CHẾT – VÀ CÁC ĐỀ TÀI LÂN CẬN
NguyễnNhânTrí 18.08.2014 19:15:48 (permalink)
Lời Mở Đầu


Sự chết là một điều chắc chắn tuyệt đối sẽ xảy ra với tất cả mọi sinh vật.
 
Đây cũng là nỗi sợ hãi lớn nhất của loài người từ khi bộ óc của họ phát triển đủ để có thể suy nghĩ. Nhất là khi tất cả mọi nỗ lực của con người để đối phó với nỗi sợ hãi nầy cho đến nay hầu như đều vô hiệu quả.
 
Mọi sinh vật, kể cả con người, đều có khuynh hướng gắn bó với sự sống thay vì sự chết. Đó là một kết quả tự nhiên và hiển nhiên trực tiếp từ quá trình tiến hóa của chủng loại. Đây là một điều ích lợi cho sự sống còn, nhưng nó cũng thường làm giới hạn sự hiểu biết của chúng ta về sự chết. Chúng ta thường bàn luận, nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến sự sống và có khuynh hướng tránh né phải đương đầu trực tiếp với sự chết.
 
Người ta thường không thảo luận về sự chết một cách thoải mái. Người ta thường không thể trực diện với hiện tượng nầy. Người ta dùng những mỹ từ, những phong tục, những quy luật xã hội để cố phân cách sự chết ra khỏi cuộc sống hàng ngày của họ. Người ta cũng dùng trí tưởng tượng của họ dưới hình dạng tín ngưỡng, tôn giáo để tự an ủi, khỏa lấp hay che dấu thực trạng của sự chết và những gì xảy ra sau khi chết.
 
Ở đây, tôi có ý định đem đến một cái nhìn khách quan hơn về sự chết. Những dữ kiện trình bày ở đây dựa trên tài liệu tham khảo của nhiều tác giả khác nhau. Một trong những tài liệu nầy là tác phẩm “The Romeo Error”, ấn bản năm 1976, của một sinh vật học gia tên Lyall Watson.
 
Những dữ kiện trình bày ở đây dựa trên kiến thức khoa học, có nghĩa là những kinh nghiệm đã được kiểm chứng giữa lý thuyết và thực tế. Tuy nhiên, những dữ kiện nầy được trình bày dưới tư cách một cuộc thảo luận chớ không phải như là những kiến thức chân lý tuyệt đối. Đó là vì kiến thức khoa học luôn luôn có những giới hạn của nó. Đây là một tính chất cơ bản đặc thù và cũng là một lợi thế thúc đẩy dẫn đến sự tiến triển không ngừng của nhân loại. Nếu có sai lầm hay thiếu sót gì về phương diện lý luận hay về sinh học, vật lý học trong các lập luận ở đây thì xin độc giả hãy dùng chúng như là chất xúc tác để góp phần thêm vào cuộc thảo luận nầy.
 
Cũng như lời mở đầu của Watson trong The Romeo Error, tôi gọi mời quý độc giả hãy “gỡ bỏ cách nhìn bị che chắn bởi kinh nghiệm hạn hẹp và thay vào đó bằng một đôi mắt tìm tòi rộng mở”.
 
(còn tiếp)
 
Nguyễn Nhân Trí
 
#1
    NguyễnNhânTrí 18.08.2014 19:19:09 (permalink)
    (tiếp theo)


    Sơ lược về những đề tài (dự định) sẽ trình bày ở đây:


    Phần I chú trọng đến phần thân xác vật chất của con người, và mọi sinh vật khác. Trong đó nói về:
    - Những ngộ nhận giữa “sống” và “chết”.
    - Sự mơ hồ của biên giới giữa “sống” và “chết”.
    - Sự chết luôn luôn hiện diện song song và cần thiết cho sự sống.
    - Phản ứng của con người về sự chết.

    Phần II chú trọng đến phần mà chúng ta thường gọi là “tâm thức” (tức là từ “mind” trong Anh Ngữ). Trong đó nói về:
    - Sự phân cách giữa tâm thức và thân xác.
    - Sự liên quan giữa cá tính với tướng mạo.
    - Những hiện tượng “siêu nhiên” như xuất hồn, v.v.

    Phần III chú trọng đến phần mà chúng ta thường gọi là “linh hồn” (“soul”). Trong đó nói về:
    - Sự sống còn bên ngoài thân xác vật chất.
    - Hiện tượng “quỷ ám”.
    - Những hiện tượng “phép lạ”.
     
    Hầu hết những dữ kiện trình bày trong Phần I, như độc giả sẽ thấy, dựa trên kiến thức khoa học đã được đã được kiểm nghiệm và công nhận rộng rãi. Do đó hầu như không có gì cần tranh cãi về chúng cả.

    Có một vài đề tài khác, nhất là trong Phần II và Phần III nghiêng về các hiện tượng mà nhiều người gọi là “siêu nhiên”. Những dữ kiện trình bày ở đây không phải là những câu giải đáp quả quyết về các hiện tượng nầy. Chúng cũng không hẳn là những câu hỏi. Chủ ý của chúng chỉ là để xây dựng một môi trường dựa trên nền tảng khoa học để dẫn đến những câu hỏi chính đáng về các hiện tượng trên.

    Trong lãnh vực siêu nhiên, rất nhiều người có khuynh hướng sẵn sàng đón nhận bất cứ cách giải thích nào đưa đến họ, nhất là những giải thích nào càng huyền bí thì càng dễ được yêu chuộng. Một số (rất ít hơn) những người khác, trong đó có tôi, lại cảm thấy cần thiết để cố gắng tìm hiểu và tìm kiếm một phương cách nào đó để giải thích, hay ít ra là “hòa giải”, giữa kiến thức khoa học và những hiện tượng siêu nhiên.

    Đối với tôi, hiện tượng siêu nhiên chỉ là những hiện tượng chưa được kiểm chứng và giải thích rõ ràng bởi khoa học. Một ngày nào đó khi sự hiểu biết và kỹ thuật con người tiến triễn đủ thì nhiều hiện tượng được coi là siêu nhiên ngày nay sẽ trở thành kiến thức phổ thông. (Cách đây không lâu những người bị các chứng bệnh như tâm thần phân liệt, trầm cãm, v.v. đã từng bị xem là bị ma hành, quỷ ám.)

    Chúng ta cũng cần hiểu rằng một người không thể nào quan sát một hiện tượng mà không làm thay đổi nó phần nào trong khi làm việc đó. Đó là vì khi quan sát, chúng ta nhận xét, phân tích, diễn tả và kết luận. Quá trình trên là một quá trình hoàn toàn chủ quan. Thực chất của một hiện tượng và những gì chúng ta cho rằng chúng ta “hiểu” về hiện tượng đó là hai sự kiện có thể rất khác nhau. Vì kiến thức của con người, và của mỗi người, có giới hạn nên sự chính xác trong hiểu biết về những hiện tượng xảy ra chung quanh chúng ta đều có những giới hạn mà chúng ta thường không nhận biết được.
     
    Trong vật lý điện tử, nếu không đo lường được một vật thể thì vấn đề nó có thật sự hiện hữu hay không có thể chỉ là vô nghĩa. Những gì trình bày ở đây chỉ là một cuộc hành trình đi dọc theo vùng ranh giới giữa những hiểu biết đã được và chưa được chính thức công nhận bởi khoa học.

    (còn tiếp)
     
    Nguyễn Nhân Trí
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2014 19:21:34 bởi NguyễnNhânTrí >
    #2
      NguyễnNhânTrí 18.08.2014 19:27:06 (permalink)
      PHẦN I
      NHỮNG NGỘ NHẬN GIỮA “SỐNG” VÀ “CHẾT”
       
      Chết hay Chưa Chết?
       
      Năm 1973, một người tên là Samuel Moore ở Oakland, California bị bắn vào đầu và chết. Trái tim của ông, vẫn còn đập mạnh, được lấy ra và dùng ngay sau đó trong một cuộc giải phẩu thay tim cho một bệnh nhân tim ở một thành phố khác.
      Thủ phạm bắn ông bị bắt và ra tòa xử một vài tháng sau đó về tội sát nhân. Tuy nhiên, luật sư của người nầy phản đối cho rằng thân chủ của ông chỉ có tội “hành hung với võ khí nguy hiểm” chớ không có tội “sát nhân”. Theo luật sư nầy thì thân chủ ông không hề làm cho nạn nhân chết, vì nếu đã chết thì tại sao trái tim của ông ta vẫn còn đập và vẫn còn đang đập (mặc dầu trong lồng ngực của một người khác).
       Lý luận nầy đã gây bối rối không ít trong quá trình truy tố. Tuy nhiên, may mắn thay (cho công tố viện) là bệnh nhân được thay tim đã ngã ra chết không lâu sau đó nên lý luận bào chữa trên trở thành không còn chính đáng nữa. 
      Thí dụ ở trên cho thấy định nghĩa “chết” trong phương diện y khoa, và pháp lý, có nhiều khi không rõ ràng và rất thiếu sót.
      Trong câu chuyện tình nổi tiếng Romeo và Juliet của Shakespeare, Juliet vì không muốn bị gã cưới cho người nàng không yêu nên uống thuốc giả chết; Romeo vì không biết mưu kế nầy nên khi đến nhìn thấy Juliet nằm đó (với các triệu chứng của một tử thi) tưởng lầm là nàng đã chết thật nên tự vận chết theo. Sự lầm lẫn nầy thật ra rất thường xuyên, và xảy ra cho cả những chuyên viên y khoa nhiều kinh nghiệm.
      Năm 1374, thi sĩ Ý Francesco Petrarch đã được xác nhận chết 24 tiếng đồng hồ. Theo luật lệ địa phương, người ta phải chờ thêm 4 tiếng nữa mới có thể mai táng. Trong thời gian nầy, một sự thay đổi thời tiết và nhiệt độ bất thường xảy ra làm ông bừng tỉnh ngồi dậy và than phiền người làm đã mở cửa để gió lạnh quá Ông tiếp tục sống thêm hơn 30 năm nữa để sáng tác nhiều thi phẩm tuyệt tác để lại cho nền văn chương Ý.
      Năm 1896, giám mục Chính Thống Giáo Hy Lạp Nicephorus Glycas đã được xác nhận chết nhưng hai ngày sau ngay trong tang lễ của ông ở giữa nhà thờ Chính Tòa đã làm mọi người kinh hoảng khi ông ngồi bật dậy than phiền tại sao các tín đồ lại xúm nhau trố mắt nhìn ông một cách vô lễ như vậy.
      Năm 1964 trong buổi khám nghiệm tử thi ở nhà xác New York, khi một “tử thi” bị cứa dao mỗ vào bụng đã ngồi bật dậy và chụp cổ người bác sĩ đang giải phẩu. Bác sĩ nầy vì hoảng sợ bất ngờ nên đã đứng tim chết tại chỗ. “Tử thi” trên bàn mỗ trong khi đó đã dần dần hoàn phục và sống thêm nhiều năm nữa.
      Và rất nhiều câu chuyện tương tự xảy ra khắp nơi cho ngay đến ngày hôm nay.
       
      (còn tiếp)
       
      Nguyễn Nhân Trí
       
      #3
        NguyễnNhânTrí 19.08.2014 18:55:50 (permalink)
        (tiếp theo)
         
        Nhiều Phương Cách Chẩn Định Khác Nhau


        Những câu chuyện trên xảy ra là vì từ xưa đến nay sự chết được xác định bằng nhiều cách khác nhau.
        Một điều cần biết là trừ trường hợp chiến tranh thì phần lớn người ta chết thường vì già yếu hay bệnh hoạn. Cách đây vài trăm năm ở Âu Châu, người ta chỉ dùng các dấu hiệu bên ngoài để xác định một người còn đang sống hay đã chết. Khi trong gia đình có người bệnh được xem là vừa chết thì một tu sĩ được mời đến để kiểm chứng. Người tu sĩ nầy dùng một tấm gương nhỏ để kề vào mũi của bệnh nhân và nếu tấm gương không bị hơi thở làm mờ đi thì người nầy sẽ được xác nhận và tuyên bố là đã thật sự chết. Đến thế kỷ thứ 18 thì người ta tiến bộ hơn và dùng nhịp tim để xác định một người còn sống hay đã chết.
        Dần dần người ta nhận ra rằng khi dùng chỉ những dấu hiệu bên ngoài như hơi thở và nhịp tim thì có nhiều trường hợp ngay cả các y sĩ chuyên môn cũng bị lầm lẫn. Như đã nói, có nhiều trường hợp mà bệnh nhân tuy đã được xác nhận là đã chết nhưng vẫn “hồi sinh” sau đó.
        Trong những thế kỷ 18-19 ở Âu Châu, đặc biệt là Anh Quốc có một hiện tượng ăn cắp xác chết từ những ngôi mộ vừa mới chôn. Đó là vì trong những năm nầy ngành y khoa đang phát triển mạnh mẽ về mặt giải phẩu cơ thể con người. Vì không có đủ tử thi để mổ xẻ khám nghiệm với mục đích tìm tòi học hỏi nên một số bệnh viện, đại học y khoa đã ngầm mua tử thi cung cấp cho họ qua các nguồn bất hợp pháp.  Điều nầy dẫn đến việc nhiều ngôi mộ vừa mới chôn bị lén đào lên để lấy tử thi đem bán. Năm 1824, một người tên John Macintyre sau khi được xác nhận chết và chôn trong nghĩa địa của giáo đường địa phương đã bừng tỉnh dậy mấy hôm sau trên bàn mổ của một trường y khoa ở Luân Đôn khi bác sĩ bắt đầu cứa dao vào “tử thi” của ông. Vụ nầy dẫn đến một cuộc điều tra lớn. Nhiều nghĩa trang trong ngoài thành phố trong thời kỳ nầy có lính canh gác ngày đêm và nhiều ngôi mộ mới chôn được gia đình bao phủ bởi các khung sắt kiên cố để tránh bị đào trộm.
         
        (còn tiếp)
         
        Nguyễn Nhân Trí
         
        #4
          NguyễnNhânTrí 24.08.2014 05:24:07 (permalink)
          (tiếp theo)


          Những trường hợp “hồi sinh” trên xảy ra thường xuyên đủ để người ta đã phải cố tìm các giải pháp đặc biệt để đối phó.
          Có những nhà xác bố trí một phòng “chờ đợi” nơi người ta để các tử thi mới nhập vào nằm tạm một thời gian trước khi được xem là đã chết thật sự. Trong nhà xác thành phố Munich ở thế kỷ trước, các tử thi được sắp nằm kế nhau trên một băng dài với một sợi dây nhỏ cột vào người dẫn đến một cái chuông gắn trong phòng trực. Tài liệu ghi rằng đã có không ít lần cái chuông nầy đã được rung lên báo động cho người trực biết rằng có một “tử thi” nào đó đã sống lại.
          Năm 1856, người ta nghe tiếng động từ dưới ngôi mộ của một người đàn ông vừa mới chôn. Tuy nhiên vì phải chờ đợi sự cho phép của linh mục và cảnh sát quá lâu nên khi đào lên được thì người nầy đã chết vì ngộp thở. Khi nhìn các dấu vết cào cấu trong quan tài người ta mới thấy rằng người nầy đã sống lại và cố vùng vẫy trong tuyệt vọng một thời gian trước khi chết thật sự vì thiếu không khí.
          Năm 1893, một người đàn bà có thai khá lớn được chẩn định là đã chết và được mai táng. Có người nghe tiếng động phát ra từ ngôi mộ mới chôn của bà nên người ta quyết định khai quật lên để xem việc gì xảy ra. Người ta thấy rằng bà nầy cũng đã tỉnh dậy trong quan tài của mình và trong khi cố sức giãy giụa tìm cách thoát thân đã sinh ra đứa con từ trong bụng. Y sĩ khám nghiệm cho thấy đứa con nầy đã sống được một thời gian ngắn trước khi cả mẹ lẫn con đều chết ngộp trong quan tài.
          Năm 1897, Bá Tước Nga Karnice Karnicki đã chế ra một loại quan tài “an toàn”. Quan tài nầy, sau khi được mai táng, có gắn một ống nhỏ dẫn lên và nối vào một cái hộp nằm trên mặt đất. Hộp nầy không thể mở được từ bên ngoài nhưng người nằm trong quan tài tuy đang bị chôn dưới đất vẫn có thể giật một sợi dây để mở nắp hộp ra. Khi nắp hộp nầy mở ra, không khí có thể lùa vào trong quan tài để họ thở được. Đồng thời sẽ có một cây cờ bật lên trên nắp hộp cùng với đèn chớp tắt và chuông báo động cho người bên ngoài biết rằng người nằm dưới mồ vẫn còn sống.
          Có nhiều phương pháp khác, ngoài khám hơi thở và nhịp tim, đã được dùng để xác nhận một người đã chết hay chưa, nhất là trong các trường hợp khó chẩn định. Bác sĩ Icard ở Marseilles dùng một dung dịch flourescine để chích vào tròng mắt; nếu người bệnh còn sống thì tròng mắt họ sẽ chuyển qua một màu xanh tạm thời, nếu họ đã chết thì không có gì xảy ra. Ở Mỹ, người ta dùng atropine cũng để chích vào mắt; chất nầy làm đồng tử của một người còn sống lập tức mở rộng ra và không có tác dụng gì với người đã chết. Ở Anh, từ năm 1970 người ta bắt đầu dùng các dụng cụ đo được những tín hiệu điện nhỏ nhất trong cơ thịt tim để chẩn định một người đã chết hay chưa.


          (còn tiếp)
          Nguyễn Nhân Trí
           
          #5
            NguyễnNhânTrí 07.09.2014 07:16:33 (permalink)
            Không có Một Cách Chẩn Định nào Hoàn Hảo cả


            Vấn đề là tất cả những phương pháp chẩn định, mặc dù rất hiệu quả đi nữa, đều có một yếu điểm chung. Đó là vì khi không nhận thấy một dấu hiệu sống nào cả trong một thân thể vẫn không có nghĩa là hoàn toàn không còn có sự sống.
            Chẩn định sự chết dựa vào hơi thở là một phương pháp được ghi chép trong sách dạy y khoaở vài thế kỷ trước. Định nghĩa sự chết theo cách nầy có nhiều lỗ hổng lớn. Có những thiền sư Zen và hành giả Yoga có thể hạ mức độ tiêu thụ ô-xy của họ xuống thấp khoảng 20% lượng ô-xy cần dùng thông thường. Vì nhiều bộ phận trong cơ thể có tự dự trữ đôi ít ô-xy bên trong chúng nên có thể vẫn hoạt động hay phục hồi sau khi sự hô hấp đã ngừng lại khá lâu. Trong lịch sử y khoa có rất nhiều trường hợp bệnh nhân được chẩn định đã chết theo tiêu chuẩn nầy vẫn sống lại được và có khi bình phục hoàn toàn.
            Cách chẩn định sự chết dựa vào nhịp tim đập cũng có nhiều lỗ hổng. Tương tự, nhiều hành giả yoga có thể luyện tập để giảm nhịp tim đập của họ xuống chậmhẳn lại. Ở bệnh viện New Delhi đã ghi nhận trường hợp một người có thể tự làm cho tim của họ ngưng lại 12 phút. Trong nhiều cuộc giải phẩu tim ngày nay, trái tim của người bệnh có thể được bác sĩ làm cho ngừng đập hoàn toàn cả giờ đồng hồ trước khi cho phép nó đập lại khi cuộc giải phẩu hoàn tất.
            Có trường phái y học đã dạy rằng nhiệt độ cơ thể thấp bất thường là một dấu hiệu chắc chắn người đó đã chết. Vấn đề thứ nhất là chúng ta không thể định nghĩa nhiệt độ cơ thể bao nhiêu là “bình thường” nên do đó không thể khẳng định được bao nhiêu là “bất thường”. Nhiệt độ “trung bình” thường được cho là 37 độ Celcius nhưng nhiệt độ cơ thể một người thường thấp hơn khi họ vừa thức dậy và cao hơn khi họ đi ngủ. Trẻ sơ sinh có nhiệt độ trung bình cao hơn và người già có nhiệt độ thấp hơn thanh niên trong khi phụ nữ thường nóng hơn khoảng một độ Celcius trong thời gian rụng trứng. Vấn đề khác nữa là khi một người chết đột ngột, thí dụ như vì bị sét đánh hay nội thương, thì nhiệt độ trong cơ thể của họ sẽ không thay đổi lắm cho đến vài tiếng đồng hồ sau. Trong khi đó, một người lúc bị lên suyển nặng tuy vẫn còn sống nhưng nhiệt độ cơ thể họ có thể sụt hẳn xuống không khác nhiệt độ một xác chết. Nhiệt độ trong những người vừa chết do bệnh kiết lỵ, bệnh phong đòn gánh, bệnh sởi sẽ gia tăng đột ngột. Khi một tử thi bắt đầu sình thối thì các phản ứng hóa học trong nội tạng của họ phát xuất ra nhiều nhiệt lượng và có thể làm cho nhiệt độ toàn thân họ tăng lên trở lại giống như nhiệt độ của một người còn sống.
            Phương pháp dùng đèn rọi vào tròng mắt để chẩn định sự chết cũng không có gì chắc chắn cả. Đó là vì cơ thịt của đồng tử trong mắt, cũng như nhiều cơ thịt khác trong cơ thể, vẫn còn có thể co thắt khi phản ứng với những kích động từ bên ngoài vài giờ đồng hồ sau khi một người đã được xem là chết rồi.
            Khi một người đã chết thì máu trong người họ vì không còn được sức đập của trái tìm làm cho lưu thông nữa nên sẽ dần dần đông đặc lại sau vài giờ đồng hồ. Sự kiện nầy dẫn đến phương pháp chẩn định dùng kim đâm vàodưới da để thử xem máu còn chảy hay không. Tuy vậy, phương pháp nầy cũng không chính xác. Khi một người còn sống, máu trong người họ không đông đặc được là nhờ một hóa chất bài tiết ra từ những tế bào đặc biệt nằm dọc theo vách bên trong các gân máu. Khi một người đã chết, các tế bào nầy vẫn có thể tiếp tục bài tiết hóa chất trên qua một thời gian khá lâu. Do đó ngay cả sau khi máu trong một tử thi đã đông đặc nhưng đến vài ngày sau nó vẫn có thể chảy lỏng trở lại.
            Vào cuối thế kỷ mười chín ở Anh Quốc có khoảng hơn 600 ngàn người mỗi năm đã được xem là chết mà không hề được khảo nghiệm gì cả. Với kiến thức khoa học ngày nay, khi nhìn lại lịch sử y khoa người ta phỏng định rằng có khoảng gần 3 ngàn người trong số nầy (mỗi năm) trong thời kỳ đó đã bị mai táng khi họ vẫn còn sống.
            Trong những thời kỳ chiến tranh hay bệnh dịch hoành hành, khi hàng ngàn người chết đồng loạt cần phải được giải quyết càng nhanh chóng càng tốt thì con số người bị chôn sống dưới dạng nầy chắc chắn không nhỏ. Trong quá khứ khi kiến thức y khoa còn non kém thì sự lầm lẫn trong việc xác định người chết là một điều thường xuyên không thể tránh được.
            Ngày nay, ngay cả tại các nước tân tiến nhất nơi có đầy đủ phương tiện y tế, việc nầy vẫn xảy ra. Năm 1963 chẳng hạn, Elsie Waring 35 tuổi ngả quỵ tại nhà và được xác định đã chết bởi 3 bác sĩ nhiều kinh nghiệm ở bệnh viện Willesden General Hospital của Luân Đôn đã sống lại 10 tiếng đồng hồ sau đó trong khi người ta đang khiêng bà bỏ vào quan tài.Và chỉ gần google “coming back from death” chẳng hạn thì sẽ thấy rất nhiều trường hợptương tự. Thí dụ như trong website http://www.oddee.com/item_98718.aspxcó nói về 10 người đã sống lại sau khi đã được tuyên bố chết. Dĩ nhiên là không phải bất cứ điều gì đăng trên internet đều đáng được tin cậy ngang nhau, nhưng trong vấn đề nầy thường chỉ cần dùng một chút phân tích và suy luận thì chúng ta có thể gạn bỏ ra những câu chuyện không đáng để ý đến.
            Nếu muốn hiểu rõ hơn một chút tại sao những ngộ nhận trầm trọng nầy vẫn có thể xảy ra ngày nay với các bác sĩ chuyên khoa, các chuyên viên mai táng đã được huấn luyện chặt chẽ, v.v. chúng ta có thể cần phải nhìn vào định nghĩa của sự chết là gì bằng con mắt khách quan của một nhà sinh vật học.
            Loạt bài sau đây hy vọng sẽ giải thích phần nào về vấn đề trên.
             
            Nguyễn Nhân Trí
             
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9