Bắc Sơn
Nhạc sĩ Bắc Sơn và những ca khúc đậm chất Nam Bộ.
Không chỉ là gương mặt quen thuộc với khán giả màn ảnh nhỏ với trên 50 bộ phim, ông còn là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm mang đậm chất dân ca như "Còn thương rau đắng mọc sau hè", "Bông bưởi hoa cau", "Hoa đào năm ngoái". Ông luôn coi điện ảnh là niềm đam mê còn âm nhạc là duyên nợ.
- Tên thật : Trương Văn Khuê
- Sinh năm : 1931
- Mất năm : 23-2-2005
- Ca khúc đầu tay: Mình gặp nhau chăng?
- Ca khúc nổi tiếng : Còn thương rau đắng mọc sau hè, Bông bí vàng, Bông bưởi hoa cau, Hoa đào năm ngoái, Em đi trên cỏ non, Hai mùa mưa nắng, Sa mưa giông, Còn thương góc bếp chái hè, Em và nỗi nhớ, Nghe tiếng piano trên đời, Lặng lẽ, Đêm nghe tiếng vọng cổ, Mẹ ngồi sàng gạo, Đêm nằm nhớ mẹ...
Phỏng Vấn Bắc Sơn Ông viết ca khúc "Còn thương rau đắng mọc sau hè" như thế nào?
- Tôi viết bản nhạc này làm nhạc nền cho vở kịch truyền hình Bếp lửa ấm, phát trên Truyền hình Sài Gòn ngày 27/11/1974. Thời đó, tôi viết hàng loạt kịch truyện cho chương trình Quê ngoại, phát trên truyền hình nhằm mục đích vận động tinh thần dân tộc. Người hát bài này đầu tiên chính là Hoàng Oanh, nhưng bản nhạc không nổi lên được bởi thời ấy, loại nhạc này không được mấy người ưa chuộng. Sau 1975, ca sĩ Hương Lan hát và ghi âm Còn thương rau đắng mọc sau hè tại Pháp và nhanh chóng lan truyền trong giới Việt kiều bởi cùng chung tâm trạng vọng cố hương của những người xa xứ. Mọi cảm xúc để tôi viết bài hát này cứ tự nhiên mà đến, tôi nghĩ sao thì viết vậy chứ chẳng cần điều gì to tát cả. Tuy nhiên, đây không phải là bản nhạc tâm đắc nhất của tôi.
Vậy đâu là nhạc phẩm ông tâm đắc nhất? - Có khá nhiều, chẳng hạn bài Đêm nghe tiếng vọng cổ tôi viết xong ngày 29/11/1999, trong đó có đoạn: "Đêm nghe bài vọng cổ. Ai đàn dây Long Xuyên. Mưa tuôn ngoài của sổ. Xao động nỗi niềm riêng... Điệu đàn buồn, dòng sông, dòng suối ôm lũy tre. Còn thương bụi chuối ở sau hè, bụi tre đầu ngõ để em chờ mẹ về chợ trưa...". Hoặc những bài tôi viết về mẹ như bài Mẹ ngồi sàng gạo. Mẹ tôi ngồi sàng gạo trên những bậc thềm đá ong mòn nhẵn dấu chân, trông mẹ cô đơn đến tội. Mẹ sàng gạo mướn cho bà con chòm xóm, họ tạ lại bà nửa lon gạo mới sàng... Bao nhiêu lần tôi bảo mẹ lên Sài Gòn ở với con, mẹ bảo: "Mẹ phải ở lại, đặt chân lên chỗ mòn thềm rêu, cho ấm hồn người xưa...". 2 năm sau khi mẹ mất, tôi không viết nổi một bài hát về mẹ - không dám viết thì đúng hơn. Vừa rồi tôi mới viết bài Đêm nằm nhớ mẹ. Bài này, phần đầu không có nhạc nền chỉ có câu ru làm nỗi nhớ cuộn lên, văng vẳng tiếng ếch nhái từ xa vọng về, phần giữa là nhịp hát rong, đoạn cuối êm dịu, thiết tha.
Tại sao ông thích viết nhạc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ?
- Không hẳn như vậy đâu. Tôi đã viết được khoảng 500 nhạc phẩm, trong đó có cả nhạc không lời, bán cổ điển (dài 5, 6 trang) và cả những ca khúc trữ tình như Em và nỗi nhớ, Nghe tiếng piano trên đời, Lặng lẽ... Bản nhạc đầu tay của tôi là Mình gặp nhau chăng? Riêng nhạc mang âm hưởng dân ca Nam Bộ tôi viết khoảng 300 bài. Tôi thích viết bởi tôi là dân Nam Bộ. Thể loại này lạ lắm: tân không ra tân, cổ không ra cổ. Tôi cùng với các nhạc sĩ Thanh Sơn, Vũ Đức Sao Biển đã có một thời gian nghiên cứu cổ nhạc và cùng... thẩm thấu.
Sắp tới, ông sẽ viết tác phẩm gì? - Tôi sẽ viết truyện ngắn dựa trên... ca khúc của tôi, gọi là "nhạc truyện". Ngoài ra, tôi tích lũy vốn sống cả đời rồi viết ra thành sách. Cứ viết ra, hay dở không cần thiết, biết đâu 5, 10 năm sau có chỗ dùng.
(Theo Thanh Niên)
06 - Anh Việt Thu
Anh Việt Thu sinh năm 1940 có tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang quê ở Cái Bè-An Hữu ( Tiền Giang). Bút danh nầy theo lời của anh Vũ Anh Sương ( làm thơ –bạn Anh Việt Thu ) xuất phát từ câu chuyện gia đình: tên Việt Thu là em trai của ông, do ông phải bảo bọc người em nên đặt tên như thế để nhớ trách nhiệm của mình: anh của Việt Thu. Ông hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn vào những năm 70.
Anh Việt Thu tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang sinh năm 1940 tại Mỹ Tho
cựu quân nhân, thuộc binh chủng Đia Phương Quân từng gác cầu Bình Triệu, Thủ đức. Năm 1970 về phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến
mất năm 1974 tại Sài gòn.
Tác Phẩm Cuốn Theo Chiều Gió
Đa Tạ
Đường Chúng Ta đi
Giòng An Giang
Hai Vì Sao Lạc
Máu Chảy Về Tim
Mình Nhớ Nhau Không
Một Mình Thôi
Mùa Xuân Hát Cho Em
Người đi Ngoài Phố
Nhớ Nhau Làm Gì
Như Giọt Sầu Rơi
Tám điệp Khúc
Trên đầu Súng
Vuốt Mặt
Vào năm 1964 Anh Việt Thu từ Sài Gòn lên Tây Ninh dạy học ở trường Nam (nay là trường PTTH Trần Hưng Đạo ). Có thể nói ông là người đầu tiên đưa âm nhạc vào học đường thời ấy. Lớp học trò bây giờ ở tuổi ngũ thập tri thiên mệnh còn nhớ bài hát valse ngọt ngào thầy Thu dạy:
"Dòng An Giang sông sâu nước biếc,dòng An Giang cây xanh là thắm ,lã lướt về qua Thất Sơn….
Dòng An Giang đáy nước in sâu, nhịp cầu tre ngắm bóng say sưa, nắng vẫn chiếu trên làn nước nhấp nhô…Đ
Đây những người thôn nữ xinh duyên dáng chuyền tay dắt nhau múc mấy vầng trăng đổ đi…"
Ông dạy nhạc có những nét độc đáo khó quên, lúc ngẫu hứng cùng thầy đi bộ từ chợ cũ- thị xã (nơi ông thuê nhà luật sư Đinh) xuống dốc sương mù Mít Một vào khu vườn sầu riêng của hai người bạn tên Muông-Trâm để vui chơi ca hát. Lương bổng thời đó rất khá (tương đương một chiếc xe Honda Nhật) nhưng do tánh nghệ sỹ nên cũng túng thiếu dài dài, có lần ông phải bán chiếc radio 3 band để trả tiền thuê nhà.(Nên nhớ thời đó có cái radio là quý, nghệ sỹ càng quý hơn vì để nghe nhạc của mình.)
Đời nghệ sỹ là vậy, xưa thi sĩ Hàn Mặc Tử từng than: Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Ông là một trong những người đưa những âm điệu nhẹ nhàng bình dân vào nhạc cùng với các nhạc sỹ Trúc Phương, Châu Kỳ, Minh Kỳ. Lam phương… (Như điệu boléro,ballade,habanera…) và đã từng đỗ hạng ưu khoá I trường quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn.
Anh Việt Thu sinh năm 1940 có tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang quê ở Cái Bè-An Hữu ( Tiền Giang). Bút danh nầy theo lời của anh Vũ Anh Sương ( làm thơ –bạn Anh Việt Thu ) xuất phát từ câu chuyện gia đình: tên Việt Thu là em trai của ông, do ông phải bảo bọc người em nên đặt tên như thế để nhớ trách nhiệm của mình: anh của Việt Thu. Ông hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn vào những năm 70.
Các bài hát của ông đã quá quen với quần chúng : Đa tạ, Người ngoài phố, Tám điệp khúc, Hai vì sao lạc, Người đi ngoài phố..
Và sau nầy phổ khá nhiều bài thơ của người bạn thân- nhà thơ Thiên Hà rất thịnh hành quen thuộc với người yêu nhạc như bài : Nhớ nhau hoài ( Duy Khánh ca ): "... em ở nơi nào có còn mùa xuân không em, rừng ngàn lá gió từng đêm nhắc nhở thì thầm. Nắng ở trên đầu nắng trong lòng phố, gió ở trên non gió cuốn mây về...". Hay bài Gió về miền xuôi: "Gió về miền xuôi anh đưa em cuối nẻo cuối đường, gió đầu non gió lọt đầu ghềnh,đường em đi đường nở hoa khắp luống cày…" . Đến giờ vẫn còn nhiều người hát, trình diễn, thu đĩa…
Âm nhạc Anh Việt Thu mang đậm tình quê hương dân tộc, khát vọng hòa bình rất chân thành: "Tôi xin đa tạ ngày nao súng phải lạnh lùng nắng hạ vàng rơi phủ bờ vai, lời ai ru gió hiu hiu buồn... Tôi xin đa tạ lời ca tiếng ru êm đềm ôi lời ca đã xua chinh chiến. Xin đa tạ mẹ quê vất vả thật thà…" ( Đa Tạ)
Trong một dịp xuống Cẩm Giang chơi ( năm 2005 ), tôi được Vũ Anh Sương cho xem bức thư ông gửi khi sáng tác xong bài này, lời thư rất cảm động: Mình vừa sáng tác xong 2 bài, độ trung tuần tháng tư trở đi cậu đón nghe đó là Chân dung và Đa tạ. Hiện mình chưa in ronéo, cuối tháng tời mình in luôn, cậu nhớ mua cái radio nho nhỏ nghe nhạc mình xem sao? Mình vẫn sống vất vưởng cù bất cù bơ…(thư đề ngày 31/3/66)
Cũng vào thời ấy,ông phổ một bài thơ hay của thi sỹ Trường Anh : bài Mưa Cẩm Giang ( một nhà giáo ở Gò Dầu- trích trong tập thơ khá nổi tiếng thời ấy: Mưa Đêm Nay – 1964 do Vũ Hoàng Chương đề tựa ) :
Thăm thẳm đường trường tôi người cô độc
Mòn gót giầy cắm trọ quán đêm nay
Mưa Cẩm giang như niềm đau ai khóc
Đường sụt sùi qua mấy nẻo truông lầy…
Cho cốc cà phê cô hàng xanh tóc
Miệng em cười nhạt đắng chở màu cay
Cẩm Giang ơi đây ngày xưa trách móc
Xiềng khua chân rổn rảng kiếp đi đầy
Lớp hưng phế xô nghiêng nhà tróc nóc
Mồ của ai nằm trăng lạnh gió lay…
Và sau đó được nữ ca sỹ Hoàng Oanh hát đã làm mê mẫn lòng người, đưa sông nước Cẩm Giang đi vào huyền thoại. Sau nầy rất nhiều thơ văn viết về Cẩm Giang. ( Truyện ngắn Cơn mộng Cẩm Giang của Nguyễn Đạt đăng Tuổi Trẻ chủ nhật -1995- Trong tập thơ Chốn Xưa của Nguyễn Quốc Nam - nhà xb Văn Nghệ 2006...)
Năm 1972 ông là một trong 12 nhạc sỹ du ca Việt nam có mặt trong tuyển tập nhạc hát cho những người sống sót –(Bút nhạc xb 1973) ông đã viết: Một ngày Việt Nam thơm lừng hòa bình, một ngày Việt Nam bay tràn thế giới…
Đến năm 1975 ông qua đời tại TP HCM, hiện còn người vợ là bà Trần Nữ Hiệp và con trai Việt Bằng sống ở Sài Gòn.
Nguyễn Quốc Đông
07 - Vũ Thành An
Vũ Thành An sinh tại Hải Hậu, Nam Định. Năm 1954 ông theo gia đình di cư vào miền Nam. Năm 1960, ông vào học trường trung học Nguyễn Trãi, có theo học nhạc sĩ Chung Quân cùng Ngô Thụy Miên, Đức Huy. Năm 1961 ông thi hỏng Tú tài và về trường Hưng Đạo học tiếp Đệ nhị. Năm 1963, Vũ Thành An thi đậu Tú tài toàn phần.
Sau đó ông được linh mục Trần Đức Huynh, giám đốc trường Hưng Đạo cho dạy lớp Đệ thất để có tiền học Đại học. Cuối năm 1963, Vũ Thành An vào làm phóng viên ở Đài phát thanh Sài Gòn, ở đó ông gặp nhà thơ Nguyễn Đình Toàn. Năm 1965, ông viết Tình khúc thứ nhất, thơ Nguyễn Đình Toàn và nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay đó. Những năm tiếp theo, ông viết nhiều Bài không tên khác. Năm 1967, Vũ Thành An nhập ngũ khóa 25 Sĩ quan dự bị Thủ Đức và 1969 ông lập gia đình.
Năm 1969, ông phát hành tập nhạc những Bài Không Tên. Các tác phẩm của Vũ Thành An được yêu thích ở khắp miền Nam khi đó. Người ta có thể nghe tại gần như hầu hết các quán cà phê nhạc của Sài Gòn và những thành phố lớn khác, tại các quân trường và trên các làn sóng phát thanh. Tên tuổi của Vũ Thành An cùng với Tình khúc thứ nhất, Em đến thăm anh đêm ba mươi và các Bài không tên gắn liền với giới trẻ thời bấy giờ. Vũ Thành An cùng với Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Lê Uyên Phương tạo thành một lớp nhạc sĩ mới đầy tài năng.
Năm 1971, Vũ Thành An tốt nghiệp đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông tiếp tục làm việc tại đài phát thanh Sài Gòn với cấp bậc sĩ quan, và trải qua nhiều chức vụ: Trưởng cơ sở dân vận Gia Định 1973, Trưởng phân khối văn hóa, Phụ tá trưởng khối chương trình, Trưởng khối chương trình và Trưởng phân khối kế hoạch hệ thống truyền thanh 1974.
Ngày 30 tháng 4 1975, Vũ Thành An là người cuối cùng rời Đài phát thanh Sài Gòn, lúc 10 giờ 30 giờ sáng. Sau đó ông bị tù cải tạo suốt mười năm dài từ 1975 đến 1985 tại miền Bắc. Theo lời Vũ Thành An, ông bắt đầu sáng tác Thánh ca, Những Bài Nhân Bản trong thời gian cải tạo từ năm 1981.
Năm 1991, Vũ Thành An rời Việt Nam và định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1996, ông ghi danh học chương trình Cao học Thần học của Tổng giáo phận Portland, Oregon. Năm 2000, Vũ Thành An được đào tạo làm chức Phó Tế và phụ trách Đài phát thanh Việt Nam Hải Ngoại ở Portland, Oregon. Vũ Thành An ngừng sáng tác tình khúc và chỉ tiếp tục soạn các bản thánh ca, và tham gia các công việc từ thiện.
Nhạc tình Vũ Thành An là một kết hợp của âm điệu nhẹ nhàng, lã lướt với lời hát như quyện vào tâm hồn người nghe. Thế nên từ cuối thập niên 60, tới đầu thập niên 70, một chuỗi sáng tác của Vũ Thành An qua các nhạc phẩm “Tình Khúc Thứ Nhất”, “Em Đến Thăm Anh Đêm Ba Mươi”, các bài “Không Tên” được giới yêu âm nhạc đón nhận nồng nhiệt và nghiễm nhiên trở thành những bản ”Nhạc Tình Vũ Thành An”, một dấu ấn lãng mạn của thời Nhạc Vàng !
Khi qua được Mỹ, thì Vũ Thành An sáng tác nhiều nhạc phẩm mang phong cách và ca khúc khác hơn xưa, như loạt nhạc “Nhân Bản Ca”. Rồi thất bại, ông viết tiếp “Bài không tên cuối cùng tiếp nối” như một chấp nhận sự trở về. Sau đó có “Đời Đá Vàng” được Khánh Hà trình bày làm xao xuyến tâm hồn người nghe nhạc, là một cái nhìn triết lý mới của Vũ Thành An. Bài “Tình Xưa Gái Huế” nghe nhẹ nhàng không phải là những ray rứt, trách cứ như ngày nào . Giới thưởng ngoạn đang trong thời kỳ hấp thụ dòng nhạc mới này của ông, thì bỗng dưng ông tuyên bố ông không sáng tác Nhạc Tình nữa, mà chuyển hướng qua con đường sáng tác Nhạc Thánh Ca.
Thật là một bất ngờ, đối với giới ái mộ ông, có thể là nỗi thất vọng xen lẫn với những bàng hoàng tiếc nuối. Phải chăng sự đổi thay này xuất phát từ mười năm trong trại cải tạo chăng ? Chắc hẳn mười năm là một thời gian dài, với rất nhiều thời gian để ông suy tư chuyển hướng !?
Những Bài Không Tên Sáng tác của Vũ Thành An có khoảng 40 bài, được đánh số không theo thứ tự thời gian, trong đó một số bài mang tên khác. Một vài Bài không tên khác không đánh số như Bài không tên cuối cùng và Bài không tên cuối cùng tiếp nối…
Xin được giới thiệu các sáng tác của ông qua những câu đầu trong ca khúc :
- Bài không tên số 1 : Xin đời sống cho tôi mượn tiếng / Xin cho cơn mê thêm dài một chuyến…
- Bài không tên số 2 ; Lòng người như lá úa, trong cơn mưa chiều, nhiều cơn gió xoay / xoay trong hồn, và cơn đau này vẫn còn đâỵ…
- Bài không tên số 3 : Yêu nhau cho nhau nụ cười, thương nhau cho nhau cuộc đời / Mà đời đâu biết đợi, để tình nhân kết đôi…
- Bài không tên số 4 : Khóc cho vơi đi những nhục hình, nói cho quên đi những tội tình / Đời con gái cũng cần dĩ vãng, mà em tôi chỉ còn tương lai…
- Bài không tên số 5 : Quấn quít vân vê tà áo, run run đôi môi mở chào / Tiếng nói thơ dại ngày đó, bây giờ mộng đời bay cao…
- Bài không tên số 6 : Đêm nay gió xôn xao, ngoài kia đã vang lời mưa chào / Chờ mộng ấp hơi nồng, tình lấp cho đầy hư không… (có lời 2).
- Bài không tên số 7 : Một làn khói trắng, ru đời vào quên lãng, nâng sầu thành hơi ấm, / hơ dịu tình đau… (lời 2 là Bài không tên trở lại số 7)
- Bài không tên số 8 : Chiều thơm, du hồn người bềnh bồng / Chiều không, im gọi người đợi mong…
- Bài không tên số 9 : Ngày đến mang tin buồn. Thời gian theo về nguồn / Giọt nắng loe trong đầu. Bàn tay trơ đốt khâu…
Những Bài không tên lên đến số 37 rồi các số 40, 41, 42 và 50.
Những Bài Có Tên Anh biến mất thôi
Biển vang lời mẹ nhắn
Cám ơn
Cánh chim xa vời
Cháy bỏng tình cố hương
Chị ơi
Đêm say
Đêm vàng trăng úa
Đừng yêu tôi
Em đến thăm anh đêm 30
Hai mươi năm làm tuổi trẻ
Hạt sầu
Hồn lạnh nắng phai
Lời tình buồn
Một lần nào cho tôi gặp lại em
Nếu tôi còn được yêu
Ngày mưa
Nhân bản 6
Sầu khúc
Thân cỏ hoa
Tình đã xa
Tình khúc thứ nhất
Trong tay nhau
Xa lạ
Xin cám ơn chàng những đêm không ngủ