CẦU TRE LẮC LẺO - Tiểu thuyết (Tâm tư người viễn xứ).
tramthytrang 26.02.2011 06:57:14 (permalink)
(*) Muốn chữ lớn lên hay nhỏ xuống [để dễ đọc]; xin bấm nút CONTROL và bấm dấu trừ [-] hoặc cộng [+] bên cạnh số 0 [zero].

[sm=welcome.gif]



(Những nhận định về giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay - trong CẦU TRE LẮC LẺO vốn đang làm xôn xao nhiều người - vẫn là vấn đề của quá khứ. Cảm ơn tất cả các vị đã gởi thơ từ, bài vở...để đóng góp cho nhận định này trong suốt thời gian từ tháng 7 năm 2010 đến nay và muốn mở một diễn đàn riêng - về việc gây xôn xao này - trên mạng: www.tramthytrang.net. Nhưng diễn đàn này có lẽ sẽ không xây dựng, vì: vẫn là vấn đề của quá khứ...) và sự thật đau lòng khiến một số người Việt - tại hải ngoại - không đủ can đảm để chấp nhận. Vì:


- Hậu duệ của Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả...là ai? (Hồ Chí Minh và những người kế tiếp? Hay Ngô Đình Diệm và những kẻ đi sau?) [tạm lấy mốc từ đời Tự Đức với nghĩa quân Phan Đình Phùng...]

- Hậu duệ của Lê Dương, lính Khố xanh, Khố đỏ là ai? (Bộ đội miền bắc? Hay quân đội miền nam?) [Nhóm nào - trước và sau 1975 - đã và vẫn đang "lãnh lương cựu chiến binh" của các chính phủ ngoại bang(?)]


1/ - Nếu "làm người nên nhìn về phía trước" thì những gì liên quan đến quê hương mình, (lấy mốc từ năm 1945) được nêu ra dưới đây, không để tranh luận hoặc khai triển thêm, mà chỉ để suy gẫm. Bởi những gì trong quá khứ đã được nói đến quá nhiều. Không nên tranh luận hay khai triển thêm nữa...

* Nếu cuộc tổng tuyển cử năm 1956 đã xảy ra (hiệp định Genève) thì không có "Cuộc Chiến Tranh Việt Nam" [Vietnam war]?



* Những vấn đề liên quan đến thuyền nhân và hai chữ thuyền nhân có lẽ đã "ra đời" từ sau cuộc tổng tuyển cử đó (1956), chứ không phải đợi đến những năm cuối của thập niên 70 - thế kỷ trước?


* Ông Diệm - không kể những thế lực khác - là người duy nhất ở miền nam VN có quyền để đồng ý hay không đồng ý tổ chức cuộc tổng tuyển cử năm 1956?

* Ông Diệm đã không đồng ý tổng tuyển cử, thì ông Diệm là người đã gây ra Cuộc Chiến Tranh Việt Nam?

* Nếu chúng ta không đứng ở bên này (miền nam và Mỹ...) hoặc bên kia (miền bắc và CS...) thì chúng ta nghĩ gì về ông Diệm và đất nước của mình về "Vietnam war"?


2/ Nếu "nhìn về phía trước" thì; CẦU TRE LẮC LẺO: (đã đề cập sơ lược đến lịch sử dân tộc; khởi từ thời Hồng Bàng cho đến nhà hậu Lê với vua Lê Lợi, được cô đọng trong hơn bốn trăm câu lục bát) Tác giả muốn nói đến mối nguy từ giặc bắc phương (Trung Hoa).

* Từ ngàn năm xưa cho đến nay; người Tàu vẫn nghĩ rằng Việt Nam là một quận của họ? (tạm xem Tây Tạng là một điển hình)

* Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Nam Quan, mướn đất trồng rừng, khai mỏ...đã xảy ra và họ không ngừng lại ở đó vì "cái quận lạc loài" này họ chưa "lấy về" được? (kể cả những tệ nạn xã hội tại VN mà họ đã triệt để khai thác[?])


* Gọng kìm của giặc bắc phương làm VN không thể tự chủ được trong mọi lãnh vực chính trị?

* Nhà cầm quyền VN đang đi tìm một "thế đứng" để mong giảm bớt sức ép khủng khiếp từ phương bắc?

* Chúng ta có nên giúp Trung Hoa đánh phá nhà cầm quyền VN - trên đường họ đang đi tìm một "thế đứng" - để một lúc nào đó, chúng ta sẽ đòi lại đất nước của mình từ tay người Trung Hoa? (tạm xem Tây Tạng là một điển hình)

* Nếu những đau thương, oán cừu của dân tộc mình đối với người Pháp (trong hằng trăm năm họ đô hộ mình) mà ngày nay mình vẫn "bỏ qua" được thì mình có nên khuyên con cháu mình hãy dẹp bỏ những thù hận của mình - với những người VN đang cầm quyền ở VN - để giúp nước, cứu nước?


* CẦU TRE LẮC LẺO như một tiếng chuông vang lên - dù không phải là người đầu tiên rung chuông - tác giả vẫn biết; sự bất lợi cho bản thân có thể sẽ đến từ nhiều phía...

* Mời quý vị đọc CHƯƠNG CHÍNH và CHƯƠNG KẾT được trích từ cuốn tiểu thuyết CẦU TRE LẮC LẺO dưới đây.

Trân trọng.


Trầm Thy Trang 5/2010

ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền.



[sm=welcome.gif]
CHƯƠNG CHÍNH

(Trích tiểu thuyết: CẦU TRE LẮC LẺO)


Kể từ hôm Hiếu ra tù. Ban ngày, vào mỗi buổi sáng; khi Hạnh đã đi học và ba của bé Hoài cũng đã đi làm, bà Tám không còn thấy trống vắng như trước nữa. Bây giờ; bà đã kéo nôi của bé Hoài ra phòng khách, nơi mà Hiếu đọc sách hoặc ngồi bên bộ computer mỗi ngày. Bà thì làm công việc nhà; khi rảnh thì ngồi đọc báo, cũng ở phòng khách thôi. Mọi sinh hoạt của cả ba mẹ con bà Tám vào ban ngày, hầu hết đều ở phòng khách này...

Hôm nay; Hiếu đã ở nhà được đúng ba tháng, không rời nhà nửa bước. Thời gian này; Hiếu đã học để biết cách sử dụng computer ở bước căn bản đầu tiên và đọc hết cuốn Việt sử bằng tiếng Việt. Hiếu ôm mộng là sẽ viết tiếp phần sau bài thơ của cha mình, mà mẹ đã làm thất lạc trong kỳ vượt biển hơn mười một năm trước.

- Má à! Dân tộc mình anh hùng quá! Phải không má? Hiếu hỏi mẹ; bà Tám chưa kịp trả lời thì Hiếu đã nói tiếp:

- Nhứt là thời kỳ chống Pháp. Con thấy dân mình; có những người anh hùng còn hơn phim ảnh nữa má!

Suốt ba tháng nay. Ban ngày; chỉ có ba mẹ con ở nhà. Bé hoài thì mới được mấy tháng tuổi, ngủ nhiều hơn thức. Bà Tám lại được một thời gian gần gũi với đứa con trai mà bà tưởng như sẽ không bao giờ còn gần gũi được. Mọi việc đã đi và đến như một giấc mơ. Nó năm nay đã ngoài hai mươi tuổi; nhưng đối với bà - bà vẫn thấy nó không khác mấy với bé Hoài - nếu có khác chăng thì chỉ là một lớn, một nhỏ. Nhưng ít nhứt thì hai đứa cũng giống nhau ở một điểm: Đó là ngây thơ. Bà nghĩ; nó đã hai mươi tuổi rồi mà mình còn thấy nó ngây thơ, thì chắc mình đã bắt đầu già thật rồi...

Ba tháng gần gũi với thằng Hiếu; bà đã giúp giải thích những gì nó không hiểu khi đọc sách chữ Việt. Bà rất ngạc nhiên và sung sướng vì bà không ngờ; thằng Hiếu hiểu chữ Việt giỏi như vậy. Bà trả lời:

- Ờ…ba của con cũng là một anh hùng! Nhưng không nối được nghiệp tổ tiên! Bởi ổng mất đi khi còn quá trẻ…

Ngồi giải nghĩa chữ Việt cho thằng Hiếu; làm bà nhớ lại mộng làm cô giáo của mình hơn hai mươi năm trước. Vào khoảng năm 1972; sau khi bà đã đám cưới với ông Tám được độ mấy tháng. Bà vẫn muốn tiếp tục học năm thứ hai của trường Sư phạm ở Saigon; nhưng ông Tám không chịu và nói rằng: Đã lấy chồng rồi mà còn đi học, người ta cười chết! Bà phải nghỉ học từ đó…Trường Sư phạm Saigon cũng là nơi kỷ niệm của bà và ông Tám ở lần đầu quen nhau, khi ông Tám ghé trường để thăm chú Mười…Chú Mười học cùng năm nhưng khác lớp với bà và nhỏ hơn bà hai tuổi…

- “Nguỵ” là gì vậy má? Hiếu hỏi.

- Nguỵ là chữ gốc Hán. Chữ nguỵ ở đây có nghĩa là không có thật, là giả mạo, giả tạo…là người xấu…

- Vậy sao người ta gọi mình là nguỵ? Hiếu ngắt lời mẹ.

- Ờ…chuyện này dài dòng lắm. Để má nấu nước pha bình trà rồi giải thích cho con nghe. Chữ “Nguỵ” này có rất nhiều người còn lấn cấn…

Bà Tám đi nấu nước pha trà cho mình; nhân tiện làm đồ ăn trưa cho Hiếu. Bà vừa làm, vừa suy nghĩ, đắn đo...phải bắt đầu từ đâu và nói làm sao cho thật đơn giản, ngắn gọn, để con mình dễ hiểu. Bà nói:

- Ông nội con kể rằng: Dân tộc mình chống thực dân Pháp gần một trăm năm; tới năm 1945 là gần đến hồi tàn cuộc, vì; thế chiến thứ hai đã bùng nổ ở Châu Âu. Pháp thua Đức. Quân Nhựt thì đã đánh chiếm nhiều nước Á Châu. Năm 1945; quân Nhựt chỉ trong một đêm đã đánh bại toàn bộ quân Pháp tại VN. Nhựt tuyên bố nước VN độc lập nhưng lại kiểm soát đất nước mình chặt chẽ hơn Pháp nữa.

Đầu tháng Tám năm 1945; Mỹ dội bom nguyên tử xuống đất Nhựt. Nhựt đầu hàng. Nước mình không bị quân đội ngoại bang kềm tỏa. Việt Minh xúi giục dân chúng xuống đường, chiếm hết các cơ quan hành chánh đòi vua Bảo Đại phải thoái vị và vua Bảo Đại đã thoái vị! Đó là cơ hội tốt để Việt Minh cướp chánh quyền…

Cũng theo ông nội của con! Thời đó; những người cầm đầu Việt Minh là những người theo chủ thuyết Cộng Sản (CS). Chủ trương của chủ thuyết CS là nhằm đánh chiếm cả thế giới; biến cả thế giới thành CS...Khi Lenin đặt ách CS lên nước Nga thì lực lượng CS cũng chiếm đóng và biến một số nước ở châu Âu thành CS...Những người CSVN theo chủ trương của chủ thuyết này mà gây nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương lúc đó - Họ ẩn mình dưới chiêu bài chống thực dân Pháp, cứu nước...

Khi Việt Minh cướp được chánh quyền. Khởi đi từ mùa thu năm 1945. Họ đặt tên nước mình là: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những người VNCS theo Nga, Tàu này; chưa muốn lộ nguyên hình là CS, họ vẫn ẩn mình để thành lập Đảng Lao Động Việt Nam - Tức là Đảng Cộng Sản VN (ĐCSVN) sau này - Họ đàn áp, thủ tiêu những người cũng chống Pháp, nhưng không theo chủ nghĩa Cộng sản (Hiệp định năm 1946 - VM và Pháp). Khi đảng CSVN đã nắm được chánh quyền; họ hô hào kêu gọi đồng bào cả nước cùng nhau chống giặc Pháp và họ đã lập được kỳ tích: Họ đã đánh thắng Pháp trong trận Điên Biên Phủ, năm 1954; chấm dứt thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp trên quê hương mình...

Bà Tám ngừng lại, rót trà ra ly; trong khi Hiếu vẫn tiếp tục ăn bữa trưa của mình và chăm chú nghe mẹ kể. Bà Tám tiếp:

- Cũng theo ông nội của con. Sau khi VM cướp được chánh quyền (1945). Pháp và Việt gian vẫn cố gắng duy trì ách thực dân ở VN. Nhưng cuối cùng, họ bị thua VM (ở trận Điện Biên Phủ) và hiệp định Genève (1954) đã ra đời; đất nước mình bị chia ra làm hai miền: nam và bắc. Thời gian này; nhóm Việt gian theo Pháp hầu hết đã tề tựu tại miền nam VN và được Mỹ kiện toàn thế lực về quân sự, chánh trị... Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm về miền nam VN để dựng lên chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) - một nước Việt Nam thứ hai ra đời và ông Diệm lên làm tổng thống nước VNCH này - Ông Diệm đã không là tay sai lý tưởng cho Mỹ - Mỹ tạo ra tình hình "bất ổn" tại miền nam; ông Diệm bị giết và sau đó, Mỹ đưa người thân tín khác của Mỹ lên làm tổng thống nước VNCH...

- Ông Diệm là ai, mà sao tự nhiên lại lên làm tổng thống vậy má? Hiếu ngắt lời mẹ.

- Không! Không phải về là làm tổng thống liền...vì trước đó hàng chục năm; vua Bảo Đại đã vì tình hình và hoàn cảnh ép buộc mà đã thoái vị và giao quyền hành, ấn kiếm của triều đình cho Việt Minh (VM) trong thời VM cướp chánh quyền! Nhưng ngay sau đó; Pháp được sự giúp đỡ của Anh, Mỹ đã tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Đại trở về nước để làm "bung xung" để họ lập chánh quyền cho nhóm Việt gian...Mỹ đưa ông Diệm về làm thủ tướng cho "quốc trưởng" Bảo Đại. Ông Diệm truất phế Bảo Đại rồi mới lên làm tổng thống sau đó...

- Truất phế? Hiếu lại ngắt lời mẹ.

- Đó là một cách nói thôi...người ta có thể gọi là cướp chánh quyền, đảo chánh, soán ngôi...Trong một số tài liệu có ghi rằng: Ông Diệm là con của ông Ngô Đình Khả. Ông Khả là người dưới trướng của một tên Việt gian khét tiếng thời kháng Pháp tên là Nguyễn Thân...Khi rảnh, còn tìm tài liệu xem lại thì rõ hơn...Ngừng lại uống miếng trà. Bà Tám tiếp:

- Nhóm Việt gian theo CS gọi chế độ VNCH là chế độ “Nguỵ”. Như vậy: Tiền thân của Nguỵ là Việt gian theo Pháp, rồi sau theo Mỹ?! Trong suốt thời gian này, cho tới ngày ba mươi tháng Tư năm 1975 tại miền nam; những sĩ phu yêu nước...nhưng không là Việt gian, cũng đều bị triệt tiêu hầu hết…

Bà Tám đứng lên, đi lại bên chồng báo cũ để tìm lại một vài bài thơ được đăng trong đó, như bài: “Quê Hương Tôi”, hoặc bài “Rồi Từ Đó”…mà bà rất thích, để đưa cho Hiếu đọc. Vừa lục tìm, bà Tám vừa nói tiếp trong sự chờ đợi của Hiếu:

- Theo như ba của con, thì: Sau khi chia đôi đất nước; nhóm CS ở miền bắc lại tiếp tục ẩn mình dưới chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Lúc đó; họ gọi Mỹ là “thực dân kiểu mới”, là đế quốc...Người ở miền nam; có một số đã tin họ và cùng nhau kéo vào chiến khu để lập ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam...

Người CSVN không đánh Pháp vì cứu nước. Họ đang thi hành chủ trương của chủ nghĩa CS, là: Đánh chiếm thế giới như má đã nói hồi nãy và chiến thắng Điên Biên Phủ năm 1954 đã tạo ra một hình ảnh huy hoàng cho người CSVN trong thời gian đó và cũng làm bộ mặt Việt gian của họ mờ nhạt hẳn...

Còn lúc đó ở miền nam. Người Mỹ sau khi lập ra nước VNCH; họ khai triển phong trào: "Vì lý tưởng tự do, chống CS bành trướng". Phong trào này trở nên mạnh mẽ, đã giúp làm mờ nhạt đi hình ảnh Việt gian của những người theo Pháp trước đây và cũng để cho Mỹ có lý do để thay chân cho Pháp và nhóm Việt gian của Pháp lại cũng có cơ hội tốt để làm việc với họ...

- Tại sao lại là khai triển? Hiếu chận lời mẹ.

- Vì giặc Pháp đã trang bị cho Việt gian cái "lý tưởng" đó trước khi họ rút chân đi để "nhường" lại cho Mỹ...Sau khi giết ông Diệm. Mỹ và Việt gian đưa cả quân đội của những nước khác vào miền nam VN, như: Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc…Cả hai bên nam và bắc; đều tuyên truyền, khuyến dụ. Cưỡng bức, ép buộc đồng bào của cả hai miền phải tham gia vào quân đội của mình và gây nên một cuộc chiến điêu tàn cho quê hương, cho tổ quốc suốt bao nhiêu năm...

Bà Tám ngừng kể; đưa cho Hiếu tờ báo. Bà đưa tay chỉ vào trang báo và nói:

- Con đọc bài thơ này đi. Má đi làm cho em bình sữa, luôn tiện thay tã cho nó.

Hiếu dạ, rồi đưa tay cầm tờ báo; đọc:


RỒI TỪ ĐÓ (2)

Rồi từ đó…
Mặt trời đã lặn hẳn ở quê hương tôi!
Ôi hình như…
Thái dương hệ này đã ngưng lại những hoạt động bình thường.
Quả đất đã ngừng xoay?
Mặt trăng đã ngừng di chuyển?
Mặt trời đâu?
Thời gian cũng dừng lại ở quê hương tôi.

Rồi từ đó…
Hoàng hôn đã bao phủ trên quê hương tôi!
Ôi hình như…
Bóng tối tội lỗi đã chứa đầy yêu tinh, quỷ quái.
Ánh sáng của văn minh cũng mất hẳn ở đây.
Để nhường lại cho những sinh hoạt của thời trung cổ.
Chỉ còn lại những điêu tàn, hoang phế trong tôi...


Hiếu đọc xong bài thơ; tâm hồn lắng đọng lại trong suy tư! Mẹ đã làm xong những việc cần làm và đã trở lại ngồi bên ly trà. Bà nói:

- Chủ trương của chủ nghĩa CS không chỉ là đánh chiếm thế giới, mà còn tự tàn sát dân tộc của chính mình - ở mọi nước bị CS chiếm đóng - sự "tự tàn sát dân tộc của chính mình" này thì có lẽ không sách vở, phim ảnh...nào có thể lột tả được hết sự phi nhân của nó...

Ngừng lại, uống miếng trà. Bà Tám tiếp:

- Cuối cùng; phía miền nam bị yếu thế về chính nghĩa, về lý lẽ trên thế giới và ngay cả trên chính nước Mỹ. Người Mỹ buộc phải bỏ cuộc tại Đông Dương (hiệp định 1973) để xây dựng vị thế của mình tại một nơi khác...CS miền bắc lại lập kỳ tích lần thứ hai: Đó là ngày ba mươi tháng Tư, năm 1975. Tất cả những người theo hay cộng tác với chế độ miền nam; đều bị đi ở tù, gọi là đi cải tạo. Người đi trước, kẻ trốn sau. Nhóm người này đã chạy ra hải ngoại và nhiều người vẫn còn ôm niềm thống hận cho đến hôm nay. Bởi vì; họ đã bị tù đày và mất hết: Từ tài sản đến nhà cửa. Từ địa vị đến quyền uy! Gia đình thì người sống kẻ chết, chia ly, tan tác...bởi ngày ba mươi tháng Tư này.

Vì con còn quá trẻ; những gì con đọc được thì thường có tính một chiều của mỗi phía và họ thường “lấy cứu cánh để biện minh cho phương tiện”. Má đã cố gắng ngắn gọn và đơn giản tất cả mọi việc; chỉ để giải thích cho con nghe về một chữ “nguỵ” thôi, mà phải dài dòng như vậy.

Quê hương và dân tộc mình, đã bị vùi sâu trong lửa đạn suốt ba mươi năm bởi hai thế lực này. Sự đau thương, điêu tàn đó; làm chấn động cả thế giới. Lương tri nhân loại như bị rướm máu và cuộc chiến tranh đó vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay. Thành phần dân tộc sống giữa hai thế lực này, thời đó; vì nhiều lý do khác nhau, đã bị cuốn hút vào một bên, nơi mình đang sống, ở cả hai miền: Thù nghịch và tàn sát lẫn nhau. Sự thù nghịch này dường như vẫn còn tồn tại - ở một số người, ở cả hai phía - cho đến ngày nay...

Thời đó; trên quê hương mình, có thể tạm chia ra ba thành phần chính:

Thành phần thứ nhất: Nhóm Việt gian theo CS Nga, Tàu...Nhóm này đã và đang thi hành chủ trương của chủ nghĩa CS, là: Đánh chiếm toàn cầu. Họ muốn biến toàn thế giới, thành thế giới CS. Với nhóm này: Khái niệm về dân tộc hoặc biên cương của tổ quốc không là quan trọng. Con hãy xem lại tài liệu trong bộ sách Tư Bản Luận của chính họ...

Thành phần thứ hai: Nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ; nhóm này ẩn mình dưới chiêu bài: Vì lý tưởng tự do; Chống CS bành trướng. Nhóm này; giờ cũng đã hụt hẫng! Vì chủ nghĩa CS không còn...Trước đây, sau ngày chấm dứt chiến tranh [30/04/1975]; ở hải ngoại, nhóm này đã cố gắng vùng vẫy để "thăm dò" xem người Mỹ có cùng họ tái lập chiến tranh trên quê hương mình nữa hay không; nhưng "bãi chiến trường VN" không còn có lợi cho nước Mỹ... Mỹ đã không đáp lại những thăm dò của nhóm này...Trong ngôn ngữ của nhóm này; họ gọi Mỹ là "đồng minh", là "bạn"...trong khi Mỹ luôn vì lợi ích của nước Mỹ, mà sẵn sàng giúp đỡ những kẻ gian để xâm hại đến tinh thần dân tộc tự quyết của những quốc gia nhược tiểu...

Thành phần thứ ba: Thành phần còn lại; đây là thành phần đồng bào đông đảo. Họ không có lực lượng quân sự đúng nghĩa. Họ sống ở cả hai miền: Nam và bắc. Đa số trong thành phần này bị cuốn hút vào hai thế lực trên. Giới trí thức, sĩ phu…xuất thân từ thành phần này đều bị tiêu diệt bằng nhiều cách, bởi hai thành phần trên!

Giới sĩ phu trong thành phần dân tộc; họ không đồng ý với việc làm và đường đi của hai thành phần kia. Họ không lấy: “Lý tưởng hay chủ nghĩa. Kinh tế hay chính trị, chiến lược…toàn cầu” làm “cứu cánh” để “biện minh cho phương tiện” làm tay sai cho ngoại bang. Rước voi Nga, Tàu, Pháp, Mỹ về dày mả Tổ. Như; vua Lê Chiêu Thống đã cõng rắn cắn gà nhà!

Nếu “nguỵ” xuất thân từ Việt gian thì; bên nào là Việt gian? Bên nào là Nguỵ? Bên này, hay bên kia? Hay cả hai bên đều là Việt gian? Cả hai bên đều là Nguỵ? Điều này; có một ngày, lịch sử của dân tộc sẽ xác định thật rõ ràng, minh bạch...

Ngừng lại uống miếng trà, bà Tám tiếp:

- Sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, người Cộng sản đã đổi tên nước mình là:

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc


Một tên nước dài ngoằng, luộm thuộm và phần trên, nghe thì thấy là Cộng Sản. Phần dưới thì không và lại có hơi hướm của Tam Dân Chủ Nghĩa(?): Dân Quyền - Dân Sinh - Dân Tộc của Tôn Văn - Tôn Dật Tiên. Vì:

Dân Tộc: Độc lập.

Dân quyền: Tự do.

Dân sinh: Hạnh Phúc.

Nhìn vào tên nước, thì thấy rằng; sự "pha trộn" (?) giữa nền tảng của hai chủ nghĩa - Cộng sản chủ nghĩa và Tam dân chủ nghĩa - tuy không hài hòa. Nhưng có lẽ họ đã không còn là những người Cộng sản sắt máu thuần tuý nữa, nên sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975; đồng bào miền nam đã không bị tàn sát thảm thương như đồng bào miền bắc trước đây, hay như cuộc tàn sát ghê tởm ở Căm Bốt, hoặc như những quốc gia bị CS chiếm đóng hồi mấy mươi năm trước...Đúng là hồn thiêng sông núi đã phò trợ cho dân tộc mình...

Bây giờ; đã gần hai mươi năm, sau ngày ba mươi tháng Tư đó và cũng đã hơn bốn năm sau ngày chủ nghĩa CS bị sụp đổ ở Nga và những nước CS chư hầu. Chủ nghĩa CS bây giờ như “cái bao tải” cũ, rách, dơ bẩn và những người CSVN xưa; giờ như những “Ông bình vôi” của Phan Khôi ngày trước. Cái bao tải cũ rách, dơ bẩn đó đang bao bọc những ông bình vôi này, trong đền thờ nào đó ở quê hương mình…và nhóm Việt gian theo Pháp hầu hết đã quá vãng. Nhóm Việt gian theo Mỹ đã hầu như vô vọng...

- Má nói gì? Con không hiểu. Ông bình vôi và ông Phan Khôi là ai?

Hiếu chận lời mẹ. Trong khi bà Tám đang như một người đã ôm nhiều nỗi uất ức lâu ngày, không nơi giải bày và không biết rằng; người đang nghe không đủ hiểu biết để nghe. Bà Tám thở dài, tự trấn tỉnh mình và nói:

- Ông Phan Khôi là một nhà văn kháng chiến chống Pháp, sống cùng thế hệ với ông nội con. Truyện “Ông Bình Vôi” của Phan Khôi hàm ý: Ngày xưa; trên mọi miền của đất nước mình. Người mình có tục ăn trầu. Mâm trầu, cau trong đó có bình vôi - vôi ăn trầu - luôn được đặt giữa bàn của mọi người, mọi giới. Mỗi khi họ gặp nhau, bất luận về chuyện gì; luận bàn văn thơ, luận bàn chính trị hay chuyện vãn…v...v...đều có mâm trầu, cau và bình vôi này. Cái bình vôi được Phan Khôi nhân cách hoá thành: “Ông bình vôi”! Vì bình vôi ăn trầu đã là một “nhân vật khả kính, khả tín”. Đã luôn luôn được “trịnh trọng mời” đến và “ngồi” vào vị trí đặc biệt - giữa bàn - để “chứng kiến” mọi điều, mọi việc. Khi bình vôi đã cũ, bể…Người ta vẫn "tôn trọng" và không liệng "các ông ấy" vào "đống rác"; mà đem đến, để gọn vào một nơi, trong một cái miễu hay đền thờ nào đó...

Chủ nghĩa CS đã sụp đổ và đã trở thành cái bao tải nhớp nhúa kia; giờ chỉ dùng để bao bọc những "ông bình vôi" cũ, bể…trong một đền thờ. Phe CSVN hụt hẫng; không còn nơi để bám víu. Hoàn cảnh này; khiến họ ngày nay càng ngày, càng đi gần về phía dân tộc hơn đối phương của họ. Họ dĩ nhiên không còn là CS nữa. Họ chỉ là một nhóm người độc tài và đang tạo ra những vấn nạn khủng khiếp về tệ nạn xã hội trên quê hương mình mà thôi...


- Con nghĩ; ông nội là một người yêu nước. Má kể cho con nghe về ông nội đi má. Hiếu đề nghị với mẹ.

Bà Tám cảm thấy như nhẹ hẳn người, khi đã nói ra được những gì mình muốn nói. Bà cũng cảm thấy vui, khi thằng Hiếu nãy giờ vẫn chăm chú lắng nghe. Lúc thì nhíu mày, nhăn mặt. Lúc thì trợn mắt tức tối. Bà rất hứng thú khi dạy con mình về văn hóa và lịch sử, của quê hương mình…

- Ờ…ông cố nội của con gốc người miền bắc trung phần. Vào đầu thế kỷ thứ mười chín. Ông theo đoàn quân chống Pháp của ông Hoàng Hoa Thám. Trong trận đánh úp thành Hà Nội, không thành. Ông chạy thoát vào thành Gia Định. Pháp và Việt gian vẫn truy đuổi. Ông chạy về miền Lục tỉnh; thay tên đổi họ. Ông cố gặp bà cố ở miền Lục tỉnh này....

Lúc đó; ông cố đã gần bốn mươi. Khoảng hai năm sau; Bà cố sanh ông nội của con. Nhưng lúc đó; ông cố không có ở nhà. Ông cố đã trở lại hàng ngũ kháng chiến. Khi ông nội con được ba tuổi; thì bà cố nghe tin: Việt gian đã ám sát ông Hoàng Hoa Thám. Bà cố lo sợ cho ông cố. Nhưng mấy tháng sau; ông cố bình yên trở về gặp lại bà cố và ông nội của con…

Ở nhà không được bao lâu. Ông cố lại ra đi lần nữa. Lần này, cũng như lần trước. Khi đi; ông cố vẫn dặn bà cố là: Nếu ông không trở về; thì nhớ nuôi dạy đứa con trai duy nhứt của ông cố - tức là ông nội của con - trở thành người yêu nước. Đừng để ông cố thất vọng. Ý của ông cố là: Ông nội con khi lớn lên; nếu còn giặc Pháp trên quê hương mình, thì ông nội phải đứng trong hàng ngũ của dân tộc, để chống ngoại xâm…và lần này; quả thật! Ông cố đã vĩnh viễn ra đi. Những người cùng chí hướng với ông cố; có người thoát hiểm trở về, báo tin cho bà cố, là: Ông cố đã bị xử tử cùng với một số đông chiến sĩ cách mạng, trong đoàn quân của hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên. Khi đoàn quân này đi đón vua Duy Tân vào Quảng Nam; để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa...

Cơ mưu không thành. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị xử tử vào cuối năm 1916; trong đó, có ông cố của con. Còn vua Duy Tân thì bị bắt ngay khi vừa ra khỏi hoàng thành; rồi bị giặc Pháp đày đi viễn xứ…Ông cố thành người thiên cổ khi ông nội con mới hơn sáu tuổi...

- Nhưng tại sao người Pháp lại đến và đánh chiếm quê hương của mình? Con đọc sách thấy họ nói: Họ đến để buôn bán và truyền đạo thôi mà má. Hiếu ngắt lời mẹ.

- Đó là cái cớ, họ nói cho sự có mặt của họ, trong âm mưu xâm lăng các nước nhược tiểu…Họ nói: Họ đến để hợp tác buôn bán và truyền đạo – Nhưng thời đó; người da trắng như: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…Họ đang chia nhau đi khắp nơi trên thế giới, để đánh chiếm thuộc địa. Thí dụ như nước Úc mình đang ở cũng là thuộc địa của Anh. Người Anh đã đánh chiếm nước này; người Pháp đã đánh chiếm Việt Nam... Nhưng mình thì cuối cùng đuổi được người Pháp; còn người thổ dân ở đây thì không đuổi được người Anh…

- Họ truyền đạo gì vậy má?

- Họ truyền đạo Thiên Chúa. Dân tộc mình mới biết đạo Thiên Chúa đây thôi. Từ sau khi giặc Pháp đến và đô hộ xứ mình…

- Vậy trước khi giặc Pháp đến xứ mình; dân mình không có ai biết đạo Công giáo hết. Rồi dân mình có đạo gì không má?

- Phong tục lâu đời của dân tộc mình là: Thờ cúng ông bà, tổ tiên. Thờ trời, thờ đất…Cổ xưa thì có Lão giáo, Nho giáo đến từ Trung Hoa. Sau rồi đến Phật giáo. Rồi Công giáo…Con coi lại sách vở thì rõ hơn…

- Dạ! Mà má kể tiếp về ông nội đi má. Hiếu vừa nói, vừa rót trà vô ly cho mẹ:

- Ờ…khi ông cố qua đời thì ông nội con mới hơn sáu tuổi. Ông nội đã sanh ra và lớn lên trong thời giặc Pháp đang cai trị xứ mình bằng bạo lực vô nhân. Ông chứng kiến nhiều cảnh tang thương, đau lòng của dân tộc, của quê hương mình...

Trong chánh sách chia để trị. Giặc Pháp chia đất nước mình ra làm ba phần: Nam, trung và bắc; rồi tuyên truyền để ba miền kỳ thị lẫn nhau, đừng đoàn kết với nhau…Họ muốn ba miền này phải đánh lẫn nhau nữa; để bớt để ý đến việc làm của họ, để họ dễ dàng cai trị mình…Họ thành lập đội quân Lê Dương, Lính Khố xanh, Khố đỏ…toàn người Việt để bắn giết người Việt. Y như khối CS có đội quân CSVN vậy…Bà cố kể rằng: Khi dân mình nghe tin ông Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang bên Tàu để tự vận; thì ông nội con khóc ngon lành và từ đó buồn bã, ít cười, ít nói. Lúc đó; ông nội con chưa đầy mười lăm tuổi…

- Ông Phạm Hồng Thái là ai mà con nghe quen quá vậy má?

- Con mới vừa đọc đó, mà đã quên rồi sao? Thôi để má nhắc lại…Ông Phạm Hồng Thái là người của Việt Nam Quang Phục Hội (VNQPH) do cụ Phan Bội Châu đứng đầu. Cụ Phan là một người thầy khả kính của dân tộc mình. Cụ là người khởi xướng ra phong trào Đông Du trong thời kháng chiến chống Pháp…Khi VNQPH được tin là; có một quan lớn của Pháp, tên Méclin, (Martial Merlin - Toàn quyền Pháp tại Đông dương) tới đất Quảng Châu bên Tàu; để dự tiệc do Pháp kiều khoản đãi tại một khách sạn (Khách sạn Victoria) ở Sa Diện. Cụ Phan quyết định ám sát viên quan lớn này; để đánh mạnh vào lòng yêu nước của đồng bào và cũng để nói lên ý chí bất khuất của dân VN…

Ông Phạm Hồng Thái là người lãnh trách nhiệm này. Ông giấu trái bom trong bao đựng máy chụp hình và giả làm phóng viên, len lỏi vào khách sạn để ném bom vào bàn tiệc của Méclin. Toàn quyền Méclin không chết, nhưng nhiều người khác chết tại đó. Ông Phạm Hồng Thái thi hành xong nhiệm vụ; nhanh chóng chạy ra ngoài để thoát thân. Giặc đuổi theo; ông vừa chạy vừa bắn trở lại. Khi hết đạn, ông nhảy xuống sông tự tử, để không lọt vào tay giặc…Ông được sự ngưỡng mộ và kính phục của dân Trung Hoa các giới...

Qua năm sau. Ông Hồ Hán Minh (Tỉnh trưởng Quảng Châu [Hồ Hán Dân?]) là một chánh khách uy tín của Trung Hoa thời đó; đã tranh đấu để mộ của liệt sĩ Phạm Hồng Thái được cải táng vào Hoàng Hoa Cương. Một nghĩa trang chỉ dành riêng cho bảy mươi hai liệt sĩ Trung Hoa đã hiến thân cho cuộc cách mạng Tân Hợi, năm 1911…

- Dạ! Con nhớ ra rồi…Hiếu nói.

- Cũng trong năm này; ông nội con muốn đi theo nghĩa quân chống Pháp. Nhưng ông sợ bà cố không cho phép, vì còn quá trẻ - Ông nội đã trốn bà cố để đi tìm những người cùng chí hướng với ông cố hồi trước. Dịp này; ông nội con được đi khắp đất nước mình. Có dịp để xem tòa án xử ông Phan Bội Châu và cũng được nghe cụ Phan Chu Trinh từ pháp về diễn thuyết hai lần, tại Saigon…

Nhưng đau khổ nhứt vẫn là lần ông nội chứng kiến cảnh đội quân Lê Dương bao chung quanh pháp trường, rồi dắt ông Nguyễn Thái Học cùng mười hai đồng chí của ông ra chém tại Yên Bái. Ông nội nói: Ông Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng nhằm đấu tranh bằng võ lực với thực dân Pháp, để giành lại độc lập cho đất nước mình. Ông là một trong những anh hùng của dân tộc VN, thời kháng Pháp...

- Nhưng VNQDĐ được thành lập theo khuôn mẫu của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Vậy VNQDĐ có tự chủ được không má? Hiếu lại chận lời mẹ.

- THQDĐ có giúp VNQDĐ để chống giặc Pháp tại VN thời đó. Nhưng tự chủ được hay không thì chưa rõ ràng. Vì; tất cả đều tuỳ thuộc vào một chữ "nếu":

1/ Nếu THQDĐ không bị Cộng Sản đẩy lùi ra đảo Đài Loan mà vẫn nắm giữ chánh quyền tại Trung Hoa lục địa thêm mấy mươi năm nữa...và:

2/ Nếu ông Nguyễn Thái Học không bị giặc Pháp giết và VNQDĐ nắm được chánh quyền tại VN thì có tự chủ được hay không, vẫn là một dấu chấm hỏi để suy gẫm và thực tế đã không như vậy. Vì: THQDĐ đã thua CS và chạy ra đảo Đài Loan. Ông Nguyễn Thái Học đã chết và VNQDĐ đã không nắm được chánh quyền. Cái chết của ông Nguyễn Thái Học - cùng mười hai đồng chí của ông - đã giữ được tiếng thơm trong lịch sử chống Pháp của dân tộc mình cho đến ngày nay...ngừng lại uống miếng trà; bà Tám tiếp.

- Ông nội của con nhờ được sự giới thiệu của những người đi trước, nên đã gia nhập vào VNQDĐ rất sớm và cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái có sự tham dự của ông nội con. Nhưng; một số người may mắn thoát hiểm trong cuộc khởi nghĩa này, có ông nội của con…

Trước khi cuộc khởi nghĩa xảy ra; ông nội đã được tin là, bà cố đang đau nặng. Mà tình hình lúc đó, đang hồi gay go. Ông nội không về được. Bây giờ là dịp để ông nội về thăm bà cố; thăm quê cũ, đã năm năm xa cách…

Vậy mà; thêm năm năm nữa, ông nội mới về tới quê xưa và đã bị bán thân bất toại. Bởi trên đường về; ông bị bắt nhiều lần. Giặc Pháp bắt ông vì nghi ngờ ông là Việt Minh, hay VNQDĐ. Việt Minh bắt ông vì nghi ngờ ông là VNQDĐ, hay Việt gian cho Pháp. Ông bị cả hai bên đánh đập, tra khảo đến bán thân bất toại.

Rồi cuối cùng; ông cũng gặp được mẹ già, quê cũ sau mười năm bôn ba, lưu lạc…Ông nội trở thành người tàn phế từ đó. Mấy năm sau; bà nội về ở với ông vì cảm thương cho người nghĩa sĩ đã sớm phải bó gối trong tuổi thanh xuân, đang ôm mộng góp sức giành độc lập cho tổ quốc. Ông nội mở lớp dạy học cho trẻ em ở lối xóm và những khu lân cận. Ông dạy học miễn phí; mà được người ta biếu tặng quà cáp, đồ vật nhiều hơn là dạy học lấy tiền…

Khi má về làm dâu cho ông bà nội của con; thì ông nội đã ngoài sáu mươi. Trong nhà nội; ngoài bàn thờ ông bà, tổ tiên, còn có bàn thờ vong linh ông Nguyễn Thái Học…Ở tuổi già; ông nội thường trầm ngâm nơi hai bàn thờ này, để cầu nguyện hoà bình cho quê hương, bình yên cho đất nước. Thời gian này; ông nội giống như người tu tại gia hơn…

Sau khi chú Mười chết; ông nội đã đoán biết là phe CS sẽ thắng trong cuộc chiến này và ông cầu nguyện cho quê hương mình, sẽ trở thành vùng đất “bất chiến tự nhiên thành” nếu không may, miền nam lọt vào tay CS. Bởi ông thấy trong lịch sử cận đại của dân tộc mình luôn chiến tranh; chưa một thời gian ngừng nghỉ, để tái thiết đất nước. Trong khi cuộc chiến nào, cũng đưa đến sự điêu tàn, tang tóc…

- Tại sao lại là "nếu không may" và; bất chiến tự nhiên thành nghĩa là gì má?

- Vì khi CS thắng; gia đình của những người ở miền nam ra sao, thì con đã rõ. Còn nếu phe CS bị thua; thì đồng bào miền bắc sẽ bị giống như mình. Tức là; sẽ có một bên bị thua và đồng bào nằm bên phía bị thua sẽ gánh chịu tất cả đau thương, thống hận của thời hậu chiến. Bên nào thắng; thì quê hương của mình cũng đều đã tan nát, cũng cần cái "bất chiến tự nhiên thành" này. Vì; tinh thần dân tộc của thành phần dân tộc như má đã nói hồi nãy. Còn bất chiến tự nhiên thành là: Đi tới thành công, mà không cần dùng tới võ lực của chiến tranh. Bởi đất nước mình đã điêu tàn rồi...Ý của ông nội là; bên nào thắng, thì bên đó sẽ tự mất đi mà mình không trực tiếp dùng tới sức mạnh của quân đội. Không gây chiến tranh, máu lửa…Hoặc là họ sẽ hồi tâm và tự dẹp bỏ chế độ của mình… Vì: Nếu nhân loại đã chạy nạn Cộng Sản từ năm 1917; thì nhân loại cũng đã chạy nạn quân phiệt - độc tài - từ trước đó, cho đến bây giờ và mãi về sau nữa...với ông nội của con, thì: Mọi chế độ phi nhân, phi nghĩa đều có giai đoạn. Dân tộc là trường tồn. Họ sẽ phải trả lại cho dân tộc những gì thuộc về dân tộc…

- Con có gặp một người; người này mới từ VN qua đây du học. Con thấy người này cũng lấn cấn như má nói hồi nãy và không có dấu hiệu hồi tâm…

- Với má thì: Bất cứ chủ nghĩa nào, lý tưởng nào; cho dù tốt đẹp tới đâu đi nữa. Mà chỉ vì muốn thực hiện chủ nghĩa, hay lý tưởng đó; để gây nên một cuộc chiến tranh điêu tàn, tang tóc cho quê hương, dân tộc mình, suốt mấy chục năm như vậy, cũng đều là phi nhân, là phi nghĩa…Sau khi vượt biển; ra được nước ngoài. Thấy đất nước người ta; má đau khổ vô cùng! Vì nhìn lại sự điêu tàn của quê hương, tổ quốc mình. Đồng bào của mình đang sống trong tăm tối, nghèo nàn…

- Tại sao lá cờ vàng ba sọc đỏ lại gọi là cờ ba que? Hiếu hỏi mẹ.

- Lá cờ này cũng có vài điều lấn cấn: Thổ ngữ của đồng bào miền bắc dùng cụm từ “ba que - xỏ lá” để ám chỉ những thành phần xấu trong xã hội. Họ có thể nói ngắn gọn như; “quân ba que, quân xỏ lá” hoặc “thằng ba que, thằng xỏ lá”… để nói về thành phần xấu này. Theo ông nội của con thì cụm từ “ba que xỏ lá” này đã theo đồng bào miền bắc vào nam năm 1954 (?). Trước đó, có nhiều đợt di cư khác - nhỏ hơn, của đồng bào miền bắc, miền trung - vào nam và thời đó chưa có cụm từ này…Như thế; cụm từ và lá cờ này đã xuất hiện cùng một thời gian và người CSVN đã dùng "cụm từ tượng hình" này để đặt tên cho lá cờ vàng ba sọc đỏ? Vì ba cái sọc đỏ là ba cái "que". Que; trong nam gọi là cái cây nhỏ: như cái roi...

Nghe đâu sau thời chính phủ Trần Trọng Kim dưới triều Bảo Đại đã có lá cờ này vốn rất giống với lá cờ Quẻ Ly trước đó..."Tinh Thần Quốc Gia" (TTQG) cũng được phát động mạnh mẽ trong thời gian này. Mặc dù (những) người chính yếu phát động TTQG đã bị đào thải ngay sau đó - một thời kỳ cực kỳ rối loạn (1945-1954) - nhưng TTQG vẫn được duy trì để làm nền tảng cho "Lý Tưởng Tự Do"; nhằm trang bị "danh nghĩa" cho nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ sau này...

Màu đỏ là màu chiến thắng; ngoài ý nghĩa đó “hai nước VN” đều lấy biểu tượng da vàng máu đỏ để làm cờ. Nhưng ở miền nam; tại sao không là một dòng máu mà lại là ba “giòng” máu đỏ trong màu da vàng? Ba dân tộc? Ba giống dân? Họ chỉ giải thích đơn giản là; ba miền: Nam, trung và bắc…Thành phần dân tộc không khỏi hoài nghi về ý đồ của giặc Pháp, Mỹ và Việt gian muốn tiếp tục gây chia rẽ dân tộc VN. Ý đồ đó được Việt gian tán trợ mà mới có lá cờ này. Giặc Pháp cho rằng: Mảnh đất miền nam do các đời chúa Nguyễn chiếm được, thì họ cũng có thể chiếm lại từ tay người VN và họ đã làm, nhưng cuối cùng không được...

Dù thế nào đi nữa; lịch sử dân tộc cũng sẽ ghi công của người CSVN vì họ đã chấm dứt được ách thống trị của thực dân Pháp trên quê hương mình trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 và năm 1975, họ đã thống nhất được đất nước. Nếu không, thì bây giờ vẫn đang có hai nước VN và đất nước mình có thể sẽ bị chia cắt lâu dài và cuộc chiến tương tàn sẽ kéo dài mãi mãi…và dù sao thì quê hương, dân tộc mình cũng đã có được hai điều may mắn sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, đó là:

Thứ nhất: Người CSVN đã thống nhất được đất nước và chủ nghĩa CS vừa kịp suy tàn sau đó, để người CSVN có cơ hội lột xác mà trở về với dân tộc.

Thứ hai là: Chiến tranh thật sự đã chấm dứt, hòa bình thật sự đã đến trên quê hương mình sau những năm dài điêu tàn, tang tóc, chia ly...mặc dù sau ngày thống nhất đất nước [30/04/1975], nhóm Việt gian theo Mỹ đã cố gắng hết sức cho việc tái lập chiến tranh trên mảnh đất VN đau khổ này...nhưng hồn thiêng sông núi đã phò trợ dân tộc mình và...nhóm này đã không được toại nguyện...

Bé Hoài đã thức; đang ọ ẹ trong nôi. Bà Tám đứng dậy; đưa một tờ báo khác cho Hiếu và nói:

- Con đọc thêm bài thơ này; để má đi thay tã và làm bình sữa mới cho em.

Hiếu cầm tờ báo; nằm dài trên cái salông và đọc:


QUÊ HƯƠNG TÔI (3)

Quê tôi nay đã xa rồi
Làng tôi nay đã tơi bời đau thương
Bao nhiêu máu lệ đã vương
Đắng cay tủi nhục vẫn đương lan tràn
Quê tôi tan tác ngỡ ngàng
Dân tôi ngơ ngác bẽ bàng chơi vơi
Trăm cơn bão tố cuộc đời
Ngàn cơn bỉ cực chẳng hồi thái lai
Chỉ là trường khúc bi ai
Để là như thuở bán khai điêu tàn
Như gi vỡ tổ gọi đàn
Như đêm hụt hẫng bước chân muộn phiền
Tìm đâu một thoáng bình yên
Lấy đâu chứa hết oan khiên căm hờn
Khởi đi từ buổi hoàng hôn
Tình yêu đã hóa nỗi hờn thiên thu
Quê tôi đã hóa ngục tù
Dân tôi đã nhận kiếp tù đau thương
Triệu người lê kiếp tha phương
Bao người gởi xác đại dương , rừng già
Sống đời không cửa không nhà
Không cơm, không áo, không ra hồn người
Không đang sống kiếp con người
Chỉ là chồng chất đầy vơi hận thù
Chập chờn giấc ngủ vào thu
Nhạt nhòa nhân ảnh mù mờ cố hương
Nghẹn ngào hai chữ quê hương
Ngậm ngùi một mảnh quê hương Lạc-Hồng
Nhớ hàng dừa rũ ven sông
Hàng cau cao vút giữa trong sân nhà
Vườn rau với bóng mẹ già
Ao bèo vịt lội đàn gà loanh quanh
Con trâu với lúa ruộng xanh
Cò bay thẳng cánh đất lành phù sa
Con đò xuôi mái xa xa
Mặt trời ngả bóng chiều tà thanh thanh
Tiếng hò bên mái nhà tranh
Ầu ơ quyện với âm thanh võng chiều
Gió hiu hiu, tiếng sáo diều
Nhớ quê ai chẳng chín chiều ruột đau
Cuộc đời cay đắng bể dâu
Quê hương tan nát còn đâu nữa nhà
Giập vùi những trận phong ba
Nghĩ mà càng tủi phận ta , phận người
Lang thang khắp đất nước người
Thêm đau nỗi khổ của người Việt Nam
Ngậm ngùi một kiếp gian nan...


Đọc xong; Hiếu chợt hỏi mẹ:

- Nếu năm bảy chục năm nữa; Việt Nam mới có sự thay đổi thì sao má?

- Thì má sẽ đau khổ vô cùng. Bởi vì; má con mình đâu có lỗi gì, mà phải đi biệt xứ và chết trên mảnh đất không phải quê hương của mình. Nếu như vậy; má chỉ ước nguyện rằng: Sau khi đi tới cuối đoạn “cầu tre lắc lẻo” của cuộc đời. Má muốn được về gần bên nội, ngoại. Về…

- Bây giờ; con thấy có nhiều người về VN lắm mà má? Hiếu chận lời mẹ.

- Riêng má thì không và má biết chắc chắn rằng; ông bà nội ngoại cũng sẽ không bao giờ trách má. Má chỉ về, khi không còn những kẻ đã làm mình phải chạy đi. Ý má muốn nói đến những người chính yếu, lãnh đạo cuộc chiến tranh phi nghĩa này, ở cả hai bên. Má không muốn nói đến những người; vì lý do này, hay lý do khác…mà can dự vào hai thế lực đó. Miễn là họ biết hồi đầu về phía dân tộc.

Hiếu chợt giựt mình và tự trách: Mình đã hỏi mẹ, câu hỏi mà mình không nên hỏi. Đôi khi; có những câu hỏi, không nên hỏi. Mà chỉ nên tự tìm hiểu mà thôi! Nhìn hai mắt mẹ đã đỏ hoe. Hiếu tìm cách đưa câu chuyện về hướng khác:

- Việt Nam mình; hồi trước chỉ có miền trung và miền bắc thôi hả má?

Ngừng lại giây lâu; để cơn xúc động nguôi dần và cũng để nói sao cho vắn tắt, gọn gàng, dễ hiểu cho con. Bà Tám nói:

- Ờ…Ở thời kỳ suy bại cuối đời nhà hậu Lê. Mạc Đăng Dung thừa cơ cướp ngôi vua; lập nên nhà Mạc, được mấy mươi năm. Họ Trịnh và họ Nguyễn đứng lên phò nhà hậu Lê, đánh nhà Mạc. Họ Trịnh ở “đàng ngoài” - miền bắc VN. Họ Nguyễn ở “đàng trong” - miền trung VN. Lúc đó; nước mình chưa có miền nam. Cuối cùng thì họ Trịnh diệt được nhà Mạc; đưa con cháu nhà hậu Lê trở lại ngôi vua. Nhưng chỉ là vua bù nhìn thôi! Quyền binh nằm hết trong tay hai họ Trịnh và Nguyễn. Hai họ này đều lấy việc phò vua Lê, mà tranh quyền lẫn nhau. Hai họ đều xưng Chúa ở hai đàng. Thời này gọi là: Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ở thời này; nước mình mới có tới đất Bình Định mà thôi. Các đời Chúa Nguyễn vì đánh nhau với Chúa Trịnh; mà chiếm luôn mảnh đất còn lại của Chiêm Thành - Miền trung ngày nay. Lấn dần xuống miền nam. Sử sách ghi chép: Đây là sự nghiệp mở mang bờ cõi, của Chúa Nguyễn…Dân Việt mình theo các đời Chúa Nguyễn mà xuống tận Cà Mau. Chúa Nguyễn đã không đánh chiếm toàn bộ mảnh đất miền nam – Như miền Thuỷ Chân Lạp, chẳng hạn. Dân Việt tự kéo xuống để khai khẩn đất hoang và vua Chân Lạp đã nhường phần đất này cho Chúa Nguyễn…Cuối thời Trịnh Nguyễn phân tranh; nước mình được nối dài thành hình chữ S như ngày nay…

Bé Hoài đã ngủ trở lại. Bà Tám nhẹ nhàng đặt bé xuống nôi. Hiếu ngồi yên lặng bên chồng sách, báo và cái computer đang mở. Hiếu nhìn vào màn ảnh và đọc lại những gì mình đang viết…Hiếu đang viết lại đoạn đầu bài thơ của cha mình và dùng computer để làm ra trong dạng của một quyển sách, cỡ nhỏ hơn cuốn tập học trò.

Đoạn đầu của bài thơ này gồm hơn bốn trăm câu, làm theo thể lục bát. Bắt đầu từ thời Bách Việt, con cháu của vua Thần Nông. Đây là một bài thơ sử và đoạn đầu này viết đến đời hậu Lê, với vua Lê Lợi. Một bài thơ thuần tuý viết về lịch sử dân tộc VN và có tựa đề là: "Trường ca; Lời Ru Của Mẹ". Hiếu nhìn bốn chữ Lời Ru Của Mẹ. Chữ Mẹ…chắc cha mình muốn nói là Mẹ VN. Nhưng bốn chữ này vẫn làm cho Hiếu nhớ đến lời ru của chính mẹ mình. Văng vẳng trong tiềm thức. Nhứt là ba tháng “nghỉ ngơi” ở nhà này. Hiếu vẫn nghe thấy lời ru, câu hò của mẹ…Cũng như Hạnh; câu ca, giọng hò của mẹ gây nhiều cảm xúc cho Hiếu. Hiếu cảm thấy yêu quê hương; nhớ nhà xưa, xóm cũ của mình. Cũng trong vùng ký ức thăm thẳm đó; Hiếu vẫn nhìn thấy lờ mờ, những tháng ngày còn sống ở quê nhà với bà nội. Với khóm trúc, hàng cau. Với vườn rau, ao cá. Với đàn gà vịt lăng xăng trong sân nhà…

Tất cả những hình ảnh yêu thương đó giờ chỉ còn có thể thấy lại trong tâm tưởng! Tất cả đã nằm trong một trời quá khứ mịt mờ. Nhưng những hình ảnh đó vụt trở nên sống động khi Hiếu nghe được giọng hò của mẹ ru bé Hoài trong những buổi chiều tàn, nhạt nắng…

Ông bà ngoại của Hiếu đã qua đời trước khi mẹ Hiếu về làm dâu cho ông bà nội…Cả một đời; Hiếu chỉ được gặp cha có mấy lần. Nhưng không nhớ rõ; vì còn quá nhỏ. Ông nội thì qua đời khi Hiếu mới sanh. Chỉ có bà nội là gần gũi nhiều với Hiếu, cho tới khi theo mẹ vượt biên và; bà nội cũng đã qua đời khi Hiếu đã ở Úc được độ ba năm. Hiếu nhớ nội! Hiếu nhớ những buổi chiều; hai anh em ngồi nghe nội kể chuyện xưa, tích cũ…

Dạo đó ở VN. Bà nội và mẹ Hiếu không đồng ý về nhiều điểm trong sách giáo khoa của chế độ mới. Anh em Hiếu không đi học ở trường; mà chỉ học ở nhà, do mẹ dạy. Bà nội cũng dạy cho anh em Hiếu về chữ quốc ngữ. Nội cũng kể nhiều về lịch sử cận đại và quê hương mình...

Hiếu miên man nghĩ về giòng họ nội của mình…Rồi tiếp tục công việc đang làm dở dang từ mấy tuần nay…


CHƯƠNG KẾT


Hôm nay là thứ Bảy; gia đình bà Tám làm tiệc sinh nhật ba tuổi cho bé Hoài. Bữa tiệc hôm nay trở nên vui vẻ hơn; vì tuần trước, Hiếu đã hoàn tất khoá học sửa chữa computer và sắp nhận việc làm. Còn Hạnh đang học năm thứ hai đại học Sư phạm tại Sydney đã được mấy tháng.

Sinh nhật bé Hoài đúng ra là vào thứ Ba tuần tới. Nhưng gia đình chọn hôm nay làm tiệc cho bé. Đây là tiệc sinh nhật đầu tiên của bé Hoài. Bởi bà Tám nghĩ rằng; năm nay, bé mới có thể nhận thức được, về ý nghĩa của bữa tiệc mà gia đình đang làm cho bé. Mấy năm nay; bé là nguồn vui của mọi người trong nhà. Bé nhận được nhiều tình thương từ mọi phía; cha mẹ, anh chị…Hôm nay; bé mặc đồ đẹp, vui cười lăng xăng trong khi mọi người lo dọn đồ ăn lên bàn, với cả quà và bánh sinh nhật của bé nữa. Bé được mọi người vỗ tay vừa cười, vừa hát bài Happy Birthday cho bé. Bé được thổi ba cây đèn cầy trên bánh sinh nhật. Bé được chụp rất nhiều hình để kỷ niệm bé lên ba; nhứt là khi mở quà…Dĩ nhiên; bé có rất nhiều nét giống dượng. Nhìn dượng; Hiếu thấy có dáng dấp của một nghĩa sĩ, chịu bó tay vì thời cuộc…

Sau bữa tiệc; dượng đề nghị với mẹ Hiếu một việc. Một việc mà bà Tám cảm thấy kỳ kỳ, khó nghĩ. Dượng nói: Hôm nay; bé Hoài đã được ba tuổi rồi, mà dượng và má vẫn chưa có ngày vui chánh thức. Ý của dượng muốn nói đến ngày đám cưới của dượng và bà Tám.

Việc này đã làm cho bà Tám khó nghĩ. Bà nghĩ: Việc này có một điều gì không ổn. Năm nay bà đã bốn mươi lăm. Tuổi mà người ta có cháu nội, cháu ngoại rồi, mà còn làm đám cưới. Thiên hạ cười chết!

Ở xứ này; chuyện đó là chuyện thường tình với người Âu Tây và cũng thỉnh thoảng xảy ra với cả người mình trong thời gian gần đây. Ở đây và ở hoàn cảnh này; chuyện đúng, sai chẳng mấy ai đặt ra. Nhưng vấn đề là bà vẫn cảm thấy ngượng ngùng với chính bà; với con cái và cả những người quen biết! Bà đem chuyện này bàn riêng với hai con. Cả hai đứa đều đồng ý với tất cả những gì bà đã nghĩ. Nhưng chúng cho rằng: Không tổ chức đám cưới cũng là điều không đúng…

Cuối cùng thì bà Tám cũng đồng ý tổ chức đám cưới. Nhưng; chỉ mời vài người bạn rất thân của dượng, rồi chỉ đặt một bàn tiệc duy nhứt tại nhà hàng và bà không mặc áo cô dâu trong ngày đám cưới. Dượng tỏ ra rất hài lòng về sự quyết định của bà Tám. Bởi vì với dượng: Đó chỉ là một kỷ niệm cho mọi người trong gia đình này; nhứt là bé Hoài. Còn dượng; thì Hiếu hiểu rằng: Bây giờ; trên đời này, không có gì đáng để vui, mà cũng chẳng có gì đáng để buồn trong quãng đời xa xứ của ông…

Hôm sau; cả nhà xúm lại xem hình sinh nhật của bé Hoài, chỉ không có dượng. Dượng đang đi đến nhà in, để in thiệp cưới. Dù rằng chỉ có vài chục thiệp thôi và đa số là gởi về VN; gởi như để thông báo. Nhưng ông vẫn muốn in cho thật đẹp, thật trân trọng…

Nhìn hình; bà Tám thấy mình đã già. Nhưng bà cảm thấy vui khi thấy trong hình, cả ba đứa con bà đều nhìn rất sạch sẽ và sáng sủa. Vết thẹo trên mặt thằng Hiếu đã mờ hẳn và cái răng gãy của nó đã được trồng lại…Đến nay; thì gia đình bà đã ở tại Úc được mười bốn năm và đây cũng là lần đầu tiên, bà chụp hình chung với các con, trong một mái ấm gia đình, mà bà cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Bà nhìn mãi những tấm hình này…

- Ủa! Bữa nay là Chúa Nhựt! Ngày mai là ngày anh hai đi nhận việc làm đó má. Hạnh đột nhiên nói.

- Ờ…con không nhắc, má cũng nhớ chớ bộ. Ngày mai là ngày đầu tiên đi làm trong đời thằng Hiếu mà làm sao má lại không nhớ. Bà Tám vừa trả lời Hạnh, vừa quay qua Hiếu. Bà nói tiếp:

- Lát nữa rảnh; con lo sửa soạn cho ngày mai nghe Hiếu. Ngừng bớt công việc thường ngày lại, để cuối tuần hãy làm. Mỗi ngày; sau khi đi làm về, con chỉ nên làm trễ lắm là chín giờ tối thôi, đặng ngủ sớm, chớ đừng thức khuya như mọi ngày. Công việc con đang làm còn lâu dài. Ờ…mà con làm tới đâu rồi Hiếu?

- Dạ…Con nghĩ...bữa nay, hay mai; con sẽ làm xong phần bài thơ con làm mất. Con dùng computer làm bài thơ của ba thành cuốn sách đẹp lắm má. Hễ rồi; con sẽ in ra thử một tập cho má coi…

Hiếu cõng bé Hoài trên lưng, đứng ở cửa phòng khách; vừa cười rất tươi, vừa nói với mẹ và Hạnh. Bà Tám hỏi:

- In ở đâu? Rồi tốn kém bao nhiêu con? Sao không để xong xuôi rồi hãy in…

- Đâu phải má! Cuốn sách in ra đặng ở nhà mình đọc, thì computer của mình làm được; chớ đâu cần phải đem đi đâu in. Cuốn sách nháp thôi mà…Computer bây giờ làm được tất cả những việc mà anh hai đang làm. Hạnh chận lời mẹ.

- Vậy hả con? Má đâu có biết. Đâu! Con làm mau rồi in ra một tập cho má coi nghe Hiếu?

Hiếu dạ rồi cõng em đi trở về phòng mình.

- Bữa nay mình nấu chè ăn đi má. Hạnh nói với mẹ.

- Con muốn ăn chè gì?

Chợt chuông điện thoại reo vang. Hạnh chạy nhanh đi cầm điện thoại. Bà Tám ngồi lại trong phòng khách một mình. Bà coi lại cuốn album dày cộm những hình ảnh của cả gia đình bà mới chụp hôm qua; nhân tiệc sinh nhật ba tuổi của bé Hoài.

- Má à! Dượng bị đụng xe rồi! Hạnh vừa chạy ra vừa nói, mặt xanh như tàu lá chuối, hai con mắt trợn tròn.

Bà Tám đứng bật thẳng lên, để rớt cuốn album xuống đất. Hai con mắt bà trợn dọc, sáng quắc. Bà nói như la lớn:

- Trời thần ơi! Rồi ổng sao rồi?

- Nghe nói đụng xe nặng lắm. Xe cứu thương đã chở dượng vô bệnh viện Liverpool. Hạnh nói rất nhanh.

Tiếng ồn ào của Hạnh và bà Tám, làm Hiếu ôm bé Hoài chạy ngược ra phòng khách. Hạnh nói cho anh hai mình nghe về sự việc vừa xảy ra. Hiếu để em bé xuống rồi mau lẹ đi lấy cuốn điện thoại niên giám; tìm số điện thoại của bệnh viện Liverpool. Hiếu chạy vô phòng, gọi tới bệnh viện...

Hạnh ẵm bé Hoài trên tay; nhìn mẹ. Bà Tám vẫn đứng như trong tư thế lúc đầu; đứng như pho tượng, không hề thay đổi, kể cả gương mặt. Hạnh nhìn mẹ; linh cảm một việc không lành kế tiếp.

Hiếu chạy trở ra phòng khách. Trừ bé Hoài; gương mặt mọi người đều giống như nhau là; tái ngắt. Hiếu la lớn:

- Dượng chết rồi!

Hạnh nhìn mẹ; mẹ đã linh cảm được vấn đề. Mẹ đã chảy nước mắt ra trước khi Hiếu nói và khi Hiếu vừa nói xong; thì Hạnh thấy mẹ mình như rụng rời tay chân, lưng như bị gù xuống và đã đột nhiên như già hẳn đi nhiều tuổi. Hiếu chạy lại đỡ mẹ ngồi lại xuống ghế.

- Má bình tĩnh lại đi má! Hiếu vừa nói, vừa đưa tay xoa nhẹ lên lưng bà Tám.

Hiếu và Hạnh đều khóc, luôn cả bé Hoài! Nhưng bà Tám không khóc. Bà ngồi bất động, không nói nửa lời. Mắt bà đăm chiêu nhìn vào một chỗ; như đang nhìn vào một khoảng nào đó, trong cõi hư vô, xa xăm vô tận…

- Bây giờ mình vô nhà thương nghe má? Hạnh hỏi mẹ.

Bà Tám không trả lời, vẫn ngồi yên bất động. Hạnh ẵm em bé lại ngồi bên cạnh mẹ; đưa tay nhẹ vén mái tóc đang lòa xòa rũ xuống che hết khuôn mặt của bà. Hạnh lặp lại câu hỏi vừa rồi:

- Mình thay đồ rồi đi vô nhà thương nghe má?

Hạnh vừa nói, vừa nhìn vào khuôn mặt của mẹ. Hạnh cảm nhận được nỗi đau tột cùng của mẹ. Bà Tám quay lại; nhìn Hạnh, nhìn Hiếu. Hạnh cảm thấy ánh mắt mẹ mình hơi lạ. Ánh mắt của một người có một cuộc sống bình yên và chưa hề trải qua một nỗi bi thương nào…

Rồi bà đứng lên; theo các con đi thay đồ và đón xe, cùng đi đến bệnh viện.


Hôm nay là ngày đưa dượng ra nghĩa trang. Trời đang giữa mùa đông; không gian lạnh buốt bao quanh một quang cảnh ảm đạm lạ thường. Gia đình bà Tám đã không thông báo cho bất cứ ai về sự ra đi của dượng. Đi theo xe tang; chỉ có duy nhất một chiếc xe của người láng giềng bên cạnh nhà. Người láng giềng này cùng đi theo và cũng là tài xế chở bốn mẹ con bà Tám đi tiễn đưa dượng đến nơi yên nghỉ cuối cùng.

Trong nghĩa trang; tất cả mọi người đều âm thầm, lặng lẽ! Không một tiếng khóc, cũng không ai nói một lời nào. Ngoại trừ bé Hoài với những câu hỏi vu vơ, thơ dại…

Cũng như mọi người; Hiếu đứng lặng thinh nhìn nơi an nghỉ ngàn thu của dượng. Hiếu cảm thấy xót xa cho một kiếp người…Cũng như vạn vật hiện hữu trên đời: Đã đến để đi. Đã hợp để tan. Đã không để có. Đã có để không…

Hiếu nhìn bé Hoài rồi bỗng thấy thương dượng. Dượng đã không chết ở chốn sa trường đầy máu lửa. Không chết trong ngục tù tăm tối, đau thương và bây giờ; dượng đã âm thầm nằm xuống. Âm thầm gởi nắm xương tàn nơi đất khách, quê người. Hiếu nhìn mẹ. Mẹ cũng vẫn lặng yên như từ sau khi nghe tin dượng chết. Bây giờ mẹ vẫn đứng đó, vẫn nhìn và không một giọt nước mắt trên mi.

Suốt gần năm năm dượng sống chung với gia đình Hiếu. Hình như; Hiếu chỉ thấy vài lần ông mỉm cười. Hiếu nhớ một lần mỉm cười của dượng, khi ông nhắc tới lần ông đi trình diện học tập cải tạo; dượng nói và mỉm cười: Dượng đã đóng tiền xin đi ở tù! Dượng nói chuyện nghe nhỏ nhẹ, truyền cảm. Dượng là người có nhiều tư cách của một anh hùng bị ngã ngựa; sống lủi thủi, lặng câm với tháng ngày còn lại của đời mình…

- Thôi! Mình về đi má!

Tiếng nói của Hạnh làm Hiếu giựt mình nhìn lại. Mọi việc hình như đã xong tự lâu rồi. Nấm mộ đã thành hình; dượng đã nằm sâu trong lòng đất lạnh. Chiếc xe tang và những người trong chiếc xe ấy cũng đã đi đâu mất. Chỉ còn trơ lại bốn mẹ con của Hiếu và hình như; mỗi người đều đang theo đuổi một suy tư của riêng mình. Quên về…

Hiếu nhìn ra xa xa; người láng giềng đang ngồi yên lặng trong xe chờ đợi. Hiếu bước đến dìu một bên tay mẹ và lặp lại lời của Hạnh:

- Thôi! Mình về đi má!



Hôm nay là lần thứ hai, anh em Hiếu đi thăm mẹ tại bệnh viện. Bây giờ mới chín giờ sáng; ở bệnh viện vắng hoe người. Đây là bệnh viện tâm thần; dành riêng cho những người mất trí, điên loạn, dại khờ…Bà Tám đã được đưa tới đây hơn ba tuần lễ trước.

Khoảng một tuần sau khi dượng qua đời. Vào một buổi tối; Hạnh phát giác mẹ mình không có ở trong nhà. Anh em Hiếu quýnh quáng chạy đi kiếm khắp nơi trong xóm; vẫn không thấy mẹ. Hiếu về nhà gọi điện thoại cho cảnh sát, nhờ họ phụ kiếm giùm…

Từ khi tới Úc; anh em Hiếu biết mẹ mình, sống một cuộc đời khép kín, ít giao thiệp với ai, nếu có, thì sự giao tiếp này rất chừng mực. Cho nên; suốt mười mấy năm nay, bà chưa từng đến chơi nhà ai…Anh em Hiếu; không ai nói với ai, cũng hiểu được rằng: Sự vắng nhà của mẹ; là một việc không bình thường. Hiếu đã không thể đi làm sau ngày nhận việc. Còn Hạnh phải tạm nghỉ học; để ở nhà coi em và cùng với anh mình, tìm mẹ…

Thời gian này; Hạnh đã sống và cảm nhận được sự “lắc lẻo” của cây “cầu tre” cuộc đời. Dù rằng; Hạnh mới ở đoạn đầu của nó…Rồi hôm qua; cảnh sát và cả nhà thương nữa, đều điện thoại đến báo tin là: Bà Tám đang bình yên trong bệnh viện...

Ba anh em tức tốc vào nhà thương thăm mẹ. Mới chỉ một tháng sau ngày dượng mất, mà bà Tám; nay nhìn đã già đi hơn trước rất nhiều. Bé Hoài không nhìn ra mẹ và bà Tám thì không nhận ra ba đứa con của mình. Nhìn mẹ; Hạnh thấy bà gầy gò hơn trước. Dáng điệu vẫn bình thường và vẫn hiền lành như trước; nhưng cử chỉ vui vẻ khác thường. Bà vuốt đầu bé Hoài; vừa cười vừa nói với Hạnh:

- Chèng ơi! Thằng nhỏ dòm dễ thương qua heng. Cậu mợ mới có đứa đầu đây hả?

Hạnh ngồi nói chuyện với bác sĩ rất lâu. Bác sĩ hỏi nhiều về quá khứ của bà Tám. Hỏi về tất cả những gì đã xảy ra cho bà. Cả trong quá khứ xa xôi từ lâu trước nữa…Qua cuộc nói chuyện với bác sĩ, hơn ba tiếng đồng hồ. Anh em Hạnh hiểu được rằng: Sự chịu đựng về đau khổ của mỗi người gây nên bởi ngoại cảnh xung quanh; được đơn giản hoá lại, như một cái ly đựng nước. Cái ly đựng nước đau khổ này, của bà Tám; đã chứa đựng tương đối nhiều bởi quá khứ từ VN, cho đến khi bà nghe tin ông Tám chết…Rồi cái ly này được đong đầy ở lúc bà nghĩ rằng; xã hội đã cướp đi đứa con trai duy nhất của bà với ông Tám…

Bà Tám là một người nhạy cảm và có nhiều cảm xúc với ngoại cảnh. Cho nên; những người khác, có những hoàn cảnh tương tự như của bà và người ta vẫn có thể chịu đựng được. Còn bà thì không! Cái chết đột ngột của dượng; không ít thì nhiều, đã như một giọt nước làm tràn ly nước, đã quá đầy này. Bà Tám trở nên người mất thăng bằng về tâm trí từ đó…

Bác sĩ khuyên anh em Hiếu nên giúp bà bằng cách; đưa ra những kỷ niệm, hoài bão…những gì đặc biệt trong quá khứ, dĩ vãng của bà, để đánh thức tâm trí của bà trong vùng ký ức mịt mù đó. Cách này; là một cách hữu hiệu, giúp bác sĩ khôi phục trở lại một phần nào, sự thăng bằng về tâm trí cho bà Tám…

Đó là chiều hôm qua và cũng là lần đầu tiên, anh em Hiếu vào thăm mẹ. Về đến nhà cũng đã quá nửa khuya. Anh em Hiếu không ngủ được…

Sáng hôm nay; trở lại bệnh viện, Hiếu mới để ý và nhận ra rằng: Ở tại bệnh viện này; cũng có khá nhiều bệnh nhân là người Việt và cũng như hôm qua, khi vào tới phòng của mẹ. Thấy bà ăn mặc sạch sẽ; đang ngồi trên giường, nhìn ra phía cửa sổ bên kia. Nghe tiếng chân người; bà quay lại nhìn. Vẫn ánh mắt và nụ cười hiền lành như hôm qua. Bà hỏi:

- Ủa! Chưa về hả? Nhà ở xa hôn?

Hạnh dắt em tới gần mẹ; hai chị em đều gọi:

- Má!

Bà Tám nhìn; vẫn trong vẻ ngạc nhiên. Hạnh và cả bé Hoài đều ôm mẹ khóc. Bé Hoài nói:

- Sao má ở đây…Sao má không chịu về nhà với bé Hoài? Bé Hoài luôn xưng hô với mọi người như thế.

- Má thấy bé Hoài có ốm nhiều hơn trước không má? Hạnh buông mẹ ra; nhìn bà rồi hỏi.

Bà Tám hơi cau mày; quay mặt nhìn xa xăm ra phía cửa sổ hồi nãy, lặng yên không nói. Hạnh lấy cuốn album gồm tất cả hình ảnh của cả nhà chụp hồi tháng trước, hồi tiệc sinh nhật đầu tiên của bé Hoài và cả cái giỏ bằng da có hình của ông Tám nữa. Hạnh mở ra cho mẹ xem. Vừa xem hình; Hạnh vừa chỉ và nói với mẹ, như là bà Tám đang ở nhà và không có chuyện gì đã xảy ra cho mẹ.

Đã xem hết hình rồi mà bà Tám vẫn không nói gì. Bà chỉ lặng thinh nhìn mọi người; rồi lại quay nhìn ra cửa sổ…

Cứ như thế; ngày ngày ba anh em của Hiếu đều đến bệnh viện và quanh quẩn ở bên mẹ,cho đến tối mới về nhà. Đến nay; bà Tám đã ở trong bệnh viện gần ba tháng.

Hôm nay; khác với những ngày khác. Những ngày khác; bà Tám đôi khi vẫn muốn chứng tỏ với mọi người là: Bà là người rất bình thường; không mất trí gì cả! Hạnh chỉ cho mẹ tấm hình của bé Hoài, chụp hồi bé mới được khoảng ba tháng tuổi. Bà Tám nheo mắt nhìn thật lâu; trong khi Hạnh đang ôm bé Hoài vào lòng và vô tình hát nhỏ những câu hò mà bà Tám thường ru anh em mình ngủ. Hạnh hát đến đoạn…“Con đi trường học, mẹ đi...về nhà”! Bà Tám chợt nói rất nhanh:

- Đâu phải! “Mẹ đi trường đời” chớ!

Cả Hiếu và Hạnh đều la lên:

- Ủa! Má nhớ ra rồi đó…

- Má nhận ra tụi con chưa má? Hạnh nè. Bé Hoài nè. Anh hai nữa nè…

Bà Tám vẫn không nói thêm câu nào. Bà vẫn nheo mắt nhìn ra cửa sổ bên kia. Hiếu như chợt nhớ ra điều gì. Không kịp nói với em một lời nào. Hiếu chạy nhanh theo lối ra ngoài của bệnh viện. Vừa chạy, Hiếu vừa nhận ra là mình đang khóc…Hiếu về nhà - Hiếu về nhà để lấy cuốn sách, mà Hiếu đã dùng computer ghi lại phần đầu bài thơ của cha mình.

Trở lại bệnh viện; gặp mẹ. Hiếu đưa cho mẹ cuốn sách có bìa màu thật đẹp. Trên bìa sách in sáu chữ to và đậm: “Trường ca - Lời Ru Của Mẹ”. Bà Tám chăm chú nhìn cuốn sách, nhưng không mở ra. Hiếu nói:

- Con đã làm xong cuốn sách chép bài thơ của ba rồi đó má. Nhưng con quên không đưa má coi! Má coi con làm đẹp không má?

Nói xong; Hiếu đọc từ đầu tới cuối những gì trong cuốn sách đó. Hiếu đọc thuộc lòng. Bà Tám từ nãy đến giờ vẫn không mở sách ra. Nhưng đến khi nghe Hiếu đọc gần xong thì hai hàng nước mắt của bà chảy xuống. Bà ôm Hạnh và bé Hoài khóc nức nở. Hiếu bước tới ôm mẹ và hai em. Cả bốn mẹ con đều khóc…Mấy phút sau; đột nhiên bà Tám nói:

- Con đi đóng cửa phòng lại Hiếu.

Hiếu đi tới đóng cửa phòng rồi trở lại bên mẹ. Bà Tám đặt bé Hoài ngồi vào lòng mình. Bà coi kỹ lại cuốn sách. Bà thấy tên ông Tám - chồng của bà - in trịnh trọng trên bìa cuốn sách. Bà quay qua nói với Hiếu, câu nói mà bà đã nói trước đây; mỗi khi bà muốn nghe những bài thơ từ trong báo:

- Má đâu thấy rõ đặng đọc! Đâu…Con đọc chậm chậm lại, để má dò theo coi con viết trúng không Hiếu?

Hiếu dạ; rồi ngồi xuống cạnh mẹ. Hiếu đọc:


TRƯỜNG CA - LỜI RU CỦA MẸ (4)

Ngày xưa không mấy xa xưa
Ngày tôi chưa lớn cũng chưa biết buồn
Chẳng buồn chiều hạ mưa tuôn
Chỉ riêng đôi mắt mẹ buồn sang thu
Ngày xưa đông đến sương mù
Hết đông vui nhộn mỗi mùa xuân qua
Giãi dầu giông bão nắng mưa
Đong đưa chiếc võng năm xưa mỗi chiều
Mẹ ru trong gió hiu hiu
Lời ru trong cõi tiêu điều gian nan
Giọng ru trong tiếng võ vàng
Hôm nay như vẫn ẩn tàng trong tôi
Ru tôi từ thuở nằm nôi
Đến khi khôn lớn thành người Việt Nam
Việt Nam- Mẹ bảo Việt Nam
Việt Nam Bách Việt họ hàng chi tông
Bách Việt con cháu Thần Nông
Cùng trong một giống Tiên Rồng mà ra
Bách Việt trăm họ một nhà
Thời xưa Âu Việt sau là Quảng Tây
Dương Việt ắt đất Giang Tây
Ngày xưa U Việt sau này Triết Giang
Quảng Đông: Đông Việt rõ ràng
Mân Việt: Phúc Kiến nối giang san nhà
Lạc Việt tức bắc Việt ta
Việt Thường: Thanh-Nghệ-Tĩnh là hôm nay
Năm mươi thế kỷ cách nay
Dần dà đất nước về tay người Tàu
Mẹ ru trong tiếng thương đau
Mẹ thương Bách Việt mất nhau phũ phàng
- Việt Nam; mẹ bảo Việt Nam
Việt Nam sau gọi Văn Lang, Hồng Bàng
Văn Lang với họ Hồng Bàng
Hồng Bàng dựng nước Văn Lang: Vua Hùng
Văn Lang mười tám đời Hùng
Một thời con Lạc cháu Hồng hoan ca
Một thời non nước thái hòa
Văn minh, văn hóa khởi đà từ đây
Yêu thương, đùm bọc, xum vầy
Yêu thương như việc: Giây, cây, cau, trầu
Ẩn trong sự tích trầu cau
Sau thành tục lệ ăn trầu nhuộm răng
Con ơi có nhớ hay chăng
Cũng trong huyền sử Văn Lang, vua Hùng
Ta còn sự tích bánh chưng
Mặt trời, trái đất: Bánh chưng, bánh dày
Lưu truyền cho đến hôm nay
Khúc quanh lịch sử sau ngay thời này
Tổ tiên Bách Việt loay hoay
Loay hoay đoàn kết để xoay cuộc thời
Thế là Âu Lạc ra đời
Hùng Vương hết nghiệp đến thời Thục lên (*)
(*) Văn Lang nhà Thục và vua An Dương Vương 257-207 trước Tây lịch (ttl).
Đóng đô ở đất Phúc Yên (Phong Khê)
Cổ Loa được dựng để yên sơn hà
Vì Tần xâm chiếm nước ta
Tần không thắng được chúng đà lui binh
Bách Việt tái thống nhất mình
Triệu Đà dựng nghiệp dấy binh ngập trời
Thế là Nam Việt ra đời
Một trời, một đất, một thời mênh mông
Quảng Tây, bắc Việt, Quảng Đông
Tuy chưa đủ đất cha ông giống nòi
Nhưng là nước Việt hẳn hòi
Đến khi Tần phải vào thời cáo chung
Lưu Bang, Hạng Võ tranh hùng
Lưu Bang thắng Hạng vẫy vùng bắc phương
Nam Việt với Triệu Vũ Vương
Khởi suy từ buổi Vũ Vương băng hà
Hán xua quân đánh nước ta
Nước ta tể tướng Lữ Gia kiên cường
Nhưng không chống nổi bạo cường
Vua, tôi bị giết quê hương thuộc Tàu (*)
(*) Văn Lang nhà Triệu 207-111 ttl
Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất từ năm 111-39 ttl

Con ơi khởi sự thương đau
Ngàn năm bắc thuộc khởi đầu từ đây
Hơn trăm năm trước lịch Tây
Đau thương, oan nghiệt đắng cay cho mình
Cái thằng Tô Định yêu tinh
Nó làm Thái thú đất mình gian tham
Gian tham, ác độc, bạo tàn
Thế nên Thi Sách mưu toan dựng cờ
Nhưng ông chẳng đặng thời cơ
Bị giặc bắt giết, mưu cơ không thành
Vợ ông: Trưng Trắc xuân xanh
Cùng em, Trưng Nhị dấy thành động binh
Tô Định thất vía hoảng kinh
Nó cùng bè lũ yêu tinh tan tành
Hai Bà cứu nước công thành
Đóng đô ở đất kinh thành Mê Linh (*)
(*) Hai bà Trưng: 40-43 stl. Hai Bà ở tại ngôi được gần hai năm.
Một năm đất nước yên bình
Nào ngờ Đông Hán xua binh đánh mình
Mã Viện là tướng cầm binh
Nó bao vây đất Mê Linh đánh bà
Thế cô, lực cạn quân ta
Hai Bà thua trận, nước nhà tan hoang
Trầm mình khi đến Hát Giang
Trưng Vương liệt nữ danh vang một trời
Hò ơi con hỡi, con ơi
Thế là non nước tái hồi gian nan (*)
(*) Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai: 43-544 stl
Dân ta xuống biển lên ngàn
Để tìm châu báu bạc vàng mà dâng
Dâng cho cái lũ ma quân
Để thằng Mã Viện về dâng Hán triều
Con ơi non nước tiêu điều
Suốt hai thế kỷ Hán triều trị ta
Chúng mưu diệt chủng dân ta(*)
(*)Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.
Chúng mưu đồng hoá nước ta với Tàu
Trầm luân, tang tóc, bể dâu
Tiếng than dân Việt niềm đau của mình
Nhưng mưu chúng dệt chửa thành
Hán triều tan rã; tưởng lành cho ta
Cục diện Tam quốc bày ra
Đông Ngô, Thục, Nguỵ chia ba nước Tàu
Dân ta thống khổ thương đau
Máu xương tang tóc bể dâu trội phần
Đông Ngô nối tiếp Hán, Tần
Giữ nguyên chánh sách nô dân nước mình
Nữ hùng họ Triệu tên Trinh
Cùng anh: Quốc Việt dấy binh phạt Tàu
Cỡi voi xuất trận đi đầu
Đánh cho bọn chúng về Tàu mấy phen
Nhưng Ngô vẫn giữ mộng hèn
Truyền cho Lục Dận, một tên bạo tàn
Binh đông, tướng dữ dẫn sang
Nhuỵ Kiều nữ tướng hiên ngang vẫy vùng
Quyết là giữ lấy non sông
Nhưng không chống nổi thế công giặc thù
Hờn này mang đến thiên thu
Bà hy sinh bởi quân thù Đông Ngô(*)
(*) Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: 248 stl
Con ơi một mảnh cơ đồ
Bao nhiêu thế kỷ tựa hồ diệt vong
Mẹ tri mối hận quốc vong
Người mình giống Việt long đong bởi Tàu
Đến thời Nam-Bắc bên Tàu
Nước ta vẫn cảnh thương đau tủi hờn
Có người họ Lý tên Bôn (*)
(*) Lý Bôn khởi nghĩa năm 541. Chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai.
Nước ta được tự chủ từ năm 544-602 stl

Anh hùng đứng dậy rửa hờn quê hương
Đánh tan lũ giặc nhà Lương
Dẹp yên Lâm Ấp biên cương thu hồi
Vạn Xuân: Tên nước một thời
Minh quân Nam Đế, vua, tôi một lòng
An dân thái quốc những mong
Xây chùa dựng điện nối công nhân hiền
Kiên cường nối nghiệp tổ tiên
Giang sơn một mối, Rồng Tiên một nhà
Một năm thịnh trị hoan ca
Một năm tự chủ, vua ta, quan mình
Những đâu khói lửa đao binh
Giặc thù phương bắc tướng, binh dẫn vào
Chúng gieo máu lửa thương đau
Vua, tôi nước Vạn lao đao bởi thù
Sáu năm mai phục chiến khu
Việt Vương họ Triệu rửa thù quê hương
(*) Năm 544, Lý Nam Đế lên ngôi, chưa đầy một năm thì giặc nhà Lương
lại sang đánh. Ông thua nhiều trận, sắp mất nước. Ông giao binh cho
tả tướng quân Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế mất; Triệu Quang Phục đánh bại
quân địch và lên ngôi vua. Cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử không phục.
Nội chiến xảy ra.

Vẫn thời đất bắc nhà Lương
Loạn ly đến mất nghiệp vương đế Tàu
Nhà Trần nối tiếp theo sau
Vạn Xuân thoát cảnh quan Tàu, dân ta
Nhưng là nội chiến xảy ra
Việt Vương thua trận, khởi đà quốc suy (*)
(*) Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tuỳ. Mở đầu cho thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ ba: 602-938 stl

Phật Tử họ Lý trị vì
Nước ta bị mất bởi vì vua suy
Bỉ cực tái diễn bởi Tuỳ
Mười lăm năm hậu Tuỳ suy đến Đường
Suốt ba thế kỷ đau thương
Suốt ba thế kỷ đoạn trường dân Nam
Đường cai trị nước An Nam
Ác ôn, quỷ quyệt gian tham khôn cùng
Con ơi đất nước khốn cùng
Bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng đứng lên
Đánh tan lũ giặc mấy phen
Như Mai Hắc Đế vùng lên diệt Tàu (722 stl)
Thằng Quang Sở Khách về Tàu
Nước ta lại được ít lâu an bình
Đường say giấc mộng nam chinh
Sai Dương Tư Húc kéo binh phạt mình
Cùng Quang Sở Khách điều binh
Đường-Ngu; ngu thật với mình với ta
Con ơi xã tắc sơn hà
Vua ta bại trận, nước ta thuộc Tàu
Thuộc Tàu: Ôi! Lại thuộc Tàu
Nước mình mảnh đất thương đau dặm trường
Đến năm Đai Lịch nhà Đường
Có người hảo hớn can cường vùng lên
Phùng Hưng tên gọi thương quen (*)
(*)Bố Cái Đại Vương791 stl
Ông cho lũ phỉ teng beng về Tàu
Thái lai non nước đồng bào
Yên vui xum họp cùng nhau một nhà
Một lòng kiến quốc bảo gia
Phùng Hưng một đấng quả là minh quân
Chăn dân với cả lòng nhân
Đại Vương Bố Cái minh quân băng hà
Phùng An nối nghiệp vua cha
Nhưng không giữ nổi sơn hà An Nam
Đường cho quân đến dụ hàng
Phùng An nhu nhược đầu hàng Triệu Xương
Con ơi tái cảnh đau thương
Con ơi có xót quê hương của mình
Một dân tộc với tử sinh
Một ngàn năm với chiến chinh chống thù
Hiểm nguy nhất vẫn Đường-Ngu
Chúng dùng văn hóa xây tù nước Nam
Chúng nuôi mộng huỷ An Nam
Chúng nuôi mộng biến người Nam thành Tàu
Nhưng rồi chẳng đặng vào đâu
Suốt bao thế kỷ vẫn Tàu vẫn ta
Cuối Đường loạn lạc xảy ra
Nguy ra cho giặc, may ra cho mình
Khúc Thừa Dụ dấy nghiệp binh (906-907)
Đánh cho lũ phỉ hoảng kinh tời bời
Tử, Sinh, yểu, thọ tại trời
Một năm Thừa Dụ tại ngôi trị vì
Nhưng là sao sáng một vì
Khai thời tự trị, tôn ty tự mình
Khúc Hạo nối nghiệp cha mình (907-917)
Giữ yên bờ cõi, dân tình an cư
Minh quân Khúc Hạo nhân từ
Ở thời đất bắc họ Chu diệt Đường
Lập ra giòng dõi hậu Lương
Vẫn nuôi mộng chiếm quê hương Lạc Hồng
Ngàn đời mộng chúng chẳng xong
Ngàn năm đô hộ đã xong một thời
Con ơi hùng sử một thời
Con ơi bi sử một trời đau thương
Ngàn năm lũ giặc nhiễu nhương
Chỉ còn Lạc Việt, Việt Thường có nhau
Nước ta Bách Việt là đâu
Đất mình vẫn trải ở Tàu hôm nay
Bao nhiêu thế kỷ cách nay
Nhưng mà vẫn mới như ngày hôm qua
Vẫn ghi trong dạ dân ta
Vẫn chờ ngày nổi phong ba lôi đình
Để đòi lại đất của mình
Để thôi nhược tiểu như mình hôm nay
Thế thời vận nước chẳng may
Quảng Châu, vùng đất trên tay Lương triều
Lưu Nham phản lại Lương triều
Chiếm vùng đất ấy lập triều đình riêng
Lập ra Nam Hán một miền
Lũ này là mối oan khiên cho mình
Lý Tiến với Lương Khắc Trinh
Hai thằng chiếm giữ Tống Bình nước ta
Hán triều bắt giữ vua ta
Tướng Dương Diên Nghệ quả là trung quân (931-937)
Ông nuôi chí với ba quân
Vùng lên một trận đuổi quân hung tàn
Nối trang lịch sử vẻ vang
Vua quan nhà Hán như tan cả hồn
Cho quân tiếp viện rửa hờn
Tướng giặc: Trần Bảo xác chôn quê mình
Hán triều thất vía hoảng kinh
Nước ta lại được thái bình dân an
Nhưng Kiều Công Tiễn phản thần
Giết Dương Diên Nghệ vương quân đoạt quyền
Kiều là tuỳ tướng đương quyền
Rể Dương Diên Nghệ: Ngô Quyền dấy quân (938)
Dấy quân diệt kẻ phản thần
Kiều liền xin Hán cho quân đến nhà
Ngô Quyền đoán biết phong ba
Giết Kiều để chiếm Đại La kinh thành
Rồi mau đối phó chiến tranh
Chiến tranh chống Hán, chiến tranh giữ nhà
Quyết tâm nối chí nhạc gia
Quyết tâm bảo vệ san hà nước Nam
Hoằng Thao dẫn thuỷ binh sang
Còn vua cha trấn ở đàng Hải Môn (Quảng Đông)
Sẵn sàng tiếp ứng cho con
Hoằng Thao theo vịnh Hạ Long đánh vào
Ngô Quyền dụ chúng đuổi vào
Đến khi nước rút ào ào tấn công
Hoằng Thao tháo chạy trên sông
Tàu thuyền thủng đắm bởi chông bịt đồng
Máu thù nhuộm đỏ dòng sông
Xác thù chìm nổi khắp sông Bạch Đằng
Hoằng Thao chết trận Bạch Đằng
Vua Nam Hán khóc để rằng lui quân
Ngô Quyền đại thắng Hán quân (*)
(*) Ngô Quyền đại thắng Hán quân năm 938 đã thật sự chấm dứt
một ngàn năm đô hộ của giặc phương bắc. Mở thời tự chủ cho dân tộc.

Mở thời tự chủ cho dân tộc nhà
Xưng vương đóng ở Cổ Loa
Năm năm đất nước thái hòa yên vui
Ngô vương vắn số qua đời
Tam Kha em vợ; cướp ngôi cháu mình
Khai thời nội chiến đao binh
Hăm hai năm lẻ điêu linh nước nhà
Mười hai quân sứ một nhà
Mười hai quân sứ trong nhà nước Nam
Tổ tiên phò trợ nước Nam
Ông Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan quần hùng
Chỉ trong mấy tháng vẫy vùng
Sơn hà thống nhất trùng phùng quê hương
Đinh Bộ Lĩnh: Vạn Thắng Vương (968-980)
Nước Đại Cồ Việt; quân vương Tiên Hoàng
Hoa Lư là đất cưu mang
Hoa Lư cũng đất Tiên Hoàng đóng đô
Giữ yên non nước cơ đồ
Mười hai năm hậu cơ đồ Đinh tan
Tướng quân thập đạo Lê Hoàn
Lên ngôi để giữ giang san nước nhà
Nhà Tiền Lê được mở ra
(nhà tiền Lê 980-1009)
Đại Hành hoàng đế quả là xứng danh
Bình Chiêm, phá Tống công thành
Chi Lăng chiến thắng vang danh một thời
Hăm bốn năm ở tại ngôi
Sơn hà xã tắc một thời an khang
Khởi suy từ lúc vua băng
Các hoàng, thái tử lăng xăng tranh giành
Lê Long Đỉnh giết vua anh
Phá tan sự nghiệp thanh danh Lê triều
Thế là hậu Lý lập triều (1010-1225)
Một triều bền vững với nhiều minh quân
Sống thời tự chủ quân, thần
Tống kiêng, Xiêm nể, Chiêm thần phục ta
Thánh Tông vua Lý băng hà
Nhân Tông bảy tuổi thay cha nối giòng
Bên Tàu thời Tống Thần Tông
Với Vương An Thạch nghênh ngông bạo tàn
Mưu toan thôn tính nước Nam
Vua ta biết được mưu toan của Tàu
Sai hai tướng giỏi phạt Tàu
Thường Kiệt, Tôn Đản: Hai đầu xuất binh
Tôn Đản thống lãnh bộ binh
Lý Thường Kiệt dẫn thuỷ binh tiến vào
Đánh Tàu ngay tại đất Tàu (1075)
Đánh cho chúng hết mưu cầu nhiễu nhương
Ta tiên hạ thủ vi cường
Biết mình, biết địch, biết nương thiên thời
Vua quan nhà Tống tơi bời
Vừa cay, vừa thẹn với người với ta
Năm sau chúng tiến binh qua
Tống, Chiêm, Chân Lạp kết ba đánh mình
Hai năm vây bủa nước mình
Cuối cùng chúng phải điều đình rút quân
Bởi Lý Thường Kiệt đại thần
Với thơ khích lệ dân, quân một lòng
Bốn câu thơ dậy bể đông
Nức lòng chiến sĩ, nức lòng dân Nam
“Nước Nam là của vua Nam
Sách trời đã định rõ ràng chẳng sai
Quân xâm lăng trái ý trời
Một phen thảm hại tời bời một phen”
(Bàng Bá Lân dịch)
Quả như tiếng sấm vang lên
Bài thơ như triệu mũi tên chống thù
Lưu truyền cho đến thiên thu
Sáng ngời chính nghĩa chống thù cứu quê
Thế rồi hậu Lý suy hề
Nhà Trần dựng nghiệp ta hề vẻ vang (*)
(*) Nhà Trần 1225-1400. Nhà Trần thắng quân Mông cổ ba lần
Lần thứ nhất:1257. Lần thứ hai: 1285. Lần thứ ba: 1288

Năm châu cũng phải ngỡ ngàng
Bởi dân nước Việt ba lần thắng Mông
Lần đầu với Trần Thái Tông
Rồi sau liên tiếp Nhân Tông hai lần
Khởi nghiệp Mông: Thiết Mộc Chân
Vượt qua Vạn lý trường thành; Trung Hoa
Vua quan nhà Tống xuýt xoa
Đông Âu, trung Á cũng đà hàng Mông
Vương quân các nước rúng lòng
Giặc Mông như trận cuồng phong được đà
Thành Cát Tư Hãn băng hà
Cháu Hốt Tất Liệt; con A Loa Đài
Chia nhau đánh chiếm khắp nơi
Một nửa thế giới như rơi cả hồn
Trung Hoa; nhà Tống phải vong
Triều Tiên, Tây Tạng cũng trong cảnh tình
Ba Lan, Hung phải mở thành
Nga La Tư cũng dâng thành cho Mông
Hẳn là một trận cuồng phong
Thế mà Mông phải hết ngông bởi mình
Ba lần tiến đánh nước mình
Ba lần đại bại tan tành thảm thương
Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Vương
Vân Đồn, Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng
Hàm Tử, Vạn Kiếp lừng danh
Xác thù như núi xứng danh Lạc Hồng
Toa Đô chết giữa binh đông
Thoát Hoan phải rúc ống đồng mà đi
Phàn Tiếp với Ô Mã Nhi
Bị ta bắt sống trong khi rút về
Sài Thung chột mắt chạy về
Mông-Nguyên phải bỏ mộng hề chiếm ta
Một lòng “sát Thát” quân ta
Diên Hồng hội nghị quả là trứ danh
Đại Vương Hưng Đạo xứng danh
Anh Hùng dân tộc lưu danh muôn đời
Hưng vong cũng tại bởi trời
Nhà Trần hết nghiệp đến thời suy vi
Tiếm ngôi bởi Hồ Quý Ly (1400-1407)
Non sông tái cảnh lâm ly đoạn trường
Nhà Minh được dịp nhiễu nhương
Nối mưu thôn tính quê hương của mình
Mượn danh đánh tiếng phò Trần
Mộc Thạnh, Trương Phụ tướng quân Minh Tàu
Dẫn binh hai ngả tiến vào
Con ơi đất nước rơi vào tay Minh (1414-1427)
Mười ba năm thuộc nhà Minh
Sơn hà xã tắc điêu linh tủi hờn
Địa linh nhân kiệt Lam Sơn
Phất cờ khởi nghĩa rửa hờn quê hương
Ông Lê Lợi: Bình Định Vương (*)
(*) Cuộc khởi nghĩa 10 năm của Lê Lợi 1418-1427
Đã chấm dứt thời đô hộ của giặc Minh
và lập ra nhà hậu Lê: 1428- 1527.

Đại thần Nguyễn Trãi phò vương đuổi thù
Chí Linh dưỡng địa chiến khu
Chi Lăng, Tuỵ Động ngàn thu lẫy lừng
Mười năm khởi nghĩa oai hùng
Liễu Thăng bị giết, Vương Thông đầu hàng
Mộc Thạnh bao bận chạy làng
Nước Nam linh địa ngổn ngang xác thù
Lê Lai gương sáng ngàn thu
Bình Ngô Đại Cáo; chứng từ vẻ vang
Hậu Lê dựng nghiệp hiên ngang
Với Lê Thái Tổ nối trang sử hùng
Nối thời tự chủ non sông
Nối giòng hào kiệt, nối công anh hùng…


Sau gần ba tháng ở nhà thương; hôm nay bà Tám được xuất viện về nhà. Đi từ sân trước vào trong, tới các phòng, rồi ra sân sau. Nhìn quanh; bà thấy lại hình ảnh quen thuộc của quê hương ngày cũ - Sự “điêu tàn, hoang phế” - Cha của bé Hoài đã vĩnh viễn ra đi và bà cũng đã vắng nhà hơn ba tháng. Thời gian này; Hạnh không đi học được. Hiếu phải nghỉ làm và mất việc. Trong ánh mắt của bé Hoài không còn biểu lộ nét ngây thơ của hơn ba tháng trước. Nó biết cha nó đã chết và nó đã sống trong sự điêu tàn, hoang phế của gia đình hơn ba tháng nay…Tất cả đã xảy ra như một cơn ác mộng…

Cả nhà lo dọn dẹp lại nhà cửa trong sự im vắng tiếng cười của bé Hoài. Bà Tám lau chùi lại bàn thờ của ông bà, bàn thờ của ông Tám và lập bàn thờ cho dượng. Bà nhớ lại những năm tháng cuối đời của ông nội thằng Hiếu. Ông cũng trầm ngâm bên những bàn thờ như thế này…Bà thắp nén nhang cho những người đi trước. Bà cũng nghiệm lời nói của ông nội thằng Hiếu và cầu nguyện cho quê hương, cho tổ quốc, cho một vùng đất bất chiến tự nhiên thành…

Từ đó; bà Tám trở thành người mắc bệnh tâm thần: "Lúc tỉnh - lúc mê”.

Lúc mê: Bà trở lại với vùng quá khứ mênh mông ở thời thơ ấu của tuổi lên năm, lên bảy - Trở lại với vùng dĩ vãng sâu hút, mịt mờ nơi quê cũ xa xăm của bà...

Lúc tỉnh: Bà trở về với Hiếu, với Hạnh, với bé Hoài; với những cái bàn thờ nghi ngút khói nhang…và dĩ nhiên, với cả câu kinh cứu khổ, cứu nạn…

Cũng may; bà Tám tỉnh nhiều hơn mê và cơn mê nếu có đến, cũng chỉ kéo dài một vài ngày. Bù lại; những lúc tỉnh thì sáng suốt lạ thường…

Hạnh đã đi học trở lại. Hiếu quyết định đi học về ngành xã hội; với ý muốn được đóng góp bàn tay bé nhỏ của mình vào việc giúp cho sự quay đầu trở lại của giới trẻ đang hư hỏng. Song song đó; Hiếu vẫn tiếp tục cố gắng viết tiếp phần sau bài thơ của cha mình; dựa theo tài liệu của sách vở và với sự giúp đỡ của mẹ mình, những khi bà tỉnh táo.

Bây giờ và cũng là lần đầu tiên; với sự cố vấn của mẹ. Hiếu đã viết được một bài viết bằng hai thứ tiếng; Anh và Việt. Bài viết có tựa đề là: “Một suy nghĩ về tuổi trẻ Việt Nam trong xã hội Úc” được đăng tải trên cả báo Việt lẫn Úc.

Hôm nay, khi thắp nhang lên bàn thờ; Hiếu thấy dưới di ảnh của dượng có thêm một khung hình nhỏ màu đen. Bên trong là một tấm vải nhung đỏ có hai hàng chữ được viết rất khéo léo. Hiếu đọc kỹ lại và nhận ra; đó là một cặp câu đối mà mẹ mình đã làm cho dượng:


Giấc ngủ ngàn thu thôi tiếc nuối,
Cầu tre bao đoạn hết ưu phiền!

HẾT.


(1) Kiếp Người: Thơ Đông Hải - S.A 1986
(2) Rồi Từ Đó: Thơ Đông Hải - Z-30-D 1978
(3) Quê Hương Tôi: Thơ Đông Hải - S.A 1986
(4) Trường Ca - Lời Ru Của Mẹ: Thơ Đông Hải - S.A 1986-1987


Trầm Thy Trang – Úc Đại Lợi 2005
ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền.

Mời quý vị đọc nguyên bản tiểu thuyết "Cầu Tre Lắc Lẻo" qua đường dẫn: Trầm Thy Trang: Trang Văn
**************************************************
Cũng trong Việt Nam Thư Quán này; mời quý vị nhàn lãm Thi tập Ở BÊN TRỜI - Xuất bàn tại Úc năm 2000 - qua đường dẫn: VẦN THƠ LỮ THỨ Hoặc nguyên bản ở : Trầm Thy Trang: Thơ và nghe những tình khúc mùa thu của chính tác giả Đông Hải qua đường dẫn: Trầm Thy Trang: Nhạc
***************************************************
Mời quý vị ghé thăm trang nhà: www.tramthytrang.net

Trân trọng.
ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền.


Mời quý vị tham gia DiendanDanToc@yahoogroups.com
Chủ trương Diễn Đàn Dân Tộc: ĐÔNG HẢI
Trân trọng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2011 13:35:58 bởi tramthytrang >
#1
    tramthytrang 02.05.2011 13:28:04 (permalink)
    (*) Muốn chữ lớn lên hay nhỏ xuống [để dễ đọc]; xin bấm nút CONTROL và bấm dấu trừ [-] hoặc cộng [+] bên cạnh số 0 [zero].

    Trầm Thy Trang cảm ơn đài RFA và tác giả Trần Mạnh Hảo về bài tham luận giá trị dưới đây.
    Trân trọng.
    ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền


    Trong Đại Hội VIII Hội Nhà Văn VN khai mạc ngày 4-8-2010 tại Hà Nội, nhà văn Trần Mạnh Hảo được mời viết tham luận nhưng khi ông lên đọc thì … micro bị tắt. Dưới đây là phóng sự đài RFA về diễn tiến của Đại Hội và toàn văn bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.
     


    CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI,
    GIẢI PHÓNG VĂN HỌC VÀ ĐẤT NƯỚC.

    TRẦN MẠNH HẢO


    “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” K. Marx


    Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,

    Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,

    Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!

    Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.

    Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.

    Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”

    Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.

    Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.

    Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC có tên là DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.

    Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.

    Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.

    Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?

    Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.

    Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.

    Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.

    SỰ THẬT 1


    Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…

    Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?

    Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?

    Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…

    SỰ THẬT 2


    Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).

    Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG một mình một chợ: vừa Tham Nhũng vừa Chống Tham Nhũng? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?

    Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!

    Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.

    Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.

    SỰ THẬT 3


    Nói một đàng, làm một nẻo, hay là Danh không chính thì Ngôn không thuận
    Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.

    Xin chứng minh

    Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…

    Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.

    Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?

    Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.

    Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.

    Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Trái ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.

    Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.

    Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?

    Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?

    Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.

    Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.

    Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học. Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.

    Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…

    Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?

    Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?

    Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối… (Chuyện nầy đã và đang xẫy ra cho Trần Anh Kim)

    Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.

    Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.

    Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.

    Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn "Mao Trạch Đông Ngàn Năm Công Tội" do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể...
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2011 13:37:07 bởi tramthytrang >
    #2
      tramthytrang 14.06.2011 15:03:21 (permalink)
      (*) Muốn chữ lớn lên hay nhỏ xuống [để dễ đọc]; xin bấm nút CONTROL và bấm dấu trừ [-] hoặc cộng [+] bên cạnh số 0 [zero].
      [sm=welcome.gif] 
       
      VIỆT NAM ĐI VỀ ĐÂU?
       
      HỒ TẤN VINH


      Đây là câu hỏi mà ai có suy tư về đất nước đều có tự hỏi mình.
      Đây là nói chuyện tương lai.
      Có những sự kiện ta có thể dựa vào mà tiên đoán không sai.
      Có những cái ta không thể nào biết trước được.
       
      Tôi đã tuần tự trình bày rằng chủ nghĩa CS là sai lầm. Đây không phải là vấn đề ý thức hệ trừu tượng hay triết lý mông lung gì cả. Đây chỉ là vấn đề thiết thực của chén cơm mà thôi. Chủ nghĩa CS cản trở phát triển kinh tế, vì vậy chế độ CS ở Việt Nam sẽ phải bị thay thế. Đó là điều chắc chắn.
       
      Trong quá trình thành lập chế độ CS ở Việt Nam, Việt Cộng đã giết quá nhiều nhà ái quốc và thường dân vô tội. Không thể nào những cái chết đó không ray rứt từng giờ từng phút lương tâm của người CS. Mặc dầu thân xác đã trở thành cát bụi, nhưng những hạt bụi tức tưởi đó đã dính vào bàn tay mà kẻ phạm tội nếu không có lòng thành khẩn không dễ dàng phủi đi. Người CS phải ăn năn và xin tội với nhân dân. Không ai có khả năng chỉa súng vào đầu người CS để bắt họ làm chuyện đó. Nhưng để có một chỗ đứng ‘làm người’ trong Chánh Sử thì đó là chuyện bắt buộc họ sẽ phải tự làm.
       
      Sám hối dưới hình thức nào và khi nào thì chưa thể biết được.
       
      Lúc đầu thế kỷ, vì chưa va chạm vào thực tế, chủ nghĩa CS có thể tự gạt mình và gạt luôn thiên hạ, nhưng bây giờ thì cả thế giới ai cũng biết chủ nghĩa CS là sai. Cho nên dầu bề ngoài còn làm bộ nói cứng nhưng ngay chính người CS cũng biết mình là dỏm. Vấn đề là họ có phải ôm cái sai lầm đến hết cuộc đời mình hay công khai hóa lúc còn sống.
       
      Sám hối chỉ là cây thước đo chính họ. Coi ngày nay người CS có còn đủ can đảm đối diện với sự thật không?
       
      Nếu họ làm được bây giờ thì ngay bây giờ họ cũng có thể hưởng được cái cảm giác kỳ diệu mà Đức Phật gọi là ‘cái đáng phục nhứt của đời người’ và một hai thế hệ sau, con cháu của họ khi nhắc đến họ đều có thể ngưỡng mộ.
       
      Chẳng những vậy, chỉ khi nào có những dấu hiệu rõ rệt ‘lãng tử hồi đầu’ thì họ mới nhận được sự trợ giúp to lớn về trí lực và tài lực của người Việt hải ngoại. Thật ra, trước đây, vào những năm thập niên 80, người Việt hải ngoại có gián tiếp cứu sống CSVN qua số tiền gởi về giúp thân nhân. Nhưng đó chưa phải là sự trợ giúp tự nguyện, nhiệt tình và toàn lực. Một trợ giúp có ý thức ái quốc. Trợ giúp này to lớn đến mức nào, có thể chính người Việt hải ngoại cũng không ý thức hết tầm vóc tiềm lực của mình, nhưng không có cái trợ lực này, chánh quyền Việt Nam đi đến đâu – dầu là đi thương lượng thương mại hay đi giao tiếp ngoại giao – vẫn mãi bị lép vế. Chỉ vì một lý do giản dị là quá khứ quá nặng nề nó đè cái đầu không thể ngẩng lên được. Chuyện thương lượng biên giới và hải phận với Trung Quốc là một bằng cớ.
       
      Nếu họ chọn con đường dễ dàng cho mình và đùn cái gánh nặng đó cho những người CS hậu bối thì khi đó chính những con cháu của họ khi nhắc đến họ chỉ có thể tiếc nuối mà thôi.
       
      Năm 1975, Việt Cộng có thể tự hào là đã đuổi người ngoại quốc ra khỏi và giành độc lập cho đất nước.
       
      Nhưng ở các nước Bắc Phi thuộc địa của Pháp, Ben Bella đã giành được độc lập cho Algérie năm 1962, Vua Hassan II giành được độc lập cho Maroc năm 1956, Habib Bourghiba giành độc lập cho Tunisie năm 1956. Ba người này, không có ai là cộng sản cả. Nếu ở VN, CS không có xía vô thì người quốc gia đã giành hoàn toàn độc lập cho xứ sở từ lâu rồi và không phải tốn quá nhiều xương máu như đã phải chịu. Cho nên lấy cái ‘giành được độc lập’ mà hãnh diện là thấy như vậy mà không phải như vậy.
       
      Hằng năm, vào ngày 30 tháng 4, CSVN thường tổ chức diễn hành trước Dinh Độc Lập. Nhưng ngày đó không phải là ngày toàn dân ăn mừng. Ngày đó, nhân dân miền Nam lo tìm đủ mọi cách để vượt biên không có ăn mừng. Ngày đó, những người CS nằm vùng vỡ mộng không có ăn mừng. Ngày đó, nhân dân miền Bắc chờ đợi miền Nam thắng trận để họ được giải phóng luôn không có ăn mừng. Ngày đó thật sự chỉ có hai triệu đảng viên CS, quân đội và công an ăn mừng. Ngày đó giống như ngày ăn cướp đánh được một nhà giàu rồi lấy rượu thịt trong nhà ra nhậu với nhau. Từ năm 1945, cái ngày mà toàn dân mơ ước để ăn mừng nhiệt liệt chưa có đến.
       
      Sở dĩ chế độ CS ở VN được thành lập và cho tới giờ này còn tồn tại là vì mặc dầu chống cộng là một chánh nghĩa, nhưng chánh nghĩa đó đã bị bọn cơ hội lạm dụng.
       
      Trước năm 1975, không cần bàn đến những chủ trương, đường lối xa xôi gì cả, chỉ nội cái cá nhân tham lam, hành xử kiêu căng, cái tâm địa tàn ác, triệt tiêu các người khác chánh kiến của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, cái mua quan bán tước công khai, kết bè kết đảng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ là đủ bôi lọ chánh nghĩa quốc gia rồi. Họ là những người lãnh đạo cuộc tranh đấu, hằng triệu triệu người nhìn vào các cử động của họ. Họ là cái gương. Mà cái gương đã chiếu ra quá nhiều tư dục và dã tâm thì cái chánh nghĩa họ kêu gọi, ai mà tin. Không phải quần chúng vong ân bỏ rơi lãnh tụ. Chính lãnh tụ đã tự mình bỏ rơi trọng nhiệm của một lãnh tụ.
       
      Sau năm 1975, việc chống cộng phải bị tách ra một ngã khác. Vì không còn hệ thống chánh quyền quốc gia nữa, nên không còn mối lợi thầu độc quyền nữa, chuyện chống cộng thành những trận võ tự do nho nhỏ.
       
      Các ông Hoàng Cơ Minh, Võ Đại Tôn, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch đều là những người dũng cảm. Nhưng kế hoạch dùng vũ lực của họ từ nước ngoài về đã phải thất bại. Mỗi người trong chúng ta đều có thể lý giải cái thất bại đó khác nhau, nhưng chúng ta đều có thể thấy và đồng thuận là dùng vũ lực từ nước ngoài về là thất bại.
       
      Nếu dùng võ không được thì dùng văn xem sao. Ông Trần Văn Lắm, cựu Chủ tịch Thượng Nghị Viện VNCH lúc sinh tiền cho rằng Việt Cộng vi phạm Hiệp Định Paris nên phải đem Việt Cộng ra Tòa Án Quốc tế. Còn GS Nguyễn Ngọc Huy thì để hết tâm tư và thời gian cho đến chết để thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yễm Trợ VN Tự Do.
       
      Thử lấy cái Ủy Ban này ra phân tách. Không dễ gì mời được một chánh khách tên tuổi vào Ủy Ban. Chắc chắn phải qua một sự giới thiệu hay dàn xếp sao đó, rồi phải hẹn hò, trình bày, thuyết phục thì mới mời người ta đuợc. Một hay hai năm sau cùng, mặc dầu bịnh ung thư đã phát rồi, Giáo Sư còn ráng qua Úc. Trong chuyến đi này, Giáo Sư đã được Thủ Lãnh John Howard của Đảng Tự Do lúc bấy giờ là Đảng Đối Lập tiếp kiến. Nhưng khi Giáo Sư mời John Howard vào Ủy Ban Quốc Tế Yễm Trợ Việt Nam Tự Do thì John Howard từ chối. Tới giờ chót, Ủy Ban cũng mời được một số người ở Âu, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại.
       
      Trong trường hợp mà GS Nguyễn Ngọc Huy không mất sớm và có thì giờ đi đây đi đó thì tối đa là Giáo Sư đi đến được một trăm nước và mời được một trăm ông Thủ Tướng, thì cái Ủy Ban đó là cái gì? Dạ thưa đó là Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Bây giờ nếu Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc nhóm và biểu quyết rằng Việt Cộng là phiến loạn phải trao quyền lại cho người quốc gia thì sao?
       
      Ngoại trừ có những bí ẩn động trời, chớ cái ý nghĩ rằng Việt Cộng sẽ run sợ một phán quyết của một Tòa Án Quốc Tế nào đó hay một cuộc biểu quyết của Đại Hội Đồng, rồi quỳ gối xuống dâng chánh quyền lên – là một ý nghĩ thật tình khó hiểu. Rồi ai dám về Hà Nội nhận cái bàn giao đó?
       
      Ta phải chia công cuộc chống cộng ra thành hai chủ trương. Một chủ trương lật đổ chế độ CS và một chủ trương lên án CS.
       
      CS Việt Nam là ngụy, nhưng họ đang có quyền lực. Lính CS biết bắn súng. Muốn lật đổ họ thì đối thủ cũng phải có một lực lượng. Lực lượng này có thể là một ngoại lực hay nội lực. Kẻ nào chọn dùng ngoại lực thì dầu có thành khẩn tới đâu rồi cũng có nguy cơ bán nước nhiều hơn là cơ may cứu nước. Tuy nhiên ta chưa đến giai đoạn đó. Từ ba mươi sáu năm nay ta chỉ mới đi lòng vòng để không đi đến đâu.
       
      Năm xưa, hồi thời chống Pháp, Việt Nam có hai đảng phái lừng danh. Đó là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng. Lúc khởi thủy, hai đảng này dùng hoàn toàn nội lực, và người Việt lớn hay nhỏ gì khi nghe nhắc đến hai đảng này đều tỏ ra vô cùng khâm phục. Sau năm 1975, khi ra ngoại quốc, đáng lý họ phải biết lợi dụng cái không khí tự do và an toàn để mà hội họp, bàn thảo và khuếch trương đảng, tăng cường nội lực nhưng các đảng quốc gia này đột nhiên có sáng kiến lạ lùng: họ tự chặt tay chơn của mình. Việc này cũng không cần giấu diếm. Từ việc lạnh lùng làm ngơ, bỏ rơi các đảng viên còn kẹt lại trong nước hay ở các trại tỵ nạn đến việc phân hóa chống đối nội bộ cho đến tàn lụi. Đây là một sự cố hết sức bất ngờ. Mà nội lực xưa nay vẫn là nền tảng tổ chức của một đảng ái quốc. Bây giờ thì – ai cũng có một chút bảo bối để cho là mình chánh thống – nhưng không ai có nội lực cả. Chẳng lẽ một đảng phái chỉ cần có một ban hội tề là đủ?
       
      Chỉ có chủ trương dùng nội lực là đúng mà thôi. Mà nội lực là sự chung góp tài lực, trí lực, nhân lực của người Việt quốc gia tới giờ này không thực hiện được. Ngay chỗ này cũng cần minh bạch. Không phải ai cũng vô trách nhiệm hết. Chủ tiệm phở muốn đóng góp. Chủ tiệm may muốn đóng góp, nghĩa là quần chúng rất nhiệt thành. Nhưng ai là người hiệu triệu? Ai dẫn đường?
       
      Đâu phải khó khăn gì, chỉ cần nhìn vào những biểu hiện lúc sinh hoạt là có thể biết ngay! Các người tự cho mình là lãnh tụ quốc gia, các ‘Sĩ phu hữu trách’, các ‘Đại thần’ khi xưa chỉ cần giao thiệp với nhau hòa nhã, thân thiện, làm quyết định thật dân chủ, hợp tác với nhau thật chân thành để cho người dân – trong nước cũng như hải ngoại – nhìn vào một hình ảnh đẹp để mà so sánh. Cái mà họ cần làm – không phải là lên trời hái sao – mà làm sao tạo cho người dân lầm than trong nước cái cảm giác ‘cũng là người Việt như nhau, nếu bọn CS bằng phân nửa người Việt hải ngoại thì đở khổ biết mấy!’ Làm sao cho trong tối tăm những người cùng đường còn nuôi được một hy vọng.
       
      Chán chường và khinh bỉ là những cảm xúc của con người tuyệt vọng. Cầu xin đừng tạo cho người dân Việt phải chịu những cảm giác này một lượt đến hai lần: ‘nếu đuổi được đám CS này đi mà để đám hải ngoại kia về thì cũng như không!’
       
      Ở Âu châu, ở Á châu, ở Mỹ châu, ở Phi châu, chỗ nào chữ ‘Tự do’ cũng viết bằng máu. Tự do không ai cho không, cũng không có ai đi tranh đấu dùm, phải tự mình đổ máu mới giành được. Trong lúc nội lực không có, lại cũng không chăm lo gầy dựng nội lực, mà hễ mở miệng ra là hô hào lật đổ chế độ CS ở Việt Nam thì quả thật là thê thảm, nó vừa khôi hài vừa tàn nhẫn.
       
      Còn một khía cạnh thứ hai của công cuộc chống cộng là chủ trương lên án CS. Sự tự mình biết giới hạn là một hành động rất thiết thực và khôn khéo. Theo đường lối hành động này, từ ba chục năm nay người Việt đã tỏ ra vô cùng xuất sắc. Ở trong nước, các tôn giáo bằng hình thức này hay hình thức khác liên tục tố cáo các sai trái của chánh quyền CS. Ở ngoại quốc, các lãnh tụ CS khi đi công du ở đâu cũng gặp người Việt tập hợp phản đối. Những ngày lễ quan trọng như Tết Nguyên Đán, những kỷ niệm hãi hùng như ngày 30 tháng Tư đều được cộng đồng nguời Việt Tự Do nhiệt tình tổ chức.
       
      Thật là cảm động khi thấy các thanh niên mặc quân phục VNCH đứng trong nắng chang chang của Thành phố Richmond ca hát giúp đồng bào hưởng Tết tha hương. Thật là cảm động khi thấy các thiếu nữ trong áo dài tha thướt mời đồng bào mua dĩa nhạc của Phạm Quang Ngọc. Vô cùng hùng tráng là đoàn người từ các Tiểu bang tập hợp tại Canberra tưởng nhớ ngày Quốc nhục.
       
      Uy vũ khuất phục không được, tiền bạc mua chuộc không được, ngạo nghễ với thời gian vẫn là các văn nhân, nghệ sĩ Việt nam khắp năm châu.
       
      Nhưng những hành động bất bạo động này không thể lật đổ bạo quyền. Nó chỉ có giá trị tinh thần là nhắc nhở cho mọi người - nhứt là người CS - rằng chế độ CS là sai lầm, hại dân hại nước. Chế độ đó cần phải thay đổi.
       
      Áp bức, bóc lột, bất công luôn luôn là lý do khiến người ta giương cờ Đại Nghĩa. Việt Nam ngày nay cũng lại cai trị bằng ‘Ba Bê’ mà tự xưng là làm cách mạng là sao? Quốc gia chia rẽ. Giai cấp lãnh đạo áp bức giai cấp bị trị. Việc người bóc lột người không còn bị coi là vô luân đáng hỗ thẹn mà nó lại được nhìn nhận là ‘tự nhiên trong giai đoạn quá độ’. Nhân tâm ly tán. Người có chánh quyền trong tay có thể lợi dụng được ưu thế đó để kiếm ‘đồng tiền dễ dàng’ mà sống phè phn và người dân là công dân hạng hai phải giả đui, giả điếc để sống qua ngày. Đó là cách tốt nhứt để thi hành một câu ân cần mà cán bộ CS thường khuyên nhủ ‘đừng có chỉ trích Đảng, ngoài ra thì muốn làm cái gì cũng được’.
       
      Ai cũng muốn thay đổi tình trạng tự do phân nửa đó. Bất mãn thì có nhiều, nhưng những bất mãn này còn trong trình trạng rời rạc, chỉ là những hạt cát. Còn thiếu chất xi măng.
       
      Tình trạng này sẽ kéo dài bao lâu?
       
      Có hai trường hợp có thể xảy ra:
       
      Trường hợp thứ nhứt là khi sự lạm dụng chánh quyển đến mức quá độ và đường lối phát triển sai lầm đưa đến nền kinh tế suy sụp khiến người dân chịu không nổi hai gọng kềm này nữa thì bắt buộc phải xảy ra ‘cùng tất biến’.
       
      Cụ thể mà nói, khi nào có đất để bán hay cho mướn, hay khi nào còn mượn tiền của ngoại quốc được hay khi nào còn ký được những hợp đồng béo bở, thì đời sống vẫn còn thoải mái. Nhưng mảnh đất chỉ bán được một lần thì thôi. Đất cho ngoại quốc mướn làm đồn điền hay hãng xưng thì cũng phải giao kèo gần một trăm năm. Còn tiền nợ ngoại quốc đến lúc trả tiền lời không nổi nữa thì người ta đâu có cho mượn tiếp. Còn hợp đồng thì đâu có hoài để ký . . .
       
      Trong bối cảnh đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ đến VN giống như một người bịnh ngặt nghèo đang nằm trên xe cứu thương mà lại bị thêm tai nạn lưu thông nữa . . .
       
      Thiên hạ không còn có tiền nhiều để mua hàng nhập cảng nói chung thì hàng hóa xuất khẩu của VN cũng sẽ giảm. Hàng gia công như giày dép, áo quần cũng sẽ giảm, ngay cả chuyện đau lòng và nhục nhã nhứt như nhân công xuất khẩu cũng sẽ giảm. Các kế hoạch xây cất khách sạn mới sẽ ngưng. Khách du lịch ngoại quốc sẽ giảm. Ngay cả tiền ăn nhậu của các cán bộ tham nhũng, của dân làm áp phe đã giúp các quán, các bar sống rộn rịp trước đây cũng sẽ giảm. . .
       
      Những nhân công trước đây dầu đồng lương ít ỏi nhưng vẫn có thể tự nuôi mình và có chút tiền nuôi gia đình. Bây giờ nếu họ bị thất nghiệp thì họ không còn đất đai ở nhà quê để mà trở về trồng trọt. Chén cơm bắt đầu phải chia hai rồi chia bốn. Chẳng bao lâu nữa, 80 triệu người Việt Nam sẽ bị kẹt cứng. Lúc đó chất xi măng sẽ xuất hiện.
       
      Cái ngày bi đát đó sớm muộn gì rồi cũng phải đến vì bốn nguyên do khách quan. Dân số gia tăng. Tài nguyên giảm. Cạnh tranh quốc tế sẽ khốc liệt hơn và cuối cùng là cái bất tài lãnh đạo. Cái ngày bi đát đó cũng tự nó có mâu thuẫn. Cái ngày đó không thể một sớm một chiều mà đến liền được. Nếu vô Casino đánh bài thì một đêm có thể thua một tỷ đô, nhưng nếu muốn phá nát cả nước VN thì phải cần nhiều năm lắm.
       
      Trong lãnh vực kinh tế, hễ tỷ lệ phát triển ba năm liền mà âm thì là khủng hoảng kinh tế. Nhưng có khi không cần có khủng hoảng kinh tế mới có đại loạn. Nếu trong nước mà đời sống quá chênh lệch, một số ít quá giàu và phung phí tiền bạc ngang tàng và số đông quá nghèo, cơm không đủ ăn, nếu số người ở tù quá đông chỉ vì có ý kiến khác với chánh quyền, thì đó là những dấu hiệu chắc chắn của bất ổn xã hội sắp xảy ra.
       
      Trong một nước, luôn luôn có một lực lượng xây dựng và một lực lượng phá hoại. Hễ xây dựng nhiều mà phá hoại ít thì có tiến bộ. Ngược lại xây dựng ít mà phá hoại nhiều thì nước sẽ đi thụt lùi. Hễ cứ thụt lùi hoài thì sẽ đến ngày tàn lụi. Ai ai cũng mong mỏi ngày tàn lụi của CS đến càng sớm càng hay nhưng có nhiều lý do khiến ngày đó vẫn còn xa xôi. Nhưng ngày đó sẽ đến khi nước VN kiệt quệ. Ngày mong mỏi đó cũng là ngày đáng sợ nhứt. Cứ để theo tự nhiên, ngày đó sẽ đến như một chiếc xe tuột dốc mà không có thắng.
       
      Thế giới ngày nay có quá nhiều thiên tai. Ngay cả những nuớc giàu có cũng khó khăn lắm mới cứu trợ thiên tai trong nước của mình. Cho nên việc cứu trợ quốc tế sẽ dần dần chỉ có tánh cách tượng trưng.
       
      Nếu lúc đó lại có thêm thiên tai thì nước VN sẽ vô cùng tàn nhẫn. Chánh quyền sẽ không có khả năng cứu trợ. Sẽ xảy ra tình trạng ai chết mặc ai.
       
      Trường hợp thứ hai là có người CS thức thời muốn tránh cái nguy cơ trên thì phải hành động trước. Trói buộc người dân vào chủ nghĩa CS là người CS thì cởi trói cho người dân khỏi chủ nghĩa CS cũng phải là người CS. Đảng CSVN phải theo cái gương của Liên Sô.
       
      Đứng chung với người CS phản động, tôi tin rằng vẫn có những đảng viên thành tâm và sáng suốt. Và những người này cũng biết đau lòng vì tình trạng đất nước. Chắc chắn rồi đây, trong số những người này, sẽ có người đủ hùng tâm, dũng khí để làm những chuyện phải làm. Đây là một chọn lựa rất khó khăn vì muốn đi con đường gian nan này thì phải bắt đầu bằng sự tự nguyện hy sinh những lợi lộc nhứt thời. Nhưng đây cũng là con đường vinh quang. Kết hợp trăm họ về một mối, đoàn tụ anh em, tạo dựng hạnh phúc cho mọi người xưa nay vẫn là hành động của những Đại Nhân.
       
      Đế quốc Liên Sô tháo g được thành công là nhờ Thế Giới Tự Do khuyến khích về tinh thần và giúp đỡ về vật chất.
       
      Nguời Việt Tự Do thật sự yêu nước cũng phải giúp đỡ CSVN trong tiến trình này.
       
      Thời gian nghiêng về đâu?
       
      Đối với người Việt Tự do ở hải ngoại, nếu họ ở khoảng tuổi 60-80, bao nhiêu phấn đấu, cực khổ để định cư đã qua. Bây giờ cuộc đời của họ đã ổn định rồi. Chén cơm, manh áo không còn phải lo nữa. An hưởng tuổi già chung quanh con cháu là hữu phước rồi, còn mong muốn gì hơn?
       
      Nếu họ ở tuổi 30-50 thì hầu như đa số đã trải qua ít nhứt một lớp huấn luyện sinh ngữ để hòa nhập vào xã hội mới, một số đã được huấn luyện nghề nghiệp chuyên môn để tự lập, một số đã tốt nghiệp Đại học. Một số đã là tỷ phú rồi. Một số không ít đã nổi danh. Tất cả đều có công ăn việc làm. Tương lai rực rỡ mở rộng cho họ. Không ai có ảo vọng về VN tranh giành chức tước.
       
      Đối với người Việt Tự do dầu ở lứa tuổi nào, nước VN có bị CS dày dò như thế nào và cho đến chừng nào, không có làm thiệt hại gì đến đời sống của họ hết. VN đã trở thành một dĩ vãng, một dĩ vãng có cả đau buồn và luyến tiếc. Nhưng chắc không còn ai dám đổ máu vì cái dĩ vãng xa xôi đó nữa. Thời gian giúp con người chấp nhận thực tế. Mặc dầu tình nước vẫn vấn vương, nhưng vấn đề VN không phải là vấn đề sinh tử đối với người Việt hải ngoại.
       
      Trong bối cảnh đời sống thành đạt và phồn vinh của người Việt hải ngoại, thử lấy vấn đề nhân dụng ra bàn. Chắc chắn lương của một giám đốc ngân hàng ở các nước tiền tiến là phải hơn nhiều lương của một giám đốc ngân hàng ở VN. Tự nguyện bỏ đồng lương lớn để lấy đồng lương nhỏ chỉ có thể xảy ra nếu có một động cơ ái quốc mãnh liệt. Nhưng lòng ái quốc này không còn bồng bột như xưa, lúc thanh niên lên đường ca hát vang trời "Mùa thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến...Rền khắp trời, lời hoan hô..."
       

      Vì cái kinh nghiệm của lịch sử, vì kiến thức có mở rộng hơn, vì cái dấn thân vào chỗ mơ hồ là quá phiêu lưu, nên cái đắn đo là tất nhiên.
       
      Vì vậy khoan vội coi vấn đề trọng dụng nhân tài là đơn giản. Người có tự trọng không thể nào đi phục vụ cho một chế độ độc tài. Người có tài ba không thể đành lòng phí phạm thời giờ của mình với một chánh sách sai. Cho nên không hẳn phải dẹp bỏ liền đảng CS, nhưng vấn đề chia quyền phải được thẳng thắn đặt ra.
       
      Nghe nói đến chia quyền là người ta thường, bỉu môi, khinh bỉ nghĩ đến việc chia chác quyền lợi. Nhưng chia quyền trong chánh trị là một kỹ thuật tổ chức của những người thành tâm và viễn kiến tự bày ra để bảo đảm dân chủ, chẳng hạn chia quyền ra bốn cơ quan độc lập: hành pháp, lập pháp, tư pháp, ngôn luận để các cơ quan này kềm chế lẫn nhau, thì mới tránh được sự lạm dụng quyền hành. Chia quyền là tinh túy của tư tưởng chánh trị cổ kim.
       
      Vì vậy, xin khoan vội hiểu ‘chia quyền’ là mời vài người Việt ở hải ngoại tham chánh là đủ. Chia quyền đây phải là bước đầu tiên để trả quyền chánh trị lại cho nhân dân, mà đại bộ phận của nhân dân là người trong nước. Và chia quyền lại không có nghĩa mời vài người ngoài đảng vào nội các trong nhiệm vụ thừa hành lệnh của đảng CS. Chia quyền phải thật sự là chấp nhận người ngoài đảng CS có quyền thảo luận và quyết định chánh sách của cả nước.
       
      Thời phong kiến, các Vua anh minh không tự mình độc đoán trị dân mà lại tìm kiếm nhân tài. Người được giao trọng nhiệm được tự do sáng kiến, tận hết khả năng để làm việc. Và có khi để thật hữu hiệu, và để tỏ rõ quyết tâm, Vua còn ban cho quyền ‘tiền trảm hậu tấu’. Ngày nay, nếu đảng CS vẫn cứ bo bo giữ độc quyền cai trị và kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt của người dân thì làm gì có nhân tài hưởng ứng?
       
      Chỉ khi nào VN có thay đổi và nếu đất nước thật sự cần đến thì nguời Việt hải ngoại chắc chắn không từ chối hợp tác. Không chỉ hợp tác về nhân sự mà là một sự hợp tác toàn diện, nó bao gồm cả kinh tế, tài chánh, thương mãi, văn hoá. . . Hợp tác là đã hy sinh rồi. Ngoại trừ một số người cơ hội muốn thừa nước đục thả câu, còn phải chờ đến chừng nào thì chờ, chớ người có khả năng đâu có nôn nóng. Thời gian không có thúc người Việt hải ngoại được.
       
      Năm xưa trong lúc tranh quyền, người CS có giết các nhà ái quốc đó là tội phản nghịch. Sau năm 1975, trong suốt hơn ba chục năm, chủ nghĩa CS không đem đến hạnh phúc cho nhân dân. Còn tiếp tục tôn thờ một chủ nghĩa đã sai là tội bất tài tập thể. Sau đó, biết rất rõ có cách để khai thông bế tắc mà không chân thành với chính mình, không đủ can đảm yêu nước, đây là tội tư kỷ. Cả hai tội này gom lại là một tội mới, tội cột chân nhân dân không cho tiến lên. Đừng tưởng thời gian sẽ xóa tội này được. Thời gian càng kéo dài, đất nước càng trì trệ, nhân dân càng đau khổ, thì cái tội này càng lớn.
       
      Không cần phải là Trạng Trình cũng có thể biết chắc chắn là sau này Việt Nam sẽ là một nước thạnh vượng. Tài nguyên dồi dào. Người dân làm việc cần cù, trí óc thông minh và sống có đạo lý. Đó là các điều kiện cần thiết – nhưng chưa phải là đủ. Còn phải có nhân hòa nữa. Cho nên cái thạnh vượng này không chỉ đo bằng số lượng xe hơi, TV, tủ lạnh mà người dân mua được, mà nó còn phải biểu lộ ra bằng nếp sống hài hòa và cái tự do tự quyết của nguời dân.
       
      Gia hòa vạn sự hưng. Cũng không cần phải là Trạng Trình cũng có thể biết rằng sự thạnh vượng này chỉ có thể đạt được nếu tất cả người dân có cơ hội đóng góp. Sự thạnh vượng này đến sớm hơn nếu có người Việt hải ngoại tiếp sức.
       
      Tấm lòng yêu nước của mỗi người liên hệ có cao hay thấp không tùy thuộc vào sự kiên trì chỉ trích đối phương mà tùy thuộc hoàn toàn vào cái thành tâm và cái can đảm của mỗi người tự nhận lỗi của chính mình.
       
      Tình tự dân tộc bấy lâu nay là nói nhảm, chừng đó mới thật sự bắt đầu.


      HỒ TẤN VINH
      - VIC - ÚC
      vnh_h@yahoo.com.au
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2011 13:41:09 bởi tramthytrang >
      #3
        tramthytrang 27.08.2011 11:11:06 (permalink)
        (*) Muốn chữ lớn lên hay nhỏ xuống [để dễ đọc]; xin bấm nút CONTROL và bấm dấu trừ [-] hoặc cộng [+] bên cạnh số 0 [zero].

        [sm=welcome.gif]


        CẦU TRE LẮC LẺO

        Tiểu thuyết (toàn truyện)

        Tác giả: ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền (N.S.W - Australia)


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        LỜI TÁC GIẢ


        Cầu Tre Lắc Lẻo là quyển tiểu thuyết gồm hai phần. Phần một: Lời Ru Của Mẹ. Phần hai: Lời Dạy Của Cha.

        Lời Ru Của Mẹ đã được in ấn và phát hành tại tiểu bang N.S.W – Úc vào năm 2002.

        Lời Dạy Của Cha; trong dự trù, cũng sẽ in ấn và xuất bản tiếp theo sau đó. Nhưng vì hoàn cảnh và sức khoẻ không cho phép. Phần hai này không được in ấn, xuất bản như phần một. Tất cả những ý chính trong phần hai này; được cô đọng lại, nhập chung vào Lời Ru Của Mẹ và trở lại tựa đề chính: Cầu Tre Lắc Lẻo và đưa lên mạng toàn cầu: www.tramthytrang.net từ tháng Năm - năm 2010.

        Hư cấu là yếu tố quan trọng chính yếu để tạo nên một quyển tiểu thuyết ly kỳ. Nhưng; hư cấu đã không được dùng làm yếu tố chính trong Cầu Tre Lắc Lẻo. Bạn đọc có thể xem Cầu Tre Lắc Lẻo như một vở bi kịch; mà bối cảnh được dựng lên từ năm 1983 đến năm 1999 để phản ảnh về một góc cạnh nhỏ của đời sống - vốn đa diện - của người Việt tỵ nạn tại Úc vào cuối thế kỷ trước. Thế kỷ hai mươi!

        Trân trọng.

        ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền (Sydney - 2005)

        [sm=welcome.gif]


        TỰA


        Cầu Tre Lắc Lẻo là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Đông Hải. Truyện kể về gia đình bà quả phụ Việt Nam: Bà Tám, quê ở Long An; cùng hai con nhỏ - Hiếu chín tuổi, Hạnh bảy tuổi - chạy nạn chiến tranh; vượt biển và định cư tại tiểu bang N.S.W – Úc Đại Lợi vào năm 1982.

        Bằng giọng văn bình dị của một người miền bắc, sinh trưởng ở miền nam . Cầu Tre Lắc Lẻo kể hoàn cảnh của gia đình bà Tám; vốn là chuyện đã thật sự xảy ra cho nhiều gia đình người Việt Nam, sau cuộc trốn chạy khỏi quê hương của mình - khởi từ tháng Tư năm 1975 - ở rải rác khắp nơi trên thế giới và mãi đến hôm nay, ngay lúc tác giả viết cuốn tiểu thuyết đầu tay này. Cuộc trốn chạy này cũng phản ảnh một phần nào về cuộc di cư của đồng bào miền bắc VN trước đó hai mươi năm! Năm 1954.

        Trong tinh thần văn tải đạo và dựa trên tinh thần dân tộc. Cầu Tre Lắc Lẻo - mà gia đình bà Tám, một gia đình VN tỵ nạn điển hình - Từ một điểm đứng, để có một điểm nhìn - Tác giả đã đưa vào Cầu Tre Lắc Lẻo những vấn đề về: Gia đình, xã hội, giáo dục, chính trị…mà những vấn đề này, đã trải ra theo thời gian người Việt sinh sống tại hải ngoại - nhất là tại Úc - nơi tác giả đang cư ngụ và dĩ nhiên; những ai không đứng cùng một điểm với tác giả, sẽ có thể không có cùng một điểm nhìn…

        Trân trọng giới thiệu đến độc giả khắp nơi; cuốn tiểu thuyết đã gây cho tôi nhiều cảm động này.

        Trân trọng.

        TRẦM THY – 8/2001.

        [sm=welcome.gif]


        BẠT


        Xin chào mừng người bạn văn mới.

        Đông Hải làm thơ cổ. Đông Hải viết thanh nhạc và bây giờ, anh hiên ngang xông thẳng vào thế giới văn xuôi. Với người cầm bút; miệt mài múa tay trên phím chữ, vượt được những băn khoăn ray rứt tuy mơ hồ, nhưng không kém phần khổ luỵ. Để xoá đi sự trong trắng đáng sợ của tờ giấy trắng, đôi khi còn khó hơn người phi công vượt bức tường âm thanh, lao vào giải ngân hà thiên nan vạn khổ của chữ nghĩa.

        Trong “tình trạng trầm uất” của “làng văn chương” hải ngoại hiện nay; nhiều cây bút thành danh đã lặng lẽ “treo ấn từ quan”! Đông Hải cặm cụi làm thơ, viết truyện, in sách, viết nhạc, hoà âm nhạc…và phát hành, xuất bản. Sự đóng góp của anh quả thật đáng nể.
        Trong cõi viết vừa mênh mông vừa sâu hút của chữ nghĩa. Khởi đầu là cái mốc vô cùng quan trọng. Đông Hải như bị hớp hồn và say sưa chữ nghĩa. Tác phẩm đầu tay nhờ vậy mà rất ngọt ngào…

        Cầu Tre Lắc Lẻo cũng nhốt nhiều mảnh đời, nhiều tâm cảnh. Bị chữ nghĩa ùa nhau quấn cho nghẹt thở, hay chữ nghĩa dệt thảm nhung đón tác giả bay lên. Tất cả nằm trong tim óc và tài ba của người viết. Dĩ nhiên; sự thành công của một tác phẩm, không chỉ là tài năng mài bút, hay múa chữ; mà còn tuỳ thời, tuỳ vận nữa…

        Thân chúc Đông Hải và Cầu Tre Lắc Lẻo thành công tốt đẹp nhất.

        LỆ HẰNG – Úc - 8/2001.

        [sm=welcome.gif]

        “VĂN DĨ TẢI ĐẠO…”


        Tôi may mắn được đọc bản thảo Cầu Tre Lắc Lẻo của Đông Hải, từ lúc chưa hoàn tất. Đông Hải muốn tôi viết đôi dòng kỷ niệm cho cuốn tiểu thuyết đầu tay này.

        Viết phân tích, phê bình tác phẩm là việc vượt ra ngoài khả năng của tôi. Cô Trầm Thy viết lời Tựa. Nữ sĩ Lệ Hằng viết Bạt. Vậy xin viết vài hàng cảm nghĩ để không phụ tình tri ngộ.

        Mấy lúc gần đây, trên một hai tạp chí, có xuất hiện một số thơ, truyện…mà tôi…thật “không hiểu nổi”, nếu không muốn nói là lập dị. Từ đầu đến cuối bài, không thấy một dấu chấm câu. Chữ nọ cứ ghép loạn vào chữ kia, không theo một quy tắc nào, khiến người đọc không biết tác giả muốn nói gì. Tôi không biết đây là loại văn chương gì? Hay các người viết này muốn tạo nên một trường phái mới?

        Tôi nhớ mang máng đâu đó, có nhà phê bình đã viết ý nhị rằng: “Anh không hiểu được văn chương người ta nói gì, thì làm sao anh có thể biết cái hay-dở mà phê bình”. Nghe thật là chí lý! Độc giả chưa đủ trình độ để hiểu cái “bất khả đoán” của văn chương? Độc giả chưa đủ “chuẩn” để thưởng ngoạn loại “thẩm mỹ cách tân”?

        Tôi cũng nhớ người xưa đã bảo: “Văn dĩ tải đạo”.

        Thi phú, văn chương; “trò chơi chữ nghĩa”, dù cách tân theo cung cách nào,tác giả cũng nên; trước tiên, dành cho người đọc một chỗ tối thiểu – giúp họ hiểu, thể hiện qua cú pháp của mình. Đó là yếu tố kích thích độc giả tiếp tục tìm đọc. Còn như nghiền ngẫm năm lần bảy lượt, mà độc giả vẫn chẳng thấy chút ý nghĩa gì, thì tác giả có nên tự hỏi mình có đủ “chuẩn” để làm việc cách tân?

        Cụ Tiên Điền Nguyễn Du, nổi tiếng với Truyện Kiều chỉ khiêm nhường là: “Lời quê góp nhặt dông dài. Mua vui cũng được một vài trống canh”. Còn cách tân thẩm mỹ mà không người thưởng thức nổi, e có điều bất ổn chăng? Văn không tải được đạo lớn như người xưa “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm”, thì cũng nên mang đến cho đời chút ý nghĩa giải trí, làm vui. Văn chương, thi phú… không thể chỉ thuần vị nghệ thuật mà lãng quên yếu tố nhân sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ đó; nhà thơ, nhà văn…không ngừng sáng tạo, cách tân là chuyện đương nhiên – nhưng trong tinh thần nâng cao phẩm chất nghệ thuật và làm đẹp cuộc đời – là hướng về chân, thiện, mỹ…

        Văn tải đạo thì chắc đạo phải nằm ngoài và vượt lên trên ngôn ngữ văn chương. Điều này cũng hàm nghĩa là, qua cách hành văn của tác giả, độc giả tìm thấy và hiểu được những gì tác giả muốn nhắm tới. Lời văn giản dị, trong sáng mà chuyên chở được ý nghĩa sâu xa càng hay, chứ cần chi phải lập dị, rườm rà.

        Tôi có một đồng nghiệp người đảo Maurice, cũng thích văn chương, triết lý. Tôi cho ông ta mượn hai cuốn sách ghi lại các bài nói của Michel Foucault, triết gia nổi tiếng người Pháp. Đọc đâu được một vài chương nhỏ. Ông ta mang sách trả lại, với bức thư yêu cầu tôi đừng bao giờ rủ rê ai đọc sách Foucault nữa. Ông còn kèm theo cái ghi chú nho nhỏ, nguyên văn: “Mr Foucault has caused me acute mental indigestion – still sick after reading”!

        Foucault bàn về triết lý, đọc khó hiểu và chán cũng phải. Nhưng cách hành văn của ông đâu ra đó, mạch lạc, sáng sủa. Cái khó, hay cái ý nghĩa triết lý nằm đàng sau và bên ngoài cách nói và viết của ông ta. Mà đâu cần phải triết lý sâu xa, văn chương bình dị, dễ hiểu, chất chứa tình người của Việt nam ta ở hải ngoại đâu thiếu gì. “Mình Lại Soi Mình” của Doãn Quốc Sĩ là một điển hình.

        Tôi yêu loại văn chương bình dị mà đầy ắp tình người ấy, nên có cảm nghĩ như trên. Tiểu thuyết Cầu Tre Lắc Lẻo của Đông Hải cũng không ra ngoài khuynh hướng đó.

        Cầu Tre Lắc Lẻo hay dở thế nào, xin dành quyền phê bình cho độc giả. Nhưng chắc chắn một điều, đó là: Văn tải đạo.

        NGUYỄN VĂN CHẤN - 11/2001.
        [Nguyên GS trường Sư phạm Saigon]

        [sm=welcome.gif]

        CẢM ĐỀ
        (Cảm đề khi đọc bản thảo
        "Cầu Tre Lắc Lẻo")


        Nhớ xưa mẹ hát ru con
        Ngày nay con hát ru con của mình
        Thế nhân đầy dẫy bất bình
        Còn chăng nửa kiếp tội tình đeo mang
        Cầu tre lắc lẻo bên đàng
        Lời ru của mẹ thắm ngàn đời sau...


        LỆ HOÀNG


        [sm=welcome.gif]


        CẦU TRE ẤM NHỊP
        (Cảm đề khi đọc tiểu thuyết CẦU TRE LẮC LẺO)

        Cành Nam chim Việt khắp nơi nơi,
        Toả mộng ngàn phương ngát giữa đời.
        Chẳng hẹn mà nên cùng góp sức,
        Nhịp cầu quê mẹ vọng lời vui.
        Người trông sông biển trao tâm sự,
        Ta vọng trời mây nhắn gửi lời.
        Hẹn ước trăng thề soi vạn thuở,
        Cầu tre đẹp mãi nhịp tình trôi.


        CHÂN DIỆN MỤC


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        (*)Những ý chính trong phần hai: Chữ màu xanh - green

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        [sm=welcome.gif]


        VÀO TRUYỆN

        “Hòòò…ớớớ…ơơơ
        Ví dầu cầu ván đóng đinh
        Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi
        Khó đi mẹ dắt con đi
        Con đi trường học mẹ đi trường đời”.


        Giọng hò của bà Tám, má của Hạnh ru em bé văng vẳng từ phòng trong; làm lòng Hạnh xót xa hơn khi nhìn ra ngoài, trời đang đổ cơn mưa chiều lập đông lạnh lẽo. Đó là một trong những điệu hát, câu ca hoặc lời ru con…xuất phát từ ca dao, tục ngữ hay điệu hò dân gian nào đó; ở quê hương mình và có tự thuở nào, thời điểm nào, Hạnh cũng không biết nữa. Mà chỉ biết rằng; anh em của Hạnh, được nghe những câu hò tương tự như vậy của bà Tám, của bà nội...từ lâu lắm rồi. Từ khi còn rất nhỏ, ở bên nhà, trước khi theo mẹ vượt biên đến Úc.

        Tiếng mưa rơi đều trên mái ngói; hoà với những lời ru con của bà Tám, tạo thành một loại âm thanh buồn buồn khó tả - Một khoảng không gian trong một buổi chiều; với những cơn mưa mùa, với gió se se lạnh - Làm Hạnh nhớ lại hình ảnh của chính mình mười hai năm trước; lúc còn ở Việt nam - Hạnh cũng ngồi co ro bên khung cửa sổ, cũng được nghe những câu hò của bà nội, cũng ngoài trời mưa đang rơi - ngồi chờ mẹ! Đã bốn ngày rồi, mẹ vắng nhà. Mẹ đi thăm ba ở nơi nào xa lắm, tận ngoài miền bắc. Lúc đó; Hạnh vừa tròn sáu tuổi và chưa từng được gặp cha. Tất cả những gì Hạnh biết về cha mình, đều như một huyền thoại. Đó là lần cuối cùng; Hạnh ngồi chờ mẹ từ nơi xa xăm đó, để kể tiếp cho Hạnh nghe, về chuyện người cha huyền thoại của mình:

        - Hạnh à! Tiếng bà Tám vọng ra từ phòng trong; làm Hạnh như bừng tỉnh sau giấc cô miên lạc lõng.

        - Dạ.

        - Thằng Hiếu về chưa con?

        - Dạ chưa má!

        Hiếu là anh duy nhất của Hạnh. Năm nay Hiếu hai mươi tuổi, lớn hơn Hạnh hai tuổi. Hạnh đang học lớp mười một ở trường nữ trung học công lập Birrong, cách nhà hai trạm xe lửa. Anh em Hạnh theo mẹ vượt biên và định cư tại tiểu bang N.S.W này từ giữa năm 1982; vị chi bây giờ cũng đã được mười một năm rồi. Thời gian đó đủ dài, để Hạnh trưởng thành về thể xác và tuổi mười tám cũng là tuổi để Hạnh bắt đầu hoà nhập vào những suy tư về “trường đời”, như trong lời ru của mẹ:

        - Nó có nói với con là nó đi đâu không vậy Hạnh?

        - Dạ không má.

        - Nó có nói với má là; nó đi tìm việc làm, mà sao đã gần sáu giờ chiều rồi cũng chưa thấy nó về!

        - Chắc lát nữa ảnh về, má đừng lo quá má. Ủa! Sao bữa nay dượng về trễ vậy má?

        Nghe tiếng chân của bà Tám từ phòng trong bước ra. Hạnh quay lại nhìn mẹ; vẫn trong dáng điệu khoan thai, vẫn giọng nói chậm buồn như từ lâu nay. Bà Tám bước đến vuốt lại mái tóc đang xoã xuống trán của con gái mình, nhỏ nhẹ:

        - Bữa nay ổng làm thêm giờ. Nhưng cũng sắp về tới. Thằng Hoài ngủ rồi, để má đi nấu cơm chiều.

        - Em bé ngủ rồi hả má?

        Hạnh hỏi để cho có, bà Tám không trả lời. Hạnh đứng lên theo mẹ xuống bếp phụ mẹ nấu cơm chiều như thường lệ mọi ngày, sau khi về học.

        Mấy tuần nay; Hạnh đã làm công việc bếp núc một mình vì mẹ mới sanh em bé. Thật ra; bà Tám đã có thể làm công việc đó một tuần sau khi sanh. Nhưng Hạnh thương mẹ, không muốn mẹ làm. Vả lại; Hạnh đã biết nấu hầu hết những món ăn cho gia đình mà đã học được từ mẹ. Với Hạnh; nấu ăn và chăm sóc nhà cửa là một niềm vui trong hạnh phúc gia đình và lúc nào Hạnh cũng muốn có mặt trong niềm vui hạnh phúc đó.

        Bé Hoài vừa đầy tháng hôm qua. Bé là em cùng mẹ khác cha với Hạnh. Từ ngày có sự hiện diện của dượng, rồi kế đến là bé Hoài; đã làm cho không khí trong gia đình bà Tám thêm ấm cúng. Sự ấm cúng mà anh em của Hạnh có thể cảm thấy được. Dượng là một người đàn ông hiền lành và hiểu biết; ít nhất thì ông cũng tỏ ra rất hiểu biết trong sự chung sống với gia đình của Hạnh gần hai năm nay.

        Cũng như ba mẹ con của Hạnh. Dượng đến Úc từ một quê hương đổ vỡ và đến với mẹ Hạnh từ một gia đình tan tác. Gia đình Hạnh biết dượng cách đây khoảng năm năm trong một dịp tình cờ, nhưng vô cùng đau đớn. Vì; vợ con của dượng và dì út của Hạnh không quen biết nhau, nhưng vượt biển cùng tàu và chết cùng ngày, trên đường vượt biển! Biển động! Tàu chìm vào năm 1988!

        Cũng như cha của Hạnh. Dượng là một người tù cải tạo của chế độ mới; vượt biển và định cư tại Úc năm 1987. Năm nay; dượng đã ngoài năm mươi và vẫn cặm cụi trong sinh nhai ở xứ sở mà dượng cho là tạm dung này.

        - Bữa nay má thích ăn món gì? Hạnh hỏi mẹ.

        - Ờ…Má quên nữa. Dượng của con có dặn má là hôm nay thứ Sáu; khi đi làm về, ổng sẽ ghé tiệm mua đồ về nhà ăn luôn, khỏi mất công nấu.

        - Dạ đúng rồi! Mấy tuần nay; chiều thứ Sáu nào sau khi tan sở, dượng cũng mua đồ ăn ở tiệm về. Chắc dượng nghĩ là em bé còn nhỏ quá; mình đi tiệm ăn không tiện, phải không má? Hạnh hỏi mẹ.

        Bà Tám không trả lời. Bà vừa lui cui mở tủ, vừa nói:

        - Để má làm thêm món này. Ờ…Món này ba con hồi trước thích ăn lắm nè…

        - Bánh xèo hả má?

        - Ờ…Mà ổng thích nhiều đậu xanh, không thích nhiều giá.

        - Thì đàn ông ít ăn rau mà má. Hạnh tỏ vẻ hiểu biết.

        - Thời gian qua mau quá! Vậy mà ba con mất nay đã hơn mười năm rồi!

        Ba của Hạnh chết vì bệnh sốt rét rừng vào khoảng năm 1983 tại trại cải tạo Nam Hà, đất bắc! Đó là điều chắc chắn mà bà nội của Hạnh biết được. Nhưng chết ngày nào, tháng nào và chôn ở đâu; thì cho đến nay, vẫn không ai biết! Ông bị bắt tại Saigon vào tháng Tám 1975 vì tội trốn trình diện học tập cải tạo; khoảng một tháng trước khi mẹ sanh Hạnh.

        Nội kể rằng: Thời gian đó; mẹ như người mất hồn, điên dại. Vì cuộc chiến đã tàn, quân miền bắc đã thắng mà không thấy ba về. Sau hơn một năm tìm kiếm khắp nơi; vẫn bặt vô âm tín. Mẹ lập bàn thờ cho ba, rồi tính chuyện vượt biên. Nhưng độ mấy tháng sau, thì mẹ nhận được thơ của ba gởi về từ trại cải tạo. Mẹ lại như người điên dại một lần nữa; điên dại vì vui mừng. Bà dẹp bỏ bàn thờ. Cúng tạ ơn trời đất và tức tốc tìm cách đi thăm ba...

        - À má à…

        Hạnh bỏ ngang câu hỏi, nhìn mẹ; vì hình như bà Tám đang khóc. Bà khóc không thành tiếng; nhưng hai hàng nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt đau khổ của bà. Hạnh ôm mẹ, lấy tay chùi nước mắt cho bà.

        - Má! Sao vậy má? Ba mất đã hơn mười năm rồi mà!

        - Ba con cho đến nay vẫn chưa có được mộ phần! Không có ngày đám giỗ! Bà Tám nói trong giọng nghẹn ngào.

        - Năm nào mình cũng làm đám giỗ cho ba mà?!

        Hạnh dìu mẹ trở ra phòng khách; cùng ngồi xuống với bà trên chiếc ghế salông dài. Bà Tám lấy một hơi thở thật đầy; như cố gắng đè nén lại tất cả những nỗi đau thương trong lòng. Bà cầm tay con gái mình, nhẹ nhàng nói:

        - Con khờ quá! Mình không biết ba con mất ngày nào; nên má lấy tạm ngày ba mươi tháng Tư cho ổng, để có ngày giỗ, có nhang đèn. Mà má nghĩ ngày ba mươi tháng Tư cũng là ngày giỗ cho rất nhiều người trên quê hương mình. Hồi lập bàn thờ cho ba con đợt đầu, má cũng đã lấy ngày này rồi!

        Bà Tám dựa lưng ra ghế, thở dài nhìn Hạnh. Bà nói tiếp:

        - Ngày ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày chấm dứt cuộc chiến hai mươi năm giữa hai miền nam bắc! Là ngày hoà bình!

        - Dạ con biết rồi. Mà sao ba không về nhà mình sau ngày đó vậy má?

        - Trước đây, má đã nói cho con nghe rồi. Tại lúc đó con còn nhỏ nên không nhớ thôi! Bà Tám thở dài, nhìn con gái mình rồi tiếp:

        - Sau ngày ba mươi tháng Tư năm 75 đó. Chính quyền Cộng sản đã kêu gọi tất cả sĩ quan của chế độ cũ ra trình diện họ; để được học tập gì đó, trong một thời gian ngắn thôi, rồi sẽ được về. Má nhớ mài mại họ nói cái thời gian ngắn đó; hình như là khoảng một tuần cho sĩ quan cấp uý và một tháng cho sĩ quan cấp tá…Mỗi người phải đem theo quần áo, mùng mền, đồ dùng cá nhân…và đóng một số tiền cho thời gian học tập này. Lâu rồi, nên má không còn nhớ rõ nữa. Nhưng ba con không muốn ra trình diện; ổng lẩn trốn ở Saigon là nơi đông đúc người, với hy vọng thay tên đổi họ, tìm nơi tạm lánh rồi tìm cách liên lạc với má con mình. Ba con về nhà không được là vì xóm mình thời đó; ai cũng biết ổng là sĩ quan của chế độ cũ. Con có nhớ ra là má đã kể cho con nghe chưa?

        - Dạ rồi má.

        Bà Tám như đã nguôi dần trong sự đau đớn; nước mắt đã ngừng chảy, giọng nói và hơi thở đã trở lại bình thường. Hạnh tìm cách đưa câu chuyện bi thương của mẹ về hướng khác; đưa mẹ về với hiện tại, một hiện tại vốn không đau thương như quá khứ. Bởi chính Hạnh cũng không đủ can đảm để nghe, hay chứng kiến sự đau lòng của mẹ.

        - Còn dượng thì sao má? Hạnh lái qua chuyện khác.

        Ngồi yên lặng giây lâu; ngước mắt nhìn đăm ra sân trước. Trời đã tạnh mưa, không khí tươi mát. Ngọn đèn ngoài đường trông yếu ớt trong buổi chiều chưa tối hẳn. Bà Tám đứng lên đi về phía cửa sổ, chậm rãi nói:

        - Dượng thì đi trình diện vào thời đó; ổng ở gần tám năm tù. Lúc đầu thì tù trong nam, sau thì ra bắc. Khi được thả ra, họ buộc dượng phải đi vùng kinh tế mới. Tại đó; dượng lập gia đình và có được một đứa con gái, nó nhỏ hơn con khoảng mười tuổi.

        - Vùng kinh tế mới là gì má? Hạnh vừa gãi đầu, vừa nheo mắt như cố gắng để nhớ ra điều gì. Vì cái "vùng kinh tế mới" này nghe quen quá, nhưng không biết ở đâu.

        - Vùng kinh tế mới. Đầu tiên thì là vùng rừng rú chưa khai khẩn và dĩ nhiên là không có ai ở đó hết. Người bị đưa đến đó phải tự khai phá, làm nhà, trồng trọt…

        - À! Con nhớ ra rồi. Hạnh chặn lời mẹ và tiếp:

        - Nhưng sao dượng đi vượt biển mà không đem theo vợ con?

        Bà Tám đưa tay kéo màn cửa sổ lại, căn phòng trở nên tối hẳn. Bà vừa đưa tay bật đèn, vừa chậm rãi nói:

        - Không đủ tiền. Mỗi người khi đi vượt biên, phải tốn rất nhiều tiền. Ở bển; họ tính bằng vàng ròng. Con thấy đó, những người nghèo đâu có tiền để đi vượt biên. Nếu không; người ta đã đi hết rồi. Vả lại lúc đó; con gái của dượng còn nhỏ lắm, mới được mấy tháng tuổi à! Trong khi đi vượt biên thì rất nguy hiểm! Con không thấy báo chí đăng tải hoài về tin những người trốn chạy khỏi quê hương mình, bị bắt bớ, tù đày chết chóc đủ thứ đó sao? Chưa kể đến chết trên biển cả vì gió bão, như dì út của con và vợ con của dượng hồi mấy năm trước! Hoặc chết, mất tích do hải tặc… Mình cũng đã vượt biên như họ, nhưng may mắn hơn thôi. Con quên chuyện của chính mình rồi sao?

        Hạnh không thật sự lắng nghe lắm, bởi vì; Hạnh còn nhớ tất cả những gì bà Tám vừa nói. Bà Tám hình như cũng biết điều đó; nhưng vẫn muốn nói, như tưởng con mình không biết, hoặc đã quên. Hạnh mỉm cười, hơi vui; vì đã dắt mẹ ra khỏi vùng ký ức đau thương về người cha huyền thoại của mình. Có lẽ khoảng ba năm nay; đây là lần đầu tiên Hạnh thấy mẹ mình khóc…

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Dượng cũng đã về. Không khí ấm cúng gia đình trộn lẫn với mùi đồ ăn và cả mùi bánh xèo thơm phức. Nhưng lại thêm một lần nữa thiếu bóng dáng của Hiếu trong bữa cơm cuối tuần…

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Một buổi sáng tháng Bảy, từ trong phòng ngủ; bà Tám ngồi chống tay lên cằm đăm chiêu nhìn ra cửa sổ. Bên ngoài, ở cuối sân sau; thưa thớt mấy bụi rau thơm bên cây ớt, phía kia là khóm bạc hà. Tất cả như muốn tàn lụi bởi cái lạnh mùa đông tại Úc. Bên cạnh bà là nôi của bé Hoài, bé vừa ngủ lại sau khi bú hết bình sữa đầu tiên trong ngày. Bà Tám đưa bàn tay lên bấm những đốt ngón tay thon nhỏ của mình, lẩm bẩm tính:

        - Vậy mà mình đến Úc đã hơn mười một năm rồi!

        Bà mơ màng thả hồn về quá khứ. Thời gian qua đi mau quá; mới đó mà nay bà đã sắp bước qua tuổi bốn mươi hai - Tuổi của phụ nữ đã về già và ít ai có con nhỏ như bà!

        Ba mẹ con bà đến Sydney vào giữa năm 1982; sau gần sáu tháng ở trại tỵ nạn Galang, nằm trên một đảo nhỏ thuộc xứ Nam Dương. Sydney là thành phố phồn thịnh và lớn nhất của nước Úc này. Cũng như những người tỵ nạn khác; gia đình bà được đưa về khu tạm cư [hotstel] của chính phủ dành riêng cho người tỵ nạn mới đến từ khắp nơi trên thế giới. Ở đó; người tỵ nạn được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt khác hơn những người bản xứ, hay những người tỵ nạn đã đến từ lâu trước. Bởi vì; Úc là xứ nói tiếng Anh. Nhưng hầu hết những người tỵ nạn này đều đến từ những quốc gia không nói tiếng Anh và họ hiểu biết rất ít về đời sống xã hội Úc. Họ được hưởng trợ cấp đặc biệt cho người mới tới. Được hướng dẫn mọi thứ cần thiết. Được khuyến khích tham dự các lớp học Anh ngữ, để dễ tìm việc làm. Khai trường cho trẻ em, giúp thanh thiếu niên nam nữ tiếp tục việc học hành và cho cả những người lớn tuổi…v..v. Tóm lại; thời gian ở hostel là thời gian tạm đủ để người tỵ nạn thích nghi với hoàn cảnh của xã hội mới, ít nhất là giai đoạn đầu của đời sống mới này.

        Mẹ con bà Tám ở hostel được vài tuần, rồi dọn ra ngoài ở chung với gia đình một người đồng hương tại Bonnyrigg; cách thành phố Sydney khoảng hai mươi cây số về phía tây. Khu này tương đối có nhiều người Việt cư ngụ. Nói là đồng hương, chớ bà Tám không biết họ trước đây; họ chỉ là người ở Long An, cùng quê với bà. Gia đình người đồng hương này đến đây đã gần bốn năm rồi và họ mướn lại căn nhà này của một người di dân gốc Ý.

        Bà Tám quyết định ra đây ở vì gần trường học cho con và vì bà không quen biết ai khác nữa ở tiểu bang này. Chưa biết tiếng Anh. Chưa biết lái xe. Chưa đủ tiền mướn một nơi riêng biệt để ở…Bà nhờ người khai học cho con; trường học cách nhà khoảng chưa đầy một cây số. Mỗi sáng; bà dắt hai con đi bộ đến trường, rồi bắt xe buýt đi ngược về hostel để học Anh ngữ.

        Cũng như những người tỵ nạn khác; bà Tám và hai con nhỏ đến đây từ một quê hương điêu tàn và từ một gia đình khốn khổ. Hiếu chín tuổi, Hạnh bảy tuổi; không người nương tựa. Bà Tám cố gắng quên đi những gì có thể tạm quên đi được, để lo cho cái hiện tại rất khó khăn trong bước đầu của đời sống mới nơi xứ người. Thằng Hiếu và con Hạnh; mỗi sáng khi gọi dậy để chuẩn bị đi học, chúng đều khóc. Chúng sợ đi học. Bởi vì khi đến trường; không hiểu thầy giáo nói gì, không hiểu bạn bè nói gì! Ở lớp học của cả hai đứa cũng có vài học sinh Việt học chung. Nhưng; những đứa đó cũng chỉ nói chuyện bằng tiếng Anh chớ không nói tiếng Việt. Bởi Úc là xứ nói tiếng Anh mà!

        Nhưng đến khoảng sáu tháng sau thì sự trở ngại này đã bớt đi nhiều. Chúng thích đi học hơn ở nhà. Bởi hai đứa giờ đã hiểu nhiều về tiếng Anh; đủ để có bạn ở trường, tạm đủ để hiểu hầu hết những gì thầy giáo nói. Đi học thấy vui hơn. Trẻ nhỏ nghe và nói ngoại ngữ mau hơn người lớn nhiều lắm. Bây giờ; ở nhà hai đứa nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt. Cũng nhờ đó mà bà Tám đã nói và nghe Anh ngữ được thêm nhiều.

        Buồn vui lẫn lộn trong cuộc sống mới và ai đâu đó ra sao, bà Tám không rõ. Nhưng với bà; buồn vẫn nhiều hơn vui. Vui là khi nhìn thấy hai đứa con đã yên ổn việc học hành; vẻ mặt chúng không còn ngơ ngác, sợ sệt như sáu tháng trước đây và đã dám tự dắt nhau về nhà sau khi tan học. Buồn vì bây giờ chúng xa quê nhà, đất tổ. Xa cha, xa ông bà nội, ngoại…mà có thể sẽ không bao giờ còn gặp lại!

        Một hôm; bà Tám nhận được thơ từ Bộ Gia Cư của chánh phủ tiểu bang. Lá thơ nói gì, bà đã hiểu. Nhưng bà không tin là bà được chánh phủ cấp nhà mau như vậy. Bà cầm thơ đi nhờ người hỏi giùm cho chắc chắn: Bộ Gia Cư đã đồng ý cấp cho mẹ con bà một căn chung cư trong cư xá, thuộc khu Chester Hill. Bà mừng quýnh quáng chạy về gọi con:

        - Con à! Hiếu à…Hạnh à!

        Hai đứa con nhỏ đã về nhà sau khi tan học, đang chơi trong sân trước nhà. Chúng chạy ùa đến bên mẹ - Một người mẹ tiều tuỵ, trong dáng vẻ vẫn còn phảng phất chân quê, của một phụ nữ đến từ một xứ sở nghèo nàn, tội nghiệp - Chúng còn ngây thơ quá để biết rằng: Mẹ chúng đã già đi hơn trước. Mẹ đã già trước tuổi. Đôi mắt bà Tám vẫn mở to không chớp, miệng bà vừa kịp ngậm lại, để tiếp:

        - Mình có nhà chánh phủ rồi…

        - Thiệt không má? Thằng Hiếu hỏi; trong khi mẹ nó, tay đang run run cầm lá thơ. Bà nói.

        - Thiệt mà! Lá thơ đây nè. Má có nhờ người nói rành tiếng Anh điện thoại lên hỏi lại cho chắc chắn rồi!

        - Đâu? Má đưa thơ con đọc coi.

        Thằng Hiếu cầm tờ giấy vừa lầm bầm đọc, vừa chạy đi.

        - Đi đâu vậy Hiếu? Bà Tám hỏi.

        - Chắc ảnh đi kiếm anh Thành đặng hỏi cho rõ đó má. Ở đây, cái gì anh hai cũng hỏi anh Thành hết trơn. Ảnh học giỏi lắm, tới lớp chín lận. Hạnh nói.

        - Anh Thành nào vậy con? Bà Tám hỏi Hạnh.

        - Anh Thành con cậu Năm chủ nhà mình nè. Không phải anh Thành bên kia đường đâu má.

        - Cậu Năm, mợ Năm về chưa con?

        - Dạ chưa má.

        - Thôi! Mình đi ăn cơm con. Mai sớm, má còn phải nhờ người chở đi coi nhà. Hễ xong thì mình còn dọn tới.

        Bà dắt con gái đi theo lối bên hông nhà để đến cái garage ở phía sau; nơi mà, ba mẹ con bà tá túc bấy lâu. Thằng Hiếu chạy ù trở lại, vừa thở, vừa nói:

        - Đúng rồi…Đúng rồi má ơi! Anh Thành nói; mình có nhà chánh phủ rồi...

        Bà Tám ôm hai đứa con vào lòng. Đọc lá thơ, bà hiểu chớ. Nhưng bà không biết nghe và nói rành tiếng Anh thôi. Người Úc ở đây nói gì, bà không hiểu. Mà bà nói, họ cũng không hiểu luôn. Bà chỉ đọc được thôi. Nếu có chữ nào kẹt, thì đã có cuốn từ điển giúp bà.

        Thằng Hiếu rươm rướm nước mắt. Bà biết tại sao nó khóc! Nó khóc vì vừa mừng, vừa tủi. Từ hostel ra đây, ba mẹ con bà sống trong một cái phòng nhỏ phía sau nhà. Trước đây; căn phòng nhỏ này là cái garage để đậu xe. Cậu Năm sắp xếp lại để cho mướn với giá rẻ, nhằm giúp cho người mới tới có cơ hội để dành tiền và cũng giúp chia bớt gánh nặng về tiền thuê nhà của chính cậu Năm nữa.

        Căn phòng nhỏ này chỉ vừa vặn cho một cái giường đôi, một cái tủ áo nhỏ, một cái bàn nhỏ và một cái ghế. Ba mẹ con bà Tám sống lóp ngóp trong căn phòng này đã sáu tháng rồi. Mấy tuần vừa qua; trời đã chuyển sang mùa hè, nóng như thiêu đốt. Hai đứa nhỏ hình như chịu không nổi với cái nóng khủng khiếp trong căn phòng này. Hạnh chợt hỏi:

        - Ngày mai má nhờ ai chở đi coi nhà vậy má?

        - Thì bà sơ Mary, chớ má có biết ai nữa đâu con.

        - Phải bà Úc ở hội từ thiện St Vincent De Paul thường đến thăm mình không má? Hiếu hỏi.

        - Ờ! Bà sơ Mary thương nhà mình lắm. Bả thấy má con mình sống khổ sở quá; bả đích tay viết thơ lên Bộ Gia Cư xin cấp nhà sớm cho mình. Má tưởng mình còn phải chờ lâu, nào ngờ bây giờ đã có. Mà lại không ở xa xôi gì. Ở tại Chester Hill gần đây nữa…Bà ôm hai con và nói tiếp:

        - Thiệt là trời đất đã phù hộ cho mình! Để ra nhà mới rồi má mua đồ về cúng ông bà, tạ ơn trời đất…Thôi! Đi ăn cơm rồi ngủ sớm con, mai còn đi học. Bà Tám vừa nói, vừa nhóm chân đi.

        - Tụi con còn học có một ngày nữa là được nghỉ holiday rồi. Ngày mai là ngày cuối cùng đó má. Hiếu reo lên.

        - Ờ héng. Con không nói là má quên mất tiêu. Ở đây hơi khác với bên mình. Xứ này; cứ tới khoảng giữa tháng Mười Hai Dương lịch, là học trò được nghỉ sáu tuần để đón Giáng Sinh, đón Tết Tây, đi chơi…khi trở lại là lên lớp mới. Bà Tám vừa nói vừa đưa tay lấy lại lá thơ từ tay thằng Hiếu, bà nhắc:

        - Thôi! Đừng níu má nữa nè. Bộ chưa đói bụng sao?

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Bữa cơm chiều hôm đó; không có món ăn nào đặc biệt, mà vẫn là một bữa cơm ngon miệng và vui vẻ nhứt của ba mẹ con bà Tám trong mấy tháng nay. Nhưng đêm hôm đó; lại là một đêm khó ngủ của bà. Bà mở mắt ra để nhìn hai đứa con mình đang hồn nhiên ngủ và nhắm mắt lại để mường tượng thấy căn nhà sắp sửa dọn ra.
        Rồi bà cũng ngủ thiếp đi khi trời gần sáng…

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Tiếng khóc trong mơ của bé Hoài đưa bà Tám về với hiện tại. Bà nhóm người tới để đắp thêm cho bé tấm mền mỏng và cầm bình sữa đã cạn, đi xuống bếp.

        Từ khi có bé Hoài; thường ngày vào giờ này, chỉ có một mình bà ở nhà với bé. Bà đã ở tại căn nhà này hơn mười năm rồi. Bây giờ ngồi hồi tưởng lại; khi mới về nhà này, bà đi làm lao công ở nhà thương Nhi đồng gần thành phố, được hơn bốn năm. Bà đi làm bằng xe buýt, xe lửa vì chưa biết lái xe.

        Một buổi chiều, cũng mùa đông năm 1983. Sau một ngày làm việc mệt nhọc, bà về nhà. Như thường lệ, bà ghé lấy thơ từ thùng thơ trước ngõ. Bà có thơ từ Việt nam do cô Bảy, chị ruột của chồng bà gởi tới. Bà đi vội vào nhà, xé thơ ra đọc - Bà hét lên một tiếng lớn rồi nằm té trên sàn nhà, bất động - Bà không bị xỉu. Bà chỉ quá đau đớn khi hay tin chồng bà đã chết! Rồi bà như người bệnh liệt giường, không đi làm được cả tháng. Thời gian hơn bốn năm đi làm, bà thường bị cảnh cáo vì đi làm trễ giờ và nghỉ nhiều ngày hơn quy định…

        Ở nhà chánh phủ; khi đi làm, bà phải đóng tiền mướn nhà nhiều hơn người thất nghiệp. Mà phải bỏ hai đứa con nhỏ ở nhà; tự đi học, không ai chăm sóc. Bà quyết định xin nghỉ việc khi thằng Hiếu sắp sang tuổi mười lăm.

        Từ hồi về căn nhà này, cho đến khi thằng Hiếu mười hai tuổi. Hai đứa con của bà; không đứa nào chịu ngủ phòng riêng. Bà đuổi chúng về phòng; thì nửa đêm, cũng thấy chúng đang nằm bên cạnh. Tại chúng thấy trống vắng quá. Thằng Hiếu đã thay đổi nhiều sau hai năm ở Úc và nhứt là từ khi nó hay tin ba nó đã mất; nó thay đổi rõ hơn. Nó trở nên ít nói, ít cười. Dạo đó; một buổi tối cuối tuần. Như thường lệ mọi tối; hai đứa nhỏ vẫn chui vào giường, ngủ với mẹ. Ngày mai là thứ Bảy, rồi Chúa Nhựt; bà không phải đi làm, hai đứa nhỏ không đi học. Chúng thường chờ đợi những ngày cuối tuần như vầy, vì được ở nhà với mẹ. Nằm trên giường, thằng Hiếu hỏi mẹ:

        - Khi mình đi vượt biên, ba có biết trước không vậy má?

        - Có! Ba con biết chớ. Má đã nói với ổng nhiều lần; từ hồi ổng mới ở tù được khoảng đâu hai ba năm gì đó. Má nói với ổng là: Bà nội tụi bây muốn má dắt tụi bây đi vượt biên, nhưng má không chịu…

        - Rồi ba nói sao má? Thằng Hiếu ngắt lời bà Tám.

        - Lúc đầu, ổng không nói gì. Nhưng sau; có một lần, bà nội theo má đi thăm ổng. Nội nói với ổng sao đó; nên lúc sau này, ổng thường nhắc má là: Nên nghe theo lời bà nội. Má nói: Không được! Tại má thấy không đành lòng. Mà hơn nữa; trong bụng má lúc đó không tính tới chuyện vượt biên.

        - Mà sao cuối cùng mình lại đi hả má? Con Hạnh hỏi.

        - Lần đó. Bà nội con khóc và nói với má là: Ông nội hai đứa bây đã mất lâu rồi và ông bà nội chỉ có hai người con trai thôi, đó là chú Mười và ba của tụi con. Chú Mười cũng đã qua đời hồi còn rất trẻ, chưa vợ con gì. Còn ba của tụi bây thì đang ở tù không biết có ngày về hay không. Nên có lẽ, cháu nội trai duy nhứt của ông bà nội là thằng Hiếu.

        Ngừng lại một chút, bà Tám tiếp:

        - Nội nói: Nếu má thương ba, thì phải đem hai đứa bây trốn ra nước ngoài. Cô Bảy sẽ thay má nuôi ba trong tù và mọi chuyện khác đã có nội lo hết. Má không chịu vì nghĩ là đi vượt biên cũng nguy hiểm, chết chóc vậy. Nội nói: Chuyến này an toàn lắm, do người quen của nội tổ chức và nội cũng đã giao vàng cho người ta rồi. May nhờ thời hạn được thăm nuôi ba con đã đến. Má tức tốc ra gặp ba và nói cho ổng biết. Ba nói với má là: Phải đi đi, ba sẽ đi sau! Đó là lần cuối cùng má gặp ba và cũng là lần đầu tiên má thấy ba chảy nước mắt…

        - Con còn nhớ chuyện đó. Con Hạnh chận lời mẹ.

        Bà Tám nghẹn ngào, ngừng lại giây lâu để cố gắng đè nén lại những xúc động đang dâng lên cuồn cuộn ở trong bà. Khi bà lấy lại được sự bình thường thì mới biết rằng; hai đứa con của bà cũng đang khóc. Thằng Hiếu úp mặt xuống gối. Còn nước mắt con Hạnh đã thấm ướt ngực áo bà…

        - Con dòm hình ba, con thấy con Hạnh cười giống ba lắm má.

        Thằng Hiếu vừa nói, vừa tuột xuống giường. Nó chạy lại tủ áo kiếm cái giỏ đựng hình của ba nó. Tất cả những gì thuộc về ba nó đều nằm trong cái giỏ bằng da nhỏ xíu này. Bà Tám lâu lâu lại mở giỏ ra coi, xong rồi thì lại cất kỹ trở lại tủ. Trong cái giỏ nhỏ xíu đó chỉ gồm gần một chục tấm hình của ông Tám và một xấp giấy, với chữ viết chằng chịt và cũng đã ngả màu lem luốc...Đó là đoạn đầu của một bài thơ do chính tay ông Tám viết ở trong tù. Bài thơ này trước đây có đủ nguyên bài và được chia làm nhiều đoạn để gởi cho bà; nhưng đã bị thất lạc mất đoạn sau trong kỳ vượt biên. Bà Tám và hai con của bà nâng niu, gìn giữ mấy tấm hình của ông Tám với bài thơ này như một bảo vật và coi như hiện thân của ông Tám. Trước đây; từ hồi còn ở bên Việt Nam cho tới khi tới Úc. Bà dùng bà thơ này làm mẫu để dạy chữ Việt cho hai con. Bà đọc cho chúng nghe, giải nghĩa cho chúng hiểu. Lúc đầu thì chỉ thuần là tập đọc, tập viết chữ Việt theo bài thơ mẫu này thôi. Nhưng khi ông Tám đã qua đời và mẹ con bà lại đang ở Úc, thì bài thơ này trở thành một nhu cầu cần thiết hơn. Bà sợ chúng quên tiếng Việt…

        Bà muốn dạy chữ Việt cho con mà không có tài liệu và bà cũng muốn cho hai con của bà gần gũi với cha của chúng hơn, qua bài thơ của chính ông làm. Vả lại; hai đứa nhỏ lại rất trân trọng những gì thuộc về ông và cho đó là tâm huyết của cha mình để lại. Chúng học thuộc lòng rồi tập viết ra, sao cho không sai chánh tả…

        Thằng Hiếu đã tìm được cái giỏ và trở lại giường. Nó lôi tất cả đồ trong giỏ ra. Nó coi từ tấm hình của ba nó. Vừa coi, vừa đưa một tấm hình mà ba nó đang cười cho bà Tám. Nó nhắc lại lời nó nói hồi nãy:

        - Nè! Má coi! Phải con Hạnh cười giống ba y trang không má?

        Dĩ nhiên bà Tám biết chớ! Hai đứa con của bà đều nhìn giống cha chúng nhiều hơn, ít có điểm giống bà. Nhưng con Hạnh thì bà nội cũng đã nói; nó giống cha nó nhiều thứ: Từ mặt mũi, cười nói, ăn uống tới mọi cử chỉ…giống y khuôn. Thằng Hiếu đưa cho bà tấm hình mà ba nó chụp chung với chú Mười. Nó hỏi:

        - Tạo sao chú Mười chết vậy má?

        Bà Tám cầm tấm hình; lật qua, lật lại xem kỹ một hồi lâu để tìm lại trong ký ức rồi bời của mình về một câu chuyện mù mờ, đã xảy ra hơn mười năm trước và cố gắng nói sao cho con mình dễ hiểu, vì đầu óc chúng còn non nớt quá. Bà kể:

        - Hồi đó; chú mười còn trẻ lắm, chưa lập gia đình và còn đang đi học. Má nhớ là năm đó chú Mười đương theo học năm thứ hai tại trường Sư phạm ở Saigon…vào khoảng đầu năm 1973. Lúc đó; đơn vị của ba tụi bây đóng ở Kontum, xa nhà mình lắm! Đầu năm 73 này; thế giới có giúp Việt Nam mình ký một Hiệp định Hoà bình. Bởi vì cuộc chiến đã kéo dài quá lâu rồi. Máu xương, tang tóc quá nhiều. Theo Hiệp định này; Việt Nam phải ngưng chiến tranh để nói chuyện với nhau. Nói chuyện hoà bình. Hai bên nam bắc đã đồng ý với nhau, để ký vô bản Hiệp định. Nhưng ở nhiều nơi tại miền nam; phía bên miền bắc họ vẫn đánh. Còn phía bên đây thì cứ lui. Lúc đó; ông nội tụi con còn sống. Ổng lo lắng vì thấy tại sao mấy tháng rồi, không nghe tin tức gì từ ba của tụi bây hết. Ổng biểu chú Mười phải nghỉ học ít hôm để ra Kontum thăm ba con coi sao. Trước đó; có lần má đã ra thăm ba con rồi. Lần này; má đi không được, vì lúc đó má đang mang bầu thằng Hiếu, gần sanh rồi…chú Mười chết trong chuyến xe đò ra Kontum này.

        Bà Tám ngưng lại, ngồi lên; gôm hết hình ảnh, giấy tờ bỏ vô trong giỏ rồi đi cất trở lại trong tủ. Hai đứa nhỏ vẫn im lặng chờ đợi. Bà Tám tiếp:

        - Chuyến xe đò của chú Mười bị quân miền bắc đắp mô…

        - Đắp mô là cái gì vậy má? Hai đứa đều hỏi.

        - Đắp mô! Hồi chiến tranh: Quân đội miền nam không tiến công ra bắc. Nhưng bộ đội miền bắc thì trú đóng ở khắp nơi trong rừng rú miền nam. Họ thường chặt cây trong rừng đem chất giữa đường quốc lộ, rồi đổ đất lên đống cây này. Có khi họ gài mìn trong đó. Xe cộ không đi qua được, mà cũng không dám lại gần. Còn họ thì núp đâu đó trong rừng. Hễ thấy xe của quân lính đối phương thì tấn công. Còn gặp xe thường dân thì họ ra khám xét. Nếu thấy ai khả nghi thì bắt đem đi; đôi khi có người bị giết trong rừng gần đó. Rồi sau đó; thường thì chỉ còn là đàn bà, con nít trong xe và cũng có khi, mọi người phải hùn nhau nộp tiền, thuốc Tây hay cả đồ ăn nữa...rồi họ mới cho xe chạy qua. Như vậy gọi là đắp mô. Má cũng chưa đích mắt thấy, má chỉ nghe người ta kể lại thôi…

        - Rồi! Vậy là xe chú Mười gặp xui quá rồi. Bị đắp mô mà! Rồi họ bắn chú Mười hả má? Con Hạnh trợn tròn đôi mắt hỏi.

        - Ờ…Tới giờ cũng không ai biết tại sao họ lại bắn chú Mười. Chú đâu phải lính tráng gì đâu! Ông bà nội tụi con khi hay tin; bà nội té ra chết giấc. Ông nội buồn quá mà lại tuổi già sức yếu. Ông nội cũng qua đời mấy tháng sau đó…

        Ngừng lại một chút, bà Tám tiếp:

        - Ba của tụi bây kỳ đó cũng có về phép mấy ngày; để lo cho đám tang ông nội và lần đó, ổng mới thấy mặt thằng Hiếu lần đầu tiên. Lúc đó, má sanh thằng Hiếu được độ một tháng ngoài…

        Bà Tám miên man với quá khứ của mình. Lúc thì bên Việt Nam. Lúc thì ở tại Úc...Bây giờ thì đã xa xôi hết cả. Thằng Hiếu mới đó nay đã hai mươi tuổi; tuổi mà ba nó sắp sửa lập gia đình…

        Cách đây khoảng bốn năm; nó bắt đầu lộ ra nhiều điểm bê bối về việc học hành. Song song với việc; đi và về học trẹo giờ giấc. Nó thường đi học trễ và về nhà trễ hơn trước đây. Bà Tám đã lo ngại nhiều là thằng Hiếu có thể trở thành hư hỏng. Ngay từ khi bà bắt đầu đi làm ở nhà thương Nhi đồng, thời mới tới Úc. Bởi vì; với bà: Không một đứa trẻ nào khi mới sanh ra, đã là hư hỏng. Nhưng nó sẽ là một người tốt, hay trở thành người xấu bởi ba môi trường sống chính yếu, mà nó đã sống qua. Ba môi trường đó là: Thứ nhứt là gia đình. Thứ nhì là học đường. Thứ ba là xã hội. Gia đình là môi trường sống quan trọng đầu tiên cho đứa trẻ, rồi kế đến là học đường. Nếu thiếu một trong hai môi trường này; hay một trong hai môi trường này không tốt, thì đứa bé đó có nguy cơ sẽ bị trở thành người xấu. Cái xấu sẽ thể hiện rõ nét nhứt khi đứa trẻ ở vào lứa tuổi thanh hay thiếu niên và khi đứa trẻ đã trở thành người xấu mà không có môi trường xấu thứ ba - Tức là môi trường xã hội xấu - để hội nhập vào, thì đứa trẻ đó vẫn khó có cơ hội để trở thành người xấu hẳn.

        Bà và hai đứa con nhỏ dại ngây thơ đã bị buộc phải trốn chạy khỏi một quê hương có nhiều đau thương, máu lửa. Mà trên quê hương đó; có hàng triệu gia đình khốn khổ như, hay khốn khổ hơn gia đình của bà nữa, đã chạy tán loạn đi khắp nơi trên thế giới, gần hai mươi năm nay. Những đứa trẻ đã đến từ những quê hương đổ vỡ như vậy; đã tự nhiên không có một môi trường gia đình tốt. Hai đứa con của bà: Thằng Hiếu, con Hạnh. Đứa mới lên mười, đứa vừa lên tám; đã chạy loạn từ Việt Nam qua Nam Dương, rồi đến Úc. Đã hai lần được tin cha chết; rồi cuối cùng thì mồ côi cha. Đến Úc; thì thằng Hiếu phải học hai năm rưỡi cho một lớp đầu tiên và con Hạnh thì một năm rưỡi, cũng vào dạo đầu tiên đó…

        Hai đứa con của bà; nhờ vào bài thơ kỷ niệm của ba tụi nó mà rất giỏi về môn Việt ngữ. Bà Tám còn nhớ cách đây mấy năm; vào dịp sinh nhật thứ mười tám của thằng Hiếu, bà làm tiệc sinh nhật cho nó. Sau buổi tiệc; nó đưa cho bà một tờ giấy được xếp thẳng thắn đường hoàng. Bà mở ra đọc; khi đọc xong, bà ngạc nhiên nhìn nó. Rõ ràng là tuồng chữ của nó; tuồng chữ rất gọn gàng, khéo tay. Nó chép được bài thơ bằng chữ Việt này từ đâu? Mà sao nó lại chép bài thơ này, mà không phải là bài khác? Bà nghĩ; nó phải hiểu ý nghĩa của bài thơ, nên nó mới chép để đưa cho bà và có ý muốn nói với bà là: Nó vẫn còn nhớ chữ Việt và vẫn nghe lời bà dạy. Bà ngước lên hỏi nó:

        - Con chép được bài thơ này từ đâu vậy Hiếu?

        - Dạ…Con đọc được từ trong báo. Con thấy có đoạn giống như con nghĩ, nên con học thuộc lòng…Con mới vừa chép ra đặng đưa má đọc đó…Thằng Hiếu ngập ngừng trả lời mẹ.

        Bà Tám như không tin lắm! Vì đã hai năm rồi nó không gần gũi với bà nhiều. Vả lại; bà thấy hình như nó không chú tâm lắm vào việc học hành. Bà làm bộ hỏi:

        - Má đâu có thấy rõ đặng đọc! Đâu; con đọc lại chậm chậm mà rõ ràng cho má nghe đi, để má dò theo coi con viết trúng không.

        Thằng Hiếu nghe lời mẹ, nó ngồi xuống ghế đối diện với bà và từ từ đọc:

        KIẾP NGƯỜI (1)

        Trăm năm một kiếp không dài
        Hẳn là ngựa chạy tên bay chẳng chờ
        Cuộc đời ai đã hững hờ
        Kiếp người ai chẳng lững lờ trôi qua
        Hững hờ như áng mây xa
        Lững lờ như nước chảy qua nhịp cầu!
        Ngoảnh nhìn hun hút bóng câu
        Sinh ra để sống, sống lâu để già,
        Để già trong kiếp phôi pha?
        Phải đâu như giọt mưa sa trong đời
        Sống cho xứng kiếp con người
        Giúp người, giúp nước, giúp đời, giúp ta
        Giúp đời thêm một đóa hoa
        Giúp quê đuổi lũ ác tà gian manh
        Giúp người nối giấc mộng lành
        Giúp ta trả được nợ nần núi sông
        Để không tủi giống Lạc-Hồng
        Để không thẹn với cha ông giống nòi
        Trăng kia một ánh vẫn soi
        Quê hương một mảnh vẫn thoi thóp chờ
        Em ơi đừng phí tuổi thơ
        Anh ơi đừng phí thời giờ rong chơi
        Bạn ơi đừng phí cuộc đời
        Sinh ra nào phải để chơi, để già
        Cùng nhau giúp nước non nhà
        Cùng nhau dựng lại mái nhà Việt Nam
        Ngậm ngùi với bóng thời gian
        Có ai kéo được thời gian ngược dòng
        Nước non nợ trả chưa xong
        Giật mình ta đã lưng còng còn đâu
        Loay hoay ta đã bạc đầu...


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Bà Tám thật sự xúc động khi cầm tờ giấy để đọc dò theo bằng chính giọng đọc của thằng Hiếu. Nó đọc trong sự thuộc lòng, mà còn tự biết viết ra nữa. Bà vui mừng lắm; nó vẫn là đứa con ngoan của bà. Ba nó đã đặt đúng tên cho nó là Hiếu.

        Tiếng khóc của bé Hoài lại một lần nữa đưa bà Tám về với hiện tại. Bà vô phòng; vừa ẵm con lên thì chuông điện thoại reo vang. Bà giựt mình vì ít khi có người gọi cho bà vào giờ này. Bà Tám bước đến cầm điện thoại lên:

        - Hello.

        - Hello. Làm ơn cho tôi gặp bà Nguyễn. Tôi là cảnh sát trực tại trạm cảnh sát Cabramatta. Người ở đầu giây bên kia nói.

        - Dạ tôi đây. Thưa ông có chuyện gì?

        - Tôi gọi đến để báo cho bà biết; con trai của bà: Hiếu Nguyễn, đã bị bắt giữ tại trạm cảnh sát Cabramatta về tội bán bạch phiến ngoài đường phố!

        Bà Tám nghe như lùng bùng hai lỗ tai. Bà hỏi lại:

        - Dạ thưa ông nói gì? Tôi nghe không rõ. Tại sao con tôi bị bắt?

        Người bên kia đầu giây lặp lại thật chậm và rõ ràng những gì ông ta vừa nói.

        - Cám ơn ông về sự thông báo này.

        - Chào bà. Người cảnh sát nói rồi cúp máy.

        Bây giờ thì bà Tám thật sự đã trở lại với hiện tại. Bà đứng chết trân như pho tượng, trong khi bé Hoài đang ọ ẹ khóc trên tay. Bà đặt bé xuống giường, thay tã cho con…Bà nhẩm tính; thằng Hiếu bị bắt đây không phải là lần đầu tiên. Hai năm nay; nó bị bắt lần này là lần thứ tư rồi.

        Bà ẵm bé Hoài xuống bếp; nấu nước sôi, khử trùng và làm bình sữa mới cho bé. Bà ngước nhìn đồng hồ treo trên tường. Mới hơn mười hai giờ trưa; giờ này con Hạnh đang học ở trường và thường về đến nhà khoảng bốn giờ chiều. Còn ba của bé Hoài thì khoảng năm giờ rưỡi. Bà không thể nào đi đâu được vào giờ này. Ruột gan bà nóng như lửa đốt. Đặt bé Hoài xuống nôi, nhìn nó; bà nhớ tới thằng Hiếu hai mươi năm trước, nó cũng ngây thơ, trong trắng cho đến khi tới Úc.

        Bà bước đến bàn thờ; thắp một nén nhang và niệm câu kinh cứu khổ, cứu nạn thường nhật của bà: Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô đại từ đại bi, tầm thinh cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm. Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Nam mô A Di Đà Phật…

        Thằng Hiếu đã trở thành hư hỏng vì đã không có được một mái ấm gia đình bình thường. Trong khi hoàn cảnh tình cảm và tâm lý của gia đình bà đã thế; bà lại bỏ bê anh em nó không ai chăm sóc để đi làm hơn bốn năm, lúc nó chưa đầy mười tuổi.

        Bà đã cố gắng đi làm để kiếm thêm chút tiền mua sắm cho con. Bởi vì; cũng như những gia đình khác, ba mẹ con bà đến đây với hai bàn tay trắng. Sống nhờ vào tiền trợ cấp của xã hội như trong thời gian đầu mới tới, thì chỉ tạm đủ để sống lây lất qua ngày. Chớ không thể có tiền để mua sắm quần áo cho con và mua những đồ cần dùng trong nhà, như: Tủ lạnh, máy giặt quần áo, giường ngủ cho mình và cho hai đứa nhỏ. Ngay cả đến TV và xe nữa. Những thứ mà ở xứ này; gia đình nào cũng phải có. Không có không được!

        Đến trước khi ba của bé Hoài về đây, bà cũng chỉ mới sắm được ba bộ giường; một cho bà và hai bộ cho hai đứa nhỏ, một bộ salông, một bộ bàn ăn…Còn máy giặt, tủ lạnh, TV…vẫn là những đồ cũ kỹ của hội từ thiện cho, từ lúc mới tới Úc. Đến khi nghỉ việc rồi mà bà cũng không đủ tiền để mua một cái xe cũ để bớt cực cho mình, nhứt là những khi đi chợ, hay những lúc bệnh hoạn cần thuốc men…

        Sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh gia đình như vậy, cộng với sự khập khiễng ở ba năm học đầu tiên và hơn bốn năm bà Tám bận đi làm; không chăm sóc đầy đủ cho con. Thằng Hiếu đã trở thành hư hỏng. Nó biết nó hư hỏng và bà biết lúc nào nó cũng muốn quay trở lại. Bà Tám và Hạnh đã cố gắng nhiều trong việc giúp nó trở lại bình thường. Nhưng có lẽ sẽ không được. Bởi vì; môi trường xã hội xấu lúc nào cũng sẵn sàng đón nhận nó, chờ đợi nó…

        Bà biết thằng Hiếu đã ghiền xì ke. Từ mấy năm nay; nó đã cố gắng tự cai nghiện nhiều lần với sự giúp đỡ của gia đình. Nhưng không thành công. Lúc sau này; nó mặc cảm nhiều với gia đình, với chòm xóm chung quanh và với tất cả mọi người. Nó luôn tìm cách xa lánh mọi người quen biết. Trước đây; khi lên cơn ghiền, nó lấy cả đồ đạc trong nhà, đem cầm, đem bán. Lâu nay thì thấy nó không làm việc đó nữa. Nó chỉ về nhà khi nhớ mẹ, nhớ em!

        Hai anh em nó rất thương nhau. Con Hạnh đã mấy lần xin phép bà để đi cho tiền thằng Hiếu. Đã có lần; bà thấy hai đứa nó ngồi nói chuyện với nhau trong phòng, mà bốn con mắt đỏ hoe. Con Hạnh khóc vì buồn cho số phận anh mình! Còn thằng Hiếu thì khóc tủi thân! Nó biết rằng nó đã phụ lòng cha mẹ nó. Phụ lòng ông bà nội ngoại và ngay cả đứa em gái duy nhứt của nó, là con Hạnh. Nên trước đây; đã mấy lần, nó về nằm liệt trong nhà và kêu la gọi gia đình giúp nó để cai ghiền. Nó đau đớn quằn quại nhiều ngày, uống nhiều loại thuốc an thần cực mạnh; rồi cơn ghiền cũng xuống dần. Nhưng độ khoảng vài tuần sau, thì nó lại đi vào đường cũ! Đã nhiều lần như vậy lắm rồi! Bà Tám và con Hạnh đã có lúc nghĩ rằng: Có lẽ là thằng Hiếu sẽ bị chôn vùi cả cuộc đời vào cái nghiệp chướng oan khiên này. Bà cảm thấy nỗi đau thương to lớn quá! Bà đã nhận lời bà nội nó; đưa anh em nó trốn khỏi quê hương không phải để cho nó có ngày nay. Bà muốn cái “ngày nay” của nó không phải như vầy. Nếu bà biết trước như vậy; thì bà đã không chấp nhận nhiều đau thương, nguy hiểm, để vượt biển qua đây! Bà thà ở lại nơi chôn nhau, cắt rún của mình; sống chết nơi quê hương mình, mà biết đâu thằng Hiếu không trở thành hư hỏng.

        Cũng sống trong cùng một hoàn cảnh, nhưng con Hạnh lại không như vậy! Mà không phải chỉ một mình con Hạnh. Ở đây; đến bây giờ đã gần hai mươi năm kể từ khi nhóm người Việt tỵ nạn đầu tiên đến Úc. Hầu hết trong số những người Việt tỵ nạn này; bao gồm cả những người đã đến trước, hoặc đến sau gia đình bà, đều có những hoàn cảnh, quá khứ tương tự như gia đình của bà. Trong số những đứa trẻ ngây thơ, trong trắng khi mới đến Úc đó; có thằng Hiếu, con Hạnh. Trong số này; có rất nhiều đứa đã vượt được mọi trở ngại và đã thành công trong đường học vấn, để trở thành: Bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư, kiến trúc sư…hay thành công trong lãnh vực xã hội, chánh trị, thương mại…Còn số không thành công gì cả; thì cũng có công ăn việc làm, với cuộc sống bình thường và đóng góp phần thuế nhỏ nhoi của mình vào việc xây dựng đất nước mà mình đang ở.

        Song song với những thành công đó của giới trẻ, thì cũng có một số đã trở nên hư hỏng. Điển hình là những đứa như thằng Hiếu…Gia đình bà Tám và những gia đình bị có cùng hoàn cảnh, với luôn cả cộng đồng người Việt ở đây nữa; đều đau lòng không ít về tình trạng này. Đây là một tình trạng oan nghiệt, mà bà Tám gọi là: Môi trường xã hội xấu. Bởi vì; bà nghĩ về thằng Hiếu và những đứa như nó! Về ma tuý và những tệ nạn xã hội đã xảy ra chung quanh hai chữ ma tuý này. Đầu tiên là: Nếu không có ma tuý, thì những đứa như thằng Hiếu không bị ghiền. Sẽ không có những chuyện cướp bóc, giết người vì ghiền xì ke. Nhiều gia đình không bị đau khổ và xã hội không bị rối loạn thêm vì những tệ nạn do ma tuý gây ra. Nhưng tệ nạn xã hội này thì bà Tám chưa thấy một quốc gia nào trên thế giới dẹp bỏ hẳn được. Vì vậy mà gia đình bà Tám đã vô phước trở thành nạn nhân của xã hội trong vấn đề này. Chánh quyền đã không làm giảm tới mức tối thiểu số lượng ma tuý đang du nhập vào Úc trong những năm qua. Mới đầu thì chỉ có Sydney; sau, đã lan rộng ra các tiểu bang khác và có mòi càng ngày, càng gia tăng trầm trọng hơn.

        Từ khi thằng Hiếu vướng vào nghiệp chướng này; bà Tám và con gái thường hay theo dõi tất cả những gì liên quan đến vấn đề ma tuý. Trên truyền hình, báo chí...hay cả những lời đồn của những người chung quanh.

        Một hôm; bà nghe một người quen nói là chính mắt nhìn thấy thằng Hiếu đang trốn tránh đứng bán xì ke ở khu phố Cabramatta. Khu này; giới truyền thông thường nhắc đến và đặt tên là: Thủ đô ma tuý! Từ đó; hễ có thời gian rảnh là bà đón xe lửa tới đó để tìm thằng Hiếu. Thằng Hiếu biết được như vậy; nó biến dạng ngay khi thấy bóng dáng bà từ ở xa xa...

        Cũng vào dạo đó; một lần nó về nhà, bà hỏi nó, nó chối! Nhưng nó có nói thật với con Hạnh, là: Nó phải đi bán xì ke, để có tiền mua xì ke cho chính nó! Bà điếng hồn, gọi nó:

        - Hiếu à!

        - Dạ…Thằng Hiếu thưa từ trong phòng của nó.

        - Con ra đây cho má hỏi. Bà Tám nói trong giọng buồn phiền.

        - Dạ…Thằng Hiếu đi ra. Bà Tám xuống giọng hỏi.

        - Con Hạnh có nói với má là con đi bán xì ke! Phải hay không? Con nói thiệt cho má nghe đi Hiếu.

        - Dạ…Dạ…Thằng Hiếu ấp úng, không trả lời bà.

        - Con có biết làm như vậy là giết người không Hiếu? Má thấy có người chết vì sử dụng quá liều. Rồi má còn nghe nói có người vì ghiền xì ke mà giết người ta…Mà con đã hứa với má nhiều lần rồi; là con sẽ bỏ hết đặng đi học trở lại, hay đi kiếm việc làm. Mà tại sao con lại không làm như vậy? Giọng bà Tám nói nhẹ nhàng, nhưng ray rứt.

        - Dạ…Dạ…Thằng Hiếu vẫn ấp úng.

        - Con có thương má không vậy Hiếu?

        Ngồi trên salông; bà Tám vừa nói, vừa quay mặt đi nơi khác để giấu hai hàng nước mắt đang bắt đầu chảy xuống, nhưng thằng Hiếu vẫn biết được qua giọng nói của bà. Nó quỳ nhanh xuống đất, ôm chân bà:

        - Dạ có má! Lúc nào con cũng thương má hết!

        - Vậy con nói cho má nghe là: Tại sao con không nghe lời má? Giọng bà Tám run run, nghẹn ngào.

        - Dạ lần này con hứa thiệt với má. Con sẽ bỏ hết để đi học trở lại. Má cho con xin lỗi nghe má!

        Lần nào thằng Hiếu cũng nói thành khẩn như vậy. Nhưng ngựa quen đường cũ. Nó không làm sao để quay đầu lại được. Nó biết là nó đang đi trên con đường cùng nguy hiểm. Nó biết xã hội khinh bỉ nó. Nó cũng biết là gia đình nó đang lo lắng và trông đợi nó quay đầu trở lại. Nó biết tất cả những điều đó...nhưng cơn ghiền của nó không biết như vậy!

        Tiếng gõ cửa làm bà Tám giựt mình. Bà ngước nhìn đồng hồ. Đã gần bốn giờ chiều rồi. Chắc là con Hạnh đã về học. Bà vén màn cửa sổ nhìn ra ngoài để biết là ai theo thói quen thường ngày, trước khi mở cửa. Đúng là con Hạnh đã về. Hạnh bước vào nhà tươi cười thưa mẹ, như thường lệ mỗi khi tan trường về nhà. Hạnh hỏi mẹ:

        - Em bé ngủ hả má?

        - Ờ! Nó đương ngủ.

        Hạnh ngạc nhiên khi nghe giọng nói của mẹ mình hôm nay hơi khác; vẻ mặt buồn bã xanh xao khác thường. Hạnh để cặp sách lên bàn, đến gần nhìn mẹ hỏi:

        - Ủa! Má bữa nay làm sao vậy má?

        Bà Tám vừa đóng cửa, vừa đi nhanh xuống bếp. Bà nói:

        - Thằng Hiếu lại bị bắt nữa rồi! Má đi nấu cho con gói mì ăn đỡ. Con đi thay đồ rồi ra ăn, đặng đi coi nó ra sao.

        - Trời thần ơi! Anh hai thiệt là…Ảnh bị bắt ở đâu vậy má? Vừa nói Hạnh vừa đi vô phòng.

        - Nó đương bị giữ ở trạm cảnh sát Cabramatta; hồi trưa này, họ gọi điện thoại cho má hay. Bà Tám nói vói theo.

        Vừa nấu xong thì Hạnh cũng vừa ra tới; bà Tám để tô mì lên bàn trước mặt con gái mình. Bà nhìn nó; Hạnh đã thay đồ để đi ra ngoài, mà không phải là đồ ngủ như thường ngày, sau khi về học. Gương mặt nó thanh tú, sáng sủa, nhưng đượm một nét buồn buồn. Bà nghĩ; có lẽ nó có điểm này giống bà. Hạnh vừa ăn, vừa nói với mẹ:

        - Anh hai lúc gần đây khổ lắm má! Con biết mỗi ngày ảnh phải đi bán từ năm tới bảy tiếng đồng hồ mới đủ tiền xài.
        Ngừng lại một chút, Hạnh tiếp:

        - Má biết không! Ảnh đi bán cho thằng Dave. Thằng Dave thì lấy xì ke từ ông John. Mà ông John bữa trước bị bắt, nghe đâu gần cả ký lô bạch phiến. Mấy bữa sau; hồi cuối tuần, con đi kiếm anh hai. Con thấy ông John vẫn mặc đồ lớn và lái xe mắc tiền đi chơi ngoài phố. Còn anh hai thì chắc phải ở tù. Kỳ này không biết bao lâu mới được thả!

        - Thằng Dave và ông John đó...là người mình hay người Tây vậy con? Ở đây; nghe tên không biết là Tây hay mình. Bà Tám hỏi Hạnh.

        - Dạ thằng Dave gì đó thì con không biết. Nhưng ông John thì con thấy giống người Tây di dân. Không phải Úc. Mà ở đây; người Tây hay người mình, hầu hết người ta cũng xài tên Tây à má. Hạnh vừa ăn, vừa trả lời.

        Bà Tám có vẻ suy nghĩ lung lắm. Bà hỏi Hạnh:

        - Những khi thằng Hiếu vắng nhà; thì ngoài nhà thằng Long ra. Con có biết anh hai con, còn ở nhà đứa nào nữa không?

        - Dạ không má...

        - Má không nói mấy tuần vừa qua. Má nói hồi trước nữa kìa.

        - Con nhớ con có hỏi, mà ảnh không nói. Ảnh lâu nay thường vắng nhà hoài. Có khi con điện lại nhà anh Long, cũng đâu có ảnh ở đó. Con nghĩ, ảnh ở đâu lung tung lắm má...

        Hạnh vừa nói, vừa đứng lên bưng tô mì mới ăn xong đem ra bồn rửa chén rồi trở vô phòng, chải sơ lại mái tóc cho gọn gàng trước khi đi.

        Hạnh đi rồi, bà Tám mới biết rằng; từ sáng tới giờ, bà chưa ăn uống gì. Bà cảm thấy mệt mỏi nhiều. Bà mệt có lẽ không phải vì đói, mà vì buồn phiền! Bà rót ly nước trà uống hết rồi vào phòng ngó thăm chừng bé Hoài. Bé vẫn đang ngủ ngon lành.

        Bà trở ra bếp để sửa soạn cho bữa cơm chiều và không quên thì thầm trong miệng câu kinh cứu khổ thường ngày…Như chợt nhớ ra điều gì. Bà đi nhanh về phía cửa sổ đằng trước; vén bức màn, nhìn ra đường. Bà thấy con Hạnh đang lom khom đi ngược về nhà. Bà chạy ra mở cửa và hỏi:

        - Sao vậy con?

        - Lo nói chuyện, quên coi giờ. Con ra tới thì xe buýt vừa chạy. Nửa tiếng nữa mới có chuyến khác. Con trở về nhà ngồi chờ. Ở ngoài lạnh lắm má!

        Vừa nói Hạnh vừa chạy nhanh vô nhà, đến cạnh lò sưởi. Bà Tám nói:

        - Hay là trong khi chờ xe, con đi kiếm số điện thoại của trạm cảnh sát Cabramatta, gọi tới hỏi cho rõ ràng thử coi sao…Má đi nấu cơm chiều, gần năm giờ rồi.

        - Dạ.

        Hạnh tìm được số điện thoại của trạm cảnh sát, gọi tới và được người trực trạm trả lời là: Thân nhân; không ai được phép vào thăm can phạm trong thời gian này, mà chỉ được thăm khi đã giải vào trại giam. Hạnh hỏi:

        - Ông có thể cho tôi biết là, anh tôi bị bắt trong trường hợp như thế nào không?

        - Anh của cô bị bắt quả tang có ba “cap” ở trong người. Thường thường; nếu là lần đầu tiên thì anh ta có thể được về, chờ ngày hầu tòa. Nhưng đây là lần thứ hai phạm cùng một tội. Cho nên anh ta sẽ phải vào tù để chờ ngày xét xử. Năm ngoái; anh ta còn bị chúng tôi bắt hai lần vì tội ẩu đả. Người cảnh sát nói.

        [cap: một lượng xì ke nhỏ cỡ hột đậu xanh, giá bán khoảng trên dưới 30 Úc kim]

        - Vậy ông làm ơn cho tôi biết là anh tôi đã, hay sẽ bị giải về trại giam nào không?

        - Ngày mai hoặc này mốt, anh của cô sẽ bị giải về nhà tù Silverwater - ở khu Silverwater.

        - Dạ cám ơn ông nhiều. Chào ông.

        Hạnh cúp máy và chạy ra kể hết lại cho mẹ nghe những gì nghe được từ người cảnh sát trực trạm.

        - Vậy thì mình đâu có làm gì được bây giờ! Thôi con ngồi nghỉ một lát và trông chừng em bé. Để má nấu cơm chiều cái đã. Từ sáng giờ má chưa ăn uống gì hết trơn…

        Bà Tám nói rồi đi trở lại bếp tiếp tục công việc của mình. Hạnh đứng suy nghĩ một hồi rồi đi theo mẹ xuống bếp. Hạnh nói:

        - Bây giờ mình có tính kiếm luật sư để lo cho anh hai không má?

        - Má tính từ trưa tới giờ nè! Mà má cũng không biết phải tính làm sao! Bị vì; thứ nhứt là mình đâu có nhiều tiền để lo luật sư, mà không biết là phải tốn kém bao nhiêu! Rồi kế tới là, không biết luật sư có cãi nổi cho nó không! Nó bị bắt quả tang, mà lại nhiều lần quá rồi! Còn con tính sao? Bà Tám hỏi ngược lại con gái mình; trong khi miệng vẫn niệm câu kinh cứu khổ, cứu nạn...

        - Má lo lắng quá rồi…Nhưng ở đây; mình gặp luật sư để hỏi, thì con nghĩ là không tốn tiền. Họ có đăng quảng cáo trên tất cả báo chí Việt ngữ là; tiếp kiến lần đầu miễn phí mà má. Mình cứ hỏi trước coi sao.

        Hạnh ngừng lại một hồi để mẹ bình tâm trở lại. Bởi vì; Hạnh biết đầu óc mẹ đang căng thẳng nhiều, tâm thần có vẻ rối loạn. Câu nói vừa rồi của mẹ đã thể hiện điều đó! Hạnh bước tới gần mẹ; nhẹ nhàng bóp hai vai của bà:

        - Bây giờ má hãy bình tâm. Chuyện suy nghĩ; để con lo bớt cho má. Má quên là con gái của má đã lớn rồi sao? Hạnh dịu dàng nói với mẹ. Bà Tám ngừng niệm kinh, thở dài quay lại nhìn Hạnh:

        - Bây giờ con tính làm sao?

        Nghe giọng nói của mẹ như đã bình thường trở lại. Hạnh nhìn mẹ, nói:

        - Bây giờ đã năm giờ chiều rồi. Văn phòng luật sư đã đóng cửa. Ngày mai; trong giờ ăn trưa tại trường. Con sẽ điện thoại cho luật sư, để hỏi về trường hợp của anh hai. Rồi tuỳ vô đó mà mình tính tiếp… Lát nữa; con sẽ điện thoại tới một vài người bạn của anh hai, để hỏi coi, họ có biết gì về trường hợp anh hai bị bắt không…

        - Con tính điện cho Luật sư nào? Bà Tám chận lời Hạnh.

        Hạnh đi rót ly nước cho mình, kéo ghế ngồi xuống và trả lời mẹ:

        - Ở đây; luật sư người Việt bây giờ có khá nhiều. Nhưng con tính sẽ gọi cho luật sư này. Vì nghe nói ổng có nhiều lương tâm trong nghề nghiệp. Ổng coi nghề luật sư như một nghề để sinh sống trong xã hội thôi. Ổng giỏi về chánh trị nhiều hơn. Nghe đâu ổng đang trình luận án tiến sĩ về Chánh Trị Học. Trong khi chánh trị, xã hội, luật pháp…lại liên hệ khá chặt chẽ với nhau…Vả lại; cùng ngôn ngữ, dễ hiểu và dễ thông cảm nhau hơn…

        Ngừng lại uống miếng nước, Hạnh nói tiếp:

        - Nhưng chắc là con chưa hiểu nhiều; nên con thấy luật pháp ở đây có tánh khôi hài…

        - Luật pháp sao lại khôi hài? Con nghĩ làm sao? Bà Tám chận lời con gái.

        - Má nhớ chuyện chú Sáu, ba của con Cúc, bạn học cùng trường với con không? Ổng đi làm hãng bị trẹo xương sống, rồi ra tòa hồi năm kia mà không được bồi thường đó! Má nhớ không? Hạnh nhìn mẹ hỏi.

        - Ờ…Má có nhớ. Nhưng mà má chỉ biết là chú Sáu không được tòa xử bồi thường gì hết. Còn tại sao, thì má đâu có biết đâu.

        - Thì chú Sáu làm việc tại một hãng nào đó, con không biết. Chỉ biết việc làm ở đó khá nặng nhọc. Chú Sáu làm ở đó đâu được ba năm ngoài. Thỉnh thoảng; chú thấy lưng mình bị đau. Chú nghĩ là tuổi chú gần năm mươi rồi; thì đau lưng cũng chỉ là chuyện thường tình, của người sắp về già. Thành ra chú không than chuyện đó với ai. Nhưng một hôm; sáng ngủ thức lên. Chú thấy cơn đau như là muốn kéo dài; chớ không có mòi hết đau trong một hai ngày nghỉ ngơi, như mấy lần trước. Chú đi gặp bác sĩ gia đình, rồi cả bác sĩ chuyên khoa nữa. Cả hai bác sĩ đều đồng ý là: Xương sống của chú bị trật khớp và bị thiệt hại lên tới năm mươi phần trăm, không thể tiếp tục làm việc được nữa. Chú trở lại hãng; trình tất cả giấy tờ cho giám đốc…

        Hạnh uống thêm miếng nước rồi tiếp:

        - Bác sĩ gia đình của chú đề nghị là: Nên chuyển toàn bộ hồ sơ y khoa của chú qua một công ty luật sư thường cộng tác với bác sĩ. Họ chuyên lo về việc đòi bồi thường cho những người bị thương tật do công việc làm ở hãng xưởng gây ra. Bác sĩ của chú khuyên chú nên giao qua cho công ty luật sư này, mà đừng nhờ luật sư bên công đoàn của hãng. Công việc sẽ chắc chắn hơn...

        Chú nghe lời; đến gặp luật sư của công ty đó. Luật sư giải thích cho chú rất tường tận rồi sau đó, cho chú gặp trạng sư (barrister) để được biết chắc chắn rằng: Mình sẽ được bồi thường như thế nào, bao nhiêu tiền…Ông trạng sư này rất giỏi; tên là Smith…

        Khi ra trước tòa; ông trạng sư Smith dõng dạc trình bày mọi việc trước tòa và rất hùng hồn chống lại mọi ý kiến bác bỏ của trạng sư bên phía hãng bảo hiểm. Bên phía bảo hiểm như là bị đuối lý. Nhưng rồi phiên xử hôm đó lại không xong. Chú phải về để ngày mai tiếp tục…Khi về đến nhà thì luật sư đại diện của chú, gọi điện thoại cho chú biết là: Phiên tòa đã đình lại, khoảng ba hay bốn tháng sau mới tiếp tục.

        Rồi thời gian hơn ba tháng cũng trôi qua và phiên xử cũng đến. Chú Sáu tới tòa mới biết là; ông trạng sư Smith không còn làm việc cho công ty luật sư của chú nữa. Ông ta đã làm việc cho hãng bảo hiểm của chú và hôm nay; ông ta cũng đến đây, nhưng trong vị trí là trạng sư đứng bên phía hãng bảo hiểm. Ông Smith lại cũng dõng dạc đứng lên và cũng rất hùng hồn trình bày để chống lại tất cả những gì, mà hơn ba tháng trước đây, chính ông đã hùng hồn đưa ra...Ông chống lại với chính ông!

        Chú Sáu bị thua tòa là vì chú thiệt thà quá. Không báo cáo việc bị đau lưng của mình ngay tại hãng, lúc đang làm việc. Mà để về nhà, nghỉ hết hai ngày cuối tuần, đi gặp hai, ba bác sĩ rồi mới trở về hãng, để trình bày sự việc. Nhưng vấn đề thắng, thua tại tòa là một việc khác. Điều con muốn nói ở đây là cái khôi hài của tòa án. Mà điển hình là ông trạng sư Smith: Ông đã đóng tuồng xuất sắc trong vở bi hài kịch này!

        Dĩ nhiên; ông Smith qua làm việc cho hãng bảo hiểm, rồi lại lãnh nhiệm vụ đúng vô phiên tòa của chú Sáu, chỉ là sự ngẫu nhiên thôi. Nhưng nó chứng minh sự khôi hài của loại hài kịch, đã và đang được trình diễn một cách trịnh trọng, ở hầu hết mọi phiên tòa…

        Nếu chú Sáu chống án thì sẽ thắng, nếu chú mướn loại trạng sư “dữ dằn” hơn. Nhưng loại trạng sư này thì, chú không đủ tiền để trả. Ngay cả sau khi thắng kiện, được bồi thường; rồi cầm cả số tiền đó, đưa cho trạng sư dữ dằn này; có lẽ vẫn chưa đủ. Ngừng lại một chút, Hạnh tiếp:

        - Ở đây; loại trạng sư dữ dằn này được gọi là QC Barrister! Hơn mười một năm sống ở Úc; coi trên TV, báo chí…con biết được rằng: Ở đây; nếu ai giàu có, nhiều tiền, thì luật pháp sẽ phục vụ cho người đó và nếu như bị phạm pháp; thì kẻ đó có thể dùng tiền để đổi đen thành trắng, hoặc ngược lại là; đổi trắng thành đen trong hầu hết mọi trường hợp phạm pháp. Một điển hình mà mình biết; đó là trường hợp của ông John…Còn hàng trăm, hàng ngàn trường hợp khác nữa…Thí dụ: Giết người thì phải giết cho khéo léo; rồi nếu một khi bị bắt, thì cứ nói là: không! Trước đó; phải chuẩn bị đủ tiền để mướn một hay nhiều QC barrister, là: Mình đã…không giết người gì cả! Theo con nghĩ: Cái cân được dùng làm biểu tượng cho sự công bằng, không phải là công bằng như người ta hiểu trong nghĩa đích thực của nó. Mà là công bằng trong việc trả tiền cho mỗi loại trạng sư mà thôi!

        Hạnh ngừng lại, uống nước trong khi bà Tám ngơ ngác hỏi:

        - Vậy trường hợp thằng Hiếu? Nếu mình có nhiều tiền để lo thì nó được về; còn không, thì nó sẽ phải ngồi tù hả con?

        - Dạ! Điều đó chắc chắn như vậy! Có nhiều tiền; mướn trạng sư dữ dằn, để xin tại ngoại hậu tra. Về nhà. Sau đó; ra tòa với trạng sư dữ dằn này là khỏi lo gì hết má! Hạnh quả quyết như vậy và nói tiếp:

        - Còn một vấn đề khác; chung quanh việc này, mà anh hai có kể cho con nghe là: Hồi ảnh chưa dính líu gì đến vấn đề ma tuý này. Ảnh đã tình cờ quen biết với ông John, trong một quán café. Mà lúc đó; anh hai không biết gì về công việc ông ta đang làm. Ảnh nghĩ; ông John là một người bình thường như bao người khác. Sau đó; ảnh thấy ông John rất mến ảnh. Chắc tại bởi lúc đó; anh hai chỉ là một học trò đơn thuần, trong sạch. Nhờ vậy; khi thân hơn, anh hai đã tình cờ nghe lén được một câu chuyện, của ông John với ông thầy của ổng. Đó là: Thầy của ông John có cách cho mười ký lô bạch phiến nhập Úc…

        - Thầy giáo mà cũng làm chuyện đó hả con? Bà Tám ngắt lời Hạnh.

        - Dạ không! Không phải là thầy giáo dạy học. Mà là thầy trong giới này…Hạnh đứng lên phụ mẹ làm bếp và tiếp:

        - Qua đó; anh hai biết được thầy của ông John là một thương gia giàu có và ảnh còn biết thêm được là; ông thầy này nói với ông John rằng: Cứ cho “hàng” vô tại bãi biển đó. Bởi vì ông thầy nói: Ổng đã gặp ông xếp sòng cảnh sát ở khu đó rồi. Ổng đã biếu năm trăm ngàn đô cho ông xếp sòng này; chỉ để ổng ra lệnh cho mọi loại cảnh sát lớn nhỏ, phải về bản doanh của ổng - để họp, trong thời gian nhóm ông John cho “nhập hàng” - Cuộc triệu tập này chỉ kéo dài một vài tiếng đồng hồ; thời gian đó đủ để nhóm ông John và mười ký lô bạch phiến biến mất…Dĩ nhiên; anh hai không biết bãi biển đó là bãi biển nào và ông xếp sòng cảnh sát đó là ai. Rồi cũng có thể là; ông xếp sòng đó không ngờ, hay không biết, là: Có mười ký lô bạch phiến đã được nhập vào Úc bởi…chính ông! Nhưng; có thật sự là không ngờ, hay không biết không? Điều này chỉ có ông xếp sòng cảnh sát đó và ông thầy của ông John biết rõ mà thôi! Đó là một trong trăm ngàn cách mà ma tuý các loại đã tràn ngập vào Úc và xã hội ngày càng trở nên tồi tệ hơn bởi tệ trạng này. Mà dù thế nào đi nữa thì vấn nạn xã hội này vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm của chánh phủ các cấp…

        Ngừng lại một chút, Hạnh tiếp:

        - Dĩ nhiên là; bất cứ ai phạm tội, thì phải bị bắt và bị trừng phạt - tuỳ theo nặng nhẹ của tội mà mình đã phạm - và vấn đề đổi trắng, thay đen, cũng tuỳ trường hợp: Ngoài người điên ra; không ai có thể khơi khơi giết người, mọi người đều thấy hết, rồi bị bắt tại chỗ mà lại có thể đổi đen thành trắng được! Phải là những chuyện không rõ ràng, có khe hở của pháp luật, mới được. Tức là; người phạm tội phải có một chút khôn ngoan, có tính toán và nhứt là có tiền, thì chín mươi chín phần trăm là sẽ…không có tội gì hết…

        - Như vậy thì thằng Hiếu và gia đình mình là nạn nhân của xã hội này rồi! Họ để xì ke vô quá mà! Vậy là ông John dụ dỗ thằng Hiếu vô con đường này phải không con? Bà Tám chận lời Hạnh.

        - Không phải má! Theo con biết thì khi anh hai bị ghiền, rồi phải đứng đường bán lẻ, thì ảnh bán cho cánh khác. Ảnh mới đổi qua cánh này, rồi sau mới biết là; cánh này là của ông John…

        - Vậy nó có tới gặp ổng không con? Bà Tám hỏi.

        - Dạ không má! Con có hỏi ảnh y như má vừa hỏi con vậy và ảnh nói, ảnh chỉ biết là đang bán cho cánh của ông John, nhưng ảnh đã không còn gặp ổng từ lâu rồi - từ sau khi ảnh nghe lén được câu chuyện giữa ổng với thầy của ổng - Mà bây giờ hoàn cảnh khác rồi - Anh hai đâu phải là một học trò ngây thơ, trong sạch trước đây nữa - Mà hình như ảnh sợ ông John! Thôi…Để con vô điện thoại cho anh Long coi sao nghe má?

        - Ờ! Nói nhỏ tiếng đặng em bé ngủ nghe con.

        Hạnh dạ, rồi đi vô gọi điện thoại, xong ra ngoài; chưa kịp nói gì thì bà Tám đã hỏi:

        - Tụi nó biết gì không con?

        - Anh Long nói: Anh hai bị cảnh sát chìm rượt bắt; ảnh chạy, nhưng không kịp. Ảnh bị cảnh sát bẻ tay ra sau lưng đặng họ lục kiếm xì ke. Nhưng sau đó; anh hai vụt chạy nữa, rồi cũng bị bắt lại. Lần này; ảnh bị đè xuống đường để còng tay lại. Ảnh bị đè trầy một bên mặt, gãy một cái răng và một cánh tay bị bẻ gần lọi đơ. Bây giờ đang bị cơn ghiền hành dữ lắm trong trạm cảnh sát…

        - Trời thần ơi! Con tui…Mà sao nó biết? Bà Tám hỏi.

        - Anh Long nói là: Cùng bị bắt với anh hai, còn có mấy đứa khác nữa. Có đứa đã được thả về và nói lại…

        Có tiếng gõ cửa. Hạnh và bà Tám đều biết là dượng đã về. Hạnh nói:

        - Chắc dượng về đó má. Để con ra mở cửa rồi vô dọn cơm luôn nghe má?

        - Ờ! Con ra mở cửa cho dượng trước đi.

        - Dạ.

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Bữa cơm chiều hôm đó của gia đình bà Tám buồn và ảm đạm hơn những lần thằng Hiếu bị bắt trước đây. Dượng và cả nhà đều quyết định: Phải vay mượn tiền bạc hoặc nếu cần; phải bán hết đồ đạc trong nhà, để lo cho anh hai của Hạnh được ra khỏi tù càng sớm, càng tốt…Bởi vì; với dượng: Nhà tù là nơi quy tụ và là nơi “tạm nghỉ ngơi” của tất cả những thành phần xấu của xã hội bên ngoài; cô đọng thành một xã hội nhỏ - nhưng cực kỳ xấu - bên trong nhà tù. Nhà tù chỉ là nơi rèn luyện cho những đứa hư hỏng ít, trở thành hư hỏng nhiều hơn; khôn ngoan, gan lì và mánh khoé hơn trong việc phạm tội sau này. Đi ở tù còn có nghĩa là đi “tu nghiệp”…

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Hiếu đã được về từ tuần trước, sau gần hai tháng ngồi tù. Không như ba lần bị bắt trước đây; ba lần đó được về từ trạm cảnh sát và thời gian chỉ là một vài tiếng, hay một vài ngày. Lần ra tù này; Hiếu có một thân thể nhìn khỏe mạnh hơn, tướng tá nhìn sạch sẽ, sáng sủa; không xanh xao, yếu ớt như trước khi bị bắt. Vì gần hai tháng “tự cai xì ke” trong tù.

        Tự cai xì ke trong tù là vì; trong tù vẫn có xì ke. Xì ke được đưa vào trong tù bằng nhiều cách; bởi sự sơ hở của giám thị cai tù, hoặc bởi chính một vài người trong số giám thị đó đã cho vô, vì đã nhận tiền của tù nhân, đã bị tù nhân mua chuộc...Hiếu đã tự quyết định với chính mình, là: Không lén lút nhận tiền của gia đình khi ở trong tù. Vì có tiền, là có xì ke.

        Thời gian một tuần đầu sau khi bị bắt quả là một thời gian kinh hoàng với Hiếu, vì bị cơn ghiền hành hạ. Hiếu đã không được uống bất cứ một loại thuốc nào để giảm bớt sự hành hạ của cơn ghiền; như những lần Hiếu cố gắng tự cai ở nhà trước đây…Tuần lễ đầu tiên trôi qua trong thập tử nhất sinh. Tuần thứ hai bớt dần. Rồi tuần thứ ba; tuần thứ tư, cũng đã trôi qua…

        Bây giờ, đã gần hai tháng; Hiếu đã không biết tới xì ke. Đây là lần đầu tiên Hiếu xa rời với chất “bột trắng” nguy hiểm này lâu như vậy trong suốt hai năm qua. Sau khi ra tù; những ngày đầu tiên ở nhà, Hiếu cảm thấy như mình vừa được tái sinh trong một thân thể khỏe mạnh. Một tâm hồn sảng khoái, nhẹ nhõm. Một đời sống tươi vui. Một chân trời mới sáng sủa và nhứt là Hiếu cảm nhận rõ hơn về hai chữ hạnh phúc trong mái ấm gia đình - Mà những bàn tay bé nhỏ, yếu ớt của những người trong gia đình; đã dang ra để che chở cho mình - trong những cơn bão tố của cuộc đời mênh mông, đầy nguy hiểm. Niềm hạnh phúc tuyệt vời…

        Hiếu cố gắng để giữ cho mình đừng sa ngã trở lại. Nhưng Hiếu không yên tâm với chính mình. Hiếu không tin chính mình! Bởi thời gian xa cách với “nàng tiên áo trắng” mới vừa tròn hai tháng và bạn bè cũ vẫn chờ đợi…Hiếu cố gắng quên đi tất cả. Cố gắng nghe theo lời khuyên của mẹ và những người trong gia đình. Hiếu suy nghĩ nhiều về việc đi học trở lại, đi học nghề, hay đi tìm việc làm…Hiếu sợ đi học trở lại!

        Trước đây; Hiếu học ở trường trung học nam sinh công lập Birrong, gần trường của Hạnh. Hôm qua; Hiếu điện thoại đến trường, nhà trường không cho Hiếu trở lại học nữa vì đã bê bối và bỏ học quá nhiều. Thời gian hơn hai năm qua; Hiếu đã bỏ học nhiều lần, lúc thì một hai tuần, lúc thì cả tháng. Bỏ cả những kỳ thi lục cá nguyệt. Nếu trở lại học cũng không theo kịp chương trình và bây giờ lại đang mang lý lịch xấu…vì; Hiếu bị sa ngã vào con đường ma tuý khi đang học ở trường này. Hiếu quyết định đi học nghề.

        - Má ơi! Con muốn đi học về computer. Hiếu hỏi bà Tám.

        - Con muốn học về cái gì ở computer? Bà Tám hỏi.

        - Con muốn học về cách sử dụng và cách sửa chữa computer.

        Bà Tám có vẻ suy nghĩ lung lắm. Bởi vì lâu nay; bà tưởng xã hội đã cướp mất đứa con trai của bà. Đã cướp đi đứa con trai duy nhứt của ông Tám và cũng là đứa cháu nội trai duy nhứt của ông bà nội nó. Bà sung sướng vô biên khi thấy nó đã vượt thoát mà trở về! Nỗi sung sướng tuyệt vời mà bất cứ người làm mẹ nào cũng có thể dễ dàng cảm nhận được! Bà sợ xã hội sẽ có thể cướp nó đi một lần nữa! Cướp đi vĩnh viễn! Bà không muốn nó đi đến bất cứ nơi nào trong thời gian này…Bà nhỏ nhẹ nói:

        - Con lo nghỉ ngơi trước đã. Việc học còn dài. Má nghĩ một vài tuần nữa cũng có muộn màng gì đâu. Với lại bây giờ; con ra ngoài, má lo lắng lắm! Con có hiểu ý má muốn nói không Hiếu?

        - Dạ có má!

        - Má muốn con ở nhà nghỉ cho khỏe cái đã! Đừng đi đâu hết, một vài tháng nữa cũng được. Mọi chuyện khác đã có má lo hết cho con! Ở nhà mình có sách, báo, TV…đủ thứ hết nè. Con đọc sách hay coi TV cho đỡ buồn! Ráng nghe lời má đi con! Ờ…cái bài thơ của ba con; sao con lại đem đi đâu? Má kiếm mấy tháng rồi, không thấy…

        - Dạ…Chắc mất rồi má…

        - Con đem đi đâu vậy?

        - Dạ…con lấy đem đi hồi mấy tháng trước. Tại con bị quên hết mấy đoạn trong đó; con về lấy đi đặng đọc lại cho thuộc...rồi con để đâu, con cũng không nhớ nữa! Tìm hoài mà không thấy…

        - Trời thần ơi! Chết rồi! Làm sao bây giờ? Má đâu có nhớ hết đâu! Tới hơn bốn trăm câu thơ lận! Để má hỏi con Hạnh coi nó có nhớ đoạn nào không! Bài thơ này là vật kỷ niệm duy nhứt của ba con mà…

        - Con thuộc hết rồi. Má đừng lo! Để con ghi lại…Hiếu trấn an mẹ.

        - Trong bụng má tính là, má ráng dạy chữ Việt cho tụi con; để khi lớn lên, tụi con có thể giúp cha của mình, viết lại phần đã bị má làm thất lạc. Tài liệu để viết tiếp cho bài thơ này có nhiều trong sách, mà má đã tìm mua được từ mấy năm trước, đang xếp trong tủ sách nhà mình đó và mình cũng có thể tìm thêm tài liệu trong thư viện…

        - Dạ…Má để con viết lại phần con làm mất trước nghe má? Hiếu nói.

        Bà Tám thở ra nhẹ nhõm như đã an tâm, vì; thằng Hiếu giờ đã có một lý do chánh đáng để ở nhàvà cũng đang cần một thời gian ở nhà, để làm công việc mà nó vừa nói. Bà tiếp bồi thêm:

        - Ờ…mà con Hạnh cũng muốn có một bộ computer để giúp nó trong việc học hành gì đó. Nó có coi trong báo để tìm mua lại đồ của người ta đã xài rồi, muốn bán lại. Đồ xài rồi thì mua rẻ tiền hơn. Nó hỏi má mua cho nó mấy bữa nay rồi. Nó coi trong báo; thấy có người ở gần nhà mình muốn bán nè. Đâu! Con lật báo kiếm thử coi; hễ ưng ý thì điện tới hỏi. Nếu được; thì chiều dượng về rồi mình đi lấy, hai anh em xài tạm chung nhau…

        Hiếu dạ rồi đi kiếm báo. Vết thẹo trên mặt nó làm bà Tám nhìn theo, rồi nhớ tới chiếc răng gãy của nó, khi nó cười…Bà nghĩ đến sự trớ trêu của xã hội. Những đứa như thằng Hiếu; giống như những con mèo ăn vụng mỡ, rồi bị đòn về tội ăn vụng. Nhưng bà thấy; hình như: Người ta đang treo mỡ trước miệng mèo, rồi đánh nó, khi nó ăn. Người ta đã cứ lo lau nhà khi vòi nước trong nhà bị xì, bị rỉ. Bà thấy là; người ta phải lo sửa, hay thay cái vòi nước trước chớ. Rồi lau nhà sau khi vòi nước đã hết chảy và; không nên “đổ thừa” cho cái “tệ nạn nhà dơ” vì…vòi nước bị xì. Bà nghĩ: Trong sự khôi hài của pháp luật; cảnh sát chỉ thi hành nhiệm vụ của họ và họ không hiểu, hay không cần hiểu như bà. Nhưng những người “treo mỡ”, hay từng “làm xì vòi nước” sẽ hiểu và nhứt là chánh phủ phải hiểu điều đó. Họ không thể nào đổ hết trách nhiệm cho những đứa như thằng Hiếu. Dĩ nhiên; tù đày và đôi khi bị đánh đập nữa, cũng không là quá đáng! Nhưng bà nghe phong phanh rằng: Chánh phủ Úc đang điều đình với chánh phủ Việt Nam để đưa những thành phần xấu đó trở lại Việt Nam! Vấn đề này là quá đáng! Người gởi về là vô nhân đạo, vô lương tâm, vô trách nhiệm...Người nhận là vô liêm sỉ!

        Tất cả những người tỵ nạn đến đây từ khắp nơi trên thế giới. Khi đến; họ đã giao cho xã hội Úc những đứa trẻ ngây thơ, trong trắng. Những đứa trẻ đã thành công trong nhiều lãnh vực và cả những đứa trở nên hư hỏng...đều đã do xã hội này tạo thành: Xã hội đã tạo ra nó thì phải cưu mang nó! Đó là một nguyên lý đạo đức! Nếu không; thì chúng ta sẽ giết hết những đứa bé tật nguyền, xấu xí khi vừa mới sanh và chỉ giữ lại những đứa bé đẹp đẽ, lành lặn thôi sao!

        - Má à! Bộ computer gần nhà mình được đó má. Họ bán có ba trăm hà. Con đã điện tới, nói họ giữ giùm mình. Đừng bán cho ai nữa. Hiếu nói.

        - Ờ…Lát nữa dượng về rồi mình đi lấy.

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Dượng đã về. Cả nhà bà Tám vui vẻ chuyện trò suốt bữa cơm chiều và; chung quanh bộ computer cũ, vừa mua, là không khí ấm cúng của gia đình, tưởng chừng như không bao giờ có được. Nhưng sự ấm cúng đó đã thật sự đến với gia đình bà Tám. Ít nhứt là tối nay…và người sung sướng, vui vẻ nhứt; dĩ nhiên là bà Tám…


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        CHƯƠNG CHÍNH


        Kể từ hôm Hiếu ra tù. Ban ngày, vào mỗi buổi sáng; khi Hạnh đã đi học và ba của bé Hoài cũng đã đi làm, bà Tám không còn thấy trống vắng như trước nữa. Bây giờ; bà đã kéo nôi của bé Hoài ra phòng khách, nơi mà Hiếu đọc sách hoặc ngồi bên bộ computer mỗi ngày. Bà thì làm công việc nhà; khi rảnh thì ngồi đọc báo, cũng ở phòng khách thôi. Mọi sinh hoạt của cả ba mẹ con bà Tám vào ban ngày, hầu hết đều ở phòng khách này...

        Hôm nay; Hiếu đã ở nhà được đúng ba tháng, không rời nhà nửa bước. Thời gian này; Hiếu đã học để biết cách sử dụng computer ở bước căn bản đầu tiên và đọc hết cuốn Việt sử bằng tiếng Việt. Hiếu ôm mộng là sẽ viết tiếp phần sau bài thơ của cha mình, mà mẹ đã làm thất lạc trong kỳ vượt biển hơn mười một năm trước.

        - Má à! Dân tộc mình anh hùng quá! Phải không má? Hiếu hỏi mẹ; bà Tám chưa kịp trả lời thì Hiếu đã nói tiếp:

        - Nhứt là thời kỳ chống Pháp. Con thấy dân mình; có những người anh hùng còn hơn phim ảnh nữa má!

        Suốt ba tháng nay. Ban ngày; chỉ có ba mẹ con ở nhà. Bé hoài thì mới được mấy tháng tuổi, ngủ nhiều hơn thức. Bà Tám lại được một thời gian gần gũi với đứa con trai mà bà tưởng như sẽ không bao giờ còn gần gũi được. Mọi việc đã đi và đến như một giấc mơ. Nó năm nay đã ngoài hai mươi tuổi; nhưng đối với bà - bà vẫn thấy nó không khác mấy với bé Hoài - nếu có khác chăng thì chỉ là một lớn, một nhỏ. Nhưng ít nhứt thì hai đứa cũng giống nhau ở một điểm: Đó là ngây thơ. Bà nghĩ; nó đã hai mươi tuổi rồi mà mình còn thấy nó ngây thơ, thì chắc mình đã bắt đầu già thật rồi...

        Ba tháng gần gũi với thằng Hiếu; bà đã giúp giải thích những gì nó không hiểu khi đọc sách chữ Việt. Bà rất ngạc nhiên và sung sướng vì bà không ngờ; thằng Hiếu hiểu chữ Việt giỏi như vậy. Bà trả lời:

        - Ờ…ba của con cũng là một anh hùng! Nhưng không nối được nghiệp tổ tiên! Bởi ổng mất đi khi còn quá trẻ…

        Ngồi giải nghĩa chữ Việt cho thằng Hiếu; làm bà nhớ lại mộng làm cô giáo của mình hơn hai mươi năm trước. Vào khoảng năm 1972; sau khi bà đã đám cưới với ông Tám được độ mấy tháng. Bà vẫn muốn tiếp tục học năm thứ hai của trường Sư phạm ở Saigon; nhưng ông Tám không chịu và nói rằng: Đã lấy chồng rồi mà còn đi học, người ta cười chết! Bà phải nghỉ học từ đó…Trường Sư phạm Saigon cũng là nơi kỷ niệm của bà và ông Tám ở lần đầu quen nhau, khi ông Tám ghé trường để thăm chú Mười…Chú Mười học cùng năm nhưng khác lớp với bà và nhỏ hơn bà hai tuổi…

        - “Nguỵ” là gì vậy má? Hiếu hỏi.

        - Nguỵ là chữ gốc Hán. Chữ nguỵ ở đây có nghĩa là không có thật, là giả mạo, giả tạo…là người xấu…

        - Vậy sao người ta gọi mình là nguỵ? Hiếu ngắt lời mẹ.

        - Ờ…chuyện này dài dòng lắm. Để má nấu nước pha bình trà rồi giải thích cho con nghe. Chữ “Nguỵ” này có rất nhiều người còn lấn cấn…

        Bà Tám đi nấu nước pha trà cho mình; nhân tiện làm đồ ăn trưa cho Hiếu. Bà vừa làm, vừa suy nghĩ, đắn đo...phải bắt đầu từ đâu và nói làm sao cho thật đơn giản, ngắn gọn, để con mình dễ hiểu. Bà nói:

        - Ông nội con kể rằng: Dân tộc mình chống thực dân Pháp gần một trăm năm; tới năm 1945 là gần đến hồi tàn cuộc, vì; thế chiến thứ hai đã bùng nổ ở Châu Âu. Pháp thua Đức. Quân Nhựt thì đã đánh chiếm nhiều nước Á Châu. Năm 1945; quân Nhựt chỉ trong một đêm đã đánh bại toàn bộ quân Pháp tại VN. Nhựt tuyên bố nước VN độc lập nhưng lại kiểm soát đất nước mình chặt chẽ hơn Pháp nữa.

        Đầu tháng Tám năm 1945; Mỹ dội bom nguyên tử xuống đất Nhựt. Nhựt đầu hàng. Nước mình không bị quân đội ngoại bang kềm tỏa. Việt Minh xúi giục dân chúng xuống đường, chiếm hết các cơ quan hành chánh đòi vua Bảo Đại phải thoái vị và vua Bảo Đại đã thoái vị! Đó là cơ hội tốt để Việt Minh cướp chánh quyền…

        Cũng theo ông nội của con! Thời đó; những người cầm đầu Việt Minh là những người theo chủ thuyết Cộng Sản (CS). Chủ trương của chủ thuyết CS là nhằm đánh chiếm cả thế giới; biến cả thế giới thành CS...Khi Lenin đặt ách CS lên nước Nga thì lực lượng CS cũng chiếm đóng và biến một số nước ở châu Âu thành CS...Những người CSVN theo chủ trương của chủ thuyết này mà gây nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương lúc đó - Họ ẩn mình dưới chiêu bài chống thực dân Pháp, cứu nước...

        Khi Việt Minh cướp được chánh quyền. Khởi đi từ mùa thu năm 1945. Họ đặt tên nước mình là: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những người VNCS theo Nga, Tàu này; chưa muốn lộ nguyên hình là CS, họ vẫn ẩn mình để thành lập Đảng Lao Động Việt Nam - Tức là Đảng Cộng Sản VN (ĐCSVN) sau này - Họ đàn áp, thủ tiêu những người cũng chống Pháp, nhưng không theo chủ nghĩa Cộng sản (Hiệp định năm 1946 - VM và Pháp). Khi đảng CSVN đã nắm được chánh quyền; họ hô hào kêu gọi đồng bào cả nước cùng nhau chống giặc Pháp và họ đã lập được kỳ tích: Họ đã đánh thắng Pháp trong trận Điên Biên Phủ, năm 1954; chấm dứt thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp trên quê hương mình...

        Bà Tám ngừng lại, rót trà ra ly; trong khi Hiếu vẫn tiếp tục ăn bữa trưa của mình và chăm chú nghe mẹ kể. Bà Tám tiếp:

        - Cũng theo ông nội của con. Sau khi VM cướp được chánh quyền (1945). Pháp và Việt gian vẫn cố gắng duy trì ách thực dân ở VN. Nhưng cuối cùng, họ bị thua VM (ở trận Điện Biên Phủ) và hiệp định Genève (1954) đã ra đời; đất nước mình bị chia ra làm hai miền: nam và bắc. Thời gian này; nhóm Việt gian theo Pháp hầu hết đã tề tựu tại miền nam VN và được Mỹ kiện toàn thế lực về quân sự, chánh trị... Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm về miền nam VN để dựng lên chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) - một nước Việt Nam thứ hai ra đời và ông Diệm lên làm tổng thống nước VNCH này - Ông Diệm đã không là tay sai lý tưởng cho Mỹ - Mỹ tạo ra tình hình "bất ổn" tại miền nam; ông Diệm bị giết và sau đó, Mỹ đưa người thân tín khác của Mỹ lên làm tổng thống nước VNCH...

        - Ông Diệm là ai, mà sao tự nhiên lại lên làm tổng thống vậy má? Hiếu ngắt lời mẹ.

        - Không! Không phải về là làm tổng thống liền...vì trước đó hàng chục năm; vua Bảo Đại đã vì tình hình và hoàn cảnh ép buộc mà đã thoái vị và giao quyền hành, ấn kiếm của triều đình cho Việt Minh (VM) trong thời VM cướp chánh quyền! Nhưng ngay sau đó; Pháp được sự giúp đỡ của Anh, Mỹ đã tìm cách đưa cựu hoàng Bảo Đại trở về nước để làm "bung xung" để họ lập chánh quyền cho nhóm Việt gian...Mỹ đưa ông Diệm về làm thủ tướng cho "quốc trưởng" Bảo Đại. Ông Diệm truất phế Bảo Đại rồi mới lên làm tổng thống sau đó...

        - Truất phế? Hiếu lại ngắt lời mẹ.

        - Đó là một cách nói thôi...người ta có thể gọi là cướp chánh quyền, đảo chánh, soán ngôi...Trong một số tài liệu có ghi rằng: Ông Diệm là con của ông Ngô Đình Khả. Ông Khả là người dưới trướng của một tên Việt gian khét tiếng thời kháng Pháp tên là Nguyễn Thân...Khi rảnh, còn tìm tài liệu xem lại thì rõ hơn...Ngừng lại uống miếng trà. Bà Tám tiếp:

        - Nhóm Việt gian theo CS gọi chế độ VNCH là chế độ “Nguỵ”. Như vậy: Tiền thân của Nguỵ là Việt gian theo Pháp, rồi sau theo Mỹ?! Trong suốt thời gian này, cho tới ngày ba mươi tháng Tư năm 1975 tại miền nam; những sĩ phu yêu nước...nhưng không là Việt gian, cũng đều bị triệt tiêu hầu hết…

        Bà Tám đứng lên, đi lại bên chồng báo cũ để tìm lại một vài bài thơ được đăng trong đó, như bài: “Quê Hương Tôi”, hoặc bài “Rồi Từ Đó”…mà bà rất thích, để đưa cho Hiếu đọc. Vừa lục tìm, bà Tám vừa nói tiếp trong sự chờ đợi của Hiếu:

        - Theo như ba của con, thì: Sau khi chia đôi đất nước; nhóm CS ở miền bắc lại tiếp tục ẩn mình dưới chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Lúc đó; họ gọi Mỹ là “thực dân kiểu mới”, là đế quốc...Người ở miền nam; có một số đã tin họ và cùng nhau kéo vào chiến khu để lập ra Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam...

        Người CSVN không đánh Pháp vì cứu nước. Họ đang thi hành chủ trương của chủ nghĩa CS, là: Đánh chiếm thế giới như má đã nói hồi nãy và chiến thắng Điên Biên Phủ năm 1954 đã tạo ra một hình ảnh huy hoàng cho người CSVN trong thời gian đó và cũng làm bộ mặt Việt gian của họ mờ nhạt hẳn...

        Còn lúc đó ở miền nam. Người Mỹ sau khi lập ra nước VNCH; họ khai triển phong trào: "Vì lý tưởng tự do, chống CS bành trướng". Phong trào này trở nên mạnh mẽ, đã giúp làm mờ nhạt đi hình ảnh Việt gian của những người theo Pháp trước đây và cũng để cho Mỹ có lý do để thay chân cho Pháp và nhóm Việt gian của Pháp lại cũng có cơ hội tốt để làm việc với họ...

        - Tại sao lại là khai triển? Hiếu chận lời mẹ.

        - Vì giặc Pháp đã trang bị cho Việt gian cái "lý tưởng" đó trước khi họ rút chân đi để "nhường" lại cho Mỹ...Sau khi giết ông Diệm. Mỹ và Việt gian đưa cả quân đội của những nước khác vào miền nam VN, như: Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc…Cả hai bên nam và bắc; đều tuyên truyền, khuyến dụ. Cưỡng bức, ép buộc đồng bào của cả hai miền phải tham gia vào quân đội của mình và gây nên một cuộc chiến điêu tàn cho quê hương, cho tổ quốc suốt bao nhiêu năm...

        Bà Tám ngừng kể; đưa cho Hiếu tờ báo. Bà đưa tay chỉ vào trang báo và nói:

        - Con đọc bài thơ này đi. Má đi làm cho em bình sữa, luôn tiện thay tã cho nó.

        Hiếu dạ, rồi đưa tay cầm tờ báo; đọc:


        RỒI TỪ ĐÓ (2)

        Rồi từ đó…
        Mặt trời đã lặn hẳn ở quê hương tôi!
        Ôi hình như…
        Thái dương hệ này đã ngưng lại những hoạt động bình thường.
        Quả đất đã ngừng xoay?
        Mặt trăng đã ngừng di chuyển?
        Mặt trời đâu?
        Thời gian cũng dừng lại ở quê hương tôi.

        Rồi từ đó…
        Hoàng hôn đã bao phủ trên quê hương tôi!
        Ôi hình như…
        Bóng tối tội lỗi đã chứa đầy yêu tinh, quỷ quái.
        Ánh sáng của văn minh cũng mất hẳn ở đây.
        Để nhường lại cho những sinh hoạt của thời trung cổ.
        Chỉ còn lại những điêu tàn, hoang phế trong tôi...


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]

        Hiếu đọc xong bài thơ; tâm hồn lắng đọng lại trong suy tư! Mẹ đã làm xong những việc cần làm và đã trở lại ngồi bên ly trà. Bà nói:

        - Chủ trương của chủ nghĩa CS không chỉ là đánh chiếm thế giới, mà còn tự tàn sát dân tộc của chính mình - ở mọi nước bị CS chiếm đóng - sự "tự tàn sát dân tộc của chính mình" này thì có lẽ không sách vở, phim ảnh...nào có thể lột tả được hết sự phi nhân của nó...

        Ngừng lại, uống miếng trà. Bà Tám tiếp:

        - Cuối cùng; phía miền nam bị yếu thế về chính nghĩa, về lý lẽ trên thế giới và ngay cả trên chính nước Mỹ. Người Mỹ buộc phải bỏ cuộc tại Đông Dương (hiệp định 1973) để xây dựng vị thế của mình tại một nơi khác...CS miền bắc lại lập kỳ tích lần thứ hai: Đó là ngày ba mươi tháng Tư, năm 1975. Tất cả những người theo hay cộng tác với chế độ miền nam; đều bị đi ở tù, gọi là đi cải tạo. Người đi trước, kẻ trốn sau. Nhóm người này đã chạy ra hải ngoại và nhiều người vẫn còn ôm niềm thống hận cho đến hôm nay. Bởi vì; họ đã bị tù đày và mất hết: Từ tài sản đến nhà cửa. Từ địa vị đến quyền uy! Gia đình thì người sống kẻ chết, chia ly, tan tác...bởi ngày ba mươi tháng Tư này.

        Vì con còn quá trẻ; những gì con đọc được thì thường có tính một chiều của mỗi phía và họ thường “lấy cứu cánh để biện minh cho phương tiện”. Má đã cố gắng ngắn gọn và đơn giản tất cả mọi việc; chỉ để giải thích cho con nghe về một chữ “nguỵ” thôi, mà phải dài dòng như vậy.

        Quê hương và dân tộc mình, đã bị vùi sâu trong lửa đạn suốt ba mươi năm bởi hai thế lực này. Sự đau thương, điêu tàn đó; làm chấn động cả thế giới. Lương tri nhân loại như bị rướm máu và cuộc chiến tranh đó vẫn còn vang vọng cho đến ngày nay. Thành phần dân tộc sống giữa hai thế lực này, thời đó; vì nhiều lý do khác nhau, đã bị cuốn hút vào một bên, nơi mình đang sống, ở cả hai miền: Thù nghịch và tàn sát lẫn nhau. Sự thù nghịch này dường như vẫn còn tồn tại - ở một số người, ở cả hai phía - cho đến ngày nay...

        Thời đó; trên quê hương mình, có thể tạm chia ra ba thành phần chính:

        Thành phần thứ nhất: Nhóm Việt gian theo CS Nga, Tàu...Nhóm này đã và đang thi hành chủ trương của chủ nghĩa CS, là: Đánh chiếm toàn cầu. Họ muốn biến toàn thế giới, thành thế giới CS. Với nhóm này: Khái niệm về dân tộc hoặc biên cương của tổ quốc không là quan trọng. Con hãy xem lại tài liệu trong bộ sách Tư Bản Luận của chính họ...

        Thành phần thứ hai: Nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ; nhóm này ẩn mình dưới chiêu bài: Vì lý tưởng tự do; Chống CS bành trướng. Nhóm này; giờ cũng đã hụt hẫng! Vì chủ nghĩa CS không còn...Trước đây, sau ngày chấm dứt chiến tranh [30/04/1975]; ở hải ngoại, nhóm này đã cố gắng vùng vẫy để "thăm dò" xem người Mỹ có cùng họ tái lập chiến tranh trên quê hương mình nữa hay không; nhưng "bãi chiến trường VN" không còn có lợi cho nước Mỹ... Mỹ đã không đáp lại những thăm dò của nhóm này...Trong ngôn ngữ của nhóm này; họ gọi Mỹ là "đồng minh", là "bạn"...trong khi Mỹ luôn vì lợi ích của nước Mỹ, mà sẵn sàng giúp đỡ những kẻ gian để xâm hại đến tinh thần dân tộc tự quyết của những quốc gia nhược tiểu...

        Thành phần thứ ba: Thành phần còn lại; đây là thành phần đồng bào đông đảo. Họ không có lực lượng quân sự đúng nghĩa. Họ sống ở cả hai miền: Nam và bắc. Đa số trong thành phần này bị cuốn hút vào hai thế lực trên. Giới trí thức, sĩ phu…xuất thân từ thành phần này đều bị tiêu diệt bằng nhiều cách, bởi hai thành phần trên!

        Giới sĩ phu trong thành phần dân tộc; họ không đồng ý với việc làm và đường đi của hai thành phần kia. Họ không lấy: “Lý tưởng hay chủ nghĩa. Kinh tế hay chính trị, chiến lược…toàn cầu” làm “cứu cánh” để “biện minh cho phương tiện” làm tay sai cho ngoại bang. Rước voi Nga, Tàu, Pháp, Mỹ về dày mả Tổ. Như; vua Lê Chiêu Thống đã cõng rắn cắn gà nhà!

        Nếu “nguỵ” xuất thân từ Việt gian thì; bên nào là Việt gian? Bên nào là Nguỵ? Bên này, hay bên kia? Hay cả hai bên đều là Việt gian? Cả hai bên đều là Nguỵ? Điều này; có một ngày, lịch sử của dân tộc sẽ xác định thật rõ ràng, minh bạch...

        Ngừng lại uống miếng trà, bà Tám tiếp:

        - Sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, người Cộng sản đã đổi tên nước mình là:


        Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
        Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc


        Một tên nước dài ngoằng, luộm thuộm và phần trên, nghe thì thấy là Cộng Sản. Phần dưới thì không và lại có hơi hướm của Tam Dân Chủ Nghĩa(?): Dân Quyền - Dân Sinh - Dân Tộc của Tôn Văn - Tôn Dật Tiên. Vì:

        Dân Tộc: Độc lập.

        Dân quyền: Tự do.

        Dân sinh: Hạnh Phúc.


        Nhìn vào tên nước, thì thấy rằng; sự "pha trộn" (?) giữa nền tảng của hai chủ nghĩa - Cộng sản chủ nghĩa và Tam dân chủ nghĩa - tuy không hài hòa. Nhưng có lẽ họ đã không còn là những người Cộng sản sắt máu thuần tuý nữa, nên sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975; đồng bào miền nam đã không bị tàn sát thảm thương như đồng bào miền bắc trước đây, hay như cuộc tàn sát ghê tởm ở Căm Bốt, hoặc như những quốc gia bị CS chiếm đóng hồi mấy mươi năm trước...Đúng là hồn thiêng sông núi đã phò trợ cho dân tộc mình...

        Bây giờ; đã gần hai mươi năm, sau ngày ba mươi tháng Tư đó và cũng đã hơn bốn năm sau ngày chủ nghĩa CS bị sụp đổ ở Nga và những nước CS chư hầu. Chủ nghĩa CS bây giờ như “cái bao tải” cũ, rách, dơ bẩn và những người CSVN xưa; giờ như những “Ông bình vôi” của Phan Khôi ngày trước. Cái bao tải cũ rách, dơ bẩn đó đang bao bọc những ông bình vôi này, trong đền thờ nào đó ở quê hương mình…và nhóm Việt gian theo Pháp hầu hết đã quá vãng. Nhóm Việt gian theo Mỹ đã hầu như vô vọng...

        - Má nói gì? Con không hiểu. Ông bình vôi và ông Phan Khôi là ai?

        Hiếu chận lời mẹ. Trong khi bà Tám đang như một người đã ôm nhiều nỗi uất ức lâu ngày, không nơi giải bày và không biết rằng; người đang nghe không đủ hiểu biết để nghe. Bà Tám thở dài, tự trấn tỉnh mình và nói:

        - Ông Phan Khôi là một nhà văn kháng chiến chống Pháp, sống cùng thế hệ với ông nội con. Truyện “Ông Bình Vôi” của Phan Khôi hàm ý: Ngày xưa; trên mọi miền của đất nước mình. Người mình có tục ăn trầu. Mâm trầu, cau trong đó có bình vôi - vôi ăn trầu - luôn được đặt giữa bàn của mọi người, mọi giới. Mỗi khi họ gặp nhau, bất luận về chuyện gì; luận bàn văn thơ, luận bàn chính trị hay chuyện vãn…v...v...đều có mâm trầu, cau và bình vôi này. Cái bình vôi được Phan Khôi nhân cách hoá thành: “Ông bình vôi”! Vì bình vôi ăn trầu đã là một “nhân vật khả kính, khả tín”. Đã luôn luôn được “trịnh trọng mời” đến và “ngồi” vào vị trí đặc biệt - giữa bàn - để “chứng kiến” mọi điều, mọi việc. Khi bình vôi đã cũ, bể…Người ta vẫn "tôn trọng" và không liệng "các ông ấy" vào "đống rác"; mà đem đến, để gọn vào một nơi, trong một cái miễu hay đền thờ nào đó...

        Chủ nghĩa CS đã sụp đổ và đã trở thành cái bao tải nhớp nhúa kia; giờ chỉ dùng để bao bọc những "ông bình vôi" cũ, bể…trong một đền thờ. Phe CSVN hụt hẫng; không còn nơi để bám víu. Hoàn cảnh này; khiến họ ngày nay càng ngày, càng đi gần về phía dân tộc hơn đối phương của họ. Họ dĩ nhiên không còn là CS nữa. Họ chỉ là một nhóm người độc tài và đang tạo ra những vấn nạn khủng khiếp về tệ nạn xã hội trên quê hương mình mà thôi...


        - Con nghĩ; ông nội là một người yêu nước. Má kể cho con nghe về ông nội đi má. Hiếu đề nghị với mẹ.

        Bà Tám cảm thấy như nhẹ hẳn người, khi đã nói ra được những gì mình muốn nói. Bà cũng cảm thấy vui, khi thằng Hiếu nãy giờ vẫn chăm chú lắng nghe. Lúc thì nhíu mày, nhăn mặt. Lúc thì trợn mắt tức tối. Bà rất hứng thú khi dạy con mình về văn hóa và lịch sử, của quê hương mình…

        - Ờ…ông cố nội của con gốc người miền bắc trung phần. Vào đầu thế kỷ thứ mười chín. Ông theo đoàn quân chống Pháp của ông Hoàng Hoa Thám. Trong trận đánh úp thành Hà Nội, không thành. Ông chạy thoát vào thành Gia Định. Pháp và Việt gian vẫn truy đuổi. Ông chạy về miền Lục tỉnh; thay tên đổi họ. Ông cố gặp bà cố ở miền Lục tỉnh này....

        Lúc đó; ông cố đã gần bốn mươi. Khoảng hai năm sau; Bà cố sanh ông nội của con. Nhưng lúc đó; ông cố không có ở nhà. Ông cố đã trở lại hàng ngũ kháng chiến. Khi ông nội con được ba tuổi; thì bà cố nghe tin: Việt gian đã ám sát ông Hoàng Hoa Thám. Bà cố lo sợ cho ông cố. Nhưng mấy tháng sau; ông cố bình yên trở về gặp lại bà cố và ông nội của con…

        Ở nhà không được bao lâu. Ông cố lại ra đi lần nữa. Lần này, cũng như lần trước. Khi đi; ông cố vẫn dặn bà cố là: Nếu ông không trở về; thì nhớ nuôi dạy đứa con trai duy nhứt của ông cố - tức là ông nội của con - trở thành người yêu nước. Đừng để ông cố thất vọng. Ý của ông cố là: Ông nội con khi lớn lên; nếu còn giặc Pháp trên quê hương mình, thì ông nội phải đứng trong hàng ngũ của dân tộc, để chống ngoại xâm…và lần này; quả thật! Ông cố đã vĩnh viễn ra đi. Những người cùng chí hướng với ông cố; có người thoát hiểm trở về, báo tin cho bà cố, là: Ông cố đã bị xử tử cùng với một số đông chiến sĩ cách mạng, trong đoàn quân của hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên. Khi đoàn quân này đi đón vua Duy Tân vào Quảng Nam; để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa...

        Cơ mưu không thành. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị xử tử vào cuối năm 1916; trong đó, có ông cố của con. Còn vua Duy Tân thì bị bắt ngay khi vừa ra khỏi hoàng thành; rồi bị giặc Pháp đày đi viễn xứ…Ông cố thành người thiên cổ khi ông nội con mới hơn sáu tuổi...

        - Nhưng tại sao người Pháp lại đến và đánh chiếm quê hương của mình? Con đọc sách thấy họ nói: Họ đến để buôn bán và truyền đạo thôi mà má. Hiếu ngắt lời mẹ.

        - Đó là cái cớ, họ nói cho sự có mặt của họ, trong âm mưu xâm lăng các nước nhược tiểu…Họ nói: Họ đến để hợp tác buôn bán và truyền đạo – Nhưng thời đó; người da trắng như: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…Họ đang chia nhau đi khắp nơi trên thế giới, để đánh chiếm thuộc địa. Thí dụ như nước Úc mình đang ở cũng là thuộc địa của Anh. Người Anh đã đánh chiếm nước này; người Pháp đã đánh chiếm Việt Nam... Nhưng mình thì cuối cùng đuổi được người Pháp; còn người thổ dân ở đây thì không đuổi được người Anh…

        - Họ truyền đạo gì vậy má?

        - Họ truyền đạo Thiên Chúa. Dân tộc mình mới biết đạo Thiên Chúa đây thôi. Từ sau khi giặc Pháp đến và đô hộ xứ mình…

        - Vậy trước khi giặc Pháp đến xứ mình; dân mình không có ai biết đạo Công giáo hết. Rồi dân mình có đạo gì không má?

        - Phong tục lâu đời của dân tộc mình là: Thờ cúng ông bà, tổ tiên. Thờ trời, thờ đất…Cổ xưa thì có Lão giáo, Nho giáo đến từ Trung Hoa. Sau rồi đến Phật giáo. Rồi Công giáo…Con coi lại sách vở thì rõ hơn…

        - Dạ! Mà má kể tiếp về ông nội đi má. Hiếu vừa nói, vừa rót trà vô ly cho mẹ:

        - Ờ…khi ông cố qua đời thì ông nội con mới hơn sáu tuổi. Ông nội đã sanh ra và lớn lên trong thời giặc Pháp đang cai trị xứ mình bằng bạo lực vô nhân. Ông chứng kiến nhiều cảnh tang thương, đau lòng của dân tộc, của quê hương mình...

        Trong chánh sách chia để trị. Giặc Pháp chia đất nước mình ra làm ba phần: Nam, trung và bắc; rồi tuyên truyền để ba miền kỳ thị lẫn nhau, đừng đoàn kết với nhau…Họ muốn ba miền này phải đánh lẫn nhau nữa; để bớt để ý đến việc làm của họ, để họ dễ dàng cai trị mình…Họ thành lập đội quân Lê Dương, Lính Khố xanh, Khố đỏ…toàn người Việt để bắn giết người Việt. Y như khối CS có đội quân CSVN vậy…Bà cố kể rằng: Khi dân mình nghe tin ông Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang bên Tàu để tự vận; thì ông nội con khóc ngon lành và từ đó buồn bã, ít cười, ít nói. Lúc đó; ông nội con chưa đầy mười lăm tuổi…

        - Ông Phạm Hồng Thái là ai mà con nghe quen quá vậy má?

        - Con mới vừa đọc đó, mà đã quên rồi sao? Thôi để má nhắc lại…Ông Phạm Hồng Thái là người của Việt Nam Quang Phục Hội (VNQPH) do cụ Phan Bội Châu đứng đầu. Cụ Phan là một người thầy khả kính của dân tộc mình. Cụ là người khởi xướng ra phong trào Đông Du trong thời kháng chiến chống Pháp…Khi VNQPH được tin là; có một quan lớn của Pháp, tên Méclin, (Martial Merlin - Toàn quyền Pháp tại Đông dương) tới đất Quảng Châu bên Tàu; để dự tiệc do Pháp kiều khoản đãi tại một khách sạn (Khách sạn Victoria) ở Sa Diện. Cụ Phan quyết định ám sát viên quan lớn này; để đánh mạnh vào lòng yêu nước của đồng bào và cũng để nói lên ý chí bất khuất của dân VN…

        Ông Phạm Hồng Thái là người lãnh trách nhiệm này. Ông giấu trái bom trong bao đựng máy chụp hình và giả làm phóng viên, len lỏi vào khách sạn để ném bom vào bàn tiệc của Méclin. Toàn quyền Méclin không chết, nhưng nhiều người khác chết tại đó. Ông Phạm Hồng Thái thi hành xong nhiệm vụ; nhanh chóng chạy ra ngoài để thoát thân. Giặc đuổi theo; ông vừa chạy vừa bắn trở lại. Khi hết đạn, ông nhảy xuống sông tự tử, để không lọt vào tay giặc…Ông được sự ngưỡng mộ và kính phục của dân Trung Hoa các giới...

        Qua năm sau. Ông Hồ Hán Minh (Tỉnh trưởng Quảng Châu [Hồ Hán Dân?]) là một chánh khách uy tín của Trung Hoa thời đó; đã tranh đấu để mộ của liệt sĩ Phạm Hồng Thái được cải táng vào Hoàng Hoa Cương. Một nghĩa trang chỉ dành riêng cho bảy mươi hai liệt sĩ Trung Hoa đã hiến thân cho cuộc cách mạng Tân Hợi, năm 1911…

        - Dạ! Con nhớ ra rồi…Hiếu nói.

        - Cũng trong năm này; ông nội con muốn đi theo nghĩa quân chống Pháp. Nhưng ông sợ bà cố không cho phép, vì còn quá trẻ - Ông nội đã trốn bà cố để đi tìm những người cùng chí hướng với ông cố hồi trước. Dịp này; ông nội con được đi khắp đất nước mình. Có dịp để xem tòa án xử ông Phan Bội Châu và cũng được nghe cụ Phan Chu Trinh từ pháp về diễn thuyết hai lần, tại Saigon…

        Nhưng đau khổ nhứt vẫn là lần ông nội chứng kiến cảnh đội quân Lê Dương bao chung quanh pháp trường, rồi dắt ông Nguyễn Thái Học cùng mười hai đồng chí của ông ra chém tại Yên Bái. Ông nội nói: Ông Nguyễn Thái Học thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng nhằm đấu tranh bằng võ lực với thực dân Pháp, để giành lại độc lập cho đất nước mình. Ông là một trong những anh hùng của dân tộc VN, thời kháng Pháp...

        - Nhưng VNQDĐ được thành lập theo khuôn mẫu của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Vậy VNQDĐ có tự chủ được không má? Hiếu lại chận lời mẹ.

        - THQDĐ có giúp VNQDĐ để chống giặc Pháp tại VN thời đó. Nhưng tự chủ được hay không thì chưa rõ ràng. Vì; tất cả đều tuỳ thuộc vào một chữ "nếu":

        1/ Nếu THQDĐ không bị Cộng Sản đẩy lùi ra đảo Đài Loan mà vẫn nắm giữ chánh quyền tại Trung Hoa lục địa thêm mấy mươi năm nữa...và:

        2/ Nếu ông Nguyễn Thái Học không bị giặc Pháp giết và VNQDĐ nắm được chánh quyền tại VN thì có tự chủ được hay không, vẫn là một dấu chấm hỏi để suy gẫm và thực tế đã không như vậy. Vì: THQDĐ đã thua CS và chạy ra đảo Đài Loan. Ông Nguyễn Thái Học đã chết và VNQDĐ đã không nắm được chánh quyền. Cái chết của ông Nguyễn Thái Học - cùng mười hai đồng chí của ông - đã giữ được tiếng thơm trong lịch sử chống Pháp của dân tộc mình cho đến ngày nay...ngừng lại uống miếng trà; bà Tám tiếp.


        - Ông nội của con nhờ được sự giới thiệu của những người đi trước, nên đã gia nhập vào VNQDĐ rất sớm và cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái có sự tham dự của ông nội con. Nhưng; một số người may mắn thoát hiểm trong cuộc khởi nghĩa này, có ông nội của con…

        Trước khi cuộc khởi nghĩa xảy ra; ông nội đã được tin là, bà cố đang đau nặng. Mà tình hình lúc đó, đang hồi gay go. Ông nội không về được. Bây giờ là dịp để ông nội về thăm bà cố; thăm quê cũ, đã năm năm xa cách…

        Vậy mà; thêm năm năm nữa, ông nội mới về tới quê xưa và đã bị bán thân bất toại. Bởi trên đường về; ông bị bắt nhiều lần. Giặc Pháp bắt ông vì nghi ngờ ông là Việt Minh, hay VNQDĐ. Việt Minh bắt ông vì nghi ngờ ông là VNQDĐ, hay Việt gian cho Pháp. Ông bị cả hai bên đánh đập, tra khảo đến bán thân bất toại.

        Rồi cuối cùng; ông cũng gặp được mẹ già, quê cũ sau mười năm bôn ba, lưu lạc…Ông nội trở thành người tàn phế từ đó. Mấy năm sau; bà nội về ở với ông vì cảm thương cho người nghĩa sĩ đã sớm phải bó gối trong tuổi thanh xuân, đang ôm mộng góp sức giành độc lập cho tổ quốc. Ông nội mở lớp dạy học cho trẻ em ở lối xóm và những khu lân cận. Ông dạy học miễn phí; mà được người ta biếu tặng quà cáp, đồ vật nhiều hơn là dạy học lấy tiền…

        Khi má về làm dâu cho ông bà nội của con; thì ông nội đã ngoài sáu mươi. Trong nhà nội; ngoài bàn thờ ông bà, tổ tiên, còn có bàn thờ vong linh ông Nguyễn Thái Học…Ở tuổi già; ông nội thường trầm ngâm nơi hai bàn thờ này, để cầu nguyện hoà bình cho quê hương, bình yên cho đất nước. Thời gian này; ông nội giống như người tu tại gia hơn…

        Sau khi chú Mười chết; ông nội đã đoán biết là phe CS sẽ thắng trong cuộc chiến này và ông cầu nguyện cho quê hương mình, sẽ trở thành vùng đất “bất chiến tự nhiên thành” nếu không may, miền nam lọt vào tay CS. Bởi ông thấy trong lịch sử cận đại của dân tộc mình luôn chiến tranh; chưa một thời gian ngừng nghỉ, để tái thiết đất nước. Trong khi cuộc chiến nào, cũng đưa đến sự điêu tàn, tang tóc…

        - Tại sao lại là "nếu không may" và; bất chiến tự nhiên thành nghĩa là gì má?

        - Vì khi CS thắng; gia đình của những người ở miền nam ra sao, thì con đã rõ. Còn nếu phe CS bị thua; thì đồng bào miền bắc sẽ bị giống như mình. Tức là; sẽ có một bên bị thua và đồng bào nằm bên phía bị thua sẽ gánh chịu tất cả đau thương, thống hận của thời hậu chiến. Bên nào thắng; thì quê hương của mình cũng đều đã tan nát, cũng cần cái "bất chiến tự nhiên thành" này. Vì; tinh thần dân tộc của thành phần dân tộc như má đã nói hồi nãy. Còn bất chiến tự nhiên thành là: Đi tới thành công, mà không cần dùng tới võ lực của chiến tranh. Bởi đất nước mình đã điêu tàn rồi...Ý của ông nội là; bên nào thắng, thì bên đó sẽ tự mất đi mà mình không trực tiếp dùng tới sức mạnh của quân đội. Không gây chiến tranh, máu lửa…Hoặc là họ sẽ hồi tâm và tự dẹp bỏ chế độ của mình… Vì: Nếu nhân loại đã chạy nạn Cộng Sản từ năm 1917; thì nhân loại cũng đã chạy nạn quân phiệt - độc tài - từ trước đó, cho đến bây giờ và mãi về sau nữa...với ông nội của con, thì: Mọi chế độ phi nhân, phi nghĩa đều có giai đoạn. Dân tộc là trường tồn. Họ sẽ phải trả lại cho dân tộc những gì thuộc về dân tộc…

        - Con có gặp một người; người này mới từ VN qua đây du học. Con thấy người này cũng lấn cấn như má nói hồi nãy và không có dấu hiệu hồi tâm…

        - Với má thì: Bất cứ chủ nghĩa nào, lý tưởng nào; cho dù tốt đẹp tới đâu đi nữa. Mà chỉ vì muốn thực hiện chủ nghĩa, hay lý tưởng đó; để gây nên một cuộc chiến tranh điêu tàn, tang tóc cho quê hương, dân tộc mình, suốt mấy chục năm như vậy, cũng đều là phi nhân, là phi nghĩa…Sau khi vượt biển; ra được nước ngoài. Thấy đất nước người ta; má đau khổ vô cùng! Vì nhìn lại sự điêu tàn của quê hương, tổ quốc mình. Đồng bào của mình đang sống trong tăm tối, nghèo nàn…

        - Tại sao lá cờ vàng ba sọc đỏ lại gọi là cờ ba que? Hiếu hỏi mẹ.

        - Lá cờ này cũng có vài điều lấn cấn: Thổ ngữ của đồng bào miền bắc dùng cụm từ “ba que - xỏ lá” để ám chỉ những thành phần xấu trong xã hội. Họ có thể nói ngắn gọn như; “quân ba que, quân xỏ lá” hoặc “thằng ba que, thằng xỏ lá”… để nói về thành phần xấu này. Theo ông nội của con thì cụm từ “ba que xỏ lá” này đã theo đồng bào miền bắc vào nam năm 1954 (?). Trước đó, có nhiều đợt di cư khác - nhỏ hơn, của đồng bào miền bắc, miền trung - vào nam và thời đó chưa có cụm từ này…Như thế; cụm từ và lá cờ này đã xuất hiện cùng một thời gian và người CSVN đã dùng "cụm từ tượng hình" này để đặt tên cho lá cờ vàng ba sọc đỏ? Vì ba cái sọc đỏ là ba cái "que". Que; trong nam gọi là cái cây nhỏ: như cái roi...

        Nghe đâu sau thời chính phủ Trần Trọng Kim dưới triều Bảo Đại đã có lá cờ này vốn rất giống với lá cờ Quẻ Ly trước đó..."Tinh Thần Quốc Gia" (TTQG) cũng được phát động mạnh mẽ trong thời gian này. Mặc dù (những) người chính yếu phát động TTQG đã bị đào thải ngay sau đó - một thời kỳ cực kỳ rối loạn (1945-1954) - nhưng TTQG vẫn được duy trì để làm nền tảng cho "Lý Tưởng Tự Do"; nhằm trang bị "danh nghĩa" cho nhóm Việt gian theo Pháp, Mỹ sau này...

        Màu đỏ là màu chiến thắng; ngoài ý nghĩa đó “hai nước VN” đều lấy biểu tượng da vàng máu đỏ để làm cờ. Nhưng ở miền nam; tại sao không là một dòng máu mà lại là ba “giòng” máu đỏ trong màu da vàng? Ba dân tộc? Ba giống dân? Họ chỉ giải thích đơn giản là; ba miền: Nam, trung và bắc…Thành phần dân tộc không khỏi hoài nghi về ý đồ của giặc Pháp, Mỹ và Việt gian muốn tiếp tục gây chia rẽ dân tộc VN. Ý đồ đó được Việt gian tán trợ mà mới có lá cờ này. Giặc Pháp cho rằng: Mảnh đất miền nam do các đời chúa Nguyễn chiếm được, thì họ cũng có thể chiếm lại từ tay người VN và họ đã làm, nhưng cuối cùng không được...

        Dù thế nào đi nữa; lịch sử dân tộc cũng sẽ ghi công của người CSVN vì họ đã chấm dứt được ách thống trị của thực dân Pháp trên quê hương mình trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 và năm 1975, họ đã thống nhất được đất nước. Nếu không, thì bây giờ vẫn đang có hai nước VN và đất nước mình có thể sẽ bị chia cắt lâu dài và cuộc chiến tương tàn sẽ kéo dài mãi mãi…và dù sao thì quê hương, dân tộc mình cũng đã có được hai điều may mắn sau ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, đó là:

        Thứ nhất: Người CSVN đã thống nhất được đất nước và chủ nghĩa CS vừa kịp suy tàn sau đó, để người CSVN có cơ hội lột xác mà trở về với dân tộc.

        Thứ hai là: Chiến tranh thật sự đã chấm dứt, hòa bình thật sự đã đến trên quê hương mình sau những năm dài điêu tàn, tang tóc, chia ly...mặc dù sau ngày thống nhất đất nước [30/04/1975], nhóm Việt gian theo Mỹ đã cố gắng hết sức cho việc tái lập chiến tranh trên mảnh đất VN đau khổ này...nhưng hồn thiêng sông núi đã phò trợ dân tộc mình và...nhóm này đã không được toại nguyện...


        Bé Hoài đã thức; đang ọ ẹ trong nôi. Bà Tám đứng dậy; đưa một tờ báo khác cho Hiếu và nói:

        - Con đọc thêm bài thơ này; để má đi thay tã và làm bình sữa mới cho em.

        Hiếu cầm tờ báo; nằm dài trên cái salông và đọc:


        QUÊ HƯƠNG TÔI (3)

        Quê tôi nay đã xa rồi
        Làng tôi nay đã tơi bời đau thương
        Bao nhiêu máu lệ đã vương
        Đắng cay tủi nhục vẫn đương lan tràn
        Quê tôi tan tác ngỡ ngàng
        Dân tôi ngơ ngác bẽ bàng chơi vơi
        Trăm cơn bão tố cuộc đời
        Ngàn cơn bỉ cực chẳng hồi thái lai
        Chỉ là trường khúc bi ai
        Để là như thuở bán khai điêu tàn
        Như gi vỡ tổ gọi đàn
        Như đêm hụt hẫng bước chân muộn phiền
        Tìm đâu một thoáng bình yên
        Lấy đâu chứa hết oan khiên căm hờn
        Khởi đi từ buổi hoàng hôn
        Tình yêu đã hóa nỗi hờn thiên thu
        Quê tôi đã hóa ngục tù
        Dân tôi đã nhận kiếp tù đau thương
        Triệu người lê kiếp tha phương
        Bao người gởi xác đại dương , rừng già
        Sống đời không cửa không nhà
        Không cơm, không áo, không ra hồn người
        Không đang sống kiếp con người
        Chỉ là chồng chất đầy vơi hận thù
        Chập chờn giấc ngủ vào thu
        Nhạt nhòa nhân ảnh mù mờ cố hương
        Nghẹn ngào hai chữ quê hương
        Ngậm ngùi một mảnh quê hương Lạc-Hồng
        Nhớ hàng dừa rũ ven sông
        Hàng cau cao vút giữa trong sân nhà
        Vườn rau với bóng mẹ già
        Ao bèo vịt lội đàn gà loanh quanh
        Con trâu với lúa ruộng xanh
        Cò bay thẳng cánh đất lành phù sa
        Con đò xuôi mái xa xa
        Mặt trời ngả bóng chiều tà thanh thanh
        Tiếng hò bên mái nhà tranh
        Ầu ơ quyện với âm thanh võng chiều
        Gió hiu hiu, tiếng sáo diều
        Nhớ quê ai chẳng chín chiều ruột đau
        Cuộc đời cay đắng bể dâu
        Quê hương tan nát còn đâu nữa nhà
        Giập vùi những trận phong ba
        Nghĩ mà càng tủi phận ta , phận người
        Lang thang khắp đất nước người
        Thêm đau nỗi khổ của người Việt Nam
        Ngậm ngùi một kiếp gian nan...


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Đọc xong; Hiếu chợt hỏi mẹ:

        - Nếu năm bảy chục năm nữa; Việt Nam mới có sự thay đổi thì sao má?

        - Thì má sẽ đau khổ vô cùng. Bởi vì; má con mình đâu có lỗi gì, mà phải đi biệt xứ và chết trên mảnh đất không phải quê hương của mình. Nếu như vậy; má chỉ ước nguyện rằng: Sau khi đi tới cuối đoạn “cầu tre lắc lẻo” của cuộc đời. Má muốn được về gần bên nội, ngoại. Về…

        - Bây giờ; con thấy có nhiều người về VN lắm mà má? Hiếu chận lời mẹ.

        - Riêng má thì không và má biết chắc chắn rằng; ông bà nội ngoại cũng sẽ không bao giờ trách má. Má chỉ về, khi không còn những kẻ đã làm mình phải chạy đi. Ý má muốn nói đến những người chính yếu, lãnh đạo cuộc chiến tranh phi nghĩa này, ở cả hai bên. Má không muốn nói đến những người; vì lý do này, hay lý do khác…mà can dự vào hai thế lực đó. Miễn là họ biết hồi đầu về phía dân tộc.

        Hiếu chợt giựt mình và tự trách: Mình đã hỏi mẹ, câu hỏi mà mình không nên hỏi. Đôi khi; có những câu hỏi, không nên hỏi. Mà chỉ nên tự tìm hiểu mà thôi! Nhìn hai mắt mẹ đã đỏ hoe. Hiếu tìm cách đưa câu chuyện về hướng khác:

        - Việt Nam mình; hồi trước chỉ có miền trung và miền bắc thôi hả má?

        Ngừng lại giây lâu; để cơn xúc động nguôi dần và cũng để nói sao cho vắn tắt, gọn gàng, dễ hiểu cho con. Bà Tám nói:

        - Ờ…Ở thời kỳ suy bại cuối đời nhà hậu Lê. Mạc Đăng Dung thừa cơ cướp ngôi vua; lập nên nhà Mạc, được mấy mươi năm. Họ Trịnh và họ Nguyễn đứng lên phò nhà hậu Lê, đánh nhà Mạc. Họ Trịnh ở “đàng ngoài” - miền bắc VN. Họ Nguyễn ở “đàng trong” - miền trung VN. Lúc đó; nước mình chưa có miền nam. Cuối cùng thì họ Trịnh diệt được nhà Mạc; đưa con cháu nhà hậu Lê trở lại ngôi vua. Nhưng chỉ là vua bù nhìn thôi! Quyền binh nằm hết trong tay hai họ Trịnh và Nguyễn. Hai họ này đều lấy việc phò vua Lê, mà tranh quyền lẫn nhau. Hai họ đều xưng Chúa ở hai đàng. Thời này gọi là: Thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ở thời này; nước mình mới có tới đất Bình Định mà thôi. Các đời Chúa Nguyễn vì đánh nhau với Chúa Trịnh; mà chiếm luôn mảnh đất còn lại của Chiêm Thành - Miền trung ngày nay. Lấn dần xuống miền nam. Sử sách ghi chép: Đây là sự nghiệp mở mang bờ cõi, của Chúa Nguyễn…Dân Việt mình theo các đời Chúa Nguyễn mà xuống tận Cà Mau. Chúa Nguyễn đã không đánh chiếm toàn bộ mảnh đất miền nam – Như miền Thuỷ Chân Lạp, chẳng hạn. Dân Việt tự kéo xuống để khai khẩn đất hoang và vua Chân Lạp đã nhường phần đất này cho Chúa Nguyễn…Cuối thời Trịnh Nguyễn phân tranh; nước mình được nối dài thành hình chữ S như ngày nay…

        Bé Hoài đã ngủ trở lại. Bà Tám nhẹ nhàng đặt bé xuống nôi. Hiếu ngồi yên lặng bên chồng sách, báo và cái computer đang mở. Hiếu nhìn vào màn ảnh và đọc lại những gì mình đang viết…Hiếu đang viết lại đoạn đầu bài thơ của cha mình và dùng computer để làm ra trong dạng của một quyển sách, cỡ nhỏ hơn cuốn tập học trò.

        Đoạn đầu của bài thơ này gồm hơn bốn trăm câu, làm theo thể lục bát. Bắt đầu từ thời Bách Việt, con cháu của vua Thần Nông. Đây là một bài thơ sử và đoạn đầu này viết đến đời hậu Lê, với vua Lê Lợi. Một bài thơ thuần tuý viết về lịch sử dân tộc VN và có tựa đề là: "Trường ca; Lời Ru Của Mẹ". Hiếu nhìn bốn chữ Lời Ru Của Mẹ. Chữ Mẹ…chắc cha mình muốn nói là Mẹ VN. Nhưng bốn chữ này vẫn làm cho Hiếu nhớ đến lời ru của chính mẹ mình. Văng vẳng trong tiềm thức. Nhứt là ba tháng “nghỉ ngơi” ở nhà này. Hiếu vẫn nghe thấy lời ru, câu hò của mẹ…Cũng như Hạnh; câu ca, giọng hò của mẹ gây nhiều cảm xúc cho Hiếu. Hiếu cảm thấy yêu quê hương; nhớ nhà xưa, xóm cũ của mình. Cũng trong vùng ký ức thăm thẳm đó; Hiếu vẫn nhìn thấy lờ mờ, những tháng ngày còn sống ở quê nhà với bà nội. Với khóm trúc, hàng cau. Với vườn rau, ao cá. Với đàn gà vịt lăng xăng trong sân nhà…

        Tất cả những hình ảnh yêu thương đó giờ chỉ còn có thể thấy lại trong tâm tưởng! Tất cả đã nằm trong một trời quá khứ mịt mờ. Nhưng những hình ảnh đó vụt trở nên sống động khi Hiếu nghe được giọng hò của mẹ ru bé Hoài trong những buổi chiều tàn, nhạt nắng…

        Ông bà ngoại của Hiếu đã qua đời trước khi mẹ Hiếu về làm dâu cho ông bà nội…Cả một đời; Hiếu chỉ được gặp cha có mấy lần. Nhưng không nhớ rõ; vì còn quá nhỏ. Ông nội thì qua đời khi Hiếu mới sanh. Chỉ có bà nội là gần gũi nhiều với Hiếu, cho tới khi theo mẹ vượt biên và; bà nội cũng đã qua đời khi Hiếu đã ở Úc được độ ba năm. Hiếu nhớ nội! Hiếu nhớ những buổi chiều; hai anh em ngồi nghe nội kể chuyện xưa, tích cũ…

        Dạo đó ở VN. Bà nội và mẹ Hiếu không đồng ý về nhiều điểm trong sách giáo khoa của chế độ mới. Anh em Hiếu không đi học ở trường; mà chỉ học ở nhà, do mẹ dạy. Bà nội cũng dạy cho anh em Hiếu về chữ quốc ngữ. Nội cũng kể nhiều về lịch sử cận đại và quê hương mình...

        Hiếu miên man nghĩ về giòng họ nội của mình…Rồi tiếp tục công việc đang làm dở dang từ mấy tuần nay…


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        CHƯƠNG KẾT


        Hôm nay là thứ Bảy; gia đình bà Tám làm tiệc sinh nhật ba tuổi cho bé Hoài. Bữa tiệc hôm nay trở nên vui vẻ hơn; vì tuần trước, Hiếu đã hoàn tất khoá học sửa chữa computer và sắp nhận việc làm. Còn Hạnh đang học năm thứ hai đại học Sư phạm tại Sydney đã được mấy tháng.

        Sinh nhật bé Hoài đúng ra là vào thứ Ba tuần tới. Nhưng gia đình chọn hôm nay làm tiệc cho bé. Đây là tiệc sinh nhật đầu tiên của bé Hoài. Bởi bà Tám nghĩ rằng; năm nay, bé mới có thể nhận thức được, về ý nghĩa của bữa tiệc mà gia đình đang làm cho bé. Mấy năm nay; bé là nguồn vui của mọi người trong nhà. Bé nhận được nhiều tình thương từ mọi phía; cha mẹ, anh chị…Hôm nay; bé mặc đồ đẹp, vui cười lăng xăng trong khi mọi người lo dọn đồ ăn lên bàn, với cả quà và bánh sinh nhật của bé nữa. Bé được mọi người vỗ tay vừa cười, vừa hát bài Happy Birthday cho bé. Bé được thổi ba cây đèn cầy trên bánh sinh nhật. Bé được chụp rất nhiều hình để kỷ niệm bé lên ba; nhứt là khi mở quà…Dĩ nhiên; bé có rất nhiều nét giống dượng. Nhìn dượng; Hiếu thấy có dáng dấp của một nghĩa sĩ, chịu bó tay vì thời cuộc…

        Sau bữa tiệc; dượng đề nghị với mẹ Hiếu một việc. Một việc mà bà Tám cảm thấy kỳ kỳ, khó nghĩ. Dượng nói: Hôm nay; bé Hoài đã được ba tuổi rồi, mà dượng và má vẫn chưa có ngày vui chánh thức. Ý của dượng muốn nói đến ngày đám cưới của dượng và bà Tám.

        Việc này đã làm cho bà Tám khó nghĩ. Bà nghĩ: Việc này có một điều gì không ổn. Năm nay bà đã bốn mươi lăm. Tuổi mà người ta có cháu nội, cháu ngoại rồi, mà còn làm đám cưới. Thiên hạ cười chết!

        Ở xứ này; chuyện đó là chuyện thường tình với người Âu Tây và cũng thỉnh thoảng xảy ra với cả người mình trong thời gian gần đây. Ở đây và ở hoàn cảnh này; chuyện đúng, sai chẳng mấy ai đặt ra. Nhưng vấn đề là bà vẫn cảm thấy ngượng ngùng với chính bà; với con cái và cả những người quen biết! Bà đem chuyện này bàn riêng với hai con. Cả hai đứa đều đồng ý với tất cả những gì bà đã nghĩ. Nhưng chúng cho rằng: Không tổ chức đám cưới cũng là điều không đúng…

        Cuối cùng thì bà Tám cũng đồng ý tổ chức đám cưới. Nhưng; chỉ mời vài người bạn rất thân của dượng, rồi chỉ đặt một bàn tiệc duy nhứt tại nhà hàng và bà không mặc áo cô dâu trong ngày đám cưới. Dượng tỏ ra rất hài lòng về sự quyết định của bà Tám. Bởi vì với dượng: Đó chỉ là một kỷ niệm cho mọi người trong gia đình này; nhứt là bé Hoài. Còn dượng; thì Hiếu hiểu rằng: Bây giờ; trên đời này, không có gì đáng để vui, mà cũng chẳng có gì đáng để buồn trong quãng đời xa xứ của ông…

        Hôm sau; cả nhà xúm lại xem hình sinh nhật của bé Hoài, chỉ không có dượng. Dượng đang đi đến nhà in, để in thiệp cưới. Dù rằng chỉ có vài chục thiệp thôi và đa số là gởi về VN; gởi như để thông báo. Nhưng ông vẫn muốn in cho thật đẹp, thật trân trọng…

        Nhìn hình; bà Tám thấy mình đã già. Nhưng bà cảm thấy vui khi thấy trong hình, cả ba đứa con bà đều nhìn rất sạch sẽ và sáng sủa. Vết thẹo trên mặt thằng Hiếu đã mờ hẳn và cái răng gãy của nó đã được trồng lại…Đến nay; thì gia đình bà đã ở tại Úc được mười bốn năm và đây cũng là lần đầu tiên, bà chụp hình chung với các con, trong một mái ấm gia đình, mà bà cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Bà nhìn mãi những tấm hình này…

        - Ủa! Bữa nay là Chúa Nhựt! Ngày mai là ngày anh hai đi nhận việc làm đó má. Hạnh đột nhiên nói.

        - Ờ…con không nhắc, má cũng nhớ chớ bộ. Ngày mai là ngày đầu tiên đi làm trong đời thằng Hiếu mà làm sao má lại không nhớ. Bà Tám vừa trả lời Hạnh, vừa quay qua Hiếu. Bà nói tiếp:

        - Lát nữa rảnh; con lo sửa soạn cho ngày mai nghe Hiếu. Ngừng bớt công việc thường ngày lại, để cuối tuần hãy làm. Mỗi ngày; sau khi đi làm về, con chỉ nên làm trễ lắm là chín giờ tối thôi, đặng ngủ sớm, chớ đừng thức khuya như mọi ngày. Công việc con đang làm còn lâu dài. Ờ…mà con làm tới đâu rồi Hiếu?

        - Dạ…Con nghĩ...bữa nay, hay mai; con sẽ làm xong phần bài thơ con làm mất. Con dùng computer làm bài thơ của ba thành cuốn sách đẹp lắm má. Hễ rồi; con sẽ in ra thử một tập cho má coi…

        Hiếu cõng bé Hoài trên lưng, đứng ở cửa phòng khách; vừa cười rất tươi, vừa nói với mẹ và Hạnh. Bà Tám hỏi:

        - In ở đâu? Rồi tốn kém bao nhiêu con? Sao không để xong xuôi rồi hãy in…

        - Đâu phải má! Cuốn sách in ra đặng ở nhà mình đọc, thì computer của mình làm được; chớ đâu cần phải đem đi đâu in. Cuốn sách nháp thôi mà…Computer bây giờ làm được tất cả những việc mà anh hai đang làm. Hạnh chận lời mẹ.

        - Vậy hả con? Má đâu có biết. Đâu! Con làm mau rồi in ra một tập cho má coi nghe Hiếu?

        Hiếu dạ rồi cõng em đi trở về phòng mình.

        - Bữa nay mình nấu chè ăn đi má. Hạnh nói với mẹ.

        - Con muốn ăn chè gì?

        Chợt chuông điện thoại reo vang. Hạnh chạy nhanh đi cầm điện thoại. Bà Tám ngồi lại trong phòng khách một mình. Bà coi lại cuốn album dày cộm những hình ảnh của cả gia đình bà mới chụp hôm qua; nhân tiệc sinh nhật ba tuổi của bé Hoài.

        - Má à! Dượng bị đụng xe rồi! Hạnh vừa chạy ra vừa nói, mặt xanh như tàu lá chuối, hai con mắt trợn tròn.

        Bà Tám đứng bật thẳng lên, để rớt cuốn album xuống đất. Hai con mắt bà trợn dọc, sáng quắc. Bà nói như la lớn:

        - Trời thần ơi! Rồi ổng sao rồi?

        - Nghe nói đụng xe nặng lắm. Xe cứu thương đã chở dượng vô bệnh viện Liverpool. Hạnh nói rất nhanh.

        Tiếng ồn ào của Hạnh và bà Tám, làm Hiếu ôm bé Hoài chạy ngược ra phòng khách. Hạnh nói cho anh hai mình nghe về sự việc vừa xảy ra. Hiếu để em bé xuống rồi mau lẹ đi lấy cuốn điện thoại niên giám; tìm số điện thoại của bệnh viện Liverpool. Hiếu chạy vô phòng, gọi tới bệnh viện...

        Hạnh ẵm bé Hoài trên tay; nhìn mẹ. Bà Tám vẫn đứng như trong tư thế lúc đầu; đứng như pho tượng, không hề thay đổi, kể cả gương mặt. Hạnh nhìn mẹ; linh cảm một việc không lành kế tiếp.

        Hiếu chạy trở ra phòng khách. Trừ bé Hoài; gương mặt mọi người đều giống như nhau là; tái ngắt. Hiếu la lớn:

        - Dượng chết rồi!

        Hạnh nhìn mẹ; mẹ đã linh cảm được vấn đề. Mẹ đã chảy nước mắt ra trước khi Hiếu nói và khi Hiếu vừa nói xong; thì Hạnh thấy mẹ mình như rụng rời tay chân, lưng như bị gù xuống và đã đột nhiên như già hẳn đi nhiều tuổi. Hiếu chạy lại đỡ mẹ ngồi lại xuống ghế.

        - Má bình tĩnh lại đi má! Hiếu vừa nói, vừa đưa tay xoa nhẹ lên lưng bà Tám.

        Hiếu và Hạnh đều khóc, luôn cả bé Hoài! Nhưng bà Tám không khóc. Bà ngồi bất động, không nói nửa lời. Mắt bà đăm chiêu nhìn vào một chỗ; như đang nhìn vào một khoảng nào đó, trong cõi hư vô, xa xăm vô tận…

        - Bây giờ mình vô nhà thương nghe má? Hạnh hỏi mẹ.

        Bà Tám không trả lời, vẫn ngồi yên bất động. Hạnh ẵm em bé lại ngồi bên cạnh mẹ; đưa tay nhẹ vén mái tóc đang lòa xòa rũ xuống che hết khuôn mặt của bà. Hạnh lặp lại câu hỏi vừa rồi:

        - Mình thay đồ rồi đi vô nhà thương nghe má?

        Hạnh vừa nói, vừa nhìn vào khuôn mặt của mẹ. Hạnh cảm nhận được nỗi đau tột cùng của mẹ. Bà Tám quay lại; nhìn Hạnh, nhìn Hiếu. Hạnh cảm thấy ánh mắt mẹ mình hơi lạ. Ánh mắt của một người có một cuộc sống bình yên và chưa hề trải qua một nỗi bi thương nào…

        Rồi bà đứng lên; theo các con đi thay đồ và đón xe, cùng đi đến bệnh viện.

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Hôm nay là ngày đưa dượng ra nghĩa trang. Trời đang giữa mùa đông; không gian lạnh buốt bao quanh một quang cảnh ảm đạm lạ thường. Gia đình bà Tám đã không thông báo cho bất cứ ai về sự ra đi của dượng. Đi theo xe tang; chỉ có duy nhất một chiếc xe của người láng giềng bên cạnh nhà. Người láng giềng này cùng đi theo và cũng là tài xế chở bốn mẹ con bà Tám đi tiễn đưa dượng đến nơi yên nghỉ cuối cùng.

        Trong nghĩa trang; tất cả mọi người đều âm thầm, lặng lẽ! Không một tiếng khóc, cũng không ai nói một lời nào. Ngoại trừ bé Hoài với những câu hỏi vu vơ, thơ dại…

        Cũng như mọi người; Hiếu đứng lặng thinh nhìn nơi an nghỉ ngàn thu của dượng. Hiếu cảm thấy xót xa cho một kiếp người…Cũng như vạn vật hiện hữu trên đời: Đã đến để đi. Đã hợp để tan. Đã không để có. Đã có để không…

        Hiếu nhìn bé Hoài rồi bỗng thấy thương dượng. Dượng đã không chết ở chốn sa trường đầy máu lửa. Không chết trong ngục tù tăm tối, đau thương và bây giờ; dượng đã âm thầm nằm xuống. Âm thầm gởi nắm xương tàn nơi đất khách, quê người. Hiếu nhìn mẹ. Mẹ cũng vẫn lặng yên như từ sau khi nghe tin dượng chết. Bây giờ mẹ vẫn đứng đó, vẫn nhìn và không một giọt nước mắt trên mi.

        Suốt gần năm năm dượng sống chung với gia đình Hiếu. Hình như; Hiếu chỉ thấy vài lần ông mỉm cười. Hiếu nhớ một lần mỉm cười của dượng, khi ông nhắc tới lần ông đi trình diện học tập cải tạo; dượng nói và mỉm cười: Dượng đã đóng tiền xin đi ở tù! Dượng nói chuyện nghe nhỏ nhẹ, truyền cảm. Dượng là người có nhiều tư cách của một anh hùng bị ngã ngựa; sống lủi thủi, lặng câm với tháng ngày còn lại của đời mình…

        - Thôi! Mình về đi má!

        Tiếng nói của Hạnh làm Hiếu giựt mình nhìn lại. Mọi việc hình như đã xong tự lâu rồi. Nấm mộ đã thành hình; dượng đã nằm sâu trong lòng đất lạnh. Chiếc xe tang và những người trong chiếc xe ấy cũng đã đi đâu mất. Chỉ còn trơ lại bốn mẹ con của Hiếu và hình như; mỗi người đều đang theo đuổi một suy tư của riêng mình. Quên về…

        Hiếu nhìn ra xa xa; người láng giềng đang ngồi yên lặng trong xe chờ đợi. Hiếu bước đến dìu một bên tay mẹ và lặp lại lời của Hạnh:

        - Thôi! Mình về đi má!

        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Hôm nay là lần thứ hai, anh em Hiếu đi thăm mẹ tại bệnh viện. Bây giờ mới chín giờ sáng; ở bệnh viện vắng hoe người. Đây là bệnh viện tâm thần; dành riêng cho những người mất trí, điên loạn, dại khờ…Bà Tám đã được đưa tới đây hơn ba tuần lễ trước.

        Khoảng một tuần sau khi dượng qua đời. Vào một buổi tối; Hạnh phát giác mẹ mình không có ở trong nhà. Anh em Hiếu quýnh quáng chạy đi kiếm khắp nơi trong xóm; vẫn không thấy mẹ. Hiếu về nhà gọi điện thoại cho cảnh sát, nhờ họ phụ kiếm giùm…

        Từ khi tới Úc; anh em Hiếu biết mẹ mình, sống một cuộc đời khép kín, ít giao thiệp với ai, nếu có, thì sự giao tiếp này rất chừng mực. Cho nên; suốt mười mấy năm nay, bà chưa từng đến chơi nhà ai…Anh em Hiếu; không ai nói với ai, cũng hiểu được rằng: Sự vắng nhà của mẹ; là một việc không bình thường. Hiếu đã không thể đi làm sau ngày nhận việc. Còn Hạnh phải tạm nghỉ học; để ở nhà coi em và cùng với anh mình, tìm mẹ…

        Thời gian này; Hạnh đã sống và cảm nhận được sự “lắc lẻo” của cây “cầu tre” cuộc đời. Dù rằng; Hạnh mới ở đoạn đầu của nó…Rồi hôm qua; cảnh sát và cả nhà thương nữa, đều điện thoại đến báo tin là: Bà Tám đang bình yên trong bệnh viện...

        Ba anh em tức tốc vào nhà thương thăm mẹ. Mới chỉ một tháng sau ngày dượng mất, mà bà Tám; nay nhìn đã già đi hơn trước rất nhiều. Bé Hoài không nhìn ra mẹ và bà Tám thì không nhận ra ba đứa con của mình. Nhìn mẹ; Hạnh thấy bà gầy gò hơn trước. Dáng điệu vẫn bình thường và vẫn hiền lành như trước; nhưng cử chỉ vui vẻ khác thường. Bà vuốt đầu bé Hoài; vừa cười vừa nói với Hạnh:

        - Chèng ơi! Thằng nhỏ dòm dễ thương qua heng. Cậu mợ mới có đứa đầu đây hả?

        Hạnh ngồi nói chuyện với bác sĩ rất lâu. Bác sĩ hỏi nhiều về quá khứ của bà Tám. Hỏi về tất cả những gì đã xảy ra cho bà. Cả trong quá khứ xa xôi từ lâu trước nữa…Qua cuộc nói chuyện với bác sĩ, hơn ba tiếng đồng hồ. Anh em Hạnh hiểu được rằng: Sự chịu đựng về đau khổ của mỗi người gây nên bởi ngoại cảnh xung quanh; được đơn giản hoá lại, như một cái ly đựng nước. Cái ly đựng nước đau khổ này, của bà Tám; đã chứa đựng tương đối nhiều bởi quá khứ từ VN, cho đến khi bà nghe tin ông Tám chết…Rồi cái ly này được đong đầy ở lúc bà nghĩ rằng; xã hội đã cướp đi đứa con trai duy nhất của bà với ông Tám…

        Bà Tám là một người nhạy cảm và có nhiều cảm xúc với ngoại cảnh. Cho nên; những người khác, có những hoàn cảnh tương tự như của bà và người ta vẫn có thể chịu đựng được. Còn bà thì không! Cái chết đột ngột của dượng; không ít thì nhiều, đã như một giọt nước làm tràn ly nước, đã quá đầy này. Bà Tám trở nên người mất thăng bằng về tâm trí từ đó…

        Bác sĩ khuyên anh em Hiếu nên giúp bà bằng cách; đưa ra những kỷ niệm, hoài bão…những gì đặc biệt trong quá khứ, dĩ vãng của bà, để đánh thức tâm trí của bà trong vùng ký ức mịt mù đó. Cách này; là một cách hữu hiệu, giúp bác sĩ khôi phục trở lại một phần nào, sự thăng bằng về tâm trí cho bà Tám…

        Đó là chiều hôm qua và cũng là lần đầu tiên, anh em Hiếu vào thăm mẹ. Về đến nhà cũng đã quá nửa khuya. Anh em Hiếu không ngủ được…

        Sáng hôm nay; trở lại bệnh viện, Hiếu mới để ý và nhận ra rằng: Ở tại bệnh viện này; cũng có khá nhiều bệnh nhân là người Việt và cũng như hôm qua, khi vào tới phòng của mẹ. Thấy bà ăn mặc sạch sẽ; đang ngồi trên giường, nhìn ra phía cửa sổ bên kia. Nghe tiếng chân người; bà quay lại nhìn. Vẫn ánh mắt và nụ cười hiền lành như hôm qua. Bà hỏi:

        - Ủa! Chưa về hả? Nhà ở xa hôn?

        Hạnh dắt em tới gần mẹ; hai chị em đều gọi:

        - Má!

        Bà Tám nhìn; vẫn trong vẻ ngạc nhiên. Hạnh và cả bé Hoài đều ôm mẹ khóc. Bé Hoài nói:

        - Sao má ở đây…Sao má không chịu về nhà với bé Hoài? Bé Hoài luôn xưng hô với mọi người như thế.

        - Má thấy bé Hoài có ốm nhiều hơn trước không má? Hạnh buông mẹ ra; nhìn bà rồi hỏi.

        Bà Tám hơi cau mày; quay mặt nhìn xa xăm ra phía cửa sổ hồi nãy, lặng yên không nói. Hạnh lấy cuốn album gồm tất cả hình ảnh của cả nhà chụp hồi tháng trước, hồi tiệc sinh nhật đầu tiên của bé Hoài và cả cái giỏ bằng da có hình của ông Tám nữa. Hạnh mở ra cho mẹ xem. Vừa xem hình; Hạnh vừa chỉ và nói với mẹ, như là bà Tám đang ở nhà và không có chuyện gì đã xảy ra cho mẹ.

        Đã xem hết hình rồi mà bà Tám vẫn không nói gì. Bà chỉ lặng thinh nhìn mọi người; rồi lại quay nhìn ra cửa sổ…

        Cứ như thế; ngày ngày ba anh em của Hiếu đều đến bệnh viện và quanh quẩn ở bên mẹ,cho đến tối mới về nhà. Đến nay; bà Tám đã ở trong bệnh viện gần ba tháng.

        Hôm nay; khác với những ngày khác. Những ngày khác; bà Tám đôi khi vẫn muốn chứng tỏ với mọi người là: Bà là người rất bình thường; không mất trí gì cả! Hạnh chỉ cho mẹ tấm hình của bé Hoài, chụp hồi bé mới được khoảng ba tháng tuổi. Bà Tám nheo mắt nhìn thật lâu; trong khi Hạnh đang ôm bé Hoài vào lòng và vô tình hát nhỏ những câu hò mà bà Tám thường ru anh em mình ngủ. Hạnh hát đến đoạn…“Con đi trường học, mẹ đi...về nhà”! Bà Tám chợt nói rất nhanh:

        - Đâu phải! “Mẹ đi trường đời” chớ!

        Cả Hiếu và Hạnh đều la lên:

        - Ủa! Má nhớ ra rồi đó…

        - Má nhận ra tụi con chưa má? Hạnh nè. Bé Hoài nè. Anh hai nữa nè…

        Bà Tám vẫn không nói thêm câu nào. Bà vẫn nheo mắt nhìn ra cửa sổ bên kia. Hiếu như chợt nhớ ra điều gì. Không kịp nói với em một lời nào. Hiếu chạy nhanh theo lối ra ngoài của bệnh viện. Vừa chạy, Hiếu vừa nhận ra là mình đang khóc…Hiếu về nhà - Hiếu về nhà để lấy cuốn sách, mà Hiếu đã dùng computer ghi lại phần đầu bài thơ của cha mình.

        Trở lại bệnh viện; gặp mẹ. Hiếu đưa cho mẹ cuốn sách có bìa màu thật đẹp. Trên bìa sách in sáu chữ to và đậm: “Trường ca - Lời Ru Của Mẹ”. Bà Tám chăm chú nhìn cuốn sách, nhưng không mở ra. Hiếu nói:

        - Con đã làm xong cuốn sách chép bài thơ của ba rồi đó má. Nhưng con quên không đưa má coi! Má coi con làm đẹp không má?

        Nói xong; Hiếu đọc từ đầu tới cuối những gì trong cuốn sách đó. Hiếu đọc thuộc lòng. Bà Tám từ nãy đến giờ vẫn không mở sách ra. Nhưng đến khi nghe Hiếu đọc gần xong thì hai hàng nước mắt của bà chảy xuống. Bà ôm Hạnh và bé Hoài khóc nức nở. Hiếu bước tới ôm mẹ và hai em. Cả bốn mẹ con đều khóc…Mấy phút sau; đột nhiên bà Tám nói:

        - Con đi đóng cửa phòng lại Hiếu.

        Hiếu đi tới đóng cửa phòng rồi trở lại bên mẹ. Bà Tám đặt bé Hoài ngồi vào lòng mình. Bà coi kỹ lại cuốn sách. Bà thấy tên ông Tám - chồng của bà - in trịnh trọng trên bìa cuốn sách. Bà quay qua nói với Hiếu, câu nói mà bà đã nói trước đây; mỗi khi bà muốn nghe những bài thơ từ trong báo:

        - Má đâu thấy rõ đặng đọc! Đâu…Con đọc chậm chậm lại, để má dò theo coi con viết trúng không Hiếu?

        Hiếu dạ; rồi ngồi xuống cạnh mẹ. Hiếu đọc:


        TRƯỜNG CA - LỜI RU CỦA MẸ (4)


        Ngày xưa không mấy xa xưa
        Ngày tôi chưa lớn cũng chưa biết buồn
        Chẳng buồn chiều hạ mưa tuôn
        Chỉ riêng đôi mắt mẹ buồn sang thu
        Ngày xưa đông đến sương mù
        Hết đông vui nhộn mỗi mùa xuân qua
        Giãi dầu giông bão nắng mưa
        Đong đưa chiếc võng năm xưa mỗi chiều
        Mẹ ru trong gió hiu hiu
        Lời ru trong cõi tiêu điều gian nan
        Giọng ru trong tiếng võ vàng
        Hôm nay như vẫn ẩn tàng trong tôi
        Ru tôi từ thuở nằm nôi
        Đến khi khôn lớn thành người Việt Nam
        Việt Nam- Mẹ bảo Việt Nam
        Việt Nam Bách Việt họ hàng chi tông
        Bách Việt con cháu Thần Nông
        Cùng trong một giống Tiên Rồng mà ra
        Bách Việt trăm họ một nhà
        Thời xưa Âu Việt sau là Quảng Tây
        Dương Việt ắt đất Giang Tây
        Ngày xưa U Việt sau này Triết Giang
        Quảng Đông: Đông Việt rõ ràng
        Mân Việt: Phúc Kiến nối giang san nhà
        Lạc Việt tức bắc Việt ta
        Việt Thường: Thanh-Nghệ-Tĩnh là hôm nay
        Năm mươi thế kỷ cách nay
        Dần dà đất nước về tay người Tàu
        Mẹ ru trong tiếng thương đau
        Mẹ thương Bách Việt mất nhau phũ phàng
        - Việt Nam; mẹ bảo Việt Nam
        Việt Nam sau gọi Văn Lang, Hồng Bàng
        Văn Lang với họ Hồng Bàng
        Hồng Bàng dựng nước Văn Lang: Vua Hùng
        Văn Lang mười tám đời Hùng
        Một thời con Lạc cháu Hồng hoan ca
        Một thời non nước thái hòa
        Văn minh, văn hóa khởi đà từ đây
        Yêu thương, đùm bọc, xum vầy
        Yêu thương như việc: Giây, cây, cau, trầu
        Ẩn trong sự tích trầu cau
        Sau thành tục lệ ăn trầu nhuộm răng
        Con ơi có nhớ hay chăng
        Cũng trong huyền sử Văn Lang, vua Hùng
        Ta còn sự tích bánh chưng
        Mặt trời, trái đất: Bánh chưng, bánh dày
        Lưu truyền cho đến hôm nay
        Khúc quanh lịch sử sau ngay thời này
        Tổ tiên Bách Việt loay hoay
        Loay hoay đoàn kết để xoay cuộc thời
        Thế là Âu Lạc ra đời
        Hùng Vương hết nghiệp đến thời Thục lên
        (*)
        (*) Văn Lang nhà Thục và vua An Dương Vương 257-207 trước Tây lịch (ttl).

        Đóng đô ở đất Phúc Yên (Phong Khê)
        Cổ Loa được dựng để yên sơn hà
        Vì Tần xâm chiếm nước ta
        Tần không thắng được chúng đà lui binh
        Bách Việt tái thống nhất mình
        Triệu Đà dựng nghiệp dấy binh ngập trời
        Thế là Nam Việt ra đời
        Một trời, một đất, một thời mênh mông
        Quảng Tây, bắc Việt, Quảng Đông
        Tuy chưa đủ đất cha ông giống nòi
        Nhưng là nước Việt hẳn hòi
        Đến khi Tần phải vào thời cáo chung
        Lưu Bang, Hạng Võ tranh hùng
        Lưu Bang thắng Hạng vẫy vùng bắc phương
        Nam Việt với Triệu Vũ Vương
        Khởi suy từ buổi Vũ Vương băng hà
        Hán xua quân đánh nước ta
        Nước ta tể tướng Lữ Gia kiên cường
        Nhưng không chống nổi bạo cường
        Vua, tôi bị giết quê hương thuộc Tàu
        (*)
        (*) Văn Lang nhà Triệu 207-111 ttl
        Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất từ năm 111-39 ttl

        Con ơi khởi sự thương đau
        Ngàn năm bắc thuộc khởi đầu từ đây
        Hơn trăm năm trước lịch Tây
        Đau thương, oan nghiệt đắng cay cho mình
        Cái thằng Tô Định yêu tinh
        Nó làm Thái thú đất mình gian tham
        Gian tham, ác độc, bạo tàn
        Thế nên Thi Sách mưu toan dựng cờ
        Nhưng ông chẳng đặng thời cơ
        Bị giặc bắt giết, mưu cơ không thành
        Vợ ông: Trưng Trắc xuân xanh
        Cùng em, Trưng Nhị dấy thành động binh
        Tô Định thất vía hoảng kinh
        Nó cùng bè lũ yêu tinh tan tành
        Hai Bà cứu nước công thành
        Đóng đô ở đất kinh thành Mê Linh
        (*)
        (*) Hai bà Trưng: 40-43 stl. Hai Bà ở tại ngôi được gần hai năm.

        Một năm đất nước yên bình
        Nào ngờ Đông Hán xua binh đánh mình
        Mã Viện là tướng cầm binh
        Nó bao vây đất Mê Linh đánh bà
        Thế cô, lực cạn quân ta
        Hai Bà thua trận, nước nhà tan hoang
        Trầm mình khi đến Hát Giang
        Trưng Vương liệt nữ danh vang một trời
        Hò ơi con hỡi, con ơi
        Thế là non nước tái hồi gian nan
        (*)
        (*) Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai: 43-544 stl

        Dân ta xuống biển lên ngàn
        Để tìm châu báu bạc vàng mà dâng
        Dâng cho cái lũ ma quân
        Để thằng Mã Viện về dâng Hán triều
        Con ơi non nước tiêu điều
        Suốt hai thế kỷ Hán triều trị ta
        Chúng mưu diệt chủng dân ta
        (*)
        (*)Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.

        Chúng mưu đồng hoá nước ta với Tàu
        Trầm luân, tang tóc, bể dâu
        Tiếng than dân Việt niềm đau của mình
        Nhưng mưu chúng dệt chửa thành
        Hán triều tan rã; tưởng lành cho ta
        Cục diện Tam quốc bày ra
        Đông Ngô, Thục, Nguỵ chia ba nước Tàu
        Dân ta thống khổ thương đau
        Máu xương tang tóc bể dâu trội phần
        Đông Ngô nối tiếp Hán, Tần
        Giữ nguyên chánh sách nô dân nước mình
        Nữ hùng họ Triệu tên Trinh
        Cùng anh: Quốc Việt dấy binh phạt Tàu
        Cỡi voi xuất trận đi đầu
        Đánh cho bọn chúng về Tàu mấy phen
        Nhưng Ngô vẫn giữ mộng hèn
        Truyền cho Lục Dận, một tên bạo tàn
        Binh đông, tướng dữ dẫn sang
        Nhuỵ Kiều nữ tướng hiên ngang vẫy vùng
        Quyết là giữ lấy non sông
        Nhưng không chống nổi thế công giặc thù
        Hờn này mang đến thiên thu
        Bà hy sinh bởi quân thù Đông Ngô
        (*)
        (*) Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: 248 stl

        Con ơi một mảnh cơ đồ
        Bao nhiêu thế kỷ tựa hồ diệt vong
        Mẹ tri mối hận quốc vong
        Người mình giống Việt long đong bởi Tàu
        Đến thời Nam-Bắc bên Tàu
        Nước ta vẫn cảnh thương đau tủi hờn
        Có người họ Lý tên Bôn
        (*)
        (*) Lý Bôn khởi nghĩa năm 541. Chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai.
        Nước ta được tự chủ từ năm 544-602 stl

        Anh hùng đứng dậy rửa hờn quê hương
        Đánh tan lũ giặc nhà Lương
        Dẹp yên Lâm Ấp biên cương thu hồi
        Vạn Xuân: Tên nước một thời
        Minh quân Nam Đế, vua, tôi một lòng
        An dân thái quốc những mong
        Xây chùa dựng điện nối công nhân hiền
        Kiên cường nối nghiệp tổ tiên
        Giang sơn một mối, Rồng Tiên một nhà
        Một năm thịnh trị hoan ca
        Một năm tự chủ, vua ta, quan mình
        Những đâu khói lửa đao binh
        Giặc thù phương bắc tướng, binh dẫn vào
        Chúng gieo máu lửa thương đau
        Vua, tôi nước Vạn lao đao bởi thù
        Sáu năm mai phục chiến khu
        Việt Vương họ Triệu rửa thù quê hương

        (*) Năm 544, Lý Nam Đế lên ngôi, chưa đầy một năm thì giặc nhà Lương
        lại sang đánh. Ông thua nhiều trận, sắp mất nước. Ông giao binh cho
        tả tướng quân Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế mất; Triệu Quang Phục đánh bại
        quân địch và lên ngôi vua. Cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử không phục.
        Nội chiến xảy ra.

        Vẫn thời đất bắc nhà Lương
        Loạn ly đến mất nghiệp vương đế Tàu
        Nhà Trần nối tiếp theo sau
        Vạn Xuân thoát cảnh quan Tàu, dân ta
        Nhưng là nội chiến xảy ra
        Việt Vương thua trận, khởi đà quốc suy
        (*)
        (*) Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tuỳ. Mở đầu cho thời kỳ
        Bắc thuộc lần thứ ba: 602-938 stl

        Phật Tử họ Lý trị vì
        Nước ta bị mất bởi vì vua suy
        Bỉ cực tái diễn bởi Tuỳ
        Mười lăm năm hậu Tuỳ suy đến Đường
        Suốt ba thế kỷ đau thương
        Suốt ba thế kỷ đoạn trường dân Nam
        Đường cai trị nước An Nam
        Ác ôn, quỷ quyệt gian tham khôn cùng
        Con ơi đất nước khốn cùng
        Bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng đứng lên
        Đánh tan lũ giặc mấy phen
        Như Mai Hắc Đế vùng lên diệt Tàu
        (722 stl)
        Thằng Quang Sở Khách về Tàu
        Nước ta lại được ít lâu an bình
        Đường say giấc mộng nam chinh
        Sai Dương Tư Húc kéo binh phạt mình
        Cùng Quang Sở Khách điều binh
        Đường-Ngu; ngu thật với mình với ta
        Con ơi xã tắc sơn hà
        Vua ta bại trận, nước ta thuộc Tàu
        Thuộc Tàu: Ôi! Lại thuộc Tàu
        Nước mình mảnh đất thương đau dặm trường
        Đến năm Đai Lịch nhà Đường
        Có người hảo hớn can cường vùng lên
        Phùng Hưng tên gọi thương quen
        (*)
        (*)Bố Cái Đại Vương791 stl

        Ông cho lũ phỉ teng beng về Tàu
        Thái lai non nước đồng bào
        Yên vui xum họp cùng nhau một nhà
        Một lòng kiến quốc bảo gia
        Phùng Hưng một đấng quả là minh quân
        Chăn dân với cả lòng nhân
        Đại Vương Bố Cái minh quân băng hà
        Phùng An nối nghiệp vua cha
        Nhưng không giữ nổi sơn hà An Nam
        Đường cho quân đến dụ hàng
        Phùng An nhu nhược đầu hàng Triệu Xương
        Con ơi tái cảnh đau thương
        Con ơi có xót quê hương của mình
        Một dân tộc với tử sinh
        Một ngàn năm với chiến chinh chống thù
        Hiểm nguy nhất vẫn Đường-Ngu
        Chúng dùng văn hóa xây tù nước Nam
        Chúng nuôi mộng huỷ An Nam
        Chúng nuôi mộng biến người Nam thành Tàu
        Nhưng rồi chẳng đặng vào đâu
        Suốt bao thế kỷ vẫn Tàu vẫn ta
        Cuối Đường loạn lạc xảy ra
        Nguy ra cho giặc, may ra cho mình
        Khúc Thừa Dụ dấy nghiệp binh
        (906-907)
        Đánh cho lũ phỉ hoảng kinh tời bời
        Tử, Sinh, yểu, thọ tại trời
        Một năm Thừa Dụ tại ngôi trị vì
        Nhưng là sao sáng một vì
        Khai thời tự trị, tôn ty tự mình
        Khúc Hạo nối nghiệp cha mình
        (907-917)
        Giữ yên bờ cõi, dân tình an cư
        Minh quân Khúc Hạo nhân từ
        Ở thời đất bắc họ Chu diệt Đường
        Lập ra giòng dõi hậu Lương
        Vẫn nuôi mộng chiếm quê hương Lạc Hồng
        Ngàn đời mộng chúng chẳng xong
        Ngàn năm đô hộ đã xong một thời
        Con ơi hùng sử một thời
        Con ơi bi sử một trời đau thương
        Ngàn năm lũ giặc nhiễu nhương
        Chỉ còn Lạc Việt, Việt Thường có nhau
        Nước ta Bách Việt là đâu
        Đất mình vẫn trải ở Tàu hôm nay
        Bao nhiêu thế kỷ cách nay
        Nhưng mà vẫn mới như ngày hôm qua
        Vẫn ghi trong dạ dân ta
        Vẫn chờ ngày nổi phong ba lôi đình
        Để đòi lại đất của mình
        Để thôi nhược tiểu như mình hôm nay
        Thế thời vận nước chẳng may
        Quảng Châu, vùng đất trên tay Lương triều
        Lưu Nham phản lại Lương triều
        Chiếm vùng đất ấy lập triều đình riêng
        Lập ra Nam Hán một miền
        Lũ này là mối oan khiên cho mình
        Lý Tiến với Lương Khắc Trinh
        Hai thằng chiếm giữ Tống Bình nước ta
        Hán triều bắt giữ vua ta
        Tướng Dương Diên Nghệ quả là trung quân
        (931-937)
        Ông nuôi chí với ba quân
        Vùng lên một trận đuổi quân hung tàn
        Nối trang lịch sử vẻ vang
        Vua quan nhà Hán như tan cả hồn
        Cho quân tiếp viện rửa hờn
        Tướng giặc: Trần Bảo xác chôn quê mình
        Hán triều thất vía hoảng kinh
        Nước ta lại được thái bình dân an
        Nhưng Kiều Công Tiễn phản thần
        Giết Dương Diên Nghệ vương quân đoạt quyền
        Kiều là tuỳ tướng đương quyền
        Rể Dương Diên Nghệ: Ngô Quyền dấy quân
        (938)
        Dấy quân diệt kẻ phản thần
        Kiều liền xin Hán cho quân đến nhà
        Ngô Quyền đoán biết phong ba
        Giết Kiều để chiếm Đại La kinh thành
        Rồi mau đối phó chiến tranh
        Chiến tranh chống Hán, chiến tranh giữ nhà
        Quyết tâm nối chí nhạc gia
        Quyết tâm bảo vệ san hà nước Nam
        Hoằng Thao dẫn thuỷ binh sang
        Còn vua cha trấn ở đàng Hải Môn
        (Quảng Đông)
        Sẵn sàng tiếp ứng cho con
        Hoằng Thao theo vịnh Hạ Long đánh vào
        Ngô Quyền dụ chúng đuổi vào
        Đến khi nước rút ào ào tấn công
        Hoằng Thao tháo chạy trên sông
        Tàu thuyền thủng đắm bởi chông bịt đồng
        Máu thù nhuộm đỏ dòng sông
        Xác thù chìm nổi khắp sông Bạch Đằng
        Hoằng Thao chết trận Bạch Đằng
        Vua Nam Hán khóc để rằng lui quân
        Ngô Quyền đại thắng Hán quân
        (*)
        (*) Ngô Quyền đại thắng Hán quân năm 938 đã thật sự chấm dứt
        một ngàn năm đô hộ của giặc phương bắc. Mở thời tự chủ cho dân tộc.

        Mở thời tự chủ cho dân tộc nhà
        Xưng vương đóng ở Cổ Loa
        Năm năm đất nước thái hòa yên vui
        Ngô vương vắn số qua đời
        Tam Kha em vợ; cướp ngôi cháu mình
        Khai thời nội chiến đao binh
        Hăm hai năm lẻ điêu linh nước nhà
        Mười hai quân sứ một nhà
        Mười hai quân sứ trong nhà nước Nam
        Tổ tiên phò trợ nước Nam
        Ông Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan quần hùng
        Chỉ trong mấy tháng vẫy vùng
        Sơn hà thống nhất trùng phùng quê hương
        Đinh Bộ Lĩnh: Vạn Thắng Vương
        (968-980)
        Nước Đại Cồ Việt; quân vương Tiên Hoàng
        Hoa Lư là đất cưu mang
        Hoa Lư cũng đất Tiên Hoàng đóng đô
        Giữ yên non nước cơ đồ
        Mười hai năm hậu cơ đồ Đinh tan
        Tướng quân thập đạo Lê Hoàn
        Lên ngôi để giữ giang san nước nhà
        Nhà Tiền Lê được mở ra

        (nhà tiền Lê 980-1009)
        Đại Hành hoàng đế quả là xứng danh
        Bình Chiêm, phá Tống công thành
        Chi Lăng chiến thắng vang danh một thời
        Hăm bốn năm ở tại ngôi
        Sơn hà xã tắc một thời an khang
        Khởi suy từ lúc vua băng
        Các hoàng, thái tử lăng xăng tranh giành
        Lê Long Đỉnh giết vua anh
        Phá tan sự nghiệp thanh danh Lê triều
        Thế là hậu Lý lập triều
        (1010-1225)
        Một triều bền vững với nhiều minh quân
        Sống thời tự chủ quân, thần
        Tống kiêng, Xiêm nể, Chiêm thần phục ta
        Thánh Tông vua Lý băng hà
        Nhân Tông bảy tuổi thay cha nối giòng
        Bên Tàu thời Tống Thần Tông
        Với Vương An Thạch nghênh ngông bạo tàn
        Mưu toan thôn tính nước Nam
        Vua ta biết được mưu toan của Tàu
        Sai hai tướng giỏi phạt Tàu
        Thường Kiệt, Tôn Đản: Hai đầu xuất binh
        Tôn Đản thống lãnh bộ binh
        Lý Thường Kiệt dẫn thuỷ binh tiến vào
        Đánh Tàu ngay tại đất Tàu
        (1075)
        Đánh cho chúng hết mưu cầu nhiễu nhương
        Ta tiên hạ thủ vi cường
        Biết mình, biết địch, biết nương thiên thời
        Vua quan nhà Tống tơi bời
        Vừa cay, vừa thẹn với người với ta
        Năm sau chúng tiến binh qua
        Tống, Chiêm, Chân Lạp kết ba đánh mình
        Hai năm vây bủa nước mình
        Cuối cùng chúng phải điều đình rút quân
        Bởi Lý Thường Kiệt đại thần
        Với thơ khích lệ dân, quân một lòng
        Bốn câu thơ dậy bể đông
        Nức lòng chiến sĩ, nức lòng dân Nam
        “Nước Nam là của vua Nam
        Sách trời đã định rõ ràng chẳng sai
        Quân xâm lăng trái ý trời
        Một phen thảm hại tời bời một phen”

        (Bàng Bá Lân dịch)
        Quả như tiếng sấm vang lên
        Bài thơ như triệu mũi tên chống thù
        Lưu truyền cho đến thiên thu
        Sáng ngời chính nghĩa chống thù cứu quê
        Thế rồi hậu Lý suy hề
        Nhà Trần dựng nghiệp ta hề vẻ vang
        (*)
        (*) Nhà Trần 1225-1400. Nhà Trần thắng quân Mông cổ ba lần
        Lần thứ nhất:1257. Lần thứ hai: 1285. Lần thứ ba: 1288

        Năm châu cũng phải ngỡ ngàng
        Bởi dân nước Việt ba lần thắng Mông
        Lần đầu với Trần Thái Tông
        Rồi sau liên tiếp Nhân Tông hai lần
        Khởi nghiệp Mông: Thiết Mộc Chân
        Vượt qua Vạn lý trường thành; Trung Hoa
        Vua quan nhà Tống xuýt xoa
        Đông Âu, trung Á cũng đà hàng Mông
        Vương quân các nước rúng lòng
        Giặc Mông như trận cuồng phong được đà
        Thành Cát Tư Hãn băng hà
        Cháu Hốt Tất Liệt; con A Loa Đài
        Chia nhau đánh chiếm khắp nơi
        Một nửa thế giới như rơi cả hồn
        Trung Hoa; nhà Tống phải vong
        Triều Tiên, Tây Tạng cũng trong cảnh tình
        Ba Lan, Hung phải mở thành
        Nga La Tư cũng dâng thành cho Mông
        Hẳn là một trận cuồng phong
        Thế mà Mông phải hết ngông bởi mình
        Ba lần tiến đánh nước mình
        Ba lần đại bại tan tành thảm thương
        Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Vương
        Vân Đồn, Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng
        Hàm Tử, Vạn Kiếp lừng danh
        Xác thù như núi xứng danh Lạc Hồng
        Toa Đô chết giữa binh đông
        Thoát Hoan phải rúc ống đồng mà đi
        Phàn Tiếp với Ô Mã Nhi
        Bị ta bắt sống trong khi rút về
        Sài Thung chột mắt chạy về
        Mông-Nguyên phải bỏ mộng hề chiếm ta
        Một lòng “sát Thát” quân ta
        Diên Hồng hội nghị quả là trứ danh
        Đại Vương Hưng Đạo xứng danh
        Anh Hùng dân tộc lưu danh muôn đời
        Hưng vong cũng tại bởi trời
        Nhà Trần hết nghiệp đến thời suy vi
        Tiếm ngôi bởi Hồ Quý Ly
        (1400-1407)
        Non sông tái cảnh lâm ly đoạn trường
        Nhà Minh được dịp nhiễu nhương
        Nối mưu thôn tính quê hương của mình
        Mượn danh đánh tiếng phò Trần
        Mộc Thạnh, Trương Phụ tướng quân Minh Tàu
        Dẫn binh hai ngả tiến vào
        Con ơi đất nước rơi vào tay Minh
        (1414-1427)
        Mười ba năm thuộc nhà Minh
        Sơn hà xã tắc điêu linh tủi hờn
        Địa linh nhân kiệt Lam Sơn
        Phất cờ khởi nghĩa rửa hờn quê hương
        Ông Lê Lợi: Bình Định Vương
        (*)
        (*) Cuộc khởi nghĩa 10 năm của Lê Lợi 1418-1427
        Đã chấm dứt thời đô hộ của giặc Minh
        và lập ra nhà hậu Lê: 1428- 1527.

        Đại thần Nguyễn Trãi phò vương đuổi thù
        Chí Linh dưỡng địa chiến khu
        Chi Lăng, Tuỵ Động ngàn thu lẫy lừng
        Mười năm khởi nghĩa oai hùng
        Liễu Thăng bị giết, Vương Thông đầu hàng
        Mộc Thạnh bao bận chạy làng
        Nước Nam linh địa ngổn ngang xác thù
        Lê Lai gương sáng ngàn thu
        Bình Ngô Đại Cáo; chứng từ vẻ vang
        Hậu Lê dựng nghiệp hiên ngang
        Với Lê Thái Tổ nối trang sử hùng
        Nối thời tự chủ non sông
        Nối giòng hào kiệt, nối công anh hùng…


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        Sau gần ba tháng ở nhà thương; hôm nay bà Tám được xuất viện về nhà. Đi từ sân trước vào trong, tới các phòng, rồi ra sân sau. Nhìn quanh; bà thấy lại hình ảnh quen thuộc của quê hương ngày cũ - Sự “điêu tàn, hoang phế” - Cha của bé Hoài đã vĩnh viễn ra đi và bà cũng đã vắng nhà hơn ba tháng. Thời gian này; Hạnh không đi học được. Hiếu phải nghỉ làm và mất việc. Trong ánh mắt của bé Hoài không còn biểu lộ nét ngây thơ của hơn ba tháng trước. Nó biết cha nó đã chết và nó đã sống trong sự điêu tàn, hoang phế của gia đình hơn ba tháng nay…Tất cả đã xảy ra như một cơn ác mộng…

        Cả nhà lo dọn dẹp lại nhà cửa trong sự im vắng tiếng cười của bé Hoài. Bà Tám lau chùi lại bàn thờ của ông bà, bàn thờ của ông Tám và lập bàn thờ cho dượng. Bà nhớ lại những năm tháng cuối đời của ông nội thằng Hiếu. Ông cũng trầm ngâm bên những bàn thờ như thế này…Bà thắp nén nhang cho những người đi trước. Bà cũng nghiệm lời nói của ông nội thằng Hiếu và cầu nguyện cho quê hương, cho tổ quốc, cho một vùng đất bất chiến tự nhiên thành…

        Từ đó; bà Tám trở thành người mắc bệnh tâm thần: "Lúc tỉnh - lúc mê”.

        Lúc mê: Bà trở lại với vùng quá khứ mênh mông ở thời thơ ấu của tuổi lên năm, lên bảy - Trở lại với vùng dĩ vãng sâu hút, mịt mờ nơi quê cũ xa xăm của bà...

        Lúc tỉnh: Bà trở về với Hiếu, với Hạnh, với bé Hoài; với những cái bàn thờ nghi ngút khói nhang…và dĩ nhiên, với cả câu kinh cứu khổ, cứu nạn…

        Cũng may; bà Tám tỉnh nhiều hơn mê và cơn mê nếu có đến, cũng chỉ kéo dài một vài ngày. Bù lại; những lúc tỉnh thì sáng suốt lạ thường…


        Hạnh đã đi học trở lại. Hiếu quyết định đi học về ngành xã hội; với ý muốn được đóng góp bàn tay bé nhỏ của mình vào việc giúp cho sự quay đầu trở lại của giới trẻ đang hư hỏng. Song song đó; Hiếu vẫn tiếp tục cố gắng viết tiếp phần sau bài thơ của cha mình; dựa theo tài liệu của sách vở và với sự giúp đỡ của mẹ mình, những khi bà tỉnh táo.

        Bây giờ và cũng là lần đầu tiên; với sự cố vấn của mẹ. Hiếu đã viết được một bài viết bằng hai thứ tiếng; Anh và Việt. Bài viết có tựa đề là: “Một suy nghĩ về tuổi trẻ Việt Nam trong xã hội Úc” được đăng tải trên cả báo Việt lẫn Úc.

        Hôm nay, khi thắp nhang lên bàn thờ; Hiếu thấy dưới di ảnh của dượng có thêm một khung hình nhỏ màu đen. Bên trong là một tấm vải nhung đỏ có hai hàng chữ được viết rất khéo léo. Hiếu đọc kỹ lại và nhận ra; đó là một cặp câu đối mà mẹ mình đã làm cho dượng:

        Giấc ngủ ngàn thu thôi tiếc nuối,
        Cầu tre bao đoạn hết ưu phiền!


        [sm=rose1.gif]HẾT.[sm=rose1.gif]


        (1) Kiếp Người: Thơ Đông Hải - S.A 1986
        (2) Rồi Từ Đó: Thơ Đông Hải - Z-30-D 1978
        (3) Quê Hương Tôi: Thơ Đông Hải - S.A 1986
        (4) Trường Ca - Lời Ru Của Mẹ: Thơ Đông Hải - S.A 1986-1987


        Trầm Thy Trang – Úc Đại Lợi 2005
        ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền.
        [sm=welcome.gif]


        [sm=rose1.gif][sm=rose1.gif][sm=rose1.gif]


        SUY GẪM


        (Những nhận định về giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay - trong CẦU TRE LẮC LẺO vốn đang làm xôn xao nhiều người - vẫn là vấn đề của quá khứ. Cảm ơn tất cả các vị đã gởi thơ từ, bài vở...để đóng góp cho nhận định này trong suốt thời gian từ tháng 7 năm 2010 đến nay và muốn mở một diễn đàn riêng - về việc gây xôn xao này - trên mạng: www.tramthytrang.net. Nhưng diễn đàn này có lẽ sẽ không xây dựng, vì: vẫn là vấn đề của quá khứ...) và sự thật đau lòng khiến một số người Việt - tại hải ngoại - không đủ can đảm để chấp nhận. Vì:

        - Hậu duệ của Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân, Ngô Đình Khả...là ai? (Hồ Chí Minh và những người kế tiếp? Hay Ngô Đình Diệm và những kẻ đi sau?) [tạm lấy mốc từ đời Tự Đức với nghĩa quân Phan Đình Phùng...]

        - Hậu duệ của Lê Dương, lính Khố xanh, Khố đỏ là ai? (Bộ đội miền bắc? Hay quân đội miền nam?) [Nhóm nào - trước và sau 1975 - đã và vẫn đang "lãnh lương cựu chiến binh" của các chính phủ ngoại bang(?)]


        1/ - Nếu "làm người nên nhìn về phía trước" thì những gì liên quan đến quê hương mình, (lấy mốc từ năm 1945) được nêu ra dưới đây, không để tranh luận hoặc khai triển thêm, mà chỉ để suy gẫm. Bởi những gì trong quá khứ đã được nói đến quá nhiều. Không nên tranh luận hay khai triển thêm nữa...

        * Nếu cuộc tổng tuyển cử năm 1956 đã xảy ra (hiệp định Genève) thì không có "Cuộc Chiến Tranh Việt Nam" [Vietnam war]?

        * Những vấn đề liên quan đến thuyền nhân và hai chữ thuyền nhân có lẽ đã "ra đời" từ sau cuộc tổng tuyển cử đó (1956), chứ không phải đợi đến những năm cuối của thập niên 70 - thế kỷ trước?

        * Ông Diệm - không kể những thế lực khác - là người duy nhất ở miền nam VN có quyền để đồng ý hay không đồng ý tổ chức cuộc tổng tuyển cử năm 1956?

        * Ông Diệm đã không đồng ý tổng tuyển cử, thì ông Diệm là người đã gây ra Cuộc Chiến Tranh Việt Nam?

        * Nếu chúng ta không đứng ở bên này (miền nam và Mỹ...) hoặc bên kia (miền bắc và CS...) thì chúng ta nghĩ gì về ông Diệm và đất nước của mình về "Vietnam war"?


        2/ Nếu "nhìn về phía trước" thì; CẦU TRE LẮC LẺO: (đã đề cập sơ lược đến lịch sử dân tộc; khởi từ thời Hồng Bàng cho đến nhà hậu Lê với vua Lê Lợi, được cô đọng trong hơn bốn trăm câu lục bát) Tác giả muốn nói đến mối nguy từ giặc bắc phương (Trung Hoa).

        * Từ ngàn năm xưa cho đến nay; người Tàu vẫn nghĩ rằng Việt Nam là một quận của họ? (tạm xem Tây Tạng là một điển hình)

        * Vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Nam Quan, mướn đất trồng rừng, khai mỏ...đã xảy ra và họ không ngừng lại ở đó vì "cái quận lạc loài" này họ chưa "lấy về" được? (kể cả những tệ nạn xã hội tại VN mà họ đã triệt để khai thác[?])


        * Gọng kìm của giặc bắc phương làm VN không thể tự chủ được trong mọi lãnh vực chính trị?

        * Nhà cầm quyền VN đang đi tìm một "thế đứng" để mong giảm bớt sức ép khủng khiếp từ phương bắc?

        * Chúng ta có nên giúp Trung Hoa đánh phá nhà cầm quyền VN - trên đường họ đang đi tìm một "thế đứng" - để một lúc nào đó, chúng ta sẽ đòi lại đất nước của mình từ tay người Trung Hoa? (tạm xem Tây Tạng là một điển hình)

        * Nếu những đau thương, oán cừu của dân tộc mình đối với người Pháp (trong hằng trăm năm họ đô hộ mình) mà ngày nay mình vẫn "bỏ qua" được thì mình có nên khuyên con cháu mình hãy dẹp bỏ những thù hận của mình - với những người VN đang cầm quyền ở VN - để giúp nước, cứu nước?

        * CẦU TRE LẮC LẺO như một tiếng chuông vang lên - dù không phải là người đầu tiên rung chuông - tác giả vẫn biết; sự bất lợi cho bản thân có thể sẽ đến từ nhiều phía... [sm=rose1.gif]

        Trân trọng.

        Trầm Thy Trang 5/2010

        ĐÔNG HẢI - Nguyễn Đức Hiền.
        [sm=welcome.gif]
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2011 13:42:11 bởi tramthytrang >
        #4
          tramthytrang 22.09.2011 09:46:49 (permalink)
          (*) Muốn chữ lớn lên hay nhỏ xuống [để dễ đọc]; xin bấm nút CONTROL và bấm dấu trừ [-] hoặc cộng [+] bên cạnh số 0 [zero].

          [sm=welcome.gif]

          TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG với NỖI NHỚ NHÀ
          qua thi tập:
          Ở BÊN TRỜI
          của TRẦM THYĐÔNG HẢI
          .


          “Quê hương xa khuất mờ sương khói,
          Lữ khách sầu vương ngút gió mây…”

          (Cặp luận trong bài “Cảm Xuân”- Trích thi tập “Ở Bên Trời”)
          LK - ANH TUẤN


          Đã hết rồi; một thời vàng son của ngợi ca tình ái. Bây giờ; thi sĩ đã hoá thân, thành chim trời, cất cánh bay về với thế giới tự do – xa khuất khỏi bầu trời tù ngục quê hương và chim đã lạc đàn. Đã cách sông, cách biển muôn trùng. Chim đã không có bến đậu. Đã mất quê hương! Còn đâu nữa hình bóng quê hương yêu dấu sau luỹ tre xanh! Bàng bạc ở năm mươi bài thơ; trong thi tập Ở Bên Trời, của Trầm Thy và Đông Hải, là: Bốn mùa quê hương; vây quẩn quanh một nỗi nhớ! Đó là nỗi nhớ nhà!

          Đến hôm nay; sau hai mươi lăm năm. Chúng ta vẫn phải ôm mãi một nỗi hận! Hận ly hương; mà không biết đến bao giờ mới được hàn gắn, mới vĩnh viễn được phục hồi! Không! Chắc là không bao giờ! Cho dù quê hương đã mở cửa: Nhưng chỉ mở một cánh cửa nhà tù; để trả tự do tạm cho con người đang bị giam giữ, bị canh chừng bên trong! Cánh cửa quê hương mở ra chỉ là để cho chúng ta kịp trở về; cứu lấy những thân nhân của chính mình, đã bị đẩy vào tận cùng của bế tắc, đói khổ và. Dù cho chúng ta đã trở lại. Đã bước qua ngưỡng cửa của quê hương. Đã thấy lại mái nhà xưa. Đã bước đi trên hè phố cũ! Cũng chỉ là nhìn thấy lại một mái nhà đã hoàng tàn, suy vi; với những bờ tường nứt nẻ! Chỉ gặp lại những phố xá đã xa lạ; đang chờ chúng ta trở về và: Chúng ta cũng sẽ gặp lại bạn bè cũ, người yêu xưa; nay đã già nua, mệt mỏi, đang sống lang thang dưới chân những toà cao ốc, những quán trọ lộng lẫy, xa hoa mọc lên nghênh ngang giữa lòng đại lộ, bên khu phố xưa, như những khối ung nhọt, nhức nhối trên thân thể quê hương khô héo! Những toà cao ốc kia; đã nhắc cho ta nhớ đến những căn nhà gỗ, tôn; lụp xụp dưới chân cầu chữ Y! Những mái lá ọp ẹp, bên kia miệt Khánh Hội! Những căn nhà ổ chuột trong khu Bàn Cờ!

          Ôi! Chúng ta đã mất quê hương! Đã mất một quê hương linh diệu của thần trí Việt Nam; mà không biết đến bao giờ mới tìm lại được! Dù chúng ta có trở về; cũng chỉ để soi lại bóng mình, trong một tấm gương đầy nước mắt! Quê hương mang những vết thương, những niềm đau; mà chúng ta phải cưu mang và lưu truyền…

          Quê hương và nỗi nhớ nhà trong thơ Đông Hải; đã trở nên rất quen thuộc và gần gũi với tâm hồn chúng ta - Qua thơ; đã trở thành một cuộc phiêu lưu vô hạn giữa nghìn trùng hữu hạn của cuộc đời! Thi nhân; với cuộc phiêu lưu khẩn thiết nhất của ý thức hôm nay, đã được khơi nguồn từ sau những cuộc chém giết! Đã được khởi hứng từ tận cùng của nỗi bất hạnh, đổ vỡ! Đã được xót thương trìu mến trong cơn buồn chán rã rời cùng cực của tình người! Niềm đau lịch sử đã làm thi nhân sớm bạc đầu!

          Thi nhân; kẻ sống sót sau Cuộc cách mạng mùa Thu. Kẻ đến muộn hơn sau nhát chém 54. Kẻ đến sớm hơn để chờ đón nhận nhát chém 75! Rồi thi nhân khởi sự tiếng khóc chào đời; bằng món quà sinh nhật là hai mươi năm chiến tranh máu lửa điêu tàn. Chưa kể sau đó; lãnh thêm bảy năm khổ sai trong những trại cải tạo, trước khi khởi đầu một hành trình khác: Hành trình về với thế giới người, để làm lại tất cả và; cuộc phiêu lưu tìm về với thế giới tự do của thi sĩ hôm nay, đã được giữ gìn, nuôi dưỡng từ những tháng năm dài, phân tán, chia xa…

          Tự do! Những dòng thơ của Trầm Thy và Đông Hải đã chuyên chở được niềm khát vọng, về một ngày mai, cuộc đời mong ước được nhìn thấy: Người người trên quê hương được sống trong chan hoà yêu thương, thông cảm và ngát hương đời tự do. Thi nhân muốn chia sẽ với những người thân yêu còn ở lại, cái hạnh phúc trong tự do, mà thi nhân đã may mắn tìm lại được. Nhưng làm sao để gởi về được quê nhà những thứ đó?! Làm sao chia được cho từng người ở lại những miếng tự do ngọt ngào?! Sẻ cho nhau những mẩu hạnh phúc thơm tho! Gởi cho nhau những phút bình an tươi mát đích thực cho tâm hồn! Những thứ thực phẩm thiêng liêng, hiếm hoi đó; để dành riêng cho tâm linh con người, đã không thể tìm thấy được nơi quê nhà mịt mù khói bụi, lầm than, lam lũ hôm nay! Làm sao tìm lại được những người thân yêu đã khuất nơi góc biển, chân trời?! Nên những trăn trở, những khắc khoải, những đau đớn kia đã kết thành những vết thương; khi nhớ về mái nhà xưa, quê cũ! Nỗi buồn đau cứ bào gan, xé ruột, ray rứt trong tâm hồn; để rồi bật lên thành những lời thơ, trăn trở mênh mang! Trầm Thy và Đông Hải đã bày tỏ nỗi nhớ nhà; thoát từ tình yêu quê hương “Ở Bên Trời”. Nơi mà giờ đây chỉ còn lại thời tiết hỗn loạn…Còn đâu những mùa xuân có pháo đỏ, rượu hồng. Những mùa hạ với phượng vĩ ve bay. Những mùa thu với những con đường đẫm ướt sương đêm; mà dù ta có phải cách xa nghìn năm vẫn mong níu bóng quay về! Không còn cả những đêm đông rét mướt; ta cuộn mình trong chăn ấm để nghe chuyện cổ tích?!

          Còn đâu! Còn đâu nữa…người ơi! Chúng ta chỉ còn nghe được trong tiếng than van của thi nhân giữa đêm khuya; trong những dòng khai bút lúc mùa xuân đang chuyển mình trở lại nơi cuối trời chia xa; như trong bài “Xuân Tuyết Lệ”:

          “Ngập ngừng khai bút gởi về đâu,
          Thăm thẳm trời mây ướp mộng sầu.
          Cúc, trúc năm xưa gây nỗi nhớ,
          Mai, đào ngày cũ gợi niềm đau…”



          Giữa đêm thâu trăn trở; thi nhân đã gọi được chút hồn xuân về trong ký ức của niềm đau và nỗi nhớ nhà! Không còn nữa nơi đây của hồn xuân năm cũ; với những ước mơ đã nhạt nhòa, có cúc, trúc, có mai, đào khoe sắc với biết bao hình bóng thân yêu! Thi nhân lắng nghe tiếng thời gian chuyển mình; những giọt buồn của bốn mùa quê hương đang đổ xuống châu thân, nhuộm bạc cả mái đầu! Làm sao ngăn lại được đôi cánh của thời gian vun vút như mũi tên bay! Thi nhân gọi tên bốn mùa:

          “…Hè đi, thu lại – cây thay lá.
          Đông hết, xuân sang – tóc đổi màu.
          Chẳng đợi, không chờ sao cứ đến,
          Bâng khuâng Tuyết Lệ với đêm thâu.”

          (Tuyết Lệ là Sydney. Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Đó chính là cái tâm tư nhớ nhà, nhớ quê hương của tất cả chúng ta mỗi độ xuân về trên đất khách! Trong bài “Xuân Trên Đất Khách” ; mà Trầm Thy đã họa lại bài “Xuân Tuyết Lệ” của Đông Hải (và dĩ nhiên; Trầm Thy là một hình bóng thân yêu và cũng là nửa hồn của thi nhân, đã được chia đôi):

          “Ngậm ngùi mây tiễn gió về đâu,
          Sao mãi bâng khuâng nhặt trái sầu.
          Xa cách ngàn trùng cho tiếc nhớ,
          Chia ly đôi bến để thương đau.
          Tết về đất khách hoa không thắm
          Xuân đáo quê xưa nắng nhạt màu.
          Cứ đến rồi đi ta chẳng đợi,
          Cảm hờn thiên cổ trải canh thâu…”

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Hai vế đối “Xa cách ngàn trùng” với “Chia ly đôi bến”“Tết về đất khách” với “Xuân đáo quê xưa”; khi ngâm lên, đã gây cho ta nỗi xót xa khôn cùng! Quê hương xa cách đã chia ly đôi ngả. Tất cả còn lại chỉ là tưởng tiếc! Tết về đất khách hoa không còn thắm; chỉ còn nắng nhạt màu rọi vào những buổi xế chiều của đời ta, với thời gian vô tình! Nhưng khi đọc đến câu kết của bài “Xuân Trên Đất Khách”. Lời thơ bi-nhưng-không-luỵ; như thách thức với oan nghiệt:Cứ đến rồi đi ta chẳng đợi, Cảm hờn thiên cổ trải canh thâu…

          Và sau những tàn phai của máu lửa; cùng những lịm tắt của niềm đau đổ vỡ hôm qua. Cả nỗi chết đơn độc dưới đáy biển đông và sự lãng quên trùm phủ trong xa cách; làm cho nỗi hoài cảm về mùa xuân nơi quê cũ, chỉ còn là những tiếc nuối, những nhớ thương quay quắt trong một bầu trời xa thẳm?! Ở đây; sự chờ đợi phải chăng chỉ còn là những cuồng xoay với rượu cay chất ngất trong lãng quên?! Trong bài “Cảm Xuân”; với cơn mộng du trên đôi cánh của thời gian! Thi nhân ngồi lặng lẽ tưởng tiếc, hoài vọng những giây phút thần tiên của những mùa xuân cũ; của một thuở thanh bình:

          “Ngàn trùng tâm sự gởi chim bay,
          Cảm nắng xuân nào đọng đó đây.
          Lối cũ đông tàn - người bước rộn,
          Đường xưa Tết đến - trẻ chơi bầy…”



          Dù thi nhân biết hoài cảm đó cũng chỉ là mộng tưởng; nhưng anh vẫn kêu gào về quê hương đã mờ sương khói:

          “…Quê hương xa khuất mờ sương khói,
          Lữ khách sầu vương ngút gió mây.
          Thắp nén hương tàn lòng chất ngất,
          Rượu cay, say giấc mộng cuồng xoay.”

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời”)



          Hai vế đối “Quê hương xa khuất”“Lữ khách sầu vương” cộng với cặp kết, đạt ý vô cùng. Vừa nhớ về quê hương; đồng thời cũng là nhớ đến cả một trời thơ, nhớ đến tình yêu đôi lứa. Nên một buổi sáng tỉnh giấc; thi nhân cảm khái viết nên bài “Xuân Hoài”, để riêng tặng người bạn đời yêu dấu của mình, như một tiếng lòng chung điệu:

          “Xuân đến rồi đi ở cuối trời,
          Để làm héo úa cánh hoa tươi.
          Mười năm lận đận - hai màu tóc,
          Một gánh cưu mang - nửa kiếp người.
          Nhớ mãi rừng xưa - chim mất tổ,
          Thương hoài biển cũ - cá xa khơi…”



          Như vậy là thi nhân đã không còn tìm thấy được những gì mình yêu nữa. Vì ”Nhớ mãi rừng xưa””Thương hoài biển cũ”; cũng như chim đã mất tổ, như cá đã xa khơi! Vậy còn gì để tưởng tiếc! Vì lẽ đó; thi nhân quay về với thực tại, để hết lòng yêu thương, ôm ấp, trân quý những gì mình đang có. Vì; những gì ta đang chiếm lĩnh ở nơi đây, là những thứ quý giá vô cùng: Là tự do. Là tình yêu. Là âm nhạc. Là hội họa…và nhất là thi ca. Những thứ mà dù có bị bó gối, cuộn mình, khoanh tay trong chốn lưu đày, viễn xứ; thi nhân cũng đón nhận hết lòng. Bởi vì; qua hai câu kết của bài “Xuân Hoài”. Đông Hải đã xác nhận:

          Hương quê viễn xứ tìm đâu thấy,
          Bó gối đề thơ cũng thú chơi.

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Cho đến khi tìm về với bài “Ở Bên Trời”; bài thơ tứ thủ liên hoàn này, cũng là tựa đề của thi tập. Chúng ta mới cảm thông được hết tiếng lòng của thi nhân. Nỗi xót xa cho tâm trạng của những kẻ mất quê hương; phải đối diện với chính mình, giữa đêm khuya, khi mùa xuân trở lại trong chốn lưu đày. Đây! Chúng ta hãy nghe thi nhân bày tỏ nỗi ngậm ngùi của kiếp bèo trôi:

          “1- Nỗi sầu đọng mãi tự xa xôi,
          Một thoáng qua đi mất nửa đời.
          Hờ hững mây bay, sông vẫn chảy,
          Bâng khuâng gió thoảng, lá còn rơi.
          Chiều buông vệt nắng loang niềm nhớ,
          Ngày hết bầy chim xải rã rời.
          Lữ thứ trông hoài về cố quận,
          Ngậm ngùi thương kiếp sống bèo trôi..!”



          Tuyệt vời! Cảm ơn thi nhân đã nói lên tiếng lòng ta hằng khép kín bao năm! ‘Một thoáng qua đi mất nửa đời.” đã cực-tả được cõi mong manh của kiếp người viễn xứ; bị cuốn trôi đi như mây bay, như gió thoảng. Làm ta Ngậm ngùi thương kiếp sống bèo trôi..!

          2- Ngậm ngùi thương kiếp sống bèo trôi,
          Khúc hát quê hương đã nhạt rồi.
          Tiếng quốc lẻ đôi đêm vĩnh biệt,
          Giọng hò lỡ nhịp buổi chia phôi.
          Bài thơ hội ngộ bao giờ kết,
          Chén rượu tao phùng ước mãi thôi.
          Bến đó bờ đây xa mấy đỗi,
          Nhưng mà vời vợi cố nhân ơi.

          3- Nhưng mà vời vợi cố nhân ơi,
          Nắng ấm bao năm khuất núi đồi.
          Quê cũ điêu tàn khi tái hợp,
          Làng xưa tan tác lúc chia đôi.
          Giăng giăng giông bão mờ thân phận,
          Mù mịt phong ba phủ kiếp người.
          Tạo hóa như dần quên vũ trụ,
          Bình minh chẳng đến ở bên trời.

          4- Bình minh chẳng đến ở bên trời,
          Bi sử còn ghi nét tả tơi.
          Đọc áng văn xưa lòng thổn thức,
          Kết vần thơ cổ dạ bồi hồi.
          Ngàn phương mỏi cánh chim xa tổ,
          Bao bận nhớ nguồn rượu đắng môi.
          Trăng tiễn mây bay về chốn ấy,
          Nỗi sầu đọng mãi tự xa xôi!

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Thôi còn đâu nữa “Xuân Xưa”! Có chăng; chỉ là những dư âm trong trí nhớ:

          “Nước trong, liễu rũ, ánh trăng ngà,
          Soi bóng nàng xuân những buổi xưa.
          Thấp thoáng con thuyền trôi lờ lững,
          Bổng trầm tiếng sáo vẳng xa xa..”

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Những câu thơ; làm ta nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Khuyến:

          “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
          Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo…”



          Trong cái không gian mênh mông, trong suốt thoát tục đó; ta nghe đâu đây vẳng lại tiếng sáo diều, hòa với tiếng pháo giao thừa ròn rã. Hương thơm của hoa xuân tỏa ngát khắp không gian. Đắm say vô cùng trong sum vầy hạnh phúc:

          Nghe pháo đầu năm đâu đó nổ,
          Sum vầy ấm áp đượm hương hoa.

          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Một bài thơ lớn, nói về mùa xuân, trong thi tập là bài “Xuân Qua Xứ Lạ”. Ngay ở hai câu mở đầu; tác giả đã nói lên tiếng lòng thổn thức của kẻ xa nhà nhớ quê hương mỗi độ xuân sang:

          1-Xuân ơi xa vắng tự lâu rồi,
          Đất khách vương sầu viễn xứ thôi.
          Đông hết bâng khuâng nhìn én lượn,
          Đêm tàn thổn thức ngắm hoa cười.
          Mai đào phố cũ còn khoe sắc,
          Cúc trúc vườn xưa có thắm tươi?
          Thương mãi bến bờ lưu luyến ấy,
          Ngậm ngùi khai bút gửi đôi lời.

          2- Ngậm ngùi khai bút gửi đôi lời,
          Nắn nót vần thơ cổ lẻ loi.
          Chia nỗi bi thương cùng đất mẹ,
          Cảm niềm hờn tủi với quê tôi.
          Xuân sang cảnh cũ làm xao xuyến,
          Tết đến tình xưa gợi rã rời.
          Nhắn áng mây bay về bến nớ,
          Để hồn lắng lại lúc chơi vơi.

          3- Để hồn lắng lại lúc chơi vơi,
          Sống cõi phù sinh ngắm cuộc đời.
          Nghe gió miệt mài xua biển động,
          Nhìn trăng thầm lặng tiễn mây trôi.
          Đông đi - xuân đến, hoa đua nở,
          Hè hết - thu về, lá rụng rơi.
          Rón rén Thanh Dương (*) qua xứ lạ,
          Bao giờ nàng mới thật lên ngôi?

          4- Bao giờ nàng mới thật lên ngôi,
          Tiếng thét nhân sinh vọng một thời.
          Vỡ tổ chim bay đời lạc lõng,
          Mất rừng hổ sống kiếp buông xuôi!
          Trầm trầm lữ thứ đường hiu quạnh,
          Lặng lẽ tha phương bước tả tơi.
          Tống cựu - nghinh tân, còn ước mãi,
          Xuân ơi xa vắng tự lâu rồi!

          (*)Thanh Dương là mùa xuân
          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Nếu trong bài “Xuân Tuyết Lệ”; hoa đào, hoa cúc, hoa mai có đua nở vào lúc xuân đến. Thì hoa trên xứ người; dù có khoe muôn màu, muôn sắc, cũng chỉ vô tình gây cho ta niềm đau và nỗi nhớ. Còn hoa xuân trong bài “Xuân Qua Xứ Lạ”; dù chỉ còn là những bông hoa trong trí tưởng. Nhưng cũng đủ đem đến cho tâm linh ta; nỗi ngậm ngùi, bâng khuâng, thổn thức…“Mai đào phố cũ còn khoe sắc, Cúc trúc vườn xưa có thắm tươi?” Câu hỏi òa ra, nhưng không bao giờ tìm được một vọng âm! Nên ở đây; ta lại được nghe tiếng thở dài của thi nhân: “Xuân sang cảnh cũ làm xao xuyến, Tết đến tình xưa gợi rã rời…” và từ đây, ta bỗng nhớ đến một Nguyễn Bính của thời tiền chiến. Nhớ đến thuở thanh bình xa xưa trên quê hương; khi xuân về, làm cõi lòng ta thêm tê tái:

          “Đã thấy xuân về với gió đông,
          Với trên màu má gái chưa chồng…”



          Nhưng ngày đó; ta không ngờ là Nguyễn Bính đã cảm thương cho kiếp tha hương hôm nay của chúng ta, khi ông hạ bút:

          “Bốn biển vẫn chưa yên sóng gió,
          Xuân này em chỉ vẫn tha hương.
          Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ,
          Son sắt say hoài rượu bốn phương…”



          Chính là ở nơi đây; Đông Hải trong “Xuân Qua Xứ Lạ”, đã gặp được Nguyễn Bính trong dòng cảm xúc về mùa xuân, khi anh viết:

          “Đông đi - xuân đến, hoa đua nở,
          Hè hết - thu về, lá rụng rơi.
          Rón rén Thanh Dương qua xứ lạ,
          Bao giờ nàng mới thật lên ngôi?”
          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Nhưng sao hoa đua nở mà lá lại rụng rơi? Làm ta lại nhớ đến Tản Đà với “Lá đào rơi rắc lối thiên thai” ! Để rồi Đông Hải với hai câu kết cho toàn bài thơ liên hoàn; đã chứng tỏ sự chịu đựng nghịch cảnh, trong một ý thức chấp nhận cao độ:

          “Tống cựu - nghinh tân, còn ước mãi,
          Xuân ơi xa vắng tự lâu rồi!”
          (Trích thi tập “Ở Bên Trời” )



          Qua những vần thơ xuân của Trầm Thy và Đông Hải; ta có cảm tưởng là xuân quê hương tuy đã bỏ đi rất xa, mà còn như rất gần trong tâm tưởng! Thế đã là hạnh phúc nhất trên trần gian cho người thi sĩ của chúng ta. Vì còn gì vĩnh cửu hơn nơi trái đất và ở ngay trong vòm trời mênh mông, xa lạ này. Ngoài TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG với NỖI NHỚ NHÀ ; mà ta vẫn còn kiên trì gìn giữ được nguyên vẹn trong tim mình và như thế; chúng ta không bao giờ mất quê hương, vì quê hương đã vĩnh cửu ở trong tâm hồn ta…

          Trầm Thy và Đông Hải quả đã thành công với điều mơ ước. Vì qua thi tập “Ở Bên Trời”. Thi nhân đã nói lên được TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG với NỖI NHỚ NHÀ của con người Việt Nam thuỷ chung. Một đề tài vĩnh cửu mà cũng là bước khởi đầu cho cuộc hành trình của sự nghiệp thi ca. Tâm sự mênh mang đó; đã trải rộng trong thi tập và bay đến với tha nhân. Quan trọng hơn nữa; thơ đã tìm ra được tiếng lòng chung điệu và được chia sẻ chân thành của những người yêu thơ. Nhất là thể loại Đường thi; một thể loại thi ca rất hiếm hoi trong dòng thơ tại hải ngoại, từ trên hai mươi năm qua và như thế; không còn nghi ngờ gì nữa: Thi tập đã bay cao và đã bay đi rất xa. Xin trang trọng chào đón đứa con đầu lòng của thi nhân; đã được đặt tên “Ở Bên Trời” ! Một chân trời mà chúng ta hằng tưởng nhớ.


          LK - ANH TUẤN
          (West End - QLD - "Cuối trời Tây" 2000)


          ĐÔNG HẢI: Tâm Sự Người Viễn Xứ.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2011 13:43:42 bởi tramthytrang >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9