và sự thẩm thấu Calcium vào máu khoảng 20-30%, số lượng đề nghị được coi như quân bình Calcium hằng ngày.
Nhưng những người già phải cần số lượng nhiều hơn để tránh khỏi bệnh xốp xương nên dùng khoảng 1.000mg mỗi ngày, những người có thai và cho con bú là 1.200mg mỗi ngày. Trẻ em từ 1 đến 10 tuổi cần 800mg mỗi ngày (13) (xem bảng 6-2, Nhu cầu dưỡng sinh Calcium)
Thực phẩm có nhiều Calcium như sữa, các loại rau màu xanh, thịt, cá. tiếp.....