Ken Follett: Những Cột Trụ Của Thế Giới (Chương 1 - Chương 10)
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 20 trên tổng số 20 bài trong đề mục
Minh Nan 04.01.2017 23:49:32 (permalink)
0
Chương 15
 
I
 
“Hãy kể cho em một câu truyện,” Aliena nói. Đã từ lâu rồi anh không còn kể truyện cho em nghe. Anh có nhớ ngày xưa anh thường kể không?”
“Anh nhớ,” Jack nói.
Họ đang ở trong khu rừng kín đáo của họ. Đó là cuối mùa thu, vì thế thay vì ngồi dưới bóng mát bên dòng nước, họ đã đốt một đống lửa dưới mỏm đá. Nó là một buổi chiều xám, lạnh và tối, nhưng làm tình đã sưởi ấm họ và ngọn lửa kêu lách tách vui tai. Cả hai họ đều trần truồng dưới chiếc áo choàng.
Jack mở áo choàng của Aliena và sờ vào ngực cô. Cô nghĩ ngực cô quá lớn, và cô buồn vì chúng không còn cao và rắn chắc như khi cô chưa có con, nhưng dường như cậu thích nó và điều đó làm cô nhẹ người. Cậu nói: “Một câu truyện về một nàng công chúa sống trên đỉnh của ngôi biệt thự cao.” Cậu sờ vào núm vú của cô một cách nhẹ nhàng. “Và một chàng hoàng tử sống ở trên đỉnh một tòa lâu đài khác.” Cậu sờ vào bên ngực kia. “Mỗi ngày họ nhìn nhau từ cửa sổ nhà tù của họ và mong vượt qua thung lũng ở giữa họ.” Tay cậu dừng lại ở khe giữa ngực cô, rồi bất ngờ di chuyển xuống. “Nhưng mỗi chiều chủ nhật họ gặp nhau trong rừng!” Cô kêu ré lên, giật mình và cười một mình.
Những buổi chiều chủ nhật là những giây phút quý báu trong một đời sống tan vỡ nhanh chóng.
Mùa thu hoạch xấu và giá len xuống đã tàn phá nền kinh tế. Thương gia phá sản, cư dân thị trấn thất nghiệp và nông dân chết đói. Jack vẫn có tiền lương, thật may mắn: với một nhóm thợ thủ công ít ỏi cậu đã dựng ô đầu tiên của gian giữa. Nhà máy sản xuất vải của Aliena đã hầu như đóng cửa hoàn toàn. Và mọi sự ở đây tồi tệ hơn ở các nơi khác thuộc miền Nam nước Anh, vì cách William xử lý nạn đói.
Đối với Aliena, cách thức của William là khía cạnh đau đớn nhất của tình trạng. William cần tiền để xây nhà thờ mới ở Shiring, một nhà thờ để tưởng nhớ đến bà mẹ xấu xa và điên khùng của cậu. Cậu đã đuổi nhiều người thuê đất vì họ không thể trả tiền thuê, vì thế mà một số mảnh đất màu mỡ nhất nước Anh bị bỏ hoang, khiến tình trạng thiếu lương thực trầm trọng hơn. Ngoài ra cậu đã dự trữ ngũ cốc để đẩy giá lên cao hơn. Cậu chỉ có vài nhân viên và không phải nuôi ai, nên trong một thời gian ngắn cậu thu được nhiều lợi trong nạn đói. Nhưng về lâu về dài cậu đã làm thiệt hại đất đai và khả năng nuôi sống dân chúng của nó. Aliena nhớ lại lãnh địa dưới sự cai trị của bố cô, một vùng giầu có về những cánh đồng màu mỡ và thị trấn thịnh vượng, và nó làm tim cô tan nát.
Trong vài năm qua cô đã hầu như quên lời hứa mà cô và em cô đã thề với bố của họ. Kể từ khi William thành bá tước và cô bắt đầu có gia đình, ý tưởng Richard chiếm lại lãnh địa dường như chỉ là một tưởng tượng xa vời. Richard đã ổn định là người chỉ huy đội lính gác. Ngay cả cậu đã cưới một cô gái địa phương, con gái người thợ mộc. Đáng tiếc là cô gái nghèo lại có sức khỏe kém và đã chết năm trước không để lại người con nào.
Từ khi nạn đói bắt đầu, Aliena đã bắt đầu nghĩ về lãnh địa. Cô biết nếu Richard thành bá tước và với sự giúp đỡ của cô, cậu có thể làm nhiều điều để làm giảm bớt đau khổ do nạn đói gây ra. Nhưng nó chỉ là một giấc mơ: William được vua Stephen ưa chuộng, người đã chiếm ưu thế trong cuộc nội chiến và không có viễn tượng về một sự thay đổi.
Tuy nhiên, tất cả những lo nghĩ tan biến đi trong khu rừng bí mật khi Aliena và Jack nằm xuống trên mặt cỏ và yêu nhau. Từ ngày đầu tiên họ đã bị thu hút bởi nhau – Aliena chẳng bao giờ quên cô đã kinh hoàng như thế nào về sự ham muốn của cô vào lúc đầu – và ngay cả bây giờ, khi cô đã ba mươi ba tuổi, và sự sinh con đã làm mông cô to hơn, và bụng cô không còn thon, nhưng Jack vẫn còn ham muốn cô đến nỗi họ yêu nhau ba bốn lần mỗi chiều chủ nhật.
Câu truyện khôi hài của Jack về khu rừng đã trở thành sự mơn trớn. Aliena kéo mặt cậu xuống và hôn; rồi cô nghe một giọng nói.
Cả hai lạnh người. Khoảng rừng của họ ở cách xa đường, và ẩn trong bụi cây: họ chẳng bao giờ bị làm phiền ngoại trừ tình cờ bởi con hươu vô ý hay con cáo béo. Họ nín thở và lắng nghe. Giọng nói lại vang lên và theo sau là giọng nói khác. Khi họ tập trung, họ nghe thấy tiếng xào xạc như có một đám đông di chuyển qua rừng.
Jack tìm đôi giày còn nằm trên mặt đất. Di chuyển lặng lẽ, cậu bước đến bên dòng nước, múc đầy nước vào đôi giày, và đổ vào đống lửa. Ngọn lửa tắt với tiếng xì xì và một cụm khói bay lên. Jack di chuyển không một tiếng động vào bụi cây và biến mất.
Aliena mặc lại áo trong, áo dài và giày, rồi quấn áo choàng xung quanh cô.
Jack trở về yên lặng như khi cậu đi. “Người sống ngoài vòng pháp luật,” cậu nói.
“Bao nhiêu?” cô thì thầm.
“Một số đông. Anh không thể thấy tất cả.”
“Họ đi đâu?”
“Kingsbridge,” cậu dơ một ngón tay lên. “Lắng nghe!”
Aliena nghiêng mình. Từ khoảng cách xa cô có thể nghe thấy tiếng chuông của tu viện Kingsbridge nhanh và không ngừng, dấu hiệu cảnh báo của nguy hiểm. Cô ngưng thở. “Ồ Jack! Còn các con.”
“Chúng ta có thể trở về trước nhóm người sống ngoài vòng pháp luật, nếu chúng ta lội qua bùn và đi qua sông bằng gỗ hạt dẻ.”
“Vậy chúng ta đi thôi!”
Jack đặt một tay lên tay cô và lắng nghe một lúc. Cậu vẫn luôn nghe thấy những điều ở trong rừng mà cô không có thể. Cậu đã lớn lên trong môi trường hoang dã. Cô đợi. Sau cùng cậu nói: “Anh nghĩ tất cả họ đã đi qua.”
Họ rời khu rừng thưa. Một lúc sau họ đến đường cái. Không có ai trên đường. Họ băng ngang đường và xuyên qua rừng theo một con đường khó nhận ra. Aliena đã để Tommy và Sally lại cho Martha, và chúng chơi với nhau bên đống lửa tí tách. Cô chưa biết sự nguy hiểm sẽ như thế nào, nhưng cô sợ chuyện gì đó sẽ xẩy ra trước khi họ về đến nhà. Họ chạy khi có thể, nhưng Aliena thất vọng vì hầu như đoạn đường quá gồ ghề, và cách duy nhất cô có thể làm là bước đi chầm chậm, trong khi Jack bước từng sải chân dài. Con đường này khó đi hơn đường cái, vì thế mà ít khi họ đi con đường này mặc dù nó nhanh hơn.
Họ trườn sườn đồi xuống đầm lầy. Những người lạ không cẩn thận thi thoảng bị chết trong đầm lầy này, nhưng nó không nguy hiểm cho người biết cách vượt qua. Tuy nhiên nước ngập bùn như muốn giữ chân cô lại, làm chậm bước chân cô, giữ cô xa Tommy và Sally. Bên kia đầm lầy là một chỗ cạn qua sông. Nước lạnh đến đầu gối của Aliena và rửa bùn đất khỏi chân cô.
Từ đó con đường thẳng tắp. Tiếng chuông báo động to hơn khi họ gần đến thị trấn. Cho dù người sống ngoài vòng pháp luật có gây nguy hiểm gì cho thị trấn, ít nhất cư dân đã được cảnh giác, Aliena nghĩ, cố giữ lòng can đảm. Khi cô và Jack ra khỏi rừng, băng ngang cây cầu vào bãi cỏ của Kingsbridge, hai mươi hay ba mươi người trẻ cũng đến nơi. Chúng chơi bóng đá ở một làng lân cận và mặc dù trời lạnh, chúng đổ mồ hôi.
Họ vội vã băng qua cây cầu. Cổng thành đã đóng, nhưng dân chúng trên tường có lỗ châu mai nhìn thấy và nhận ra chúng, và khi chúng đến gần, một cánh cổng nhỏ được mở ra. Jack lấy uy quyền để bắt bọn trẻ nhường cho Aliena và cậu vào trước. Họ cúi đầu đi qua cánh cửa nhỏ. Aliena thở phào nhẹ nhõm vì trở về thị trấn trước khi người sống ngoài vòng pháp luật đến.
Thở hổn hển vì gắng sức, họ vội vã vào con đường chính. Cư dân thị trấn đã đến tường thành với giáo mác, cung tên và đá để ném. Các trẻ em được tập hợp lại và đem tới tu viện. Martha chắc đã đem Tommy và Sally đến đó, Aliena khẳng định. Cô và Jack đi thẳng đến khu tu viện.
Trong sân nhà bếp Aliena ngạc nhiên khi thấy mẹ Jack, Ellen, da ngăm đen và gầy hơn mọi khi, nhưng mái tóc đã lấm tấm bạc và vết nhăn quanh đôi mắt bốn mươi tuổi. Bà đang nói chuyện sôi nổi với Richard. Tu viện trưởng Philip ở cách đó một khoảng xa, hướng dẫn các trẻ em vào nhà họp. Dường như ông không nhìn thấy Ellen.
Martha đứng gần đó với Tommy và Sally. Aliena thở phào nhẹ nhõm và ôm các con vào lòng.
Jack nói: “Sao mẹ lại ở đây?”
“Mẹ đến để cảnh báo cho con về một nhóm người sống ngoài vòng pháp luật đang trên đường đến đây. Họ muốn đột kích thị trấn.”
“Chúng con thấy họ trong rừng,” Jack nói.
Richard vểnh tai lên. “Anh đã thấy chúng? Họ có bao nhiêu người?”
“Anh không biết chắc chắn, nhưng có vẻ rất nhiều, ít nhất một trăm hay hơn nữa.”
“Họ được trang bị như thế nào?”
“Gậy gộc, dao. Một hoặc hai rìu. Hầu hết bằng gậy.”
“Họ đi theo hướng nào?”
“Phía bắc đây.”
“Cảm ơn anh. Em muốn quan sát từ bức tường thành.”
Aliena nói: “Martha, hãy đem các cháu vào trong nhà họp của tu viện.” Còn cô đi theo Richard, Jack và Ellen cũng vậy.
Khi họ vội vã đi qua các đường phố, dân chúng luôn hỏi Richard: “Chuyện gì vậy?”
“Những người sống ngoài vòng pháp luật,” cậu nói ngắn gọn và tiếp tục đi.
Về phía cạnh này Richard thể hiện mình tốt nhất, Aliena nghĩ. Yêu cầu cậu ra ngoài kiếm cơm ăn, cậu bất lực; nhưng trong lãnh vực quân sự, cậu lạnh lùng, điềm đạm và có khả năng.
Họ đến bức tường thành phía bắc và theo cầu thang lên đỉnh tường thành. Có từng đống đá được xếp rải rác đều đặn để ném xuống kẻ tấn công. Cư dân có cung tên đã sẵn sàng ở lỗ châu mai. Từ nhiều năm nay Richard đã thuyết phục hội đồng thị trấn tổ chức báo động mỗi năm một lần. Lúc đầu đã có nhiều người chống đối, nhưng dần dần nó đã trở thành một trình tự thường niên, giống như một cuộc chơi trong mùa hè, và mọi người thích thú về chuyện đó. Bây giờ lợi ích thực sự của nó đã hiển nhiên qua việc cư dân thị trấn phản ứng nhanh nhẹn và tự tin khi nghe chuông báo động.
Aliena nhìn sợ hãi qua cánh đồng tới khu rừng. Cô không thấy gì.
Richard nói: “Chị đã về đến đây trước họ.”
Aliena hỏi: “Tại sao họ lại đến đây?”
Ellen nói: “Kho lương thực của tu viện. Trong hàng dặm xung quanh, chỉ đây còn có lương thực.”
“Dĩ nhiên.” Những người sống bên ngoài vòng pháp luật là những người đói, đất đai của họ bị William thu hồi. Họ không có cách nào khác để sống ngoài việc trộm cướp. Trong các làng không phòng vệ thì không còn gì để cướp: nông dân không khá hơn người sống ngoài vòng pháp luật. Lương thực chỉ còn nhiều trong các kho thóc của chủ ruộng.
Khi cô nghĩ về điều đó, cô thấy họ đến.
Họ bước ra khỏi bờ rừng giống như đàn chuột chạy ra từ đống rơm khô bị đốt cháy. Họ nhung nhúc xuyên qua cánh đồng về hướng thị trấn, hai mươi, ba mươi, năm mươi, một trăm người giống như một đoàn quân nhỏ. Có lẽ họ đã hy vọng tấn công thị trấn một cách bất ngờ và tiến qua cổng thành dễ dàng, nhưng khi họ nghe thấy tiếng chuông báo động, họ đã nhận ra rằng họ bị đón đầu. Tuy vậy họ vẫn tiếp tục trong nỗi tuyệt vọng vì chết đói. Một hai người đã bắt đầu bắn ra những mũi tên, và Richard hét lớn: “Hãy chờ! Đừng phí phạm những mũi tên!”
Lần trước, khi Kingsbridge bị tấn công, Tommy mới mười tám tháng tuổi và Aliena mang thai Sally. Cô đã ẩn náu trong tu viện cùng với những người lớn tuổi và trẻ em. Lần này cô muốn ở lại trên lỗ châu mai, cùng chống lại sự nguy hiểm. Hầu hết các phụ nữ khác cũng cảm thấy như vậy: số phụ nữ trên tường thành cũng ngang bằng với số đàn ông.
Mặc dù đã chuẩn bị kỹ, Aliena vẫn cảm thấy phân vân khi kẻ tấn công đến gần. Cô ở gần tu viện, nhưng có thể kẻ tấn công phá vỡ ở một điểm khác và đến tu viện trước khi cô có thể đến đó. Hay cô có thể bị thương trong cuộc chiến đấu và không có thể chăm sóc con cái được nữa. Jack ở đây và cả Ellen nữa: nếu họ bị giết, chỉ có Martha còn lại để chăm sóc cho Tommy và Sally. Aliena do dự, không quyết định.
Hầu hết kẻ tấn công ở bên bức tường thành. Một cơn mưa mũi tên rơi xuống họ, và lần này Richard không còn nói các cung thủ phải chờ đợi. Nhiều kẻ tấn công bị sát hại. Họ không có áo giáp để bảo vệ. Họ không được tổ chức. Không ai lên kế hoạch tấn công. Như một đàn bò trong sự hoảng loạn, họ đâm đầu vào bức tường trống. Khi họ đến được đó họ không biết phải làm gì. Cư dân ném đá xuống từ lỗ châu mai. Nhiều kẻ trộm cướp tấn công cổng phía bắc bằng gậy gộc. Aliena biết độ dầy của chiếc cửa bằng gỗ sồi bọc sắt: họ sẽ cần cả đêm để đâm thủng. Trong khi đó Alf Butcher và Arthur Saddler đã điều động một vạc nước sôi lên tường thành bên trên cánh cổng.
Ngay phía bên dưới Aliena một nhóm kẻ tấn công xếp chồng lên nhau tạo thành một Kim tự tháp người. Ngay lập tức Jack và Richard ném đá xuống họ. Nghĩ về con cái, Aliena cũng ném đá xuống và Ellen làm theo. Những kẻ tấn công chịu đựng được một lúc cho đến khi một người bị đá trúng vào đầu, và Kim tự tháp sụp đổ.
Một lúc sau có tiếng la hét vì đau đớn từ cổng phía bắc, khi nước sôi đổ xuống đầu những kẻ tấn công ở cánh cổng.
Bất ngờ một số kẻ tấn công nhận ra rằng những đồng đội bị chết và bị thương của họ là những con mồi dễ dàng và chúng tước đoạt họ. Cuộc đánh nhau bùng nổ giữa những người bị thương nhẹ và tranh cãi về tài sản của những người đã chết. Nó là một tình trạng hỗn loạn, Aliena nghĩ, một cuộc chiến kinh tởm và nhục nhã. Cư dân thị trấn ngừng ném đá khi những người tấn công chiến đấu chống lại nhau như những con chó tranh dành cục xương.
Aliena quay sang Richard. “Họ vô tổ chức để trở thành một mối đe dọa thực sự,” cô nói.
Cậu gật đầu. “Với một chút trợ giúp, họ có thể trở thành mối nguy hiểm thực sự, bởi vì họ tuyệt vọng. Họ không có lãnh đạo.”
Aliena bị ấn tượng vì một ý nghĩ: “Một đội quân chờ đợi một lãnh đạo,” cô nói. Richard không phản ứng, nhưng cô bị thu hút bởi ý nghĩ này. Richard là một nhà lãnh đạo tốt nhưng lại không có quân đội. Những người sống ngoài vòng pháp luật là một đội quân không có lãnh đạo. Và lãnh địa bị tan rã…
Một vài cư dân tiếp tục ném đá và bắn tên xuống kẻ tấn công, và cuộc trộm cắp trên xác người chấm dứt. Những người sống ngoài vòng pháp luật bắt đầu rút lui giống như bầy chó cúp đuôi chạy, nhìn lại sau lưng với vẻ tiếc nuối. Rồi ai đó mở cổng thành phía bắc, và một nhóm người trẻ chạy ra, mang trên tay gươm và rìu, đuổi theo đoàn người hỗn loạn. Người sống ngoài vòng pháp luật chạy trốn, nhưng một số bị bắt và bị xẻ thịt.
Ellen ghê tởm quay đi và nói với Richard: “Cậu nên ngăn chặn các chàng trai này lại.”
“Các chàng trai cần nhìn thấy máu, nhất là sau một cuộc chiến như thế này,” cậu nói. “Ngoài ra nếu lần này chúng ta giết được nhiều, lần sau chúng ta sẽ phải chiến đấu với ít người hơn.”
Đó là một cách suy nghĩ của người lính, Aliena nghĩ. Trong giai đoạn, khi cô cảm thấy cuộc sống của cô bị đe dọa mỗi ngày, có lẽ cô cũng sẽ giống như các chàng trai, đuổi theo người sống ngoài vòng pháp luật và giết họ. Bây giờ cô muốn quét sạch nguyên do gây ra cuộc sống ngoài vòng pháp luật, chứ không phải giết sạch người sống ngoài vòng pháp luật. Ngoài ra cô đã nghĩ ra cách sử dụng những người sống ngoài vòng pháp luật này.
Richard ra lệnh kéo chuông tu viện để thông báo về tình hình đã ổ định và tăng cường thêm canh gác đêm, với đội tuần tra và lính gác. Aliena đi tới tu viện gặp Martha và các con. Rồi họ gặp nhau ở nhà Jack.
Aliena vui vì họ được gặp nhau: cô và Jack cùng các con, và mẹ Jack, và em của Aliena, và Martha. Nó hoàn toàn giống như một gia đình bình thường; và Aliena có thể hầu như quên đi rằng bố cô đã chết trong ngục tối và cô đã chính thức kết hôn với anh ghẻ của Jack, và Ellen là một người sống ngoài vòng pháp luật, và –
Cô lắc đầu. Cô không thể coi đó như là một gia đình bình thường.
Jack lấy một thùng bia và rót bia vào một bình lớn. Mọi người cảm thấy sự căng thẳng và sôi nổi sau cơn nguy hiểm. Ellen đốt đống lửa và Martha thái củ cải cho vào nồi nấu súp cho bữa ăn tối. Có thời họ đã có thể nướng nửa con heo trên lửa vào những ngày như thế này.
Richard uống một hơi bia dài, lau miệng và nói: “Tình trạng này còn xẩy ra nhiều lần cho đến mùa xuân năm sau.”
Jack nói: “Họ nên tấn công nhà kho của Bá tước William, chứ không phải của Philip. Chính William là người đã gây ra sự nghèo đói cho hầu hết những người trong số họ.”
“Họ sẽ không thành công hơn trong cuộc đối đầu với Bá tước William như họ đã đối đầu với chúng ta, chỉ trừ khi họ có một chiến thuật. Họ giống như một đàn chó.”
Aliena nói: “Họ cần người lãnh đạo.”
Jack nói: “Cầu mong là họ đừng có người lãnh đạo. Nếu không họ sẽ thực sự nguy hiểm.”
Aliena nói: “Một người lãnh đạo có thể hướng dẫn họ tấn công tài sản của William thay vì của chúng ta.”
“Anh không đồng ý với em,” Jack nói. “Một người lãnh đạo sẽ làm theo ý đó sao?”
“Họ sẽ làm, nếu người đó là Richard.”
Tất cả im lặng.
Ý tưởng này đã nung nấu từ lâu trong tâm trí Aliena, và cô tin nó sẽ đạt kết quả. Họ có thể hoàn thành lời thề của họ với người bố, Richard có thể tiêu diệt William và trở thành bá tước, và lãnh địa sẽ được phục hồi nền hòa bình và thịnh vượng… Càng nghĩ về nó, cô càng hứng khởi. Cô nói: “Trong đám đông hỗn độn hôm nay có hơn một trăm người.” Cô quay sang Ellen. “Còn bao nhiêu người nữa trong rừng?”
“Không thể đếm được,” Ellen nói. “Hàng trăm. Hàng ngàn.”
Aliena chồm qua bàn ăn và nhìn vào mắt Richard. “”Hãy trở thành người lãnh tụ của họ,” cô nói như ra lệnh. “Hãy tổ chức họ thành đội ngũ. Hãy dạy họ chiến đấu. Hãy hoạch định kế hoạch tấn công. Rồi sai họ hành động – chống lại William.”
Khi nói, cô nhận biết rằng cô đang yêu cầu cậu mạo hiểm mạng sống của cậu, và cô lo sợ.  Thay vì chiếm lại lãnh địa, cậu có thể bị giết.
Nhưng cậu không e ngại như vậy. “Trời ơi! Allie, chị có thể đúng,” cậu nói. “Tôi có thể có riêng một đoàn quân và lãnh đạo họ chống lại William.”
Khuôn mặt cậu toát lên nét thù hận lâu đời và Aliena chú ý đến vết sẹo trên tai phải của cậu, nơi một góc vành tai bị cắt đứt. Cô cố gắng đè nén ký ức đang chực trào lên.
Richard hứng khởi với ý tưởng đó. “Tôi có thể đột kích đàn thú vật của William,” cậu thích thú nói. “Ăn cắp đàn cừu của hắn, săn trộm hươu, phá vỡ chuồng trại và cướp nhà máy xay của hắn. Trời ơi! Tôi có thể làm cho bọn vô lại đó đau khổ, nếu tôi có một đội quân.”
Cậu là một người lính, Aliena nghĩ; đó là số phận của cậu. Mặc dù cô lo sợ cho sự an toàn của cậu, cô hứng khởi về viễn tượng cậu có thể có một cơ hội để hoàn thành sứ mạng của cậu.
Cậu chợt thấy một trở ngại. “Nhưng làm sao tôi có thể tìm thấy những người sống ngoài vòng pháp luật?” cậu hỏi. “Họ luôn luôn lẩn trốn.”
“Tôi có thể cho cậu biết,” Ellen nói. “Trên con đường đến Winchester có một con đường nhỏ bị cây cối che khuất, con đường đó dẫn đến mỏ đá bỏ hoang. Đó là nơi ẩn náu của họ. Nó được gọi là mỏ đá Sally.”
Bé gái Sally bẩy tuổi nói: “Nhưng cháu không có mỏ đá!”
Mọi người cười lớn.
Rồi tất cả lại im lặng.
Richard biểu lộ sự quyết tâm. “Được,” cậu nhấn giọng. “Mỏ đá Sally.”
 
 
“Cả buổi sáng hôm đó các anh vất vả nhổ một cây lớn trên đồi,” Philip nói. “Khi các anh trở lại, Francis, em trai của anh, đứng ngay đó, trong chuồng dê, bế em trong tay. Em mới sinh được một ngày.”
Jonathan nhìn nghiêm trọng. Đây là khoảnh khắc nghiêm trang đối với cậu.
Philip quan sát tu viện nhỏ Thánh gioan trong rừng. Bây giờ không còn nhiều rừng: qua các năm tháng các tu sĩ đã phá nhiều mẫu rừng và canh tác thành những cách đồng quanh tu viện. Có nhiều nhà bằng đá – một nhà họp, một nhà ăn và nhà ngủ - cộng với một loạt chuồng bằng gỗ và xưởng sữa. Nó không còn giống như nơi ông đã rời đó trước đây mười bảy năm về trước. Con người cũng khác xưa. Nhiều tu sĩ trẻ đảm nhận những trách nhiệm tại Kingsbridge. William Beauvis, người đã gây ra sự xáo trộn bằng cách bắn sáp nến nóng vào đầu cha giáo tập, đã trở thành bề trên tu viện này. Một vài người đã đi xa: người gây vấn đề Peter thành Wareham hiện đang ở Canterbury, làm việc cho một tổng đại diện trẻ, đầy tham vọng có tên là Thomas Becket.
“Em tự hỏi không biết họ như thế nào, Jonathan nói. “Ý em muốn nói bố mẹ em.”
Philip chia sẻ niềm đau với cậu. Chính Philip đã mất bố mẹ, nhưng chỉ từ năm lên sáu, và ông vẫn còn có thể nhớ về cả hai: mẹ ông yên lặng và đáng yêu, bố ông cao lớn và có râu đen – và đối với Philip - can đảm và mạnh mẽ. Jonatha ngay cả đã không có được điều đó. Tất cả những gì cậu biết về bố mẹ cậu là họ không muốn có cậu.
“Chúng ta có thể đoán ra một số điều về họ” Philip nói.
“Thật sao?” Jonathan hào hứng nói. “Những cái gì?”
“Họ nghèo,” Philip nói. “Những người giầu không có lý do bỏ rơi con của họ. Họ không có bạn bè: bạn bè biết khi bạn chờ đợi một đứa trẻ sắp sinh và thắc mắc nếu đứa con không được sinh ra. Họ tuyệt vọng. Chỉ những người tuyệt vọng mới có thể chịu để mất một đứa con.”
Khuôn mặt Jonathan đầy nước mắt. Philip muốn khóc thay cậu, cậu bé này – mọi người nói – rất giống Philip. Philip muốn có thể cho cậu một chút an ủi, nói với cậu vài lời nồng ấm và khích lệ về bố mẹ cậu; nhưng làm sao ông có thể nói rằng họ đã yêu cậu, khi họ đã để cậu chết?
Jonathan nói: “Nhưng tại sao Chúa lại làm những việc như thế?”
Philip thấy cơ hội: “Đó là một câu hỏi làm cho nhiều người bối rối. Nhưng trong trường hợp này anh nghĩ câu trả lời đã rõ ràng: Chúa muốn em cho Chúa.”
“Anh thực sự nghĩ như thế sao?”
“Trước đây anh đã chẳng nói với em sao? Anh luôn tin điều đó. Anh đã nói điều đó với tu sĩ ở đây vào ngày em được tìm thấy. Anh đã nói với họ rằng Chúa đã gửi em đến đây cho mục đích của Ngài, và nhiệm vụ của chúng ta là chăm sóc em lớn lên để phục vụ Chúa, để một ngày nào đó em có những khả năng cần thiết thực hiện nhiệm vụ Chúa trao cho em.”
“Em tự hỏi mẹ em có biết điều đó không?”
“Nếu bây giờ mẹ em đang ở bên các Thiên thần, mẹ em sẽ biết điều đó.”
“Anh nghĩ nhiệm vụ của em là gì?”
“Thiên Chúa cần các tu sĩ là nhà văn, người cắt nghĩa, nhạc sĩ và nông dân. Ngài cần người cho những công việc cần thiết như quản lý, bề trên tu viện hay giám mục. Ngài cần người có thể buôn bán len, chữa bệnh tật, giáo dục trẻ em và xây dựng nhà thờ.”
“Thật khó tưởng tượng rằng Ngài có một nhiệm vụ đặc biệt cho em.”
“Tại sao Ngài lại cố gắng nhiều thế với em?” Philip nói với một nụ cười. “Tuy nhiên, nó sẽ không phải là một vai trò lớn lao và lỗi lạc trong thế gới. Ngài muốn em trở thành một trong các tu sĩ âm thầm, một người khiêm nhường dành cuộc sống của mình cho việc cầu nguyện và chiêm niệm.”
Khuôn mặt Jonathan suy sụp. “Em nghĩ Ngài có thể làm điều đó.”
Philip cười. “Nhưng anh không nghĩ như vậy. Chúa không làm một con dao từ khúc gỗ, hay một chiếc áo đàn bà từ da giày. Tự bản chất, em không thích hợp cho một cuộc sống yên lặng. Và Chúa biết điều đó. Anh đoán Ngài muốn em chiến đấu cho Ngài chứ không phải hát cho Ngài.”
“Em hy vọng như vậy.”
“Nhưng ngay bây giờ anh nghĩ Ngài muốn em đi gặp thầy Leo và xem thầy có bao nhiêu pho mát cho quản lý ở Kingsbridge.”
“Vâng.”
“Anh sẽ nói chuyện với em của anh ở nhà họp. Và hãy nhớ - nếu có ai trong số các tu sĩ hỏi em về Francis, hãy nói ít bao nhiêu có thể.”
“Em sẽ không nói gì.”
“Vậy em đi đi.”
Jonathan bước nhanh qua sân. Tâm trạng nghiêm trang qua đi nhường chỗ cho tâm trạng phấn khởi tự nhiên của cậu trước khi cậu đến nhà làm pho mát. Philip nhìn theo cậu cho đến khi cậu mất hút trong tòa nhà. Tôi cũng giống như vậy, ngoại trừ không thông minh như cậu, ông nghĩ.
Ông đi hướng ngược lại tới nhà hội. Francis đã gửi một sứ điệp yêu cầu gặp Philip một cách bí mật. Các tu sĩ ở Kingsbridge tin rằng Philip đi một vòng tham quan tới tu viện chi nhánh. Cuộc gặp nhau không thể dấu các tu sĩ ở đây được, dĩ nhiên, nhưng họ bị cô lập nên họ không thể nói với ai. Chỉ có bề trên của tu viện thường đến Kingsbridge, và Philip yêu cầu ông giữ bí mật.
Ông và Francis đến đây buổi sáng hôm nay, và mặc dù họ không thể làm như thể cuộc gặp mặt là một sự tình cờ, họ cố gắng làm ra vẻ như nó chỉ là một cuộc gặp gỡ riêng tư. Họ cùng tham dự thánh lễ, ăn chung với các tu sĩ. Bây giờ mới là cơ hội cho họ gặp riêng nhau.
Francis chờ ông trong nhà hội. Ông ngồi trên ghế đá trước bức tường. Philip chẳng bao giờ nhìn thấy hình mình – trong tu viện không có gương soi – vì thế ông đã đo sự già nua của ông qua những thay đổi trong em ông, người chỉ ít hơn ông hai tuổi. Francis ở lứa tuổi bốn mươi hai, có một vài sợi tóc bạc trên mái tóc đen của ông, và những nết nhăn xung quanh đôi mắt xanh sáng của ông. Ông mập nơi cổ và bụng hơn khi Philip gặp ông lần trước. Mái tóc của tôi có lẽ điểm trắng nhiều hơn và tôi ốm hơn, Philip nghĩ, nhưng tôi tự hỏi ai trong chúng tôi có nhiều nét lo nghĩ hơn?
Ông ngồi xuống bên cạnh Francis và nhìn vào căn phòng bát giác trống rỗng. Francis hỏi: “Mọi chuyện ra sao?”
“Những người hoang dã lại đang thống trị,” Philip nói. “Tu viện không còn tiền, chúng tôi đã ngừng xây dựng nhà thờ chính tòa, Kingsbridge trên đường suy thoái, một nửa quận sắp chết đói và việc du hành không còn an toàn.”
Francis gật đầu. “Mọi chuyện xẩy ra như thế trên toàn nước Anh.”
“Có lẽ những người hoang dã luôn luôn thống trị,” Philip buồn rầu nói. “Có lẽ lòng tham lam lớn hơn sự khôn ngoan trong các hội đồng của người có thế lực; có lẽ sự sợ hãi thắng lòng từ bi trong đầu của những người có kiếm trong tay.”
“Thông thường anh không bi quan như thế.”
“Thị trấn vừa bị nhóm người sống ngoài vòng pháp luật tấn công một vài tuần trước. Thật đáng thương: khi cư dân giết một vài người trong số họ, họ quay lại chiến đấu lẫn nhau. Nhưng khi họ rút lui, những người trẻ đã chạy theo đám người khốn khổ này và giết tất cả những ai họ bắt được. Nó thật kinh tởm.”
Francis lắc đầu. “Thật khó hiểu.”
“Anh nghĩ anh hiểu điều đó. Những người sống bên ngoài vòng pháp luật đã làm họ sợ hãi và họ muốn xua đuổi sự sợ hãi này bằng cách làm cho những người đã làm họ sợ hãi phải đổ máu. Anh đã nhìn thấy điều đó trong mắt những người đã giết bố mẹ chúng ta. Họ giết vì sợ hãi. Nhưng làm cách nào để giải thoát họ khỏi sự sợ hãi này?”
Francis thở dài. “Hòa bình, công lý, thịnh vượng… Những thứ khó mà đạt được.”
Philip gật đầu. “Đúng. Nhưng trở lại với vấn đề của chúng ta. Em có chuyện gì không?”
“Em đang làm việc cho con của Nữ hoàng Maud. Tên ông là Henry.”
Philip đã nghe nói về Henry này. “Ông ấy là người ra sao?”
“Ông là một người trẻ thông minh và quả quyết. Bố ông đã chết, nên ông trở thành bá tước của Anjou. Ông cũng là bá tước của Normandy, bởi vì ông là cháu lớn nhất của Henry già, người đã là vua của nước Anh và bá tước Normandy. Và ông đã kết hôn với Eleanor vùng Aquitaine, vì thế bây giờ ông cũng là công tước của Aquitaine.”
“Ông cai trị nhiều vùng lãnh thổ hơn vua nước Pháp.”
“Đúng như vậy.”
“Nhưng ông ra sao?”
“Có trình độ, chịu khó, nhanh nhẹn, băn khoăn và ý chí mạnh mẽ. Ông có một tính khí đáng sợ.”
“Một đôi khi anh muốn có một tánh khí đáng sợ,” Philip nói. “Nó làm người ta sợ. Nhưng mọi người biết anh luôn trầm tĩnh, vì thế người ta không nhanh nhẹn vâng lời anh như người ta vâng lời một tu viện trưởng có thể nổi giận bất cứ lúc nào.”
Francis cười. “Anh hãy giữ mình như vậy,” ông nói. Ông lại nghiêm trang. “Henry đã khiến em nhận ra tầm quan trọng của nhân cách một vị vua. Hãy nhìn vào Stephen: sự phán đoán của ông chật hẹp; ông được chỉ định cho những giai đoạn bùng nổ chớp nhoáng, rồi ông bỏ cuộc; ông dũng cảm đến nỗi điên dại và luôn tha thứ cho kẻ thù của mình. Những người phản bội ông chỉ phải mạo hiểm rất ít vì họ có thể trông chờ vào lòng thương xót của ông. Kết quả là ông đã chiến đấu không thành công trong mười tám năm để cai trị một mảnh đất trước đây là vương quốc thống nhất khi ông nắm quyền. Henry đã kiểm soát nhiều hơn về tập thể các vùng đất thuộc về nam tước và bá tước hơn là Stephen đã kiểm soát.
Philip thắc mắc về một ý tưởng. “Tại sao Henry lại sai em đến nước Anh?” ông hỏi.
“Để khảo sát nước Anh.”
“Em đã thấy gì?”
“Đó là vô kỷ luật và đói kém, tan nát bởi bão tố và tàn phá bởi chiến tranh.”
Philip trầm tư gật đầu. Henry trẻ là công tước của Normandy bởi vì ông là người con trai lớn nhất của Maud, và bà lại là người con hợp pháp duy nhất của vua Henry, người đã là công tước của Normandy và vua của nước Anh.
Do nguồn gốc này Henry trẻ cũng có quyền đòi được trao quyền làm vua nước Anh.
Mẹ của ông cũng có cùng đòi hỏi đó, và đã bị phản đố bởi vì bà là một người phụ nữ và chồng bà là Angevin. Nhưng Henry không những là người đàn ông mà ông còn có lợi điểm là thuộc về Norman (phía mẹ ông) và Angevin (phía bố ông.)
Philip nói: “Henry có muốn làm vua nước Anh không?”
“Nó tùy thuộc vào báo cáo của em,” Francis nói.
“Và em sẽ nói gì với ông ấy?”
“Bây giờ là thời điểm tốt nhất.”
“Tạ ơn Chúa,” Philip nói.
 
 
II
 
Trên đường đến lâu đài Giám mục Waleran, Bá tước William dừng lại ở nhà máy xay Cowford của cậu. Chủ nhà máy xay, một người đàn ông trung niên khắc khổ tên là Wulfric, có quyền xay hạt cho bẩy làng quanh vùng. Cứ mỗi hai mươi bao hạt, ông giữ lại hai bao: một cho ông và một cho William.
William đến đó để thu phí của cậu. Thường thường cậu không tự thu phí, nhưng đây không phải là thời kỳ bình thường. Ngày nay ông phải có một đội quân vũ trang hộ tống mỗi xe chở bột mì hay những gì có thể ăn được. Để tiết kiệm người, William có thói quen đem theo một hay hai xe hàng với cậu mỗi khi cậu đi đâu với đoàn hiệp sĩ của cậu và thu thập những gì có thể.
Sự gia tăng về tội phạm của những người sống bên ngoài vòng pháp luật là một hậu quả đáng tiếc từ chính sách cứng rắn của cậu với những người thuê đất mà không có tiền trả. Những người không có đất trở thành trộm cướp. Nói chung, trong việc trộm cướp họ cũng không thành công hơn việc đồng áng, và William ước mong hầu hết họ sẽ chết trong mùa đông. Lúc đầu ước vọng của cậu dường như đúng: những người sống ngoài vòng pháp luật cướp những người đi một mình, những người chẳng có gì để cướp, hoặc họ tấn công một cách vô tổ chức những mục tiêu có phòng ngự. Sau này chiến thuật của họ đã tiến bộ. Bây giờ họ tấn công với số lượng người gấp đôi số người phòng thủ. Họ đến khi chuồng nuôi đầy thú, một dấu hiệu tỏ ra rằng họ đã trinh sát cẩn thận. Cuộc tấn công của họ bất ngờ và nhanh chóng, và sự tuyệt vọng cho họ sự can đảm. Tuy nhiên họ không ở lại để chiến đấu, nhưng mỗi người chạy trốn sau khi họ có được trong tay một con cừu, một miếng thịt heo hun khói, một miếng pho mát, một túi bột hay một bị tiền. Việc đuổi theo họ không có kết quả, vì họ biến vào rừng, phân tán và chạy theo mọi hướng. Một người nào đó ra lệnh cho họ và họ làm như vậy, như William được biết.
Sự thành công của những người sống ngoài vòng pháp luật là một sự tủi hổ cho William. Nó làm cậu giống như một tên hề, một người không thể kiểm soát được lãnh địa của mình. Tình trạng trở nên tồi tệ hơn vì người sống ngoài vòng pháp luật ít khi cướp của ai khác. Dường như họ cố tình thách thức cậu. William không ghét gì hơn là cảm giác bị mọi người cười sau lưng cậu. Cậu đã dùng cả đời để ép buộc mọi người tôn trọng cậu và gia đình cậu, và những người sống ngoài vòng pháp luật này đã phá hủy mọi công trình của cậu.
Đặc biệt William tức giận về những gì mọi người nói sau lưng cậu như: “cho đáng tội vì cậu đã đối xử khắc nghiệt với những người thuê của cậu và bây giờ họ trả thù cậu và cậu phải gánh lấy.” Những câu nói ấy làm cậu cay đắng.
Dân làng Cowford kinh hoàng và sợ hãi khi William và các hiệp sĩ cưỡi ngựa vào. William quắc mắt nhìn những khuôn mặt gầy gò, sợ hãi nhìn ra từ sau cánh cửa rồi vội vã biến mất. Những người này đã gửi cha xứ của họ đến xin được phép tự xay hạt của họ trong năm nay vì họ không có khả năng trả một phần mười cho người xay hạt. William đã muốn kéo lưỡi vị linh mục này ra vì sự hỗn xược này.
Trời lạnh và xung quanh hồ nhà máy xay có băng đá. Bánh xe nước ngưng chạy và viên đá xay đứng yên. Một phụ nữ đi ra khỏi nhà ở đàng sau nhà máy. William lên cơn thèm khát khi nhìn thấy cô. Cô chừng hai mươi tuổi, có khuôn mặt đẹp và một vầng mây của những sợi tóc đen. Mặc dù nạn đói, cô có bộ ngực đẫy đà và bắp đùi mạnh mẽ. Khi mới xuất hiện cô có một cái nhìn vô lễ, nhưng ánh mắt các hiệp sĩ của William làm cái nhìn đó biến đi khỏi khuôn mặt cô và cô cúi nhanh vào bên trong.
“Cô ấy không thích chúng ta,” Walter nói. “Cô phải thấy Gervase.” Nó là một câu khôi hài cũ rích, nhưng mọi người cười.
Họ cột ngựa. Đây không phải cùng nhóm mà William đã quy tụ lại quanh cậu khi cuộc nội chiến mới bắt đầu. Walter vẫn còn ở với cậu, dĩ nhiên, và Ugly Gervase cùng với Hugh Axe; nhưng Gilbert đã chết trong cuộc đánh nhau với các thợ mỏ, và Guillaume đã thay thế ông; và Miles đã mất một tay trong cuộc đọ kiếm về cờ bạc trong một quán bia ở Norwich, và nhóm có thêm Louis. Họ không còn là những chàng trai, nhưng họ ăn nói và hành động giống như xưa, cười nói và ăn uống, cờ bạc và đĩ điếm. William không còn đếm được bao nhiêu quán rượu họ đã tàn phá, bao nhiêu người Do Thái họ đã hành hạ và bao nhiêu trinh nữ họ đã phá trinh.
Người chủ nhà máy xay đi ra. Không nghi ngờ gì là nét mặt chua chát của ông là kết quả của những tháng năm không được ưa chuộng. Cái nhìn cáu kỉnh của ông được che phủ bởi sự lo lắng. William thích những người trở nên lo lắng khi cậu nhìn họ.
“Tôi không biết ông có một người con gái, Wulfric,” William nói với cái nhìn dâm dật. “Ông đã dấu cô, không cho tôi biết.”
“Đó là Maggie, vợ tôi,” ông nói.
“Khốn nạn. Vợ ông là một bà già, tôi còn nhớ bà ấy.”
“Vợ May của tôi đã chết năm trước, thưa ngài. Tôi mới cưới vợ lần nữa.”
“Ông, con chó già bẩn thỉu!” William nói với nụ cười toe toét. “Cô ấy phải trẻ hơn ông ba mươi tuổi.”
“Hai mươi lăm –“
“Như thế đủ rồi. Bột mì của tôi đâu? Cứ hai mươi bao, tôi có một bao!”
“Tất cả ở đây, thưa ngài. Xin theo tôi.”
Đường dẫn đến nhà máy xay phải đi qua nhà. William và các hiệp sĩ theo Wulfric vào trong một phòng đơn. Người vợ trẻ, mới cưới của chủ nhà máy xay quỳ trước đống lửa, đang đẩy củi vào. Khi cô cúi xuống, áo dài căng lên phần sau. Hông cô có thịt, William quan sát. Dĩ nhiên, vợ của nhà máy xay phải là người cuối cùng bị đói trong nạn đói.
William ngừng lại nhìn vào mông cô. Các hiệp sĩ cười và chủ nhà máy xay lo âu. Cô gái nhìn quanh, nhận ra mọi người đang nhìn cô, và cô đứng lên, che thân trong lúng túng.
William nháy mắt với cô và nói: “Hãy đem cho chúng tôi ít bia, Maggie – chúng tôi là những đàn ông khát.”
Họ đi qua cửa đến nhà máy xay. Bột được đóng trong bao tải xếp xung quanh sân đập lúa. Không có nhiều. Thông thường các bao tải xếp cao hơn đầu người. “Tất cả chỉ có vậy thôi sao?” William hỏi.
“Năm nay thu hoạch kém, thưa ngài,” Wulfric lo lắng nói.
“Phần của tôi đâu?”
“Đây, thưa ngài.” Ông chỉ vào đống có tám hay chín bao.
“Cái gì?” William đỏ mặt. “Đó là của tôi? Tôi đem theo hai xe bò, và ông cho tôi chỉ có thế?”
Khuôn mặt Wulfric buồn bã hơn. “Tôi rất tiếc, thưa ngài.”
William đếm chúng. “Chỉ có chín bao!”
“Đó là tất cả,” Wulfric nói. Ông sắp khóc. “Ông hãy nhìn đống của tôi bên cạnh, nó cũng giống như vậy –“
“Con chó nói dối,” William tức giận nói. “Ông đã bán nó –“
“Không, thưa ngài,” Wulfric xác định. “Đó là tất cả những gì chúng ta có.”
Maggie đi ra khỏi cửa với sáu ly bia bằng sành trên một cái khay. Cô giơ khay cho các hiệp sĩ. Mỗi người lấy một ly và uống như thèm khát. William làm ngơ cô. Cậu quá bị tổn thương để có thể uống. Cô đứng chờ đợi với một ly bia còn lại trên khay.
“Còn những cài này là gì?” William nói với Wulfric, chỉ tay vào đống bao tải còn lại, chừng hai mươi lăm hay ba mươi xếp xung quanh tường.
“Đang chờ đem đi, thưa ngài – Ông có thể thấy dấu hiệu của chủ nó trên bao…”
Nó là sự thật: mỗi bao có ghi dấu một mẫu tự hay một biểu tượng. Nó có thể là một thủ đoạn, dĩ nhiên, nhưng William không có cách nào tìm ra sự thật. Cậu điên tiết. Nhưng đó không phải là cách cậu chấp nhận tình trạng như thế này. “Tôi không tin ông,” cậu nói. “Ông đã ăn cướp của tôi.”
Wulfric trân trọng quả quyết, mặc dù giọng nói của ông hơi run. “Tôi là người trung thực, thưa ngài.”
“Chưa bao giờ có người chủ nhà máy xay nào trung thực.”
“Thưa ngài –.“ Wulfric nuốt nước bọt. “Thưa ngài, tôi chưa bao giờ lừa dối ngài một hạt lúa –“
“Tôi cá là ông đã ăn cướp sau lưng tôi.”
Mồ hôi rớt trên khuôn mặt Wulfric mặc dù trời lạnh. Ông lau trán bằng cánh tay áo. “Tôi thề có trời –.“
“Câm miệng lại.”
Wulfric im lặng.
William càng tức điên hơn nhưng cậu vẫn chưa biết phải làm gì. Cậu muốn cho Wulfric một sự kinh hãi, có lẽ để Walter đánh ông bằng găng tay xích, hay lấy một số bột của Wulfric… Rồi mắt cậu nhìn vào Maggie vẫn cầm chiếc khay với một ly bia còn lại trên đó, khuôn mặt đẹp của cô cứng đơ vì sợ, bộ ngực lớn trẻ trung của cô căng lên dưới lớp áo dài dính đầy bột; và cậu nghĩ ra một hình phạt hoàn hảo cho Wulfric. “Túm lấy vợ ông ấy,” cậu nói với Walter bằng một góc miệng. Rồi cậu nói với Wulfric: “Tôi sẽ cho ông một bài học.”
Maggie thấy Walte đi về phía mình nhưng nó đã quá trễ để trốn thoát. Khi cô quay đi, Walter nắm lấy tay cô và kéo. Khi cô bị kéo lại, chiếc khay rơi và bia đổ trên nền nhà. Walter quặt hai cánh tay cô ra phía sau và giữ cô lại. Cô run lên vì sợ.
Wulfric nói bằng giọng hoảng hốt: “Đừng, làm ơn thả cô ấy ra!”
William gật đầu hài lòng. Wulfric sẽ nhìn thấy người vợ trẻ của ông bị nhiều người đàn ông hãm hiếp và ông sẽ bất lực không thể cứu cô. Lần khác ông sẽ có đủ hạt để làm hài lòng chủ ông.
William nói: “Vợ ông mập lên vì bánh làm bởi bột ăn cắp, Wulfric, trong khi chúng tôi phải thắt lưng buộc bụng. Chúng ta hãy xem cô ta mập như thế nào, phải không?” Cậu gật đầu với Walter.
Walter nắm cổ áo dài của Maggie và kéo mạnh xuống. Chiếc áo rách và rơi xuống. Bên dưới cô mặc một áo lụa dài đến đầu gối. Bộ ngực cô phập phồng khi cô thở hổn hển vì sợ. William đứng trước mặt cô. Walter xoắn tay cô mạnh hơn, vì thế mà cô cong lưng lại trong đau đớn, và ngực cô lại vươn ra hơn. William nhìn Wulfric, rồi đưa tay lên ngực cô và bóp. Chúng mềm mại và nặng trong tay cậu.
Wulfric bước một bước về phía trước và nói: “Đồ quỷ -“
“Giữ ông ấy,” William nói to, và Louis tóm người thợ xay bằng cả hai tay và giữ ông ta lại.
William xé áo lót của cô gái.
Cổ ông khô đi khi ông nhìn thấy thân thể trắng, gợi cảm của cô.
Wulfric nói: “Đừng, xin đừng –“
Sự thèm khát của William chỗi dậy. “Đè cô ấy xuống,” cậu nói.
Maggie bắt đầu la hét.
William tháo dây đeo kiếm và vất nó xuống đất, trong khi các hiệp sĩ giữ tay và chân cô. Cô không thể chống lại bốn người đàn ông lực lưỡng, nhưng cô luôn quằn quoại và la hét. William thích điều đó. Ngực cô lúc lắc khi cô chuyển động, và đùi cô mở ra đóng lại, luân phiên ẩn hiện giới tính của cô. Bốn hiệp sĩ ghìm cô xuống sân đập lúa.
William quỳ giữa chân cô và kéo cao áo dài của cậu. Cậu nhìn chồng cô. Wulfric tuyệt vọng. Ông nhìn kinh hoàng và lẩm bẩm lời cầu xin không nghe thấy được vì tiếng gào thét. William thích thú thời điểm này: người phụ nữ sợ hãi, các hiệp sĩ giữ chặt cô xuống và người chồng phải chứng kiến.
Rồi đôi mắt của Wulfric ngước nhìn vào hướng khác.
William cảm giác ngay sự nguy hiểm. Mọi người đang nhìn vào cậu và cô gái. Điều duy nhất có thể chuyển sự chú ý của Wulfric là khả năng có một cuộc giải cứu. William quay đầu nhìn về hướng cửa.
Vào lúc đó một vật gì nặng đập mạnh vào đầu cậu.
Cậu gào lên đau đớn và ngã trên mình cô gái. Mặt cậu đập lên mặt cô. Bất ngờ cậu nghe thấy tiếng người la lớn, nhiều người. Trong khóe mắt cậu thấy Walter ngã xuống như thể ông cũng bị đập. Các hiệp sĩ buông Maggie. William nhìn vào khuôn mặt cô và đọc được sự kinh hoàng và sự bớt căng thẳng trên đó. Cô luồn lách ra khỏi cậu. Cậu để cô đi và lăn nhanh ra.
Điều đầu tiên cậu nhìn thấy là một người hoang dã với một cây rìu bằng gỗ, và cậu nghĩ: Trời ơi! Ai thế? Có phải ông là bố của cô gái không? Cậu nhìn thấy Guillaume chỗi dậy và quay lại. Ngay vài giây sau chiếc rìu chém xuống cổ không được bảo vệ của Guillaume, lưỡi sắc của nó cắm sâu vào thịt, Guillaume ngã xuống William. Máu ông bắn đầy lên áo dài William.
William đẩy xác chết ra khỏi cậu. Khi cậu có thể nhìn lên lần nữa, cậu thấy nhà máy xay đã bị xâm chiếm bởi đám người hoang dã, bẩn thỉu được trang bị bằng gậy và rìu. Họ rất đông. Cậu nhận ra cậu đang bị nguy hiểm. Có phải dân làng đến cứu Maggie? Làm sao họ dám? Trước khi mặt trời xuống, một vài người sẽ bị treo cổ. Giận dữ, cậu chỗi dậy và rờ tìm thanh kiếm.
Cậu không có kiếm. Cậu đã bỏ đai kiếm để hãm hiếp cô gái.
Hugh Axe, Gervase và Louis đang đánh nhau kịch liệt chống lại nhóm người trông giống như ăn xin. Có nhiều nông dân chết trên mặt đất, dầu vậy ba hiệp sĩ đang bị đẩy lùi dần ra khỏi sân đạp lúa. William nhìn thấy Maggie trần truồng, vẫn đang la hét và cố gắng chạy ra cửa. Và ngay cả trong sự hoảng loạn và sợ hãi, phía sau trắng trẻo và tròn trĩnh của cô cũng gợi cho William nỗi thèm khát tiếc rẻ. Rồi cậu nhìn thấy Wulfric đánh nhau với một số người tấn công. Tại sao người chủ nhà máy xay lại đánh nhau với người đã cứu vợ ông? Chuyện gì xẩy ra đây?
Hoang mang, William nhìn quanh tìm bao kiếm. Nó ở trên mặt đất gần chân cậu. Cậu nhặt lên và kéo kiếm ra, rồi lui lại ba bước, tách ra khỏi đám đánh nhau một lúc. Nhìn qua cuộc đánh nhau, cậu thấy hầu hết những người tấn công không đánh nhau gì cả - họ nhặt các bao bột và trốn đi. William bắt đầu hiểu. Đây không phải là cuộc giải cứu do dân làng tổ chức. Đây là cuộc cướp bóc từ bên ngoài. Họ không quan tâm đến Maggie, và họ cũng không biết William và các hiệp sĩ đang ở trong nhà máy. Những gì họ muốn là cướp nhà máy xay và ăn cắp bột của William.
Rõ ràng họ là những người sống ngoài vòng pháp luật.
Cậu nóng mặt. Đây là cơ hội để tấn công lại những người đã khủng bố lãnh địa và ăn cắp chuồng thú vật của cậu.
Có ít nhất hai mươi người tấn công, đông hơn số hiệp sĩ của William. Cậu ngạc nhiên về sự dũng cảm của họ. Thông thường các nông dân nhút nhát như đàn gà trước nhóm các hiệp sĩ, mặc dù số người họ đông gấp đôi hay gấp mười. Nhưng những người này chiến đấu mạnh mẽ, và không chùn bước khi một người trong số họ ngã xuống. Họ dường như sẵn sàng chết khi cần thiết. Có lẽ vì dầu sao họ cũng sẽ chết, chết vì nạn đói; họ chỉ sống sót khi họ cướp được những bao bột này.
Louis đang đánh nhau với hai người thì một người thứ ba đến từ đàng sau và nện cậu bằng chiếc búa có đầu bằng sắt của thợ mộc. Luois ngã xuống và nằm bất động. Người đàn ông bỏ rơi chiếc búa và nhặt thanh kiếm của Louis. Bây giờ chỉ còn hai hiệp sĩ chống trả với hai mươi người tội phạm. Nhưng Walter đã bình phục lại sau cú đánh vào đầu và rút gươm ra, gia nhập cuộc cận chiến. William rút vũ khí ra và tham gia vào.
Bốn người họ tạo thành đội chiến mãnh liệt. Người sống ngoài vòng pháp luật bị đẩy lui, tuyệt vọng dùng những gậy gỗ và búa rìu chống lại các thanh kiếm lóng lánh. William bắt đầu nghĩ rằng họ sẽ mất tinh thần chiến đấu và bỏ chạy trong rối loạn. Rồi một người hô lớn: “Ngài bá tước hợp pháp!”
Nó như một hiệu lệnh ra trận. Những người khác nghe tiếng kêu đó và người sống ngoài vòng pháp luật chiến đấu mãnh liệt hơn. Lời tung hô: “Bá tước hợp pháp – bá tước hợp pháp” đập mạnh vào trái tim William, ngay cả bây giờ, lúc cậu đang phải chiến đấu để cứu mạng cậu. Nó có nghĩa rằng người đang chỉ huy đội quân những tội phạm này đã nhắm tới tước vị của William. Cậu chiến đấu mạnh mẽ hơn như thể cuộc chiến này quyết định tương lai của lãnh địa.
Chỉ có một nửa những tội phạm thực sự chiến đấu chống lại các hiệp sĩ, William nhận ra. Những người còn lại khuân vác bột. Trận chiến diễn ra trong một chiến thuật ổn định: đánh và đỡ, đâm và né tránh. Như những người lính, những người biết rằng cuộc rút lui sẽ xẩy ra chẳng bao lâu nữa, những tội phạm bắt đầu chiến đấu theo phong cách phòng thủ thận trọng.
Đàng sau cuộc chiến của những tội phạm, những người khác khuân nốt những bao bột cuối cùng ra khỏi nhà máy. Những tội phạm rút lui qua đường cửa thông từ ngoài sân đập lúa vào trong nhà. William nhận ra dù bất cứ điều gì xẩy ra, các tội phạm cũng đã khuân đi hầu hết số bột. Trong thời gian ngắn, toàn vùng sẽ biết họ đã cướp nó ngay trước mắt cậu. Cậu sẽ trở thành trò cười. Ý nghĩ đó làm cậu điên lên đến nỗi cậu đánh mạnh vào đối thủ của cậu và bằng một cú đánh cổ điển cậu đâm qua tim ông.
Rồi một người tội phạm, bằng một cú đâm bất ngờ, đã đánh trúng vào vai phải của Hugh và loại ông ra khỏi trận chiến. Bây giờ hai tội phạm trên đường ra cửa chiến đấu với ba hiệp sĩ còn sống sót. Điều đó tự nó đã đủ là một sự sỉ nhục; nhưng rồi, bằng một cử chỉ ngạo mạn, một người tội phạm vẫy tay người khác đi ra. Người đàn ông biến mất và người tội phạm cuối cùng lùi lại một khoảng cách, vào trong phòng đơn của chủ nhà máy.
Chỉ có một hiệp sĩ có thể đứng ở đường đi và đánh nhau với người tội phạm. William tiến lên, gạt Walter và Gervase sang hai bên: cậu muốn tự mình chiến đấu với người này. Khi hai thanh kiếm đụng nhau, William nhận ra ngay người này không phải là một nông dân vô sản: người ấy là một tay kiếm mạnh mẽ như William. Lần đầu tiên cậu nhìn vào mặt người tội phạm; và cú sốc quá mạnh đến nỗi cậu gần đánh rơi thanh kiếm.
Địch thủ của cậu là Richard thành Kingsbridge.
Khuôn mặt Richard bừng lên vì hận thù. William có thể nhìn thấy vết sẹo trên tai cậu. William sợ sức mạnh của sự thù hận trong Richard hơn là lưỡi kiếm của cậu. William nghĩ cậu đã thực sự tiêu hủy Richard, nhưng bây giờ Richard trở lại, đứng đầu đội quân rách rưới và có thể biến William thành kẻ ngu ngốc.
Richard lợi dụng sự kinh hoàng của William và tấn công mạnh hơn. William tránh cú đánh. Cậu dơ cao thanh gươm, đỡ một cú đánh và nhẩy lui lại. Richard ép về phía trước, nhưng bây giờ William được che chở bởi đường đi hẹp, Richard chỉ có thể đâm cậu mà không thể chém xuống. Tuy nhiên Richard đã đẩy lui William xa hơn, cho tới khi William ra tới sân nhà máy xay và cậu ở ngưỡng cửa. Nơi đó cuộc chiến lại thay đổi cục diện vì Walter và Gervase lại có thể tham gia. Dưới áp lực của ba người, cậu lùi lại. Khi cậu lui vào lại phía đường đi hẹp, Walter và Gervase bị loại ra ngoài và bây giờ chỉ còn mình William đánh nhau với cậu.
William nhận ra rằng Richard ở trong một tình trạng khó xử. Bao lâu cậu chiếm được mặt sân, cậu sẽ phải chiến đấu với ba người. Khi William mệt, cậu có thể nhường cho Walter. Nó gần như chắc chắn là Richard không thể một mình chống lại ba người một thời gian lâu. Cậu ở trong một cuộc chiến vô vọng. Có lẽ hôm nay William sẽ không kết thúc trong sỉ nhục. Có lẽ William sẽ giết được kẻ thù lâu đời nhất của cậu.
Richard có lẽ cũng nghĩ như vậy và đã đi đến cùng kết luận. Tuy nhiên không có dấu hiệu gì về sự mỏi mệt cũng như nản chí của cậu. Cậu nhìn William với một nụ cười man rợ làm William cảm thấy sợ và cậu nhẩy về phía trước với một đòn đâm dài. William né tránh và vấp ngã. Walter lao về phía trước, bảo vệ William trước lưỡi kiếm kết liễu ân huệ - nhưng thay vì tiến lên, Richard quay gót và chạy trốn.
William đứng lên và Walter đụng vào cậu, trong khi Gervase tìm cách lách qua họ. Phải mất một lúc lâu ba người mới bình tĩnh lại, nhưng trong khoảng thời gian đó Richard đã băng qua căn phòng nhỏ, chay ra ngoài và đóng cửa lại. William chạy theo và đẩy cửa mở ra. Những người sống ngoài vòng pháp luật đang đào thoát – và lại một nhục nhã nữa cho William, họ trốn chạy bằng những con ngựa của các hiệp sĩ. Khi William ra khỏi nhà, cậu nhìn thấy Richard trên lưng con ngựa chiến của cậu, một con ngựa chiến tuyệt vời mà cậu đã mất nhiều tiền để mua nó. Rõ ràng con ngựa được cởi trói và đã được chuẩn bị trước. William cảm thấy nhục nhã khi nhớ lại đây là lần thứ hai Richard ăn cắp ngựa chiến của cậu. Richard đạp vào hông nó, nó ngẩng đầu lên – nó không quen với người lạ - nhưng Richard là một kỵ sĩ giỏi và cậu làm nó đứng yên. Trong lúc đó William chạy về phía trước và lao thanh kiếm vào Richard; nhưng con ngựa chồm lên và mũi kiếm chỉ đâm vào yên ngựa bằng gỗ. Sau đó con ngựa phi nước đại xuống con đường làng, theo sau những người sống ngoài vòng pháp luật đang tẩu thoát.
William nhìn theo họ và mong có thể treo cổ họ.
Bá tước hợp pháp, cậu nghĩ. Bá tước hợp pháp.
Cậu nhìn quanh. Walter và Gervase đứng đàng sau cậu. Hugh và Luois bị thương, cậu không biết nặng nhẹ ra sao, và Guillaume đã chết, máu ông bắn lên mặt áo dài trước của William. William hoàn toàn bị hạ nhục. Cậu khó có thể ngẩng đầu lên.
May mắn là ngôi làng hoang vắng: nông dân đã chạy trốn, không muốn nhìn thấy cơn thịnh nộ của William. Người xay lúa và vợ ông cũng đã biến mất, dĩ nhiên. Những tội phạm đã lấy hết ngựa của các hiệp sĩ, chỉ để lại hai xe và những con bò.
William nhìn Walter. “Ông có nhìn thấy người cuối cùng là ai không?”
“Có.”
Walter đã quen càng ít nói bao nhiêu có thể khi chủ ông trong cơn tức giận.
William nói: “Đó là Richard thành Kingsbridge.”
Walter gật đầu.
“Và họ gọi cậu ấy là bá tước hợp pháp,” William kết thúc.
Walter không nói gì.
William đi ngược lại qua căn nhà và vào nhà máy xay. Hugh đã ngồi dậy, tay trái cậu giữ vai phải. Cậu trông xanh xao.
William nói: “Cậu cảm thấy thế nào?”
“Không có gì,” Hugh nói. “Những người này là ai?”
“Những người sống ngoài vòng pháp luật,” William nói. Cậu nhìn quanh. Có bẩy hay tám người tội phạm nằm chết hay bị thương trên mặt đất. Cậu phát hiện ra Louis nằm trên mặt đất với đôi mắt mở. Lúc đầu cậu nghĩ ông đã chết, rồi Louis chớp mắt.
William nói: “Louis.”
Louis ngẩng đầu lên, nhưng ông nhìn ngơ ngác. Cậu ấy chưa bình phục.
William nói: “Hugh, giúp Louis lên một xe bò. Walter đem xác Guillaume lên xe khác.” Cậu để họ lại và đi ra.
Không dân làng nào có ngựa, trừ chủ nhà máy xay. Con ngựa nhỏ gặm những cọng cỏ thưa thớt bên bờ sông. William tìm thấy yên ngựa và đóng lên mình nó.
Một lúc sau cậu cưỡi ngựa ra khỏi Cowford với Walter và Gervase lái hai xe bò khác.
Trên đường đến lâu đài Giám mục Waleran cơn giận của cậu không bớt đi. Thực ra, khi cậu ngẫm nghĩ về những gì cậu đã trải qua, cậu càng giận dữ hơn. Nó đã đủ xấu khi người sống ngoài vòng pháp luật có thể trêu chọc cậu. Nó tồi tệ hơn khi họ được lãnh đạo bởi Richard, kẻ thù lâu đời của cậu. Và nó càng không thể chấp nhận được vì họ đã gọi Richard là bá tước hợp pháp. Nếu họ không bị dập tắt một cách dứt khoát, chẳng bao lâu sau Richard sẽ dùng họ để tấn công trực tiếp vào William. Nó hoàn toàn bất hợp pháp nếu Richard chiếm lại lãnh địa theo cách đó, dĩ nhiên; nhưng William có cảm giác rằng nếu cậu khiếu nại cuộc tấn công bất hợp pháp đó, cũng chẳng ai quan tâm đến. William nhận ra vấn đề tồi tệ nhất của cậu bây giờ không phải là cậu đã bị phục kích, đã bị ăn cướp bởi những người tội phạm và chẳng bao lâu nữa toàn vùng sẽ cười về sự sỉ nhục của cậu, mà là quyền hành của cậu trên lãnh địa đang bị đe dọa trầm trọng.
Cậu phải giết Richard, dĩ nhiên. Vấn đề là làm sao tìm ra cậu ấy. Trên con đường đến lâu đài cậu đã ngẫm nghĩ về vấn đề đó; và khi cậu đến nơi cậu biết rằng Giám mục Waleran có chìa khóa mở vấn đề đó.
Họ tiến vào lâu đài giống như một đám rước hề ở hội chợ: bá tước trên lưng ngựa con và hiệp sĩ lái xe bò. William ra lệnh gay gắt cho các nhân viên của giám mục, yêu cầu họ tìm bác sĩ cho Hugh và Loius và người khác tìm linh mục để cầu nguyện cho linh hồn Guillaume. Gervase và Walter vào bếp tìm bia. William đi vào khu nhà ở và được dẫn ngay vào khu riêng của giám mục. William ghét phải hỏi Waleran bất cứ chuyện gì, nhưng cậu cần sự giúp đỡ của Waleran để tìm ra nơi ở của Richard.
Giám mục đang đọc một cuộn số liệu về tài chánh, một danh sách dài vô tận về những con số. Ông nhìn lên và thấy sự tức giận trên nét mặt William. “Chuyện gì vậy?” ông hỏi bằng giọng thích thú làm cho William tức điên.
William nghiến răng. “Tôi phát hiện ra ai là người đã tổ chức và điều hành những người sống ngoài vòng pháp luật này rồi.”
Waleran nhướng mày.
“Đó là Richard thành Kingsbridge.”
“À!” Waleran gật đầu. “Dĩ nhiên. Nó có lý.”
“Nó nguy hiểm,” William nói giận dữ. Cậu ghét khi Waleran lạnh lùng và trầm tư về những vấn đề. “Họ gọi cậu ấy là ‘Bá tước hợp pháp.’” Cậu chỉ một ngón tay vào Waleran. “Chắc chắn rằng ông không muốn gia đình ấy chiếm lại lãnh địa này – họ ghét ông và họ là bạn của Tu viện trưởng Philip, kẻ thù lâu đời của ông.”
“Đúng, hãy bình tĩnh,” Waleran nói nhún nhường. “Cậu hoàn toàn đúng. Tôi không muốn Richard cai trị lãnh địa.”
“William ngồi xuống. Cơ thể cậu bắt đầu đau. Những ngày này cậu cảm thấy hậu quả của cuộc chiến, một hậu quả mà trước đây cậu không trải qua. Cơ bắp cậu mệt mỏi, tay chân cậu đau và chỗ cậu bị đánh hay ngã trở nên bầm tím. Tôi chỉ mới ba mươi bẩy tuổi, cậu nghĩ; có phải tuổi già đã bắt đầu? Cậu nói: “Tôi phải giết Richard. Khi cậu ấy không còn nữa, đám người sống ngoài vòng pháp luật chỉ còn là một đám đông ồn ào bất lực.”
“Tôi đồng ý như thế”
“Giết cậu ấy thì dễ. Vấn đề là tìm ra cậu ấy. Nhưng ông có thể giúp tôi trong việc này.”
Waleran dùng ngón tay cái cọ vào mũi nhọn của ông. “Tôi không biết bằng cách nào.”
“Nghe đây. Nếu họ có tổ chức, họ phải tập trung ở một chỗ nào đó.”
“Tôi không hiểu cậu nói gì. Họ ở trong rừng.”
“Bình thường ông không thể tìm thấy người sống ngoài vòng pháp luật trong rừng, vì họ tản mác khắp nơi. Hầu hết họ không ở lại một chỗ nào đó hai đêm. Họ đốt lửa khắp mọi nơi và ngủ trên cây. Nhưng nếu ông muốn tổ chức những người như thế, ông phải quy tụ họ lại ở một chỗ. Ông phải có một nơi ẩn náu cố định.”
“Vì thế chúng ta phải tìm ra nơi Richard ẩn náu.”
“Chính xác.”
“Làm cách nào cậu tìm ra được?”
“Đó là công việc của ông.”
Waleran nhìn nghi ngại.
William nói: “Tôi cá là một nửa dân số Kingsbridge biết cậu ấy ở đâu.”
“Nhưng họ không cho chúng ta biết. Mỗi người dân ở Kingsbridge đều ghét ông và tôi.”
“Không phải mọi người,” William nói. “Không phải tất cả mọi người.”
 
 
Đối với Sally, lễ Giáng Sinh thật tuyệt vời.
Các đồ ăn đặc biệt cho lễ Giáng Sinh hầu hết đều ngọt: bánh hình các búp bê thơm mùi gừng; hồ được làm bằng lúa mì với trứng và mật ong; rượu lê, một thứ rượu ngọt làm cô cười khúc khích; và thịt được luộc nhiều giờ trước khi được nướng trong vỏ bánh ngọt. Năm nay có ít hơn mọi khi vì nạn đói, nhưng Sally rất thích nó.
Cô thích trang trí nhà cửa với lá ô rô và treo lên những chùm hoa tầm gởi cho mọi người hôn nhau dưới chùm hoa đó, mặc dù hôn nhau làm cô cười khúc khích như rượu lê. Người đàn ông đầu tiên đi ngang qua ngưỡng cửa sẽ mang lại may mắn, miễn là ông phải có mái tóc đen: Bố của Sally phải ở lại trong nhà suốt buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, vì tóc đỏ của cậu sẽ mang lại bất hạnh. Cô thích kịch Giáng Sinh trong nhà thờ. Cô thích nhìn các tu sĩ mặc như ba vua từ phương Đông, và các thiên thần và mục đồng. Và cô cười như lắc lẻ khi gia đình Thánh Gia đến Ai Cập và các thần tượng rơi xuống vỡ ra hết.
Nhưng hay nhất là vai giám mục bé. Vào ngày thứ ba của lễ Giáng Sinh, các tu sĩ cho một tập sinh nhỏ nhất mặc áo giám mục, và mọi người phải vâng lời cậu ấy.
Hầu hết cư dân thị trấn chờ đợi giám mục bé ở sân tu viện. Khi xuất hiện, cậu sẽ ra lệnh cho những người lớn tuổi và những người có quyền thế làm những công việc tầm thường như lấy củi và dọn chuồng thú vật. Cậu cũng duyên dáng và chỉ trích người có quyền thế. Năm trước cậu đã bắt cha giữ phòng thánh vặt lông một con gà: kết quả thật vui nhộn vì người giữ phòng thánh không biết phải làm gì và lông gà bay khắp nơi.
Cậu bước ra trang trọng, một đứa bé chừng mười hai tuổi với nụ cười tinh nghịch, mặc áo choàng lụa màu đỏ thẫm và tay cầm chiếc gậy gỗ. Cậu cưỡi trên vai hai tu sĩ và các tu sĩ khác trong tu viện theo sau. Mọi người vỗ tay reo hò. Việc đầu tiên cậu làm là chỉ tay vào Tu viện trưởng Philip và nói: “Anh, chàng trai kia! Đi vào chuồng thú vật và chải lông lừa.”
Mọi người cười rống lên. Con lừa già này nổi tiếng là khó tánh và chẳng bao giờ cho chải lông. Tu viện trưởng Philip nói: “Vâng, thưa ngài giám mục của tôi.” Ông nói với nụ cười tươi và đi làm nhiệm vụ.
“Tiếp tục!” giám mục bé ra lệnh. Đoàn rước đi ra khỏi sân tu viện với cư dân thị trấn theo sau. Một vài người lẩn trốn và đóng cửa lại vì sợ sẽ được chọn làm những công việc khó chịu, nhưng như thế họ bỏ lỡ cuộc vui. Tất cả gia đình của Sally đã đến: mẹ và bố cô, anh Tommy, cô Martha và ngay cả cậu Richard, người đã bất ngờ trở về vào tối hôm qua.
Theo phong tục, giám mục bé được dẫn đến quán bia. Ở đó cậu ra lệnh bán bia miễn phí cho cậu và tất cả tập sinh. Người làm bia vui vẻ làm theo.
Sally tìm thấy chỗ ngồi bên cạnh Cha Remigius, một trong số các tu sĩ lớn tuổi. Ông là người cao, không thân thiện và trước đây cô chẳng bao giờ nói chuyện với ông, nhưng bây giờ ông mỉm cười với cô và nói: “Thật tuyệt vời là cậu Richard về nhà vào lễ Giáng Sinh.”
Sally nói: “Cậu ấy cho con một con mèo con bằng gỗ mà cậu ấy tự đẽo bằng dao.”
“Thật tốt. Con có biết cậu ấy ở nhà bao lâu không?”
Sally cau mày. “Con không biết.”
“Tôi nghĩ là cậu ấy sẽ đi ngay.”
“Vâng. Bây giờ cậu ấy sống trong rừng.”
“Con có biết ở chỗ nào không?”
“Có. Nó được gọi là mỏ đá Sally. Nó là tên của con.” Cô cười.
“Ừ nhỉ,” Remigius nói. “Hay thật.”
Sau khi họ uống xong bia, giám mục bé nói: “Và bây giờ - Andrew, cha giữ phòng thánh và Cha Remigius giặt quần áo cho bà góa Poll.”
Sally phá lên cười và vỗ tay. Góa phụ Poll là một bà tròn trịa, mặt đỏ, làm nghề giặt quần áo. Các tu sĩ khó tính chẳng thích gì công việc giặt giũ quần áo lót và vớ hôi hám mà người ta chỉ thay sáu tháng một lần.
Đám đông rời quán bia và rước giám mục bé đến nhà một phòng của góa phụ Poll ở bên cảng. Poll đã cười ngất và mặt bà đỏ hơn khi họ nói với bà ai sẽ là người giặt quần áo cho bà.
Andrew và Remigius mang một giỏ nặng quần áo bẩn từ nhà xuống bờ suối. Andrew mở giỏ và Remigius với nét mặt khó chịu kéo ra chiếc áo đầu tiên. Một phụ nữ trẻ gọi to: “Cha Remigius, hãy cẩn thận. Nó là chiếc áo lót của tôi.” Remigius đỏ mặt và mọi người cười. Hai tu sĩ cắn môi và giặt quần áo trong nước sông, với sự cố vấn và cổ võ của đám đông. Andrew đã chán với công việc, Sally có thể thấy điều đó. Nhưng Remigius lại có nụ cười thỏa mãn lạ kỳ trên khuôn mặt.
 
 
Một quả cầu bằng sắt treo bởi một sợi dây xích lên một giàn giáo bằng gỗ, giống như một dây thòng lọng lủng lẳng từ một giá treo cổ. Cũng có một sợi dây cột chặt vào quả cầu. Sợi dây này chạy qua một ròng rọc trên đỉnh dàn giáo và đầu dây kia thòng xuống mặt đất, nơi hai người lao công giữ nó. Khi người lao công kéo dây, quả cầu được kéo lên tới đỉnh giàn giáo, và sợi dây xích nằm dọc theo cánh tay của giàn giáo.
Hầu hết cư dân của Shiring đang đứng xem.
Sợi dây được buông ra, quả cầu sắt rớt xuống và đong đưa, đập vào bức tường nhà thờ. Tiếng đập vang như sấm, bức tường nhà thờ rung lên và William cảm thấy mặt đất rung chuyển dưới chân cậu. Cậu ước gì được kẹp Richard vào tường, chính chỗ quả cầu đập vào. Cậu ấy sẽ bị đập bẹp như một con ruồi.
Người thợ kéo dây lên một lần nữa. William nhận ra cậu nín thở khi quả cầu sắt ngừng lại trên đỉnh giàn giáo. Người ta thả nó ra, quả cầu đong đưa và lần này nó đục một lỗ hổng trong tường đá. Đám đông vỗ tay reo hò.
Nó là một kỹ thuật khéo léo.
William hớn hở nhìn thấy công việc tiến triển trên công trường, nơi cậu sẽ xây nhà thờ mới, nhưng hôm nay cậu có một chuyện cấp bách hơn trong tâm trí. Cậu nhìn quanh tìm Giám mục Waleran và thấy ông đang đứng với thợ xây Alfred. William đến bên họ và kéo giám mục sang bên cạnh. “Người đó đã đến chưa?” cậu hỏi.
“Có lẽ rồi,” Waleran nói. “Hãy vào nhà tôi.”
Họ đi qua khu chợ. Waleran hỏi: “Ông có đem quân theo không?”
“Dĩ nhiên. Hai trăm người. Họ đang đợi trong rừng, ngay bên ngoài thị trấn.”
Họ đi vào nhà. William ngửi thấy mùi thịt hun khói và cậu chẩy nước miếng, bất chấp sự vội vã của cậu. Lúc này hầu hết mọi người tiết kiệm đồ ăn, nhưng đối với Waleran nó hình như là một nguyên tắc: ông không để cho nạn đói thay đổi cách sống của ông. Giám mục không ăn nhiều, nhưng ông muốn mọi người biết rằng ông quá giầu và quyền lực nên không bị ảnh hưởng bởi sự thu hoạch.
Nơi ở của Waleran là một nhà phố tiêu biểu, có mặt tiền hẹp với một sảnh đường phía trước và một nhà bếp phía sau. Trong sân sau là một hầm chứa phân bón ruộng, một tổ ong và một chuồng heo. William nhẹ người khi thấy một tu sĩ đứng đợi ở sảnh đường.
Waleran nói: “Chào Cha Remigius.”
Remigius nói: “Chào giám mục. Chào Bá tước William.”
William háo hức nhìn vị tu sĩ. Ông là người nhút nhát với khuôn mặt kiêu ngạo và đôi mắt xanh nổi bật. Khuôn mặt ông quen quen, như thể ông thuộc về những người đứng đầu trong các nghi lễ tại Kingsbridge. William đã nghe nói nhiều năm trước rằng ông là gián điệp của Waleran trong tu viện của Tu viện trưởng Philip, nhưng đây là lần đầu tiên cậu nói chuyện với ông. “Ông có thông tin gì cho tôi không?”
“Có lẽ,” Remigius trả lời.
Waleran vất áo choàng lông của ông và đi tới đống lửa để sưởi ấm bàn tay. Một người phục vụ mang rượu nóng trong chén bạc. William lấy một ít uống, bồn chồn chờ người phục vụ đi ra.
Waleran nhấm rượu và nghiêm khắc nhìn Remigius. Khi người phục vụ đi ra, Waleran nói với vị tu sĩ: “Ông lấy lý do gì để xin vắng mặt khỏi tu viện?”
“Không có lý do gì,” Remigius trả lời.
Waleran nhướng mày.
“Tôi không trở lại tu viện nữa,” Remigius ngang ngược nói.
“Làm sao vậy?”
Remigius lấy một hơi dài. “Ông đang xây một nhà thờ chính tòa ở đây.”
“Nó chỉ là một nhà thờ.”
“Nó sẽ rất lớn. Ông đang dự định làm nhà thờ chính tòa ở đây.”
Waleran do dự rồi nói: “Cứ cho là như vậy, về lý thuyết ông có lý.”
“Nhà thờ chính tòa phải được điều hành bởi một ban lãnh đạo, hoặc do các tu sĩ hay do một nhóm giáo sĩ.”
“Thì sao?”
“Tôi muốn thành tu viện trưởng.”
Thì ra thế, William nghĩ.
Waleran nói nghiêm nghị: “Và ông đã chắc chắn nhận được công việc đó đến nỗi ông rời Kingsbridge mà không có phép của Philip và không có lý do.”
Remigius không thoải mái. William thông cảm ông: Thái độ khinh bỉ của Waleran đủ làm cho người khác sốt ruột. “Tôi hy vọng tôi không quá tự tin,” Remigius nói.
“Có lẽ ông có thể dẫn chúng tôi đến Richard.”
“Vâng.”
William hào hứng ngắt lời: “Rất tốt. Cậu ấy ở đâu?”
Remigius vẫn im lặng và nhìn Waleran.
William nói: “Tiếp đi, Waleran, hãy cho ông ấy công việc đó vì lợi ích của Thiên Chúa.”
Waleran vẫn do dự. William biết ông ghét bị ép buộc. Sau cùng Waleran nói: “Được. Ông sẽ là tu viện trưởng.”
William nói: “Nào. Richard ở đâu?”
Remigius tiếp tục nhìn Waleran: “Từ hôm nay?”
“Từ hôm nay.”
Remigius quay về phía William: “Một tu viện thì không phải chỉ có một nhà thờ và một nhà ngủ. Tôi cần đất, cần nông trại và những nhà thờ trả thuế một phần mười cho tu viện.”
“Hãy cho tôi biết Richard ở đâu, và tôi sẽ cho ông năm ngôi làng với nhà thờ xứ, để ông bắt đầu công việc của ông,” William nói.
“Sự thành lập một tu viện theo thể thức phải được chứng nhận.”
Waleran nói: “Ông sẽ có, đừng lo về chuyện đó.”
William nói: “Thôi, hãy nói đi. Tôi có một đoàn quân đang đợi bên ngoài thị trấn. Richard đang ẩn náu ở đâu?”
“Nó là một nơi gọi là quặng đá Sally, trên đường đến Winchester.”
“Tôi biết chỗ đó!” William cố ghìm lại tiếng la đắc thắng. “Đó là một mỏ đá hoang. Không còn ai đến đó nữa.”
“Tôi nhớ ra rồi,” Waleran nói. “Từ nhiều năm nay nó không còn hoạt động. Nó là nơi ẩn náu tốt. Nếu không vào đó, người ta không tìm ra nó.”
“Nhưng nó cũng là cái bẫy,” William nói với niềm vui sướng. “Ba mặt đá đã được đào, dựng thẳng đứng. Không ai có thể trốn thoát được. Và tôi không muốn giữ bất cứ tù nhân nào.” Sự phấn khích lên cao độ khi ông tưởng tượng cảnh tượng đó. “Tôi sẽ giết tất cả. Nó sẽ giống như giết gà trong chuồng.”
Hai người con của Chúa nhìn ông kỳ lạ. “Ông không thấy thoải mái sao, Cha Remigius?” William nói một cách khinh bỉ. “Có phải ý tưởng về cuộc tàn sát tập thể làm đau lòng ngài, thưa giám mục?” Cả hai lần cậu đều có lý, cậu có thể đọc được nét mặt họ. Những người của tôn giáo này là những người có mưu toan lớn, nhưng khi có đổ máu, họ vẫn phải tùy thuộc vào những người của hành động. “Tôi biết ông sẽ cầu nguyện cho tôi,” cậu nói một cách mỉa mai và ra đi.
Con ngựa của cậu đã được cột bên ngoài, một con ngựa đen thay thế con ngựa cũ – nhưng không có cùng phẩm chất với con ngựa chiến mà Richard đã ăn cắp. Cậu lên ngựa và cưỡi ra khỏi thị trấn. Cậu nén sự hứng khởi và cố gắng suy nghĩ về chiến thuật.
Cậu tự hỏi có bao nhiêu người sống ngoài vòng pháp luật ở mỏ đá Sally. Trong một số cuộc tấn công gần đây họ có tới cả trăm người. Ít nhất họ phải là hai trăm hay năm trăm người. Lực lượng của William có thể ít hơn, vì thế cậu phải tận dụng những lợi thế của cậu. Thứ nhất là bất ngờ. Sau đó là vũ khí: hầu hết người tội phạm có gậy, búa hay rìu, và không ai có áo giáp. Nhưng lợi thế nhất là quân của William có ngựa. Người tội phạm có vài con ngựa và họ sẽ chưa chuẩn bị trên yên ngựa khi William tấn công. Để chắc chắn hơn William quyết định gửi một vài cung thủ lên sườn đồi và bắn tên xuống mỏ đá một vài phút trước khi cuộc tấn công bắt đầu.
Việc quan trọng nhất là ngăn chặn bất cứ cuộc trốn thoát nào của các tội phạm, ít nhất cho đến khi Richard chắc chắn đã bị bắt hoặc chết. Cậu quyết định cử một số người tin tưởng đi phía sau và tàn sát bất cứ người nào cố gắng trốn ra.
Walter đang đợi với các hiệp sĩ và binh lính ở chỗ William đã rời họ vài giờ trước đó. Họ hăm hở và tinh thần họ lên cao: họ mong đợi một chiến thắng dễ dàng. Một lúc sau họ đã chạy nước kiệu trên đường đến Winchester.
Walter cưỡi ngựa bên cạnh William, không nói lời nào. Một trong những tính tốt nhất của Walter là khả năng giữ im lặng. William nhận ra rằng có nhiều người nói với cậu liên tục, ngay cả khi họ không có gì để nói, có lẽ vì hồi hộp. Walter tôn trọng William, nhưng không bị hoảng sợ về cậu: họ đã ở với nhau quá lâu.
William cảm thấy một sự pha trộn quen thuộc của háo hức và sợ chết. Đánh nhau là khả năng duy nhất trong đời cậu, và mỗi lần đánh nhau cậu lại mạo hiểm mạng sống cậu. Nhưng cuộc tấn công này đặc biệt. Hôm nay cậu có cơ hội tàn sát người đã là cái gai trong mắt cậu từ mười lăm năm qua.
Vào giữa trưa họ dừng lại một ngôi làng đủ lớn để có một quán bia. William mua cho đoàn quân bánh mì và bia và họ cho ngựa uống nước. Trước khi tiếp tục lên dường, cậu ban những hiệu lệnh cần thiết cho các ông.
Đi tiếp vài dặm, họ rẽ ra khỏi con đường dẫn đến Winchester và vào một con đường nhỏ, một con đường lẩn khuất hầu như không ai thấy, và William sẽ chẳng chú ý đến nó nếu cậu không tìm nó. Khi đã đi trên con đường đó, cậu có thể đi theo nó bằng cách quan sát cây cỏ: Có một dải bốn hay năm bãi rộng không có cây lớn.
Cậu gửi các cung thủ đi trước. Để họ có thể đến trước, cậu cho đoàn quân còn lại đi chậm hơn. Nó là một ngày tháng giêng trong sáng, và những hàng cây trụi lá khó làm giảm đi ánh sáng mặt trời lạnh. Đã từ lâu William không đến mỏ đá, và cậu không biết chắc chắn nó còn cách bao xa. Tuy nhiên, sau khi đi vào con đường nhỏ này một hai dặm cậu nhìn thấy dấu hiệu con đường này vẫn được sử dụng: cây cỏ bị chà đạp, những cành cây gẫy, bùn bị khuấy lên. Cậu vui vì điều này xác nhận thông tin của Remigius.
Cậu cảm thấy bị căng thẳng như một dây cung. Các dấu hiệu trở nên rõ hơn: cỏ bị chà đạp nặng nề, phân ngựa, rác thải. Trong vùng hẻo lánh của khu rừng này những tội phạm không còn phải cố gắng che dấu sự hiện diện của họ. Không còn nghi ngờ gì. Người tội phạm sống ở đây. Cuộc chiến sắp bắt đầu.
Nơi ẩn nấp phải thật gần đây. William lắng tai nghe. Bất cứ vào lúc nào đó các cung thủ của cậu sẽ bắt đầu tấn công, và sẽ có tiếng la hét và nguyền rủa, tiếng rên la của đau đớn, và tiếng hí sợ hãi của ngựa.
Dấu vết dẫn đến một khoảng rừng thưa rộng rãi, và phía trước vài trăm mét William thấy lối vào mỏ đá Sally. Không có tiếng động. Một cái gì đó không bình thường. Cung thủ của cậu không bắn. William rùng mình vì sợ. Điều gì xẩy ra? Có thể cung thủ của ông bị lính canh phát giác và giết chết trong âm thầm? Chắc chắn không thể tất cả bọn họ đều bị giết.
Nhưng không còn giờ để suy nghĩ: cậu đã ở giữa khu của người sống bên ngoài vòng pháp luật. Cậu cho ngựa phi nước đại. Quân cậu theo sau và họ phi ầm ầm về nơi trú ẩn. Niềm phấn khởi của William làm tan đi nỗi sợ hãi.
Con đường vào mỏ đá giống như một khe núi xoắn, và William không thể nhìn vào bên trong khi cậu đến gần. Liếc lên, cậu thấy một số cung thủ của cậu đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống. Tại sao họ không bắn? Cậu linh cảm về một thảm họa và muốn quay trở lại, nhưng đoàn quân đang tiến lên không có cách gì ngăn lại được. Với thanh kiếm trong tay phải, dây cương ngựa trong tay trái, khiên thuẫn treo nơi cổ, cậu phi nhanh vào mỏ đá hoang.
Trong đó không có ai.
Sự thất vọng như một đòn đánh xuống cậu. Cậu sắp bật khóc. Cậu đã quá chắc chắn. Bây giờ sự thất vọng đã kẹp chặt ruột cậu giống như một cơn đau.
Khi ngựa đi chậm lại, cậu thấy rằng không lâu trước đây nó là nơi ẩn náu của người sống ngoài vòng pháp luật. Có nơi trú ẩn tạm thời làm bằng cành và lau sậy, tro tàn từ bếp lửa nấu ăn, và một đống phân. Một góc khu vực được rào với vài cây gậy để nhốt ngựa. Đây đó William nhìn thấy dấu vết của con người đã ở: xương gà, bao tải rỗng, một giày rách, một nồi vỡ. Một trong các bếp lửa dường như có khói. Bất ngờ cậu có một chút hy vọng mỏng manh: Có lẽ chúng mới đi và họ vẫn còn có thể bắt kịp. Rồi cậu thấy một nhân vật duy nhất ngồi xổm trên mặt đất gần đống lửa. Cậu đến gần. Nhân vật này đứng lên. Đó là một phụ nữ.
“Tốt, rất tốt, William Hamleigh,” bà nói. “Quá trễ như mọi khi.”
“Đồ trơ tráo! Tôi sẽ cắt lưỡi bà,” cậu nói.
“Đừng đụng vào tôi,” bà bình tĩnh trả lời. “Tôi đã nguyền rủa nhiều người tốt hơn ông.” Bà đưa tay lên mặt, xòe ba ngón tay ra giống như một phù thủy. Các hiệp sĩ lui trở lại, và William làm dấu Thánh giá xin sự chở che. Người phụ nữ nhìn cậu không chút sợ hãi với đôi mắt màu vàng ròng. “Cậu không nhớ tôi sao, William?” bà nói. “Một lần cậu đã muốn mua tôi với giá một bảng Anh.” Bà cười. “May mắn cho cậu là cậu đã không thành công.”
William nhớ đôi mắt này. Đây là góa phụ của thợ xây Tom, mẹ của Jack Jackson, bà phù thủy sống trong rừng. Cậu thực sự vui vì đã không mua được bà ấy. Cậu muốn xa bà nhanh bao nhiêu có thể, nhưng trước hết cậu muốn hỏi bà. “Được, bà phù thủy,” cậu nói. “Richard thành Kingsbridge đã ở đây phải không?”
“Cho đến hai ngày trước đây.”
“Và cậu ấy đã đi đâu, bà có thể nói cho tôi biết không?”
“Được, tôi có thể,” bà nói. “Cậu ấy và người sống ngoài pháp luật đã đi chiến đấu cho Henry.”
“Henry?” William hỏi. Một cảm giác kinh hoàng nói với cậu rằng bà nói về Henry nào. “Có phải con của Maud không?”
“Đúng như vậy,” bà nói.
William lạnh người. Công tước trẻ đầy nhiệt huyết vùng Normandy có thể thành công nơi mẹ ông đã thất bại, và nếu Stephen bị thất bại, William cũng có thể xuống chức với ông.
“Chuyện gì đã xẩy ra?” cậu khẩn trương hỏi. “Henry đã làm gì?”
“Ông ấy đã vượt đại dương với ba mươi sáu tàu và đặt chân đến Wareham,” bà phù thủy trả lời. “Ông ta mang theo đội quân ba ngàn người, họ nói như vậy. Chúng ta đã bị xâm chiếm.”
 
 
III
 
Winchester đông đúc, căng thẳng và nguy hiểm. Cả hai đội quân đều đóng ở đây: lực lượng hoàng gia của Stephen đóng ở lâu đài, và quân khởi nghĩa của Công tước Henry – bao gồm cả Richard và nhóm người sống ngoài vòng pháp luật của ông – đóng quân bên ngoài tường thành, trên đồi Thánh Giles, nơi tổ chức hội chợ hàng năm. Quân lính của cả hai phía bị cấm không được di chuyển trong thành phố, nhưng nhiều người vẫn bất tuân lệnh cấm, họ dành buổi tối rong chơi trong các quán bia, nơi các trận đá gà và nhà điếm, nơi họ say rượu, lạm dụng phụ nữ và đánh nhau vì trò chơi cờ bạc.
Sau cái chết của người con trai trưởng, Stephen đã thất bại trong mọi cuộc chiến vào mùa hè. Bây giờ Stephen ở trong lâu đài hoàng gia và Công tước Henry trong dinh thự giám mục. Các cuộc thương thuyết hòa bình được tiến hành bởi các đại diện; Tổng giám mục Theobald thành Canterbury đại diện cho phía nhà vua, và người môi giới già quyền lực, Giám mục Henry thành Winchester, đại diện cho Công tước Henry. Mỗi buổi sáng, Tổng giám mục Theobald và Giám mục Henry sẽ hội ý ở dinh thự giám mục. Vào buổi trưa Nam tước Henry sẽ đi qua các đường phố Winchester, với các sĩ quan của ông – bao gồm cả Richard – đến lâu đài để ăn trưa.
Lần đầu tiên nhìn thấy Công tước Henry, Aliena không thể tin được ông lại là người cai trị một đế quốc lớn như nước Anh. Ông chỉ chừng hai mươi tuổi, có làn da rám nắng và nhiều tàn nhan của một nông dân. Ông mặc một chiếc áo đen đơn giản, không thêu, và mái tóc đỏ cắt ngắn. Ông trông như một người con trai chăm chỉ của một tiểu điền chủ giầu có. Tuy nhiên, một lúc sau cô nhận ra ông có một hào quang của quyền lực. Ông khỏe mạnh, có bắp thịt, bờ vai rộng và một chiếc đầu to. Nhưng ấn tượng về sức mạnh thể xác được thay đổi qua đôi mắt xám tinh anh và tỉnh táo, và những người quanh ông chẳng bao giờ gần gũi ông quá, nhưng đối xử với ông bằng sự thân thiện thận trọng, như thể họ sợ ông có thể mắng mỏ bất cứ lúc nào.
Aliena nghĩ bữa ăn tối ở lâu đài phải căng thẳng khó chịu lắm, vì phải ngồi chung bàn với lãnh đạo quân đội của phe đối lập. Cô tự hỏi làm sao Richard có thể chịu ngồi chung với Bá tước William. Nếu cô là Richard, cô sẽ dùng dao tấn công William thay vì cắt thịt nai. Bản thân cô chỉ nhìn William từ xa và trong chốc lát. Cậu ấy trông lo âu và khó tính; đó là dấu hiệu tốt.
Trong khi các bá tước, giám mục và tu viện trưởng gặp nhau trong tòa nhà, giới quý tộc thấp hơn tụ tập trong sân lâu đài: các hiệp sĩ và cảnh sát trưởng, nam tước nhỏ, người phụ trách tòa án, người cai quản thành trì. Họ là những người không thể rời khỏi thủ đô trong khi tương lai của họ cũng như tương lai của vương quốc đang được định đoạt. Aliena gặp Philip ở đó hầu như mỗi buổi sáng. Mỗi ngày có một tá những tin đồn khác nhau. Một ngày có tin đồn tất cả các bá tước ủng hộ Stephan sẽ bị mất chức (điều đó có nghĩa là sự kết thúc của William); ngày hôm sau lại có tin tất cả ở lại vị trí cũ, điều đó có nghĩa là hy vọng của Richard thành mây khói. Một lần có tin tất cả lâu đài của Stephen bị phá hủy, rồi sau đó tất cả lâu đài của nhóm khởi nghĩa, rồi lại lâu đài của bất cứ ai, rồi sau đó chẳng có lâu đài nào bị phá. Một tin đồn khác nói rằng mỗi người ủng hộ Henry sẽ được thăng hiệp sĩ và được một trăm mẫu đất. Richard không muốn điều đó, cậu muốn có lại lãnh địa.
Richard không biết tin đồn nào đúng. Mặc dù cậu là một trong số phụ tá tin cậy của Henry về chiến trường, nhưng cậu không được tham khảo về cuộc đàm phán chính trị. Philip dường như biết những gì đang diễn ra. Ông không nói ông có thông tin từ đâu, nhưng Aliena nhớ lại rằng ông có người em, người đã thăm viếng Kingsbridge vài lần, và đã làm việc cho Robert thành Gloucester cũng như cho Nữ hoàng Maud, và bây giờ có lẽ ông ấy làm việc cho Công tước Henry.
Philip tường thuật rằng cuộc đàm phán đã gần đến thỏa thuận. Sự thỏa thuận là Stephen sẽ tại vị cho đến khi ông chết, nhưng sau đó Henry sẽ là người nối ngôi. Điều đó làm Aliena lo lắng. Stephen có thể còn sống thêm mười năm nữa. Những gì sẽ xẩy ra trong thời gian tạm thời đó? Các bá tước của ông chắc chắc không bị lật đổ bao lâu ông còn cai trị. Vậy những người ủng hộ Henry như Richard thì sao? Họ sẽ được phần thưởng gì? Họ sẽ phải chờ đợi sao?
Philip có câu trả lời vào một buổi chiều, sau khi họ đã ở Winchester một tuần. Ông gửi một tập sinh đến nói với Aliena và Richard đến gặp ông. Khi họ đi qua những con đường bận rộn tới sân nhà thờ chính tòa, lòng Richard đầy háo hức, còn Aliena đầy chán nản. Philip đợi họ ở nghĩa trang, và họ nói chuyện với nhau giữa các ngôi mộ khi mặt trời xuống. “Họ đã đạt được thỏa thuận,” Philip nói không mào đầu. “Nhưng còn nhiều lộn xộn.”
Aliena không còn chịu được sự căng thẳng. “Richard có thể thành bá tước không?” cô khẩn trương hỏi.
Philip lắc bàn tay qua lại như một cử chỉ biểu lộ nó có thể là có mà cũng có thể là không. “Nó phức tạp. Họ đã đi đến một thỏa hiệp. Đất đai đã bị lấy bởi kẻ tiếm quyền sẽ được trả lại cho những người là chủ của nó trong thời vua Henry cũ.”
“Đó là tất cả những gì tôi cần!” Richard nói ngay lập tức. “Bố tôi là bá tước trong thời vua Henry cũ.”
“Im đi, Richard,” Aliena cắt ngang và quay sang Philip: “Vậy đâu là sự phức tạp?”
Philip nói: “Trong thỏa thuận không nói gì đến việc Stephen phải thực thi các thỏa thuận đó. Có lẽ nó sẽ không có bất kỳ thay đổi nào cho đến khi ông ấy chết và Henry lên nối ngôi.”
Richard chán nản. “Như vậy là tôi nên quên đi lãnh địa.”
“Không hoàn toàn như vậy,” Philip nói. “Nó có nghĩa rằng cậu là bá tước hợp pháp.”
“Nhưng tôi phải sống như một người ngoài vòng pháp luật cho đến khi Stephen băng hà – trong khi con thú William chiếm giữ lâu đài của tôi,” Richard giận dữ nói.
“Đừng nói to quá!” Philip nói khi một linh mục đi ngang. “Tất cả những điều này còn trong vòng bí mật.”
Aliena sôi sục. “Tôi không chấp nhận điều đó,” cô nói. “Tôi không sẵn sàng chờ đợi cho đến khi Stephen qua đời. Tôi đã chờ đợi mười bẩy năm nay và như thế đã đủ.”
Philip hỏi: “Nhưng cô cậu có thể làm gì?”
Aliena nói với Richard: “Hầu hết cư dân trong vùng đều coi em như một bá tước hợp pháp. Stephen và Henry cũng đã thừa nhận em là bá tước hợp pháp. Em phải chiếm lại lâu đài và cai trị như một bá tước.”
“Em không thể chiếm lại lâu đài. William chắc chắn để quân lại canh giữ.”
“Em có một đoàn quân phải không?” cô trở nên thất vọng và tức giận. “Em có quyền lấy lại lâu đài và em có sức mạnh để làm việc đó.”
Richard lắc đầu. “Chị có biết rằng trong mười lăm năm nội chiến, em đã thấy có bao nhiêu lâu đài chiếm được do tấn công trực tiếp không? Không có cái nào.” Như mọi khi, cậu dường như có thẩm quyền và chín chắn khi nói về quân sự. “Hầu như chẳng bao giờ xẩy ra. Một đôi khi có thể chiếm được thị trấn, nhưng chưa bao giờ chiếm được lâu đài. Họ có thể đầu hàng sau cuộc bao vây; và em đã thấy một số lâu đài thất thủ vì hèn nhát, vì lừa đảo hay vì phản bội, nhưng không phải bằng chính vũ lực.”
Aliena chưa sẵn sàng để chấp nhận điều này. Nó nghe có vẻ bi quan. Cô không thể phí phạm đời cô để chờ đợi và hy vọng. Cô nói: “Điều gì sẽ xẩy ra nếu em đem quân tới chiếm lâu đài của William?”
“Họ sẽ nâng cây cầu và đóng cửa thành trước khi chúng ta có thể vào trong. Chúng ta có thể lập trại bên ngoài. Rồi William sẽ mang quân tới để cứu lâu đài và tấn công trại của chúng ta. Nhưng ngay cả khi chúng ta đánh bại cậu ấy, chúng ta vẫn chưa chiếm được lâu đài. Các lâu đài khó bị chiếm nhưng dễ dàng cho việc phòng thủ - đó là đặc điểm của lâu đài.”
Khi cậu nói, một ý tưởng đã nẩy mầm trong tâm trí sôi động của Aliena. “Hèn nhát, thủ đoạn hay phản bội,” cô nói.
“Cái gì?”
“Em đã thấy lâu đài bị thất thủ vì hèn nhát, vì thủ đoạn hay phản bội?”
“Ồ! Vâng.”
“Đó là cách William đã làm khi lấy lâu đài của chúng ta cách đây nhiều năm.”
Philip ngắt lời: “Thời gian đã thay đổi. Toàn vùng có hòa bình dưới triều đại Henry cũ, trong ba mươi lăm năm. William đã lấy lâu đài của bố cô một cách bất ngờ.”
Richard nói: “Cậu ấy dùng thủ đoạn. Cậu đã vào lâu đài lén lút cùng với vài người trước khi chuông báo động vang lên. Nhưng Tu viện trưởng Philip có lý: ngày nay chị không thể làm như thế. Dân chúng đã cảnh giác hơn.”
“Tôi có thể vào được bên trong,” Aliena nói tự tin, mặc dù khi nói những lời này trái tim cô đập hoảng loạn vì sợ.”
“Dĩ nhiên chị có thể - chị là đàn bà,” Richard nói. “Nhưng ngay cả khi chị ở trong đó, chị cũng không làm gì được. Đó là lý do tại sao họ để chị vào. Chị vô hại.”
“Đừng kiêu ngạo như thế,” cô khùng lên. “Chị đã giết người để bảo vệ em, và nó còn hơn là những gì em đã làm cho chị, quân vô ơn, vì thế đừng cho chị là vô hại.”
“Được, chị không vô hại,” cậu giận dữ nói. “Chị sẽ làm gì sau khi vào trong lâu đài?”
Sự tức giận của Aliena vơi đi. Tôi sẽ làm gì? Cô suy nghĩ một cách lo sợ. Tôi cũng có can đảm và tháo vát như con heo William. “William đã làm gì?”
“Giữ cho cầu khỏi kéo lên và cổng thành mở cho quân tấn công có thể đi vào.”
“Vậy thì đó là cái mà tôi cũng sẽ làm,” Aliena nói mà lòng đầy lo sợ.
“Nhưng bằng cách nào?” Richard nói một cách nghi ngờ.
Aliena nhớ lại cô đã giúp đỡ một cô gái mười bốn tuổi sợ hãi trong cơn gió bão. “Nữ bá tước còn thiếu chị một món nợ,” cô nói. “Và cô ấy ghét chồng.”
 
 
Họ cưỡi ngựa đi cả đêm. Aliena, Richard và năm mươi người tốt nhất của cậu đã đến gần lâu đài lãnh chúa vào hừng đông. Họ tìm chỗ trú trong rừng, cách lâu đài một cánh đồng. Aliena xuống ngựa, cởi áo khoác len Bỉ và giày da mềm, rồi quấn một chiếc khăn của nông dân quanh mình và mang đôi guốc mộc. Một người trao cho cô giỏ trứng tươi gói trong rơm mà cô sẽ khoác trên tay.
Richard nhìn cô từ trên xuống dưới và nói: “Hoàn hảo. Một cô gái nông dân đem sản phẩm cho nhà bếp lâu đài.”
Aliena cố nuốt nước bọt xuống. Hôm qua cô hăng hái và táo bạo, nhưng bây giờ, khi cô sắp thực hiện kế hoạch của mình, cô sợ hãi.
Richard hôn má cô. Cậu nói: “Khi em nghe tiếng chuông, em sẽ đọc chậm rãi kinh ‘Lạy Cha’, sau đó đoàn quân tiên phong sẽ lên đường. Tất cả những gì chị phải làm là dụ cho lính bảo vệ mất dự phòng để cho mười lính của em có thể vào trong sân lâu đài mà không gây ra báo động.”
Aliena gật đầu. “Hãy ghi nhớ là chỉ cho nhóm quân chính rời khỏi chỗ nấp khi nhóm quân tiên phong đã qua cầu.”
Cậu mỉm cười. “Em sẽ dẫn đầu nhóm chính. Chị đừng sợ. Chúc chị may mắn.”
“Em cũng vậy.”
Cô ra đi.
Cô rời cánh rừng, bước qua cánh đồng trống về hướng lâu đài mà cô đã rời xa mười sáu năm về trước. Nhìn lại cảnh cũ, cô nhớ lại một cách sống động và đầy kinh hoàng về buổi sáng hôm đó, vào một ngày ẩm thấp sau cơn mưa và hai con ngựa đã ra khỏi cổng, đi xuyên qua cánh đồng ướt sũng nước mưa: Richard trên lưng con ngựa chiến, cô trên lưng con ngựa nhỏ và cả hai sợ đến chết được. Cô cố quên những gì đã xẩy ra, cố quên đi bằng cách nhủ lòng mình theo tiếng vó ngựa: “Tôi không được nhớ. Tôi không được nhớ. Tôi không được. Tôi không được.” Nó có kết quả: một thời gian dài sau đó cô không còn nhớ đến việc hiếp dâm. Cô nhớ có một chuyện gì đó khủng khiếp đã xẩy ra nhưng cô không nhớ từng chi tiết. Nó chỉ trở lại khi cô yêu Jack và ký ức đã làm cô kinh sợ đến nỗi cô không có thể đáp lại tình yêu của Jack. Tạ ơn Chúa là cậu đã kiên nhẫn. Đó là lý do tại sao cô biết tình yêu của cậu vững mạnh, vì cậu đã phải vượt qua nhiều thử thách và cậu vẫn yêu cô.
Khi cô đến gần lâu đài, cô cố gợi lên vài kỷ niệm đẹp để cho lòng lắng xuống. Cô đã trải qua tuổi thơ ở đây với bố và Richard. Họ có cuộc sống đầy đủ và chắc chắn. Cô đã chơi với Richard trên thành lũy lâu đài, quanh quẩn trong nhà bếp tìm bánh ngọt và ngồi bên cạnh bố tại bữa ăn trong sảnh đường. Tôi đã không biết mình được hạnh phúc biết bao, cô nghĩ. Tôi đã không phải lo sợ bất cứ chuyện gì.
Thời gian huy hoàng này sẽ trở lại ngay hôm nay, cô nói với chính mình, nếu tôi làm tốt mọi việc.
Cô đã tự tin nói rằng ‘Nữ bá tước còn mắc chị một món nợ, và cô ấy ghét chồng’, nhưng khi cưỡi ngựa trong đêm cô đã nghĩ rằng, mọi sự có thể không đúng như vậy. Trước hết cô có thể không vào được lâu đài: một cái gì đó xẩy ra và lính đồn trú báo động, lính canh có thể nghi ngờ, và có thể vô phúc khi lính canh không cho cô qua. Thứ hai khi cô vào được bên trong chưa chắc cô đã thuyết phục được Elizabeth phản bội chồng. Từ khi gặp Elizabeth đến nay đã hơn một năm: đàn bà có thể quen với những người đàn ông xấu xa nhất và có thể Elizabeth đã chấp nhận số phận của cô. Thứ ba, ngay cả khi Elizabeth muốn, cô cũng không có uy quyền hay sự cứng rắn để làm những gì Aliena muốn. Lần trước gặp nhau, cô là một cô gái sợ hãi, và có thể lính gác lâu đài không nghe lệnh cô.
Khi đi qua cây cầu cô thật căng thẳng: cô có thể nhìn thấy và nghe được mọi thứ một cách rõ ràng bất thường. Đội quân phòng ngự vừa thức dậy. Một vài lính gác nửa ngủ nửa mê ngồi uể oải, ngáp và ho khù khụ trên tường cao. Trước cổng một con chó già ngồi gãi. Cô kéo chiếc mũ về phía trước che mặt, sợ có người nhận ra cô.
Trên ghế băng ở cổng gác, một lính canh bất cẩn đang ăn một miếng bánh to. Quần áo ông cẩu thả và dây đeo kiếm của ông treo ở cuối phòng. Với sự lo lắng trong lòng và nụ cười che nấp nỗi sợ, Aliena cho người lính gác xem giỏ trứng.
Ông vẫy tay cho cô đi qua trong một cử chỉ thiếu kiên nhẫn.
Cô đã vượt qua trở ngại đầu tiên.
Kỷ luật lỏng lẻo. Nó là điều dễ hiểu: đây là đám lính kiểng coi nhà, trong khi những người tốt nhất đã ra trận. Tất cả sự xáo động ở nơi khác.
Cho đến hôm nay.
Như vậy càng tốt. Aliena băng qua sân bên dưới với tinh thần căng thẳng. Nó là một cảm xúc kỳ lạ khi phải trở thành người lạ để đi trong nơi trước kia là nhà mình, phải lén lút vào nơi mà trước kia cô có quyền đi mọi chỗ cô muốn. Cô nhìn quanh, cẩn thận không để người khác phát hiện ra sự tò mò của cô. Hầu hết các tòa nhà bằng gỗ đã thay đổi: chuồng ngựa lớn hơn, nhà bếp đã chuyển đi và có một kho vũ khí bằng đá mới xây. Lâu đài bẩn hơn mọi khi. Nhưng nhà nguyện vẫn còn đó, nơi cô và Richard đã ngồi chờ cơn giông bão qua đi trong cơn sốc, tê cứng và lạnh cóng. Một số ít nhân viên lâu đài bắt đầu công việc buổi sáng của họ. Một hay hai người lính đi trong sân. Aliena trông họ có vẻ đe dọa, nhưng có lẽ bởi vì cô ý thức rằng họ sẽ giết cô nếu họ biết cô đang định làm gì.
Nếu kế hoạch của cô thành công, tối nay cô lại có thể trở thành chủ nhân của lâu đài này. Ý tưởng này ly kỳ nhưng không thực tế, giống như một giấc mơ tuyệt vời, nhưng không thực hiện được.
Cô đi vào nhà bếp. Một bé trai đốt lò sưởi và một bé gái cắt cà rốt. Aliena rạng rỡ cười với chúng và nói: “Hai mươi bốn trứng tươi.” Cô đặt giỏ trên bàn.
Bé trai nói: “Người nấu bếp chưa thức dậy. Bà phải đợi lấy tiền.”
“Tôi có thể lấy một chút bánh ăn sáng không?”
“Trong sảnh đường.”
“Cảm ơn.” Cô để giỏ lại và đi ra.
Cô đi qua cầu đến sân trên. Cô mỉm cười với người lính ở cổng gác thứ hai. Ông có mái tóc không chải và đôi mắt đỏ ngầu. Ông nhìn cô từ trên xuống và hỏi: “Cô đi đâu?” Giọng ông đầy thử thách một cách tinh nghịch.
“Tìm chút gì ăn sáng,” cô nói không ngập ngừng.
Ông liếc mắt dâm dật. “Tôi có cái cho cô ăn,” ông nói với theo.
“Coi chừng tôi cắn mất đấy,” cô ngoảng lại nói.
Lúc này họ không nghi ngờ cô. Họ không nghĩ rằng một người đàn bà có thể nguy hiểm. Họ thật ngu dốt. Đàn bà có thể làm hầu hết mọi việc đàn ông có thể làm. Ai làm những công việc ở nhà khi đàn ông ra trận hay theo thập tự quân? Có những phụ nữ làm mộc, nhuộm, thuộc da, làm bánh và bia. Chính Aliena là một trong số các thương gia quan trọng nhất trong vùng. Nhiệm vụ của các nữ tu viện trưởng điều hành tu viện nữ cũng giống như tu viện trưởng điều hành tu viện nam. Tại sao Nữ hoàng Maud, một người đàn bà lại gây ra cuộc nội chiến từ mười lăm năm nay? Những người lính ngu dại này đã không tưởng tượng một người đàn bà lại có thể là gián điệp của đối phương, bởi vì đó không phải là chuyện bình thường.
Cô theo những bậc thang trong tòa tháp ở vào sảnh đường. Không có người quản lý ở sảnh đường. Có thể vì chủ vắng nhà. Trong tương lai tôi phải chắc chắn luôn có người quản lý ở cửa, Aliena nghĩ, ngay cả chủ ở nhà hay vắng mặt.
Mười lăm hay mười hai người đang ăn sáng xung quanh chiếc bàn nhỏ. Một hai người nhìn lên cô, nhưng không ai chú ý đến cô. Sảnh đường hoàn toàn sạch sẽ, cô quan sát, và có một vài dấu vết của bàn tay phụ nữ: tường trắng mới sơn, mùi thảo dược trộn lẫn với mùi trên nền nhà. Một cách nhỏ bé, Elizabeth đã để lại dấu vết. Đó là dấu hiệu của hy vọng.
Không nói gì với những người ngồi ở bàn, Aliena đi ngang qua phòng tới cầu thang ở trong góc, cố gắng làm như cô có quyền ở đó, nhưng cảnh tỉnh vì có thể bị ngăn lại bất cứ lúc nào. Cô đến chân cầu thang mà không ai để ý. Rồi, khi cô đi lên phía phòng riêng trên lầu cao nhất, cô nghe tiếng người nói: “Này, cô không được phép lên đó!” Cô làm ngơ. Cô nghe có ai đó đi theo cô.
Cô lên đến đỉnh, thở hổn hển. Có phải Elizabeth ngủ trong phòng ngủ chính, nơi bố Aliena đã ở không? Hay cô có một giường riêng trong phòng của Aliena trước kia? Cô do dự một lúc, tim cô đập mạnh. Cô đoán rằng bây giờ William đã chán ở với Elizabeth mỗi đêm, và có lẽ đã cho phép cô có một phòng riêng cho chính cô. Aliena gõ vào chiếc phòng nhỏ và mở cửa.
Cô đúng. Eizabeth đang ngồi chải tóc bên đống lửa, mặc quần áo ngủ. Cô nhìn lên, nhíu mày, rồi nhận ra Aliena. “À! Chào chị,” cô nói. “Thật là ngạc nhiên!” Dường như cô vui mừng.
Aliena nghe tiếng bước chân nặng nề đàng sau cô. “Tôi có thể vào không?” cô nói.
“Dĩ nhiên và rất hân hạnh.”
Aliena bước vào trong và đóng cửa nhanh chóng. Cô đi qua phòng đến nơi Elizabeth ngồi. Một người đàn ông xông vào nói: “Ê, cô nghĩ cô là ai mà dám vào đây?” và ông chạy theo cô như muốn túm lấy cô.
“Hãy đứng yên đó!” Aliena nói bằng giọng ra lệnh. Ông do dự. Cô nói: “Tôi đến gặp nữ bá tước với một thông điệp của William, và ông đã biết tin đó nếu ông biết gác cửa thay vì cúi đầu ăn bánh mì.”
Ông nhìn ân hận.
Elizabeth nói: “Đúng như vậy, Edgar, tôi biết người phụ nữ này.”
“Vâng, thưa nữ bá tước,” ông nói. Ông đi ra và đóng cửa lại.
Tôi đã thành công, Aliena nghĩ. Tôi đã vào được bên trong.
Cô nhìn quanh trong khi hơi thở của cô đã trở lại bình thường. Căn phòng không khác xưa. Có một khay nhỏ đựng hoa khô, một bức thảm trên tường, vài cuốn sách và tủ đựng quần áo. Chiếc giường vẫn ở chỗ cũ – thực ra vẫn là chiếc giường xưa – và trên gối là một búp bê giống như Aliena cũng có. Cô cảm thấy mình già.
“Đây là phòng cũ của tôi,” cô nói.
“Tôi biết,” Elizabeth nói.
Aliena ngạc nhiên. Cô đã không kể cho Elizabeth về quá khứ của cô.
“Tôi đã tìm hiểu về cô sau cơn gió bão khủng khiếp đó,” Elizabeth phân trần. Cô nói thêm: “Tôi ngưỡng phục cô lắm.” Đôi mắt cô lộ vẻ ngưỡng mộ.
Đó là một dấu hiệu tốt.
“Và William?” Aliena nói. “Cô có hạnh phúc với cậu ấy không?”
Elizabeth nhìn đi chỗ khác. “Vâng,” cô nói, “bây giờ tôi có phòng riêng, và cậu ấy thường xuyên vắng nhà. Thực ra mọi chuyện đã tốt hơn.” Rồi cô ấy khóc.
Aliena ngồi trên giường và ôm cô gái. Elizabeth khóc với tiếng nức nở và nước mắt rơi đầm đìa xuống má. Giữa tiếng nức nở cô hổn hển: “Tôi – ghét – cậu - ấy! Tôi – ước - muốn – tôi – có - thể - chết!”
Cô còn quá trẻ và nỗi đau của cô rất đáng thương làm cho Aliena sắp khóc. “Tôi sợ có con với cậu ấy,” cô nói một cách khổ sở. “Tôi hoảng sợ vì tôi biết cậu ấy sẽ đối xử với đứa trẻ như thế nào.”
“Tôi hiểu,” Aliena nói. Chính cô cũng đã có lần sợ khi nghĩ rằng cô có thể có con với William.
Mắt Elizabeth mở rộng nhìn vào cô. “Những gì người ta kể… về việc cậu ấy đã làm cho cô có đúng không?”
“Vâng, đúng. Tôi bằng tuổi cô khi chuyện đó xẩy ra.”
Họ nhìn vào mắt nhau một lúc lâu, sự kinh tởm đưa họ lại gần nhau. Bất ngờ Elizabeth không còn giống như một đứa trẻ nữa.
Aliena nói: “Cô có thể thoát được cậu ấy, nếu cô muốn. Ngay hôm nay.”
Elizabeth nhìn chằm chằm vào cô. “Có thật không?” cô nói với sự háo hức đáng thương. “Có thật không?”
Aliena gật đầu. “Đó là lý do tại sao tôi đến đây.”
“Tôi có thể về nhà không?” Elizabeth hỏi, mắt cô đầy lệ. “Tôi có thể về nhà, về Weymouth, về với mẹ tôi? Hôm nay?”
“Vâng, nhưng cô phải can đảm.”
“Tôi sẽ làm mọi chuyện,” cô nói. “Mọi chuyện! Hãy nói tôi phải làm gì.”
Aliena nhớ lại cô đã cắt nghĩa cho Elizabeth cách có được uy quyền trên nhân viên của chồng, và cô tự hỏi không biết Elizabeth có khả năng để đem lý thuyết đó vào thực hành không. “Các nhân viên còn ăn hiếp cô không.” Aliena hỏi thẳng thắn.
“Họ cố làm.”
“Nhưng cô không để họ lộng quyền chứ?”
Cô nhìn xấu hổ. “Vâng, một đôi khi tôi có thể. Nhưng bây giờ tôi đã mười sáu tuổi, và tôi đã là nữ bá tước được gần hai năm… và tôi cố gắng theo lời khuyên của cô, và nó thực sự có kết quả.”
“Hãy để tôi giả thích,” Aliena nói. “Vua Stephen đã có một hiệp ước với Nam tước Henry. Tất cả đất đai được trả lại cho người sở hữu nó trong thời vua Henry cũ. Điều đó có nghĩa là em trai Richard của tôi sẽ trở thành bá tước – một lúc nào đó. Nhưng cậu ấy muốn nó ngay bây giờ.”
Elizabeth mở to mắt. “Richard sẽ đánh nhau với William sao?”
“Richard bây giờ ở rất gần đây, với một đoàn quân nhỏ. Nếu cậu ấy có thể chiếm lâu đài hôm nay, cậu ấy sẽ được công nhận là lãnh chúa, và William sẽ chấm dứt.”
“Tôi không thể tin được,” Elizabeth nói. “Tôi không thể tin nó là sự thật.” Sự lạc quan bất ngờ của cô còn đau lòng hơn sự khốn khổ tột cùng mà cô đã có.
“Tất cả những gì cô phải làm là để Richard vào đây mà không phải đổ máu,” Aliena nói. “Và khi mọi chuyện êm xuôi, chúng tôi sẽ đưa cô về nhà.”
Elizabeth nhìn lo lắng. “Tôi không chắc chắn người ta có nghe theo lệnh của tôi không.”
Đó cũng là điều Aliena lo lắng. “Ai là trưởng đoàn lính gác?”
“Michael Armstrong. Tôi không thích ông ấy.”
“Gọi ông ta tới đây.”
“Chính xác.” Elizabeth chùi mũi, đứng lên và đi ra cửa. “Madge!” cô gọi bằng giọng kịch liệt. Aliena nghe tiếng trả lời từ xa. “Đi gọi Michael. Nói với ông ta hãy đến đây ngay – Tôi muốn gặp ông ta ngay lập tức. Làm ơn nhanh lên.”
Cô trở lại và vội vã mặc quần áo, trùm chiếc áo dài trên áo ngủ và cột dây giầy. Aliena truyền đạt nhanh chóng cho cô: “Nói với Michael giật chuông lớn để triệu tập mọi người ở trong sân. Hãy nói rằng cô đã nhận được một sứ điệp của Bá tước William và muốn nói chuyện với tất cả mọi người trong thành, với các binh lính cũng như cư dân. Hãy ra lệnh cho ba bốn người gác trong khi những người khác tụ họp ở sân bên dưới. Hãy nói với ông ấy là cô đang chờ một nhóm mười hoặc mười hai kỵ binh có thể đến bất cứ lúc nào để mang thêm một thông điệp khác, và đem họ gặp cô ngay khi họ đến.”
“Tôi hy vọng tôi có thể nhớ mọi chuyện,” Elizabeth lo lắng nói.
“Đừng lo, nếu cô quên, tôi sẽ nhắc cô.”
“Như vậy tôi thấy thoải mái hơn.”
“Armstrong là người như thế nào?”
“Hôi, hay cáu kỉnh và thân hình như con bò.”
“Có thông minh không?”
“Không.”
“Vậy thì tốt hơn.”
Một lúc sau người đàn ông đi vào. Người đàn ông có biểu hiện gắt gỏng, chiếc cổ ngắn, vai rộng, và mang theo mùi của chuồng heo. Ông nhìn Elizabeth dò hỏi, tạo ra ấn tượng là ông bị quấy rầy.
“Tôi nhận được một thông tin từ bá tước,” Elizabeth bắt đầu.
Michael đưa tay ra.
Aliena kinh hoàng nhận ra cô đã không nghĩ đến việc chuẩn bị cho Elizabeth một lá thư. Toàn kế hoạch có thể bị sụp đổ vì một sai lầm ngớ ngẩn này. Elizabeth nhìn cô với một cái nhìn tuyệt vọng. Aliena tìm một giải pháp. Sau cùng cô có sáng kiến: “Ông có biết đọc không, Michael?”
Ông nhìn phẫn uất. “Linh mục có thể đọc nó cho tôi.”
“Nữ bá tước của ông có thể đọc.”
Elizabeth nhìn sợ hãi, nhưng cô nói: “Chính tôi sẽ truyền thông điệp này cho toàn thể mọi người, Michael. Hãy kéo chuông và tụ họp mọi người trong sân. Nhưng để lại ba bốn người gác trên thành lũy.”
Như Aliena đã lo sợ, Michael không thích Elizabeth ra lệnh như thế. Ông nổi loạn. “Tại sao bà không để tôi công bố nó cho dân chúng?”
Aliena nhận ra một cách lo lắng rằng cô không thể thuyết phục được người đàn ông này: ông quá ngu ngốc để hiểu lý do. Cô nói: “Tôi đã đem tin tức từ Winchester cho nữ bá tước. Cô ấy muốn tự loan báo cho cư dân trong lâu đài.”
“Được, tin tức đó là gì?” ông hỏi.
Aliena không nói gì và nhìn Elizabeth. Một lần nữa Elizabeth lại tỏ ra sợ hãi. Tuy nhiên, Aliena đã không chuẩn bị cho Elizabeth nội dung thông điệp, vì thế mà cô không thể đáp ứng được đòi hỏi của Michael. Sau cùng cô tiếp tục như không nghe thấy những gì Michael nói. “Hãy nói với lính gác để ý đến một nhóm mười hay mười hai kỵ binh. Trưởng nhóm sẽ mang tin mới nhất của Bá tước William, và hãy cho họ vào gặp tôi ngay lập tức. Bây giờ hãy giật chuông đi.”
Rõ ràng Michael muốn phản ứng lại. Ông đứng yên, cau mày, trong khi Aliena nín thở. “Thêm thông tin nữa,” ông nói, như nó thật khó hiểu. “Người phụ nữ này mang một, và mười hai kỵ binh mang thông điệp khác.”
“Được, bây giờ ông đi giật chuông chứ?” Elizabeth nói. Aliena có thể nghe được giọng run run của cô ấy.
Michael chào thua. Ông không thể hiểu những gì đang xẩy ra, nhưng ông không biết phải phản đối ra sao. Sau cùng ông miễn cưỡng nói: “Được, thưa bà,” và đi ra.
Aliena thở phào.
Elizabeth nói: “Công việc tiếp tục ra sao?”
“Khi họ tụ tập trong sân, cô nói với họ về hiệp ước hòa bình giữa vua Stephen và Nam tước Henry,” Aliena nói. “Điều đó sẽ đánh lạc hướng mọi người. Trong khi cô nói, Richard sẽ gửi đoàn quân tiên phong mười người. Tuy nhiên, lính gác sẽ nghĩ họ là sứ giả của Bá tước William, vì thế họ sẽ không hoảng loạn và kéo cầu lên. Cô phải cố gắng thu hút mọi người qua những gì cô nói, trong khi đội quân tiên phong tiến vào lâu đài. Được không?”
Elizabeth nhìn lo âu. Cô hỏi: “Sau đó làm gì?”
“Khi tôi ra hiệu, cô hãy tuyên bố giao lâu đài cho bá tước hợp pháp Richard. Sau đó đội quân Richard sẽ rời chỗ trú ẩn và vào chiếm lâu đài. Vào thời điểm đó Michael sẽ nhận ra những gì đang xẩy ra. Lính của ông sẽ hoang mang không biết theo ai, vì cô đã tuyên bố đầu hàng và gọi Richard là bá tước hợp pháp, và đội quân tiên phong đã ở trong lâu đài để ngăn cản không cho đóng cửa thành.” Tiếng chuông vang lên. Bao tử Aliena quặn lên vì sợ. “Chúng ta không còn giờ nữa. Cô cảm thấy thế nào?”
“Sợ.”
“Tôi cũng vậy. Chúng ta đi thôi.”
Họ xuống cầu thang. Tiếng chuông ở cổng gác vang lên như khi Aliena vẫn còn là cô bé vô tư. Cùng quả chuông, cùng tiếng kêu, chỉ có Aliena là khác, cô nghĩ. Cô biết tiếng kêu của nó vang qua các cách đồng, đến các góc cạnh của khu rừng. Bây giờ Richard sẽ chậm rãi đọc kinh ‘Lạy Cha’, để đo thời gian chờ đợi trước khi sai đội quân tiên phong đi.
Aliena và Elizabeth đi bộ từ tháp ở sang qua cây cầu xuống sân phía dưới. Elizabeth xanh vì sợ, nhưng nét mặt cứng rắn của cô nói lên sự quyết tâm. Aliena mỉm cười với cô để cho cô thêm can đảm, rồi kéo mũ xuống. Cho đến bây giờ cô chưa gặp ai quen, nhưng khuôn mặt cô được cả vùng biết đến và một lúc nào đó thế nào cũng có người nhận ra cô. Một vài người tò mò nhìn cô nhưng không ai bắt chuyện với cô.
Cô và Elizabeth đi tới giữa sân bên dưới. Vì mặt đất dốc xuống tới cổng nên Aliena có thể nhìn qua đầu người, xuyên qua cổng và ra ngoài cánh đồng. Đội quân tiên phong phải rời chỗ trú ẩn ngay bây giờ, nhưng cô không thấy dấu hiệu gì của họ. Trời ơi! Tôi hy vọng không có trở ngại, cô lo lắng nghĩ.
Elizabeth cần cái gì đó để đứng lên khi cô nói với dân chúng. Aliena bảo một người phục vụ lấy một bục gỗ từ trong chuồng ngựa. Trong khi chờ đợi, một bà già nhìn Aliena và nói: “Ôi! Đây là Aliena! Rất vui được gặp lại cô.”
Trái tim Aliena chùng xuống. Cô nhận ra bà là người nấu ăn trong lâu đài trước khi Hamleigh đến. Cô gượng cười và nói: “Chào Tilly, bà có khỏe không?”
Tilly đẩy nhẹ người hàng xóm. “Sau nhiều năm bà chủ Aliena lại trở về. Cô lại trở thành chủ của chúng tôi chứ, thưa bà?”
Aliena không muốn Michael Armstrong nghe thấy. Cô nhìn quanh lo lắng. May mắn thay, Michael không ở gần. Tuy nhiên một người lính nghe thấy cuộc nói chuyện và nhăn trán nhìn Aliena. Aliena nhìn lại ông với cái nhìn không quan tâm. Ông ấy chỉ có một mắt – đó là lý do tại sao ông không ra trận với Wlliam mà ở lại đây. Aliena cảm thấy kỳ kỳ khi một người một mắt chằm chằm nhìn vào cô, và cô phải cố nén tiếng cười.
Người phục vụ đem bục gỗ đến. Tiếng chuông ngưng. Aliena bình tĩnh lại khi Elizabeth đứng trên bục và đám đông im lặng chờ đợi.
Elizabeth nói: “Vua Stephen và Nam tước Henry đã ký hiệp ước hòa bình.”
Cô ngưng lại, và đám đông reo hò. Aliena nhìn qua cửa. Ngay bây giờ, Richard, cô nghĩ; bây giờ là lúc, đừng quá trễ!
Elizabeth mỉm cười và để cho đám đông reo hò một lúc, rồi cô tiếp tục: “Stephen sẽ tiếp tục làm vua cho đến chết, sau đó Henry sẽ nối ngôi.”
Aliena quan sát lính gác trên tường thành và trong cổng gác. Họ hầu như thoải mái. Richard ở đâu?
Elizabeth nói: “Hiệp ước hòa bình sẽ đem lại nhiều thay đổi trong cuộc sống chúng ta.”
Aliena thấy các lính gác cảnh thức. Một người giơ tay che mắt nhìn vào cánh đồng, trong khi những người khác quay lại và nhìn xuống sân, hy vọng bắt gặp ánh mắt của chỉ huy trưởng. Nhưng Michael Armstrong đang chăm chú lắng nghe Elizabeth.
“Các vị vua hiện tại và tương lai đã đồng ý với nhau rằng, tất cả đất đai được trả lại cho người sở hữu đất đó trong thời vua Henry cũ.”
Tin này gây nên cuộc tranh luận trong dân chúng. Dân chúng suy đoán xem sự thay đổi này có ảnh hưởng đến lãnh địa Shiring không. Aliena nhận ra Michael Armstrong trầm tư suy nghĩ. Xuyên qua cổng, sau cùng cô đã thấy ngựa của đội quân tiền phong của Richard. Nhanh lên, cô nghĩ, nhanh lên! Nhưng họ đi một cách ổn định, không muốn gây náo động cho các lính gác.
Elizabeth đang nói: “Tất cả chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa cho hiệp ước hòa bình này. Chúng ta nên cầu nguyện cho Vua Stephen được khôn ngoan cai trị trong những năm cuối đời, và cho Nam tước Henry trẻ có thể giữ được sự hòa bình cho đến khi Chúa cất Stephen đi…” Cô đã làm một cách tuyệt diệu, nhưng cô bắt đầu lúng túng, như thể cô không còn gì để nói.
Các lính gác nhìn ra ngoài, theo dõi đội quân đang đến. Họ đã được biết nhóm người này sẽ đến và đã được lệnh cho người trưởng đoàn vào gặp nữ bá tước ngay, vì thế họ không có hành động nào, nhưng họ tò mò.
Người một mắt nhìn quanh và nhìn qua cổng, rồi quay lại và nhìn vào Aliena. Cô đoán chừng ông suy nghĩ về sự liên quan giữa sự hiện diện của cô ở đây và nhóm kỵ binh đang đến.
Một lính gác trên tường thành dường như đã có một quyết định, và ông biến mất trong cầu thang.
Đám đông bắt đầu bồn chồn. Elizabeth đã kéo dài thời gian một cách tuyệt vời, nhưng họ muốn biết ngay vấn đề chính. Cô nói: “Cuộc chiến này đã bắt đầu một năm sau khi tôi sinh ra, và giống như nhiều người trẻ khác trong vương quốc, tôi chờ mong để được nếm mùi hòa bình.”
Người lính gác trên tường thành ra từ tháp canh, đi nhanh qua sân và nói với Michael Armstrong.
Xuyên qua cổng Aliena có thể thấy các kỵ binh vẫn còn cách xa một vài dặm. Nó chưa đủ gần. Cô có thể hét lên trong thất vọng. Cô không thể chịu đựng tình trạng này thêm nữa.
Michael Armstrong quay lại và nhíu mày nhìn qua cổng. Rồi người đàn ông một mắt kéo tay áo Michael và nói một cái gì đó, tay chỉ vào Aliena.
Aliena sợ Michael sẽ đóng cửa thành và kéo cầu trước khi Richard có thể vào, nhưng cô không biết phải làm gì để ngăn cản ông. Cô tự hỏi cô có đủ cứng cáp để lao vào ông trước khi ông có thể ra lệnh không. Cô có thể giết ông vì cô vẫn còn con dao găm dưới tay áo. Ông dứt khoát quay đi. Aliena vươn người và đụng vào cánh tay Elizabeth: “Dừng Michael lại!” cô rít lên.
Elizabeth mở miệng nói, nhưng không âm thanh nào phát ra. Cô điếng người vì sợ hãi. Rồi thái độ cô thay đổi. Cô hít một hơi dài, ngẩng đầu và nói bằng giọng uy quyền. “Michael Armstrong!”
Michael quay lại.
Đây là lúc không thể tháo lui, Aliena nhận ra. Richard vẫn còn ở xa nhưng cô không còn giờ. Cô nói với Elizabeth: Hãy nói cho họ ngay bây giờ!”
Elisabeth nói: “Tôi đã giao lâu đài này cho bá tước hợp pháp của Shiring, Richard thành Kingsbridge.”
Michael nhìn Elizabeth một cách không thể tin được. “Cô không thể làm điều đó!!” ông hét lên.
Elizabeth nói: “Tôi ra lệnh cho tất cả các ông bỏ vũ khí xuống. Không có đổ máu.”
Michaela nhìn quanh và hét: “Kéo cầu lên! Đóng cổng lại!”
Các lính vội vã theo lệnh, nhưng ông đã do dự quá lâu. Khi các người lính đến cánh cổng vững chắc bọc sắt để đóng lại, nhóm quân tiền phong của Richard vượt qua cây cầu và vào trong sân. Hầu hết quân của Michael không mặc áo giáp và ngay cả một số không có kiếm, và họ sợ hãi trước đám kỵ binh.
Elizabeth hét lên: “Mọi người hãy bình tĩnh. “Những sứ giả này sẽ nghe lệnh truyền của tôi.”
Có tiếng la từ lỗ châu mai trên thành, một người giơ tay lên quanh miệng và hét xuống: “Michael! Tấn công! Chúng ta bị tấn công! Hàng chục người đang đến.”
“Phản bội!” Michael gầm lên và rút kiếm. Nhưng hai người lính của Richard đã đến bên ông ngay lập tức, lưỡi gươm lấp láy. Máu chẩy và ông ông ngã xuống. Aliena quay đi chỗ khác.
Một số người của Richard đã chiếm nhà gác và phòng nhỏ có máy quay cầu lên. Hai người đã lên đến tường thành và các lính gác của Michael đầu hàng.
Xuyên qua cổng Aliena nhìn thấy đoàn quân chính phi nước đại qua cánh đồng hướng về lâu đài, và tinh thần cô lên cao giống như mặt trời lên.
Eliabeth hét to bao nhiêu có thể: “Đây là một đầu hàng trong hòa bình. Không ai bị tàn sát, tôi hứa điều đó. Hãy ở yên vị trí.”
Mọi người trong sân đứng như trời trồng, nghe tiếng ầm ầm của đoàn quân Richard mỗi lúc một gần hơn. Lính của Michael bàng hoàng và không biết phải làm gì: người chỉ huy của họ đã gục xuống, và nữ bá tước của họ đã ra lệnh đầu hàng. Người phục vụ trong lâu đài bị tê liệt vì những biến cố đến quá nhanh.
Rồi Richard đi qua cổng trên lưng con ngựa chiến.
Nó là một giây phút huy hoàng và trái tim Aliena dâng lên niềm tự hào. Richard đẹp trai, mỉm cười và đắc thắng. Aliena la to: “Bá tước hợp pháp!” Những người đi sau Richard cùng hô lên, và một số trong đám đông lập lại – những người không ưa William. Richard cưỡi ngựa đi chậm vòng quanh sân, vẫy tay và đón nhận lời chúc mừng.
Aliena nghĩ về tất cả những gì cô đã trải qua để có được giờ phút này. Cô đã ba mươi bốn tuổi và cô đã mất nửa những năm tháng trong đời để chiến đấu cho điều này. Tất cả quãng đời trưởng thành của tôi, cô nghĩ; đó là những năm tháng mà tôi đã cống hiến. Cô nhớ những lần nhồi len vào bao tảo cho đến khi tay cô đỏ, sưng lên và chẩy máu. Cô nhớ lại những khuôn mặt cô đã gặp trên đường, những khuôn mặt tham lam, độc ác và dâm đãng, những người có thể đã giết cô nếu cô tỏ ra yếu đuối. Cô nghĩ lại việc cô cứng lòng chống lại tình yêu của Jack và lấy Alfred; và cô nghĩ về những tháng cô đã ngủ trên nền nhà ở dưới chân giường cậu như một con chó; và cô đã làm tất cả những điều đó chỉ vì đã hứa sẽ cung cấp vũ khí và áo giáp để Richard có thể chiếm lại lâu đài này. “Nó đây, thưa bố,” cô nói lớn. Không ai nghe cô: họ đang reo hò quá lớn. “Đây là điều mà bố muốn,” cô nói với người bố đã qua đời của cô, và có cả cay đắng lẫn chiến thắng trong tâm hồn cô. “Con đã hứa và con đã giữ lời hứa. Con đã lo lắng cho Richard, và em đã chiến đấu bao năm nay. Bây giờ, sau cùng chúng con về lại mái nhà xưa và Richard sẽ là bá tước. Bây giờ…” Giọng cô như tiếng hét, nhưng mọi người cũng đang la hét nên không ai để ý đến những giọt nước mắt chẩy trên má cô. “Bây giờ, thưa bố, con đã thực hiện những gì bố muốn. Bố hãy ở trong mộ của bố và để con sống trong bình an!”
 
 
#16
    Minh Nan 04.01.2017 23:53:43 (permalink)
    0
    Chương 16
     
    I
     
    Remigius kiêu ngạo, ngay cả trong lúc cơ hàn. Ông vào ngôi nhà lớn bằng gỗ ở ngôi làng Hamleigh với đầu ngước cao, và nhìn qua đầu mũi những thanh xà bằng gỗ nâng đỡ mái nhà, những bức tường bằng đất sét và ngọn lửa ở giữa nền nhà được nện kỹ.
    William quan sát ông đi vào. Có thể tôi đang xuống dốc, nhưng tôi chưa xuống sâu như ông, cậu nghĩ, chú ý đến đôi dép đã sửa nhiều lần, áo choàng bẩn thỉu, cằm chưa cạo râu và tóc không chải của ông. Remigius chưa bao giờ mập, nhưng bây giờ ông gầy hơn bao giờ hết. Nét biểu hiện kiêu kỳ cố định trên khuôn mặt ông không che dấu được nét mệt mỏi và thất bại dưới vầng mắt ông. Remigius chưa gục ngã nhưng ông đã có những thất bại ê chề.
    “Chúa chúc lành cho cậu,” ông nói với William.
    William không cần những điều đó. “Ông cần gì, Remigius?” cậu nói, cố tình xúc phạm đến tu sĩ bằng cách không gọi “cha” hay “thầy”.
    Remigius nao núng như ông bị đánh. William đoán ông đã nhận được một vài xúc phạm như thế từ khi bỏ tu viện và theo hướng đi riêng. Remigius nói: “Các mảnh đất cậu cho tôi, trong tư cách tôi là trưởng của ủy ban nhà thờ chính tòa ở Shiring, đã bị Richard chiếm lại.”
    “Tôi không ngạc nhiên,” William trả lời. “Mọi thứ được trả lại cho người đã sở hữu nó trong thời vua Henry cũ.”
    “Nhưng như thế tôi không còn phương tiện hỗ trợ.”
    “Không phải chỉ có ông mà còn một số lớn người khác nữa,” William nói không suy nghĩ. “Ông phải trở về Kingsbridge.”
    Khuôn mặt Remigius tái xanh vì tức. “Tôi không thể làm chuyện đó,” ông nói bằng giọng buồn.
    “Tại sao không?” William nói như hành hạ ông.
    “Cậu biết tại sao không.”
    “Philip sẽ nghĩ gì? Ông ấy có nghĩ ông đã phản bội bằng cách cho tôi biết chỗ ẩn náu của người sống ngoài vòng pháp luật không? Ông ấy có giận vì ông trở thành trưởng ban nghi lễ nhà thờ chính tòa để thay thế nhà thờ của ông ấy ở Kingsbridge không? Như vậy tôi cho rằng ông không có thể trở về.”
    “Cho tôi chút gì đó,” Remigius nài xin. “Một ngôi làng. Một trang trại. Một ngôi nhà thờ nhỏ.”
    “Không có phần thưởng cho người thua cuộc, tu sĩ ạ.” William nói gay gắt. Cậu thích thế. “Trong thế giới bên ngoài tu viện, không có ai chăm sóc cho ông đâu. Con vịt ăn con sâu, con cáo vồ con vịt, con người giết con cáo, và ma quỷ săn con người.”
    Giọng Remigius trầm xuống như thì thầm. “Tôi phải làm gì?”
    William mỉm cười và nói: “Ăn xin.”
    Remigius quay gót và rời khỏi nhà.
    Vẫn còn tự kiêu, William nghĩ. Nhưng chẳng bao lâu nữa, ông sẽ phải đi ăn xin.
    Cậu vui sướng khi có người thất bại hơn cậu. Cậu chẳng bao giờ quên được nỗi tuyệt vọng tột cùng khi đứng trước cổng lâu đài của mình mà bị từ khước không cho vào. Cậu đã nghi khi nghe Richard và một số quân của cậu ấy rời Winchester; khi hiệp ước hòa bình được công bố cảm xúc nôn nao đã trở thành báo động và cậu đã đem các hiệp sĩ và binh lính của cậu cấp tốc về lại lâu đài. Cậu còn để lại một đoàn quân canh giữ lâu đài, vì thế cậu chờ đợi sẽ gặp Richard đóng quân bao vây lâu đài trên cánh đồng. Khi đến gần cậu thấy mọi chuyện đều bình thường, cậu nhẹ người và mắng mình đã phản ứng thái quá với sự biến mất đột ngột của Richard.
    Khi đến gần cậu thấy chiếc cầu đã được kéo lên. Cậu dừng lại bên con hào và kêu to: “Mở cửa cho bá tước!”
    Richard xuất hiện trên tường thành và nói: “Bá tước đã ở trong thành.”
    Nó giống như mặt đất sụp xuống dưới chân cậu. Cậu luôn lo sợ về Richard, luôn cảnh giác về cậu ấy như một đối thủ nguy hiểm, nhưng vào thời điểm đó cậu đã thiếu cảnh giác. Cậu đã nghĩ sự nguy hiểm thực sự sẽ đến khi Stephen chết và Henry nối ngôi, nhưng còn phải mười năm nữa mới đến lúc đó. Bây giờ ngồi trong căn nhà làng và nghĩ về những sai lầm, cậu nhận ra một cách cay đắng rằng thực sự Richard quá không ngoan. Cậu ấy đã vượt qua một khe hẹp. Bao lâu chiến tranh còn tiếp diễn, cậu ấy không thể bị buộc tội vì đã phá vỡ nền hòa bình của nhà vua. Theo điều khoản của hiệp ước hòa bình, cậu có quyền hợp pháp nhận lại lãnh địa. Và Stephen đã già yếu, mệt mỏi và thất bại, không còn sức lực để quan tâm đến những tranh dành khác.
    Một cách rộng lượng Richard đã thả tự do cho những người lính muốn tiếp tục phục vụ cho William. Người một mắt, Walter, đã tường thuật cho William cách lâu đài đã bị tiếp thu. Sự phản bội của Elizabeth là điên rồ, nhưng đối với William, vai trò của Aliena trong việc này là một nhục nhã nhất. Đứa bé gái bất lực mà cậu đã hãm hiếp, đã hành hạ và đuổi ra khỏi nhà những năm trước đây bây giờ đã quay về và trả thù cậu. Mỗi lần cậu nghĩ về nó, bao tử cậu quặn lên nỗi cay đắng như thể cậu đã uống dấm.
    William muốn đánh nhau với Richard ngay. Cậu vẫn còn giữ đoàn quân của cậu, nuôi sống nó bằng đất đai trong vùng, bằng thuế và nguồn cung cấp từ nông dân. Với một chiến thuật đánh úp, cậu có thể chống lại kẻ thù của cậu. Nhưng Richard có lâu đài và có lợi thế về thời điểm, bởi vì Stephen, người nâng đỡ William đã già yếu, trong khi Richard được Nam tước Henry trẻ ủng hộ, người sẽ trở thành vua Henry thứ hai.
    Vì thế William quyết định cắt giảm sự thiệt hại bao nhiêu có thể. Cậu trở về làng Hamleigh và sống trong căn nhà nơi cậu đã lớn lên. Làng Hamleigh và các làng xung quanh đã được cấp cho bố cậu cách đây ba mươi năm. Nó chẳng bao giờ là một phần của lãnh địa, vì thế Richard không có quyền đòi lại.
    William hy vọng rằng nếu cậu hạ mình xuống, Richard sẽ hài lòng với sự trả thù và để cậu yên. Cho đến bây giờ nó có kết quả. Tuy nhiên, William ghét làng Hamleigh. Cậu ghét những căn nhà nhỏ, những con vịt dễ bị kích động trên mặt hồ, ngôi nhà thờ bằng đá màu xám nhạt, những trẻ em với đôi má giống như trái táo, những phụ nữ hông rộng và đàn ông mạnh mẽ, bực bội. Cậu ghét sự khiêm tốn, buồn chán và nghèo đói, và cậu ghét nó vì nó tượng trưng cho sự xuống dốc quyền lực của gia đình cậu. Cậu quan sát các nông dân lê bước cày bừa vào mùa xuân và ước lượng phần thu nhập cậu sẽ nhận được, và cậu thấy nó ít ỏi. Cậu đi săn bắn trong vài mẫu rừng của cậu, nhưng không thấy con nai nào. Nhân viên kiểm lâm đã nói với cậu rằng: “Ngài chỉ có thể săn heo rừng, thưa ngài – người sống ngoài vòng pháp luật đã bắt hết nai trong nạn đói.” Cậu tổ chức tòa án ở sảnh đường nhà cậu, nơi gió lùa qua các kẽ hở của tường. Cậu xử khắc nghiệt, bắt phạt nhiều và tùy theo hứng, nhưng nó cũng không đem lại cho cậu sự hài lòng.
    Cậu bỏ dở công việc xây dựng nhà thờ mới ở Shiring, dĩ nhiên. Cậu không có thể xây một nhà đá cho riêng cậu, huống hồ gì xây một nhà thờ. Các thợ xây đã bỏ việc khi cậu ngưng trả tiền lương cho họ và cậu không biết những gì đã xẩy ra cho họ: có lẽ tất cả họ đã trở lại Kingsbridge và làm việc cho Tu viện trưởng Philip.
    Nhưng bây giờ cậu thường có ác mộng.
    Tất cả dường như giống nhau. Cậu thấy mẹ trong thế giới thần chết. Bà chẩy máu từ tai và mắt, và khi bà mở miệng nói, nhiều máu ra theo. Cảnh tượng làm cậu kinh hãi. Trong ánh sáng ban ngày cậu không không thể nói tại sao giấc mơ lại làm cậu sợ vì bà không đe dọa cậu. Nhưng vào ban đêm, khi bà đến với cậu, cậu hoàn toàn hoảng sợ, một sự hoảng sợ kinh hoàng, vô lý và mù quáng. Khi còn bé cậu lội vào một cái ao và mặt đất bất ngờ lún sâu hơn, rồi cậu bị chìm xuống, không thở được; và nhu cầu cần không khí này đã là một biến cố không thể phai mờ trong tuổi thơ của cậu. Nhưng cơn ác mộng bây giờ còn nhiều lần kinh hoàng hơn. Trốn chạy khỏi khuôn mặt máu me của mẹ cậu cũng giống như chạy trốn trong cát lún. Khi cậu tỉnh dậy, rên rỉ và đổ mồ hôi, cơ thể cậu mệt mỏi và căng thẳng. Và cậu thấy Walter cầm nến đứng bên cạnh – William ngủ trong sảnh đường, cách những đàn ông khác bằng một bức ngăn, vì họ không có phòng ngủ ở đây. “Ông kêu to trong giấc ngủ, thưa ngài,” Walter thì thầm. William thở mạnh, nhìn chằm chằm vào chiếc giường thực, bức tường thực và Walter thực, trong khi ảnh hưởng của giấc mơ từ từ nhạt dần cho đến khi cậu không còn sợ nữa. Rồi cậu nói: “Không có gì cả. Nó chỉ là giấc mơ. Hãy đi đi.” Nhưng cậu sợ ngủ lại. Vào ngày hôm sau người ta thấy cậu như bị bỏ bùa.
    Một vài ngày sau khi nói chuyện với Remigius, cậu ngồi trên cùng chiếc ghế cứng, bên cạnh cùng đống lửa, khi Giám mục Waleran bước vào.
    William giật mình. Cậu nghe tiếng chân ngựa nhưng cậu nghĩ đó là Walter trở về từ nhà máy xay. Cậu không biết phải làm gì khi nhìn thấy giám mục. Waleran luôn luôn kiêu ngạo và trịch thượng, và nhiều lần ông đã làm William cảm thấy ngu ngốc, vụng về và thô lỗ. Cậu cảm thấy xấu hổ khi Waleran nhìn thấy cảnh sống cơ bần của cậu bây giờ.
    William không đứng lên chào vị khách. “Ông muốn gì?” cậu nói cộc lốc. Cậu không có lý do gì để lịch sự, cậu muốn Waleran đi sớm bao nhiêu có thể.
    Giám mục bỏ qua sự thô lỗ của cậu. “Cảnh sát trưởng đã chết,” ông nói.
    Lúc đầu William không hiểu Waleran muốn nói gì. “Điều đó liên quan gì tới tôi?”
    “Cần một cảnh sát trưởng mới.”
    William muốn nói vậy thì sao? Nhưng cậu đã chợt dừng lại. Waleran nghĩ về ai sẽ là người trở thành cảnh sát trưởng mới. Có lẽ đó là lý do ông đến để nói với William về chuyện đó. Hy vọng bừng lên trong lòng cậu, nhưng cậu cố đè nó xuống: nơi đâu Waleran nhúng tay vào, niềm hy vọng thường kết thúc trong chán nản và tuyệt vọng. Cậu nói: “Ông nghĩ đến ai?”
    “Ông.”
    Đó là câu trả lời mà William không dám hy vọng. Cậu ước mong cậu có thể tin vào nó. Một cảnh sát trưởng khôn ngoan, cứng rắn có thể quan trọng và ảnh hưởng như một bá tước hay giám mục. Nó có thể là con đường đưa cậu trở lại với quyền lực và giầu sang. Cậu cố dò xét đầu mối. “Tại sao Vua Stephen lại chỉ định tôi?”
    “Ông đã hỗ trợ vua chống lại Nam tước Henry, và kết quả là ông đã mất cả lãnh địa. Tôi nghĩ là vua sẽ bồi thường cho ông.”
    “Chưa có ai làm điều gì chỉ vì lòng biết ơn,” William nói, lập lại câu nói của mẹ cậu.
    Waleran nói: “Stephen không thể hài lòng với bá tước ở Shiring, một người chống lại ông ấy. Nhà vua muốn vị cảnh sát trưởng là một lực lượng đối kháng chống lại Richard.”
    Bây giờ đã rõ tại sao. Ngược lại với ý muốn, William cảm thấy hứng khởi. Cậu tin rằng cậu thực sự có thể thoát khỏi hang góc được gọi là làng Hamleigh này. Cậu sẽ lại có một đoàn hiệp sĩ và binh lính đáng kể, thay vì vài ba người đáng thương như bây giờ. Cậu sẽ chủ trì các phiên xử quận ở Shiring, làm nhụt ý chí Richard. “Cảnh sát trưởng sống ở lâu đài Shiring,” cậu luyến tiếc nói.
    “Ông sẽ lại giầu có,” Waleran thêm vào.
    “Vâng.” Nếu khai thác đúng, chức cảnh sát trưởng có thể đem lại nhiều lợi nhuận. William có thể có nhiều tiền như khi ông là bá tước. Nhưng cậu tự hỏi tại sao Waleran lại đề cập đến nó.
    Một lúc sau Waleran trả lời câu hỏi đó. “Sau đó, ông có thể tài trợ cho nhà thờ mới.”
    Thì ra vậy. Waleran chẳng bao giờ làm gì mà không có động cơ kín đáo. Ông muốn William trở thành cảnh sát trưởng để cậu xây cho ông một ngôi nhà thờ. Nhưng William cũng có cùng ước muốn đó. Nếu cậu có thể hoàn thành nhà thờ để tưởng nhớ đến mẹ cậu, có lẽ cậu sẽ không còn những cơn ác mộng. “Ông có thực sự nghĩ chuyện này sẽ xẩy ra không?” cậu hồ hởi hỏi.
    Waleran gật đầu. “Nó sẽ mất tiền, dĩ nhiên, nhưng tôi nghĩ chúng ta sẽ thành công.”
    “Tiền?” William lo lắng nói. “Bao nhiêu?”
    “Khó có thể nói. Ở một vài nơi như Lincoln hay Bristol, chức cảnh sát trưởng giá năm hay sáu trăm bảng Anh; nhưng cảnh sát trưởng ở đó giầu hơn cả Hồng y. Ở một nơi nhỏ như Shiring, nếu ông là ứng cử viên được nhà vua chấp thuận – điều này tôi có thể lo cho ông – có lẽ ông có thể có được nó với giá một trăm bảnh Anh.”
    “Một trăm bảng Anh!” Niềm hy vọng của William sụp đổ. Ngay từ đầu ông đã sợ bị thất vọng. “Nếu tôi có một trăm bảng Anh, tôi đã không sống như thế này,” cậu cay đắng nói.
    “Ông có thể có số tiền ấy,” Waleran nói nhẹ nhàng.
    “Từ đâu?” William chợt có một ý tưởng. “Ông có thể cho tôi không?”
    “Đừng quá ngu!” Waleran nói với sự khinh thường. “Đó là lý do tại sao có người Do Thái.”
    William nhận ra với một cảm xúc hỗn độn của hy vọng và tức giận rằng vị giám mục lại đúng.
     
     
    Đã hai năm qua, từ khi vết nứt xuất hiện, Jack đã không tìm được giải pháp cho vấn đề. Tệ hơn nữa, các vết nứt tương tự đã xuất hiện ở ô thứ nhất gian giữa. Có một lỗi quan trọng trong thiết kế của cậu. Cấu trúc đủ mạnh để chống đỡ sức mạnh của mái trần, nhưng không chống lại được cơn gió mạnh thổi vào bức tường cao.
    Cậu đứng trên giàn giáo cao so với mặt đất, quan sát vết nứt mới và nghiền ngẫm về nó. Cậu cần nghĩ ra cách giằng phần trên của bức tường để nó không rung chuyển theo gió.
    Cậu nhớ lại cách mà phần dưới của bức tường đã được củng cố. Bức tường bên ngoài của gian phụ cứng cáp, những trụ dầy nối với tường gian giữa bởi nửa vòng cung dấu trong mái gian phụ. Nửa vòng cung và cột trụ hỗ trợ bức tường từ xa, giống như trụ tường bên ngoài. Vì các cột chống được dấu nên gian giữa nhìn nhẹ nhàng và duyên dáng.
    Cậu cần tạo nên một hệ thống tương tự để nâng đỡ phần trên của bức tường. Cậu có thể làm gian phụ thành hai tầng và lập lại cách kiến trúc ở phần dưới. Nhưng như thế ánh sáng xuyên qua cửa sổ ở phần trên sẽ bị chặn lại, và toàn bộ ý tưởng của kiểu kiến trúc mới là mang nhiều ánh sáng vào nhà thờ sẽ không thực hiện được.
    Dĩ nhiên không phải lối đi bên cạnh đã đóng vai trò hỗ trợ, nhưng chính là những trụ cột nặng trong bức tường cạnh và nửa vòng cung kết nối ở trên. Gian phụ đã che dấu các yếu tố kiến trúc này. Nếu cậu có thể xây cột trụ và nửa vòng cung để nâng đỡ phần trên bức tường mà không cần kết hợp chúng với gian phụ, cậu có thể giải quyết được vấn đề.
    Một giọng nói gọi ông từ bên dưới.
    Cậu cau mày. Trước khi nghe tiếng gọi, cậu có một ý tưởng nào đó, nhưng bây giờ nó lại biến mất. Cậu nhìn xuống. Tu viện trưởng Philip gọi cậu.
    Cậu đi vào tháp và xuống cầu thang xoắn. Philip đợi cậu ở bên dưới. Tu viện trưởng đang tức giận. “Richard đã phản bội tôi!” ông nói không mào đầu.
    Jack ngạc nhiên: “Bằng cách nào?”
    Philip không trả lời ngay câu hỏi. “Tôi đã làm cho cậu ấy mọi thứ,” ông bung ra. “Tôi đã mua len của Aliena khi những người khác bắt ép cô – nếu không có tôi, cô ấy chẳng bao giờ bắt đầu công việc buôn bán được. Khi việc buôn bán khó khăn tôi đã cho cậu ấy công việc trưởng ban canh gác. Và tháng mười một năm trước tôi đã tiết lộ cho cậu ấy về hiệp ước hòa bình và nó giúp cậu ấy chiếm lại được lâu đài lãnh chúa. Và bây giờ khi cậu ấy có lại lãnh địa và cai trị trong huy hoàng, cậu ấy đã quay lưng lại với tôi.”
    Jack chưa bao giờ thấy Philip tức giận. Đầu trọc của ông đỏ lên vì phẫn nộ và ông nói lắp bắp.
    “Richard đã phản bội ông bằng cách nào?” Jack hỏi.
    Một lần nữa ông lại làm ngơ trước câu hỏi. “Tôi luôn biết Richard là một người có cá tính yếu. Cậu ấy ít khi hỗ trợ Aliena, qua nhiều năm cậu chỉ đòi hỏi nơi cô ấy và chẳng bao giờ để ý đến nhu cầu của cô ấy. Nhưng tôi không nghĩ cậu ấy lại là kẻ hung ác.”
    “Cậu ấy đã làm gì?”
    Sau cùng Philip nói với cậu. “Cậu ấy từ chối không cho chúng ta sử dụng mỏ đá.”
    Jack bị sốc. Đó là một hành động vô ơn. “Nhưng cậu ấy biện hộ ra sao?”
    “Tất cả mọi thứ được trả lại cho chủ nhân trong thời gian của vua Henry thứ nhất. Và mỏ đá được trao cho chúng ta bởi vua Stephen.”
    Sự tham lam của Richard là quá mức, nhưng nó không làm Jack tức giận như Philip. Bây giờ họ đã xây xong nửa nhà thờ, hầu hết với đá mà họ phải mua, bằng cách nào đó nó sẽ tiếp tục. “Nói một cách nghiêm khắc, tôi cho rằng cậu ấy đúng,” cậu lập luận.
    Philip bị xúc phạm. “Làm sao cậu dám nói điều đó?”
    “Nó cũng giống như ông làm cho tôi,” Jack nói. “Sau khi tôi mang về cho ông tượng Mẹ khóc, thiết kế cho ông một mẫu nhà thờ mới tuyệt đẹp, xây một tường thành bảo vệ ông khỏi hiểm họa William. Ông loan báo rằng tôi không thể sống chung với người đàn bà là mẹ của các con tôi. Đó là sự vô ơn.”
    Philip bị sốc vì sự so sánh đó. “Nó hoàn toàn khác nhau!” ông phản đối. “Tôi không muốn cậu sống xa nhau. Chính Waleran đã cản trở việc vô hiệu hóa hôn nhân của cậu. Nhưng luật Chúa nói cậu không được ngoại tình.”
    “Tôi chắc Richhard sẽ nói tương tự như vậy,” Jack cố chấp. “Không phải Richard là người ra lệnh lấy lại tài sản. Cậu ấy chỉ thi hành luật.”
    Tiếng chuông trưa vang lên.
    “Có sự khác biệt giữa luật Thiên Chúa và luật của con người,” Philip nói.
    “Nhưng chúng ta phải giữ cả hai,” Jack phản đối. “Và bây giờ tôi phải đi ăn cơm trưa với mẹ của các con tôi.”
    Cậu đi và để Philip đứng lại bối rối. Cậu không thực sự nghĩ Philip vô ơn như Richard, nhưng cảm xúc cậu thoải mái ra. Cậu quyết định sẽ hỏi Aliena về quặng mỏ. Richard có thể bị thuyết phục để trao lại quyền sử dụng quặng mỏ. Cô ấy sẽ biết.
    Cậu rời sân tu viện và đi qua những con đường về nhà nơi cậu sống với Martha. Aliena và các con ở trong nhà bếp như thường lệ. Nạn đói đã qua đi với mùa gặt hái được mùa năm trước, và đồ ăn không còn khan hiếm: có bánh mì và thịt cừu nướng trên bàn.
    Jack hôn các con. Sally cho cậu một nụ hôn trẻ con mềm mại, nhưng Tommy, bây giờ đã mười một tuổi và muốn mau lớn, xấu hổ chìa má cho cậu. Jack mỉm cười nhưng không nói gì: cậu nhớ lại cậu cũng đã nghĩ hôn là ngớ ngẩn.
    Aliena có vẻ bối rối. Jack ngồi trên ghế dài bên cạnh cô và nói: Philip đang nổi giận vì Richard không cho ông mỏ đá.”
    “Thật tệ hại,” Aliena nói nhẹ nhàng. “Làm sao Richard có thể vô ơn như thế.”
    “Em có nghĩ rằng có thể thuyết phục cậu ấy đổi ý không?”
    “Em thực sự không biết,” cô nói. Cô không tập trung.
    Jack nói: “Hình như em không quan tâm đến vấn đề này lắm?”
    Cô nhìn cậu thách thức. “Không, em không quan tâm.”
    Cậu biết tâm trạng này. “Tốt hơn em nói cho anh biết em đang nghĩ gì.”
    Cô đứng lên. “Hãy vào phía phòng trong.”
    Với một cái nhìn tiếc rẻ về đĩa thịt cừu, cậu rời bàn và theo cô vào trong phòng ngủ. Như thường lệ, họ để cửa mở để tránh nghi ngờ nếu có người nào đó vào nhà. Aliene ngồi trên giường và khoanh tay trước ngực. “Em đã có một quyết định quan trọng,” cô bắt đầu.
    “Em đã sống cả quãng đời trưởng thành dưới hai chiếc bóng. Một là lời thề em đã hứa với bố của em trước khi ông qua đời. Chiếc bóng thứ hai là quan hệ của em với anh.”
    Jack nói: “Nhưng em đã hoàn thành lời thề với bố của em rồi.”
    “Vâng. Và em muốn được tự do khỏi chiếc bóng thứ hai nữa. Em quyết định sẽ rời bỏ anh.”
    Tim Jack như ngừng đập. Cậu biết cô không dễ gì nói những điều như thế: cô rất nghiêm chỉnh. Cậu nhìn cô, không nói lên lời. Lời nói của cô làm cậu mất phương hướng: cậu chẳng bao giờ nghĩ rằng cô sẽ rời xa cậu. Làm sao chuyện này có thể xẩy ra? Một nghi ngờ đến với cậu và cậu nói ra ngay: “Em có người nào khác?”
    “Đừng ngớ ngẩn.”
    “Vậy tại sao?”
    “Bởi vì em không còn có thể chịu đựng được nữa,” cô nói, và mắt cô đầy nước mắt. “Chúng ta không thể chờ đợi mười năm cho sự vô hiệu hóa hôn nhân này. Nó sẽ chẳng bao giờ có, Jack. Chúng ta phải cam chịu sống như thế này mãi mãi – trừ khi chúng ta chia tay nhau.”
    “Nhưng…” cậu tìm cái gì đó để nói. Quyết định của cô đã rõ ràng nên tranh cãi với cô dường như vô vọng, giống như đi tránh cơn giông bão. Tuy nhiên cậu cố gắng. “Như chúng ta đang sống không tốt hơn là xa nhau sao?”
    “Về lâu về dài không hơn gì.”
    “Nhưng nếu em đi xa, nó sẽ thay đổi gì?”
    “Em phải gặp người khác và phải lòng họ. Sau đó em có thể sống một cuộc sống bình thường,” cô nói, nhưng cô khóc.
    “Em vẫn còn kết hôn với Alfred.”
    “Nhưng không ai biết hoặc để ý đến. Hôn nhân của em có thể được một linh mục chúc lành, một linh mục chẳng bao giờ nghe nói về thợ xây Alfred và sẽ coi cuộc hôn nhân ấy là vô hiệu khi biết về nó.”
    “Anh không tin những gì em nói.”
    “Mười năm rồi, Jack. Em đã chờ đợi mười năm để có cuộc sống bình thường với anh. Em không thể chờ thêm nữa.”
    Lời cô như những cú đánh vào cậu. Cô tiếp tục nói nhưng cậu không còn hiểu cô. Tất cả những gì cậu có thể nghĩ là được sống với cô. Cậu ngắt ngang cô: “Như em biết, anh sẽ chẳng yêu người nào khác.”
    Cô nhăn mặt như thể cô đau, nhưng cô tiếp tục với những gì cô muốn nói. “Em cần vài tuần để thu xếp mọi việc. Em sẽ tìm một nhà ở Winchester. Em muốn các con quen dần với ý này trước khi cuộc sống của chúng bắt đầu -”
    “Em định mang con anh đi sao?” cậu nói ngớ ngẩn.
    Cô gật đầu. “Em xin lỗi,” cô nói. Lần đầu tiên dường như cô nghi ngờ về quyết định của cô. “Em biết chúng sẽ nhớ anh. Nhưng chúng cũng cần một đời sống bình thường nữa.”
    Jack không thể chịu được nữa. Cậu quay đi.
    Aliena nói: “Đừng đi. Chúng ta phải nói nhiều nữa. Jack –“
    Cậu đi ra, không trả lời.
    Cậu nghe cô khóc sau lưng cậu: “Jack!”
    Cậu đi ngang phòng khách, không nhìn con cái và rời khỏi nhà. Trong sững sờ, không biết đi đâu, cậu đi về hướng nhà thờ. Các thợ xây vẫn ăn trưa. Cậu không thể khóc: nước mắt không làm vơi đi nỗi khổ. Không nghĩ ngợi, cậu leo cầu thang gian ngang phía bắc, lên đến đỉnh, và bước lên mái nhà.
    Bên dưới hầu như không có gió nhưng bên trên gió thổi mạnh. Jack nhìn xuống. Nếu cậu từ đây rơi xuống, cậu sẽ rớt trên mái nhà gian phụ, gần gian ngang. Có thể cậu sẽ chết, nhưng không chắc chắn. Cậu đi tới gian trung tâm và đứng đó, nơi mái nhà bất ngờ kết thúc. Khi ngôi nhà thờ kiểu kiến trúc mới không vững vàng và Aliena rời bỏ cậu, cậu không còn gì để sống.
    Quyết định của cô không tình cờ như nó có vẻ như thế, dĩ nhiên. Sự bất mãn của cô đã lớn lên trong nhiều năm – không phải chỉ có cô mà cả cậu cũng vậy. Nhưng họ đã quen với bất hạnh. Sau khi chiếm lại được lãnh địa, Aliena dường như tỉnh lại từ hôn mê và cô nhận ra cô chính là người chịu trách nhiệm cho cuộc đời cô. Tình trạng đã bất ổn từ trước, chứ không phải như cơn bão đã gây nên những vết nứt trong tường nhà thờ.
    Cậu nhìn vào bức tường gian ngang và mái của hai gian phụ. Cậu có thể nhìn thấy trụ tường nặng nhô ra khỏi bức tường ở hai gian ngang, và cậu có thể tưởng tượng nửa vòng cung dưới mái của hai gian phụ, nối liền trụ tường với chân của bức tường có cửa sổ phía trên. Vấn đề có thể giải quyết được bằng cách, cậu đã nghĩ trước khi Philip làm cậu phân tâm buổi sáng hôm nay, là một trụ tường cao, có lẽ cao hai mươi bộ, với một vòng cung thứ hai bắt ngang khoảng trống tới bức tường nơi các vết nứt xuất hiện. Vòng cung và trụ tường cao sẽ tăng thêm độ giữ phần trên của nhà thờ và giữ bức tường vững chắc khi gió thổi.
    Điều đó có thể giải quyết được vấn đề. Sự phức tạp là, nếu ông xây thêm một tầng thứ hai của gian phụ để che dấu trụ tường và nửa vòng cung thứ hai, cậu có thể mất ánh áng; và nếu cậu không xây…
    Khi tôi không xây thêm tầng phía trên, cậu nghĩ, chuyện gì sẽ xẩy ra?
    Cậu bị chi phối bởi cảm xúc rằng không có gì quá quan trọng từ khi cuộc sống của cậu bắt đầu tan rã và chia lìa; và trong tâm trạng đó cậu có thể nhìn thấy không có vấn đề gì nếu trụ tường đứng trơ trọi một mình. Đứng ở đây, trên đỉnh mái nhà, cậu dễ dàng tưởng tượng nó sẽ như thế nào. Một hàng cột đá mạnh mẽ sẽ vươn lên từ bức tường của hai gian phụ. Từ đỉnh mỗi cột, một nửa vòng cung sẽ bắt ngang khoảng trống sang đến phần cửa sổ phía trên. Có lẽ cậu sẽ trang trí đầu mỗi cột. Như vậy trông nó đẹp hơn.
    Nó là một tư tưởng cách mạng khi xây một trụ chống mạnh mẽ, lộ thiên mà mọi người có thể nhìn thấy. Nó cũng thích hợp với phong cách kiến trúc mới là tỏ ra tòa nhà đã được xây như thế nào.
    Một cách nào đó trực giác của cậu nói nó đúng.
    Càng nghĩ về nó, cậu càng thích nó. Cậu tưởng tượng nhà thờ từ hướng tây. Nửa vòng cung sẽ trông giống như những cánh chim, tất cả thẳng hàng, sẵn sàng cất cánh. Chúng không cần vĩ đại. Chúng có thể mảnh mai và thanh lịch, nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, giống như những cánh chim. Những trụ tường có cánh, cậu nghĩ, đối với những nhà thờ nhẹ nó có thể bay.
    Tôi tự hỏi, cậu nghĩ, nó có thành công không.
    Một cơn gió bất ngờ làm cậu mất thăng bằng. Cậu bấp bênh trên góc mái nhà. Có lúc cậu nghĩ cậu sẽ ngã và chết. Sau đó cậu lấy lại thăng bằng và lui lại, tim cậu đập mạnh.
    Chậm rãi và cẩn thận, cậu trở lại theo mái nhà tới cửa tháp và đi xuống.
     
     
    II
     
    Công việc xây dựng nhà thờ chính tòa ở Shiring đã hoàn toàn ngừng hẳn. Tu viện trưởng Philip nhận thấy một chút hả hê về việc đó. Sau nhiều lần chán chường nhìn vào công trường xây dựng bỏ hoang, ông không thể không cảm thấy hài lòng vì chuyện đó bây giờ lại xẩy ra cho kẻ thù của ông. Thợ xây Alfred chỉ có thời gian đập phá nhà thờ cũ và đặt chân móng cho gian cung thánh mới trước khi William bị hạ bệ và tiền bạc khô kiệt. Philip nhủ lòng rằng vui mừng về sự đổ nát của một nhà thờ là một tội. Tuy nhiên, ý Chúa rõ ràng rằng nhà thờ chính tòa được xây ở Kingsbridge, chứ không phải ở Shiring. Vận xấu đã theo đuổi dự án của Waleran dường như là một dấu hiệu rõ ràng của ý Thiên Chúa.
    Bây giờ nhà thờ lớn nhất của thị trấn đã bị đập đi, tòa án quận được tổ chức ở sảnh đường lớn của lâu đài. Philip cưỡi ngựa cùng với Jonathan lên đồi. Sau khi Remigius rời bỏ tu viện, Jonathan đã thành người phụ tá của Philip. Ông đã vị sốc vì sự bội bạc của Remigius, nhưng sau đó ông vui vì đã thoát được ông ấy. Sau khi đánh bại Remigius trong cuộc bầu cử, ông ấy là một cái gai trong mắt Philip. Từ khi ông đi, tu viện sống thoải mái hơn.
    Milius trở thành tu viện phó. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục giữ chức vụ thủ quỹ và có một đội ngũ ba người dưới quyền ông. Từ khi Remigius ra đi, không ai có thể tưởng tượng được ông sẽ làm gì.
    Philip có một sự hài lòng sâu xa khi làm việc với Jonathan. Ông vui vẻ giải thích cho cậu cách tu viện được điều hành, dạy cậu những khía cạnh của thế giới và chỉ cho cậu cách đối xử với con người. Chàng trai được nhiều người quý mến, nhưng một đôi khi cậu thiếu thông cảm và cậu có thể làm cho những người thiếu tự tin cáu tiết. Cậu phải học rằng những người đối xử một cách thù địch với cậu xuất phát từ yếu điểm của họ. Cậu chỉ nhìn thấy sự thù địch và phản ứng lại một cách giận dữ, thay vì nhìn thấy yếu điểm của họ và làm cho họ an tâm.
    Jonathan có một trí thông minh sắc sảo, cậu thường làm cho Philip ngạc nhiên. Một đôi khi Philip thấy cậu mắc tội tự cao và nghĩ rằng Jonathan cũng giống như ông.
    Hôm nay ông đem Jonathan theo ông để cậu tìm hiểu tòa án quận hoạt động như thế nào. Philip đang yêu cầu cảnh sát trưởng ra lệnh cho Richard để tu viện được dùng mỏ đá. Ông chắc chắn rằng Richard sai về mặt pháp lý. Luật mới về việc trao trả tài sản cho chủ cũ thời vua Henry cũ không ảnh hưởng đến quyền của tu viện. Mục đích của nó là cho phép Nam tước Henry thay thế các bá tước của Stephen bằng các bá tước của ông và thưởng công cho những người đã ủng hộ ông ấy. Nó rõ ràng không thể áp dụng cho các tu viện. Trong trường hợp này Philip tin rằng sẽ thắng, nhưng có một sự kiện không rõ ràng: vị cảnh sát trưởng đã chết và người thay thế sẽ được công bố vào ngày hôm nay. Không ai biết ai sẽ lên thay, nhưng mọi người dự đoán công việc đó sẽ được đảm trách bởi một trong bốn công dân hàng đầu ở Shiring: David Merchant, người bán lụa; Rees Welsh, một linh mục đã làm việc ở tòa án hoàng cung; Giles Lionheart, một hiệp sĩ với đất đai ngay bên ngoài thị trấn; hay Hugh Bastard, con trai không hợp pháp của giám mục ở Salisbury. Philip hy vọng Rees sẽ được chọn, không phải vì ông ấy là đồng hương của ông, nhưng bởi vì ông là người ủng hộ giáo hội. Nhưng Philip không quá lo lắng: bất cứ ai trong bốn người cũng sẽ xét xử cho quyền lợi của ông.
    Họ cưỡi ngựa vào lâu đài. Nó không được bảo vệ nghiêm ngặt. Shiring đã thoát được nhiều cuộc chiến, vì bá tước của Shiring có một lâu đài riêng rẽ ở ngoại ô. Lâu đài này đúng hơn là trung tâm hành chính, với văn phòng và chỗ ở cho cảnh sát trưởng và binh lính của ông, và một ngục tối giam giữ tội nhân. Philip và Jonathan đem ngựa vào chuồng và đi vào đại sảnh trong tòa nhà lớn nhất.
    Bàn ghế thường được kê theo hình chữ T đã được sắp xếp lại. Hàng đầu trên đỉnh của chữ T vẫn giữ nguyên, được nâng lên cao bằng một bục; và những bàn khác được kê dọc theo bức tường hai bên, do đó nguyên đơn và bị cáo ngồi xa nhau và tránh bạo động.
    Sảnh đường đã đầy. Giám mục Waleran ngồi trên bục, trông ác độc. Trước sự ngạc nhiên của Philip, William Hamleigh ngồi với ông, nói chuyện to nhỏ với giám mục và quan sát những người vào sảnh đường. William làm gì ở đây? Từ chín tháng qua, cậu đã nằm dí ở trong làng, và Philip – cùng với nhiều người khác trong vùng – hy vọng rằng cậu sẽ ở đó mãi mãi. Nhưng cậu đang ở đây, ngồi trên ghế như thể cậu vẫn còn là bá tước. Cậu làm gì ở đây và cậu muốn gì, Philip tự hỏi.
    Philip và Jonathan ngồi xuống bên phòng và chờ đợi phiên tòa bắt đầu. Trong tòa án có một bầu khí bận rộn và lạc quan. Bây giờ chiến tranh đã kết thúc, thành phần ưu tú của đất nước lại quan tâm đến việc kinh doanh để tạo nên của cải. Kinh doanh là một mảnh đất mầu mỡ và những nỗ lực của họ đã có hiệu quả: người ta chờ đợi một mùa gặt hái tốt đẹp trong năm nay. Giá len tăng. Philip thuê lại hầu hết các thợ xây đã nghỉ việc trong cao điểm của nạn đói. Ở khắp mọi nơi, những người sống sót là những cá nhân trẻ, mạnh mẽ và khỏe mạnh, và bây giờ họ tràn đầy hy vọng. Người ta cảm nhận bầu khí này trong sảnh đường lớn ở Shiring – qua thái độ của con người, trong giọng nói của họ, qua những bộ giầy mới của đàn ông, qua những khăn đầu sặc sỡ của phụ nữ và qua thực tế là họ đang sở hữu một cái gì đó có giá trị nên họ mới đem ra tòa.
    Họ đứng lên khi phó cảnh sát trưởng và Bá tước Richard bước vào. Hai người trèo lên bục và vẫn đứng, phó cảnh sát trưởng đọc lệnh của hoàng gia bổ nhiệm cảnh sát trưởng mới. Khi ông đọc phần mở đầu dài dòng, Philip lướt nhìn bốn ứng cử viên được dự kiến. Ông hy vọng người thắng cử có sự can đảm để tranh đấu cho luật pháp trước những ông trùm địa phương đầy quyền lực như Giám mục Waleran, Bá tước Richard và Lãnh chúa William. Ứng cử viên được bổ nhiệm có lẽ đã được thông báo trước – không có lý do gì để giấu kín nó – nhưng không có ai trong số họ có vẻ phấn khởi. Thông thường người được bổ nhiệm sẽ đứng bên cạnh người sẽ đọc lệnh bổ nhiệm, nhưng những người đứng đó chỉ có Richard, Waleran và William. Philip kinh hoàng nghĩ rằng có lẽ Waleran được chỉ định làm cảnh sát trưởng. Rồi ông kinh hãi hơn khi nghe đọc: “… được chỉ định làm cảnh sát trưởng ở Shiring là William Hamleigh, và tôi ra lệnh cho mọi người giúp đỡ ông…”
    Philip nhìn Jonathan và nói: “William!”
    Có tiếng ngạc nhiên và phản đối trong số cư dân thị trấn.
    Jonathan nói: “Tại sao cậu ấy có thể làm được chuyện đó?”
    “Cậu ấy phải trả cho nó.”
    “Cậu ấy lấy tiền ở đâu?”
    “Mượn. Anh nghĩ như vậy.”
    William di chuyển đến ngai gỗ ở giữa đỉnh dãy bàn và mỉm cười. Một thời cậu đã là một thanh niên đẹp trai, Philip nhớ lại. Cậu vẫn dưới bốn mươi, nhưng cậu trông già hơn. Thân cậu nặng nề, mặt cậu đỏ vì rượu và tất cả sức mạnh sống động và lạc quan làm nên khuôn mặt trẻ hấp dẫn đã biến mất, nhường chỗ cho một cái nhìn tàn tạ.
    Khi William ngồi xuống, Philip đứng lên.
    Jonathan đứng lên theo và thì thầm: “Chúng ta ra về à?”
    “Theo anh,” Philip rít lên.
    Căn phòng yên lặng. Tất cả ánh mắt dõi theo họ khi họ đi ngang căn phòng xử án. Đám đông rẽ ra cho họ đi. Họ đến cửa và đi ra ngoài. Lời bình luận tuôn ra vừa khi cánh cửa đóng sau lưng họ.
    Jonathan nói: “Khi William xử án, chúng ta không có cơ hội.”
    “Tệ hơn nữa,” Philip nói. “Khi chúng ta khăng khăng trong việc kiện của chúng ta, chúng ta có thể mất những quyền lợi khác.”
    “Trời ơi! Em chẳng bao giờ nghĩ về điều đó.”
    Philip gật đầu một cách chua chát. “Với William là cảnh sát trưởng, Waleran là giám mục và Richard phản bội là bá tước, tu viện Kingsbridge không còn cơ hội có được công lý trong quận nữa. Họ có thể làm những gì họ muốn.”
    Trong khi người coi ngựa gắn yên, Philip nói: “Anh đang kiến nghị nhà vua nâng Kingsbridge lên thành phố. Qua cách đó chúng ta có riêng tòa án, và chúng ta trả thuế trực tiếp cho nhà vua. Tác dụng là chúng ta ở ngoài thẩm quyền của cảnh sát trưởng.”
    “Trong quá khứ anh luôn luôn chống lại chuyện đó,” Jonathan nói.
    “Anh chống lại chuyện đó vì nó tạo cho thành phố nhiều quyền lực như tu viện. Nhưng bây giờ anh nghĩ chúng ta phải chấp nhận nó như cái giá phải trả cho sự độc lập. Lựa chọn khác là William.”
    “Nhà vua có sẵn sàng cho chúng ta quyền pháp lý của một thành phố không?”
    “Ông ấy có thể, ở một giá nào đó. Nhưng nếu ông ấy từ chối, có lẽ Henry sẽ cho khi ông ấy lên ngôi.”
    Họ lên ngựa và cưỡi qua thành phố một cách chán nản. Họ đi qua cổng và qua bãi rác ngay bên ngoài thành. Một vài người già yếu tìm kiếm trong đống rác cái gì đó để ăn, để mặc hay để đốt. Philip nhìn họ không để ý lắm, nhưng mắt ông bất ngờ dán chặt vào một người. Một hình dáng cao quen thuộc khom lưng trên đống giẻ rách, lựa nó ra. Philip kìm dây cương ngựa lại. Jonathan tiến lên bên cạnh ông.
    “Hãy nhìn,” Philip nói.
    Jonathan nhìn theo ánh mắt ông. Một lúc sau cậu lặng lẽ nói: “Remigius.”
    Philip quan sát. Waleran và William đã hiển nhiên bỏ rơi Remigius một thời gian trước đây, khi quỹ xây dựng nhà thờ mới khô cạn. Họ không còn cần ông. Remigius đã phản bội Philip, phản bội tu viện và phản bội Kingsbridge, trong hy vọng được trở thành Tu viện trưởng ở Shiring, nhưng bây giờ chẳng còn gì.
    Philip quay ngựa ra khỏi con đường và vượt qua đống rác đến chỗ Remigius đứng. Jonathan theo ông. Một mùi hôi như sương mù sông lên từ mặt đất. Khi đến gần, ông thấy Remigius gầy trơ xương. Tu phục của ông bẩn thỉu và ông đi chân không. Ông đã sáu mươi tuổi và trải qua cả cuộc đời trưởng thành trong tu viện Kingsbridge: không ai dạy ông cách sống ngoài đời. Philip thấy ông kéo từ đống rác một đôi giày da. Đôi giày có lỗ rách trong lòng bàn chân, nhưng Remigius nhìn nó với biểu hiện của một người tìm được kho tàng chôn dấu. Khi ông định thử chúng, ông nhìn thấy Philip.
    Ông đứng thẳng lên. Mặt ông biểu lộ một cuộc nội chiến giữa xấu hổ và thách đố trong trái tim của ông. Một lúc sau ông nói: “Anh đến đây để hả hê về nỗi khổ của tôi à?”
    “Không,” Philip nói nhẹ nhàng. Kẻ thù cũ của ông trong tình trạng đáng thương như thế này làm Philip không cảm thấy gì hơn là thương xót ông. Ông xuống ngựa và lấy một bình ra khỏi bao ở yên ngựa. “Tôi đến để cho anh một hớp rượu.”
    Remigius không muốn nhận, nhưng ông quá đói khát để từ chối. Ông do dự một lúc, rồi giật lấy bình. Ông nghi ngờ ngửi rượu và đưa bình vào miệng. Khi đã bắt đầu uống, ông không còn có thể ngừng lại. Rượu chỉ còn nửa bình và ông đã uống hết trong vài phút. Ông lảo đảo và hạ bình xuống.
    Philip cầm lấy nó và cất lại vào trong bị. “Anh cũng cần cái gì để ăn,” ông nói. Ông đem ra một ổ bánh nhỏ.
    Remigius lấy bánh và cho vào miệng. Rõ ràng từ nhiều ngày qua ông đã không có gì ăn và từ nhiều tuần không có một bữa ăn tươm tất. Ông có thể chết sớm, Philip buồn bã nghĩ; nếu không vì đói thì cũng chết vì xấu hổ.
    Bánh đã trôi xuống nhanh. Philip nói: “Anh có muốn trở lại tu viện không?”
    Ông nghe thấy Jonathan thở mạnh. Giống như nhiều tu sĩ khác, Jonathan đã hy vọng chẳng bao giờ thấy Remigius nữa. Có lẽ cậu nghĩ Philip điên nên mới đề nghị cho Remigius trở về.
    “Trở về? Ở vị trí nào?” Nó tỏ ra con người cũ của Remigius.
    Philip lắc đầu buồn bã. “Anh sẽ chẳng bao giờ nhận bất cứ một địa vị nào trong tu viện của tôi, Remigius. Anh có thể trở lại như một tu sĩ bình thường và khiêm tốn. Hãy xin Chúa tha thứ cho anh và sống cuộc đời còn lại trong cầu nguyện và suy niệm, chuẩn bị linh hồn anh cho cuộc sống mai sau.”
    Remigius ngẩng đầu lên và Philip chờ đợi một sự từ chối; nhưng nó chẳng bao giờ đến. Remigius mở miệng muốn nói, rồi đóng lại và nhìn xuống. Philip đứng yên và im lặng, quan sát và tự hỏi chuyện gì sẽ xẩy ra. Sự yên lặng kéo dài. Philip nín thở. Khi Remigius nhìn lên, mặt ông đầy nước mắt. “Vâng, thưa cha, xin vui lòng,” ông nói. “Em muốn về lại nhà.”
    Philip cảm thấy một thoáng của niềm vui. “Vậy hãy lên ngựa của tôi.”
    Remigius sửng sốt.
    Jonathan nói: “Anh đang làm gì thế?”
    Philip nói với Remigius: “Đi nào, làm như anh nói.”
    Jonathan hoảng hốt. “Nhưng anh đi bằng gì?”
    “Anh sẽ đi bộ,” Philip vui vẻ nói. “Một người trong chúng ta phải đi bộ.”
    “Hãy để Remigius đi bộ!” Jonathan nói với giọng phẫn nộ.
    “Hãy để ông ấy cưỡi ngựa,” Philip nói. “Hôm nay ông ấy đã làm hài lòng Chúa.”
    “Thế còn anh? Anh đã không làm hài lòng Chúa hơn Remigius sao?”
    “Chúa Giê Su nói rằng thiên đàng vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hơn là chín mươi chín người công chính,” Philip phản đối. “Em không nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng sao? Khi cậu ấy trở về, cha cậu đã giết con bê béo. Các thiên thần vui mừng vì nước mắt của Remigius. Chuyện nhỏ nhất anh có thể làm là cho ông ấy con ngựa của anh.”
    Ông cầm lấy dây cương và dẫn đường qua đống rác ra tới đường. Jonathan theo sau. Khi họ ra tới đường, Jonathan xuống ngựa và nói: “Anh làm ơn lấy con ngựa của em, và cho phép em được đi bộ.”
    Philip quay lại cậu và nói với một chút nghiêm khắc. “Hãy lên ngựa của em. Đừng tranh luận với anh và hãy nghĩ về những gì đã xẩy ra và tại sao.”
    Jonathan bối rối. Cậu lên ngựa và không nói gì nữa.
    Họ quay về hướng Kingsbridge. Nó xa chừng hai mươi dặm. Philip đi bộ, ông cảm thấy tuyệt vời. Sự trở lại của Remigius bù đắp hơn cho sự mất mỏ đá. Tôi thua trong vụ kiện, ông nghĩ, nhưng nó chỉ mất những hòn đá. Những gì tôi đạt được còn có giá trị hơn.
    Hôm nay tôi đã thắng một linh hồn.
     
     
    III
     
    Táo chín mới nổi trôi trong thùng, tỏa màu đỏ vàng trong ánh mặt trời lấp lánh trên mặt nước. Sally, chín tuổi và dễ kích động, cúi mình trên thành thùng với hai bàn tay chắp sau lưng và cố gặm một trái táo bằng răng của mình. Trái táo trôi đi, khuôn mặt cô chúi xuống nước, rồi cô ngẩng lên thổi phì phì và ré lên cười. Aliena cười nhẹ và lau mặt cô con gái nhỏ.
    Nó là một buổi chiều mùa hè ấm áp, một ngày lễ và là ngày nghỉ, và hầu hết dân làng tụ họp trên cánh đồng bên kia sông cho trò chơi gặm táo trôi trên mặt nước. Đây là những dịp Aliena rất thích, nhưng đây là ngày lễ cuối cùng của cô ở Kingsbridge làm cô luôn bận tâm và xuống tinh thần. Cô vẫn quyết định rời Jack, nhưng từ khi quyết định cô đã bắt đầu cảm thấy trước nỗi đau của mất mát.
    Tommy đang lang thang gần thùng nước và Jack gọi: “Chơi đi con, Tommy – hãy thử xem.”
    “Con chưa chơi đâu,” cậu trả lời.
    Vào lứa tuổi mười một Tommy biết cậu thông minh hơn em gái cậu và cậu nghĩ cậu hơn hầu hết mọi người nữa. Cậu nhìn một lúc, nghiên cứu kỹ thuật của những người đã thắng trò chơi. Aliena chăm chú nhìn cậu quan sát. Cô yêu cậu một cách đặc biệt. Jack bằng tuổi này khi cô gặp Jack lần đầu, và Tommy giống Jack khi còn nhỏ. Nhìn cậu cô nhớ lại tuổi thơ. Jack muốn Tommy trở thành thợ xây, nhưng Tommy chưa tỏ ra cậu thích thú về xây dựng. Tuy nhiên, thời gian còn dài.
    Sau cùng cậu bước lên thùng. Cậu cúi mình xuống và gục đầu xuống chậm rãi. Cậu đẩy trái táo cậu chọn xuống mặt nước, nhấn cả mặt xuống sâu, và rồi ngẩng lên đắc thắng với một trái táo trong hàm răng.
    Khi Tommy để tâm đến điều gì đó, cậu cũng đạt được nó. Trong cậu có một chút gì đó của ông ngoại, Bá tước Bartholomew. Cậu có một ý chí mạnh mẽ và một cảm giác nhậy cảm cho đúng và sai, tốt và xấu.
    Sally kế thừa bản chất dễ tính và coi thường luật lệ do con người tạo ra của Jack. Khi Jack kể cho các con những câu truyện, Sally luôn luôn có cảm tình với những người yếu thế, trong khi Tommy thường hay lên án. Mỗi đứa trẻ có cá tính từ một phần của cha mẹ và nét mặt của người kia: Sally vui vẻ có nét cân đối và lọn tóc đen rối của Aliena, và Tommy dứt khoát có tóc màu cà rốt, nước da trắng và mắt xanh của Jack.
    Tommy reo lên: “Cậu Richard đến!”
    Aliena quay lại và dõi theo ánh mắt của cậu. Chắc chắn rồi, em cô, Bá tước Richard đang cưỡi ngựa vào bãi cỏ cùng với một nhóm các hiệp sĩ và cận thần. Aliena kinh ngạc. Làm sao cậu có đủ can đảm để chường mặt ra ở đây sau khi cậu đã đối xử tệ như thế với Philip về quặng mỏ?
    Cậu đi đến thùng, mỉm cười và bắt tay mọi người. “Thử cắn một trái táo, cậu Richard,” Tommy nói. “Cậu có thể làm nó.”
    Richard nhúng đầu vào thùng và ngẩng lên với một trái táo trong hàm răng trắng của cậu và bộ râu bạch kim của cậu ướt sũng. Trong trò chơi cậu thành công hơn là trong đời sống thật, Aliena nghĩ.
    Cô không thể cho cậu tiếp tục như thể cậu chẳng làm điều gì sai. Những người khác có thể sợ nói bất cứ điều gì vì cậu là bá tước, nhưng đối với cô, cậu chỉ là một người em nhỏ dại khờ. Cậu đến hôn cô, nhưng cô đẩy cậu ra và nói: “Làm sao em dám ăn cắp mỏ đá của tu viện?”
    Jack thấy cuộc tranh cãi nổ ra nên nắm tay các con và đi chỗ khác.
    Richard có vẻ đau. “Tất cả tài sản được trả lại cho chủ cũ –“
    “Đừng nói với chị điều đó,” Aliena ngắt lời. “Sau khi Philip đã làm tất cả cho em!”
    “Mỏ đá là một phần thừa kế của em,” cậu nói. Cậu kéo cô ra bên cạnh và nói nhỏ để những người khác không nghe được. “Ngoài ra, em cần tiền. Em phải bán đá, Allie.”
    “Đó là tại vì em đi săn cả thời gian!”
    “Nhưng em phải làm gì?”
    “Em phải làm cho đất thành giầu có! Có nhiều việc phải làm – sửa lại những đổ vỡ do chiến tranh và nạn đói gây ra, mang lại phương pháp canh tác mới, dọn rừng và thoát nước ngập – đó là cách tăng sự giầu có của em. Không phải ăn cắp mỏ đá mà Vua Stephen đã cho tu viện Kingsbridge.”
    “Em chẳng bao giờ lấy bất cứ cái gì không phải là của em.”
    “Em cũng chẳng bao giờ làm cái gì khác!” Aliena bùng lên. Aliena quá tức giận để nói ra những điều mà tốt hơn không nên nói. “Em chẳng bao giờ làm bất cứ cái gì. Em lấy tiền của chị mua những vũ khí ngớ ngẩn. Em lấy công việc Philip cho em. Em lấy lãnh địa khi nó được trao cho em trên một cái đĩa chị đã dọn sẵn. Bây giờ em không thể điều hành nó mà không cần lấy những cái không thuộc về em.” Cô quay đi và giận dữ bỏ đi.
    Richard đi theo cô, nhưng một người nào đó giữ cậu lại, cúi đầu và hỏi thăm cậu. Aliena nghe cậu trả lời lịch sự, sau đó bị lôi kéo vào cuộc trò chuyện. Như vậy lại tốt hơn: cô đã nói phần của cô và không muốn tranh cãi với cậu nữa. Cô đến chiếc cầu và quay lại. Bây giờ một người khác nói chuyện với cậu. Cậu vẫy cô, ra hiệu như muốn tiếp tục nói chuyện với cô, nhưng cậu bị mắc kẹt. Cô thấy Jack, Tommy và Sally đang chơi một trò chơi với gậy và bóng. Cô chăm chú nhìn họ chơi chung với nhau dưới ánh mặt trời, và cô cảm thấy cô không thể chia lìa họ. Nhưng còn cách nào khác, cô nghĩ, để tôi có một đời sống bình thường?
    Cô vượt qua cây cầu vào thị trấn. Cô muốn ở một mình một lúc.
    Cô đã thuê một căn nhà ở Winchester, một căn nhà rộng với một cửa tiệm ở tầng trệt, một phòng khách ở tầng trên, một phòng ngủ riêng, và một nhà kho lớn ở cuối sân để chứa vải. Nhưng càng gần đến ngày dọn đi, cô càng không muốn đi.
    Các con đường ở Kingsbridge nóng và bụi bặm, và không khí đầy ruồi được phát sinh từ những đống phân. Tất cả cửa tiệm đã đóng cửa và các nhà đã gài then. Thị trấn hoang vắng. Mọi người ở trên bãi cỏ.
    Cô đến nhà Jack. Đó là nơi những người khác sẽ đến khi trò chơi cắn táo qua đi. Cửa nhà mở. Cô cau mày khó chịu. Ai đã để cửa như vậy? Rất nhiều người có chìa khóa nhà: cô, Jack, Richard và Martha. Không có gì nhiều để ăn cắp. Aliena chắc chắn không để tiền ở đó: từ nhiều năm nay Philip đã cho cô gửi nó trong kho bạc của tu viện. Nhưng cả nhà sẽ đầy ruồi.
    Cô đi vào. Trời tối và lạnh. Những con ruồi nhẩy múa giữa phòng, nhặng bò trên khăn bàn và vài con ong bay quanh nồi mật.
    Và Alfred đang ngồi ở bàn.
    Aliena hét lên một tiếng hoảng sợ nhỏ, sau đó bình tĩnh lại và nói: “Làm sao anh có thể vào được?”
    “Anh có chìa khóa.”
    Cậu ấy đã giữ nó từ lâu, Aliena nghĩ. Cô nhìn cậu. Vai rộng của cậu đã gầy trơ xương và khuôn mặt cậu hốc hác. Cô nói: “Anh làm gì ở đây?”
    “Anh muốn gặp em.”
    Cô thấy mình run lên, không phải vì sợ mà vì giận. “Em không muốn gặp anh, bây giờ và chẳng bao giờ nữa,” cô khạc nhổ. “Anh đối xử với em như một con chó, và rồi khi Jack thương hại anh và thuê anh làm, anh đã phản bội sự tin tưởng của anh ấy và đem tất cả thợ của anh ấy đến Shiring.”
    “Anh cần tiền,” cậu nói với một pha trộn của van nài và thách thức trong giọng nói.
    “Vậy hãy đi làm.”
    “Việc xây dựng đã ngưng lại ở Shiring. Anh không thể tìm được việc làm ở Kingsbridge.”
    “Vậy hãy đi London – hãy đi Paris.”
    Cậu bướng bỉnh như con bò. “Anh nghĩ em sẽ giúp anh.”
    “Ở đây không có gì cho anh. Tốt hơn anh nên đi ra.”
    “Em không có lòng thương xót sao?” cậu nói, giọng cậu không còn thách thức mà chỉ còn van xin.
    Cô dựa vào bàn. “Alfred, anh không hiểu là em ghét anh sao?”
    “Tại sao?” Cậu nói. Cậu trông đáng thương như thể điều đó là một bất ngờ cho cậu.
    Trời ơi! Cậu ấy quá ngu ngốc, cô nghĩ; nó gần như cậu ấy muốn một lời xin lỗi. “Đi đến tu viện nếu anh cần sự từ thiện,” cô nói một cách mệt mỏi. “Khả năng tha thứ của tu viện trưởng vượt trên sức người phàm. Nhưng em thì không.”
    “Nhưng em là vợ anh,” Alfred nói.
    Nó đã đủ. “Em không phải là vợ anh,” cô rít lên. “Anh không phải là chồng em. Anh chẳng bao giờ là chồng em. Bây giờ hãy ra khỏi nhà này.”
    Trước sự ngạc nhiên của cô, cậu nắm tóc cô. “Em là vợ anh,” cậu nói. Cậu kéo cô qua bàn về phía cậu, và với bàn tay còn lại cậu ôm ngực cô và bóp mạnh.
    Aliena hoàn toàn bất ngờ. Đó là điều cuối cùng cô chờ đợi từ một người đàn ông đã ngủ cùng phòng với cô chín tháng trời mà không thực hiện một hành vi tình dục nào. Tự động cô hét lên và giằng mình ra khỏi cậu, nhưng cậu nắm chặt tóc cô và kéo cô lại. “Không có ai nghe tiếng em hét đâu,” cậu nói. “Họ ở bên kia bờ sông.”
    Đột nhiên cô sợ hãi kinh hoàng. Họ ở một mình, và cậu ấy rất khỏe. Sau nhiều dặm đường cô đã đi qua, sau nhiều năm cô đã mạo hiểm trong các chuyến đi, bây giờ cô bị tấn công ngay tại nhà bởi một người đàn ông mà cô đã kết hôn!
    Cậu nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô và nói: “Em sợ ư? Tốt hơn em nên tử tế với anh.” Rồi cậu hôn lên môi cô. Cô cắn môi cậu mạnh bao nhiêu có thể. Cậu gầm lên đau đớn.
    Cô không nhìn thấy những cú đấm đang tới. Nó đập mạnh lên má cô đến nỗi cô đã kinh hoàng nghĩ rằng cậu ấy đã đập vỡ xương cô. Một lúc cô hoa mắt và mất thăng bằng. Cô lảo đảo ra khỏi bàn và cảm thấy mình ngã xuống. Lau sậy trên nền nhà làm nhẹ đi cái ngã của cô. Cô lắc đầu cho tỉnh táo và với tay lấy con dao trong tay áo bên trái. Nhưng trước khi cô có thể rút ra, cả hai cổ tay của cô đã bị giữ và cô nghe Alfred nói: “Anh biết về con dao găm nhỏ đó. Anh đã nhìn thấy em thay quần áo, nhớ không?” Cậu buông tay cô, đấm một cái nữa vào mặt cô và nắm lấy con dao găm.
    Aliena cố luồn lách đi. Cậu ngồi trên chân cô và đặt bàn tay trái lên cổ cô. Aliena đập tay xung quanh. Bất ngờ mũi giao găm kề ngay mắt cô. “Hãy yên hay anh sẽ móc mắt em,” cậu nói.
    Cô cứng người. Ý nghĩ bị mù làm cô hoảng sợ. Cô đã nhìn thấy người bị mù vì hình phạt. Họ đi ăn xin ngoài đường, đôi mắt rỗng nhìn chằm chằm vào người qua lại. Những đứa nhỏ trêu chọc họ, ngáng chân cho họ vấp ngã để họ giận giữ và cố gắng đuổi theo bắt kẻ trêu chọc họ. Thông thường họ sẽ chết trong vòng một hay hai năm.
    “Anh nghĩ có thể làm em bình tĩnh lại,” Alfred nói.
    Tại sao cậu ấy làm điều đó? Cậu ấy chẳng bao giờ có ham muốn nào với cô. Có phải vì cậu thất bại và giận dữ, và cô có điểm yếu? Có phải cô đại diện cho thế giới từ chối cậu?
    Cậu nghiêng người về phía trước, hai đầu gối bên cạnh hông cô, giữ con dao vào mắt cô. Một lần nữa cậu đưa mặt cậu gần với mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói, “hãy tử tế.” Cậu hôn cô.
    Mặt chưa cạo râu của cậu làm xước da mặt cô. Hơi thở cậu toàn mùi bia và hành. Cô giữ miệng khép kín.
    “Không được,” cậu nói. “Hãy hôn lại anh.”
    Cậu hôn cô một lần nữa, và dí con dao gần hơn. Khi nó đụng vào mắt cô, cô chuyển động môi cô. Miệng cậu làm cô muốn nôn. Cậu đẩy lưỡi thô của cậu giữa đôi môi cô. Cô cảm thấy như cô phải ựa ra và cố gắng đè nén cảm giác kinh tởm vì sợ cậu ấy sẽ giết cô.
    Cậu kéo người lên khỏi cô, nhưng vẫn giữ con dao vào mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói. “Hãy sờ cái này.” Cậu lấy tay cô kéo vào trong áo dài của cậu. Cô chạm vào cơ quan sinh dục của cậu. “Cầm lấy nó,” cậu nói. Cô nắm nó. “Bây giờ cọ xát nhẹ nhàng.”
    Cô vâng lời cậu. Khi cô làm cậu thỏa mãn điều này, có thể cậu sẽ buông tha cô, cô nghĩ. Cô sợ hãi nhìn vào mặt cậu. Mặt cậu đỏ lên và mắt cậu nhắm nghiền. Cô vuốt ve cậu ấy đến tận gốc, nhớ rằng Jack đã bị kích thích vì nó.
    Cô sợ rằng cô sẽ chẳng bao giờ có thể hưởng sự âu yếm này lần nữa, và nước mắt cô rơi xuống.
    Cậu giật con dao một cách nguy hiểm. “Đừng mạnh quá!” cậu nói.
    Cô tập trung.
    Rồi cánh cửa bật mở.
    Tim cô đầy hy vọng. Một luồng sáng chiếu qua phòng và nhấp nháy qua làn nước mắt của cô. Alfred chết cóng. Cô kéo tay cô ra khỏi.
    Cả hai nhìn về phía cửa. Ai đó? Aliena không thể nhìn thấy. Xin đừng cho một đứa con nào vào, lạy Chúa, cô cầu nguyện, con cảm thấy xấu hổ. Cô nghe một tiếng gầm giận dữ. Nó là giọng nói của một người đàn ông. Cô chớp đi những giọt nước mắt và nhận ra em trai Richard của cô.
    Tội nghiệp Richard: nó còn tồi tệ hơn nếu là Tommy. Richard còn mang trên tai phải vết sẹo, nhắc nhở cậu về một biến cố mà cậu phải chứng kiến khi cậu mười bốn tuổi. Bây giờ cậu lại phải chứng kiến một cảnh khác. Làm sao cậu có thể chịu đựng được?
    Alfred chồm dậy trên đôi chân, nhưng Richard còn nhanh hơn cậu. Aliena thấy Richard lao qua căn phòng nhỏ nhanh như chớp và dùng đôi giày đá trúng cằm Alfred. Alfred dựa vào bàn. Richard rượt theo cậu, vô ý đạp lên cả Aliena và tấn công Alfred bằng chân và tay. Aliena lăn ra chỗ khác. Mặt Richard có nét của tức giận không thể kiềm chế được. Cậu không nhìn Aliena. Cậu không lo lắng cho cô, cô hiểu. Cậu nổi giận không phải vì những gì Alfred đã làm cho cô hôm nay, nhưng vì những gì William và Walter đã làm cho cậu, Richard, mười tám năm về trước. Ngày đó cậu còn là một thiếu niên nhút nhát và bất lực. Bây giờ cậu là một thanh niên khỏe mạnh và một người lính có kinh nghiệm, và sau cùng cậu đã tìm thấy một mục tiêu cho sự tức giận điên cuồng mà cậu đã nuôi nó trong lòng từ những năm qua. Cậu đánh Alfred lần nữa, rồi lần nữa với cả hai nắm đấm. Alfred lảo đảo quanh bàn, cố giơ hai tay lên bảo vệ mình. Rồi Richard bồi một cú đấm vào trúng cằm Alfred, cậu ấy ngã xuống.
    Alfred nằm trên đống lau sậy, nhìn lên kinh hoàng. Aliena sợ hãi trước bạo lực của em mình và nói: “Đủ rồi, Richard!” Richard làm ngơ và bước đến đá vào Alfred. Rồi bất ngờ Alfred nhận ra cậu vẫn còn con dao của Aliena trong tay. Cậu né cú đá, nhanh chóng đứng lên và vung dao ra. Giật mình, Richard nhẩy lui lại. Alfred lao vào cậu, đẩy cậu lui về phía sau tường. Cả hai đều cao và có thân hình như nhau, Aliena nhận ra. Richard là một người quen với chiến đấu, nhưng Alfred có vũ khí: cả hai cân bằng nhau. Aliena bất ngờ lo cho em mình. Điều gì sẽ xẩy ra nếu Alfred thắng? Chính cô cũng phải chiến đấu với Alfred.
    Cô nhìn quanh tìm một vũ khí. Mắt cô sáng lên vì đống củi bên lò sưởi. Cô nhặt lên một bản gỗ nặng.
    Alfred lại lao vào Richard. Richard tránh; và khi cánh tay Alfred vừa đưa ra, Richard nắm lấy cổ tay cậu ấy và kéo. Alfred mất thăng bằng, lảo đảo về phía trước. Richard đấm cậu ấy nhiều lần, rất nhanh, bằng cả hai nắm đấm, nhắm vào mặt và cơ thể cậu ấy. Một nụ cười man rợ trên khuôn mặt Richard, nụ cười của người đàn ông đang trả thù. Alfred bắt đầu rên rỉ, và giơ tay lên bảo vệ mình.
    Richard do dự, thở dốc. Aliena nghĩ nó sắp kết thúc. Nhưng bất ngờ Alfred lại đâm, với một tốc độ bất ngờ, và lần này mũi dao sượt qua má Richard. Richard nhẩy trở lại, đau đớn. Alfred tiến lên với con dao giơ cao. Aliena thấy Alfred có thể giết Richard. Cô chạy về phía Alfred, vung khúc gỗ với tất cả sức mạnh của cô. Cô đánh trượt đầu nhưng trúng khuỷu tay phải của cậu ấy. Cô nghe tiếng vỡ khi miếng gỗ đụng xương. Miếng đòn làm tay Alfred tê liệt và con dao rơi xuống khỏi tay cậu.
    Cách nó kết thúc thật nhanh chóng.
    Richard cúi xuống, nhặt con dao của Aliena và với cùng chuyển động, cậu nâng nó lên và đâm vào ngực cậu ấy với một sức mạnh kinh hoàng.
    Con dao găm chìm sâu đến chuôi.
    Aliena nhìn chằm chằm, kinh sợ. Nó là một đòn khủng khiếp. Alfred hét lên như một con heo bị đâm tiết. Richard kéo con dao ra, và máu Alfred phun ra từ lỗ trong ngực cậu. Alfred mở miệng hét lên, nhưng không phát thành tiếng. Mặt cậu trở nên trắng, rồi xám, mắt cậu đóng lại, và ngã xuống. Máu thấm vào lau sậy.
    Aliena quỳ bên cạnh cậu. Mắt cậu chớp chớp. Cậu vẫn còn thở nhưng sự sống đã ra khỏi cậu. Cô nhìn lên Richard đang đứng thở mạnh. “Anh ấy đã chết,” cô nói.
    Richard gật đầu. Cậu ấy không còn cử động. “Em đã nhìn thấy nhiều người tử tế hơn anh ấy chết,” cậu nói. “Em đã giết những người không đáng chết như anh ấy.”
    Aliena kinh hoàng về sự khắc nghiệt của cậu, nhưng cô không nói gì. Cô nhớ lại lần đầu tiên Richard giết người. Nó xẩy ra sau khi William chiếm lâu đài, và cô cùng Richard trên đường đến Winchester, và hai tên cướp đã tấn công họ. Aliena đã đâm một tên cướp, nhưng cô đã ép Richard, khi đó mới mười lăm tuổi, phải cho ông ấy nhát kiếm cuối cùng. Nếu cậu ấy nhẫn tâm, cô nghĩ với mặc cảm tội lỗi, thì ai là người đã gây ra cho cậu ấy như vậy?
    Cô lại nhìn Alfred. Cậu ấy mở mắt và nhìn lại cô. Cô cảm thấy xấu hổ vì cô có ít sự thương hại với người sắp chết này. Cô nhìn vào trong mắt cậu và nghĩ rằng chính cậu ấy cũng chẳng có lòng thương xót, chẳng biết tha thứ, chẳng rộng lượng. Cậu đã nuôi dưỡng sự bực bội và hận thù trong suốt cuộc đời cậu và tìm niềm vui qua hành động gian ác và trả thù. Đời sống của anh có thể đã khác, Alfred, cô nghĩ. Anh có thể tử tế với em gái anh, và tha thứ cho em ghẻ của anh vì cậu ấy khôn ngoan hơn anh. Anh có thể đã kết hôn vì yêu thay vì để trả thù. Anh cũng có thể trung thành với Tu viện trưởng Philip. Anh cũng có thể hạnh phúc.
    Mắt cậu bất ngờ mở rộng và cậu nói: “Trời ơi! Nó đau.”
    Cô mong cậu chết nhanh.
    Mắt cậu đóng lại.
    Alfred ngừng thở.
    Aliena đứng lên. “Bây giờ tôi là một góa phụ,” cô nói.
     
     
    Alfred được chôn trong nghĩa trang ở tu viện Kingsbridge. Đó là ước nguyện của Martha và cô là người máu mủ thân thiết duy nhất còn sống. Cô cũng là người duy nhất buồn. Alfred chẳng bao giờ tốt với cô, và cô luôn luôn dựa vào Jack, người anh ghẻ của cô, để tìm kiếm an ủi và che chở; tuy nhiên cô muốn cậu được chôn ở một chỗ nào đó gần gũi để cô có thể thăm mộ cậu. Khi họ hạ quan tài xuống, chỉ có mình Martha khóc.
    Jack nhẹ nhõm vì Alfred không còn nữa. Tommy, đứng với Aliena, quan tâm đến mọi thứ - đây là một đám tang trong gia đình đầu tiên và nghi thức an táng đối với cậu tất cả đều mới mẻ. Sally mặt trắng bệch và sợ hãi, nắm chặt tay Martha.
    Richard đã có mặt. Cậu nói với Aliena trong buổi lễ rằng cậu đến để xin Chúa tha thứ cho việc giết người anh rể của cậu. Không phải vì cậu cảm thấy cậu đã làm sai, cậu vội vàng thêm vào: cậu chỉ muốn cho chắc chắn.
    Aliena, khuôn mặt thâm tím và sưng lên vì những cú đánh của Alfred, nhớ lại người chết khi cô gặp cậu lần đầu. Cậu đã tới lâu đài lãnh chúa với bố cậu, thợ xây Tom, và Martha và Ellen và Jack. Khi đó Alfred đã là kẻ bắt nạt trong gia đình, to lớn và mạnh mẽ, với sự tinh quái xảo quyệt và thô tục. Nếu Aliena biết rằng ngày nào đó cô sẽ kết hôn với cậu ấy, có lẽ tốt hơn cô đã nhẩy xuống khỏi tường thành. Cô không tưởng tượng được cô lại gặp gia đình ấy sau khi họ rời lâu đài; nhưng sau cùng cả cô và họ lại sống ở Kingsbridge. Cô và Alfred đã sáng lập hội đồng giáo xứ, một tổ chức hiện nay trở thành cơ chế quan trọng trong đời sống thị trấn. Đó là lúc Alfred cầu hôn cô. Ngay cả trong giấc mơ cô cũng không nghĩ ra là cậu cầu hôn cô vì muốn trả thù em ghẻ của cậu hơn là vì yêu cô. Cô đã từ chối cậu, nhưng sau đó cậu đã nghĩ ra cách đánh lừa cô, và đã thuyết phục cô kết hôn với cậu ấy bằng cách hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho em trai cô. Nhìn lại điều đó, cô cảm thấy Alfred xứng đáng nhận sự thất vọng và nhục nhã trong hôn nhân của họ. Động cơ hôn nhân của cậu là nhẫn tâm và phần thưởng của cậu là không có tình yêu.
    Aliena không thể không cảm thấy hạnh phúc. Dĩ nhiên cô không còn phải rời đi sống ở Winchester nữa: Cô và Jack có thể kết hôn ngay. Cô đã có một bộ mặt nghiêm trang trong đám tang và ngay cả một vài tư tưởng nghiêm trang, nhưng tim cô vỡ òa vì vui.
    Philip đồng ý cho chôn Alfred trong nghĩa trang tu viện. Qua đó ông đã tỏ ra khả năng tha thứ vô hạn của ông đối với những người đã phản bội ông.
    Khi năm người lớn và hai đứa bé đứng bên ngôi mộ chưa lấp đất, Ellen đến.
    Philip bực mình. Ellen đã nguyền rủa một đám cưới Kitô giáo, và vì thế bà không được đến khu tu viện; nhưng ông không thể đuổi bà khỏi đám tang con trai riêng của chồng bà. Dù sao nghi thức an táng đã chấm dứt, vì thế Philip đi về.
    Aliena ân hận. Philip và Ellen, cả hai đều tốt, và thật là xấu hổ vì cả hai trở thành kẻ thù. Nhưng họ tốt trong cách khác nhau và họ, cả hai đều cố chấp về quan niệm luân lý.
    Ellen trông già hơn, với nhiều nét nhăn trên mặt và nhiều tóc bạc, nhưng mắt vàng ròng của bà vẫn đẹp. Bà mặc một áo da thô, còn ngoài ra không có gì khác, ngay cả không có giày. Cánh tay và chân bà rám nắng và gân guốc. Tommy và Sally chạy đến hôn bà. Jack theo sau và ôm bà, siết chặt bà.
    Ellen dơ má cho Richard hôn và nói: “Cháu đã làm đúng. Đừng cảm thấy mắc tội.”
    Bà đứng ở cạnh mộ, nhìn vào và nói: “Tôi là dì ghẻ của cậu ấy. Tôi ước gì tôi đã biết cách làm cho cậu ấy hạnh phúc.”
    Khi bà quay ra khỏi ngôi mộ, Aliena ôm bà.
    Tất cả họ chậm rãi đi ra khỏi đó. Aliena nói với Ellen: “Mẹ có thể ở lại một chút và ăn cơm trưa không?”
    “Rất vui.” Bà luồn tay qua mớ tóc đỏ của Tommy. “Mẹ muốn nói chuyện với các cháu của mẹ. Chúng lớn nhanh quá! Khi mẹ gặp thợ xây Tom lần đầu, Jack bằng tuổi Tommy bây giờ.” Họ đến cổng tu viện. “Khi các con già hơn, năm tháng dường như trôi đi nhanh hơn. Mẹ tin như thế -.“ Bà ngưng câu nói lại và dừng bước.
    “Chuyện gì vậy?” Aliena hỏi.
    Ellen nhìn chằm chằm vào cổng tu viện. Chiếc cổng gỗ mở. Đường phố bên ngoài vắng tanh, nhưng một đám trẻ từ phía xa đứng xúm vào nhau, nhìn vào cái gì đó mà họ không thấy.
    “Richard!” Ellen nói gay gắt. “Đừng đi ra ngoài!”
    Mọi người dừng bước. Aliena có thể nhìn thấy cái gì đã cảnh giác Ellen. Đám trẻ nhìn như thể chúng quan sát cái gì hoặc ai đó đang chờ ở ngoài cửa, bị che nấp bởi bức tường.
    Richard phản ứng nhanh chóng. “Đó là cái bẫy!” cậu nói. Không nói thêm câu nào, cậu quay lại và chạy đi.
    Một lúc sau một chiếc đầu đội mũ sắt xuất hiện ở cổng. Người đàn ông nhìn thấy Richard chạy về hướng nhà thờ, ông ấy hét lên báo động và lao vào sân. Theo sau ông là ba, rồi bốn và năm người khác.
    Những người tham dự đám tang phân tán. Binh lính bỏ qua họ và đuổi theo Richard. Aliena sợ hãi và bối rối: ai là người dám tấn công bá tước thành Shiring một cách công khai và trong một tu viện? Cô nín thở nhìn họ đuổi theo Richard qua sân. Cậu nhẩy qua bức tường thấp mà các thợ xây vừa mới làm. Những người đuổi theo cậu nhẩy theo sau, không quan tâm rằng họ đang vào một nhà thờ. Các thợ thủ công chết đứng ở vị trí, tay giơ bay và búa lên. Một người học việc trẻ hiểu ra vấn đề, cậu giơ một cái xẻng ra và một người lính ngã nhào. Những người khác không phản ứng gì. Richard đến cửa tu viện. Người đuổi theo cậu gần nhất giơ kiếm lên trên đầu cậu. Một thoáng kinh hoàng Aliena nghĩ chuyện gì sẽ xẩy ra khi cửa tu viện đóng và cậu không thể vào. Người lính đâm vào Richard. Richard đẩy cửa và lẻn vào trong, và mũi kiếm đâm vào gỗ khi cánh cửa đóng sầm.
    Aliena thở phào.
    Những người lính tụ họp quanh cổng tu viện, rồi bắt đầu nghi ngờ. Họ dường như nhận ra một cách bất ngờ rằng họ đang ở đâu. Các thợ thủ công đã nhìn họ thù địch và đã giơ búa và rìu lên. Có cả trăm người thợ xây và chỉ có năm người lính.
    Jack nói giận dữ: “Những người này là ai?”
    Một giọng nói phía sau trả lời cậu: “Họ là người của cảnh sát trưởng.”
    Aliena kinh hãi nhìn quanh. Cô biết giọng nói khủng khiếp đó. Ở cổng, William Hamleigh ngồi trên lưng con ngự đen, trang bị vũ khí và mặc áo giáp. Nhìn thấy cậu, Aliena ớn lạnh.
    Jack nói: “Hãy ra khỏi đây, đồ côn trùng.”
    William đỏ mặt vì bị xúc phạm, nhưng cậu không di chuyển. “Tôi đến đây vì có lệnh bắt.”
    “Người của Richard sẽ xé xác cậu.”
    “Cậu ấy sẽ không còn quân khi ở trong tù.”
    “Cậu nghĩ cậu là ai? Một cảnh sát trưởng không thể bắt một bá tước vào tù!”
    “Có thể vì tội giết người.”
    Aliena thở dồn dập. Ngay lập tức cô nhìn ra ngay kế hoạch quỷ quái của William. “Đó không phải là giết người!” cô bật ra.
    “Nó là,” William nói. “Bá tước Richard giết thợ xây Alfred. Và bây giờ tôi phải cắt nghĩa cho Tu viện trưởng Philip là ông đang chứa chấp một kẻ giết người.”
    William thúc ngựa và cưỡi ngựa qua họ, ngang qua đầu phía tây của gian giữa chưa xây, đến sân nhà bếp, nơi dân chúng thường được tiếp. Aliena nhìn theo cậu với sự ngờ vực. Cậu như con quỷ không thể tin được. Tội nghiệp Alfred, người mà họ vừa chôn cất, cậu đã có nhiều sai lầm vì nhỏ mọn và vì cá tính yếu ớt: sự xấu xa của cậu bi thảm hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng William thật sự là đầy tớ của ma quỷ. Aliena nghĩ: Khi nào chúng ta mới thoát được con yêu quái này?
    Binh lính tụ họp với William ở trong sân bếp và một người trong bọn gõ cửa nhà bếp bằng đuôi kiếm. Các thợ xây rời bỏ công trường và đứng thành từng đám, nhìn trừng trừng vào kẻ xâm phạm. Họ trông có vẻ nguy hiểm với búa nặng và đục sắt trong tay. Aliena nói Martha đưa trẻ nhỏ về nhà, rồi cô và Jack đứng chung với các thợ xây.
    Tu viện trưởng Philip ra cửa bếp. Ông thấp hơn William, và trong tu phục nhẹ mùa hè ông trông rất nhỏ so với người đàn ông lực lưỡng trên lưng ngựa trong áo giáp sắt; nhưng nét giận dữ chính đáng trên khuôn mặt ông làm ông đáng sợ hơn William.
    William nói: “Ông đang chứa chấp một kẻ chạy trốn –“
    Philip ngắt lời cậu với một tiếng gầm. “Hãy ra khỏi đây!”
    William thử một lần nữa. “Đó là một kẻ giết người –“
    “Hãy ra khỏi tu viện của tôi!” Philip hét lên.
    “Tôi là cảnh sát trưởng –“
    “Ngay cả nhà vua cũng không được đem những người bạo lực vào trong tu viện. Đi ra! Đi ra!”
    Các thợ xây bắt đầu thầm thì với nhau. Các binh sĩ nhìn họ lo lắng. William nói: “Ngay cả Tu viện trưởng Kingsbridge phải trả lời cảnh sát trưởng.”
    “Nhưng không trong điều kiện này! Đưa quân ông ra khỏi tu viện. Hãy để vũ khí trong chuồng ngựa. Khi ông sẵn sàng hành động như một người tội lỗi khiêm nhường trong nhà Chúa, ông có thể vào tu viện; và rồi tu viện trưởng sẽ trả lời câu hỏi của ông.”
    Philip đi vào trong và đóng sầm cửa lại.
    Các thợ xây cổ vũ.
    Aliena cũng muốn hoan hô nữa. Cả đời cô đã sợ quyền lực và tính dã man của William. Bây giờ trái tim cô hớn hở vì cậu bị Tu viện trưởng Philip coi thường.
    Nhưng William chưa sẵn sàng chấp nhận thất bại. Cậu xuống ngựa. Chậm rãi cậu tháo dây đeo kiếm và trao cho người của cậu. Cậu nói vài lời nhỏ với họ và chúng rời khỏi sân tu viện, mang theo cây kiếm của cậu. William nhìn cho đến khi họ ra tới cổng; rồi cậu quay lại, đứng trước cửa nhà bếp.
    Cậu hét lớn: “Mở cửa cho cảnh sát trưởng?”
    Một lúc sau cửa nhà bếp mở ra, và Philip bước ra. Ông nhìn xuống William, bây giờ đứng không có vũ khí trong sân; rồi ông nhìn đám binh lính đứng đàng sau cổng ở phía xa sân; và sau cùng ông nhìn vào William và nói: “Được. Có chuyện gì?”
    “Ông đang chứa chấp một kẻ giết người trong tu viện. Hãy giao nó cho tôi.”
    Philip nói: “Không có kẻ giết người nào trong tu viện ở Kigsbridge.”
    “Bá tước thành Shiring đã giết thợ xây Alfred bốn ngày trước.”
    “Sai!” Philip nói. “Richard giết Alfred, nhưng đó không phải là giết người. Alfred bị bắt gặp trong hành động cưỡng hiếp.”
    Aliena rùng mình.
    “Cưỡng hiếp?” William nói. “Cậu ấy cưỡng hiếp ai?”
    “Aliena.”
    “Nhưng cô ấy là vợ cậu ấy!” William đắc thắng nói. “Làm sao một người lại có thể cưỡng hiếp vợ mình?”
    Aliena nhìn thấy hướng cuộc tranh luận của William, và sự giận dữ sôi sục trong cô.
    Philip nói: “Cuộc hôn nhân đó chưa bao giờ hoàn thành và cô ấy đã xin vô hiệu hóa hôn nhân đó.”
    “Nó chưa bao giờ được cấp. Họ đã kết hôn trong nhà thờ. Họ vẫn còn kết hôn theo luật. Đó không phải là cưỡng hiếp. Ngược lại.” William bất ngờ quay lại và chỉ tay vào Aliena. “Từ nhiều năm qua cô ấy đã muốn thoát khỏi người chồng này, và sau cùng cô đã thuyết phục em trai cô loại bỏ cậu ấy – bằng cách đâm chết cậu ấy với con dao găm của cô ấy!”
    Tim Aliena lạnh đi. Câu chuyện cậu ấy kể là một lời nói dối xuyên tạc, nhưng đối với những người không thực sự nhìn thấy những gì đã xẩy ra, nó nghe như chuyện thật. Richard gặp rắc rối.
    Philip nói: “Cảnh sát trưởng không thể bắt giữ bá tước!”
    Nó đúng như vậy, Aliena nhận ra. Cô đã không nhớ đến.
    William kéo ra một cuộn giấy. “Tôi có lệnh của hoàng gia. Tôi bắt giữ cậu ấy theo lệnh của nhà vua.”
    Aliena tuyệt vọng. William đã nghĩ về mọi chuyện. “Làm sao William có được nó?” cô lẩm bẩm.
    “Cậu ấy quá nhanh,” Jack trả lời. “Cậu ấy phải đến Winchester và yết kiến nhà vua ngay khi cậu nghe tin.”
    Philip giơ tay ra. “Cho tôi xem lệnh.”
    William giơ nó ra. Họ đứng cách xa nhau nhiều bước. Họ không thể đưa cho nhau nếu không có người bước lên. Sau cùng William bỏ cuộc, cậu lên bậc thang và đưa lệnh của hoàng gia cho Philip.
    Philip đọc nó và đưa lại. “Nó không cho ông quyền tấn công tu viện.”
    “Nó cho tôi quyền bắt giữ Richard.”
    “Cậu ấy đã xin tỵ nạn.”
    “À.” William không ngạc nhiên. Cậu gật đầu như thể cậu nghe lời khẳng định của một điều gì đó không tránh khỏi, và cậu lùi lại vài bước. Khi cậu nói, giọng cậu cất lên để mọi người có thể nghe rõ. “Hãy nói cho cậu ấy biết cậu ấy sẽ bị bắt bất cứ khi nào cậu ấy rời khỏi tu viện.  Người đại diện của tôi sẽ đóng trong thị trấn và bên ngoài lâu đài của cậu ấy. Hãy nhớ -.“ Cậu ngước nhìn xung quanh đám đông đang tụ họp. “Hãy nhớ rằng ai làm hại người của cảnh sát trưởng là làm hại người phục vụ vua.” Cậu quay lại phía Philip. “Hãy nói với cậu ấy rằng cậu ấy có thể tỵ nạn bao lâu cậu ấy thích, nhưng nếu cậu ấy muốn ra đi, cậu ấy phải đối diện với công lý.”
    Tất cả im lặng. William chậm rãi đi xuống bậc thang và đi ngang sân nhà bếp. Lời nói của cậu ấy vang lên như một lời kết án tù đày. Đám đông rẽ ra cho cậu đi. Cậu ném một cái nhìn tự mãn khi cậu đi ngang qua Aliena. Tất cả họ nhìn theo cậu cho đến khi cậu ra đến cổng và lên ngựa. Cậu ra lệnh và phóng đi, để lại hai người đứng ở cổng và nhìn vào.
    Khi Aliena quay lại, Philip đang đứng bên cạnh cô và Jack. “Hãy vào nhà tôi,” ông nói lặng lẽ. “Chúng ta phải thảo luận về chuyện này.” Ông đi vào lại nhà bếp.
    Aliena có cảm giác ông hài lòng kín đáo về một chuyện gì đó.
    Sự hấp dẫn đã qua. Các thợ xây trở lại với công việc, nói chuyện sôi nổi. Ellen đi về nhà với các cháu. Aliena và Jack đi qua nghĩa trang, đi sát công trình xây dựng và vào nhà Philip. Ông chưa ở đó. Họ ngồi đợi trên ghế dài. Jack cảm thấy Aliena lo lắng cho em cô, và cậu ôm cô an ủi.
    Nhìn quanh Aliena nhận thấy năm này qua năm khác nhà của Philip đã từ từ thoải mái hơn. So với một ngôi nhà tư của một bá tước thì căn nhà này vẫn còn ít đồ đạc, nhưng nó không còn khắc khổ như xưa. Đàng trước bàn thờ nhỏ ở trong góc bây giờ là một tấm thảm nhỏ giúp cho đầu gối của tu viện trưởng dễ chịu hơn trong những giờ cầu nguyện thâu đêm; và trên tường đàng sau bàn thờ treo một cây thánh giá bằng bạc cẩn đá, chắc là một quà tặng đắt giá. Nó không gây hại cho Philip khi ông dễ dàng hơn với mình vì ông đã lớn tuổi, Aliena nghĩ. Có lẽ ông cũng dễ dàng hơn với người khác nữa.
    Một lúc sau Philip bước vào, mang theo Richard nhìn bối rối. Richard nói ngay: “William không thể làm chuyện đó, nó là điên cuồng! Tôi thấy Alfred cưỡng hiếp chị tôi – cậu ấy có một con dao trong tay – cậu ấy ngay cả sắp giết tôi!”
    “Bình tĩnh lại,” Philip nói. “Chúng ta hãy nói về chuyện này một cách thanh thản, và cố bình tĩnh để xác định những nguy hiểm, nếu có. Tại sao chúng ta không ngồi xuống?”
    Richard ngồi xuống nhưng cậu tiếp tục nói ngay. “Nguy hiểm? Không có gì nguy hiểm. Một cảnh sát trưởng không thể bỏ tù một bá tước vì bất cứ lý do gì, ngay cả giết người.”
    “Cậu ấy đang thử,” Philip nói. “Cậu ấy để người đợi bên ngoài tu viện.”
    Richard làm một cử chỉ coi thường. “Tôi có thể đi qua những người này với đôi mắt bị bịt. Họ không phải là vấn đề. Jack có thể đợi tôi bên ngoài tường thành với một con ngựa.”
    “Rồi khi đến được lâu đài, cậu sẽ làm gì?” Philip hỏi.
    “Giống như vậy. Tôi có thể lẻn qua người của William. Hay những người của tôi sẽ ra đón tôi.”
    “Nói nghe hay lắm,” Philip nói. “Và sau đó?”
    “Không có gì cả,” Richard nói. “William có thể làm gì?”
    “Vâng, cậu ấy vẫn có một lệnh của hoàng gia triệu cậu để trả lời về một vụ giết người. Cậu ấy sẽ cố bắt giam cậu bất cứ khi nào cậu rời lâu đài.”
    “Tôi sẽ đi mọi nơi với đoàn hộ tống.”
    “Và khi cậu chủ sự tòa án ở Shiring và các nơi khác?”
    “Giống như vậy.”
    “Nhưng khi họ biết chính cậu là người trốn pháp luật, ai sẽ nghe theo quyết định của cậu?”
    “Tôi sẽ khuyên mọi người,” Richard nói mơ hồ. “Họ nên nhớ lại William đã thực thi quyết định của cậu ấy như thế nào khi cậu ấy còn là bá tước.”
    “Họ sẽ không sợ cậu như sợ William. Họ có thể nghĩ rằng cậu không khát máu và độc ác. Tôi hy vọng họ đúng.”
    “Đừng tin vào nó.”
    Aliena cau mày. Thông thường Philip không quá bi quan – trừ khi ông có một động cơ kín đáo nào đó. Cô nghi ngờ rằng ông đang đặt nền móng cho một kế hoạch ông đã có. Tôi cá rằng nó có liên quan đến mỏ đá.
    “Lo ngại lớn nhất của tôi là nhà vua,” Philip nói. “Khi cậu từ chối trả lời về vụ buộc tội giết người, cậu coi thường nhà vua. Một năm trước tôi có thể nói: cứ tiếp tục sống và coi thường nó. Nhưng bây giờ chiến tranh đã chấm dứt, nó không còn dễ dàng cho các bá tước để làm những gì họ thích.”
    Jack nói: “Nó dường như cậu phải trả lời việc buộc tội, Richard.”
    “Cậu ấy không thể làm điều đó,” Aliena nói. “Cậu ấy không có hy vọng gì được công lý che chở.”
    “Cô đúng,” Philip nói. “Vụ kiện này sẽ được tòa án hoàng gia xét xử. Sự kiện đã rõ: Alfred cố ép mình trên Aliena, Richard đi vào, họ đánh nhau, và Richard giết Alfred. Mọi chuyện tùy thuộc vào việc giải thích. Và William, một người ủng hộ trung thành của vua Stephen, làm đơn kiện, và Richard là một trong những đồng minh lớn của Công tước Henry, sự phán quyết có lẽ sẽ kết tội Richard. Tại sao vua Stephen ra lệnh bắt? Có lẽ bởi vì ông quyết định trả thù Richard đã chiến đấu chống lại ông. Cái chết của Alfred cho nhà vua một lý do hoàn hảo.”
    Aliena nói: “Chúng ta phải khiếu nại với Công tước Henry để nhờ can thiệp.”
    Bây giờ đến phiên Richard không còn cảm thấy chắc chắn. “Tôi không muốn dựa vào ông ấy. Ông ấy ở Normandy. Có thể ông ấy viết một lá thư phản đối, nhưng ông có thể làm gì khác? Dĩ nhiên ông có thể cùng với một đội quân qua kênh, nhưng như vậy ông vi phạm hiệp ước hòa bình, và tôi nghĩ ông ấy sẽ không mạo hiểm điều ấy vì tôi.”
    Aliena cảm thấy đau khổ và sợ hãi. “Ồ, Richard, em ở trong một hoàn cảnh khó xử, và tất cả chỉ vì em muốn cứu chị.”
    Cậu cho cô nụ cười quến rũ nhất. “Em sẽ làm điều đó lần nữa vì chị, Alli.”
    “Chị biết.” Cậu muốn làm điều đó. Mặc dù những lỗi lầm, Richard can đảm. Nó không công bằng với cậu vì cậu phải đối chọi với một vấn đề nan giải như thế này vừa khi cậu mới thành công để trở thành bá tước. Trong chức vụ bá tước cậu là một thất vọng đối với Aliena – một thất vọng kinh khủng – nhưng cậu không làm gì nên tội để phải nhận số phận này.
    “Được, đó là một giải pháp,” cậu nói. “Tôi có thể ở trong tu viện này cho đến khi Công tước Henry lên nối ngôi hay tôi bị treo cổ vì tội giết người. Tôi có thể trở thành tu sĩ, nếu các tu sĩ không ăn quá nhiều cá.”
    “Có thể có một cách khác,” Philip nói.
    Aliena nhìn ông háo hức. Cô đã nghi ngờ ông có một âm mưu, và cô sẽ biết ơn ông nếu ông có thể giải quyết tình trạng khó xử của Richard.
    “Cậu có thể làm việc đền tội cho vụ giết người,” Philip tiếp tục.
    “Nó có liên quan đến việc ăn cá không?” Richard nói một cách cợt nhã.
    “Tôi đang nghĩ về Đất Thánh,” Philip nói.
    Tất cả yên lặng. Palestine được cai trị bởi vua ở Giêrusalem, Baldwin III, một Ki Tô hữu gốc Pháp. Đất Thánh bị liên tục tấn công bởi các nước Hồi giáo láng giềng, đặc biệt là Ai Cập ở phía nam và Damascus ở phía đông. Để đi tới đó cần một năm hay sáu tháng, và tham gia đoàn quân chiến đấu bảo vệ Ki Tô giáo. Đó là một cách ăn năn tội mà một người có thể làm để tẩy rửa linh hồn của mình về tội giết người. Aliena bắt đầu cảm thấy lo: không phải mọi người sẽ trở về từ Đất Thánh. Nhưng cô đã lo lắng nhiều năm qua về Richard trong chiến tranh, và Đất Thánh có lẽ không nguy hiểm hơn nước Anh. Cô sẽ phải lo lắng nhưng cô đã quen.
    “Vua của Giêrualem luôn cần những người lính,” Richard nói. Cứ vài năm sứ giả của giáo hoàng sẽ đi quanh các vùng, kể những câu chuyện về cuộc chiến và vinh dự trong việc bảo vệ Ki Tô giáo, cố gắng truyền cảm hứng cho người trẻ đi chiến đấu ở Đất Thánh. “Nhưng tôi vừa lãnh trách nhiệm trong lãnh địa của tôi,” cậu nói. “Và ai sẽ phụ trách lãnh địa của tôi trong khi tôi đi xa?”
    “Aliena,” Philip nói.
    Aliena bất ngờ không thở được. Philip đề nghị cô lãnh trách nhiệm của một bá tước, và cai trị như bố cô đã làm… Lời đề nghị làm cô choáng váng một lúc, nhưng chẳng bao lâu sau khi cô bình tĩnh lại, cô thấy điều đó đúng. Khi một người đàn ông đi tới Đất Thánh, vợ ông thông thường sẽ chăm sóc việc nhà. Không có lý do tại sao một người chị lại không chu toàn được cùng vai trò cho một bá tước không có gia đình. Và cô sẽ điều hành lãnh địa theo cách cô luôn luôn biết nó phải được điều hành như thế nào, với công lý, viễn tượng và trí tưởng tượng. Cô sẽ làm những việc Richard đã thất bại. Tim cô rộn ràng khi cô nghĩ về nó. Cô sẽ cố gắng có những ý tưởng mới, cày với ngựa thay vì với bò, gieo trồng vào mùa xuân yến mạch và đậu trên đất bỏ hoang. Cô sẽ dọn đất mới để trồng trọt, thiết lập các chợ mới, và mở quặng đá cho Philip –
    Ông đã nghĩ về điều đó tất nhiên. Trong tất cả những kế hoạch khôn ngoan mà Philip đã mơ ước trong những năm qua, kế hoạch này có lẽ tài tình nhất. Trong một lúc ông giải quyết ba vấn đề: Ông giải cứu Richard khỏi móc treo cổ, ông đặt một người cai trị có khả năng điều hành lãnh địa và sau cùng ông có mỏ đá.
    Philip nói: “Tôi không nghi ngờ gì là vua Baldwin sẽ chào đón cậu – đặc biệt nếu cậu đi với vài hiệp sĩ và binh lính, những người cũng cảm thấy phấn khích để tham gia với cậu. Nó có thể là một đoàn thập tự quân nhỏ của riêng cậu.” Ông ngừng lại một lúc cho thấm. “William dĩ nhiên không thể đụng tới cậu ở đó,” ông tiếp tục. “Và cậu sẽ trở về như một anh hùng. Không ai dám treo cổ cậu nữa.”
    “Đất Thánh,” Richard nói, và có một ánh của sự chết – hay vinh quang trong mắt cậu. Nó là một việc tốt cho cậu, Aliena nghĩ. Cậu không tốt trong việc cai quản lãnh địa. Cậu là một người lính và cậu muốn chiến đấu. Cô thấy cái nhìn xa xăm trên khuôn mặt cậu. Trong tâm trí cậu đã ở đó, với thanh kiếm trong tay, với hình chữ thập đỏ trên chiếc khiên. Cậu chiến đấu chống lại quân ngoại đạo dưới ánh mặt trời thiêu đốt.
    Cậu hạnh phúc.
     
     
    III
     
    Táo chín mới nổi trôi trong thùng, tỏa màu đỏ vàng trong ánh mặt trời lấp lánh trên mặt nước. Sally, chín tuổi và dễ kích động, cúi mình trên thành thùng với hai bàn tay chắp sau lưng và cố gặm một trái táo bằng răng của mình. Trái táo trôi đi, khuôn mặt cô chúi xuống nước, rồi cô ngẩng lên thổi phì phì và ré lên cười. Aliena cười nhẹ và lau mặt cô con gái nhỏ.
    Nó là một buổi chiều mùa hè ấm áp, một ngày lễ và là ngày nghỉ, và hầu hết dân làng tụ họp trên cánh đồng bên kia sông cho trò chơi gặm táo trôi trên mặt nước. Đây là những dịp Aliena rất thích, nhưng đây là ngày lễ cuối cùng của cô ở Kingsbridge làm cô luôn bận tâm và xuống tinh thần. Cô vẫn quyết định rời Jack, nhưng từ khi quyết định cô đã bắt đầu cảm thấy trước nỗi đau của mất mát.
    Tommy đang lang thang gần thùng nước và Jack gọi: “Chơi đi con, Tommy – hãy thử xem.”
    “Con chưa chơi đâu,” cậu trả lời.
    Vào lứa tuổi mười một Tommy biết cậu thông minh hơn em gái cậu và cậu nghĩ cậu hơn hầu hết mọi người nữa. Cậu nhìn một lúc, nghiên cứu kỹ thuật của những người đã thắng trò chơi. Aliena chăm chú nhìn cậu quan sát. Cô yêu cậu một cách đặc biệt. Jack bằng tuổi này khi cô gặp Jack lần đầu, và Tommy giống Jack khi còn nhỏ. Nhìn cậu cô nhớ lại tuổi thơ. Jack muốn Tommy trở thành thợ xây, nhưng Tommy chưa tỏ ra cậu thích thú về xây dựng. Tuy nhiên, thời gian còn dài.
    Sau cùng cậu bước lên thùng. Cậu cúi mình xuống và gục đầu xuống chậm rãi. Cậu đẩy trái táo cậu chọn xuống mặt nước, nhấn cả mặt xuống sâu, và rồi ngẩng lên đắc thắng với một trái táo trong hàm răng.
    Khi Tommy để tâm đến điều gì đó, cậu cũng đạt được nó. Trong cậu có một chút gì đó của ông ngoại, Bá tước Bartholomew. Cậu có một ý chí mạnh mẽ và một cảm giác nhậy cảm cho đúng và sai, tốt và xấu.
    Sally kế thừa bản chất dễ tính và coi thường luật lệ do con người tạo ra của Jack. Khi Jack kể cho các con những câu truyện, Sally luôn luôn có cảm tình với những người yếu thế, trong khi Tommy thường hay lên án. Mỗi đứa trẻ có cá tính từ một phần của cha mẹ và nét mặt của người kia: Sally vui vẻ có nét cân đối và lọn tóc đen rối của Aliena, và Tommy dứt khoát có tóc màu cà rốt, nước da trắng và mắt xanh của Jack.
    Tommy reo lên: “Cậu Richard đến!”
    Aliena quay lại và dõi theo ánh mắt của cậu. Chắc chắn rồi, em cô, Bá tước Richard đang cưỡi ngựa vào bãi cỏ cùng với một nhóm các hiệp sĩ và cận thần. Aliena kinh ngạc. Làm sao cậu có đủ can đảm để chường mặt ra ở đây sau khi cậu đã đối xử tệ như thế với Philip về quặng mỏ?
    Cậu đi đến thùng, mỉm cười và bắt tay mọi người. “Thử cắn một trái táo, cậu Richard,” Tommy nói. “Cậu có thể làm nó.”
    Richard nhúng đầu vào thùng và ngẩng lên với một trái táo trong hàm răng trắng của cậu và bộ râu bạch kim của cậu ướt sũng. Trong trò chơi cậu thành công hơn là trong đời sống thật, Aliena nghĩ.
    Cô không thể cho cậu tiếp tục như thể cậu chẳng làm điều gì sai. Những người khác có thể sợ nói bất cứ điều gì vì cậu là bá tước, nhưng đối với cô, cậu chỉ là một người em nhỏ dại khờ. Cậu đến hôn cô, nhưng cô đẩy cậu ra và nói: “Làm sao em dám ăn cắp mỏ đá của tu viện?”
    Jack thấy cuộc tranh cãi nổ ra nên nắm tay các con và đi chỗ khác.
    Richard có vẻ đau. “Tất cả tài sản được trả lại cho chủ cũ –“
    “Đừng nói với chị điều đó,” Aliena ngắt lời. “Sau khi Philip đã làm tất cả cho em!”
    “Mỏ đá là một phần thừa kế của em,” cậu nói. Cậu kéo cô ra bên cạnh và nói nhỏ để những người khác không nghe được. “Ngoài ra, em cần tiền. Em phải bán đá, Allie.”
    “Đó là tại vì em đi săn cả thời gian!”
    “Nhưng em phải làm gì?”
    “Em phải làm cho đất thành giầu có! Có nhiều việc phải làm – sửa lại những đổ vỡ do chiến tranh và nạn đói gây ra, mang lại phương pháp canh tác mới, dọn rừng và thoát nước ngập – đó là cách tăng sự giầu có của em. Không phải ăn cắp mỏ đá mà Vua Stephen đã cho tu viện Kingsbridge.”
    “Em chẳng bao giờ lấy bất cứ cái gì không phải là của em.”
    “Em cũng chẳng bao giờ làm cái gì khác!” Aliena bùng lên. Aliena quá tức giận để nói ra những điều mà tốt hơn không nên nói. “Em chẳng bao giờ làm bất cứ cái gì. Em lấy tiền của chị mua những vũ khí ngớ ngẩn. Em lấy công việc Philip cho em. Em lấy lãnh địa khi nó được trao cho em trên một cái đĩa chị đã dọn sẵn. Bây giờ em không thể điều hành nó mà không cần lấy những cái không thuộc về em.” Cô quay đi và giận dữ bỏ đi.
    Richard đi theo cô, nhưng một người nào đó giữ cậu lại, cúi đầu và hỏi thăm cậu. Aliena nghe cậu trả lời lịch sự, sau đó bị lôi kéo vào cuộc trò chuyện. Như vậy lại tốt hơn: cô đã nói phần của cô và không muốn tranh cãi với cậu nữa. Cô đến chiếc cầu và quay lại. Bây giờ một người khác nói chuyện với cậu. Cậu vẫy cô, ra hiệu như muốn tiếp tục nói chuyện với cô, nhưng cậu bị mắc kẹt. Cô thấy Jack, Tommy và Sally đang chơi một trò chơi với gậy và bóng. Cô chăm chú nhìn họ chơi chung với nhau dưới ánh mặt trời, và cô cảm thấy cô không thể chia lìa họ. Nhưng còn cách nào khác, cô nghĩ, để tôi có một đời sống bình thường?
    Cô vượt qua cây cầu vào thị trấn. Cô muốn ở một mình một lúc.
    Cô đã thuê một căn nhà ở Winchester, một căn nhà rộng với một cửa tiệm ở tầng trệt, một phòng khách ở tầng trên, một phòng ngủ riêng, và một nhà kho lớn ở cuối sân để chứa vải. Nhưng càng gần đến ngày dọn đi, cô càng không muốn đi.
    Các con đường ở Kingsbridge nóng và bụi bặm, và không khí đầy ruồi được phát sinh từ những đống phân. Tất cả cửa tiệm đã đóng cửa và các nhà đã gài then. Thị trấn hoang vắng. Mọi người ở trên bãi cỏ.
    Cô đến nhà Jack. Đó là nơi những người khác sẽ đến khi trò chơi cắn táo qua đi. Cửa nhà mở. Cô cau mày khó chịu. Ai đã để cửa như vậy? Rất nhiều người có chìa khóa nhà: cô, Jack, Richard và Martha. Không có gì nhiều để ăn cắp. Aliena chắc chắn không để tiền ở đó: từ nhiều năm nay Philip đã cho cô gửi nó trong kho bạc của tu viện. Nhưng cả nhà sẽ đầy ruồi.
    Cô đi vào. Trời tối và lạnh. Những con ruồi nhẩy múa giữa phòng, nhặng bò trên khăn bàn và vài con ong bay quanh nồi mật.
    Và Alfred đang ngồi ở bàn.
    Aliena hét lên một tiếng hoảng sợ nhỏ, sau đó bình tĩnh lại và nói: “Làm sao anh có thể vào được?”
    “Anh có chìa khóa.”
    Cậu ấy đã giữ nó từ lâu, Aliena nghĩ. Cô nhìn cậu. Vai rộng của cậu đã gầy trơ xương và khuôn mặt cậu hốc hác. Cô nói: “Anh làm gì ở đây?”
    “Anh muốn gặp em.”
    Cô thấy mình run lên, không phải vì sợ mà vì giận. “Em không muốn gặp anh, bây giờ và chẳng bao giờ nữa,” cô khạc nhổ. “Anh đối xử với em như một con chó, và rồi khi Jack thương hại anh và thuê anh làm, anh đã phản bội sự tin tưởng của anh ấy và đem tất cả thợ của anh ấy đến Shiring.”
    “Anh cần tiền,” cậu nói với một pha trộn của van nài và thách thức trong giọng nói.
    “Vậy hãy đi làm.”
    “Việc xây dựng đã ngưng lại ở Shiring. Anh không thể tìm được việc làm ở Kingsbridge.”
    “Vậy hãy đi London – hãy đi Paris.”
    Cậu bướng bỉnh như con bò. “Anh nghĩ em sẽ giúp anh.”
    “Ở đây không có gì cho anh. Tốt hơn anh nên đi ra.”
    “Em không có lòng thương xót sao?” cậu nói, giọng cậu không còn thách thức mà chỉ còn van xin.
    Cô dựa vào bàn. “Alfred, anh không hiểu là em ghét anh sao?”
    “Tại sao?” Cậu nói. Cậu trông đáng thương như thể điều đó là một bất ngờ cho cậu.
    Trời ơi! Cậu ấy quá ngu ngốc, cô nghĩ; nó gần như cậu ấy muốn một lời xin lỗi. “Đi đến tu viện nếu anh cần sự từ thiện,” cô nói một cách mệt mỏi. “Khả năng tha thứ của tu viện trưởng vượt trên sức người phàm. Nhưng em thì không.”
    “Nhưng em là vợ anh,” Alfred nói.
    Nó đã đủ. “Em không phải là vợ anh,” cô rít lên. “Anh không phải là chồng em. Anh chẳng bao giờ là chồng em. Bây giờ hãy ra khỏi nhà này.”
    Trước sự ngạc nhiên của cô, cậu nắm tóc cô. “Em là vợ anh,” cậu nói. Cậu kéo cô qua bàn về phía cậu, và với bàn tay còn lại cậu ôm ngực cô và bóp mạnh.
    Aliena hoàn toàn bất ngờ. Đó là điều cuối cùng cô chờ đợi từ một người đàn ông đã ngủ cùng phòng với cô chín tháng trời mà không thực hiện một hành vi tình dục nào. Tự động cô hét lên và giằng mình ra khỏi cậu, nhưng cậu nắm chặt tóc cô và kéo cô lại. “Không có ai nghe tiếng em hét đâu,” cậu nói. “Họ ở bên kia bờ sông.”
    Đột nhiên cô sợ hãi kinh hoàng. Họ ở một mình, và cậu ấy rất khỏe. Sau nhiều dặm đường cô đã đi qua, sau nhiều năm cô đã mạo hiểm trong các chuyến đi, bây giờ cô bị tấn công ngay tại nhà bởi một người đàn ông mà cô đã kết hôn!
    Cậu nhìn thấy nỗi sợ trong mắt cô và nói: “Em sợ ư? Tốt hơn em nên tử tế với anh.” Rồi cậu hôn lên môi cô. Cô cắn môi cậu mạnh bao nhiêu có thể. Cậu gầm lên đau đớn.
    Cô không nhìn thấy những cú đấm đang tới. Nó đập mạnh lên má cô đến nỗi cô đã kinh hoàng nghĩ rằng cậu ấy đã đập vỡ xương cô. Một lúc cô hoa mắt và mất thăng bằng. Cô lảo đảo ra khỏi bàn và cảm thấy mình ngã xuống. Lau sậy trên nền nhà làm nhẹ đi cái ngã của cô. Cô lắc đầu cho tỉnh táo và với tay lấy con dao trong tay áo bên trái. Nhưng trước khi cô có thể rút ra, cả hai cổ tay của cô đã bị giữ và cô nghe Alfred nói: “Anh biết về con dao găm nhỏ đó. Anh đã nhìn thấy em thay quần áo, nhớ không?” Cậu buông tay cô, đấm một cái nữa vào mặt cô và nắm lấy con dao găm.
    Aliena cố luồn lách đi. Cậu ngồi trên chân cô và đặt bàn tay trái lên cổ cô. Aliena đập tay xung quanh. Bất ngờ mũi giao găm kề ngay mắt cô. “Hãy yên hay anh sẽ móc mắt em,” cậu nói.
    Cô cứng người. Ý nghĩ bị mù làm cô hoảng sợ. Cô đã nhìn thấy người bị mù vì hình phạt. Họ đi ăn xin ngoài đường, đôi mắt rỗng nhìn chằm chằm vào người qua lại. Những đứa nhỏ trêu chọc họ, ngáng chân cho họ vấp ngã để họ giận giữ và cố gắng đuổi theo bắt kẻ trêu chọc họ. Thông thường họ sẽ chết trong vòng một hay hai năm.
    “Anh nghĩ có thể làm em bình tĩnh lại,” Alfred nói.
    Tại sao cậu ấy làm điều đó? Cậu ấy chẳng bao giờ có ham muốn nào với cô. Có phải vì cậu thất bại và giận dữ, và cô có điểm yếu? Có phải cô đại diện cho thế giới từ chối cậu?
    Cậu nghiêng người về phía trước, hai đầu gối bên cạnh hông cô, giữ con dao vào mắt cô. Một lần nữa cậu đưa mặt cậu gần với mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói, “hãy tử tế.” Cậu hôn cô.
    Mặt chưa cạo râu của cậu làm xước da mặt cô. Hơi thở cậu toàn mùi bia và hành. Cô giữ miệng khép kín.
    “Không được,” cậu nói. “Hãy hôn lại anh.”
    Cậu hôn cô một lần nữa, và dí con dao gần hơn. Khi nó đụng vào mắt cô, cô chuyển động môi cô. Miệng cậu làm cô muốn nôn. Cậu đẩy lưỡi thô của cậu giữa đôi môi cô. Cô cảm thấy như cô phải ựa ra và cố gắng đè nén cảm giác kinh tởm vì sợ cậu ấy sẽ giết cô.
    Cậu kéo người lên khỏi cô, nhưng vẫn giữ con dao vào mặt cô. “Bây giờ,” cậu nói. “Hãy sờ cái này.” Cậu lấy tay cô kéo vào trong áo dài của cậu. Cô chạm vào cơ quan sinh dục của cậu. “Cầm lấy nó,” cậu nói. Cô nắm nó. “Bây giờ cọ xát nhẹ nhàng.”
    Cô vâng lời cậu. Khi cô làm cậu thỏa mãn điều này, có thể cậu sẽ buông tha cô, cô nghĩ. Cô sợ hãi nhìn vào mặt cậu. Mặt cậu đỏ lên và mắt cậu nhắm nghiền. Cô vuốt ve cậu ấy đến tận gốc, nhớ rằng Jack đã bị kích thích vì nó.
    Cô sợ rằng cô sẽ chẳng bao giờ có thể hưởng sự âu yếm này lần nữa, và nước mắt cô rơi xuống.
    Cậu giật con dao một cách nguy hiểm. “Đừng mạnh quá!” cậu nói.
    Cô tập trung.
    Rồi cánh cửa bật mở.
    Tim cô đầy hy vọng. Một luồng sáng chiếu qua phòng và nhấp nháy qua làn nước mắt của cô. Alfred chết cóng. Cô kéo tay cô ra khỏi.
    Cả hai nhìn về phía cửa. Ai đó? Aliena không thể nhìn thấy. Xin đừng cho một đứa con nào vào, lạy Chúa, cô cầu nguyện, con cảm thấy xấu hổ. Cô nghe một tiếng gầm giận dữ. Nó là giọng nói của một người đàn ông. Cô chớp đi những giọt nước mắt và nhận ra em trai Richard của cô.
    Tội nghiệp Richard: nó còn tồi tệ hơn nếu là Tommy. Richard còn mang trên tai phải vết sẹo, nhắc nhở cậu về một biến cố mà cậu phải chứng kiến khi cậu mười bốn tuổi. Bây giờ cậu lại phải chứng kiến một cảnh khác. Làm sao cậu có thể chịu đựng được?
    Alfred chồm dậy trên đôi chân, nhưng Richard còn nhanh hơn cậu. Aliena thấy Richard lao qua căn phòng nhỏ nhanh như chớp và dùng đôi giày đá trúng cằm Alfred. Alfred dựa vào bàn. Richard rượt theo cậu, vô ý đạp lên cả Aliena và tấn công Alfred bằng chân và tay. Aliena lăn ra chỗ khác. Mặt Richard có nét của tức giận không thể kiềm chế được. Cậu không nhìn Aliena. Cậu không lo lắng cho cô, cô hiểu. Cậu nổi giận không phải vì những gì Alfred đã làm cho cô hôm nay, nhưng vì những gì William và Walter đã làm cho cậu, Richard, mười tám năm về trước. Ngày đó cậu còn là một thiếu niên nhút nhát và bất lực. Bây giờ cậu là một thanh niên khỏe mạnh và một người lính có kinh nghiệm, và sau cùng cậu đã tìm thấy một mục tiêu cho sự tức giận điên cuồng mà cậu đã nuôi nó trong lòng từ những năm qua. Cậu đánh Alfred lần nữa, rồi lần nữa với cả hai nắm đấm. Alfred lảo đảo quanh bàn, cố giơ hai tay lên bảo vệ mình. Rồi Richard bồi một cú đấm vào trúng cằm Alfred, cậu ấy ngã xuống.
    Alfred nằm trên đống lau sậy, nhìn lên kinh hoàng. Aliena sợ hãi trước bạo lực của em mình và nói: “Đủ rồi, Richard!” Richard làm ngơ và bước đến đá vào Alfred. Rồi bất ngờ Alfred nhận ra cậu vẫn còn con dao của Aliena trong tay. Cậu né cú đá, nhanh chóng đứng lên và vung dao ra. Giật mình, Richard nhẩy lui lại. Alfred lao vào cậu, đẩy cậu lui về phía sau tường. Cả hai đều cao và có thân hình như nhau, Aliena nhận ra. Richard là một người quen với chiến đấu, nhưng Alfred có vũ khí: cả hai cân bằng nhau. Aliena bất ngờ lo cho em mình. Điều gì sẽ xẩy ra nếu Alfred thắng? Chính cô cũng phải chiến đấu với Alfred.
    Cô nhìn quanh tìm một vũ khí. Mắt cô sáng lên vì đống củi bên lò sưởi. Cô nhặt lên một bản gỗ nặng.
    Alfred lại lao vào Richard. Richard tránh; và khi cánh tay Alfred vừa đưa ra, Richard nắm lấy cổ tay cậu ấy và kéo. Alfred mất thăng bằng, lảo đảo về phía trước. Richard đấm cậu ấy nhiều lần, rất nhanh, bằng cả hai nắm đấm, nhắm vào mặt và cơ thể cậu ấy. Một nụ cười man rợ trên khuôn mặt Richard, nụ cười của người đàn ông đang trả thù. Alfred bắt đầu rên rỉ, và giơ tay lên bảo vệ mình.
    Richard do dự, thở dốc. Aliena nghĩ nó sắp kết thúc. Nhưng bất ngờ Alfred lại đâm, với một tốc độ bất ngờ, và lần này mũi dao sượt qua má Richard. Richard nhẩy trở lại, đau đớn. Alfred tiến lên với con dao giơ cao. Aliena thấy Alfred có thể giết Richard. Cô chạy về phía Alfred, vung khúc gỗ với tất cả sức mạnh của cô. Cô đánh trượt đầu nhưng trúng khuỷu tay phải của cậu ấy. Cô nghe tiếng vỡ khi miếng gỗ đụng xương. Miếng đòn làm tay Alfred tê liệt và con dao rơi xuống khỏi tay cậu.
    Cách nó kết thúc thật nhanh chóng.
    Richard cúi xuống, nhặt con dao của Aliena và với cùng chuyển động, cậu nâng nó lên và đâm vào ngực cậu ấy với một sức mạnh kinh hoàng.
    Con dao găm chìm sâu đến chuôi.
    Aliena nhìn chằm chằm, kinh sợ. Nó là một đòn khủng khiếp. Alfred hét lên như một con heo bị đâm tiết. Richard kéo con dao ra, và máu Alfred phun ra từ lỗ trong ngực cậu. Alfred mở miệng hét lên, nhưng không phát thành tiếng. Mặt cậu trở nên trắng, rồi xám, mắt cậu đóng lại, và ngã xuống. Máu thấm vào lau sậy.
    Aliena quỳ bên cạnh cậu. Mắt cậu chớp chớp. Cậu vẫn còn thở nhưng sự sống đã ra khỏi cậu. Cô nhìn lên Richard đang đứng thở mạnh. “Anh ấy đã chết,” cô nói.
    Richard gật đầu. Cậu ấy không còn cử động. “Em đã nhìn thấy nhiều người tử tế hơn anh ấy chết,” cậu nói. “Em đã giết những người không đáng chết như anh ấy.”
    Aliena kinh hoàng về sự khắc nghiệt của cậu, nhưng cô không nói gì. Cô nhớ lại lần đầu tiên Richard giết người. Nó xẩy ra sau khi William chiếm lâu đài, và cô cùng Richard trên đường đến Winchester, và hai tên cướp đã tấn công họ. Aliena đã đâm một tên cướp, nhưng cô đã ép Richard, khi đó mới mười lăm tuổi, phải cho ông ấy nhát kiếm cuối cùng. Nếu cậu ấy nhẫn tâm, cô nghĩ với mặc cảm tội lỗi, thì ai là người đã gây ra cho cậu ấy như vậy?
    Cô lại nhìn Alfred. Cậu ấy mở mắt và nhìn lại cô. Cô cảm thấy xấu hổ vì cô có ít sự thương hại với người sắp chết này. Cô nhìn vào trong mắt cậu và nghĩ rằng chính cậu ấy cũng chẳng có lòng thương xót, chẳng biết tha thứ, chẳng rộng lượng. Cậu đã nuôi dưỡng sự bực bội và hận thù trong suốt cuộc đời cậu và tìm niềm vui qua hành động gian ác và trả thù. Đời sống của anh có thể đã khác, Alfred, cô nghĩ. Anh có thể tử tế với em gái anh, và tha thứ cho em ghẻ của anh vì cậu ấy khôn ngoan hơn anh. Anh có thể đã kết hôn vì yêu thay vì để trả thù. Anh cũng có thể trung thành với Tu viện trưởng Philip. Anh cũng có thể hạnh phúc.
    Mắt cậu bất ngờ mở rộng và cậu nói: “Trời ơi! Nó đau.”
    Cô mong cậu chết nhanh.
    Mắt cậu đóng lại.
    Alfred ngừng thở.
    Aliena đứng lên. “Bây giờ tôi là một góa phụ,” cô nói.
     
     
    Alfred được chôn trong nghĩa trang ở tu viện Kingsbridge. Đó là ước nguyện của Martha và cô là người máu mủ thân thiết duy nhất còn sống. Cô cũng là người duy nhất buồn. Alfred chẳng bao giờ tốt với cô, và cô luôn luôn dựa vào Jack, người anh ghẻ của cô, để tìm kiếm an ủi và che chở; tuy nhiên cô muốn cậu được chôn ở một chỗ nào đó gần gũi để cô có thể thăm mộ cậu. Khi họ hạ quan tài xuống, chỉ có mình Martha khóc.
    Jack nhẹ nhõm vì Alfred không còn nữa. Tommy, đứng với Aliena, quan tâm đến mọi thứ - đây là một đám tang trong gia đình đầu tiên và nghi thức an táng đối với cậu tất cả đều mới mẻ. Sally mặt trắng bệch và sợ hãi, nắm chặt tay Martha.
    Richard đã có mặt. Cậu nói với Aliena trong buổi lễ rằng cậu đến để xin Chúa tha thứ cho việc giết người anh rể của cậu. Không phải vì cậu cảm thấy cậu đã làm sai, cậu vội vàng thêm vào: cậu chỉ muốn cho chắc chắn.
    Aliena, khuôn mặt thâm tím và sưng lên vì những cú đánh của Alfred, nhớ lại người chết khi cô gặp cậu lần đầu. Cậu đã tới lâu đài lãnh chúa với bố cậu, thợ xây Tom, và Martha và Ellen và Jack. Khi đó Alfred đã là kẻ bắt nạt trong gia đình, to lớn và mạnh mẽ, với sự tinh quái xảo quyệt và thô tục. Nếu Aliena biết rằng ngày nào đó cô sẽ kết hôn với cậu ấy, có lẽ tốt hơn cô đã nhẩy xuống khỏi tường thành. Cô không tưởng tượng được cô lại gặp gia đình ấy sau khi họ rời lâu đài; nhưng sau cùng cả cô và họ lại sống ở Kingsbridge. Cô và Alfred đã sáng lập hội đồng giáo xứ, một tổ chức hiện nay trở thành cơ chế quan trọng trong đời sống thị trấn. Đó là lúc Alfred cầu hôn cô. Ngay cả trong giấc mơ cô cũng không nghĩ ra là cậu cầu hôn cô vì muốn trả thù em ghẻ của cậu hơn là vì yêu cô. Cô đã từ chối cậu, nhưng sau đó cậu đã nghĩ ra cách đánh lừa cô, và đã thuyết phục cô kết hôn với cậu ấy bằng cách hứa hẹn sẽ hỗ trợ cho em trai cô. Nhìn lại điều đó, cô cảm thấy Alfred xứng đáng nhận sự thất vọng và nhục nhã trong hôn nhân của họ. Động cơ hôn nhân của cậu là nhẫn tâm và phần thưởng của cậu là không có tình yêu.
    Aliena không thể không cảm thấy hạnh phúc. Dĩ nhiên cô không còn phải rời đi sống ở Winchester nữa: Cô và Jack có thể kết hôn ngay. Cô đã có một bộ mặt nghiêm trang trong đám tang và ngay cả một vài tư tưởng nghiêm trang, nhưng tim cô vỡ òa vì vui.
    Philip đồng ý cho chôn Alfred trong nghĩa trang tu viện. Qua đó ông đã tỏ ra khả năng tha thứ vô hạn của ông đối với những người đã phản bội ông.
    Khi năm người lớn và hai đứa bé đứng bên ngôi mộ chưa lấp đất, Ellen đến.
    Philip bực mình. Ellen đã nguyền rủa một đám cưới Kitô giáo, và vì thế bà không được đến khu tu viện; nhưng ông không thể đuổi bà khỏi đám tang con trai riêng của chồng bà. Dù sao nghi thức an táng đã chấm dứt, vì thế Philip đi về.
    Aliena ân hận. Philip và Ellen, cả hai đều tốt, và thật là xấu hổ vì cả hai trở thành kẻ thù. Nhưng họ tốt trong cách khác nhau và họ, cả hai đều cố chấp về quan niệm luân lý.
    Ellen trông già hơn, với nhiều nét nhăn trên mặt và nhiều tóc bạc, nhưng mắt vàng ròng của bà vẫn đẹp. Bà mặc một áo da thô, còn ngoài ra không có gì khác, ngay cả không có giày. Cánh tay và chân bà rám nắng và gân guốc. Tommy và Sally chạy đến hôn bà. Jack theo sau và ôm bà, siết chặt bà.
    Ellen dơ má cho Richard hôn và nói: “Cháu đã làm đúng. Đừng cảm thấy mắc tội.”
    Bà đứng ở cạnh mộ, nhìn vào và nói: “Tôi là dì ghẻ của cậu ấy. Tôi ước gì tôi đã biết cách làm cho cậu ấy hạnh phúc.”
    Khi bà quay ra khỏi ngôi mộ, Aliena ôm bà.
    Tất cả họ chậm rãi đi ra khỏi đó. Aliena nói với Ellen: “Mẹ có thể ở lại một chút và ăn cơm trưa không?”
    “Rất vui.” Bà luồn tay qua mớ tóc đỏ của Tommy. “Mẹ muốn nói chuyện với các cháu của mẹ. Chúng lớn nhanh quá! Khi mẹ gặp thợ xây Tom lần đầu, Jack bằng tuổi Tommy bây giờ.” Họ đến cổng tu viện. “Khi các con già hơn, năm tháng dường như trôi đi nhanh hơn. Mẹ tin như thế -.“ Bà ngưng câu nói lại và dừng bước.
    “Chuyện gì vậy?” Aliena hỏi.
    Ellen nhìn chằm chằm vào cổng tu viện. Chiếc cổng gỗ mở. Đường phố bên ngoài vắng tanh, nhưng một đám trẻ từ phía xa đứng xúm vào nhau, nhìn vào cái gì đó mà họ không thấy.
    “Richard!” Ellen nói gay gắt. “Đừng đi ra ngoài!”
    Mọi người dừng bước. Aliena có thể nhìn thấy cái gì đã cảnh giác Ellen. Đám trẻ nhìn như thể chúng quan sát cái gì hoặc ai đó đang chờ ở ngoài cửa, bị che nấp bởi bức tường.
    Richard phản ứng nhanh chóng. “Đó là cái bẫy!” cậu nói. Không nói thêm câu nào, cậu quay lại và chạy đi.
    Một lúc sau một chiếc đầu đội mũ sắt xuất hiện ở cổng. Người đàn ông nhìn thấy Richard chạy về hướng nhà thờ, ông ấy hét lên báo động và lao vào sân. Theo sau ông là ba, rồi bốn và năm người khác.
    Những người tham dự đám tang phân tán. Binh lính bỏ qua họ và đuổi theo Richard. Aliena sợ hãi và bối rối: ai là người dám tấn công bá tước thành Shiring một cách công khai và trong một tu viện? Cô nín thở nhìn họ đuổi theo Richard qua sân. Cậu nhẩy qua bức tường thấp mà các thợ xây vừa mới làm. Những người đuổi theo cậu nhẩy theo sau, không quan tâm rằng họ đang vào một nhà thờ. Các thợ thủ công chết đứng ở vị trí, tay giơ bay và búa lên. Một người học việc trẻ hiểu ra vấn đề, cậu giơ một cái xẻng ra và một người lính ngã nhào. Những người khác không phản ứng gì. Richard đến cửa tu viện. Người đuổi theo cậu gần nhất giơ kiếm lên trên đầu cậu. Một thoáng kinh hoàng Aliena nghĩ chuyện gì sẽ xẩy ra khi cửa tu viện đóng và cậu không thể vào. Người lính đâm vào Richard. Richard đẩy cửa và lẻn vào trong, và mũi kiếm đâm vào gỗ khi cánh cửa đóng sầm.
    Aliena thở phào.
    Những người lính tụ họp quanh cổng tu viện, rồi bắt đầu nghi ngờ. Họ dường như nhận ra một cách bất ngờ rằng họ đang ở đâu. Các thợ thủ công đã nhìn họ thù địch và đã giơ búa và rìu lên. Có cả trăm người thợ xây và chỉ có năm người lính.
    Jack nói giận dữ: “Những người này là ai?”
    Một giọng nói phía sau trả lời cậu: “Họ là người của cảnh sát trưởng.”
    Aliena kinh hãi nhìn quanh. Cô biết giọng nói khủng khiếp đó. Ở cổng, William Hamleigh ngồi trên lưng con ngự đen, trang bị vũ khí và mặc áo giáp. Nhìn thấy cậu, Aliena ớn lạnh.
    Jack nói: “Hãy ra khỏi đây, đồ côn trùng.”
    William đỏ mặt vì bị xúc phạm, nhưng cậu không di chuyển. “Tôi đến đây vì có lệnh bắt.”
    “Người của Richard sẽ xé xác cậu.”
    “Cậu ấy sẽ không còn quân khi ở trong tù.”
    “Cậu nghĩ cậu là ai? Một cảnh sát trưởng không thể bắt một bá tước vào tù!”
    “Có thể vì tội giết người.”
    Aliena thở dồn dập. Ngay lập tức cô nhìn ra ngay kế hoạch quỷ quái của William. “Đó không phải là giết người!” cô bật ra.
    “Nó là,” William nói. “Bá tước Richard giết thợ xây Alfred. Và bây giờ tôi phải cắt nghĩa cho Tu viện trưởng Philip là ông đang chứa chấp một kẻ giết người.”
    William thúc ngựa và cưỡi ngựa qua họ, ngang qua đầu phía tây của gian giữa chưa xây, đến sân nhà bếp, nơi dân chúng thường được tiếp. Aliena nhìn theo cậu với sự ngờ vực. Cậu như con quỷ không thể tin được. Tội nghiệp Alfred, người mà họ vừa chôn cất, cậu đã có nhiều sai lầm vì nhỏ mọn và vì cá tính yếu ớt: sự xấu xa của cậu bi thảm hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng William thật sự là đầy tớ của ma quỷ. Aliena nghĩ: Khi nào chúng ta mới thoát được con yêu quái này?
    Binh lính tụ họp với William ở trong sân bếp và một người trong bọn gõ cửa nhà bếp bằng đuôi kiếm. Các thợ xây rời bỏ công trường và đứng thành từng đám, nhìn trừng trừng vào kẻ xâm phạm. Họ trông có vẻ nguy hiểm với búa nặng và đục sắt trong tay. Aliena nói Martha đưa trẻ nhỏ về nhà, rồi cô và Jack đứng chung với các thợ xây.
    Tu viện trưởng Philip ra cửa bếp. Ông thấp hơn William, và trong tu phục nhẹ mùa hè ông trông rất nhỏ so với người đàn ông lực lưỡng trên lưng ngựa trong áo giáp sắt; nhưng nét giận dữ chính đáng trên khuôn mặt ông làm ông đáng sợ hơn William.
    William nói: “Ông đang chứa chấp một kẻ chạy trốn –“
    Philip ngắt lời cậu với một tiếng gầm. “Hãy ra khỏi đây!”
    William thử một lần nữa. “Đó là một kẻ giết người –“
    “Hãy ra khỏi tu viện của tôi!” Philip hét lên.
    “Tôi là cảnh sát trưởng –“
    “Ngay cả nhà vua cũng không được đem những người bạo lực vào trong tu viện. Đi ra! Đi ra!”
    Các thợ xây bắt đầu thầm thì với nhau. Các binh sĩ nhìn họ lo lắng. William nói: “Ngay cả Tu viện trưởng Kingsbridge phải trả lời cảnh sát trưởng.”
    “Nhưng không trong điều kiện này! Đưa quân ông ra khỏi tu viện. Hãy để vũ khí trong chuồng ngựa. Khi ông sẵn sàng hành động như một người tội lỗi khiêm nhường trong nhà Chúa, ông có thể vào tu viện; và rồi tu viện trưởng sẽ trả lời câu hỏi của ông.”
    Philip đi vào trong và đóng sầm cửa lại.
    Các thợ xây cổ vũ.
    Aliena cũng muốn hoan hô nữa. Cả đời cô đã sợ quyền lực và tính dã man của William. Bây giờ trái tim cô hớn hở vì cậu bị Tu viện trưởng Philip coi thường.
    Nhưng William chưa sẵn sàng chấp nhận thất bại. Cậu xuống ngựa. Chậm rãi cậu tháo dây đeo kiếm và trao cho người của cậu. Cậu nói vài lời nhỏ với họ và chúng rời khỏi sân tu viện, mang theo cây kiếm của cậu. William nhìn cho đến khi họ ra tới cổng; rồi cậu quay lại, đứng trước cửa nhà bếp.
    Cậu hét lớn: “Mở cửa cho cảnh sát trưởng?”
    Một lúc sau cửa nhà bếp mở ra, và Philip bước ra. Ông nhìn xuống William, bây giờ đứng không có vũ khí trong sân; rồi ông nhìn đám binh lính đứng đàng sau cổng ở phía xa sân; và sau cùng ông nhìn vào William và nói: “Được. Có chuyện gì?”
    “Ông đang chứa chấp một kẻ giết người trong tu viện. Hãy giao nó cho tôi.”
    Philip nói: “Không có kẻ giết người nào trong tu viện ở Kigsbridge.”
    “Bá tước thành Shiring đã giết thợ xây Alfred bốn ngày trước.”
    “Sai!” Philip nói. “Richard giết Alfred, nhưng đó không phải là giết người. Alfred bị bắt gặp trong hành động cưỡng hiếp.”
    Aliena rùng mình.
    “Cưỡng hiếp?” William nói. “Cậu ấy cưỡng hiếp ai?”
    “Aliena.”
    “Nhưng cô ấy là vợ cậu ấy!” William đắc thắng nói. “Làm sao một người lại có thể cưỡng hiếp vợ mình?”
    Aliena nhìn thấy hướng cuộc tranh luận của William, và sự giận dữ sôi sục trong cô.
    Philip nói: “Cuộc hôn nhân đó chưa bao giờ hoàn thành và cô ấy đã xin vô hiệu hóa hôn nhân đó.”
    “Nó chưa bao giờ được cấp. Họ đã kết hôn trong nhà thờ. Họ vẫn còn kết hôn theo luật. Đó không phải là cưỡng hiếp. Ngược lại.” William bất ngờ quay lại và chỉ tay vào Aliena. “Từ nhiều năm qua cô ấy đã muốn thoát khỏi người chồng này, và sau cùng cô đã thuyết phục em trai cô loại bỏ cậu ấy – bằng cách đâm chết cậu ấy với con dao găm của cô ấy!”
    Tim Aliena lạnh đi. Câu chuyện cậu ấy kể là một lời nói dối xuyên tạc, nhưng đối với những người không thực sự nhìn thấy những gì đã xẩy ra, nó nghe như chuyện thật. Richard gặp rắc rối.
    Philip nói: “Cảnh sát trưởng không thể bắt giữ bá tước!”
    Nó đúng như vậy, Aliena nhận ra. Cô đã không nhớ đến.
    William kéo ra một cuộn giấy. “Tôi có lệnh của hoàng gia. Tôi bắt giữ cậu ấy theo lệnh của nhà vua.”
    Aliena tuyệt vọng. William đã nghĩ về mọi chuyện. “Làm sao William có được nó?” cô lẩm bẩm.
    “Cậu ấy quá nhanh,” Jack trả lời. “Cậu ấy phải đến Winchester và yết kiến nhà vua ngay khi cậu nghe tin.”
    Philip giơ tay ra. “Cho tôi xem lệnh.”
    William giơ nó ra. Họ đứng cách xa nhau nhiều bước. Họ không thể đưa cho nhau nếu không có người bước lên. Sau cùng William bỏ cuộc, cậu lên bậc thang và đưa lệnh của hoàng gia cho Philip.
    Philip đọc nó và đưa lại. “Nó không cho ông quyền tấn công tu viện.”
    “Nó cho tôi quyền bắt giữ Richard.”
    “Cậu ấy đã xin tỵ nạn.”
    “À.” William không ngạc nhiên. Cậu gật đầu như thể cậu nghe lời khẳng định của một điều gì đó không tránh khỏi, và cậu lùi lại vài bước. Khi cậu nói, giọng cậu cất lên để mọi người có thể nghe rõ. “Hãy nói cho cậu ấy biết cậu ấy sẽ bị bắt bất cứ khi nào cậu ấy rời khỏi tu viện.  Người đại diện của tôi sẽ đóng trong thị trấn và bên ngoài lâu đài của cậu ấy. Hãy nhớ -.“ Cậu ngước nhìn xung quanh đám đông đang tụ họp. “Hãy nhớ rằng ai làm hại người của cảnh sát trưởng là làm hại người phục vụ vua.” Cậu quay lại phía Philip. “Hãy nói với cậu ấy rằng cậu ấy có thể tỵ nạn bao lâu cậu ấy thích, nhưng nếu cậu ấy muốn ra đi, cậu ấy phải đối diện với công lý.”
    Tất cả im lặng. William chậm rãi đi xuống bậc thang và đi ngang sân nhà bếp. Lời nói của cậu ấy vang lên như một lời kết án tù đày. Đám đông rẽ ra cho cậu đi. Cậu ném một cái nhìn tự mãn khi cậu đi ngang qua Aliena. Tất cả họ nhìn theo cậu cho đến khi cậu ra đến cổng và lên ngựa. Cậu ra lệnh và phóng đi, để lại hai người đứng ở cổng và nhìn vào.
    Khi Aliena quay lại, Philip đang đứng bên cạnh cô và Jack. “Hãy vào nhà tôi,” ông nói lặng lẽ. “Chúng ta phải thảo luận về chuyện này.” Ông đi vào lại nhà bếp.
    Aliena có cảm giác ông hài lòng kín đáo về một chuyện gì đó.
    Sự hấp dẫn đã qua. Các thợ xây trở lại với công việc, nói chuyện sôi nổi. Ellen đi về nhà với các cháu. Aliena và Jack đi qua nghĩa trang, đi sát công trình xây dựng và vào nhà Philip. Ông chưa ở đó. Họ ngồi đợi trên ghế dài. Jack cảm thấy Aliena lo lắng cho em cô, và cậu ôm cô an ủi.
    Nhìn quanh Aliena nhận thấy năm này qua năm khác nhà của Philip đã từ từ thoải mái hơn. So với một ngôi nhà tư của một bá tước thì căn nhà này vẫn còn ít đồ đạc, nhưng nó không còn khắc khổ như xưa. Đàng trước bàn thờ nhỏ ở trong góc bây giờ là một tấm thảm nhỏ giúp cho đầu gối của tu viện trưởng dễ chịu hơn trong những giờ cầu nguyện thâu đêm; và trên tường đàng sau bàn thờ treo một cây thánh giá bằng bạc cẩn đá, chắc là một quà tặng đắt giá. Nó không gây hại cho Philip khi ông dễ dàng hơn với mình vì ông đã lớn tuổi, Aliena nghĩ. Có lẽ ông cũng dễ dàng hơn với người khác nữa.
    Một lúc sau Philip bước vào, mang theo Richard nhìn bối rối. Richard nói ngay: “William không thể làm chuyện đó, nó là điên cuồng! Tôi thấy Alfred cưỡng hiếp chị tôi – cậu ấy có một con dao trong tay – cậu ấy ngay cả sắp giết tôi!”
    “Bình tĩnh lại,” Philip nói. “Chúng ta hãy nói về chuyện này một cách thanh thản, và cố bình tĩnh để xác định những nguy hiểm, nếu có. Tại sao chúng ta không ngồi xuống?”
    Richard ngồi xuống nhưng cậu tiếp tục nói ngay. “Nguy hiểm? Không có gì nguy hiểm. Một cảnh sát trưởng không thể bỏ tù một bá tước vì bất cứ lý do gì, ngay cả giết người.”
    “Cậu ấy đang thử,” Philip nói. “Cậu ấy để người đợi bên ngoài tu viện.”
    Richard làm một cử chỉ coi thường. “Tôi có thể đi qua những người này với đôi mắt bị bịt. Họ không phải là vấn đề. Jack có thể đợi tôi bên ngoài tường thành với một con ngựa.”
    “Rồi khi đến được lâu đài, cậu sẽ làm gì?” Philip hỏi.
    “Giống như vậy. Tôi có thể lẻn qua người của William. Hay những người của tôi sẽ ra đón tôi.”
    “Nói nghe hay lắm,” Philip nói. “Và sau đó?”
    “Không có gì cả,” Richard nói. “William có thể làm gì?”
    “Vâng, cậu ấy vẫn có một lệnh của hoàng gia triệu cậu để trả lời về một vụ giết người. Cậu ấy sẽ cố bắt giam cậu bất cứ khi nào cậu rời lâu đài.”
    “Tôi sẽ đi mọi nơi với đoàn hộ tống.”
    “Và khi cậu chủ sự tòa án ở Shiring và các nơi khác?”
    “Giống như vậy.”
    “Nhưng khi họ biết chính cậu là người trốn pháp luật, ai sẽ nghe theo quyết định của cậu?”
    “Tôi sẽ khuyên mọi người,” Richard nói mơ hồ. “Họ nên nhớ lại William đã thực thi quyết định của cậu ấy như thế nào khi cậu ấy còn là bá tước.”
    “Họ sẽ không sợ cậu như sợ William. Họ có thể nghĩ rằng cậu không khát máu và độc ác. Tôi hy vọng họ đúng.”
    “Đừng tin vào nó.”
    Aliena cau mày. Thông thường Philip không quá bi quan – trừ khi ông có một động cơ kín đáo nào đó. Cô nghi ngờ rằng ông đang đặt nền móng cho một kế hoạch ông đã có. Tôi cá rằng nó có liên quan đến mỏ đá.
    “Lo ngại lớn nhất của tôi là nhà vua,” Philip nói. “Khi cậu từ chối trả lời về vụ buộc tội giết người, cậu coi thường nhà vua. Một năm trước tôi có thể nói: cứ tiếp tục sống và coi thường nó. Nhưng bây giờ chiến tranh đã chấm dứt, nó không còn dễ dàng cho các bá tước để làm những gì họ thích.”
    Jack nói: “Nó dường như cậu phải trả lời việc buộc tội, Richard.”
    “Cậu ấy không thể làm điều đó,” Aliena nói. “Cậu ấy không có hy vọng gì được công lý che chở.”
    “Cô đúng,” Philip nói. “Vụ kiện này sẽ được tòa án hoàng gia xét xử. Sự kiện đã rõ: Alfred cố ép mình trên Aliena, Richard đi vào, họ đánh nhau, và Richard giết Alfred. Mọi chuyện tùy thuộc vào việc giải thích. Và William, một người ủng hộ trung thành của vua Stephen, làm đơn kiện, và Richard là một trong những đồng minh lớn của Công tước Henry, sự phán quyết có lẽ sẽ kết tội Richard. Tại sao vua Stephen ra lệnh bắt? Có lẽ bởi vì ông quyết định trả thù Richard đã chiến đấu chống lại ông. Cái chết của Alfred cho nhà vua một lý do hoàn hảo.”
    Aliena nói: “Chúng ta phải khiếu nại với Công tước Henry để nhờ can thiệp.”
    Bây giờ đến phiên Richard không còn cảm thấy chắc chắn. “Tôi không muốn dựa vào ông ấy. Ông ấy ở Normandy. Có thể ông ấy viết một lá thư phản đối, nhưng ông có thể làm gì khác? Dĩ nhiên ông có thể cùng với một đội quân qua kênh, nhưng như vậy ông vi phạm hiệp ước hòa bình, và tôi nghĩ ông ấy sẽ không mạo hiểm điều ấy vì tôi.”
    Aliena cảm thấy đau khổ và sợ hãi. “Ồ, Richard, em ở trong một hoàn cảnh khó xử, và tất cả chỉ vì em muốn cứu chị.”
    Cậu cho cô nụ cười quến rũ nhất. “Em sẽ làm điều đó lần nữa vì chị, Alli.”
    “Chị biết.” Cậu muốn làm điều đó. Mặc dù những lỗi lầm, Richard can đảm. Nó không công bằng với cậu vì cậu phải đối chọi với một vấn đề nan giải như thế này vừa khi cậu mới thành công để trở thành bá tước. Trong chức vụ bá tước cậu là một thất vọng đối với Aliena – một thất vọng kinh khủng – nhưng cậu không làm gì nên tội để phải nhận số phận này.
    “Được, đó là một giải pháp,” cậu nói. “Tôi có thể ở trong tu viện này cho đến khi Công tước Henry lên nối ngôi hay tôi bị treo cổ vì tội giết người. Tôi có thể trở thành tu sĩ, nếu các tu sĩ không ăn quá nhiều cá.”
    “Có thể có một cách khác,” Philip nói.
    Aliena nhìn ông háo hức. Cô đã nghi ngờ ông có một âm mưu, và cô sẽ biết ơn ông nếu ông có thể giải quyết tình trạng khó xử của Richard.
    “Cậu có thể làm việc đền tội cho vụ giết người,” Philip tiếp tục.
    “Nó có liên quan đến việc ăn cá không?” Richard nói một cách cợt nhã.
    “Tôi đang nghĩ về Đất Thánh,” Philip nói.
    Tất cả yên lặng. Palestine được cai trị bởi vua ở Giêrusalem, Baldwin III, một Ki Tô hữu gốc Pháp. Đất Thánh bị liên tục tấn công bởi các nước Hồi giáo láng giềng, đặc biệt là Ai Cập ở phía nam và Damascus ở phía đông. Để đi tới đó cần một năm hay sáu tháng, và tham gia đoàn quân chiến đấu bảo vệ Ki Tô giáo. Đó là một cách ăn năn tội mà một người có thể làm để tẩy rửa linh hồn của mình về tội giết người. Aliena bắt đầu cảm thấy lo: không phải mọi người sẽ trở về từ Đất Thánh. Nhưng cô đã lo lắng nhiều năm qua về Richard trong chiến tranh, và Đất Thánh có lẽ không nguy hiểm hơn nước Anh. Cô sẽ phải lo lắng nhưng cô đã quen.
    “Vua của Giêrualem luôn cần những người lính,” Richard nói. Cứ vài năm sứ giả của giáo hoàng sẽ đi quanh các vùng, kể những câu chuyện về cuộc chiến và vinh dự trong việc bảo vệ Ki Tô giáo, cố gắng truyền cảm hứng cho người trẻ đi chiến đấu ở Đất Thánh. “Nhưng tôi vừa lãnh trách nhiệm trong lãnh địa của tôi,” cậu nói. “Và ai sẽ phụ trách lãnh địa của tôi trong khi tôi đi xa?”
    “Aliena,” Philip nói.
    Aliena bất ngờ không thở được. Philip đề nghị cô lãnh trách nhiệm của một bá tước, và cai trị như bố cô đã làm… Lời đề nghị làm cô choáng váng một lúc, nhưng chẳng bao lâu sau khi cô bình tĩnh lại, cô thấy điều đó đúng. Khi một người đàn ông đi tới Đất Thánh, vợ ông thông thường sẽ chăm sóc việc nhà. Không có lý do tại sao một người chị lại không chu toàn được cùng vai trò cho một bá tước không có gia đình. Và cô sẽ điều hành lãnh địa theo cách cô luôn luôn biết nó phải được điều hành như thế nào, với công lý, viễn tượng và trí tưởng tượng. Cô sẽ làm những việc Richard đã thất bại. Tim cô rộn ràng khi cô nghĩ về nó. Cô sẽ cố gắng có những ý tưởng mới, cày với ngựa thay vì với bò, gieo trồng vào mùa xuân yến mạch và đậu trên đất bỏ hoang. Cô sẽ dọn đất mới để trồng trọt, thiết lập các chợ mới, và mở quặng đá cho Philip –
    Ông đã nghĩ về điều đó tất nhiên. Trong tất cả những kế hoạch khôn ngoan mà Philip đã mơ ước trong những năm qua, kế hoạch này có lẽ tài tình nhất. Trong một lúc ông giải quyết ba vấn đề: Ông giải cứu Richard khỏi móc treo cổ, ông đặt một người cai trị có khả năng điều hành lãnh địa và sau cùng ông có mỏ đá.
    Philip nói: “Tôi không nghi ngờ gì là vua Baldwin sẽ chào đón cậu – đặc biệt nếu cậu đi với vài hiệp sĩ và binh lính, những người cũng cảm thấy phấn khích để tham gia với cậu. Nó có thể là một đoàn thập tự quân nhỏ của riêng cậu.” Ông ngừng lại một lúc cho thấm. “William dĩ nhiên không thể đụng tới cậu ở đó,” ông tiếp tục. “Và cậu sẽ trở về như một anh hùng. Không ai dám treo cổ cậu nữa.”
    “Đất Thánh,” Richard nói, và có một ánh của sự chết – hay vinh quang trong mắt cậu. Nó là một việc tốt cho cậu, Aliena nghĩ. Cậu không tốt trong việc cai quản lãnh địa. Cậu là một người lính và cậu muốn chiến đấu. Cô thấy cái nhìn xa xăm trên khuôn mặt cậu. Trong tâm trí cậu đã ở đó, với thanh kiếm trong tay, với hình chữ thập đỏ trên chiếc khiên. Cậu chiến đấu chống lại quân ngoại đạo dưới ánh mặt trời thiêu đốt.
    Cậu hạnh phúc.
     
     
    IV
     
                Toàn thị trấn đến tham dự đám cưới.
                Aliena ngạc nhiên. Hầu hết mọi người, một cách nào đó, coi cô và Jack như một cặp vợ chồng, và cô nghĩ họ sẽ cho rằng lễ cưới của cô chỉ là hình thức. Cô chỉ chờ đợi một nhóm nhỏ bạn bè bằng tuổi cô và các thợ thủ công của Jack. Nhưng mọi người, từ đàn ông đến đàn bà và trẻ em ở Kingsbridge đã đến. Cô cảm động về sự hiện diện của họ. Và họ vui cho cô. Cô nhận ra rằng họ đã thông cảm với cô trong những năm qua, mặc dù họ tự kiềm chế không nói điều đó với cô và bây giờ họ chia sẻ niềm vui với cô vì sau cùng cô được kết hôn với người đàn ông mà từ lâu cô đã yêu. Cô đi qua các con đường phố trong cánh tay em trai Richard của cô, sững sờ vì những nụ cười dõi theo cô, say với hạnh phúc.
    Richard sẽ đi Đất Thánh ngày mai. Vua Stephen đã chấp nhận giải pháp này – thật ra nhà vua đã vui vì tống khứ được Richard một cách dễ dàng. Cảnh sát trưởng William rất bực tức, dĩ nhiên, vì mục đích của cậu là tước quyền sở hữu lãnh địa của Richard, và bây giờ cậu không còn cơ hội làm chuyện đó nữa. Richard vẫn còn cái nhìn xa xăm trong ánh mắt, như thể cậu không còn chờ ngày ra đi được nữa.
    Đây không phải là điều mà bố cô dự định, cô nghĩ khi cô bước vào sân tu viện: Richard chiến đấu ở nơi xa và Aliena đóng vai trò bá tước. Tuy nhiên cô không còn cảm thấy có nghĩa vụ phải định hướng đời mình theo ước muốn của bố. Ông đã chết mười bẩy năm, và một cách nào đó, cô biết một điều mà ông không hiểu: cô sẽ là một bá tước tốt hơn Richard.
    Cô nắm lấy dây cương quyền lực trong tay. Nhân viên trong lâu đài đã thành lười biếng sau những năm thiếu lãnh đạo và cô đã thúc đẩy họ lên. Cô đã tổ chức lại các cửa hàng, sơn phết lại đại sảnh, dọn dẹp lò nướng bánh và nhà máy bia. Nhà bếp quá bẩn thỉu nên cô đã đốt đi và xây một cái mới. Cô tự trả tiền lương hàng tuần, qua đó cô muốn cho mọi người biết cô là người có quyền; và cô đã đuổi ba binh lính thường xuyên say sưa.
    Cô đã ra lệnh xây một lâu đài mới cách Kingsbridge một giờ đi ngựa, vì lâu đài lãnh chúa ở quá xa nhà thờ chính tòa. Jack đã thiết kế tòa nhà mới. Họ sẽ dọn về đó bao lâu tháp ở được xây xong. Trong thời gian này họ phân chia thời gian ở lâu đài lãnh chúa và Kingsbridge.
    Họ đã trải qua nhiều đêm với nhau trong phòng cũ của Aliena ở lâu đài lãnh chúa, xa cái nhìn không cho phép của Philip. Họ giống như đôi uyên ương trong tuần trăng mật, ngụp lặn trong đam mê thể xác. Có thể đó là lần đầu tiên họ có một phòng ngủ có khóa cửa. Riêng tư là một sự xa xỉ của vua chúa: những người khác ngủ và yêu nhau ở tầng dưới, trong phòng chung của mọi người. Ngay cả những cặp sống ở nhà riêng cũng luôn luôn có thể bị nhìn thấy bởi con cái của họ, hay người nhà hay hàng xóm tình cờ vào: dân chúng đóng cửa khi họ ra ngoài, không phải khi họ ở trong. Aliena đã chẳng bao giờ cảm thấy bị làm phiền về những điều đó, nhưng bây giờ cô khám phá ra sự thoải mái đặc biệt khi biết rằng mình có thể làm mọi chuyện mình thích mà không bị dòm ngó. Cô nghĩ về những điều cô và Jack đã làm trong tuần qua và cô đỏ mặt.
    Jack đợi cô trong gian giữa mới xây của nhà thờ chính tòa, với Martha, Tommy và Sally. Trong lễ cưới, các cặp thường thề hứa với nhau trước cửa nhà thờ, sau đó mới vào trong tham dự thánh lễ. Hôm nay ô thứ nhất của gian giữa đóng vai trò cửa nhà thờ. Aliena vui vì họ kết hôn với nhau trong nhà thờ do Jack xây dựng. Nhà thờ chính tòa giống như một phần của Jack như quần áo cậu mặc, như tình yêu của cậu. Nhà thờ chính tòa trông giống cậu: duyên dáng, đầy sáng tạo, vui vẻ, và hoàn toàn không giống như cái trước đây.
    Cô nhìn cậu âu yếm. Cậu đã ba mươi tuổi, một người đẹp trai với mái tóc đỏ và đôi mắt xanh lấp lánh. Cậu đã từng là cậu bé xấu xí, cô nhớ lại: cô đã nghĩ cậu ở dưới tầm của cô. Nhưng ngay lúc đầu cậu đã phải lòng cô, cậu nói vậy; và cậu vẫn còn nhăn mặt khi cậu nhớ lại mọi người đã cười cậu khi cậu nói rằng cậu chẳng bao giờ có bố. Nó đã gần hai mươi năm về trước. Hai mươi năm…
    Cô có thể đã chẳng bao giờ gặp lại Jack, nếu không có Tu viện trưởng Philip, người vừa từ tu viện bước vào nhà thờ và đi vào gian giữa với nụ cười tươi. Ông trông thật vui vì sau cùng Aliena và Jack đã được kết hôn với nhau. Cô nghĩ lại lần đầu gặp ông. Cô nhớ lại một cách sống động sự tuyệt vọng mà cô cảm thấy khi các thương gia len cố lừa cô, sau khi cô đã bỏ mọi nỗ lực và đau khổ vào trong bao tải len; và lòng biết ơn của cô đối với một tu sĩ trẻ có mái tóc đen, người đã cứu cô và nói: “Tôi sẽ mua len của cô bất cứ lúc nào…” Tóc của ông giờ đã hoa râm.
    Ông đã cứu cô, sau đó ông đã hầu như phá hủy cô khi ông buộc Jack phải chọn lựa giữa cô và nhà thờ chính tòa. Ông là người cứng rắn trong vấn đề đúng và sai; một chút giống bố cô. Tuy nhiên, ông muốn làm phép cưới cho cô hôm nay.
    Ellen đã nguyền rủa hôn lễ trước của Alfred và lời nguyền đã có kết quả. Cô rất mừng. Nếu hôn nhân của cô với Alfrred không hoàn toàn không thể chịu đựng được thì có lẽ cô vẫn còn sống với cậu ấy. Không thể tưởng tượng được những gì đã có thể xẩy ra: cô rùng mình, nó giống như cơn ác mộng hay một tưởng tượng kinh hoàng. Cô nhớ lại người con gái Ả Rập gợi cảm, đẹp ở Toledo, người đã yêu Jack: Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu cậu lấy cô ấy? Nếu Aliena đến Toledo với đứa con trên tay, và tìm thấy Jack chia sẻ thân xác và tâm trí với một người khác… Ý nghĩ đó làm Aliena cảm thấy kinh hoàng.
    Cô lắng nghe cậu thì thầm kinh ‘Lạy Cha’. Không thể tưởng tượng được, cô nghĩ, khi cô đến sống ở Kingsbridge, cô chỉ coi cậu không hơn gì con mèo của người bán gạo. Nhưng cậu đã để ý đến cô: cậu đã yêu cô thầm kín qua những năm tháng đó. Cậu đã thật kiên nhẫn! Cậu đã thấy nhiều con trai quý tộc trong vùng đến cầu hôn cô, từng người một đã ra đi trong thất vọng, xấu hổ hay ngờ vực. Một cách khôn ngoan cậu đã nhận ra rằng không thể thắng được cô bởi sự cầu hôn, và cậu đã tiếp cận cô một cách gián tiếp, như một người bạn hơn là người yêu, gặp cô trong rừng và kể cho cô nghe những câu truyện và làm cho cô yêu cậu mà không để ý đến. Cô nhớ lại nụ hôn đầu tiên, quá nhẹ nhàng và tình cờ, mặc dù nó đã cháy bỏng môi cô hàng tuần sau đó. Cô nhớ lại nụ hôn thứ hai thậm chí còn sống động hơn. Mỗi lần nghe tiếng ầm ầm của nhà máy xay, cô nhớ lại cơn dục vọng tối đen, không quen thuộc, không chờ đợi mà cô đã cảm nhận.
    Một sự hối hận mãi mãi trong đời là cách cô đã trở thành lạnh lùng sau đó. Jack đã yêu cô hoàn toàn và chân thành, và cô quá sợ hãi đến nỗi quay đi, làm như thể cô không quan tâm đến cậu ấy. Nó làm cậu bị tổn thương sâu thẳm; và mặc dù cậu vẫn tiếp tục yêu cô, và vết thương đã lành, nhưng như những vết thương sâu, nó để lại vết sẹo. Một đôi khi cô nhìn thấy vết sẹo đó, trong cách cậu nhìn cô khi họ cãi nhau và khi cô nói với cậu cách lạnh lùng, và mắt cậu dường như muốn nói: Vâng, anh biết, em có thể lạnh lùng, em có thể làm tổn thương anh, anh phải tự cảnh giác lấy.
    Bây giờ cậu thề hứa yêu và chung thủy với tôi suốt đời, có một cái nhìn thận trọng trong mắt cậu không? Cậu có đủ lý do để nghi ngờ tôi, cô nghĩ. Tôi đã kết hôn với Alfred, và có sự phản bội nào lớn hơn thế nữa không? Nhưng tôi đã chuộc lỗi bằng cách đi một nửa thế giới Ki Tô giáo để tìm Jack.
    Sự thất vọng, phản bội và làm hòa như vậy là những chất liệu trong cuộc sống hôn nhân, nhưng cô và Jack đã trải qua trước khi họ đi đến hôn nhân với nhau. Bây giờ, sau cùng, cô tin rằng cô hiểu cậu. Không gì có thể làm cô ngạc nhiên. Việc cô bây giờ mới làm phép cưới là một chuyện bất thường - nhưng ngược lại không tốt hơn sao? Người ta thường quan niệm: tốt hơn nên thề hứa trước, sau đó mới tìm hiểu nhau. Dĩ nhiên các linh mục sẽ không đồng ý với cô; thực vậy, nếu Philip biết những gì cô nghĩ trong đầu, ông sẽ bị đột quỵ; nhưng các linh mục biết về tình yêu ít hơn ai hết.
    Cô thực hiện lời thề của cô, lập lại câu nói theo Philip và nghĩ câu này tuyệt đẹp làm sao: Với thân xác của tôi, tôi tôn sùng anh. Philip sẽ chẳng bao giờ hiểu điều đó.
    Jack sỏ chiếc nhẫn vào tay cô. Tôi đã chờ đợi điều này suốt cả đời, cô nghĩ. Họ nhìn vào mắt nhau. Một cái gì đó đã thay đổi trong cậu, cô có thể nói. Cô nhận ra rằng cho đến lúc này cậu đã chẳng bao giờ thực sự chắc chắn về cô. Bây giờ cậu toại nguyện.
    “Anh yêu em,” cậu nói. “Anh sẽ yêu em mãi mãi.”
    Đó là lời thề hứa của cậu. Phần còn lại thuộc về tôn giáo, nhưng bây giờ cậu đã thực hiện lời thề hứa của riêng cậu; và Aliena nhận ra rằng ngay cả cô nữa, cô cũng chẳng bao giờ chắc chắn về cậu cho đến lúc này. Một lúc nữa họ sẽ bước vào gian cung thánh để tham dự thánh lễ; và sau thánh lễ họ sẽ đón nhận lời chúc mừng và lời chúc tốt đẹp của cư dân thị trấn. Sau đó họ sẽ về nhà, cung cấp đồ ăn, bia cho cư dân thành phố liên hoan; nhưng giờ phút nhỏ bé này chỉ dành riêng cho họ. Cái nhìn của Jack như muốn nói em và anh, cùng nhau, mãi mãi; và cô nghĩ cuối cùng chúng ta đã có nhau.
    Họ cảm thấy rất bình yên.
     
    #17
      Minh Nan 04.01.2017 23:56:00 (permalink)
      0

       

       
      PHẦN VI
      1170 -1174

       
       
       
      Chương 17
       
      Kingsbridge vẫn còn phát triển. Từ lâu nó đã nới rộng ra ngoài bức tường nguyên thủy, và bây giờ hơn một nửa số nhà nằm bên ngoài tường thành. Khoảng năm năm trước hội đồng thị trấn đã xây một bức tường thành mới bao quanh khu dân cư mọc lên ngoài thành phố cổ; và bây giờ lại có thêm những khu dân cư ở ngoài bức tường thành mới. Cánh đồng cỏ bên kia sông, nơi thường tổ chức ngày lễ Mùa gặt truyền thống và lễ Đêm mùa hè, bây giờ đã là một làng mới có tên gọi là Newport.
      Vào một ngày chủ nhật lạnh mùa Phục sinh, Cảnh sát trưởng William cưỡi ngựa qua Newport và băng ngang cây cầu đá dẫn vào khu bây giờ gọi là thị trấn cổ của Kingsbridge. Hôm nay nhà thờ chính tòa mới của Kingsbridge được thánh hiến. William đi qua cổng thành vĩ đại và đi lên con đường chính mà gần đây đã được trải nhựa. Những ngôi nhà hai bên đều bằng đá với cửa hàng ở bên dưới và khu sinh sống ở tầng trên. Kingsbridge lớn hơn, bận rộn hơn và sung túc hơn cả Shiring, William nghĩ một cách cay đắng.
      Cậu lên đến đầu đường và rẽ vào khu tu viện; và đó, trước mắt cậu, là nguyên do sự phát triển của Kingsbridge và sự suy giảm của Shiring: ngôi nhà thờ chính tòa.
      Nó thật hấp dẫn.
      Gian giữa cao tới tận trời được nâng đỡ bởi một hàng trụ tường duyên dáng. Phía tây có ba cửa vòm lớn, giống như các cửa khổng lồ, và một hàng cửa sổ cao, mảnh khảnh, đầu nhọn, hai bên là những tháp thon. Khái niệm đã được báo trước trong gian ngang được xây cách đây tám năm, nhưng sự hoàn thành ý tưởng vượt quá sự chờ đợi của mọi người. Chưa có một kiến trúc nào như thế ở mọi nơi trên nước Anh.
      Chợ vẫn họp ở đây vào mỗi chủ nhật, và khu sân trước cửa nhà thờ đã đầy các quầy hàng. William xuống ngựa và để Walter chăm sóc ngựa. Cậu đi qua sân đến nhà thờ: cậu năm mươi bốn tuổi, nặng nề và bị đau thường xuyên vì bệnh gút ở chân và bàn chân. Vì đau nên cậu thường hay tức giận.
      Bên trong nhà thờ còn ấn tượng hơn. Gian giữa theo mẫu của gian ngang, nhưng thợ xây dựng tổng thể đã kiện toàn thiết kế của cậu, làm cho hàng cột ngay cả thanh hơn và cửa sổ rộng hơn. Nhưng còn có sự đổi mới nữa. William đã nghe nói về những kính màu được làm bởi các thợ thủ công mà Jack Jackson đã mang về từ Paris. Cậu tự hỏi tại sao người ta lại om sòm về nó, vì cậu tưởng tượng rằng một cửa sổ màu cũng giống như một tấm thảm hay một bức tranh. Bây giờ cậu nhìn thấy những gì họ muốn nói. Ánh sáng từ bên ngoài chiếu xuyên qua kính màu làm cho nó rực rỡ và hiệu quả của nó hoàn toàn huyền diệu.
      Nhà thờ đầy người đang ngửa cổ nhìn lên các cửa sổ. Các hình ảnh lấy từ Kinh Thánh, thiên đàng và hỏa ngục, các thánh và các tiên tri, các môn đệ, và một số cư dân Kingsbridge đã trả tiền cho các cửa sổ, trong đó hình họ được vẽ - một thợ làm bánh bê một khay bánh, một thợ thuộc da với da trên tay, một thợ xây với la bàn và thước đo. Tôi cá Philip đã thu được một lợi nhuận kếch xù từ những cửa sổ này, William chua chát nghĩ.
      Nhà thờ đã chật cứng vì thánh lễ Phục Sinh. Chợ đã lan rộng vào nhà thờ, như thường xẩy ra. Khi đi theo gian giữa lên trên William đã được mời mua bia lạnh, bánh gừng nóng, và một gái điếm đề nghị ba xu cho một sự thỏa mãn nhanh. Hàng giáo sĩ luôn cố gắng đưa việc buôn bán ra khỏi nhà thờ, nhưng đó là công việc không thể làm được. William chào hỏi những cư dân quan trọng của thị trấn. Nhưng dù bị chi phối bởi chuyện xã giao hoặc thương mại, tâm trí và mắt William luôn bị thu hút bởi đường lượn của mái vòm. Mái vòm và cửa sổ, cột trụ và những đường xương của trần mái vòm, tất cả vươn lên trời để nhắc nhở đến mục đích của tòa nhà.
      Nền nhà được lát đá, trụ cột được sơn và mỗi cửa sổ có kính. Kingsbridge, tu viện, và nhà thờ chính tòa nói lên sự giầu có của họ. Trong nhà nguyện nhỏ ở gian ngang có chân nến vàng và thánh giá nạm đá quý. Các cư dân hiển thị sự giầu có của họ qua áo quần sặc sỡ, trâm cài tóc, khóa thắt lưng bằng bạc, và nhẫn vàng.
      Mắt cậu thấy Aliena.
      Như thường lệ, tim cậu ngừng một nhịp. Cô đẹp như mọi khi, mặc dù cô đã ngoài năm mươi. Cô vẫn còn mái tóc xoăn, tuy nó ngắn hơn và màu nâu dường như sáng hơn như thể nó đã nhạt màu đi một chút. Bên cạnh mắt cô có những nét nhăn hấp dẫn. Cô mập hơn mọi khi nhưng vẫn là người phụ nữ hấp dẫn. Cô mặc áo khoác màu xanh dương với viền lụa đỏ, và giày da đỏ. Có một đám đông ngưỡng mộ quanh cô. Mặc dù cô không phải là nữ bá tước, thực ra chỉ là chị của một bá tước và em cô đang phục vụ tại Đất Thánh, nhưng mọi người đối xử với cô như cô là bá tước. Cô xuất hiện như một nữ hoàng.
      Nhìn thấy cô, sự hận thù cháy bỏng trong lòng William. Cậu đã tiêu diệt bố cô, cưỡng hiếp cô, lấy lâu đài của cô, đốt cháy len của cô và đuổi em cô sống lưu vong, nhưng mỗi lần cậu nghĩ cậu đã đè chết được cô, cô lại trở lại, trèo từ thất bại lên bậc cao mới của quyền lực và giầu có. Bây giờ William đã già, bị bệnh gút, mập và cậu nhận ra rằng cậu đã phí phạm đời cậu trong quyền lực của một đam mê khủng khiếp.
      Bên cạnh cô là một chàng trai cao, tóc đỏ mà mới nhìn William tưởng là Jack. Tuy nhiên khi nhìn kỹ hơn, chàng trai còn quá trẻ, và William nhận ra đó là con trai của Jack. Đứa bé ăn mặc như một hiệp sĩ và mang gươm. Jack đứng bên cạnh con và thấp hơn con một vài inch, mái tóc đỏ chải về phía thái dương. Cậu trẻ hơn Aliena, dĩ nhiên, khoảng năm tuổi, nếu William nhớ không lầm, nhưng cả cậu nữa cũng có những nét xung quanh mắt. Cậu đang nói chuyện sôi nổi với một cô gái trẻ, chắc là con gái cậu. Cô giống Aliena và đẹp như cô, tuy nhiên tóc cô chải gọn và búi lại phía sau và cô ăn mặc giản dị. Nếu có một thân hình gợi cảm dưới lớp áo màu nâu đất đó, cô không muốn cho ai biết đến.
      Sự phẫn uất bừng lên trong lòng William khi cậu nhìn thấy sự thịnh vượng, phẩm cách và hạnh phúc của gia đình Aliena. Mọi sự họ có là của cậu. Nhưng cậu không ngừng nuôi hy vọng trả thù.
      Giọng của hàng trăm tu sĩ cất lên trong bài thánh ca át đi tiếng nói chuyện và tiếng kêu của người bán hàng rong, và Tu viện trưởng Philip dẫn đầu đoàn rước tiến vào nhà thờ. Tu viện trước đây không có nhiều tu sĩ, William nghĩ. Tu viện đã lớn lên theo thị trấn. Philip, bây giờ đã ngoài sáu mươi, hầu như đã hói đầu hoàn toàn và mập ra nên khuôn mặt gầy còm của ông bây giờ đã tròn trịa. Không ngạc nhiên gì khi trông ông có vẻ mãn nguyện: sự thánh hiến nhà thờ chính tòa này là mục đích ông đã cưu mang khi ông mới đến Kingsbridge ba mươi bốn năm về trước.
      Có tiếng bình luận thầm thì khi giám mục Waleran bước vào trong bộ áo đẹp nhất. Khuôn mặt xanh xao, góc cạnh của ông đanh lại, không tỏ lộ cảm xúc, nhưng William biết lòng ông đang sôi sục. Nhà thờ này là biểu tượng chiến thắng của Philip trên Waleran. Mặc dù William cũng ghét Philip nữa, nhưng cậu thích thú một cách thầm kín khi nhìn thấy Giám mục Waleran kiêu căng bị hạ nhục.
      Waleran ít khi đến đây. Sau cùng một nhà thờ mới cũng đã được xây ở Shiring – với một nhà nguyện đặc biệt tưởng nhớ đến mẹ của William – và mặc dù nó không lớn và ấn tượng như nhà thờ chính tòa này, nhưng Waleran đã biến nó thành nhà thờ chính của ông.
      Bất chấp những nỗ lực của Waleran, Kingsbridge vẫn là nhà thờ chính tòa. Trong cuộc chiến kéo dài ba thập kỷ, Waleran đã làm mọi chuyện có thể để phá hoại Philip, nhưng sau cùng Philip đã chiến thắng. Chúng cũng có một chút giống William và Aliena. Trong cả hai trường hợp, sự yếu đuối và thận trọng đã chiến thắng sức mạnh và sự tàn nhẫn. William cảm thấy thế giới chẳng bao giờ hiểu nó.
      Giám mục đã bị buộc phải đến đây hôm nay vì lễ thánh hiến: nó sẽ kỳ cục nếu ông không có mặt ở đây để chào đón các khách nổi tiếng. Một số các giám mục ở vùng lân cận, cũng như nhiều viện phụ và tu viện trưởng có mặt hôm nay.
      Tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, sẽ không đến. Ông có một cuộc tranh cãi với người bạn cũ của ông, vua Henry; một cuộc tranh cãi quá cay đắng và sôi nổi đến nỗi tổng giám mục bị ép buộc phải rời khỏi nước, và đã tị nạn tại Pháp. Cuộc tranh luận xoay quanh một số vấn đề về pháp lý, nhưng nội dung chính của tranh luận rất đơn giản: nhà vua có được phép làm như ông muốn, hay quyền lực của ông có giới hạn? Đó là những tranh luận chính William đã có với Tu viện trưởng Philip. William quan niệm rằng bá tước có thể làm bất cứ chuyện gì trong lãnh địa của cậu – đó chính là quyền lực của một bá tước. Henry cảm thấy như vậy về vương quốc của ông. Tu viện trưởng Philip và Thomas Becket, cả hai theo quan điểm hạn chế quyền lực của người lãnh đạo.
      Giám mục Waleran là một giáo sĩ đứng về phía người lãnh đạo. Đối với ông quyền lực là để sử dụng. Những thất bại trong ba thập kỷ qua đã không lay chuyển niềm tin của ông rằng ông là dụng cụ của ý muốn Thiên Chúa. Ông quyết tâm một cách tàn nhẫn để làm những việc mà ông cho là trách nhiệm thánh thiện của ông. William cảm thấy chắc chắn rằng ngay cả khi Waleran đang thi hành nghi lễ thánh hiến nhà thờ chính tòa Kingsbridge này, ông cũng đang tính toán cách nào để làm hỏng giây phút vinh quang của Philip.
      Trong buổi lễ William luôn chuyển động. Đứng thì tồi tệ cho cậu hơn là đi. Khi cậu đến nhà thờ Shiring, Walter mang theo cho cậu một chiếc ghế. Sau đó cậu có thể lơ mơ một chút. Ở đây có nhiều người để nói chuyện và nhiều tổ chức dùng cơ hội để tiến hành công việc. William đi quanh, lấy lòng những người quyền thế, đe dọa những người yếu, thu thập tin tức về người này người kia. Cậu không còn gây kinh hoàng trong tim của dân chúng như trong thời vàng son cũ của cậu, nhưng trong vị trí là một cảnh sát trưởng, người ta vẫn sợ và không dám đến gần cậu.
      Giờ lễ kéo dài vô tận. Có một gián đoạn dài khi các tu sĩ đi quanh bên ngoài nhà thờ và vẩy nước phép lên các bức tường. Gần cuối buổi lễ, tu viện trưởng loan báo việc bổ nhiệm tu viện phó mới: đó là thầy Jonathan, đứa trẻ mồ côi trong tu viện. Jonathan, bây giờ ở giữa tuổi ba mươi và cao một cách bất thường, nhắc nhở William về thợ xây Tom ngày trước: ông cũng có nét như một người khổng lồ.
      Khi thánh lễ kết thúc, những vị khách quý nấn ná ở gian ngang phía nam, và giới tiểu quý tộc tập trung xung quanh để gặp họ. William khập khễnh đến để tham gia với họ. Đã có thời ông đối xử bình đẳng với các giám mục, nhưng bây giờ ông phải cùng với các hiệp sĩ và chủ đất nhỏ cúi chào và lê một chân ra phía sau trước các giám mục. Giám mục Waleran kéo William ra một phía và hỏi: “Tu viện phó mới là ai?”
      “Đứa trẻ mồ côi trong tu viện,” William trả lời. “Cậu ấy luôn là người được Philip yêu mến.”
      “Cậu ấy còn quá trẻ để thành tu viện phó.”
      “Cậu ấy già hơn Philip, khi Philip trở thành tu viện trưởng.”
      Waleran có vẻ trầm ngâm. “Đứa bé mồ côi trong tu viện. Ngày đó ra sao?”
      “Khi Philip đến đây, ông ấy mang theo đứa bé.”
      Nét mặt Waleran sáng lên khi ông nhớ ra. “Trời ơi! Đúng rồi. Tôi đã quên đứa bé của Philip. Làm sao tôi có thể để chuyện đó lọt ra khỏi tâm trí của tôi?”
      “Nó đã ba mươi năm rồi. Ai còn quan tâm đến nữa?”
      Waleran cho William một cái nhìn khinh bỉ mà William rất ghét, cái nhìn như nói rằng cậu ngu như bò, cậu không nhìn ra điều gì sao? Chân cậu đau và cậu cố gắng chuyển trọng lượng từ chân này qua chân khác. Waleran nói: “Đứa trẻ từ đâu đến?”
      William nuốt nỗi oán giận. “Nó được tìm thấy bị bỏ rơi gần tu viện chi nhánh trong rừng cũ của ông ấy, nếu tôi nhớ không lầm.”
      “Càng tốt hơn,” Waleran hào hứng nói.
      William vẫn chưa hiểu giám mục muốn gì. “Thì sao?” cậu ủ rũ nói.
      “Có thể nói rằng Philip đã nuôi nấng đứa trẻ như nó là con riêng của ông không?”
      “Vâng.”
      “Và bây giờ ông ấy bổ nhiệm cậu ấy làm tu viện phó.”
      “Có lẽ cậu ấy được các tu sĩ bầu lên. Tôi tin rằng cậu ấy được lòng nhiều người.”
      “Bất cứ ai trở thành tu viện phó vào lứa tuổi ba mươi lăm, sau này sẽ là tu viện trưởng.”
      William không muốn nói Thì sao? một lần nữa, vì thế cậu chờ đợi, cảm thấy mình như một đứa học sinh ngu xuẩn chờ Waleran giải thích.
      Sau cùng Waleran nói: “Jonathan rõ ràng là con riêng của Philip.”
      Willian phá lên cười. Cậu đã chờ đợi một suy nghĩ sâu sắc, và Waleran đã đưa ra một nhận xét hoàn toàn lố bịch. “Không một người nào quen biết Philip sẽ tin vào việc như thế,” cậu nói và lại cười. Waleran nghĩ cậu ngay cả rất thông minh, nhưng lần này cậu đã mất cảm giác về thực tại.
      Giám mục phản ứng với sự khinh thường lạnh lùng. “Tôi nói Philip đã từng có một tình nhân khi ông điều hành tu viện nhỏ ở xa trong rừng. Rồi ông trở thành tu viện trưởng ở Kingsbridge và phải bỏ người phụ nữ đó ở lại. Cô ấy không muốn giữ đứa bé nếu nó không có bố, vì thế cô giao đứa bé cho ông. Philip là một người tình cảm, cảm thấy có trách nhiệm lo cho đứa bé nên đã dựng ra câu chuyện là tìm được nó.”
      William lắc đầu. “Không thể tin được. Đối với bất cứ người nào khác, vâng. Nhưng đối với Philip thì không.”
      Waleran kiên trì: “Nếu đứa bé bị bỏ rơi, làm sao ông ấy có thể chứng minh được nó từ đâu tới?”
      “Ông ấy không thể,” William thừa nhận. Cậu nhìn sang gian ngang phía nam, tới chỗ Philip và Jonathan đứng với nhau và nói chuyện với giám mục thành Hereford. “Nhưng ngay cả họ không giống nhau.”
      “Cậu không giống mẹ cậu,” Waleran nói. “Tạ ơn Chúa!”
      “Tất cả những điều đó có nghĩa gì?” William nói. “Ông định làm gì với chuyện đó?”
      “Tố cáo ông ấy trước tòa án giáo hội,” Waleran trả lời.
      Như vậy thì khác. Không một người nào quen biết Philip sẽ tin lời buộc tội của Waleran, nhưng một thẩm phán xa lạ với Kingsbridge có thể thấy nó hợp lý. William miễn cưỡng chấp nhận ý tưởng của Waleran là không có gì ngu ngốc. Như thường, Waleran sắc sảo hơn William. Waleran có vẻ tự phụ, dĩ nhiên. Nhưng William háo hức về viễn tượng dìm Philip xuống. “Trời ơi!” cậu háo hức nói. “Ông có nghĩ rằng nó sẽ thành công không?”
      “Nó tùy thuộc vào ai là người thẩm phán. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể sắp xếp được. Tôi phân vân…”
      William nhìn vào Philip ở gian ngang, người đang đắc thắng và mỉm cười, với người ông bảo trợ cao lớn bên cạnh. Cửa sổ kính màu lớn chiếu một ánh sáng mê hoặc lên họ, và họ trông như những nhân vật trong mơ. “Gian dâm và gia đình trị,” William hân hoan nói. “Trời ơi!”
      “Khi chúng ta có thể ghép cho ông tội danh đó,” Waleran nói với sự thích thú, “nó sẽ là kết thúc của tu viện trưởng đáng nguyền rủa đó.”
       
       
       
      Không một thẩm phán có lương tâm nào có thể cho rằng Philip có tội.
      Sự thật là ông không bị cám dỗ nặng nề về thân xác. Ông biết, qua việc giải tội, rằng nhiều tu sĩ chiến đấu một cách vô vọng với sự ham muốn xác thịt, nhưng ông may mắn không bị như vậy. Đã có một thời gian, vào lứa tuổi mười tám, ông đã chịu đựng những giấc mơ không thanh tịnh, nhưng giai đoạn đó không kéo dài lâu. Trong cả cuộc đời, sự thanh tịnh dễ dàng đối với ông. Ông không bao giờ thực hiện những hành vi tình dục và có lẽ bây giờ ông đã quá già cho việc đó.
      Tuy nhiên giáo hội coi lời buộc tội là nghiêm trọng và Philip đã được mời đến tòa án giáo hội. Một tổng đại diện của Canterbury sẽ hiện diện. Waleran đã muốn phiên tòa diễn ra tại Shiring, nhưng Philip đã chống lại thành công, và bây giờ nó sẽ tổ chức ở Kingsbridge, dù sao đó cũng là thành phố nhà thờ chính tòa. Bây giờ Philip dọn đồ cá nhân ra khỏi nhà tu viện trưởng để nhường chỗ cho tổng đại diện, người sẽ lưu lại đó.
      Philip biết ông vô tội về việc gian dâm, và nó dẫn theo một cách hợp lý rằng ông không có tội gia đình trị, bởi vì một người không thể thiên vị con ông nếu ông không có con. Tuy nhiên ông xem xét lại trái tim ông xem ông có sai lầm trong việc tích cực ủng hộ Jonathan không. Như những tư tưởng không trong sạch là một loại bóng tối của một tội nặng, có lẽ khuynh hướng thiên vị một đứa bé mồ côi mà mình yêu mến là bóng tối của gia đình trị. Các tu sĩ được yêu cầu từ bỏ sự an ủi của đời sống gia đình, tuy nhiên Jonathan giống như một người con đối với Philip. Philip đã chỉ định cậu làm quản lý ở lứa tuổi còn quá trẻ, và bây giờ đã đề cử cậu làm tu viện phó. Có phải tôi làm chuyện đó vì niềm tự hào và niềm vui của riêng tôi? Ông tự hỏi lòng.
      Vâng, đúng vậy, ông nghĩ.
      Ông đã có sự hài lòng lớn lao để dạy Jonathan, quan sát cậu lớn lên, và nhìn cách cậu điều hành công việc của tu viện. Nhưng ngay cả nếu Philip không có những niềm vui mãnh liệt như vậy trong việc này thì Jonathan vẫn là người quản lý trẻ có nhiều khả năng nhất trong tu viện. Cậu thông minh, đạo đức, sáng tạo và tận tâm. Được lớn lên trong tu viện, cậu không biết cuộc sống nào khác và chẳng bao giờ ao ước về tự do. Chính Philip cũng đã lớn lên trong tu viện. Chúng ta, những đứa trẻ mồ côi trong tu viện, là những tu sĩ tốt nhất, ông nghĩ.
      Ông lấy ra từ trong túi một cuốn sách: Tin Mừng theo thánh Luca, một cuốn sách thông thái. Ông đã đối xử với Jonatha như một người con, nhưng ông không làm gì nên tội để bị đem ra trước tòa án giáo hội. Sự kết án là phi lý.
      Thật không may, chỉ riêng lời kết án đã gây nên thiệt hại. Nó làm giảm uy quyền luân lý của ông. Sẽ có những người chỉ nhớ về lời kết tội và quên đi sự phán quyết. Lần sau khi Philip nói: “Giới răn cấm người ta khao khát vợ chồng người,” một vài người trong cộng đoàn sẽ nghĩ: nhưng ông đã có sự vui thú đó khi còn trẻ.
      Jonathan lao vào, thở dốc. Philip cau mày. Tu viện phó không được xông vào phòng và nói hổn hển. Philip đang chuẩn bị giảng cho một bài về phẩm chất của người lãnh đạo trong tu viện, khi Jonathan nói: “Tổng đại diện Peter đã đến rồi!”
      “Được rồi, được rồi,” Philip xoa dịu. “Anh đã xong.” Ông trao cho Jonathan chiếc cặp.
      “Hãy đem xuống nhà ngủ, và đừng vội vàng ở bất cứ chỗ nào: Tu viện là nơi của an bình và thinh lặng.
      Jonathan nhận chiếc cặp và lời khiển trách, nhưng cậu nói: “Em không thích cái nhìn của tổng đại diện.”
      “Anh chắc ông ấy sẽ là một thẩm phán công bằng, và đó là những gì chúng ta muốn,” Philip nói.
      Cánh cửa mở ra lần nữa và tổng đại diện bước vào. Ông ấy cao, gầy, bằng tuổi Philip, với mái tóc hoa râm mỏng và nét trịch thượng trên mặt. Ông trông có vẻ quen thuộc.
      Philip đưa tay bắt và nói: “Tôi là Tu viện trưởng Philip.”
      “Tôi biết ông,” tổng đại diện nói chua chát. “Ông không nhớ tôi sao?”
      Giọng nói giận dữ như một cú đấm. Philip mất hết tinh thần. Đây là kẻ thù lâu đời của ông. “Tổng đại diện Peter,” ông nói mạnh. “Peter thành Warenham.”
       
       
      “Ông ấy là một người quấy rầy,” Philip cắt nghĩa cho Jonathan một vài phút sau đó, khi họ đã rời tổng đại diện để ông nghỉ ngơi trong nhà của tu viện trưởng. “Ông đã than phiền rằng chúng ta không làm việc chăm chỉ đủ, hay chúng ta ăn quá nhiều, hay cầu nguyện quá ngắn. Ông ấy nói anh hay nuông chiều. Anh chắc rằng ông ấy muốn làm tu viện trưởng. Dĩ nhiên ông ấy sẽ là một thảm họa. Anh cắt cử ông lo việc từ thiện để ông dành nửa thời gian ở bên ngoài. Anh làm vậy để thoát khỏi ông ấy, như thế tốt nhất cho tu viện và cho ông ấy. Nhưng anh chắc rằng ông ấy vẫn ghét anh về chuyện đó, mặc dù ba mươi lăm năm đã qua.” Ông thở dài. “Anh đã nghe, khi anh và em thăm tu viện thánh Gioan trong rừng sau nạn đói rằng Peter đã đến Canterbury. Và bây giờ ông ấy ngồi tòa xét xử anh.”
      Họ đang ở trong khu tu viện. Thời tiết dịu dàng và mặt trời ấm áp. Năm mươi bé trai trong ba lớp khác nhau đang học đọc và viết trên đường đi phía bắc. Gió mang tiếng rì rầm học bài của chúng qua khu nhà bốn góc. Philip nhớ lại có lúc nhà trường chỉ có năm học trò và một thầy giáo tập già nua. Ông nghĩ về tất cả những gì ông đã làm ở đây: xây dựng nhà thờ chính tòa; biến đổi tu viện thiếu thốn thành một tổ chức thịnh vượng, bận rộn và ảnh hưởng; mở rộng thị trấn Kingsbridge. Trong nhà thờ, hơn một trăm tu sĩ đang hát lễ. Từ chỗ ngồi, ông có thể thấy những cửa sổ với kính màu đẹp một cách đáng kinh ngạc. Đàng sau ông, ở đường đi phía đông, một thư viện xây bằng đá chứa hàng trăm cuốn sách về thần học, thiên văn học, luân lý học, toán học, và trong mọi lãnh vực của kiến thức. Bên ngoài tu viện, đất đai của tu viện được quản lý bởi nhân viên có khả năng, đã nuôi sống không những các tu sĩ mà còn hàng trăm nhân công nông trại. Và tất cả những thứ đó ông bị mất chỉ vì một lời nói dối sao? Tu viện Kingsbridge thịnh vượng và đạo đức này sẽ được trao cho người khác, trao cho một con tốt của Giám mục Waleran như tổng đại diện nịnh nọt Baldwin hay kẻ ngu xuẩn tự cho mình là đúng như Peter thành Warenham, để họ đưa tu viện xuống tình trạng nghèo nàn và đồi bại nhanh chóng như Philip đã xây dựng nó lên ư? Những đàn cừu to lớn sẽ co lại thành vài con gầy gò, những nông trại lại trở thành đất cho cỏ mọc, thư viện đóng bụi vì không ai sử dụng, nhà thờ chính tòa đẹp đẽ lại chìm vào ẩm thấp và hư hỏng sao? Thiên Chúa đã giúp tôi đạt được nhiều như thế, ông nghĩ; tôi không tin Ngài muốn nó lại trở về hư không.
      Jonathan nói: “Tổng đại diện Peter cũng không thể tìm thấy anh có tội.”
      “Anh nghĩ ông ấy sẽ tìm ra,” Philip nói nặng nề.
      “Với lương tâm, làm sao ông ấy có thể?”
      “Anh nghĩ ông ấy cả đời đã nuôi dưỡng mối bất bình chống lại anh, và đây là cơ hội để chứng minh rằng anh là người có tội và ông ấy là người chính trực. Một cách nào đó Waleran đã tìm ra điều đó và đã thu xếp để Peter được bổ nhiệm xét xử vụ kiện này.”
      “Nhưng không có bằng chứng!”
      “Ông ấy không cần băng chứng. Ông sẽ nghe lời buộc tội, và lời biện hộ; sau đó ông cầu nguyện xin sự soi sáng, rồi ông ấy loan báo phán quyết.”
      “Thiên Chúa sẽ hướng dẫn ông ấy theo sự thật.”
      “Peter sẽ không nghe Chúa. Ông ấy chẳng bao giờ là người biết lắng nghe.”
      “Điều gì sẽ xẩy ra?”
      “Anh sẽ bị xuống chức,” Philip nói dứt khoát. “Họ sẽ để anh tiếp tục sống ở đây như một tu sĩ bình thường để làm việc đền tội. Nhưng có lẽ chắc hơn họ sẽ sa thải anh khỏi tu viện để tránh ảnh hưởng của anh ở đây.”
      “Như vậy chuyện gì sẽ xẩy ra sau đó?”
      “Sẽ có một cuộc bầu cử, tất nhiên. Một điều không may là bây giờ các nhà chính trị của hoàng gia sẽ tham dự vào. Vua Henry tranh chấp với tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, và bây giờ Tổng giám mục Thomas tị nạn ở Pháp. Một nửa số tổng đại diện theo ông. Một nửa khác ở lại và theo vua, chống lại tổng giám mục của họ. Peter rõ ràng thuộc về đám đông đó. Giám mục Waleran cũng đứng về phía nhà vua. Waleran sẽ đưa ra ứng cử viên cho chức vụ tu viện trưởng và người này được hậu thuẫn của các tổng đại diện ở Canterbury và nhà vua. Nó sẽ rất khó khăn cho các tu sĩ ở đây để chống lại ông ấy.”
      “Anh nghĩ ai sẽ được?”
      “Waleran chắc chắn đã nghĩ đến ai đó. Nó có thể là tổng đại diện Baldwin. Ngay cả nó có thể là Peter thành Warenham.”
      “Chúng ta phải làm gì đó để chống lại nó!” Jonathan nói.
      Philip gật đầu. “Nhưng hoàn cảnh dường như chống lại chúng ta. Chúng ta không thể làm gì để thay đổi tình hình chính trị được. Khả năng duy nhất…”
      “Khả năng nào?” Jonathan không còn kiên nhẫn.
      Tình hình quá vô vọng đến nỗi Philip cảm thấy không nên đùa với những tư tưởng chán nản: nó khơi dậy sự lạc quan của Jonathan để rồi cậu lại bị thất vọng. “Không có gì cả,” Philip nói.
      “Anh định nói gì?”
      Philip cân nhắc từng lời và nói: “Nếu có cách chứng minh anh vô tội, Peter sẽ không có thể kết án anh có tội.”
      “Nhưng những gì được coi là bằng chứng?”
      “Chính xác. Em không thể chứng minh được sự phủ nhận. Chúng ta phải tìm ra được bố thật của em.”
      Jonathan đáp lại nhiệt tình ngay. “Vâng, đúng vậy. Chúng ta sẽ làm điều đó.”
      “Bình tĩnh lại,” Philip nói. “Lúc đó anh đã cố gắng. Bây giờ, sau nhiều năm, nó sẽ không dễ hơn.”
      Jonathan không để thoái chí. “Vậy không có manh mối nào để tìm ra nguồn gốc của em sao?”
      “Không có manh mối nào cả, anh sợ như vậy.” Philip lo rằng ông đã khơi dậy trong Jonathan niềm hy vọng mà sẽ không thành tựu được. Mặc dù cậu bé không nhớ gì về bố mẹ, nhưng sự kiện rằng họ đã bỏ rơi cậu làm cậu phiền muộn. Bây giờ cậu nghĩ cậu có thể giải bí ẩn và tìm ra lời giải thích rằng bố mẹ cậu đã yêu thương cậu thực sự. Philip cảm thấy chắc chắn điều này chỉ dẫn đến thất vọng.
      “Anh có hỏi những người sống gần đó không?” Jonathan hỏi.
      “Không có ai sống ở gần đó. Tu viện nằm xa trong rừng. Bố mẹ em có thể đến từ xa, Winchester chẳng hạn. Anh đã suy nghĩ tất cả về chuyện đó.”
      Jonathan cố chấp. “Anh có thấy bất cứ người nào du hành trong rừng vào thời điểm đó không?”
      “Không.” Philip cau mày. Điều đó có thật không? Một tư tưởng tản mác trôi về tâm trí ông. Vào ngày đứa bé được tìm thấy, Philip đã rời tu viện để đến dinh thự giám mục, và trên đường ông đã nói chuyện với vài người. Bất ngờ ông nhớ lại. “Có, đúng rồi, thợ xây Tom và gia đình có đi ngang qua đó.”
      Jonathan ngạc nhiên. “Anh chẳng bao giờ nói với em về chuyện đó.”
      “Nó dường như không quan trọng. Anh đã gặp họ một hay hai ngày sau đó. Anh đã hỏi họ và họ nói họ không gặp bất cứ ai có thể là bố hoặc mẹ của đứa nhỏ bị bỏ rơi.”
      Jonathan thất vọng. Philip sợ hướng điều tra này sẽ gây cho cậu hai thất vọng: cậu không tìm ra được gì về bố mẹ cậu và cậu sẽ thất bại trong việc chứng minh Philip vô tội. Nhưng bây giờ không gì có thể ngăn cản cậu được. “Họ làm gì trong rừng?” cậu kiên trì.
      “Tom trên đường đến dinh thự giám mục. Ông ấy đi tìm việc làm. Đó là lý do họ đến đây.”
      “Em muốn hỏi họ lần nữa.”
      “Được, Tom và Alfred đã chết. Ellen sống ở trong rừng, và chỉ có Chúa biết khi nào bà ấy xuất hiện. Nhưng em có thể nói chuyện với Jack hay Martha.”
      “Em sẽ thử.”
      Có lẽ Jonatha có lý. Cậu có nghị lực của tuổi trẻ. Philip đã chán nản và bi quan. “Hãy tiếp tục,” ông nói với Jonathan. “Anh đã già và mệt mỏi; nếu không anh đã nghĩ đến chuyện đó. Hãy nói chuyện với Jack. Đó là sợi chỉ mong manh để bám vào. Nhưng nó là hy vọng duy nhất của chúng ta.”
       
       
      Thiết kế của cửa sổ được thảo ra đúng kích thước và màu sắc trên một chiếc bàn gỗ lớn đã được rửa với bia trước đó để tránh màu bị lan ra. Bản thảo cho thấy cây Jesse, gia phả của Chúa Ki tô bằng hình ảnh. Sally nhặt một mảnh nhỏ thủy tinh dầy và đặt lên bản thảo trên hình một vua của Israel – Jack không biết chắc vua nào: cậu chẳng bao giờ có thể nhớ các biểu tượng phức tạp của hình ảnh tôn giáo. Sally nhúng cây cọ vào trong một chén nước vôi, và vẽ hình dạng người lên kính: vai, cánh tay và quần áo.
      Trong đống lửa bên cạnh bàn là một cây sắt với thanh cầm bằng gỗ. Cô lấy thanh sắt ra khỏi lửa và rồi, nhanh nhẹn nhưng cẩn thận, cô chạy đầu đỏ nóng của thanh sắt quanh đường cô vừa vẽ. Kính gẫy ra chính xác dọc theo đường vẽ. Người học việc của cô nhặt tấm kính và bắt đầu làm nhẵn góc cạnh của nó bằng một viên đá mài.
      Jack thích nhìn cô con gái làm việc. Cô làm nhanh và chính xác, dùng đến ít động tác. Khi còn nhỏ cô đã bị thu hút bởi các thợ kính mà Jack đem về từ Paris, và cô luôn nói rằng đó là công việc cô thích làm khi cô lớn lên. Và cô đã gắn bó với sự chọn lựa đó. Khi dân chúng lần đầu đến nhà thờ chính tòa Kingsbridge, họ sẽ bị ấn tượng nhiều hơn bởi kính của Sally hơn là kiến trúc của bố cô, Jack buồn bã nghĩ.
      Người học việc đưa lại cho cô miếng kính đã được mài, và cô bắt đầu vẽ nếp gấp của chiếc áo lên trên bề mặt, dùng sơn làm bằng sắt quặng, urin và gôm arabic để cho dính. Dưới bàn tay của cô, tấm kính phẳng giống như tấm vải mềm. Cô rất khéo léo và chấm dứt nó nhanh chóng. Rồi cô đặt tấm kính đã sơn cùng với những tấm khác trong một chảo sắt, phía dưới lòng chảo bao phủ với vôi. Khi chảo đầy, nó sẽ được đưa vào lò nướng. Sức nóng sẽ hòa sơn vào kính.
      Cô nhìn lên Jack, cho cậu một nụ cười ngắn và rạng rỡ, rồi nhặt miếng kính khác lên.
      Cậu đi chỗ khác. Cậu có thể nhìn cô cả ngày, nhưng cậu có việc khác phải làm. Như Aliena nói, cậu mất trí vì con gái của cậu. Khi cậu nhìn cô, cậu thường kinh ngạc vì cậu chịu trách nhiệm cho sự hiện diện của người phụ nữ trẻ, thông minh, độc lập và trưởng thành này. Cậu hãnh diện vì cô là một thợ thủ công tốt như vậy.
      Trớ trêu thay, cậu luôn luôn ép Tommy trở thành một thợ xây dựng. Thực sự cậu đã bắt đứa bé làm việc vài năm trong công trường xây dựng. Nhưng Tommy lại quan tâm đến nông nghiệp, cưỡi ngựa, săn bắn và kiếm thuật, những việc mà Jack không thích. Sau cùng Jack đã thừa nhận bị thất bại. Tommy đã phục vụ như cận vệ cho một trong những hiệp sĩ địa phương và đã được phong hiệp sĩ. Aliena đã cho cậu năm làng làm tài sản. Khả năng của bố được truyền lại cho Sally. Còn Tommy đã lập gia đình với cô con gái trẻ của Bá tước Bedford, và họ có ba con. Jack trở thành ông nội. Nhưng Sally vẫn còn độc thân ở lứa tuổi hai mươi lăm. Sally có nhiều nét của bà nội Ellen. Cô đã tự lực cánh sinh.
      Jack đi quanh đầu phía tây của nhà thờ và nhìn lên hai ngọn tháp sinh đôi. Chúng đã hầu như hoàn thành, và một chuông đồng to lớn đang trên đường từ xưởng đúc ở London đến đây. Hiện nay Jack không có gì nhiều để làm. Có lần cậu đã có một đội quân thợ cắt đá khỏe mạnh và thợ mộc, bây giờ cậu chỉ còn một nhóm nhỏ thợ điêu khắc và thợ sơn làm những công việc chính xác và tỉ mỉ trên một quy mô nhỏ: tạc tượng, xây tháp nhọn trang hoàng, mạ vàng đôi cánh thiên thần bằng đá. Không còn gì nhiều để thiết kế, ngoại trừ trường hợp bất thường cho những tòa nhà mới của tu viện như thư viện, nhà họp, nhiều phòng cho khách hành hương, nhà giặt và xưởng sữa. Lần đầu tiên trong nhiều năm, giữa các công việc lặt vặt, cậu tự khắc những tượng đá. Cậu sốt ruột muốn kéo gian cung thánh cũ của thợ xây Tom xuống và xây lên đầu cuối phía đông theo thiết kế của riêng cậu, nhưng Tu viện trưởng Philip muốn thưởng thức nhà thờ đã hoàn thành một năm trước khi bắt đầu một kế hoạch xây dựng khác. Philip cảm thấy tuổi già của mình và Jack sợ rằng ông không còn sống để nhìn thấy gian cung thánh được xây lại.
      Tuy nhiên, công việc sẽ tiếp tục sau khi Philip chết, Jack nghĩ khi thấy hình dáng cao lớn của Thầy Jonathan từ sân nhà bếp sải bước về phía cậu. Jonathan sẽ là một tu viện trưởng tốt, có lẽ ngay cả tốt hơn Philip. Jack vui vì người kế nghiệp đã được chuẩn bị: nó cho phép cậu hoạch định kế hoạch tương lai.
      “Tôi đang lo lắng về tòa án giáo hội này, Jack,” Jonathan nói không mào đầu.
      Jack nói: “Tôi nghĩ nó chỉ gây nên tiếng động, còn ngoài ra không có gì xẩy ra.”
      “Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng tổng đại diện hóa ra lại là một kẻ thù lâu năm của Tu viện trưởng Philip.”
      “Thật quỷ quái. Nhưng ngay cả như vậy, chắc chắn ông ấy cũng không tìm ra Philip có tội.”
      “Ông ấy có thể làm mọi chuyện ông ấy muốn.”
      Jack lắc đầu ghê tởm. Một đôi khi cậu tự hỏi tại sao những người như Jonathan vẫn còn có thể tin vào giáo hội khi nó đồi bại đáng xấu hổ như thế. “Anh muốn làm gì?”
      “Cách duy nhất để chứng minh Philip vô tội là tìm ra ai là bố mẹ của tôi.”
      “Nó đã hơi trễ cho chuyện đó.”
      “Đó là hy vọng duy nhất của chúng ta.”
      Một phần nào Jack đã lung lay. Họ hoàn toàn tuyệt vọng. “Anh sẽ bắt đầu từ đâu?”
      “Với anh. Anh ở trong rừng gần tu viện Thánh Gioan trong rừng vào thời điểm khi tôi được sinh ra.”
      “Tôi?” Jack không hiểu Jonathan muốn gì. “Tôi đã sống ở đó cho đến khi tôi mười một tuổi. Và tôi phải lớn hơn anh mười một tuổi…”
      “Cha Philip nói, ông ấy đã gặp anh, với gia đình anh và thợ xây Tom cùng với các con của Tom một ngày sau khi tôi được tìm thấy.”
      “Tôi nhớ việc đó. Chúng tôi ăn hết đồ ăn của Philip. Chúng tôi gần chết đói.”
      “Hãy suy nghĩ kỹ!  Anh có nhìn thấy ai có một em bé, hay một phụ nữ trẻ, người có thể đã có thai, ở bất cứ chỗ nào gần khu vực đó không?”
      “Đợi một chút!” Jack bối rối. “Anh nói với tôi là anh được tìm thấy gần tu viện Thánh Gioan trong rừng?”
      “Đúng. Anh không biết chuyện đó sao?”
      Jack không thể tin vào tai mình. “Không, tôi không biết chuyện đó,” cậu nói chậm rãi. Tâm trí cậu quay cuồng với lời tỏ lộ đó. “Khi chúng tôi đến Kingsbridge, anh đã ở đây và tôi đương nhiên nghĩ rằng anh đã được tìm thấy trong rừng gần đây.” Cậu bất ngờ muốn ngồi xuống. Có một đống gạch đổ nát ở gần đó, và cậu ngồi xuống trên đó.
      Jonathan sốt ruột: “Vậy, anh có thấy bất kỳ người nào ở trong rừng không?”
      “Ồ, có,” Jack nói. “Tôi không biết phải kể với anh điều này như thế nào, Jonathan.”
      Jonathan tái mặt. “Anh biết một số chuyện về việc này, phải không? Anh đã thấy gì?”
      “Tôi đã thấy anh, Jonathan; đó là cái mà tôi đã thấy.”
      Miệng Jonathan há to. “Cái gì… Như thế nào?”
      “Vào buổi sáng sớm trên đường đi săn vịt, tôi nghe một tiếng khóc. Tôi tìm thấy một đứa bé mới sinh, cuốn trong một mảnh áo khoác cũ, nằm bên cạnh đống than hồng của một đống lửa đã tắt.”
      Jonathan nhìn cậu chằm chằm. “Còn gì nữa?”
      Jack gật đầu chậm rãi. “Đứa bé nằm trên một ngôi mộ mới.”
      Jonathan nức nở. “Mẹ tôi?”
      Jack gật đầu.
      Jonathan bắt đầu khóc, nhưng cậu tiếp tục hỏi. “Anh đã làm gì?”
      “Tôi đi tìm mẹ tôi. Nhưng trong khi chúng tôi trở lại chỗ đó, chúng tôi thấy một linh mục, cưỡi một con ngựa nhỏ, mang theo một đứa bé.”
      “Francis,” Jonathan nói với giọng nghẹn ngào.
      “Cái gì?”
      Cậu nức nở mạnh hơn. “Tôi được tìm thấy bởi em của cha Philip, Francis, một linh mục.”
      “Ông ấy làm gì ở đó?”
      “Ông ấy trên đường đến gặp Philip ở tu viện Thánh Gioan trong rừng. Ông ấy đem tôi đến tu viện đó.”
      “Trời ơi!” Jack nhìn chằm chằm vào người tu sĩ cao với dòng nước mắt rơi xuống trên má. Anh chưa nghe hết mọi chuyện, Jonathan, cậu nghĩ.
      Jonathan nói: “Anh có thấy bất cứ ai có thể là bố của tôi không?”
      “Có,” Jack nói nghiêm trang. “Tôi biết ông ấy là ai.”
      “Hãy cho tôi biết!” Jonathan thì thầm.
      “Thợ xây Tom.”
      “Thợ xây Tom?” Jonathan nặng nề ngồi xuống trên mặt đất. “Thợ xây Tom là bố tôi?”
      “Đúng.” Jack lắc đầu kinh ngạc. “Bây giờ tôi biết anh nhắc tôi nhớ tới ai. Anh và ông ấy là người cao lớn mà tôi chưa bao giờ gặp.”
      “Ông ấy luôn luôn tốt với tôi khi tôi còn là một đứa bé,” Jonathan nói với giọng bàng hoàng. “Ông ấy thường chơi với tôi. Ông ấy thích tôi. Tôi thường gặp ông như gặp Tu viện trưởng Philip.” Nước mắt cậu rơi xuống. “Đó là bố tôi. Bố tôi.” Cậu nhìn lên Jack. “Tại sao ông ấy bỏ rơi tôi?”
      “Họ nghĩ cách nào anh cũng sẽ chết. Họ không có sữa cho anh. Chính họ cũng sắp chết đói, tôi biết. Họ ở xa mọi làng xã. Họ không biết tu viện ở gần đó. Họ không có đồ ăn ngoại trừ củ cải, và củ cải cũng sẽ giết chết anh.”
      “Vậy là một cách nào đó họ yêu tôi.”
      Jack thấy cảnh tượng như mới xẩy ra hôm qua: ngọn lửa tắt, đất mới trên ngôi mộ, đứa bé đỏ hồng nhỏ xíu cựa quậy cánh tay và đôi chân trong mảnh áo khoác cũ màu xám. Đồ phế liệu nhỏ đó của nhân loại đã trở thành người đàn ông cao lớn đang ngồi khóc trên mặt đất trước mặt cậu bây giờ. “Ồ, vâng, họ yêu anh.”
      “Làm sao mà không ai nói về nó?”
      “Tom xấu hổ, dĩ nhiên,” Jack nói. “Mẹ tôi phải biết điều đó, và chúng tôi những đứa trẻ cảm nhận nó, tôi nghĩ như thế. Dù sao nó cũng là một đề tài mà người ta không thể tự nhiên nói về. Và chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đứa bé đó là anh.”
      “Tom chắc chắn biết chuyện này,” Jonathan nói.
      “Vâng.”
      “Tôi tự hỏi tại sao ông ấy không lấy tôi lại?”
      “Mẹ tôi rời ông ấy chẳng bao lâu sau khi chúng tôi đến đây,” Jack nói. Cậu mỉm cười buồn bã. “Rất khó làm hài lòng bà, giống như Sally. Điều đó có nghĩa là ông phải thuê một người chăm sóc anh. Vì thế tôi giả sử ông ấy nghĩ: Tại sao không để đứa bé ở tu viện? Anh sẽ được chăm sóc tốt ở đó.”
      Jonathan gật đầu. “Bởi Johny Eightpence già yêu quý. Xin Chúa cứu linh hồn ông.”
      “Qua cách đó Tom có lẽ có nhiều thời gian với Anh. Anh chạy xung quanh sân tu viện mỗi ngày, và ông ấy làm việc ở đó. Nếu ông ấy đem anh về và để anh ở nhà với người giữ trẻ, ông ấy ít được thấy anh hơn. Và tôi tưởng tượng khi năm tháng trôi qua, khi anh lớn lên như đứa bé mồ côi trong tu viện, và dường như hạnh phúc trong cách đó, thì điều dễ hiểu là nên để anh lại đó. Một cách nào đó, người ta thường dâng con cho Chúa.”
      “Lúc nào tôi cũng tự hỏi về bố mẹ tôi,” Jonathan nói. Tim Jack đau cho cậu. ”Tôi đã cố gắng tưởng tượng họ ra sao, xin Chúa cho tôi gặp họ, băn khoăn không biết họ có yêu tôi không, thắc mắc tại sao họ bỏ rơi tôi. Bây giờ tôi biết mẹ tôi chết khi sinh tôi và bố tôi ở gần bên tôi suốt thời gian cuối đời ông.” Cậu mỉm cười qua dòng nước mắt. “Tôi không thể nói cho anh hiểu tôi hạnh phúc thế nào.”
      Jack cũng sắp khóc. Để che đậy sự xấu hổ cậu nói: “Anh giống Tom.”
      “Thật vậy sao?” Jonathan hài lòng.
      “Anh có nhớ ông ấy cao thế nào không?”
      “Tất cả người trưởng thành đều lớn.”
      “Ông ấy có những đặc điểm tốt, giống anh. Một khuôn mặt trạm khắc đẹp. Nếu anh để râu, mọi người sẽ đoán ra.”
      “Tôi nhớ ngày ông qua đời,” Jonathan nói. “Ông ấy mang tôi đi quanh hội chợ. Chúng tôi xem gấu đánh nhau. Rồi tôi trèo lên tường của gian cung thánh. Tôi quá sợ để đi xuống, vì thế ông đã trèo lên và bế tôi xuống. Rồi ông thấy quân của William đến. Ông đem tôi đến tu viện. Đó là lần cuối cùng tôi thấy ông.”
      “Tôi nhớ việc đó,” Jack nói. “Tôi quan sát ông trèo xuống với anh trong cánh tay.”
      “Ông ấy muốn tôi an toàn”
      “Rồi ông lo lắng cho người khác,” Jack nói.
      “Ông ấy thực sự yêu tôi.”
      Jack đổi đề tài. “Điều này sẽ làm thay đổi việc kiện Philip, phải không?”
      “Tôi quên mất chuyện đó,” Jonathan nói. “Đúng, nó sẽ thay đổi. Trời ơi!”
      “Chúng ta có bằng chứng không thể chối cãi không?” Jack băn khoăn. “Tôi nhìn thấy đứa bé, và vị linh mục, nhưng tôi thực sự không nhìn thấy đứa bé được giao cho tu viện nhỏ.”
      “Francis biết. Nhưng Francis là em của Philip, vì thế chứng cớ của ông không được công nhận.”
      “Mẹ tôi và Tom đi ra ngoài chung với nhau buổi sáng hôm đó,” Jack nói, cố nhớ lại. “Họ nói họ đi tìm vị linh mục. Tôi cá là họ đã tới tu viện và xem đứa bé có được an toàn không.”
      “Nếu bà ấy khai như thế trong tòa án thì mọi chuyện sẽ chấm dứt,” Jonathan nói.
      Philip nghĩ bà là một phù thủy,” Jack nêu ra khó khăn. “Ông ấy có sẵn sàng để bà làm chứng không?”
      “Nhưng bà ta cũng ghét ông ấy nữa. Bà ấy có sẵn sàng làm chứng không?”
      “Tôi không biết,” Jack nói. “Chúng ta sẽ hỏi bà ấy.”
       
       
      “Gian dâm và gia đình trị?” Mẹ Jack kêu lên. “Philip?” Bà bật cười. “Nó quá vô lý!”
      “Mẹ, đây là chuyện nghiêm trọng,” Jack nói.
      “Philip sẽ không gian dâm ngay cả khi bỏ ông vào thùng với ba cô gái điếm,” bà nói. “Ông ấy không biết phải làm gì.”
      Jonathan xấu hổ. “Tu viện trưởng thật sự gặp khó khăn, ngay cả việc lời buộc tội là vô lý,” cậu nói.
      “Tại sao tôi phải giúp Philip?” bà nói. “Ông ấy chỉ làm tôi đau lòng.”
      Jack đã sợ về việc này. Mẹ cậu đã chẳng bao giờ tha thứ cho Philip vì đã tách bà và Tom. “Ông cũng làm như vậy đối với con. Nếu con có thể tha thứ cho ông ấy, mẹ cũng có thể.”
      “Tôi không phải là mẫu người dễ tha thứ,” bà nói.
      “Vậy không phải làm chuyện đó vì Philip, mà vì con. Con muốn tiếp tục xây dựng ở Kingsbridge.”
      “Tại sao? Nhà thờ đã hoàn thành.”
      “Con muốn phá đổ gian cung thánh cũ của Tom và xây lại trong phong cách mới.”
      “Ồ, lại xây nữa.”
      “Mẹ. Philip là một tu viện trưởng tốt, và khi ông chấm dứt, Jonathan sẽ tiếp tục nhiệm vụ - nếu mẹ đến Kingsbridge và nói ra sự thật trước tòa.”
      “Tôi ghét tòa án,” bà nói. “Chẳng có gì tốt từ tòa án cả.”
      Thật điên rồ. Bà ấy cầm chìa khóa cho phiên tòa của Philip. Nhưng bà là một người già cứng đầu. Jack đã thực sự sợ cậu sẽ không thể thuyết phục được bà. Cậu quyết định thử đi cửa sau. “Con biết nó là một đoạn đường xa cho một người bằng tuổi của mẹ,” cậu nói ranh mãnh. “Mẹ bao nhiêu tuổi rồi – sáu mươi tám?”
      “Sáu mươi hai, và đừng khiêu khích mẹ,” bà mắng. “Mẹ còn khỏe hơn con.” Nó có thể là sự thật, Jack nghĩ. Tóc bà trắng như tuyết, và mặt bà có những nét nhăn, nhưng đôi mắt vàng ròng vẫn nhìn xuyên thấu như xưa: vừa khi bà thấy Jonathan bà đã biết cậu là ai, và bà đã nói: “Vâng, tôi không cần hỏi tại sao cậu đến đây. Cậu đã biết cậu từ đâu đến, phải không? Trời ơi! Cậu cao như bố cậu và cũng gần to ngang như ông.” Bà vẫn độc lập và độc đáo như xưa.
      “Sally cũng giống mẹ,” Jack nói.
      Bà hài lòng. “Thật thế không?” Bà mỉm cười. “Giống chỗ nào?”
      “Trong sự bướng bỉnh của cô ấy.”
      “Hừ!” bà tức giận. “Cô ấy sẽ được thôi.”
      Jack quyết định phải nài xin bà. “Mẹ, làm ơn đến Kingsbridge với chúng con và nói lên sự thật.”
      “Mẹ không biết,” bà nói.
      Jonathan nói: “Tôi có chuyện khác muốn hỏi bà.”
      Jack băn khoăn không biết chuyện gì nữa đây. Cậu sợ Jonathan nói điều gì đó không hài lòng mẹ cậu: nó dễ xẩy ra, đặc biệt đối với các giáo sĩ. Cậu nín thở.
      Jonathan nói: “Bà có thể chỉ cho tôi nơi mẹ tôi được chôn cất không?”
      Jack thở ra nhẹ nhàng. Chuyện đó không có gì sai. Thật vậy, Jonathan khó có thể nghĩ ra cái gì khác để làm dịu bà.
      Bà bỏ ngay thái độ khinh bỉ. “Dĩ nhiên tôi sẽ chỉ cậu,” bà nói. “Chắc chắn tôi có thể tìm ra nó.”
      Jack không muốn mất nhiều thời gian. Phiên xử sẽ bắt đầu vào buổi sáng và họ còn đoạn đường dài để đi. Nhưng cậu cảm nhận cậu nên để cho số mệnh định đoạt.
      Bà nói với Jonathan: “Cậu có muốn đến đó bây giờ không?”
      “Vâng, làm ơn, nếu có thể.”
      “Được.” Bà đứng lên. Bà nhặt chiếc áo choàng lông thỏ trắng và khoác nó trên vai. Jack định nói với bà rằng nó sẽ nóng quá, nhưng cậu dừng lại: người già luôn cảm thấy lạnh hơn.
      Họ rời hang động đầy mùi táo dự trữ và khói, rồi len qua đám cây rậm trước cửa hang và bước vào ánh mặt trời mùa xuân. Ellen đi không lưỡng lự. Jack và Jonathan tháo ngựa và theo sau. Họ phải dắt ngựa theo vì cây mọc um tùm, không thể cưỡi ngựa được. Jack nhận ra mẹ cậu đi chậm hơn mọi khi. Bà không còn khỏe như bà nói.
      Jack tự mình không thể tìm ra chỗ đó. Đã có một thời gian cậu đi trong rừng dễ dàng như bây giờ cậu đi xung quanh Kingsbridge. Bây giờ đối với cậu khoảng rừng này cũng giống khoảng rừng kia; như các ngôi nhà của Kingsbridge tất cả đều trông giống nhau đối với một người lạ. Ellen theo vết đường của thú vật xuyên qua khu rừng rậm. Lâu lâu Jack nhận ra dấu hiệu liên quan đến tuổi thơ của cậu: một cây sồi to lớn nơi cậu đã trốn con lợn rừng; một khu thỏ ở, nơi đã cung cấp những bữa cơm ngon lành; một con suối, nơi cậu có thể bắt cá khi nào cậu muốn. Có lúc cậu biết mình ở đâu, rồi cậu lại mất hướng. Thật kỳ cục, cậu nghĩ, đã có lần cậu cảm thấy đây là nhà cậu, bây giờ nó thành một nơi xa lạ, những con rạch và những bụi cây trở thành vô nghĩa đối với cậu, giống như những viên đá vôi và những khuôn mẫu của cậu xa lạ đối với người nông dân. Nếu trước đây có lần cậu tự hỏi đời sống của cậu sẽ ra sao, cậu đoán rằng nó không giống như thực tế bây giờ.
      Họ đã đi nhiều dặm. Nó là một ngày mùa xuân ấm áp, và Jack đổ mồ hôi. Nhưng Ellen vẫn mặc áo lông thỏ. Khoảng giữa trưa bà đến một chỗ nghỉ trong bóng râm. Jack nhận ra bà thở mạnh và mặt bà tái đi. Đã đến lúc bà phải rời rừng về ở với Jack và Aliena. Cậu quyết định sẽ cố thuyết phục bà.
      “Mẹ có sao không?” cậu hỏi.
      “Dĩ nhiên mẹ bình thường,” bà cắt ngang. “Chúng ta đã đến nơi.”
      Jack nhìn quanh. Cậu không nhận ra nó.
      Jonathan hỏi: “Có phải nó ở đây không?”
      “Đúng,” bà trả lời.
      Jack nói: “Con đường đâu?”
      “Bên kia.”
      Khi Jack định hướng được con đường, khoảng rừng thưa trở thành quen thuộc với cậu, và một dòng kỷ niệm quay về. Đây là cây hạt dẻ lớn: lúc đó cây không còn lá và hạt của nó rụng khắp nơi, nhưng bây giờ cây đang trổ hoa, những nụ hoa trắng to giống như những cây nến cắm trên khắp cây. Những nụ hoa bắt đầu rơi, và cứ vài phút một đám mây của cánh hoa trôi dạt xuống.
      “Martha đã kể những gì đã xẩy ra,” Jack nói. “Họ dừng lại ở đây vì mẹ anh không còn có thể tiếp tục đi. Tom nhóm lửa và nấu súp với vài củ cải: không có thịt. Mẹ anh sinh anh ở đúng chỗ này, trên nền đất. Anh hoàn toàn khỏe mạnh, nhưng một cái gì đó xẩy đến cho bà và bà chết.” Cách gốc cây vài bộ, một đống đất nhỏ nhô lên. “Hãy nhìn,” Jack nói. “Anh có thấy gò đất nhỏ kia không?”
      Jonathan gật đầu, mặt cậu căng thẳng như muốn đè nén cảm xúc.
      “Đó là ngôi mộ.“ Khi Jack nói, một đám mây nhỏ của những cánh hoa rơi từ cây và rớt xuống mộ như một tấm thảm hoa.
      Jonathan quỳ xuống bên ngôi mộ và cầu nguyện. Jack đứng im lặng. Cậu nhớ lại khi cậu tìm được người thân ở Cherbourg: đó là một trải nghiệm khủng khiếp. Những gì Jonathan đang trải qua còn dữ dội hơn.
      Sau cùng Jonathan đứng lên. “Nếu tôi là tu viện trưởng,” Cậu nói nghiêm trang, “tôi sẽ xây một tu viện nhỏ ở đây, với một nhà nguyện và một nhà trọ, để trong tương lai không một lữ hành nào trên đoạn đường này phải trải qua những đêm mùa đông lạnh lẽo ngoài trời. Tôi sẽ dành nhà trọ này để tưởng nhớ mẹ tôi.” Cậu nhìn Jack. “Tôi đoán là anh cũng không biết tên bà, phải không?”
      “Đó là Agnes,” Ellen nói dịu dàng. “Mẹ cậu tên là Agnes.”
       
       
      Giám mục Waleran làm cho sự việc thêm đáng tin.
      Ông bắt đầu bằng cách kể cho tòa án nghe về sự tiến triển nhanh chóng của Philip: làm quản lý tu viện khi ông hai mươi mốt tuổi; tu viện trưởng chi nhánh trong rừng năm hai mươi ba tuổi; tu viện trưởng ở Kingsbridge lúc hai mươi tám tuổi. Ông luôn luôn đề cao tuổi trẻ của Philip và gây ấn tượng rằng bất cứ ai lãnh chức vụ sớm như thế thường có khuynh hướng kiêu ngạo. Rồi ông miêu tả tu viện Thánh Gioan trong rừng, ở một nơi xa xôi và cô lập, rồi ông chuyển qua sự tự do và độc lập của tu viện trưởng ở đó. “Ai mà ngạc nhiên,” ông nói, “sau năm năm, một mình một cõi, chỉ có sự giám sát nghẹ nhàng từ xa, khi người đàn ông trẻ, thiếu kinh nghiệm và tràn đầy sức sống này có một người con?” Nghe như nó là chuyện đương nhiên, không thể tránh khỏi. Philip muốn siết cổ ông.
      Waleran tiếp tục kể về việc Philip đã mang Jonathan và Johny Eightpence với ông khi ông đến Kingsbridge. Các tu sĩ đã giật mình, Waleran nói, khi tu viện trưởng mới đến với một em bé và một người giữ trẻ. Nó đúng như vậy. Có lúc Philip quên đi sự căng thẳng và cố đè nén một nụ cười thảm thương.
      Philip đã chơi với Jonathan, dạy cậu học và sau này chỉ định cậu thành trợ tá của ông, Waleran tiếp tục, như thể bất cứ người đàn ông nào cũng làm như thế với con mình, ngoại trừ các tu sĩ, những người không được phép có con. “Jonathan đã phát triển nhanh, giống như Philip” Waleran nói. “Khi Cuthbert Whitehead chết, Philip đã chỉ định cậu làm quản lý, ngay cả khi đó cậu mới hai mươi mốt tuổi. Thật sự không có ai khác trong tu viện có thể làm quản lý trong một tu viện hơn một trăm tu sĩ, mà phải để cho một cậu bé hai mươi mốt tuổi làm chuyện đó sao? Hay Philip muốn ưu tiên cho người máu mủ của mình? Khi Milius được cử đi làm tu viện trưởng ở Glastonbury, Philip đặt Jonathan làm thủ quỹ. Cậu ấy ba mươi bốn tuổi. Có phải cậu là người khôn ngoan nhất và đạo đức nhất trong số các tu sĩ ở đây? Hay đơn giản cậu là người được Philip yêu thích?”
      Philip nhìn quanh tòa án. Nó được tổ chức ở gian ngang phía nam nhà thờ chính tòa Kingsbridge. Tổng đại diện Peter ngồi trên một chiếc ghế rộng, chạm khắc giống như ngai vua. Tất cả ban lãnh đạo của Waleran có mặt, cũng như hầu hết tu sĩ của Kingsbridge. Không có nhiều việc để làm trong tu viện khi tu viện trưởng bị xét xử. Các giáo sĩ quan trọng trong vùng đều đến, ngay cả một số các cha xứ khiêm nhường. Cũng có cả đại diện từ các địa phận lân cận. Toàn thể cộng đồng tôn giáo miền Nam nước Anh chờ đợi lời phán quyết của phiên tòa này. Họ không quan tâm đến vấn đề Philip có đạo đức hay thiếu đạo đức; họ theo dõi phiên tòa để xem cuộc đọ sức giữa Tu viện trưởng Philip và Giám mục Waleran.
      Khi Waleran ngồi xuống, Philip tuyên thệ và bắt đầu kể câu truyện về buổi sáng mùa đông đó cách đây đã lâu. Ông bắt đầu với sự khó chịu gây ra bởi Peter thành Wareham: ông muốn mọi người biết rằng Peter có thành kiến chống lại ông. Rồi ông gọi Francis để kể về đứa bé đã được tìm thấy như thế nào.
      Jonathan đã đi ra ngoài, để lại một tin nhắn nói rằng cậu trên đường thu thập thông tin mới về nguồn gốc của cậu. Jack cũng biến mất nữa, qua đó Philip đi đến kết luận rằng chuyến đi đó có liên quan đến mẹ của Jack, bà phù thủy Ellen và Jonathan sợ ông sẽ cấm chuyến đi đó của cậu. Họ sẽ phải trở về sáng nay, nhưng họ vẫn chưa về tới. Philip không nghĩ Ellen có thể thêm gì về câu truyện Francis đang kể.
      Khi Francis chấm dứt, Philip nói: “Đứa bé không phải của tôi,” ông nói đơn giản. “Tôi thề rằng nó không phải là của tôi. Tôi chưa bao giờ có quan hệ tình dục với người phụ nữ nào. Cho đến hôm nay tôi sống trong tình trạng khiết tịnh mà Thánh Tông đồ Phao Lô khuyên chúng ta. Giám mục hỏi tại sao tôi đã đối xử với đứa bé như là con tôi?”
      Ông nhìn quanh những người đang lắng nghe. Ông đã quyết định rằng cơ hội duy nhất của ông là nói sự thật và hy vọng Chúa sẽ nói đủ to để át đi sự điếc thiêng liêng của Peter. “Khi tôi được sáu tuổi, bố mẹ tôi chết. Họ bị lính của vua Henry cũ giết ở Wales. Em tôi và tôi được cứu bởi viện phụ của một tu viện gần đó, và từ ngày đó chúng tôi được các tu sĩ chăm sóc. Tôi là một đứa bé mồ côi của tu viện. Tôi hiểu điều đó có nghĩa gì. Tôi hiểu đứa trẻ mồ côi khao khát sự âu yếm của bà mẹ như thế nào, ngay cả khi nó yêu người anh đang chăm sóc cho nó. Tôi biết Jonathan sẽ cảm thấy không bình thường, đặc biệt, không chính thức. Tôi nhận biết cảm xúc cô lập đó, cảm giác rằng tôi khác những người khác bởi vì tất cả có một người bố và một người mẹ, còn tôi không có. Giống cậu ấy, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình vì trở thành gánh nặng trên lòng hảo tâm của người khác; tôi tự hỏi tôi đã làm gì sai để tôi bị lấy đi những gì đối với người khác là điều tự nhiên. Tôi biết rằng cậu ấy sẽ mơ trong đêm về bộ ngực ấm áp, thơm tho và giọng nói êm dịu của một bà mẹ mà cậu ấy chẳng bao giờ biết, một người yêu cậu hoàn toàn và trọn vẹn.”
      Khuôn mặt Peter trơ như đá. Ông là thành phần Ki Tô hữu tồi tệ nhất, Philip nhận ra: ông chỉ nhặt ra sự tiêu cực, chỉ nghĩ đến sự cấm đoán thi hành nó, yêu cầu hình phạt nặng cho mỗi hành vi phạm tội. Trong khi đó ông ngơ đi lòng thương xót của Ki Tô giáo, từ chối lòng từ bi, trắng trợn không theo luân lý của tình yêu và công khai coi thường lề luật nhân từ của Chúa Giê Su. Họ giống như người Pha Ri Sêu, Philip nghĩ; không gì ngạc nhiên khi Chúa thích ăn với người thu thuế và tội lỗi.
      Ông tiếp tục, mặc dù ông biết với một trái tim nặng nề rằng những gì ông nói không thể xuyên qua áo giáp tự coi mình là công chính của Peter. “Không ai có thể chăm sóc đứa trẻ như tôi, ngoài bố mẹ của nó; và những người này chúng ta chẳng bao giờ tìm thấy. Chúa có thể làm dấu hiệu nào rõ ràng hơn thế nữa không?” Ông nghẹn lời. Jonathan vừa bước vào trong nhà thờ, với Jack; và giữa họ là bà phù thủy, mẹ Jack.
      Bà đã già đi: Tóc bà trắng như tuyết, và khuôn mặt bà có nhiều nếp nhăn. Nhưng bà đi như một nữ hoàng, đầu bà ngẩng cao, đôi mắt vàng ròng của bà nhìn thách thức. Philip quá ngạc nhiên để phản đối.
      Phiên tòa im lặng khi bà vào gian ngang và đứng đối diện với Tổng đại diện Peter. Bà nói bằng một giọng vang như tiếng kèn, và vọng xuống từ mái trần của con bà. “Tôi thề trước các Thánh rằng Jonathan là con của thợ xây Tom, người chồng yêu quý của tôi, và vợ trước của ông.”
      Có tiếng ồn ào ngạc nhiên từ đám đông các giáo sĩ. Một lúc lâu không ai có thể nghe thấy gì. Philip hoàn toàn kinh ngạc. Ông há miệng nhìn Ellen. Thợ xây Tom? Jonathan là con của thợ xây Tom? Khi ông nhìn Jonathan ông biết nó là sự thật: Họ giống nhau, không những về chiều cao, nhưng còn về khuôn mặt. Nếu Jonathan có một bộ râu, mọi chuyện sẽ rõ ràng.
      Phản ứng đầu tiên của ông là sự mất mát. Cho đến bây giờ, đối với Jonathan ông là một người bố. Nhưng Tom là người bố thật, và mặc dầu Tom đã qua đời, sự khám phá này sẽ thay đổi mọi chuyện. Philip không còn có thể thầm kín nghĩ mình là bố của cậu ấy; Jonathan sẽ không còn cảm thấy giống như con của ông. Bây giờ Jonathan là con của Tom. Philip đã mất cậu…
      Philip nặng nề ngồi xuống. Khi đám đông bắt đầu im lặng, Ellen kể câu chuyện về việc Jack nghe tiếng khóc và tìm thấy một đứa bé mới sinh. Philip lắng nghe, choáng váng khi bà kể rằng bà và Tom đã ẩn trong bụi, quan sát Philip và các tu sĩ trở về sau khi làm việc buổi sáng hôm đó và gặp Francis đang đợi họ với một đứa bé mới sinh, và Johnny Eightpence cố gắng cho nó ăn với miếng giẻ nhúng vào xô sữa dê.
      Philip nhớ rất rõ Tom đã quan tâm khi họ tình cờ gặp nhau sau đó một hai ngày và Philip đã kể cho ông về đứa bé bị bỏ rơi. Philip nghĩ sự quan tâm của ông là một phản ứng của bất cứ người nhân từ nào khi nghe một câu chuyện cảm động, nhưng thực ra ông muốn biết về số phận con ông.
      Rồi Philip nhớ lại Tom đã yêu Jonathan như thế nào trong những năm sau đó, khi đứa bé trở thành một đứa trẻ và sau đó trở thành một cậu bé tinh nghịch. Không ai để ý đến nó: Trong những ngày này toàn bộ tu viện đã đối xử với Jonathan như một con vật cưng và Tom ở cả ngày trong sân tu viện, vì thế thái độ của ông hoàn toàn không gây chú ý; nhưng bây giờ, khi nhìn lại, Philip có thể thấy rằng sự quan tâm mà Tom dành cho Jonathan thật đặc biệt.
      Khi Ellen ngồi xuống, Philip biết mình đã được chứng minh vô tội. Sự tiết lộ của Ellen quá kinh hoàng đến nỗi ông hầu như quên mình đang bị xét xử. Câu chuyện của bà về sinh đẻ và tử vong, tuyệt vọng và hy vọng, bí mật thời xa xưa và tình yêu vĩnh cửu làm cho câu hỏi về sự khiết tịnh của Philip thành không quan trọng. Nó không phải là không quan trọng, dĩ nhiên; tương lai của tu viện tùy thuộc vào nó; và bây giờ Ellen đã trả lời câu hỏi một cách bi thảm đến nỗi dường như phiên xử không thể tiếp tục được. Với bằng chứng rành rành như thế, ngay cả Peter thành Warenham cũng không thể cho tôi là có tội, Philip nghĩ. Waleran một lần nữa lại thất bại.
      Tuy nhiên Waleran không sẵn sàng thừa nhận thất bại. Ông chỉ một ngón tay buộc tội vào Ellen. “Bà nói thợ xây Tom bảo bà rằng đứa bé được mang tới tu viện là con của ông ấy?”
      “Vâng,” Ellen nói một cách thận trọng.
      “Nhưng hai người khác, những người có thể xác nhận điều này – tôi muốn nói tới hai đứa trẻ Alfred và Martha – đã không cùng đi với bà đến tu viện?”
      “Không.”
      “Và Tom đã chết, như thế chỉ có bà làm chứng rằng Tom đã nói đó là con ông. Câu truyện của bà không được xác nhận.”
      “Ông muốn bao nhiêu bằng chứng nữa?” Bà nói sôi nổi. “Jack nhìn thấy đứa bé bị bỏ rơi. Francis nhặt nó lên. Jack và tôi gặp Tom và Alfred và Martha. Francis đem đứa bé đến tu viện. Tom và tôi dò thám tu viện. Bao nhiêu bằng chứng mới làm vừa lòng ông?”
      “Tôi không tin bà,” Waleran nói.
      “Ông không tin tôi?” Ellen nói, và bất ngờ Philip thấy bà giận dữ, giận dữ một cách sâu sắc và mạnh mẽ. “Ông không tin tôi ư? Ông, Waleran Bigod! Tôi biết ông là người khai man trước tòa.”
      Chuyện gì nữa đây? Philip linh cảm sẽ có một cơn đại hồng thủy. Waleran tái mặt. Ở đây còn có nhiều chuyện, Philip nghĩ, những chuyện làm Waleran sợ hãi. Ông cảm thấy vui trong bụng. Waleran bất ngờ lảo đảo.
      Philip nói với Ellen: “Làm sao bà biết giám mục là người khai gian trước tòa?”
      “Bốn mươi bẩy năm về trước, trong tu viện này, có một tù nhân tên là Jack Shareburg,” Ellen nói.
      Waleran ngắt lời bà. “Tòa án này không quan tâm đến biến cố đã xẩy ra cách đây nhiều năm.”
      Philip nói: “Có chứ, thưa giám mục! Những lời cáo buộc tôi về tội gian dâm cách đây ba mươi lăm năm. Ông đã đòi hỏi tôi phải chứng minh sự vô tội của tôi. Bây giờ tòa án sẽ đòi hỏi ông như vậy.” Ông quay sang Ellen “Bà tiếp tục đi!”
      “Không ai biết tại sao ông ấy lại bị tù, ngay cả chính ông ấy cũng không biết. Một ngày kia ông được thả tự do, và được tặng một chén có nạm đá quý như để đền bù cho những năm tháng bị tù một cách bất công. Dĩ nhiên ông chẳng muốn chén đó: ông không quen dùng nó và nó quá giá trị để có thể bán được ở ngoài chợ. Ông để nó lại ở đây, trong ngôi nhà thờ chính tòa cũ của Kingsbridge. Sau đó ông lại bị bắt – bởi Waleran Bigod, một linh mục miền quê giản dị, khiêm tốn nhưng đầy tham vọng – và chiếc chén lại xuất hiện một cách bí ẩn trong túi ông. Jack Shareburg bị vu cáo ăn cắp chén quý. Ông bị kết án vì lời thề của ba người: Waleran Bigod, Percy Hamleigh và Tu viện trưởng James của Kingsbridge. Và ông bị treo cổ.”
      Một sự yên lặng sững sờ, rồi Philip nói: “Tại sao bà biết mọi việc này?”
      “Tôi là người bạn duy nhất của Jack Shareburg, và ông ấy là bố của con trai tôi, Jack Jackson, thợ xây dựng tổng thể chính của nhà thờ chính tòa này.”
      Tiếng ồn ào nổi lên. Waleran và Peter cùng nói một lúc, nhưng không ai nghe thấy gì trong sự huyên náo giữa các giáo sĩ hiện diện. Họ đến để xem một cuộc thách đấu, Philip nghĩ, nhưng họ không ngờ nó lại diễn biến như thế này.
      Một lúc sau Peter tạo được sự yên lặng. “Tại sao ba công dân tuân thủ pháp luật lại kết hợp với nhau vu khống một người lạ vô tội?” ông hỏi một cách nghi ngờ.
      “Vì quyền lợi của mình,” Ellen nói. “Waleran Bigod được lên làm tổng đại diện. Percy được hưởng trang trại Hamleigh và nhiều làng khác, và trở thành người giầu có. Tôi không biết phần thưởng cho Tu viện trưởng James là gì.”
      “Tôi có thể trả lời câu hỏi đó,” một giọng nói cất lên
      Philip nhìn quanh, giật mình. Người đang nói là Remigius. Ông đã ngoài bẩy mươi, tóc bạc và thích nói dông dài. Bây giờ ông đứng lên, dựa vào cây gậy, mắt ông sáng và nét mặt ông tỉnh táo. Từ khi ông thất bại và trở lại tu viện, ông sống một cuộc sống thinh lặng và khiêm nhường, và rất ít nói chuyện công khai. Philip tự hỏi chuyện gì sẽ xẩy ra. Remigius sẽ theo phe nào? Ông có dùng cơ hội cuối cùng để để đâm sau lưng kẻ thù lâu đời của ông là Philip không?
      “Tôi có thể kể Tu viện trưởng James đã nhận được phần thưởng nào,” Remigius nói. “Tu viện nhận được các làng Northwold, Southwold và Hundredacre, cộng với khu rừng của Oldean.”
      Philip kinh ngạc. Có thể nào tu viện trưởng cũ đã làm chứng gian vì được lợi vài ngôi làng?
      “Tu viện trưởng James không bao giờ là một người điều hành giỏi,” Remigius tiếp tục. “Tu viện gặp khó khăn, và ông nghĩ rằng thu nhập thêm sẽ giúp tu viện vượt qua.” Remigius dừng lại, sau đó nói sắc sảo: “Nó mang lại lợi ít, hại nhiều. Lợi nhuận chỉ giúp được một thời gian, nhưng Tu viện trưởng James chẳng bao giờ lấy lại được niềm tự trọng của mình.”
      Nghe Remigius nói, Philip nhớ lại nét nặng nề, chán nản của tu viện trưởng cũ, và bây giờ ông hiểu tại sao.
      Remigius nói: “Thực ra James không thề gian, bởi vì ông chỉ thề rằng chiếc chén đó thuộc về tu viện; tuy nhiên ông biết Jack Shareburg vô tội, nhưng ông vẫn yên lặng. Ông đã hối hận về sự yên lặng đó trong suốt quãng đời còn lại của cuộc đời ông.”
      Ông phải hối hận, Philip nghĩ, nó là một tội vì đối với một tu sĩ như thế là bị mua chuộc. Lời chứng của Remigius xác nhận câu chuyện của Ellen và lên án Waleran.
      Remigius vẫn tiếp tuc: “Một vài người già ở đây hôm nay sẽ nhớ rằng tu viện cách đây bốn mươi năm ra sao. Tóm lại: đổ nát, không còn một xu và đồi bại. Đó là vì sức nặng của tội lỗi đè lên tu viện trưởng. Khi ông sắp chết, ông đã xưng tội với tôi. Tôi muốn –.“ Remigius dừng lại. Nhà thờ im lặng, chờ đợi. Ông thở dài và tiếp tục. Tôi muốn thay thế vị trí của ông và sửa lại những đổ vỡ. Nhưng Thiên Chúa đã chọn người khác cho trách nhiệm đó.” Ông lại dừng và khuôn mặt già nua của ông tỏ vẻ đau đớn khi ông cố gắng chấm dứt. “Tôi có thể nói: Thiên Chúa đã chọn một người tốt hơn.” Ông đột ngột ngồi xuống.
      Philip kinh ngạc, sửng sốt và biết ơn. Hai kẻ thù lâu đời của ông, Ellen và Remigius, đã cứu ông. Lời tiết lộ về những bí mật ngày xưa làm cho ông cảm thấy ông đã sống mà nửa con mắt đã đóng. Giám mục Waleran cáu giận. Ông đã cảm thấy chắc chắn rằng sau bao năm ông đã được an toàn. Ông nghiêng người về phía Peter, nói nhỏ vào tai tổng đại diện, trong khi tiếng ồn ào nổi lên từ những người tham dự.
      Peter đứng lên và nói lớn: “Im lặng!” Nhà thờ hoàn toàn yên lặng. “Phiên tòa chấm dứt!” ông nói.
      “Xin chờ một chút!” Đó là Jack Jackson. “Như vậy chưa đủ!” cậu hăng hái nói. “Tôi muốn biết tại sao.”
      Làm ngơ Jack, Peter tiến về phía cửa vào tu viện, và Waleran theo sau.
      Jack đi theo họ. “Tại sao ông làm như thế?” cậu hét lên với Waleran. “Ông đã thề gian và một người phải chết – Ông định ra khỏi đây mà không nói một lời sao?”
      Waleran nhìn thẳng về phía trước, mặt trắng bệch, môi mím lại, nét mặt như đang đè nén cơn tức giận. Khi ông đi qua cửa, Jack hét lên: “Người đàn ông không xứng đáng, nói dối, tham nhũng kia, hãy trả lời tôi! Tại sao ông giết bố tôi?”
      Waleran đi ra khỏi nhà thờ và cánh cửa đóng sầm lại sau lưng ông.
       
      #18
        Minh Nan 04.01.2017 23:59:54 (permalink)
        0
        Chương 18
         
        I
         
        Lá thư từ vua Henry đến trong khi các tu sĩ đang trong nhà họp.
        Jack đã xây một nhà họp chứa được một trăm năm mươi tu sĩ – số lượng lớn nhất trong một tu viện trên toàn nước Anh. Tòa nhà tròn có mái trần vòm bằng đá và hàng ghế theo bậc bằng đá để ngồi. Ban lãnh đạo tu viện ngồi trên băng đá xung quanh bức tường, cao hơn hàng ghế phía dưới; và Philip cùng Jonathan ngồi trên ghế trạm khắc dựa vào tường đối diện với cửa ra vào.
        Một tu sĩ trẻ đọc chương thứ bảy của luật Thánh Biển Đức. “Bậc thứ sáu của đức khiêm nhường là khi một tu sĩ hài lòng với những gì tầm thường và hèn hạ…” Philip nhận ra ông không biết tên người tu sĩ đang đọc. Có phải vì ông quá lớn tuổi hay vì tu viện quá to? “Bậc thứ bẩy của đức khiêm nhường là khi một người không chỉ thú nhận bằng miệng rằng ông thấp kém nhất và hèn hạ nhất so với người khác, nhưng còn tin như vậy trong sâu thẳm của trái tim ông.” Philip biết ông chưa đạt đến bậc khiêm nhường này. Ông đã đạt được nhiều điều trong sáu mươi hai năm qua, và ông đã đạt được nó nhờ sự can đảm, quyết tâm và trí thông minh của ông; nhưng ông cần phải nhắn nhủ lòng thường xuyên rằng lý do thực sự của sự thành công của ông là sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không có Thiên Chúa mọi nỗ lực của ông không là gì.
        Đàng sau ông, Jonathan luôn cựa quậy. Jonathan còn gặp nhiều khó khăn về đức khiêm nhường hơn Philip. Kiêu ngạo là tật xấu của những người lãnh đạo giỏi. Jonatha đã sẵn sàng lãnh đạo tu viện ngay, nhưng cậu kiên nhẫn chờ. Cậu đã nói chuyện với Aliena và cậu háo hức muốn thử kỹ thuật canh tác mới như cày với ngựa, trồng đậu và yến mạch trên mảnh đất hoang trong mùa xuân. Nó cũng giống như ngày xưa, cách đây ba mươi lăm năm, khi tôi nuôi cừu lấy lông, Philip nghĩ.
        Ông biết ông nên từ chức và để Jonathan nhận trách nhiệm tu viện trưởng. Ông muốn dành quãng đời còn lại cho việc cầu nguyện và chiêm niệm. Nó là một tiến trình mà ông cũng thường khuyên người khác. Nhưng bây giờ, khi ông đủ tuổi để về hưu, viễn tượng tương lai làm ông sợ. Ông vẫn khỏe mạnh và trí óc ông minh mẫn hơn bao giờ hết. Một đời sống trong cầu nguyện và chiêm niệm có thể làm ông điên.
        Tuy nhiên, Jonathan không thể chờ đợi mãi mãi. Thiên Chúa đã cho cậu khả năng điều hành một tu viện lớn, và cậu không muốn phí phạm khả năng của cậu. Cậu đã thăm nhiều tu viện trong những năm qua và đã tạo được ấn tượng tốt bất cứ nơi đâu cậu đến. Vào những ngày này, nếu một viện phụ chết, các tu sĩ sẽ yêu cầu Jonathan làm ứng viên cho cuộc bầu cử, và Philip sẽ khó từ chối không cho phép.
        Người tu sĩ trẻ mà Philip không nhớ tên vừa đọc xong, có tiếng gõ cửa và người gác cổng đi vào. Thầy Steven, người giám thị, cau mày nhìn ông ấy: người gác cổng không được quấy rầy các tu sĩ trong giờ họp. Thầy giám thị chịu trách nhiệm về kỷ luật, và cũng giống như những người khác giữ chức vụ này, thầy khắt khe với các luật lệ.
        Người gác cổng nói thì thào: “Một sứ giả của nhà vua!”
        Philip nói với Jonathan: “Em ra xem chuyện gì.” Sứ giả sẽ trao bức thư cho một nhân viên cao cấp trong tu viện. Jonathan đi ra. Các tu sĩ thì thầm với nhau. Philip kiên quyết nói: “Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho những người đã qua đời.”
        Khi lời cầu cho người quá cố bắt đầu, ông tự hỏi vua Henry thứ hai muốn nói gì với tu viện Kingsbridge. Nó có khả năng là một tin vui. Henry đã bất hòa với giáo hội từ sáu năm qua. Cuộc tranh cãi bắt đầu về thẩm quyền của tòa án giáo hội, nhưng sự cứng đầu của nhà vua và sự nhiệt thành của Tổng giám mục thành Canterbury, Thomas Becket, đã ngăn chặn thỏa hiệp, và cuộc tranh cãi đã trở thành cuộc khủng hoảng. Becket đã phải ép buộc đi lưu vong ở Pháp.
        Đáng buồn là giáo hội ở Anh đã không nhất trí ủng hộ ông. Các giám mục như Waleran Bigod đứng về phía nhà vua để được đặc quyền của hoàng gia. Tuy nhiên, giáo hoàng đã thúc ép Henry làm hòa với Becket. Có lẽ hậu quả tệ hại nhất của cuộc tranh cãi này là vua Henry, vì cần sự hỗ trợ của giáo hội Anh, đã cho những giám mục thèm khát quyền lực như Waleran ảnh hưởng lớn ở hoàng gia. Đó là lý do tại sao một lá thư của nhà vua lại đáng ngại hơn bình thường đối với Philip.
        Jonathan trở lại và trao cho Philip một cuộn giấy được niêm phong bằng sáp có con triện to lớn của hoàng gia. Tất cả tu sĩ chờ đợi. Philip thấy khó có thể yêu cầu họ tập trung vào việc cầu nguyện cho người qua đời trong khi ông có lá thư trong tay. “Được,” ông nói. “Chúng ta sẽ tiếp tục cầu nguyện sau.” Ông phá vỡ con triện và mở lá thư. Ông liếc qua phần chào hỏi rồi đưa cho Jonathan, người có mắt sáng hơn. “Làm ơn đọc nó.”
        Sau lời chào đầu bình thường, nhà vua viết: “Làm giám mục thành Lincoln, tôi đề cử người phục vụ trung thành của chúng tôi Waleran Bigod, hiện đang là giám mục thành Kingsbridge…” Giọng Jonathan bị át đi vì những lời bình luận sôi nổi. Philip lắc đầu ghê tởm. Waleran đã mất hết uy tín ở địa phương sau những tiết lộ ở phiên tòa của Philip: ông không còn có thể tiếp tục làm giám mục. Vì thế ông đã thương thuyết với nhà vua để đề cử ông thành giám mục ở Lincoln. Lincoln là một trong những địa phận giầu nhất thế giới và là địa phận quan trọng thứ ba trong vương quốc, sau Canterbury và York. Từ đó chỉ còn một bước nhỏ để trở thành tổng giám mục. Henry ngay cả có thể đã chuẩn bị cho Waleran thay thế Thomas Becket. Ý nghĩ về Waleran trở thành tổng giám mục của Canterbury, người lãnh đạo giáo hội Anh, quá kinh khủng đến nỗi Philip cảm thấy bệnh vì sợ.
        Khi các tu sĩ yên lặng, Jonathan tiếp tục: “… và tôi đã đề nghị hội đồng địa phận bầu ông.” Được, việc đó nói thì dễ hơn là làm, Philip nghĩ. Một lời đề nghị của hoàng gia thì gần như mệnh lệnh, nhưng không hoàn toàn: nếu hội đồng địa phận ở Lincoln chống lại Waleran, hay nếu họ có riêng một ứng viên, họ có thể gây khó khăn cho nhà vua. Sau cùng nhà vua có lẽ sẽ đạt được mục đích theo cách của mình, nhưng nó không phải là chuyện đương nhiên.
        Jonathan tiếp tục: “Tôi ra lệnh cho quý ông, ban lãnh đạo của tu viện Kingsbridge, tổ chức một cuộc bầu cử giám mục mới cho Kingsbridge; và tôi đề cử cho chức vụ này người phục vụ trung thành của chúng tôi Peter thành Warenham, tổng đại diện của Canterbury.”
        Một tiếng hét tập thể phản đối xuất phát từ các tu sĩ đang họp. Philip lạnh người vì kinh hoàng. Nhà vua đã chọn tổng đại diện Peter, một người kiêu ngạo, luôn bực bội, tự cho mình là đúng, làm giám mục mới của Kingsbridge. Peter cùng mẫu người như Waleran. Cả hai đều ngoan đạo và kính sợ Thiên Chúa, nhưng không có cảm xúc cho lỗi lầm của mình, vì thế mà họ cho ước muốn của họ là ý muốn của Thiên Chúa, và theo đuổi mục đích của mình bằng sự vô tâm. Với Peter làm giám mục, Jonathan trong chức vụ tu viện trưởng sẽ phải chiến đấu cả đời cho công lý và sự hợp lý trong một vùng được cai trị bởi bàn tay sắt của một người không có trái tim. Và nếu Waleran thành tổng giám mục thì sẽ không còn hy vọng gì về một viễn tượng tươi sáng hơn.
        Philip thấy một thời kỳ đen tối trước mặt, giống như giai đoạn tồi tệ của cuộc nội chiến, khi các bá tước như William làm gì họ muốn, khi các linh mục kiêu ngạo sao lãng cộng đoàn của họ và các tu viện co lại trong chiếc bóng nghèo khổ, yếu ớt của mình. Ý nghĩ đó làm ông tức giận.
        Ông không phải là người duy nhất tức giận. Giám thị Steven đứng lên, mặt đỏ và hét to: “Không thể được!” mặc dù theo luật của Philip, mọi người trong nhà hội phải nói một cách bình tĩnh và thanh thản.
        Các tu sĩ reo hò, nhưng Jonathan chứng tỏ sự khôn khéo của mình bằng cách hỏi vị giám thị: “Chúng ta có thể làm gì?”
        Đầu bếp Bernard, vẫn béo như trước, nói: “Chúng ta phải từ chối yêu cầu của nhà vua.”
        Nhiều tu sĩ lên tiếng đồng tình.
        Steven nói: “Chúng ta sẽ viết thư cho nhà vua và nói chúng ta sẽ bầu người mà chúng ta muốn.” Một lúc sau ông ngại ngùng thêm vào: “dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, dĩ nhiên.”
        Jonathan nói: “Tôi không đồng ý việc chúng ta từ chối thẳng thừng. Chúng ta càng nhanh chóng phản đối nhà vua, chúng ta càng mau làm cơn thịnh nộ của nhà vua đổ xuống trên đầu chúng ta.”
        Philip nói: “Jonathan có lý. Một người thua trận với nhà vua, người đó có thể được tha thứ, nhưng người thắng nhà vua, người đó phải chịu số phận bi đát.”
        Steven bùng lên. “Anh muốn bỏ cuộc sao?”
        Philip cũng lo lắng và sợ hãi như tất cả những người khác, nhưng ông phải tỏ ra bình tĩnh. “Steven, làm ơn bình tĩnh,” ông nói. “Chúng ta phải chiến đấu chống lại sự chỉ định kinh khủng này, dĩ nhiên. Nhưng chúng ta sẽ tiến hành nó một cách cẩn thận và khôn ngoan, luôn tránh cuộc đối đầu công khai.”
        Steven nói: “Nhưng anh định làm gì?”
        “Tôi không chắc chắn,” Philip nói. Lúc đầu ông đã chán nản, nhưng bây giờ ông bắt đầu cảm thấy hung hăng. Ông đã luôn phải chống lại cuộc chiến này trong đời ông. Ông chống lại nó ở đây trong tu viện, khi ông đánh bại Remegius để trở thành tu viện trưởng; ông đã chống lại nó trong miền, chống lại William Hamleigh và Waleran Bigod; và bây giờ ông đang chuẩn bị chống lại nó trên bình diện quốc gia.
        “Tôi nghĩ, tôi phải qua Pháp,” ông nói, “để gặp Tổng giám mục Thomas Becket.”
         
         
        Trong các cuộc khủng hoảng khác trong suốt đời ông, Philip có thể đưa ra một kế hoạch. Bất cứ khi nào ông hay tu viện của ông hay thị trấn của ông bị đe dọa bởi sức mạnh của người vô luật pháp và man rợ, ông luôn nghĩ ra một số hình thức phòng thủ hay tấn công. Ông không luôn chắc chắn sẽ thành công nhưng ông chẳng bao giờ phải bối rối, không biết phải làm gì như bây giờ.
        Ông vẫn còn bối rối khi ông đến thành phố Sens, vùng đông nam của Paris, thuộc vương quốc Pháp.
        Nhà thờ chính tòa ở Sens là tòa nhà rộng nhất mà ông đã thấy. Gian giữa rộng đến năm mươi bộ. So sánh với nhà thờ chính tòa Kingsbridge, nhà thờ Sens cho một ấn tượng về không gian hơn là ánh sáng.
        Du hành xuyên nước Pháp lần đầu trong đời, Philip nhận ra có nhiều kiểu nhà thờ trên thế giới hơn là ông đã tưởng tượng, và ông hiểu du hành đã ảnh hưởng lên suy nghĩ cách mạng của Jack Jackson. Khi đi ngang Paris, Philip cố ý dành thăm nhà thờ tu viện Thánh Denis, và ông thấy nơi Jack đã tìm được vài ý tưởng cho cậu. Ông cũng đã thấy hai nhà thờ với trụ tường có cánh như ở Kingsbridge: rõ ràng các thợ xây bậc thầy khác cũng phải đối diện với vấn đề như Jack đã gặp, và đã đi đến cùng kết luận.
        Philip đi chào xã giao tổng giám mục ở Sens, William Whitehands, một giáo sĩ trẻ xuất sắc và là cháu của vua Stephen đã qua đời. Tổng giám mục William mời Philip dùng cơm trưa. Mặc dù ông cảm thấy hãnh diện, nhưng ông từ chối: ông đã đi một đoạn đường dài để gặp Thomas Becket, và bây giờ ông đã ở gần, ông không còn kiên nhẫn để chờ đợi. Sau khi tham dự thánh lễ ở nhà thờ chính tòa, ông ra khỏi thành phố theo dòng sông Yonne về hướng bắc.
        Đối với một tu viện sung túc nhất ở nước Anh, cuộc du hành của Philip giản dị: ông mang theo hai người lính hộ vệ, một tu sĩ trẻ tên là Michael Bristol như người phụ tá, và một con ngựa chở sách thánh, bản chép và minh họa đẹp đẽ của thư viện Kingsbridge để làm quà tặng cho các viện phụ và giám mục trên đường đi. Những cuốn sách đắt tiền tạo nên những quà tặng ấn tượng và tương phản với đoàn tùy tùng khiêm tốn của Philip. Đây là chủ ý: ông muốn mọi người tôn trọng tu viện, chứ không phải tu viện trưởng.
        Ngay bên ngoài cổng phía bắc của Sens, trong một cánh đồng đầy ánh nắng bên bờ sông, ông thấy tu viện Thánh Colombe đáng kính, nơi Tổng giám mục Thomas đã sống từ ba năm qua. Một trong các linh mục của Thomas chào ông thân thiện, gọi người phục vụ chăm sóc cho ngựa và hành lý, và hướng dẫn ông vào trong nhà khách, nơi tổng giám mục đang ở. Philip nghĩ rằng những người lưu vong phải vui mừng lắm khi có khách từ quê nhà viếng thăm, không những vì lý do tình cảm mà còn bởi vì nó là biểu hiệu của sự hỗ trợ.
        Philip và người phụ tá được mời đồ ăn và rượu, rồi được giới thiệu với những người làm việc của Thomas. Những người của ông là các linh mục, hầu hết còn trẻ và – Philip nghĩ – thông minh. Chỉ một lúc ngắn sau, Michael đã tranh luận với một người về đề tài biến đổi bản thể. Philip nhấm nháp ly rượu và lắng nghe mà không tham dự vào. Sau cùng một linh mục nói với họ: “Quan điểm của cha là gì, thưa cha? Cha chưa nói lời nào.”
        Philip mỉm cười. “Những vấn đề khúc mắc của thần học không làm tôi đau đầu nhiều.”
        “Tại sao?”
        “Bởi vì chúng chỉ được giải quyết ở thế giới sau đó. Hiện tại người ta có thể trì hoãn nó.”
        “Rất hay,” một giọng nói mới cất lên, và Philip ngẩng lên và thấy Tổng giám mục Thomas thành Canterbury.
        Philip cảm nhận ngay sự hiện diện của một nhân vật đặc biệt. Thomas cao, mảnh khảnh và đặc biệt đẹp trai, với vầng trán rộng, mắt sáng, làn da trắng và mái tóc đen. Ông trẻ hơn Philip chừng mười tuổi, có nghĩa là ông chừng năm mươi hay năm mươi mốt. Mặc dù những bất hạnh, ông có nét sống động và vui vẻ. Philip thấy ngay ông là một người thật hấp dẫn, và điều này giải thích một phần cho sự tiến thân nhanh chóng của ông, từ một hoàn cảnh bình thường.
        Philip quỳ và hôn tay ông.
        Philip nói: “Tôi rất hân hạnh được làm quen với ông! Tôi luôn luôn muốn thăm viếng Kingsbridge. Tôi đã nghe nhiều về tu viện của ông và ngôi nhà thờ mới tuyệt vời.”
        Philip bị quyến rũ và hãnh diện. Ông nói: “Tôi đến để gặp ông bởi vì mọi sự chúng tôi đạt được đang ở trong tình trạng nguy hiểm, có thể bị tàn phá bởi nhà vua.”
        “Tôi muốn nghe mọi chuyện ngay bây giờ,” Thomas nói. “Hãy vào trong phòng tôi.” Ông quay lại và ra khỏi phòng.
        Philip theo sau, vừa cảm thấy vui vừa sợ hãi.
        Thomas đưa ông vào căn phòng nhỏ. Có một cái giường giá trị bằng da và gỗ với khăn giường bằng lụa đẹp và chăn thêu, nhưng Philip cũng nhìn thấy một tấm nệm mỏng cuộn trong góc, và ông nhớ lại những câu truyện rằng Thomas chẳng bao giờ dùng những đồ đạc sang trọng được chủ nhà cung cấp. Nhớ lại chiếc giường thoải mái của mình ở Kingsbridge, Philip nhói lên cảm giác tội lỗi khi nghĩ rằng ông ngáy trong sự thoải mái, trong khi người thủ lãnh của các giám mục nước Anh lại ngủ trên nền đất.
        “Hãy nói về nhà thờ chính tòa,” Thomas nói. “Ông nghĩ gì về nhà thờ ở Sens?”
        “Tuyệt vời,” Philip nói. “Ai là người xây dựng tổng thể chính?”
        “William thành Sens. Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ thu hút ông ấy đến Canterbury. Hãy ngồi xuống. Kể cho tôi nghe những gì xẩy ra ở Kingsbridge.”
        Philip kể cho Thomas về Giám mục Waleran và Tổng đại diện Peter. Thomas quan tâm sâu sắc đến mọi việc Philip nói và đặt nhiều câu hỏi thông minh. Ông không những quyến rũ, ông còn thông minh. Ông cần cả hai để vươn lên đến vị trí mà từ đó ông có thể khuất phục được ý muốn của một trong những vị vua mạnh nhất nước Anh từ trước đến nay. Có tin đồn rằng dưới lớp áo tổng giám mục của ông, ông mặc chiếc áo sơ mi mềm mại, và dưới vẻ hấp dẫn bên ngoài, ông có một ý chí sắt.
        Khi Philip chấm dứt câu chuyện, Thomas trông nghiêm trọng. “Điều này không thể cho phép xẩy ra được,” ông nói.
        “Thực vậy,” Philip nói. Giọng chắc chắn của Thomas cho ông can đảm. “Ông có thể ngăn chặn nó không?”
        “Chỉ khi nào tôi trở lại chức vụ của tôi ở Canterbury.”
        Đó không phải là câu trả lời mà Philip chờ đợi. “Nhưng ông có thể viết ngay cho giáo hoàng không?”
        “Tôi sẽ,” Thomas nói, “ngay hôm nay. Giáo hoàng sẽ không nhận Peter là giám mục ở Kingsbridge, tôi hứa với ông. Nhưng chúng ta không thể ngăn cản ông ở trong dinh thự giám mục. Và chúng ta không thể chỉ định ai khác.”
        Philip bị sốc và mất tinh thần bởi tính quyết đoán tiêu cực của Thomas. Trên đường đến đây ông đã nuôi hy vọng rằng Thomas sẽ làm những gì ông không thể làm, và đưa ra cách làm thất bại kế hoạch của Waleran. Nhưng Thomas xuất chúng cũng bị bối rối. Niềm hy vọng duy nhất là ông có thể trở về Canterbury. Khi đó dĩ nhiên ông sẽ có quyền phủ nhận sự đề cử giám mục. Philip nói một cách chán nản: “Có hy vọng nào là ông sớm có thể trở về không?”
        “Một vài hy vọng, nếu ông là một người lạc quan,” Thomas lập lại. “Giáo hoàng đã soạn ra một hiệp ước hòa bình và ép tôi và Henry phải đồng ý. Các điều khoản này đối với tôi có thể chấp nhận được: hiệp ước cho tôi những gì tôi đòi hỏi. Henry nói nó cũng có thể chấp nhận được đối với ông ấy. Tôi nhất định đòi ông ta chứng minh sự chân thật của ông bằng cách cho tôi một cái hôn hòa bình. Ông ấy từ chối.” Khi ông nói, giọng ông thay đổi. Sự to nhỏ của cuộc nói chuyện tự nhiên dần dần bình lặng và đều đều. Tất cả sự sống động biến đi khỏi khuôn mặt ông và ông trông như một linh mục giảng cho một cộng đoàn buồn ngủ về sự từ bỏ mình. Philip nhận ra trong biểu hiện của ông sự bướng bỉnh và hãnh diện đã giữ ông tranh đấu trong những năm qua. “Sự từ chối cái hôn là một dấu hiệu rằng ông có kế hoạch thu hút tôi về lại Anh và rồi không giữ lời hứa về những điều khoản đã được thỏa thuận.”
        Philip gật đầu. Cái hôn hòa bình là một phần trong phụng vụ thánh lễ, và là dấu chỉ của sự tin tưởng. Không có nó, một hiệp ước không hoàn thành, từ một giao ước hôn nhân đến một thỏa thuận ngừng bắn. “Tôi có thể làm gì?” Philip nói, như hỏi với chính mình hơn là hỏi Thomas.
        “Trở lại nước Anh và vận động cho tôi,” Thomas nói. “Viết thư cho các tu viện trưởng và viện phụ theo ông. Gửi những đoàn đại biểu từ Kingsbridge tới giáo hoàng. Kiến nghị với nhà vua. Giảng trong nhà thờ chính tòa nổi tiếng của ông, nói với dân chúng rằng vị linh mục cao cấp nhất của họ đã bị vua hất đi.”
        Philip gật đầu, mặc dù ông không dự định làm những chuyện như thế. Thomas bảo ông đối lập với nhà vua. Nó có thể làm tăng tinh thần của Thomas, nhưng không mang lại gì cho Kingsbridge.
        Philip có ý tưởng tốt hơn. Nếu Henry và Thomas đã gần xích lại với nhau, nó không khó để đẩy họ sát nhau. Có lẽ, Philip nghĩ một cách hy vọng, ông có thể làm một cái gì đó. Ý tưởng kích thích sự lạc quan của ông. Nó là một cú đá từ xa, nhưng ông chẳng mất gì.
        Cuối cùng, họ chỉ tranh luận về một cái hôn.
         
         
        Philip kinh ngạc khi ông thấy em ông đã già.
        Tóc Francis đã hoa râm, có quầng thâm dưới mắt, và da mặt ông khô. Tuy nhiên ông ấy đã sáu mươi tuổi, nên có lẽ không có gì là ngạc nhiên. Và ông ấy có đôi mắt sáng và linh hoạt.
        Philip nhận ra những gì đã làm phiền ông chính là tuổi tác của ông. Như mọi khi, mỗi lần nhìn thấy em ông, ông cũng nhận ra mình đã già. Từ nhiều năm nay ông không nhìn mình trong gương. Ông tự hỏi không biết ông có quầng thâm dưới mắt không. Ông sờ lên mặt. Nó rất khó để nói.
        “Làm việc cho Henry có gì vui không?” Philip hỏi, tò mò, như mọi người đều muốn biết các vua chúa như thế nào trong đời sống riêng tư.
        “Tốt hơn Maud,” Francis nói. “Bà ta khôn ngoan, nhưng quá quanh co. Henry rất cởi mở. Chúng ta luôn biết ông nghĩ gì.”
        Họ đang ngồi trong hành lang của một tu viện ở Bayeux, nơi Philip đang ở. Hoàng gia ở gần đó. Francis vẫn còn làm việc cho Henry, như từ hai mươi năm qua. Bây giờ ông đứng đầu văn phòng thư ký, nơi soạn thảo tất cả thư từ của hoàng gia và các điều lệ. Nó là một nhiệm vụ quan trọng và đầy uy quyền.
        Philip nói: “Henry mà cởi mở? Tổng giám mục Thomas không nghĩ như vậy.”
        “Lại một đánh giá sai lầm nữa của Thomas,” Francis nói khinh bỉ.
        Philip nghĩ Francis không nên khinh bỉ tổng giám mục. “Thomas là một nhân vật vĩ đại,” ông nói.
        “Thomas muốn làm vua,” Francis phản ứng lại.
        “Và Henry dường như muốn trở thành tổng giám mục,” Philip đáp lại.
        Họ nhìn nhau. Nếu chúng ta cãi nhau, Philip nghĩ, nó không có gì là ngạc nhiên khi Henry và Thomas cãi nhau kịch liệt. Ông mỉm cười và nói: “Được, em và anh không cãi nhau về chuyện ấy nữa.”
        Mặt Francis dịu lại. “Không, dĩ nhiên không. Nhưng anh đừng quên rằng cuộc tranh luận này đã làm em khó chịu trong sáu năm qua em. Em không thể khách quan về nó như anh.”
        Philip gật đầu. “Nhưng tại sao Henry không chấp nhận kế hoạch hòa bình của giáo hoàng?”
        “Ông ấy muốn,” Francis nói. “Chúng ta đứng trước sự hòa giải. Nhưng Thomas muốn hơn. Ông ấy nhấn mạnh về cái hôn hòa bình.”
        “Nhưng nếu nhà vua chân thành, ông ấy chắc chắn nên cho một cái hôn hòa bình như một bảo đảm, phải không?”
        Francis cất cao giọng. “Nó không có trong chương trình!” ông nói bằng giọng bực tức.
        “Nhưng tại sao không cho nó bằng hình thức nào đó?” Philip lập luận.
        Francis thở dài. “Ông ấy rất vui lòng. Nhưng đã có lần ông thề công khai là chẳng bao giờ cho Thomas một cái hôn hòa bình.”
        “Nhiều vị vua đã không giữ lời thề của mình,” Philip nói.
        “Những vị vua yếu đuối. Henry sẽ không đi ngược lại lời thề công khai. Điều đó làm ông khác với vua Stephen tồi tệ.”
        “Vậy giáo hội có lẽ sẽ phải thuyết phục ông bằng cách khác,” Philip miễn cưỡng thừa nhận.
        “Vậy tại sao Thomas cứ nhất định đòi nụ hôn?” Francis tức bực nói.
        “Bởi vì ông ấy không tin tưởng Henry. Cái gì ngăn cản ông ấy khỏi việc phản bội thỏa thuận này? Thomas có thể làm được gì khi vua không giữ lời? Lại đi lưu vong một lần nữa sao? Những người theo ông luôn trung thành với ông, nhưng họ đã mỏi mệt. Thomas không thể làm lại như vậy một lần nữa. Vì thế, trước khi ông ấy chịu khuất phục, ông ấy muốn có sự bảo đảm chắc chắn.”
        Francis lắc đầu buồn bã. “Nó là vấn đề của niềm tự hào,” ông nói. “Em biết Henry không có ý định lừa Thomas. Nhưng ông không muốn bị ép buộc. Ông ghét bị ép buộc.”
        “Đối với Thomas cũng như vậy, anh nghĩ,” Philip nói. “Ông ấy đã đòi dấu hiệu này và ông ấy không thể lùi lại.” Ông lắc đầu một cách mệt mỏi. Ông đã nghĩ Francis có thể đề nghị một phương cách để đưa hai người gần lại với nhau, nhưng nhiệm vụ này dường như không thể được.
        “Sự trớ trêu của việc này là Henry sẽ vui vẻ cho Thomas một nụ hôn sau khi họ đã hòa giải,” Francis nói. “Ông ấy không chấp nhận nó như một điều kiện tiên quyết.”
        “Ông ấy đã nói như thế?” Philip hỏi.
        “Vâng.”
        “Như vậy mọi chuyện lại khác,” Philip hào hứng nói. “Chính xác ông ấy đã nói gì?”
        “Ông ấy nói: ‘Tôi sẽ hôn miệng ông ấy. Tôi sẽ hôn chân ông ấy, và tôi sẽ tham dự thánh lễ của ông ấy – sau khi ông ấy trở về.’ Em nghe chính ông ấy nói như vậy.”
        “Anh sẽ nói cho Thomas biết điều này.”
        “Anh có nghĩ rằng ông ấy có thể chấp nhận nó?” Francis hồ hởi nói.
        “Anh không biết.” Philip không dám hy vọng. “Nó dường như chỉ là một bước lui nhỏ. Ông ấy sẽ nhận được nụ hôn – chỉ trễ hơn một chút như ông ấy muốn.”
        “Và đối với Henry nó cũng là một bước lui nhỏ tương tự như thế,” Francis nói với sự hứng khởi dâng cao. “Ông cho nụ hôn, nhưng hoàn toàn tự ý chứ không bị ép buộc. Trời ơi! Nó có thể thành công.”
        “Họ có thể hòa giải ở Canterbury. Toàn bộ sự thỏa thuận sẽ được công bố trước đó, vì thế không ai trong họ có thể thay đổi vào giờ phút cuối. Thomas có thể dâng thánh lễ và Henry có thể cho ông nụ hôn ở đó, trong nhà thờ chính tòa.” Và sau đó, ông nghĩ, Thomas có thể ngăn chặn kế hoạch xấu xa của Waleran.
        “Em sẽ đề nghị điều này với nhà vua,” Francis nói.
        “Và anh với Thomas.”
        Tiếng chuông tu viện vang lên. Hai anh em đứng lên.
        “Cố gắng thuyết phục,” Philip nói. “Nếu nó thành công, Thomas có thể trở về Canterbury – và nếu Thomas trở về, Waleran Bigod sẽ kết thúc.
         
         
        Họ găp nhau trong một đồng cỏ xinh đẹp bên bờ dòng sông ở biên giới giữa Normandy và vương quốc Pháp, gần các thị trấn Fréteval và Vievy-le-Raye. Henry đã có mặt ở đó với đoàn tùy tùng, khi Thomas đến với Tổng giám mục William ở Sens. Philip ở trong đoàn của Thomas, phát hiện em trai Francis bên nhà vua ở phía xa cánh đồng.
        Henry và Thomas đã đạt được sự đồng ý – về lý thuyết.
        Cả hai đã chấp nhận sự thỏa hiệp, theo đó nụ hôn sẽ được trao ở thánh lễ hòa giải, sau khi Becket trở về Anh. Tuy nhiên thỏa thuận này chưa được thực hiện cho đến khi hai người gặp nhau.
        Thomas cưỡi ngựa đến giữa cánh đồng, để đoàn tùy tùng lại, và Henry cũng làm như vậy, trong khi mọi người nín thở quan sát.
        Họ nói chuyện hàng giờ với nhau.
        Không ai nghe được họ nói gì với nhau, nhưng có thể đoán. Họ nói về sự tấn công giáo hội của Henry, cách các giám mục đã không vâng lời Thomas, hiến pháp Clarendon gây tranh cãi, sự lưu đày của Thomas, vai trò của giáo hoàng… Lúc đầu Philip sợ họ sẽ cãi nhau và gây thù oán với nhau hơn trước. Trước đây có lần họ đã đi gần đến một thỏa thuận, và đã gặp nhau như thế này, và rồi có điểm nào đó không đồng ý, họ cảm thấy niềm tự hào của họ bị tổn thương, vì thế họ đã nói với nhau những lời nặng nề rồi giận dữ bỏ đi, mỗi người đổ lỗi cho sự không khoan nhượng của người kia. Nhưng họ càng nói chuyện lâu, Philip càng lạc quan. Nếu một trong hai người nổ ra thì nó đã xẩy ra sớm hơn, ông cảm thấy như thế.
        Sức nóng của buổi chiều mùa hè dịu đi, và bóng râm của cây du đổ xuống dòng sông. Sự căng thẳng không thể chịu đựng được.
        Rồi sau cùng một cái gì đó đã xẩy ra. Thomas chuyển động.
        Ông bỏ đi? Không. Ông xuống ngựa. Điều đó có nghĩa gì? Philip nín thở theo dõi. Thomas bỏ ngựa, tiến về phía Henry và quỳ xuống dưới chân ông.
        Nhà vua xuống ngựa và ôm Thomas.
        Đoàn tùy tùng ở cả hai phía reo hò và tung mũ lên trời.
        Philip cảm thấy nước mắt rơi xuống. Cuộc xung đột đã được giải quyết – bằng lý trí và thiện chí. Đây là cách để giải quyết mọi việc.
        Có lẽ nó là một điềm báo cho tương lai.
         
         
        II
         
        Đó là ngày lễ Giáng Sinh, và nhà vua nổi giận.
        William Hamleigh sợ hãi. Cậu chỉ biết một người duy nhất có tính khí giống vua Henry, và đó là mẹ cậu. Henry cũng đáng sợ gần như bà. Một cách nào đó tự bản chất ông đã là người đáng sợ, với đôi vai rộng, lồng ngực mạnh khỏe và đầu to; nhưng khi ông giận đôi mắt xanh của ông trở nên đỏ ngầu, khuôn mặt tàn nhang của ông đỏ lên và tính bồn chồn quen thuộc của ông biến thành tốc độ giận dữ của một con gấu lâu ngày đã bị nhốt.
        Họ ở Bur-le-Roi, một lều săn của Henry, trong một công viên gần bờ biển Normandy. Chính ra Henry đang hạnh phúc. Ông thích săn bắn hơn mọi thứ khác trên đời, và đây là một trong những nơi ông ưa thích nhất. Nhưng ông tức giận, và lý do là vì Tổng Giám mục Thomas thành Canterbury.
        “Thomas, Thomas, Thomas! Đó là tất cả những gì tôi nghe từ các ông. Thomas làm cái này, Thomas làm cái kia. Thomas xúc phạm đến các ông. Thomas đối xử bất công với các ông. Tôi bệnh vì Thomas.”
        William lén lút quan sát nét mặt của các bá tước, giám mục và các quan chức khác xung quanh bàn tiệc lễ Giáng Sinh trong đại sảnh đường. Hầu hết họ có vẻ lo lắng. Chỉ có một người tỏ vẻ mãn nguyện: Waleran Bigod.
        Waleran đã dự đoán rằng chẳng bao lâu nữa Henry sẽ cãi nhau với Thomas lần nữa. Thomas đã chiến thắng quá rõ ràng, ông nói; chương trình hòa bình của giáo hoàng đòi hỏi nhà vua nhường quá nhiều và đòi hỏi của Thomas về những lời hứa của hoàng gia sẽ dẫn đến một cuộc tranh cãi mới. Nhưng Waleran đã không đơn thuần ngồi chờ những gì sẽ xẩy ra; ông đã cật lực để làm cho dự đoán của ông thành sự thật. Với sự giúp đỡ của William, Waleran thường xuyên phàn nàn về những gì Thomas làm từ khi ông trở về nước Anh: đi quanh các vùng với một đội quân hiệp sĩ, thăm bạn nối khố của ông và gây nên những âm mưu xảo trá, trả thù những giáo sĩ, những người ủng hộ vua trong thời gian ông lưu đày. Waleran thêu dệt các báo cáo này trước khi nó đến tay nhà vua, nhưng trong những gì ông nói luôn có vài điều thật. Tuy nhiên ông thổi phùng ngọn lửa, một ngọn lửa đã âm ỉ cháy. Tất cả những người đã bỏ rơi Thomas trong sáu năm tranh cãi, bây giờ sống trong sợ hãi bị trả thù, hăng hái nói xấu ông với nhà vua.
        Vì thế Waleran trông rất vui khi Henry giận dữ. Và ông có lý do để vui vì từ khi Thomas trở về, ông là người chịu nhiều đau khổ hơn những người khác. Tổng Giám mục đã từ chối sự đề cử ông trở thành giám mục ở Lincoln. Ngoài ra Thomas còn đề cử Tu viện trưởng Philip làm giám mục Kingsbridge. Nếu Thomas theo con đường của ông, Waleran sẽ mất Kingsbridge và cũng chẳng được Lincoln. Ông sẽ bị tiêu tan.
        Vị trí của William cũng gặp khó khăn nữa. Với Aliena là nữ bá tước, Waleran đi khỏi, Philip là giám mục, và không nghi ngờ gì Jonathan là tu viện trưởng ở Kingsbridge, William sẽ bị cô lập, không còn đồng minh nào trong vùng. Đó là lý do tại sao ông tham gia cùng Waleran ở triều đình, để cộng tác làm suy yếu hiệp ước hòa bình vốn đã lung lay giữa vua Henry và Tổng Giám mục Thomas.
        Không ai ăn nhiều thịt thiên nga, ngỗng, chim công và vịt trên bàn. William, vốn dĩ hay ăn và uống nhiều, chỉ gặm bánh mì và nhấm nháp đồ uống nóng, một thứ đồ uống được làm với bia, trứng và hạt nhục đậu khấu, để làm dịu bao tử bẳn gắt của cậu.
        Henry đã tức giận khi nghe tin Thomas đã gửi một phái đoàn đến Tours – nơi Giáo hoàng Alexander đang ở - để phàn nàn về việc Henry không tuân hành hiệp ước hòa bình. Một trong những người cố vấn lớn tuổi của nhà vua, Enjuger de Bohun, nói: “Sẽ không có hòa bình cho đến khi ông treo cổ Thomas.”
        William bị sốc.
        Henry gầm lên: “Đúng thế!”
        William biết rõ Henry coi lời nhận xét đó như một diễn tả về sự bi quan hơn là một đề nghị nghiêm túc. Tuy nhiên, William có một cảm giác rằng Enjuger không nói bóng gió.
        William Malvoisin nói vu vơ: “Khi tôi ở Roma, trên đường trở về từ Jerusalem, tôi đã nghe kể về một giáo hoàng bị treo cổ vì tính xấc láo không thể chịu đựng được. Chết tiệt, tôi không thể nhớ ra tên ông.”
        Tổng giám mục thành York nói: “Dường như không còn giải pháp nào khác với Thomas. Bao lâu ông còn sống, ông sẽ xúi giục nổi loạn, ở nhà cũng như ở ngoại quốc.”
        Ba lời nhận xét này đối với William như có cùng một ý. Cậu nhìn Waleran. Lúc đó Waleran nói. “Việc kêu gọi Thomas giữ tinh thần đúng đắn chắc chắn không mang lại gì –“
        “Hãy yên lặng!” nhà vua gầm lên. “Tôi đã nghe đủ rồi! Các ông chỉ biết than phiền. Khi nào các ông mới xắn tay áo lên để làm một cái gì đó?” Ông uống một ngụm bia. “Bia này uống như nước tiểu!” ông hét lên giận dữ. Ông đẩy ghế ra, và khi mọi người vội vàng đứng lên, ông đứng dậy và lao nhanh ra khỏi phòng.
        Trong bầu khí yên lặng sợ hãi sau đó, Waleran nói: “Sứ điệp không thể rõ ràng hơn thế nữa, thưa các ngài. Chúng ta phải đứng lên và làm cái gì đó chống lại Thomas.”
        William Mandeville, lãnh chúa thành Essex, nói: “Tôi nghĩ chúng ta phải gửi một phái đoàn của chúng ta đến Thomas để gặp ông và cho ông biết sự đúng đắn.”
        “Và ông sẽ làm gì khi ông ấy từ chối nghe những lời hợp lý?” Waleran nói.
        “Tôi nghĩ khi đó chúng ta sẽ bắt giữ ông nhân danh nhà vua.”
        Nhiều người bắt đầu nói cùng một lúc. Đám đông chia thành từng nhóm nhỏ. Những người xung quanh lãnh chúa thành Essex lên chương trình gửi đại biểu đến Canterbury. William thấy Walern nói chuyện với hai hay ba hiệp sĩ trẻ. Waleran bắt gặp ánh mắt cậu và ra hiệu cho cậu đến gần.
        Waleran nói: “Đoàn đại biểu của William Mandeville không mang lại kết quả gì. Thomas có thể xử lý họ bằng một tay.”
        Reginald Fitzurse nhìn William cứng rắn và nói: “Một số người trong chúng tôi nghĩ đã đến lúc phải có biện pháp mạnh.”
        “Ý ông làm sao?” William hỏi.
        “Cậu đã nghe những gì Enjuger nói chứ?”
        Richard le Bret, một cậu bé chừng mười tám, buột miệng nói: “Tử hình.”
        William lạnh đến tim. Nó sẽ nghiêm trọng. Cậu nhìn Waleran. “Ông đã xin phép nhà vua chưa?”
        Reginald trả lời. “Không thể. Ông ấy không thể đồng ý một việc như thế.” Ông cười nguy hiểm. “Nhưng ông ấy có thể thưởng những người phục vụ trung thành sau đó.”
        Richard trẻ nói: “Được, William. Cậu có hành động chung với chúng tôi không?”
        “Tôi chưa chắc chắn,” William nói. Cậu cảm thấy vừa háo hức, vừa sợ hãi. “Tôi phải suy nghĩ về nó.”
        Reginald nói: “Không còn thời gian để suy nghĩ. Chúng ta phải đi bây giờ. Chúng ta phải đến Canterbury trước William Mandeville, nếu không họ sẽ cản đường chúng ta.”
        Waleran nói với Wiilliam: “Họ cần một người lớn tuổi với họ, để hướng dẫn và lên kế hoạch hành động.”
        William muốn đồng ý. Không những việc này sẽ giải quyết mọi vấn đề của cậu, mà có thể nhà vua còn cho cậu một lãnh địa vì chuyện này. “Nhưng giết một tổng giám mục là một tội kinh khủng!” cậu nói.
        “Đừng lo lắng về nó,” Waleran nói. “Tôi sẽ tha tội cho cậu.”
         
         
        Sự kinh khủng của những gì họ dự định làm đè nặng trên William như một cơn mây giông khi nhóm sát thủ trên đường đến nước Anh. Cậu không thể nghĩ gì khác; cậu không thể ăn hay ngủ; cậu hành động vô ý thức và nói lộn xộn. Khi con tàu cặp bến Dover, cậu muốn bỏ kế hoạch.
        Họ đến lâu đài Saltwood ở Kent ba ngày sau lễ Giáng Sinh, vào một buổi tối thứ hai. Lâu đài thuộc tổng giám mục thành Canterbury, nhưng trong thời gian lưu đày, Ranulf de Broc đã chiếm giữ và từ chối trả lại. Thật vậy, một trong những khiếu nại của Thomas với giáo hoàng là vua Henry đã thất bại trong việc trao trả lâu đài lại cho ông.
        Ranulf cho William sự can đảm mới.
        Ranulf đã tàn phá Kent trong khi tổng giám mục vắng mặt giống như William ở Shiring và không muốn trả lại lãnh địa mà ông đã chiếm được. Ông nhiệt tình về kế hoạch ám sát, vui mừng muốn tham gia và thích thú bắt đầu thảo luận ngay về kế hoạch. Cách tiếp cận vấn đề của ông xua tan đám mây mù của sợ hãi mê tín đang che khuất tầm nhìn của William. William bắt đầu lại tưởng tượng về viễn cảnh nếu cậu lại trở thành bá tước, được tự do làm những gì cậu thích.
        Họ thức hầu như cả đêm để bàn về kế hoạch hành động. Ranulf vẽ một sơ đồ sân nhà thờ chính tòa và dinh thự tổng giám mục, rạch nó lên bàn với một con dao. Khu tu viện ở phía bắc của nhà thờ, đó là điều bất thường vì nó thường ở phía nam, giống như ở Kingsbridge. Dinh thự tổng giám mục gắn liền với góc tây bắc của nhà thờ. Cửa vào từ hướng sân nhà bếp. Trong khi họ lên kế hoạch, Ranulf sai người đến đơn vị đồn trú của ông ở Dover, Rochester và Bletchingley, ra lệnh cho các hiệp sĩ của ông đến gặp ông trên con đường đến Canterbury vào buổi sáng. Gần sáng các kẻ âm mưu lên giường để có thể ngủ một hay hai tiếng.
        Chân William đau như lửa sau cuộc du hành dài. Cậu hy vọng đây là hoạt động quân sự cuối cùng của cậu. Chẳng bao lâu nữa cậu sẽ năm mươi lăm, nếu sự tính toán của cậu chính xác, và cậu sẽ quá già để chiến đấu.
        Mặc dù mỏi mệt và được ảnh hưởng sự phấn khởi của Ranulf, cậu vẫn không thể ngủ được. Ý tưởng giết một tổng giám mục đối với cậu quá kinh khủng, ngay cả mặc dù cậu đã được tha tội. Cậu sợ rằng khi ngủ cậu sẽ có cơn ác mộng.
        Họ đã vẽ lên một kế hoạch tấn công tốt. Nó có thể thất bại, dĩ nhiên: luôn luôn có một cái gì đó xẩy ra ngoài ý muốn. Quan trọng là linh hoạt để đối phó với những điều không ngờ trước. Nhưng bất cứ chuyện gì xẩy ra, nó sẽ không quá khó cho một nhóm người chiến đấu chuyên nghiệp để chế ngự một nhóm nhỏ các tu sĩ ẻo lả.
        Ánh sáng lờ mờ của buổi sáng mùa đông âm u xuyên vào phòng qua cánh cửa sổ xếp. Một lúc sau William đứng dậy. Cậu cố cầu nguyện, nhưng cậu không thể. Những người khác cũng đã dậy sớm. Họ ăn sáng chung với nhau trong sảnh đường. Ngoài William và Ranulf, còn có Reginald Fitzurse, người William chỉ định làm trưởng nhóm tấn công; Richard le Bret, người trẻ nhất trong nhóm; William Tracy, người già nhất; và Hugh Morville, người cao cấp nhất.
        Họ mặc áo giáp và lên ngựa của Ranulf. Nó là một ngày lạnh cóng, và bầu trời tối với những áng mây xám, như thể trời sắp đổ tuyết. Họ theo con đường cổ được gọi là Stone Street. Sau khi đi được hơn hai tiếng, họ có thêm một số hiệp sĩ nữa.
        Điểm hẹn chính là tu viện Thánh Augustin nằm bên ngoài thành phố. Mặc dù Ranulf đã bảo đảm viện phụ của tu viện là kẻ thù cũ của Thomas, nhưng William vẫn quyết định nói với ông là họ đến để bắt Thomas, không phải để giết ông. Họ quyết định giữ bí mật này cho đến giờ phút cuối cùng: không ai biết mục đích thực sự của kế hoạch này, ngoại trừ William, Ranulf và bốn hiệp sĩ từ Pháp sang.
        Họ đến tu viện vào buổi trưa. Những người Ranulf triệu tập đang chờ đợi. Viện phụ cho họ ăn trưa. Rượu của ông ngon và tất cả họ uống nhiều. Ranulf ra lệnh cho những người lính bao vây khu vực nhà thờ chính tòa và ngăn chặn không cho ai trốn thoát.
        William run rẩy, ngay cả khi cậu đứng bên cạnh lò sưởi trong nhà khách. Nó chỉ là một cuộc hành quân đơn giản, nhưng hình phạt cho sự thất bại có thể là cái chết. Nhà vua sẽ tìm cách biện minh cho việc giết Thomas, nhưng ông không bao giờ hỗ trợ cho âm mưu giết người: ông sẽ phải chối không biết gì về chuyện đó và treo cổ các thủ phạm. William, với tư cách cảnh sát trưởng ở shiring, đã treo cổ nhiều người; nhưng khi nghĩ về thân xác ông treo lủng lẳng ở đầu sợ dây thừng làm ông rùng mình.
        Cậu nghĩ về chuyện khác, nghĩ về lãnh địa mà có thể cậu sẽ nhận được như phần thưởng khi thành công. Thật là tuyệt vời nếu cậu có thể trở thành bá tước một lần nữa vào lúc xế bóng, được tôn trọng, kính sợ và vâng lời vô điều kiện. Có thể em Aliena, Richard, sẽ chết ở Đất Thánh và vua Henry sẽ trao lại cho William lãnh địa cũ của cậu. Ý tưởng này sưởi ấm cậu hơn ngọn lửa.
        Khi rời tu viện, họ là một đoàn quân nhỏ. Tuy nhiên họ không gặp khó khăn gì khi vào Canterbury. Ranulf đã kiểm soát phần đất này trong sáu năm nay và ông chưa từ bỏ quyền lực của ông. Ông vẫn còn ảnh hưởng hơn Thomas, đó là lý do tại sao Thomas phàn nàn một cách cay đắng với giáo hoàng.
        Chẳng bao lâu khi họ ở bên trong, các binh lính phân tán xung quanh khu nhà thờ chính tòa và ngăn chặn các đường ra. Kế hoạch đã bắt đầu. Cho đến giờ phút này, một cách lý thuyết mọi chuyện có thể dừng lại được mà không có nguy hiểm; nhưng bây giờ, William nghĩ với một cái rùng mình sợ hãi, số phận đã được định đoạt.
        Cậu để cho Ranulf giữ việc canh gác và thu thập một nhóm nhỏ gồm các hiệp sĩ và binh lính theo cậu. Cậu đặt hầu hết các hiệp sĩ đóng quân trong nhà đối diện với cổng chính vào khu nhà thờ. Rồi cậu đi qua cổng với nhóm còn lại. Reginald Fitzurse và ba người âm mưu khác tiến vào sân nhà bếp như thể họ là khách chính thức, chứ không phải là kẻ xâm nhập có vũ trang. Nhưng William lao vào nhà gác cổng và đe dọa người gác cổng với mũi gươm nhọn.
        Cuộc tấn công được tiến hành.
        Hồi hộp, William ra lệnh cho một người lính trói người gác cổng, cho người của ông vào nhà gác và đóng cổng lại. Bây giờ không còn ai có thể ra vào. Cậu đã kiểm soát được tu viện bằng vũ lực.
        Cậu theo bốn người âm mưu vào trong sân nhà bếp. Có một chuồng ngựa ở phía bắc của sân, nhưng bốn người này đã cột ngựa vào một cây dâu tằm ở giữa sân. Họ tháo dây đeo kiếm và mũ sắt: họ muốn giữ vẻ bên ngoài của cuộc thăm viếng hòa bình lâu hơn nữa.
        William bắt kịp họ và để vũ khí của cậu dưới gốc cây. Reginald nhìn cậu dò hỏi. “Mọi chuyện ổn cả,” William nói. “Nơi đây đã bị cô lập.”
        Họ đi qua sân tới dinh thự và đi qua mái hiên. William chỉ định một hiệp sĩ địa phương tên là Richard đứng gác ở hiên. Những người khác bước vào đại sảnh đường.
        Các nhân viên dinh thự đang ngồi ăn trưa. Điều đó có nghĩa là họ đã phục vụ Thomas và các linh mục cũng như các tu sĩ, những người ở cùng Thomas. Một nhân viên đứng lên. Reginald nói: “Chúng tôi là người của nhà vua.”
        Cả phòng yên lặng, nhưng người nhân viên đang đứng nói: “Rất hân hạnh, thưa các ngài. Tôi là quản lý của sảnh đường, William Fitzneal. Làm ơn vào đây. Các ông muốn dùng cơm không?”
        Ông ấy quá thân thiện, William nghĩ, mặc dù chủ ông đang bất hòa với nhà vua.
        “Không cần ăn trưa, cám ơn,” Reginald nói.
        “Một ly rượu, sau chuyến đi dài?”
        “Chúng tôi có một thông điệp của vua cho chủ của ông,” Reginald sốt ruột nói. “Xin vui lòng thông báo ngay sự có mặt của chúng tôi.”
        “Rất tốt.” Người quản lý cúi đầu. Họ không có vũ khí, vì thế ông ấy không có lý do gì để khước từ họ. Ông rời bàn và đi về đầu kia của sảnh đường.
        William và bốn hiệp sĩ theo sau. Ánh mắt của những nhân viên im lặng dõi theo họ. William run rẩy như vẫn thường xẩy ra trước mỗi cuộc chiến, và cậu mong cuộc chiến bắt đầu ngay, vì cậu biết khi đó cậu sẽ bình thường.
        Tất cả họ đi lên cầu thang đến tầng trên.
        Họ vào phòng chờ rộng rãi có ghế băng quanh tường. Có một ngai lớn ở giữa một bức tường. Nhiều linh mục trong tu phục đen và các tu sĩ ngồi trên ghế băng, nhưng ngai ở giữa vẫn trống.
        Người quản lý đi ngang phòng tới một cánh cửa mở. “Sứ giả của nhà vua, thưa ngài tổng giám mục,” ông nói lớn.
        Không có tiếng trả lời, nhưng tổng giám mục có lẽ gật đầu, vì người quản lý vẫy tay cho họ vào.
        Các linh mục và tu sĩ mở to mắt nhìn các hiệp sĩ đi qua phòng vào bên trong.
        Thomas ngồi trên mép giường, mặc áo tổng giám mục. Chỉ có một người trong phòng: một tu sĩ, ngồi dưới chân Thomas, đang lắng nghe. William bắt gặp ánh mắt của người tu sĩ, và sững sờ nhận ra Tu viện trưởng Philip của Kingsbridge. Ông ấy làm gì ở đây? Nịnh hót ân huệ, không còn nghi ngờ gì. Philip là giám mục được bầu của Kingsbridge, nhưng chưa được xác nhận. Bây giờ William nghĩ với niềm vui dã man, ông ấy sẽ chẳng bao giờ làm giám mục.
        Philip cũng giật mình khi nhìn thấy William. Tuy nhiên Thomas tiếp tục nói, như thể ông không để ý đến các hiệp sĩ. Đây là một chút bất lịch sự có chủ đích, William nghĩ. Các hiệp sĩ ngồi xuống trên chiếc ghế thấp và ghế băng xung quanh giường. William cho rằng như vậy không tốt: nó làm cho cuộc thăm viếng có tính cách xã hội, và cậu cảm thấy một cách nào đó họ mất đi sức đẩy. Có lẽ đó là chủ đích của Thomas.
        Sau đó Thomas nhìn họ. Ông không đứng lên để chào hỏi. Ông biết tất cả họ, chỉ trừ William, và mắt ông dừng lại ở Hugh Morville, người cao cấp nhất. “À, Hugh,” ông nói.
        William đã đặt Reginald phụ trách phần này của kế hoạch, vì thế Reginald, chứ không phải Hugh nói với tổng giám mục. “Chúng tôi đến từ nhà vua ở Normandy. Ông muốn nghe thông điệp của nhà vua công khai hay riêng tư?”
        Thomas cáu kỉnh nhìn từ Reginald tới Hugh, rồi quay ngược lại, như thể ông tức giận phải đối phó với một người lớn tuổi nhất của đoàn đại biểu. Ông thở dài, rồi nói: “Hãy để tôi một mình, Philip.”
        Philip đứng lên và đi qua các hiệp sĩ, nhìn lo âu.
        “Nhưng đừng đóng cửa,” Thomas nói sau lưng ông.
        Khi Philip đã ra ngoài, Reginald nói: “Tôi nhân danh nhà vua yêu cầu ông đến Winchester để trả lời những cáo buộc chống lại ông.”
        William hài lòng khi thấy Thomas tái mặt đi. “Thì ra thế,” tổng giám mục bình tĩnh nói. Ông đứng lên. Người quản lý đứng lơ vơ ở cửa. “Gọi mọi người vào đây,” Thomas nói với ông. “Tôi muốn mọi người nghe điều này.”
        Các tu sĩ và linh mục bước vào, Tu viện trưởng Philip ở trong số họ. Một vài người ngồi và những người khác đứng quanh tường. William không phản đối, trái lại, càng nhiều người càng tốt, vì mục đích của cuộc gặp gỡ không vũ khí này là để chứng minh trước các nhân chứng rằng Thomas đã từ khước theo lệnh của hoàng gia.
        Khi họ đã ổn định, Thomas nhìn Reginald. “Nói lại!” ông nói.
        “Tôi nhân danh nhà vua đòi ông đến Winchester để trả lời những cáo buộc chống lại ông,” Reginald lập lại.
        “Những cáo buộc gì?” Thomas lặng lẽ nói.
        “Tội phản quốc!”
        Thomas lắc đầu. “Tôi sẽ không ra tòa án của Henry,” ông nói bình tĩnh. “Chúa biết tôi không có tội gì.”
        “Ông đã rút phép thông công của những người phục vụ trung thành.”
        “Không phải tôi, nhưng là giáo hoàng, người làm chuyện đó.”
        “Ông đã rút quyền các giám mục khác.”
        “Tôi đã đề nghị cho họ trở lại chức vụ theo điều kiện của lòng thương xót. Họ đã từ chối. Lời đề nghị của tôi vẫn mở.”
        “Ông đã gây thiệt hại cho người kế vị vua bằng cách chê bai lễ đăng quang của con trai vua.”
        “Tôi không làm những chuyện như thế. Tổng giám mục thành York không có quyền trao vương quyền cho bất cứ ai, và giáo hoàng đã khiển trách ông về tội vô liêm sỉ này. Nhưng không ai cho rằng lễ đăng quang này không có giá trị.”
        Reginald nói giận dữ: “Điểm này dẫn theo điểm khác, đồ chết tiệt này.”
        “Đủ rồi!” Thomas nói.
        “Và chúng tôi cũng đã đủ với ông, Thomas Becket, Reginald hét to. Chúng tôi đã đủ với ông, với tính kiêu căng, phá rối và phản bội của ông.”
        Thomas đứng lên. “Lâu đài tổng giám mục đã bị người nhà vua bao vây,” ông hét lên. “Tiền cho thuê của tổng giám mục được nhà vua thu. Tổng giám mục được lệnh không được rời thành phố Canterbury. Và các ông nói với tôi rằng các ông đã đủ rồi?”
        Một linh mục cố can thiệp, nói với Thomas: “Thưa ngài, xin thảo luận vấn đề một cách riêng tư –“
        “Để làm gì?” Thomas cắt ngang. “Họ đòi hỏi những điều tôi sẽ không làm và không muốn làm.”
        Tiếng la hét đã thu hút mọi người trong dinh thự, và cửa vào phòng ngủ đầy những người đang mở to mắt lắng nghe. Lập luận đã đủ dài: không ai có thể phủ nhận việc Thomas đã từ chối lệnh của hoàng gia. William ra một hiệu lệnh cho Reginald. Nó là một cử chỉ kín đáo, nhưng Tu viện trưởng Philip đã chú ý đến nó và ông nhướng mày ngạc nhiên khi nhận ra rằng người lãnh đạo của nhóm không phải là Reginald mà là William.
        Reginald nói một cách trịnh trọng: “Tổng Giám mục Thomas, ông không còn ở dưới sự hòa bình và bảo vệ của nhà vua nữa.” Ông nhìn quanh và ra lệnh cho những người đang theo dõi: “Hãy ra khỏi đây!”
        Không ai di chuyển.
        Reginald nói: “Các tu sĩ, nhân danh nhà vua tôi ra lệnh cho các ông canh giữ tổng giám mục và ngăn chặn ông ấy trốn thoát.”
        Họ sẽ không làm những chuyện như thế, dĩ nhiên. William cũng không muốn họ làm như vậy, ngược lại, cậu muốn Thomas trốn thoát để có lý do giết ông dễ dàng hơn.
        Reginald quay sang quản lý William Fitzneal, người cũng là tùy viên của tổng giám mục. “Tôi bắt ông,” ông nói. Ông nắm cánh tay người quản lý và đem ông ấy ra khỏi phòng. Ông ấy không cưỡng lại. William và những hiệp sĩ khác theo họ ra.
        Họ chạy xuống cầu thang và đi qua sảnh đường. Người hiệp sĩ địa phương, Richard, vẫn còn gác bên mái hiên. William băn khoăn không biết làm gì với người quản lý. Cậu hỏi ông: “Ông thuộc về chúng tôi?”
        Người đàn ông kinh hoàng. Ông nói: “Vâng, nếu ông thuộc về nhà vua.”
        Ông quá sợ hãi để có thể gây nguy hiểm, mặc cho ông theo phe nào, William quyết định. Ông nói với Richard. “Để mắt tới ông ấy. Không để cho bất cứ ai rời tòa nhà. Giữ cho cổng vào luôn đóng.”
        Cùng với những người khác cậu chạy qua sân tới gốc cây dâu tằm. Một cách vội vàng họ đội mũ sắt và đeo gươm. Họ sẽ làm bây giờ, William nghĩ một cách sợ hãi; chúng tôi sẽ trở lại đó và giết tổng giám mục thành Canterbury, ôi trời ơi! Đã từ lâu William không đội mũ sắt, và chiếc áo giáp nhằm bảo vệ cổ và vai cậu luôn trệch ra ngoài. Cậu nguyền rủa ngón tay vụng về của cậu. Cậu không còn thời gian để mò mẫm nữa. Cậu phát hiện ra một cậu bé đang há miệng quan sát cậu và cậu quát lên: “Hê! Tên mày là gì?”
        Cậu bé nhìn lại về phía nhà bếp, không chắc chắn nên trả lời William hay chạy trốn: “Robert, thưa ngài,” một lúc sau cậu nói. “Họ gọi tôi Robert Pipe.”
        “Đến đây, Robert Pipe, giúp tôi cái này.”
        Cậu bé lại do dự.
        William không còn kiên nhẫn. “Đến đây hay tôi thề rằng tôi sẽ cắt tay mày với lưỡi gươm này.”
        Bất đắc dĩ cậu bé đi về phía trước. William chỉ cậu cách nâng cao chiếc áo giáp, trong khi cậu đội mũ sắt vào. Sau cùng cậu đội được mũ lên và cậu bé chạy trốn. Cậu bé sẽ kể cho con cháu cậu về việc này, William nghĩ thoáng qua.
        Chiếc mũ sắt có một chỗ thông hơi, một vạt che miệng có thể kéo xuống và cột lại bằng dây. Những người khác đã cột xong vì thế mà mặt họ được che dấu và họ không còn được nhận ra. William để nó mở một lúc nữa. Mỗi người họ có một lưỡi kiếm ở một tay và một cái rìu ở tay kia.
        “Sẵn sàng chưa?” William nói.
        Tất cả gật đầu.
        Từ bây giờ không còn nói chuyện. Không cần mệnh lệnh, không còn những quyết định phải làm nữa. Họ chỉ cần đơn giản trở lại chỗ đó và giết Thomas.
        William cho hai ngón tay vào miệng và huýt một tiếng sáo chói tai.
        Rồi cậu cột miếng che miệng lại.
        Một người lính chạy ra khỏi nhà gác và mở cửa chính.
        Các hiệp sĩ của William, những người đóng quân trong nhà bên kia con đường, chạy ra và ùa vào trong sân, la to như họ đã được chỉ thị: “Lính của vua! Lính của vua!”
        William chạy vào lại dinh thự.
        Hiệp sĩ Richard và người quản lý William Fitzneal mở toang cửa cho cậu.
        Khi cậu vào, hai nhân viên của tổng giám mục tận dụng cơ hội Richard và William Fitzneal phân tâm, đã đóng sầm cửa giữa mái hiên và hội trường lại.
        William dùng sức nặng của mình chống lại cánh cửa nhưng cậu đã quá trễ: họ đã gài thanh cửa. Cậu nguyền rủa. Một thất bại quá sớm! Các hiệp sĩ dùng búa bổ vào cánh cửa, nhưng không mấy khả quan: nó được làm để chống lại các cuộc tấn công. William cảm thấy cậu không còn làm chủ được tình hình. Chống lại sự hoảng loạn vừa chớm nở, cậu chạy ra khỏi mái hiên và nhìn quanh tìm kiếm cửa khác. Reginald đi với ông.
        Không có gì phía bên này của tòa nhà. Họ chạy xung quanh đầu cuối phía tây của dinh thự, đi ngang nhà bếp vào trong vườn cây trái phía nam. William hài lòng: trên bức tường phía nam của dinh thự có một cầu thang dẫn lên trên lầu. Nó dường như là một lối đi riêng vào phòng ngủ của tổng giám mục. Cảm giác của hoảng sợ biến đi.
        William và Reginald chạy đến chân cầu thang. Nó bị hư hại ở lưng chừng, và có một vài công cụ của người thợ và một cái thang gỗ gần đó, như thể cầu thang đang được sửa chữa. Reginald dựa chiếc thang gỗ vào bên cầu thang và trèo lên, bỏ qua các bậc thang hỏng. Ông lên đến đỉnh. Có một cửa dẫn đến một cửa sổ lồi ra ngoài với một ban công nhỏ. William quan sát Reginald thử cánh cửa. Nó khóa. Bên cạnh nó là một cửa sổ chớp.Với một đòn búa rìu, Reginald đập vỡ cửa chớp. Ông thò tay vào bên trong, rờ rẫm, rồi mở cửa và đi vào.
        William bắt đầu trèo cầu thang gỗ.
        Từ lúc bắt gặp ánh mắt của William, Philip lo sợ, nhưng các linh mục và tu sĩ trong đoàn của Thomas hài lòng. Rồi khi họ nghe thấy tiếng búa trên cửa sảnh đường, họ bắt đầu sợ, và nhiều người đề nghị ẩn trốn trong nhà thờ chính tòa.
        Thomas khinh bỉ: “Ẩn trốn?” ông nói. “Ẩn trốn ai? Những hiệp sĩ nào? Một tổng giám mục không thể trốn chạy vì vài ba người hung hăng.”
        Philip nghĩ ông có lý, ít nhất cho đến thời điểm này: chức vụ tổng giám mục trở thành vô nghĩa nếu ông sợ các hiệp sĩ. Người của Thiên Chúa, được bảo đảm trong sự nhận biết rằng tội lỗi của mình đã được tha, đối diện với sự chết như một biến đổi hạnh phúc vào một nơi khác tốt hơn, và không sợ lưỡi gươm. Tuy nhiên ngay cả tổng giám mục cũng không được coi thường sự an toàn của mình. Hơn nữa, Philip đã biết từ kinh nghiệm bản thân về sự tàn bạo và dã an của William Hamleigh. Vì thế khi họ nghe tiếng vỡ của cửa sổ chớp, Philip quyết định hành động.
        Qua cửa sổ ông có thể nhìn thấy dinh thự đã bị bao vây bởi các hiệp sĩ. Nhìn thấy họ, ông càng sợ hơn. Nó rõ ràng là một cuộc tấn công có kế hoạch cẩn thận, và những kẻ tấn công được chuẩn bị để thi hành với bạo lực. Ông vội vàng đóng cửa phòng ngủ và cài then ngang. Những người khác quan sát ông, vui vì có người khác chịu trách nhiệm. Tổng Giám mục Thomas vẫn nhìn khinh khỉnh nhưng ông không ngăn những gì Philip làm.
        Philip đứng bên cửa và lắng nghe. Ông nghe một người đi qua cửa sổ và vào phòng tiếp khách. Ông tự hỏi không biết cửa phòng ngủ vững chắc như thế nào. Tuy nhiên người đàn ông không tấn công cửa ra vào, nhưng xuyên qua phòng tiếp khách và xuống cầu thang. Philip đoán ông ấy đi mở cửa sảnh đường từ phía trong để cho các hiệp sĩ khác vào.
        Qua đó Thomas có được vài phút an tâm.
        Có một cánh cửa ở góc đối diện với phòng ngủ, một phần bị che đậy bởi chiếc giường. Philip chỉ vào nó và hỏi khẩn trương: “Cửa đó dẫn đi đâu?”
        “Dẫn sang tu viện,” một người nói. “Nhưng nó đã bị khóa.”
        Philip băng qua phòng và thử mở cửa. Nó khóa. “Ông có chìa khóa không?” ông hỏi Thomas, sau đó thêm vào “Thưa tổng giám mục.”
        Thomas lắc đầu. “Con đường này chưa bao giờ được dùng, nếu tôi nhớ không lầm,” ông nói với sự phẫn nộ bình tĩnh.
        Cánh cửa không quá chắc, nhưng Philip đã sáu mươi ba và sức mạnh tàn bạo không phải là sở trường của ông. Ông lùi lại và đá mạnh vào cửa. Chân ông đau và cửa lung lay nhẹ. Philip cắn răng và đá nó mạnh hơn. Nó bung ra.
        Philip nhìn Thomas. Thomas vẫn có vẻ miễn cưỡng phải chạy trốn. Có lẽ ông chưa biết rằng lực lượng các hiệp sĩ và cuộc tấn công có tổ chức chứng tỏ ý định nghiêm trọng muốn làm hại ông. Nhưng qua trực giác ông biết rằng không thể làm cho Thomas sợ hãi để ông bỏ chạy. Thay vào đó, ông nói: “Đã đến giờ kinh chiều. Chúng ta không thể để cho mấy tên hung hăng quấy rầy giờ kinh thường nhật của chúng ta.”
        Thomas mỉm cười, thấy rằng lập luận của ông đã được dùng để chống lại ông. “Rất tốt,” ông nói và ông đứng lên.
        Philip dẫn đường, cảm thấy nhẹ người vì đã thuyết phục được Thomas đi, nhưng vẫn sợ tổng giám mục đi không đủ nhanh. Con đường dẫn xuống một cầu thang dài và chỉ có ánh sáng chập chờn hắt xuống từ phòng ngủ của tổng giám mục. Ở cuối đường có một cửa khác. Philip xử lý nó như ông đã làm với cánh cửa thứ nhất, nhưng nó vững chắc hơn và cửa không mở ra. Ông bắt đầu đập cửa và la to: “Mở cửa! Nhanh lên! Nhanh lên!” Ông nghe thấy sự hoảng loạn trong giọng nói của mình, và cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng tim ông đập mạnh và ông biết rằng các hiệp sĩ của William đã gần sau lưng.
        Những người khác đã bắt kịp ông. Ông tiếp tục đập cửa và la to. Ông nghe Thomas nói: “Làm ơn giữ phẩm cách, Philip,” nhưng ông không để ý đến. Ông muốn bảo vệ phẩm giá của tổng giám mục – còn của ông không quan trọng.
        Trước khi Thomas có thể phản đối lần nữa, có tiếng thanh cửa được gỡ xuống và một chìa khóa lăn trong ổ, và cánh cửa mở ra. Philip nhẹ người. Hai người quản lý kinh ngạc đứng đó. Một người nói: “Tôi không biết cửa này dẫn đi đâu.”
        Philip sốt ruột đẩy họ. Ông thấy mình ở trong nhà kho của tu viện. Vượt qua những thùng và bao tải, ông đến cánh cửa khác. Nó dẫn ra ngoài.
        Trời đã tối. Ông ở trong đường đi phía nam của tu viện. Ở đầu xa kia của đường đi, ông nhẹ người khi thấy cánh cửa dẫn vào trong gian ngang của nhà thờ chính tòa Canterbury.
        Họ dường như đã được an toàn.
        Ông phải đưa Thomas vào nhà thờ chính tòa trước khi William và các hiệp sĩ của ông bắt kịp. Những người đi sau đã ra khỏi nhà kho. Philip nói: “Vào nhà thờ, nhanh lên.”
        Thomas nói: “Không, Philip, không nên đi nhanh. Chúng ta vào nhà thờ chính tòa với phẩm cách.”
        Philip muốn hét lên, nhưng ông nói: “Dĩ nhiên, thưa ngài.” Ông có thể nghe thấy âm thanh đáng ngại của những bước chân nặng nề trong đường đi yên lặng: Các hiệp sĩ đã vào được phòng ngủ và đã khám phá ra đường chạy thoát. Ông biết sự bảo vệ tốt nhất cho tổng giám mục là phẩm giá của ông, nhưng nó cũng chẳng có hại gì khi ông qua khỏi nguy hiểm.
        “Thánh giá giám mục đâu?” Thomas hỏi. “Tôi không thể vào nhà thờ nếu không có thánh giá.”
        Philip rên lên trong tuyệt vọng.
        Rồi một linh mục nói: “Tôi có mang theo thánh giá. Đây này.”
        Thomas nói: “Làm ơn mang thánh giá đi trước tôi như thường lệ.”
        Linh mục giơ nó lên và vội vàng đi về hướng nhà thờ.
        Thomas theo sau ông.
        Như nghi thức đòi hỏi, đoàn tùy tùng vào nhà thờ trước ông. Philip đi sau và giữ cửa cho ông. Vừa khi Thomas đi vào, hai hiệp sĩ lao nhanh ra khỏi nhà kho tu viện và chạy nhanh xuống đường đi phía nam.
        Philip đóng cửa gian ngang. Có một thanh cửa được đặt trong lỗ tường bên cạnh khung cửa. Philip lấy nó ra và cài ngang cửa.
        Ông nhìn quanh, thả người xuống vì nhẹ nhõm và dựa vào cánh cửa.
        Thomas đi qua gian ngang rộng về hướng bậc thang dẫn lên gian phụ phía bắc của cung thánh, nhưng khi ông nghe tiếng gài cửa, ông bất ngờ dừng và quay lại.
        “Không, Philip,” ông nói.
        Tim Philip thót lại. “Thưa ngài tổng giám mục –“
        “Đây là một nhà thờ, không phải là lâu đài. Không được khóa cửa.”
        Cánh cửa lắc dữ dội như thể các hiệp sĩ cố gắng mở nó ra. Philip nói: “Tôi sợ họ muốn giết ông.”
        “Có lẽ sau cùng họ sẽ làm được điều họ muốn, cho dù ông khóa cửa hay không. Ông có biết có bao nhiêu cửa trong nhà thờ này không? Mở nó ra.”
        Có hàng loạt tiếng ầm lớn như thể các hiệp sĩ phá cửa bằng rìu. “Ông có thể ẩn trốn,” Philip nói một cách tuyệt vọng. “Có hàng chục chỗ ẩn – cửa vào nhà nguyện hầm ở ngay đây – trời đã tối –“
        “Ẩn trốn, Philip? Tôi nên ẩn trốn ngay trong nhà thờ của tôi sao? Ông có làm thế không?”
        Philip nhìn Thomas một lúc lâu. Sau cùng ông nói: “Không, tôi sẽ không làm.”
        “Mở cửa ra,”
        Với một trái tim nặng nề, Philip mở cửa.
        Các hiệp sĩ ùa vào. Có năm người. Mặt họ dấu sau mũ sắt. Họ mang theo gươm và búa rìu. Họ trông như những người từ hỏa ngục.
        Philip biết ông không nên sợ, nhưng cạnh sắc vũ khí của họ làm ông rùng mình sợ hãi.
        Một người trong nhóm họ hét lên: “Thomas Becket, kẻ phản bội của nhà vua và vương quốc, ở đâu?”
        Những người khác la lên: “Kẻ phản bội ở đâu? Tổng giám mục ở đâu?”
        Trời đã hoàn toàn tối, và ngôi nhà thờ lớn chỉ được soi chiếu lờ mờ bởi những cây nến. Tất cả các tu sĩ mặc màu đen và độ nhìn của các hiệp sĩ bị giới hạn vì tấm chắn trên mặt. Philip bất ngờ có một hy vọng: có lẽ họ sẽ không nhận ra Thomas trong bóng tối. Nhưng Thomas dập tắt ngay niềm hy vọng đó khi ông đi xuống và bước về phía các hiệp sĩ: “Tôi đây – không phải kẻ phản bội của nhà vua, nhưng là một linh mục của Thiên Chúa. Các ông muốn gì?”
        Khi tổng giám mục đứng đối diện trước năm người với mũi gươm đã được rút ra, bất ngờ Philip biết chắc rằng Thomas sẽ chết ở đây hôm nay.
        Những người trong đoàn của Thomas cũng phải cảm thấy như vậy, bởi vì bất thình lình hầu hết họ bỏ trốn. Một số biến mất vào trong bóng tối của gian cung thánh, một số phân tán vào gian giữa, len lỏi trong số cư dân đang chờ giờ lễ, và một người mở một cửa nhỏ và chạy lên cầu thang xoắn. Philip chán nản. “Các ông phải cầu nguyện, không phải chạy đi!” ông hét lên đàng sau họ.
        Philip cũng cảm thấy chính ông nữa cũng có thể bị giết, nếu ông không chạy đi. Nhưng ông không thể rời tổng giám mục.
        Một hiệp sĩ nói với Thomas: “Hãy từ bỏ sự phản bội của ông!” Philip nhận ra giọng của Reginald Fitzurse, người phát ngôn viên của nhóm.
        “Tôi không có gì để từ bỏ,” Thomas trả lời. “Tôi không phản bội.” Ông nói hoàn toàn bình tĩnh, nhưng mặt ông trắng ra. Ông biết, giống như mọi người khác, ông sẽ phải chết, Philip nghĩ.
        Reginald hét vào mặt Thomas: “Chạy đi, nếu không ông sẽ phải chết.”
        Thomas vẫn đứng.
        Họ muốn ông ấy chạy đi, Philip nghĩ; họ không đủ can đảm giết ông ấy.
        Có lẽ Thomas cũng biết điều đó nữa, bởi vì ông đứng thản nhiên trước mặt họ, thách thức họ đụng vào ông. Một lúc lâu họ đứng đối diện nhau: các hiệp sĩ không muốn đi bước trước, vị linh mục quá tự hào để chạy trốn.
        Thomas phá vỡ sự yên lặng: “Tôi sẵn sàng chết, nhưng các ông không được đụng tới bất cứ người nào của tôi, linh mục hay tu sĩ hay giáo dân.”
        Reginald phản ứng trước. Ông vung thanh kiếm vào Thomas, đẩy lưỡi kiếm gần hơn và gần hơn vào mặt Thomas như thể ông dám chạm lưỡi kiếm vào vị linh mục. Thomas đứng yên như tượng đá, mắt ông nhìn vào người hiệp sĩ, không nhìn vào lưỡi kiếm. Bất ngờ, với một chuyển động nhanh, Reginald hất mũ giám mục của Thomas xuống.
        Bất ngờ Philip lại tràn đầy hy vọng. Họ không đủ can đảm để là chuyện đó, ông nghĩ; họ sợ phải đụng vào ông.
        Nhưng ông sai lầm. Sự quyết tâm của các hiệp sĩ được củng cố thêm qua thái độ hất mũ ngớ ngẩn đó, như thể họ đã chờ đợi bị đánh phạt bởi bàn tay Thiên Chúa, và thực tế là không có gì xẩy ra nên họ can đảm làm sự tồi tệ hơn. Reginald nói: “Đem ông ấy ra khỏi đây.”
        Các hiệp sĩ khác cất kiếm vào vỏ và đến gần tổng giám mục.
        Một người ôm ngang hông Thomas và cố bế ông lên.
        Philip tuyệt vọng. Cuối cùng họ đã dám đụng đến ông. Sau tất cả họ đã muốn đặt tay lên người của Chúa. Họ phải biết trong trái tim rằng họ sẽ phải xuống hỏa ngục vì chuyện đó, nhưng họ vẫn làm.
        Thomas mất sự thăng bằng, ông cử động cánh tay và bắt đầu chống lại. Các hiệp sĩ khác tham gia, cố nâng ông lên và đem ông đi. Những người còn lại duy nhất của Thomas là Philip và một linh mục tên là Erward Grim. Họ, cả hai chạy đến giúp Thomas. Erward nắm lấy áo choàng của Thomas và giữ chặt. Một hiệp sĩ quay lại và đấm Philip vào bên đầu. Ông choáng váng và ngã xuống.
        Khi ông tỉnh lại, các hiệp sĩ đã bỏ Thomas ra. Thomas đứng với đầu cúi xuống và hai tay chắp vào nhau trong tư thế cầu nguyện. Một hiệp sĩ giơ cao lưỡi kiếm.
        Philip, vẫn còn trên nền nhà, hét lên một tiếng dài phản đối bất lực: “Đ-ư-ừ-ư-n-g!”
        Erward giơ cánh tay lên để đỡ đòn.
        Thomas nói: “Con phó linh hồn con cho Chúa –.“
        Mũi kiếm bổ xuống.
        Nó trúng cả Thomas lẫn Erward. Philip nghe thấy tiếng hét của mình. Lưỡi kiếm cắt vào sọ của tổng giám mục và cắt đứt cánh tay của vị linh mục. Khi máu phun ra từ cánh tay Erdward, Thomas quỳ xuống.
        Philip nhìn kinh hoàng vào vết thương trên đầu Thomas.
        Tổng giám mục ngã từ từ về phía trước vào bàn tay của ông. Ông tự đỡ mình một chốc lát, rồi khuôn mặt ông đập xuống nền đá.
        Người hiệp sĩ khác nâng kiếm lên và đánh xuống. Philip tự động hét lên vì đau khổ. Lưỡi kiếm thứ hai bổ xuống vào đúng chỗ lần trước, và cắt đứt phần sọ trên của Thomas. Nó là một nhát kiếm mạnh đến nỗi lưỡi kiếm chạm vào nền đá và gẫy làm đôi. Người hiệp sĩ ném phần đuôi kiếm xuống.
        Một người hiệp sĩ thứ ba làm một hành động mà nó còn cháy bỏng mãi trong trí nhớ của Philip suốt quãng đời còn lại của ông. Ông ngoáy lưỡi kiếm vào trong vết thương trên đầu tổng giám mục để làm cho óc chảy ra trên nền nhà.
        Chân Philip chùng lại và ông khụy xuống trên đầu gối, sự kinh hoàng bao trùm lấy ông.
        Người hiệp sĩ nói: “Ông ấy không còn đứng dậy được nữa – chúng ta đi thôi.”
        Tất cả họ quay ra và chạy đi.
        Philip nhìn họ đi xuống gian giữa, vung thanh kiếm xung quanh để làm cho cư dân tránh đường.
        Khi kẻ giết người đã đi, một sự yên lặng lạnh người trong nhà thờ. Xác của tổng giám mục nằm úp mặt trên nền nhà, và đầu sọ bị cắt đứt với mái tóc nằm bên cạnh đầu. Philip úp mặt trong lòng bàn tay. Đây là điểm cuối của tất cả hy vọng. Kẻ man rợ đã thắng, ông tiếp tục suy nghĩ; kẻ man rợ đã thắng. Ông choáng váng, xây xẩm như thể ông chìm dần trong một hồ nước sâu, chết đuối trong tuyệt vọng. Không còn gì để người ta có thể bám víu. Những gì dường như chắc chắn bất ngờ thành bất ổn.
        Cả đời ông đã chiến đấu chống lại quyền lực độc tài của những con người xấu xa, và bây giờ, trong cuộc chiến cuối cùng ông đã bị đánh bại. Ông nhớ lại khi William Hamleigh đến đốt Kingsbridge lần thứ hai, cả cư dân thị trấn đã xây bức tường thành trong một ngày. Thật là một chiến thắng tuyệt vời. Sức mạnh không bạo động của hàng trăm người dân bình thường đã đánh bại sự tàn bạo trắng trợn của Bá tước William. Ông nhớ lại lúc Waleran Bigod muốn xây nhà thờ chính tòa ở Shiring để ông ấy có thể kiểm soát nó theo mục đích riêng.  Philip đã vận động dân chúng toàn vùng. Hàng trăm, hàng ngàn người đã đổ xô đến Kingsbridge vào ngày lễ Chúa Thánh Thần kỳ diệu đó cách đây ba mươi ba năm, và sức mạnh lòng nhiệt thành của họ đã đánh bại Waleran. Nhưng bây giờ không còn hy vọng. Tất cả dân chúng ở Canterbury, ngay cả tất cả Ki Tô hữu trên toàn thế giới cũng không có thể làm Thomas sống lại.
        Quỳ trên phiến đá ở gian ngang nhà thờ chính tòa Canterbury, ông lại nhìn thấy những người xông vào nhà ông và giết bố mẹ trước mắt ông, năm mươi sáu năm về trước. Cảm xúc của đứa bé sáu tuổi bây giờ trở về với ông không phải là sợ hãi, cũng không phải đau buồn. Nó là cảm xúc của tức giận. Cảm thấy bất lực để ngăn ngừa những người to lớn, mặt đỏ và khát máu. Ông đã nuôi một tham vọng rực lửa để ngăn chặn những người cầm gươm, làm cùn lưỡi kiếm của họ, làm què những con ngựa của họ và nộp họ cho một thẩm quyền khác, một thẩm quyền cao hơn vương quốc của bạo lực. Và một lúc sau, khi bố mẹ ông nằm trên mặt đất, viện phụ Peter đã đến và chỉ cho ông một con đường. Không vũ khí và không khả năng tự vệ, viện phụ đã ngăn chặn ngay cuộc đổ máu. Ông không có gì ngoài uy quyền của giáo hội và sức mạnh của lòng tốt của ông. Cảnh đó đã truyền cảm ứng cho Philip suốt cuộc đời.
        Cho đến lúc này ông tin rằng ông và những người như ông đã chiến thắng. Họ đã đạt được những chiến thắng đáng kể trong nửa thế kỷ qua. Nhưng bây giờ vào cuối cuộc đời, kẻ thù của ông đã chứng minh rằng không có gì đã thay đổi. Chiến thắng của ông chỉ nhất thời, những tiến bộ của ông chỉ là ảo tưởng. Ông đã có một vài chiến thắng, nhưng nguyên nhân sâu thẳm vẫn còn đó. Những người giống như người đã giết bố mẹ ông và bây giờ giết tổng giám mục trong nhà thờ chính tòa như chứng minh rằng không có uy quyền nào có thể chống lại sự chuyên chế của người có thanh kiếm.
        Ông chẳng bao giờ nghĩ họ sẽ dám giết tổng giám mục Thomas, nhất là trong một nhà thờ; cũng như ông đã chẳng bao giờ nghĩ có ai dám giết bố ông, và những người khát máu với lưỡi gươm và mũ sắt đã chỉ cho ông sự thật rùng rợn trong cả hai trường hợp. Và bây giờ, ở lứa tuổi sáu mươi hai, khi ông nhìn vào thân xác ghê rợn của Thomas Becket, ông bị ám ảnh bởi sự tức giận trẻ con, vô lý, chung chung của một đứa bé sáu tuổi có bố mẹ bị giết.
        Ông đứng lên. Bầu khí trong nhà thờ nặng nề với cảm xúc khi dân chúng tụ họp quanh xác của tổng giám mục. Các linh mục, tu sĩ và cư dân thị trấn chậm rãi đến gần hơn, choáng váng và đầy sợ hãi. Philip cảm thấy đàng sau biểu hiện kinh hoàng của họ cũng có sự tức giận giống như ông. Một hai người âm thầm cầu nguyện, không thành tiếng. Một phụ nữ cúi xuống nhanh chóng và đụng vào xác chết, cầu mong được may lành. Nhiều người khác làm theo. Rồi Philip nhìn thấy người phụ nữ đầu tiên lén lút thu thập máu vào một bình nhỏ, như thể Thomas là vị tử đạo.
        Hàng giáo sĩ bắt đầu tỉnh lại. Người quản trị của tổng giám mục, Osbert, với dòng nước mắt chẩy xuống trên khuôn mặt, lấy một con dao và cắt một dải vải từ áo sơ mi của ông. Rồi ông quỳ xuống bên cạnh xác và dùng ngón tay vụng về gắn lại vết thương trên đỉnh đầu, trong một nỗ lực cảm động muốn khôi phục lại một chút giá trị cho nhân vị của một tổng giám mục đã bị xúc phạm khủng khiếp. Khi ông làm như vậy, một tiếng rên đau đớn tập thể phát ra từ đám đông xung quanh.
        Một vài tu sĩ đem đến một cái cáng. Họ nhẹ nhàng nâng Thomas vào cáng. Nhiều bàn tay giơ ra giúp đỡ họ. Philip nhìn thấy khuôn mặt đẹp trai của tổng giám mục an bình, chỉ có một dấu hiệu duy nhất của bạo lực là một đường máu nhỏ chẩy từ đỉnh đầu phía phải, qua mũi vào tới cổ phía tay trái.
        Khi họ nâng cáng lên, Philip nhặt thanh kiếm gẫy đã giết Thomas. Ông nghĩ về người phụ nữ đã thu thập máu của tổng giám mục vào chai như thể ông là một vị thánh. Hành động nhỏ bé của bà có một ý nghĩa lớn lao, nhưng Philip chưa chắc chắc nó là gì.
        Dân chúng theo sau cáng, được thúc đẩy bởi một sức mạnh vô hình. Philip đi theo đám đông, cảm thấy sức quyến rũ siêu nhiên đang thu hút tất cả họ. Các tu sĩ khiêng xác qua gian cung thánh và đặt nhẹ nhàng trên nền trước bàn thờ chính. Đám đông, nhiều người trong họ cầu nguyện lớn tiếng, chăm chú nhìn một linh mục đem một tấm vải sạch và băng lại vết thương trên đầu một cách cẩn thận và đội lên chiếc mũ giám mục mới.
        Một tu sĩ cắt chiếc áo khoác đen đẫm máu của tổng giám mục. Ông không biết làm gì với miếng vải đẫm máu đó, và muốn để nó sang một bên. Một người bước nhanh lên và lấy nó như thể nó là một báu vật.
        Ý nghĩ mông lung, không chắc chắn trong đầu Philip bây giờ hiện ra trong một ánh sáng đầy cảm hứng. Dân chúng coi Thomas như vị tử đạo, háo hức gom góp máu và quần áo của ông như thể nó có sức mạnh siêu nhiên của di tích thánh. Philip nhìn vụ giết người như một thất bại chính trị của giáo hội, nhưng dân chúng ở đây không nhìn như thế: họ nhìn thấy một cuộc tử đạo. Và cái chết của một vị tử đạo, trong khi có thể coi nó như một thất bại, chẳng bao giờ ngừng cung cấp cho giáo hội nguồn cảm hứng và sức mạnh.
        Philip lại nghĩ đến hàng trăm người đổ xô về Kingsbridge để xây nhà thờ chính tòa, và về những người đàn ông, đàn bà và trẻ em, những người đã cùng nhau làm việc trong đêm để xây tường thành. Nếu những con người như thế có thể được huy động bây giờ, ông nghĩ với sự hứng khởi, tiếng kêu giận dữ của họ sẽ mạnh mẽ đến nỗi toàn thể thế giới có thể nghe được.
        Nhìn vào những người đàn ông và đàn bà tụ tập quanh xác Thomas, khuôn mặt họ đau khổ, tràn ngập đau buồn và kinh hoàng, Philip nhận ra rằng họ chỉ muốn có một nhà lãnh đạo.
        Nó có thể không?
        Trường hợp này có điều gì quen thuộc, ông nhận ra. Một thân xác đẫm máu, một đám đông người xem, vài người lính xa xa: ông đã thấy nó ở đâu? Những gì đã xẩy ra sau đó, ông cảm thấy, là một đám nhỏ của người chết đã tụ hợp chống lại tất cả quyền lực và thẩm quyền của một đế quốc hùng mạnh.
        Dĩ nhiên. Ki Tô giáo đã bắt đầu như thế.
        Và khi ông hiểu điều đó, ông biết ông phải làm gì.
        Ông đến trước bàn thờ và quay mặt xuống đám đông. Ông vẫn còn cây kiếm gẫy trên tay. Mọi người nhìn ông. Một chút nghi ngờ. Ông nghĩ: Tôi có thể làm được việc đó không? Tôi có thể gây nên một phong trào, ở đây và ngay bây giờ, một phong trào có thể lay chuyển ngai vàng nước Anh không? Ông nhìn vào khuôn mặt họ. Ông nhìn thấy cả nỗi đau và giận dữ, và trong một số người có cả một chút hy vọng.
        Ông giơ thanh kiếm lên cao.
        “Đây là thanh kiếm đã giết một vị thánh,” ông bắt đầu.
        Có tiếng thầm thì tán thành.
        Thêm can đảm, Philip nói: “Ở đây, vào tối nay chúng ta đã chứng kiến một cuộc tử đạo.”
        Các linh mục và tu sĩ ngạc nhiên. Giống Philip, họ đã không nhìn thấy ngay ý nghĩa thực sự của việc giết người mà họ đã chứng kiến. Nhưng cư dân thành phố đã thấy và họ lên tiếng ủng hộ.
        “Mỗi người chúng ta phải ra đi và kể về những gì chúng ta đã thấy.” Nhiều người gật đầu mạnh mẽ. Họ đang lắng nghe – nhưng Philip muốn nhiều hơn. Ông muốn truyền cảm hứng cho họ. Giảng thuyết chưa bao giờ là sở trường của ông. Ông không phải là người có thể làm cho đám đông say mê, làm cho họ cười và khóc, và thuyết phục họ đi theo ông mọi nơi. Ông không biết cách làm cho giọng nói của mình gây chấn động, làm cho ánh sáng vinh quang tỏa sáng trong mắt. Ông là một con người thực tế, gắn liền với mặt đất; và ngay bây giờ ông cần nói như một thiên thần.
        “Chẳng bao lâu nữa mỗi người đàn ông, đàn bà và trẻ em ở Canterbury sẽ biết rằng người của nhà vua đã giết Tổng giám mục Thomas trong nhà thờ chính tòa. Nhưng đó chỉ là khởi đầu. Tin tức sẽ lan đi khắp nước Anh, và rồi trên khắp các nước Ki Tô giáo.”
        Ông thất bại, ông có thể nói. Có sự bất mãn và thất vọng trên khuôn mặt một số người. Một người lên tiếng: “Nhưng chúng tôi phải làm gì?”
        Philip nhận ra họ cần có những hành động cụ thể ngay lập tức. Không thể kêu gọi một cuộc thập tự chinh rồi sai họ đi ngủ.
        Một cuộc thập tự chinh, ông nghĩ. Đó là một ý tưởng.
        Ông nói: “Ngày mai, tôi sẽ mang cây gươm này đến Rochester. Ngày hôm sau nữa tới London. Các ông bà có theo tôi không?”
        Hầu hết họ ngây người ra, nhưng một người nào đó ở phía sau nói to: “Vâng!” Rồi một hai giọng khác tán thành.
        Philip cất cao giọng hơn. “Chúng ta sẽ kể câu chuyện của chúng ta cho mọi thị trấn và làng mạc ở nước Anh. Chúng ta sẽ chỉ cho mọi người lưỡi gươm đã giết Thánh Thomas. Chúng ta sẽ cho họ xem vết máu trên áo linh mục của ngài.” Ông nói mạnh mẽ và tỏ ra một chút tức giận. “Chúng ta sẽ tạo nên một làn sóng phản đối, lan truyền trên khắp các nước Ki Tô giáo, ngay cả đến tận Roma. Chúng ta sẽ biến toàn thể thế giới văn minh chống lại kẻ man rợ, những người đã gây ra tội ác khủng khiếp và xúc phạm đến Thiên Chúa này.”
        Lần này hầu hết mọi người tán thành. Họ đã chờ đợi một cách để diễn tả cảm xúc của họ, và bây giờ ông cho họ.
        “Tội ác này,” ông nói chậm rãi, giọng ông như hét lên, “sẽ chẳng bao giờ - chẳng bao giờ quên được!”
        Họ gầm lên đồng ý.
        Bất ngờ ông biết phải làm gì. “Chúng ta bắt đầu cuộc thập tự chinh của chúng ta ngay bây giờ!” ông nói.
        “Vâng!”
        “Chúng ta mang gươm này đi khắp đường phố Canterbury!”
        “Vâng!”
        “Và chúng ta sẽ kể cho mỗi cư dân trong thị trấn những gì chúng ta đã chứng kiến tối nay!”
        “Vâng!”
        “Hãy mang nến và theo tôi!”
        Giơ cao gươm, ông đi thẳng xuống giữa nhà thờ chính tòa.
        Họ theo sau ông.
        Cảm thấy hứng khởi, ông đi qua gian cung thánh, qua khu trung tâm, và đi xuống theo gian giữa. Một vài tu sĩ và linh mục đi bên cạnh ông. Ông không cần quay lại: ông có thể nghe thấy bước chân của hàng trăm người đi sau ông. Ông đi ra cửa chính.
        Ở đó ông có một khoảnh khắc của lo lắng. Xuyên qua vườn cây ăn trái ông có thể nhìn thấy binh lính lục soát dinh thự của tổng giám mục. Nếu những người theo ông đối đầu với những người lính này, cuộc thập tự chinh có thể kết thúc trong cuộc ẩu đả, trước khi nó thực sự bắt đầu, Philip nghĩ. Ông vội quay nhanh đi chỗ khác và dẫn đoàn người đi qua cửa gần nhất vào các đường phố.
        Một tu sĩ cất lên một bài thánh ca. Có đèn và ánh lửa đàng sau những cửa sổ chớp của các căn nhà, nhưng khi đoàn rước đi qua, dân chúng mở cửa để xem chuyện gì đang diễn ra. Một số người hỏi người tham dự. Một số người tham gia vào.
        Philip rẽ vào một góc và nhìn thấy William Hamleigh.
        William đứng bên ngoài một chuồng ngựa. Dường như cậu vừa cởi bộ áo giáp, chuẩn bị lên ngựa và ra khỏi thành phố. Cậu có một số người bên cậu. Họ ngẩng lên chờ đợi. Có lẽ họ đã nghe tiếng hát và tự hỏi chuyện gì đang xẩy ra.
        Khi đoàn rước đến gần, William trông rất hoang mang. Sau đó cậu nhìn thấy chiếc gươm gẫy trên tay Philip, và cậu hiểu ra mọi chuyện. Cậu nhìn chằm chằm trong sự yên lặng kinh hoàng một lúc lâu, rồi cậu nói. “Ngừng lại!” cậu hét lên. “Tôi ra lệnh cho các ông phải giải tán!”
        Không ai để ý đến. Những người đi chung với William trông lo âu: chống lại một đám đông hàng trăm người nhiệt thành, kiếm trong tay cũng chẳng giúp gì họ.
        William nói thẳng với Philip. “Nhân danh nhà vua tôi ra lệnh cho ông ngừng việc này lại.”
        Philip đi quẹt ngang cậu, đám đông phía sau đẩy ông tiến lên. “Quá trễ, William!” ông ngẩng đầu nói lại. “Đã quá trễ!”
         
         
        III
         
        Những chàng trai trẻ đến chỗ treo cổ sớm.
        Chúng đã ở đó, trong khu chợ ở Shiring, ném những viên đá vào con mèo, sỉ nhục người ăn xin và đánh nhau, khi Aliena đến, đi bộ một mình, mặc một áo khoác rẻ tiền có mũ che để ẩn dấu danh tính của cô.
        Cô đứng xa, nhìn giàn giáo. Cô không có ý định đến. Cô đã chứng kiến bao nhiêu vụ treo cổ trong cương vị bá tước. Bây giờ cô không còn có trách nhiệm đó, cô đã nghĩ cô sẽ hạnh phúc biết bao nếu cô chẳng bao giờ nhìn thấy người nào phải treo cổ nữa trong suốt quãng đời còn lại của cô. Nhưng lần này khác.
        Cô không còn ở vị trí bá tước nữa vì em cô, Richard, đã bị giết ở Syria – không phải trong một cuộc chiến, trớ trêu thay, mà trong một cuộc động đất. Tin này đã cần sáu tháng để đến tay cô. Đã từ mười lăm năm cô không gặp cậu, và bây giờ cô sẽ chẳng bao giờ thấy cậu nữa.
        Trên đồi, cổng lâu đài mở ra và người tù đi ra với đoàn bảo vệ, theo sau bởi tân bá tước của Shiring, con trai của Aliena, Tommy.
        Richard không có con, vì thế người thừa kế là cháu của cậu. Nhà vua choáng váng và mệt mỏi với vụ mang tiếng về Thomas Becket, đã nhanh chóng công nhận Tommy làm bá tước. Aliena đã nhanh chóng trao lại cho thế hệ trẻ hơn. Cô đã đạt được những gì cô muốn cho lãnh địa. Một lần nữa nó lại là một vùng trù phú và thịnh vượng, một mảnh đất của những con cừu mập, những cánh đồng xanh và những nhà máy xay mạnh mẽ. Một số chủ đất lớn và tiến bộ đã theo chân cô trong việc dùng ngựa cày, nuôi ngựa bằng lúa mạch được gieo trồng bằng hệ thống ba mùa luân phiên. Kết quả là đất có thể nuôi sống nhiều người hơn là dưới thời bố cô cai trị.
        Tommy có thể là một bá tước tốt. Cậu sinh ra để làm chuyện đó. Jack đã từ chối không chấp nhận chuyện đó một thời gian dài. Cậu muốn con trai cậu trở thành thợ xây dựng, nhưng sau cùng cậu bị ép buộc phải nhìn nhận sự thật. Tommy chẳng bao giờ có thể cắt thẳng một viên đá, nhưng tự bản chất cậu là một nhà lãnh đạo, và vào lứa tuổi hai mươi tám cậu có khả năng quyết định, dứt khoát, thông minh và công bằng. Bây giờ cậu thường được gọi là Thomas.
        Khi cậu lên nắm quyền, dân chúng chờ đợi Aliena sẽ ở lại lâu đài, gắt gỏng con dâu và chơi với cháu nội của cô. Nhưng cô đã cười họ. Cô thích vợ của Tommy – một người phụ nữ xinh đẹp, người con gái út của bá tước thành Bedford – và cô yêu ba đứa cháu nội của cô, nhưng ở lứa tuổi năm mươi hai cô chưa sẵn sàng về hưu. Cô và Jack đã lấy một căn nhà đá lớn gần tu viện Kingsbridge – có thời nó đã là khu nhà nghèo, nhưng bây giờ không còn nữa – và cô đã trở lại nghề kinh doanh len, mua và bán, thương lượng với tất cả sinh lực cũ của cô và sau một thời gian ngắn cô đã thu được số tiền lớn.
        Đoàn tử hình đã vào trong khu chợ, và Aliena thức giấc từ giấc mơ. Cô nhìn kỹ vào người tù: cậu vấp vào sợi dây và ngã xuống đất, tay cậu bị cột ra sau lưng. Đó là William Hamleigh.
        Một người nào đó ở phía trước nhổ vào cậu. Một đám đông lớn tụ tập trong khu chợ. Hầu hết mọi người vui vì nhìn William lần cuối, và ngay cả những người không có ác cảm với cậu cũng cảm thấy khác thường để xem một cựu cảnh sát trưởng bị treo cổ. Nhưng William đã tham dự vào những vụ giết người khét tiếng nhất mà mọi người có thể nhớ.
        Phản ứng về vụ ám sát Tổng giám mục Thomas vượt qua sức tưởng tượng của mọi người. Aliena chưa bao giờ trải qua những kinh nghiệm tương tự như thế. Tin tức lan truyền nhanh như cháy rừng xuyên qua toàn bộ các nước Ki Tô giáo, từ Dublin tới Jerusalem và từ Toledo tới Oslo. Giáo hoàng lui vào để tang. Một nửa lục địa của vương quốc vua Henry ở dưới lệnh cấm, có nghĩa là tất cả các nhà thờ đều đóng cửa và không còn giờ lễ, ngoại trừ bí tích rửa tội. Ở Anh, dân chúng đã bắt đầu hành hương đến Canterbury, như thể nó là một đền thánh như Santiago de Compostela. Còn có nhiều phép lạ. Nước pha với máu của vị tử đạo và vải từ chiếc áo khoác Thomas đã mặc khi ông bị giết chữa nhiều bệnh tật, không những ở Canterbury mà còn trên toàn nước Anh.
        Người của William đã cố ăn cắp xác ở nhà thờ chính tòa, nhưng các tu sĩ đã cảnh giác và giấu nó; và bây giờ nó được giữ trong một mái vòm bằng đá, và khách hành hương phải chui đầu qua một lỗ hổng trong tường để hôn quan tài bằng cẩm thạch.
        Đó là tội ác cuối cùng của William. Cậu vội vã trở về Shiring, nhưng Tommy đã bắt cậu, buộc tội cậu phạm thánh và cậu bị kết tội bởi tòa án của Giám mục Philip. Thông thường không ai dám kết án một cảnh sát trưởng, vì ông là nhân viên cao cấp của triều đình, nhưng trong trường hợp này mọi chuyện ngược lại: không ai, ngay cả nhà vua, dám bảo vệ một trong những người đã giết Becket.
        William có một kết thúc tồi tệ.
        Mắt cậu hoang dại và nhìn vào khoảng trống, miệng cậu mở ra và chẩy nước dãi. Cậu rên rỉ từng hồi. Trên mặt trước của áo dài có một vết bẩn chứng tỏ cậu đã đái ra.
        Aliena nhìn kẻ thù lâu đời của cô loạng choạng đi đến giá treo cổ. Cô nhớ lại chàng trai trẻ, kiêu ngạo, nhẫn tâm hãm hiếp cô ba mươi lăm năm về trước. Thật khó có thể tin rằng cậu lại trở thành một sinh vật rên rỉ, khiếp sợ như cô thấy bây giờ. Ngay cả khi cậu là một hiệp sĩ già thất vọng, béo phì, bị bệnh gút, cậu cũng không giống như lúc này. Cậu bắt đầu chiến đấu và hét lên khi cậu đến gần giàn giáo. Các binh lính lôi cậu đi như lôi một con heo đến lò mổ. Trong trái tim, Aliena không thấy thương hại cậu: tất cả những gì cô cảm thấy là nhẹ người. William sẽ chẳng bao giờ làm ai khiếp đảm nữa.
        Cậu đấm đá và la hét khi cậu được nhấc bổng lên chiếc xe bò. Cậu trông như một con vật, mặt đỏ, hoang dại và bẩn thỉu; nhưng cậu lắp bắp, rên rỉ và kêu ca như một đứa bé. Phải cần bốn người giữ cậu, trong khi người thứ năm tròng dây thòng lọng vào cổ cậu. Cậu vùng vẫy chống lại quá mạnh đến nỗi nút thắt chặt lại trước khi cậu rơi mình xuống, và cậu tự siết cổ cậu bằng chính nỗ lực của cậu. Các người lính lui lại. William quằn quại, nghẹt thở, khuôn mặt phệ của cậu biến thành màu tím.
        Aliena nhìn một cách kinh hoàng. Ngay cả trong lúc giận và hận nhất, cô cũng không mong cậu có một cái chết như thế này.
        Không có tiếng ồn. William chết nghẹn và đám đông vẫn đứng. Ngay cả bọn con trai cũng lặng thinh trước cảnh tượng kinh khủng này.
        Ai đó đánh vào hông con bò và các con thú đi về phía trước. Sau cùng William rơi xuống, nhưng cái rơi không làm gẫy cổ cậu, và cậu treo lơ lửng trên đầu sợi dây, chậm rãi nghẹt thở. Mắt cậu vẫn mở. Aliena cảm thấy cậu đang nhìn cô. Vẻ nhăn nhó trên khuôn mặt cậu khi cậu bị treo ở đó, quằn quại trong đau đớn, rất quen thuộc đối với Aliena, và cô nhận ra rằng cậu trông giống như khi cậu cưỡng hiếp cô, ngay lúc cậu sắp lên đến đỉnh. Ký ức đâm cô như một con dao, nhưng cô không để mình nhìn đi chỗ khác.
        Nó kéo dài lâu nhưng đám đông hoàn toàn im lặng. Mặt cậu sẫm hơn và sẫm hơn. Sự quằn quại đau đớn của cậu trở thành sự co giật. Sau cùng mắt cậu lộn ngược lên, mi mắt đóng lại, cậu bất động, và rồi, một cách ghê tởm, lưỡi cậu thè ra, đen và sưng lên, giữa hai hàm răng.
        Cậu đã chết.
        Aliena không còn nước mắt. William đã thay đổi đời cô – lúc trước cô sẽ nói: cậu phá hủy đời cô –và bây giờ cậu đã chết và không còn có thể làm tổn thương cô hay bất cứ người nào khác.
        Đám đông bắt đầu đi về. Các đứa trẻ trêu nhau, bắt chước cái chết ghê tởm của William, chúng lộn mắt lên và thò lưỡi ra. Một người lính trèo lên giàn giáo và cắt William xuống.
        Aliena bắt gặp ánh mắt con trai cô. Cậu ngạc nhiên khi thấy cô. Cậu đi ngay đến cô và cúi xuống hôn cô. Con tôi, cô nghĩ, con trai lớn của tôi. Con của Jack. Cô nhớ lại cô đã kinh hoàng như thế nào khi nghĩ rằng cô có thể có con với William. Vâng, một số điều đã trở thành tốt đẹp.
        “Con nghĩ mẹ không muốn đến đây hôm nay,” Tommy nói.
        “Mẹ phải,” cô nói. “Mẹ phải nhìn cậu ấy chết.”
        Cậu giật mình. Cậu không hiểu, thực sự không hiểu. Cô vui. Cô hy vọng cậu sẽ chẳng bao giờ phải hiểu những việc như thế.
        Cậu vòng tay qua cô và hai mẹ con cùng nhau ra khỏi quảng trường.
        Aliena không quay nhìn lại.
         
         
        Vào một ngày nóng giữa mùa hè, Jack ăn trưa với Aliena và Sally trên hành lang bên trên gian ngang phía bắc mát mẻ. Họ ngồi trên các phiến thạch cao trên nền vẽ của cậu. Âm thanh của các tu sĩ hát giờ kinh ba trong nhà nguyện là những tiếng thì thầm thấp như tiếng thác nước chẩy ở nơi xa. Họ có sườn cừu nguội với bánh mì trắng mới và một bình bia vàng. Jack đã dành buổi sáng phác thảo nhà nguyện mới mà cậu sẽ bắt đầu xây năm tới. Sally cắn miếng sườn với hàm răng trắng trong khi cô quan sát bản vẽ. Một lúc nào đó cô sẽ góp ý phê bình về nó, cậu biết. Cô liếc nhìn Aliena. Cô đọc được nét mặt của Sally và cô biết điều gì sẽ đến.
        “Tại sao bố lại muốn đầu phía đông tròn?” Sally hỏi.
        “Bố dựa trên thiết kế của nhà thờ Sant-Denis,” Jack nói.
        “Nó có lợi điểm nào?”
        “Vâng, nó dễ dàng cho khách hành hương di chuyển xung quanh.”
        “Vì thế bố chỉ có hàng cửa sổ nhỏ này.”
        Jack đã nghĩ cô sẽ nói về cửa sổ ngay, vì cô là một thợ kính. “Cửa sổ nhỏ?” cậu nói, làm như cậu phẫn nộ. “Những cửa sổ này rất lớn! Lần đầu tiên khi bố đặt cửa sổ kích thước này vào nhà thờ, dân chúng nghĩ rằng toàn bộ tòa nhà sẽ đổ vì những bức tường không đủ mạnh để đứng vững.”
        “Nếu nhà nguyện vuông ở đầu, bố sẽ có bức tường phẳng rất lớn,” Sally cứng đầu. “Bố có thể có những cửa sổ thực sự lớn.”
        Cô có lý, Jack nghĩ. Với phần đầu tròn toàn thể nhà nguyện phải có cùng chiều cao liên tục, chia thành ba lớp truyền thống: đường đi mái vòm, hành lang phía trên và khu có cửa sổ trên cao nữa. Phần đầu vuông cho phép nhà nguyện thay đổi kiến trúc. “Có thể có cách khác để cho khách hành hương di chuyển,” cô nói trầm ngâm.
        “Và ánh sáng mặt trời sẽ chiếu qua cửa sổ lớn,” Sally nói.
        Jack có thể mường tượng nó. “Có thể có một hàng cử sổ cao, thanh, giống như những thanh giáo trong giá.”
        Sally nói: “Hay một cửa sổ to tròn giống như một đóa hoa hồng.”
        Đó là một ý tưởng tuyệt vời. Một người nào đó đứng trong gian giữa, nhìn xuống nhà thờ về hướng đông, chiếc cửa sổ tròn sẽ giống như một mặt trời lớn nổ bung ra thành vô số mảnh vỡ của màu sắc tuyệt đẹp. Jack có thể thấy nó. “Bố tự hỏi không biết các tu sĩ chọn chủ đề nào.”
        “Mười điều răn và các tiên tri,” Sally nói.
        Cậu nhíu mày nhìn cô. “Này con cáo già khôn ngoan! Con đã thảo luận ý tưởng này với Tu viện trưởng Jonathan rồi phải không?”
        Cô cảm thấy có lỗi, nhưng cô không phải trả lời câu hỏi đó vì Peter Chisel, một thợ khắc đá trẻ, đã đến. Cậu là một người đàn ông nhút nhát, vụng về với mái tóc đẹp rũ xuống mắt, nhưng những trạm khắc của cậu rất đẹp, và Jack may mắn có cậu. “Tôi có thể làm gì cho cậu, Peter?” cậu hỏi.
        “Thực ra, tôi đi tìm Sally,” Peter nói.
        “Được, cô ấy đây.”
        Sally đứng lên, giũ bánh mì vụn ra khỏi áo dài của cô. “Chút nữa con về,” cô nói, sau đó cô và Peter đi qua ô cửa thấp và xuống cầu thang xoắn.
        Jack và Aliena nhìn nhau.
        “Cô bé đỏ mặt, phải không?” Jack hỏi.
        “Em hy vọng như vậy,” Aliena nói. “Trời ơi! Đã đến lúc nó phải yêu ai chứ. Nó đã hai mươi sáu rồi.”
        “Vâng, vâng. Anh đã không còn hy vọng. Anh nghĩ nó muốn thành một người giúp việc già.”
        Aliena lắc đầu. “Không. Sally tràn đầy sức sống như những người khác. Cô ấy chỉ kén chọn.”
        “Có phải vậy không?” Jack nói. “Các cô gái trong miền không muốn lấy Peter Chisel.”
        “Các cô gái trong miền thích những người đàn ông to lớn đẹp trai như Tommy, người có thể nhẩy lên lưng ngựa và khoác áo choàng với viền bằng lụa đỏ. Sally lại khác. Cô muốn người khôn ngoan và tình cảm. Peter là mẫu người cho cô.”
        Jack gật đầu. Cậu chưa bao giờ nghĩ về nó theo cách đó, nhưng bằng trực giác cậu cảm thấy rằng Aliena đúng. “Sally giống như bà nội của cô” cậu nói. “Mẹ anh cũng yêu một người kỳ cục.”
        “Sally giống mẹ anh, và Tommy giống bố em,” Aliena nói.
        Jack mỉm cười với cô. Cô đẹp hơn mọi khi. Tóc cô đã nhuốm hoa râm, và da cổ cô không còn mịn màng như tấm đá cẩm thạch. Nhưng khi lớn tuổi, cô không còn mập và nét mặt đẹp của cô càng tỏ lộ rõ ràng, cho cô một vẻ đẹp thanh bạch, giầu tính nghệ thuật. Jack đưa tay ra và sờ lên cằm cô. “Giống như trụ tường có cánh của anh,” cậu nói.
        Cô mỉm cười.
        Cậu đưa tay xuống cổ và trên ngực cô. Ngực cô cũng thay đổi nữa. Cậu còn nhớ ngày trước chúng vươn ra khỏi lồng ngực và núm vú hướng lên. Rồi, khi cô mang thai, chúng đã to hơn, và núm vú trở nên rộng hơn. Bây giờ chúng thấp và mềm, và chúng lắc lư từ bên này sang bên kia khi cô đi. Cậu vẫn yêu chúng mặc cho những thay đổi. Cậu tự hỏi chúng sẽ ra sao khi cô già. Chúng sẽ nhăn nheo và có đầy nếp nhăn không? Có lẽ ngay cả như vậy tôi vẫn yêu chúng, cậu nghĩ. Cậu cảm thấy núm vú cô cứng hơn dưới ngón tay cậu. Cậu vươn người về phía trước và hôn cô.
        “Jack, anh đang ở trong nhà thờ,” cô thầm thì.
        “Không sao,” cậu nói, và cậu chà tay qua bụng đến háng cô.
        Có tiếng bước chân trên bậc thang.
        Cậu bỏ tay ra, cảm thấy tội lỗi.
        Cô cười vì sự bối rối của cậu. “Chúa sẽ phán xét anh,” cô nói.
        “Anh sẽ gặp em ở đó,” cậu giả giọng đe dọa.
        Bước chân lên đến đỉnh cầu thanh và Tu viện trưởng Jonathan bước vào. Cậu chào họ một cách nghiêm trang. “Tôi có điều muốn nói với anh, Jack,” cậu nói. “Anh có thể vào tu viện không?”
        “Dĩ nhiên.” Jack đứng lên.
        Jonathan đi xuống cầu thang xoắn.
        Jack dừng lại ở ô cửa và chỉ ngón tay đe dọa về phía Aliena. “Một chút nữa,” cậu nói.
        “Hứa nhé?” cô nói với một nụ cười.
        Jack theo Jonathan xuống cầu thang và đi qua nhà thờ tới cửa vào gian ngang phía nam, ở đó có đường vào tu viện. Họ đi theo bức tường phía bắc, ngang qua các học sinh đang học với bảng bằng sáp, và dừng lại ở góc. Với một cái hất đầu, Jonathan hướng sự chú ý của Jack vào một tu sĩ đang ngồi một mình trên băng đá ở bức tường phía tây. Chiếc mũ trên đầu vị tu sĩ che khuôn mặt ông, nhưng khi họ dừng lại, vị tu sĩ quay lại, nhìn lên, và rồi nhanh chóng quay mặt đi.
        Bất ngờ Jack lui lại một bước.
        Vị tu sĩ là Waleran Bigod.
        Jack tức giận nói: “Con quỷ này làm gì ở đây?”
        “Chuẩn bị gặp đấng dựng nên ông,” Jonathan nói.
        Jack cau mày. “Tôi không hiểu.”
        “Ông ấy là một người tuyệt vọng,” Jonathan nói. “Ông ấy không còn địa vị, không còn quyền lực và không còn bạn bè. Ông nhận ra rằng Thiên Chúa không muốn ông là một giám mục vĩ đại và quyền lực. Ông ấy đã nhìn ra sai lầm. Ông ấy đến đây, đi bộ, và xin được làm một tu sĩ khiêm tốn để dành phần còn lại của cuộc đời xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ông.”
        “Tôi không tin được,” Jack nói.
        “Lúc đầu, tôi cũng vậy,” Jonathan nói. “Nhưng sau đó tôi nhận ra rằng ông ấy luôn luôn là người kính sợ Chúa.”
        Jack nghi ngờ.
        “Tôi nghĩ thực sự ông là một người ngoan đạo. Ông chỉ có một sai lầm quan trọng: ông ấy tin rằng mục đích biện minh cho phương tiện trong việc phục vụ Thiên Chúa. Điều đó cho phép ông được làm bất cứ việc gì.”
        “Ngay cả việc âm mưu ám sát một tổng giám mục!”
        Jonathan giơ tay lên trong một cử chỉ tự vệ. “Thiên Chúa phải xử ông về việc đó – không phải tôi.”
        Jack nhún vai. Philip cũng thường nói như vậy. Jack không thấy lý do để cho Waleran sống trong tu viện. Tuy nhiên đó là đường lối của các tu sĩ. “Tại sao anh muốn tôi gặp ông ấy?”
        “Ông ấy muốn kể cho anh tại sao họ đã treo cổ bố anh.”
        Jack lạnh người.
         
         
        Waleran vẫn ngồi bất động như pho tượng, nhìn vào khoảng trống. Ông đi chân không. Dưới đường viền của tu phục bằng vải thô tự dệt, xương trắng bệch yếu ớt của ông hiện ra rõ ràng. Jack nhận ra Waleran không còn đáng sợ. Ông yếu ớt, thất trận và buồn bã.
        Jack chậm rãi đi về phía ông và ngồi xuống trên ghế băng, xa ông một bộ.
        “Vua Henry cũ quá mạnh mẽ,” Waleran nói không mào đầu. “Một số các nam tước không thích thế, vì họ bị hạn chế. Họ muốn lần sau sẽ có một vị vua yếu hơn. Nhưng Henry chỉ có một người con trai: William.”
        Tất cả những điều đó là lịch sử xa xưa. “Đó là trước khi tôi sinh ra,” Jack nói.
        “Bố cậu chết trước khi cậu sinh ra,” Waleran nói, với một chút kiêu hãnh cũ của ông.
        Jack gật đầu. “Vậy xin tiếp tục.”
        “Một nhóm các nam tước quyết định giết con trai William của Henry. Suy nghĩ của họ là nếu không có người kế vị rõ ràng, họ sẽ có nhiều ảnh hưởng hơn trong việc chọn lựa vua mới.”
        Jack quan sát khuôn mặt gầy gò, nhợt nhạt của Waleran để xem ông có xảo trá không. Người đàn ông già trông rất mệt mỏi, nản chí và hối hận. Jack không thấy có dấu hiệu gì là ông có điều gì bí mật. “Nhưng William chết trong vụ đắm thuyền của ‘Con thuyền trắng’,” Jack nói.
        “Vụ đắm thuyền đó không phải là một tai nạn,” Waleran nói.
        Jack giật mình. Nó có thể là sự thật sao? Có phải người kế vị ngai vàng bị ám sát chỉ vì một nhóm các nam tước muốn có một vị vua yếu không? Nhưng nó không gây sốc hơn vụ ám sát một tổng giám mục. “Tiếp tục đi,” cậu nói.
        “Người của các nam tước đánh đắm tàu rồi trốn đi trong một chiếc thuyền. Mọi người khác đều chết đuối, ngoại trừ một người đã bám vào cột buồm và trôi dạt vào bờ biển.”
        “Đó là bố tôi,” Jack nói. Cậu bắt đầu hiểu Waleran muốn dẫn đi đâu.
        Khuôn mặt Waleran trắng bệch và môi ông không còn giọt máu. Ông nói không cảm xúc và không nhìn Jack. “Ông đến một bờ biển gần một lâu đài. Lâu đài đó lại thuộc về một trong những kẻ chủ mưu và họ đã bắt ông. Ông không quan tâm đến việc tố cáo họ. Thực vậy, ông chẳng nhận ra rằng con tàu bị đánh chìm. Nhưng ông đã nhìn thấy những điều mà nó có thể tiết lộ sự thật cho người khác, nếu ông được tự do và kể về những gì ông thấy. Vì thế họ bắt cóc ông, đưa ông tới nước Anh, và giao cho một số người tin tưởng lo cho ông.”
        Jack buồn rã rượi. Tất cả những gì bố cậu muốn làm là mua vui cho người khác, mẹ cậu nói như thế. Nhưng có vài điều mới lạ trong câu truyện của Waleran. “Tại sao họ không giết ông ngay?” Jack hỏi.
        “Họ nên làm như thế,” Waleran nói dứt khoát. “Nhưng ông là người vô tội, một người hát rong, một người làm cho người khác được vui. Vì thế họ không dám giết ông.” Waleran cười nhạt. “Ngay cả những người tàn nhẫn nhất cũng có một số ngại ngùng.”
        “Vậy tại sao họ lại thay đổi ý định?”
        “Bởi vì sau cùng ông đã trở thành nguy hiểm, ngay cả ở đây. Lúc đầu ông không nguy hiểm - ngay cả ông không nói được tiếng Anh. Nhưng ông đã học, dĩ nhiên, và ông bắt đầu kết bạn. Vì thế họ đã nhốt ông trong nhà tù dưới nhà ngủ của tu viện. Rồi người ta bắt đầu hỏi tại sao ông bị nhốt. Ông trở thành sự lo lắng. Họ nhận ra rằng họ sẽ chẳng nghỉ ngơi được bao lâu ông còn sống. Vì thế sau cùng họ bảo chúng tôi giết ông.”
        Quá dễ dàng như thế, Jack nghĩ. “Nhưng tại sao ông vâng lời họ?”
        “Cả ba chúng tôi đều tham vọng,” Waleran nói, và lần đầu tiên nét mặt ông biểu lộ cảm xúc, khi miệng ông nhăn lại tỏ vẻ hối hận. “Percy Hamleigh, Tu viện trưởng James và tôi. Mẹ cậu nói sự thật – chúng tôi, tất cả đều được thưởng công. Tôi trở thành tổng đại diện, và nó là một khởi đầu tốt đẹp cho con đường tiến thân của tôi trong giáo hội. Percy Hamleigh trở thành một điền chủ lớn. Tu viện trưởng James nhận được sự hỗ trợ cần thiết cho tài sản tu viện.”
        “Và các nam tước?”
        “Sau vụ đắm tàu, Henry bị tấn công trong ba năm sau đó bởi Fulk thành Anjou, William Clito ở Normandy và vua nước Pháp. Đã có lúc ông yếu thế. Nhưng ông đánh bại kẻ thù và cai trị thêm được mười năm nữa. Khi qua đời, ông không để lại người con trai nối ngôi nào. Stephan lên nối ngôi và triều đại của ông là triều đại mà các nam tước mong muốn. Trong hai thập kỷ nội chiến, các nam tước cai trị giống như vua trong lãnh thổ của họ mà không có thẩm quyền trung ương nào kiềm chế họ.”
        “Và bố tôi đã chết cho điều đó.”
        “Ngay cả điều đó trở thành chua chát. Hầu hết các nam tước này chết trong cuộc chiến, và một vài con của họ cũng vậy. Và lời nói dối chúng tôi loan ra trong vùng để có cớ giết bố cậu, sau cùng đã trở lại ám ảnh chúng tôi. Mẹ cậu nguyền rủa chúng tôi sau khi bố cậu bị tử hình, và lời nguyền rủa của bà có tác dụng. Tu viện trưởng James bị hủy hoại bởi sự nhận thức về những gì ông đã làm, đúng như Remigius nói trong tòa án. Percy Hamleigh chết trước khi sự thật được tiết lộ, nhưng con ông bị treo cổ. Và hãy nhìn tôi: Lời khai man của tôi cách đây năm mươi năm đã quay ngược lại tôi và đã chấm dứt con đường công danh của tôi.” Waleran kiệt sức, như thể sự cố gắng tự kiềm chế mình đã làm ông căng thẳng khủng khiếp. “Tất cả chúng tôi đều sợ mẹ cậu, bởi vì chúng tôi không biết rõ bà biết những gì. Sau cùng chúng tôi biết bà biết không nhiều, nhưng như thế cũng đủ.”
        Jack cảm thấy khô miệng. Sau cùng cậu đã biết sự thật về bố cậu, một điều mà cậu đã muốn biết trong suốt đời cậu. Giờ đây cậu không thể cảm thấy tức giận hay thù hận. Cậu chẳng bao giờ biết người bố thật của cậu, nhưng cậu đã có Tom, người đã cho cậu niềm đam mê về xây dựng. Đó là niềm đam mê thứ hai trong đời cậu.
        Jack đứng lên. Những biến cố quá xa trong quá khứ để làm cậu khóc. Từ lúc đó đến nay đã có nhiều chuyện xẩy ra, và hầu hết chúng đều tốt.
        Cậu nhìn xuống người đàn ông già, buồn rầu đang ngồi trên băng ghế. Trớ trêu thay, người bây giờ phải chịu đựng sự cay đăng về hối hận lại là Waleran. Jack thương hại ông. Thật khủng khiếp, Jack nghĩ, khi biết mình già đi và thấy cuộc đời mình là những sai lầm. Waleran nhìn lên, và lần đầu tiên ánh mắt họ gặp nhau. Waleran ngần ngại và quay đi, như thể ông bị tát vào mặt. Lúc đó Jack có thể đọc được suy nghĩ của ông, và cậu nhận ra rằng Waleran đã nhìn thấy sự thương hại trong mắt cậu.
        Và đối với Waleran, sự thương hại của kẻ thù của ông là sự sỉ nhục nhất.
         
         
        IV
         
        Philip đứng ở cổng phía tây của thành phố Canterbury, thành phố cổ kính của Ki Tô giáo. Ông mang đầy đủ dấu hiệu biểu trưng màu sắc lộng lẫy của một giám mục nước Anh, và cầm cây gậy giám mục có cẩn đá quý. Trời đổ mưa.
        Ông sáu mươi sáu tuổi, và trời mưa lạnh đến xương ông. Đây là lần cuối cùng ông liều lĩnh đi xa nhà như thế. Nhưng không gì trên thế giới có thể làm ông bỏ qua ngày này. Một cách nào đó, nghi thức hôm nay sẽ phong vương công việc đời ông.
        Từ ngày ám sát lịch sử Tổng giám mục Thomas đến nay là ba năm rưỡi. Trong khoảng thời gian ngắn đó sự tôn sùng thần bí về Thomas Becket đã lan truyền đi khắp nơi trên thế gới. Philip không tưởng tượng được những gì ông đã bắt đầu khi ông dẫn đầu đoàn rước nến nhỏ đó xuyên qua các đường phố Canterbury. Giáo hoàng đã tôn phong Thomas lên hàng thánh một cách nhanh chóng. Thậm chí còn có một dòng mới của các tu sĩ hiệp sĩ ở Đất Thánh được gọi là các Hiệp sĩ của thánh Thomas thành Acre. Vua Henry không thể chống lại một phong trào phổ biến mạnh mẽ như thế. Nó quá mạnh để bất cứ một cá nhân nào có thể chống lại được.
        Đối với Philip, tầm quan trọng trong toàn bộ hiện tượng này nằm trong việc nó nói lên sức mạnh thực sự. Cái chết của Thomas đã tỏ ra rằng, trong cuộc xung đột giữa giáo hội và triều đình, triều đình có thể luôn luôn chiếm ưu thế vì sử dụng sức mạnh bạo lực. Nhưng sự tôn sùng Thánh Thomas chứng tỏ rằng một cuộc chiến thắng như thế luôn luôn là một cái trống rỗng. Quyền lực của một vị vua không tuyệt đối: nó có thể bị hạn chế bởi ý muốn của dân chúng. Sự chuyển biến này đã diễn ra trong quãng đời của Philip. Ông không chỉ chứng kiến nó, ông còn đóng góp cho nó. Và buổi lễ hôm nay sẽ tưởng nhớ đến nó.
        Một người chắc nịch với chiếc đầu to đang đi trong mưa về hướng thành phố. Ông không có giày hay mũ. Ở một khoảng xa đàng sau ông, một nhóm người cưỡi ngựa theo ông.
        Người đàn ông đó là Vua Henry.
        Đám đông yên lặng như trong một tang lễ, trong khi vua ướt đẫm nước mưa đi bộ qua bùn tới cổng thành phố.
        Philip bước vào con đường, theo chương trình đã xếp sẵn, và đi trước nhà vua, dẫn đường vào nhà thờ chính tòa. Henry theo sau, đầu cúi xuống. So với vẻ tự mãn thông thường của ông, thái độ của ông hôm nay là hình ảnh của sự ăn năn. Dân chúng kinh hoàng lặng im nhìn vào vị vua nước Anh đang hạ mình trước mắt họ. Đoàn tùy tùng của vua theo xa xa.
        Philip dẫn ông chậm rãi qua cổng nhà thờ chính tòa. Cánh cửa vĩ đại của nhà thờ lộng lẫy mở rộng. Họ bước vào, một cuộc rước trang trọng của hai người, là cực điểm của cuộc khủng hoảng chính trị của thế kỷ. Gian giữa chật kín. Đám đông dạt ra cho họ đi qua. Dân chúng thì thầm, choáng váng khi thấy vị vua tự hào nhất trong thế giới Ki Tô giáo, ướt sũng, đi vào nhà thờ như một người ăn xin.
        Họ đi từ từ theo gian giữa và xuống bậc vào nhà nguyện dưới hầm. Ở đó, bên cạnh ngôi mộ mới của vị tử đạo, các tu sĩ của Canterbury đang đợi, trong số họ có các giám mục lớn nhất và uy quyền nhất cùng với các viện phụ trong vương quốc.
        Nhà vua quỳ trên nền nhà.
        Kẻ nịnh thần của ông vào nhà nguyện sau ông. Trước mặt mọi người, Henry của nước Anh, tên thứ hai của ông, thú nhận tội của ông và nói rằng ông là nguyên nhân gây nên cuộc ám sát Thánh Thomas.
        Sau khi đã thú tội ông cởi áo choàng ra. Phía trong ông mặc một áo dài xanh và một áo sơ mi bằng lông. Ông lại quỳ xuống, giơ lưng ra.
        Giám mục thành London uốn cong cây roi.
        Nhà vua bị đánh đòn.
        Ông phải chịu năm đòn từ mỗi linh mục và ba đòn từ các tu sĩ hiện diện. Đánh đòn chỉ là tượng trưng, dĩ nhiên, vì nếu tám mươi tu sĩ hiện diện đánh thật, nhà vua chẳng sống sót nổi.
        Giám mục thành London đụng lưng nhà vua năm lần nhẹ nhàng với cây roi. Rồi ông quay lại, đưa cây roi cho Philip, giám mục thành Kingsbridge.
        Philip bước tới để đánh đòn nhà vua. Ông vui vì vẫn còn sống để chứng kiến biến cố này. Từ hôm nay, ông nghĩ, thế giới sẽ chẳng bao giờ như cũ nữa.
         
        #19
          Ct.Ly 18.01.2017 02:21:59 (permalink)
          #20
            Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 20 trên tổng số 20 bài trong đề mục
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9