BẠCH HỔ TINH QUÂN -Ưu Đàm Hoa -Tập 1 -đả tự : Trần Da Trâu 2018
trandatrau 27.10.2018 03:22:35 (permalink)
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
Chương 1
 
Đầu thu năm canh Tuất, võ lâm Trung nguyên tổ chức đại hội để bầu tân Minh chủ thay cho vị tiền nhiệm mới qua đời hồi xuân trước, đại hội kéo dài năm ngày và cuối cùng thì Lư Châu đại hiệp đã đoạt được ngôi vị cao quý nhất võ lâm. Lư Châu đại hiệp Âu Dương Mẫn tuổi tròn thập tứ, đại phú hộ ở thành Hợp Phì. Nổi tiếng là người trượng nghĩa, tốt bụng, dung mạo lại tuấn tú, đường chính cho nên việc ông ta trở thành Minh chủ đã khiến võ lâm cùng hào kiệt Tam sơn Ngũ nhạc rất hài lòng và yên tâm.
Nhưng hỡi ơi, hai năm sau thì cả võ lâm mới té ngửa ra rằng mình đã nhìn lầm người! Vị Minh chủ đáng kính họ Âu Dương kia đã tận dụng đặc quyền can thiệp vào việc nội bộ của các môn phái mà khống chế cả giang hồ trừ sáu phái Bạch đạo trong Hội đồng Võ lâm, mấy trăm bang hội lớn nhỏ từ bắc chí nam đều phải tuyệt đối phục tùng Minh chủ, đến mức chẳng còn chút tự do, độc lập nào hết.
Ngay cả việc lập người kế vị trong các bang phái cũng phải được sự đồng ý của Âu Dương Mẫn.
Đã có vài môn phái phản kháng sự độc đoán quá đáng của Lư Châu đại hiệp nhưng đều bị tàn sát. Âu Dương Mẫn xảo quyệt vô song, ngoài mặt giương cao ngọn cờ chính nghĩa, song bên trong thi hành những thủ đoạn mờ ám, lão thường dùng kế vu khống vu cáo, tạo lý do để tiêu diệt kẻ cứng đầu. Tất nhiên là tài sản của nạn nhân đều lọt cả vào tay ngài Minh chủ. Lòng tham của Âu Dương Mẫn còn được biểu hiện trong cách quy định những khoản đóng góp hàng năm cho ngân sách Tổng đàn Võ lâm. Trước nay, việc này hoàn toàn tùy thuộc vào hảo ý của các phái trong thiên hạ nhưng giờ thì đã khác. Âu Dương minh chủ tùy theo thu nhập của từng bang hội mà đòi hỏi y như đóng thuế vậy. Có lúc, khoản thuế chết tiệt ấy lên đến một phần ba. Đồng tiền liền khúc ruột nên tất nhiên có người không chịu nộp và chỉ một hai tháng sau thì hào kiệt ấy đã đột ngột qua đời, thân thể không thương tích và môi còn nở một nụ cười quái dị. Sau vài vụ như thế, không ai dám bủn xỉn trong đóng góp cho Tổng đàn Võ lâm nữa. Nhưng đối với một vài bang phái có chỗ dựa vững chắc là quan lại hoặc cao thủ lão làng thì Âu Dương Mẫn lờ đi, sau này mới tính sổ. Lão xảo quyệt chẳng thua gì Tào Tháo.
Không chỉ dừng lại ở đây, Âu Dương Mẫn còn tích cực chinh phạt giới Hắc đạo với chiêu bài “giáng ma vệ đạo”, nhưng mục tiêu của lão thường là những kẻ đã hoàn lương nhiều năm không làm ác nữa. Lý do là vì bọn người ấy luôn có được một số tài sản khá lớn.
Thế là lần đầu tiên trong lịch sử võ lâm Trung nguyên có được một vị Minh chủ mà cả hai phe Hắc, Bạch đều chán ghét. Nhưng họ chỉ có thể nguyền rủa, trù ẻo cho Âu Dương Mẫn bị trời đánh chết chứ không thể nào hạ bệ được lão ta. Âu Dương Mẫn võ nghệ siêu quần bạt tụy, đáng xưng thiên hạ vô địch. Ngoài tài đánh kiếm thượng thừa, lão ta còn sở trường công phu “Thiết Sa chưởng” hai bàn tay rắn như thép nguội, không sợ gươm đao. Năm trăm thủ hạ dưới trướng Âu Dương Mẫn cũng là những cao thủ kiệt xuất và kiên dũng. Nổi bậc nhất trong đám ấy là mười gã đệ tử thân tín, võ công thuộc hàng nhất lưu lúc nào cũng cận kề để bảo vệ cho sư phụ. Do đó, việc ám sát Âu Dương Mẫn rất khó khăn. Lão ta còn là chỗ quen biết với quan thái sư đương triều nên dẫu cho Hội đồng Võ lâm có gửi tấu chương về kinh sư tố cáo thì cũng vô ích. Tóm lại : Âu Dương Mẫn vững như bàn thạch, tha hồ tác oai tác quái.
Oán khí ngút trời, người người nguyền rủa nên dường như Hoàng Thiên đã động lòng, sai Lôi Thần giáng búa vào nóc Tổng đàn Võ lâm, trên núi Quảng Sơn, phía Tây Nam thành Trịnh Châu. Tia sét kinh hồn ấy phá thủng mái ngói, đánh trúng phòng kế bên ngoại thất của Minh chủ. Âu Dương Mẫn chỉ bị một phen bở vía chứ không hề hấn gì. Tuy nhiên, từ lúc đó, lòng lão nơm nớp lo sợ luật trời. Mỗi lần có mưa là chột dạ.
Nhưng Âu Dương Mẫn không vì thế mà phế bỏ tham vọng để tu nhân tích đức. Lão là người cương cường, cương ngạnh, chủ trương “Nhân định thắng thiên”, nên cố tìm cách đối phó với trời xanh. Và phương pháp duy nhất để chống lại sấm sét chính là viên “Tỵ Lôi thần châu”. Bảo vật này vốn là của Phục Lôi Thần Quân Thương Vô Hoán đất Quỳnh Châu, tức đảo Hải Nam bây giờ. Hải Nam có một địa phương đặc biệt tên là Huyện Đam, là nơi mưa rào nhiều nhất Trung Hoa. Bình quân hàng năm Huyện Đam có 130 ngày sấm sét ầm ầm, ngay cả trong mùa đông, người ta vẫn nghe được những tiếng sấm kinh hồn. Tất nhiên là ở Huyện Đam có khá nhiều người bị sét đánh trúng và đa số đều táng mạng. Nhưng tương truyền rằng Thương Vô Hoán đã từng lãnh những nhát búa của Thiên Lôi mà vẫn chẳng hề trầy vi tróc vẩy. Không những thế nội công của ông ta còn tăng tiến thêm, võ công siêu tuyệt được người đời xưng tụng là Phục Lôi Thần Quân. Nghĩa là viên “Tỵ Lôi thần châu” hoàn toàn có thực song tiếc rằng nó lưu lạc nơi nào thì chẳng rõ. Thương Vô Hoán từ trần đã sáu chục năm, lại không con cháu hay đệ tử để gìn giữ bảo vật. Do đó Âu Dương Mẫn chỉ còn cách nhờ Cái bang điều tra hạ lạc của Tỵ Lôi thần châu và loan tin khắp thiên hạ rằng lão ta sẵn sàng mua bảo vật ấy với giá năm ngàn lượng vàng.
Cả võ lâm biết tin này liền vô cùng cao hứng, hết lời chế giễu vị Minh chủ bị trời đánh hụt kia. Song mặt khác, họ lại ao ước rằng mình có được viên “Tỵ Lôi thần châu” để bán cho lão chết toi Âu Dương Mẫn. Năm ngàn lượng vàng là một tài sản khổng lồ, thừa sức khuấy động lòng tham của con người. Những kẻ thiếu lương tâm trên giang hồ đã ra sức truy tìm “Tỵ Lôi thần châu”. Nếu cướp được thì tốt, bằng như không đủ sức thì đem tin tức ấy bán cho Âu Dương minh chủ, chắc cũng được sáu bảy trăm lượng. Vô hình trung, tai họa chết người đang đe dọa kẻ nào giữ bảo vật. Cố nhân có câu: “Kẻ mang ngọc có tội” quả là chí lý.
Giờ chúng ta sẽ đến cái nơi mà viên “Tỵ Lôi thần châu” có liên quan. Nơi ấy tên gọi là Quách gia trang, một cơ ngơi thanh nhã ở phía tây thành Hứa Xương, cạnh bờ tây sông Thạch Lương và cách cầu Bá Lăng nửa dặm. Cầu Bá Lăng là di tích nổi tiếng đất Hứa Xương, bắc ngang sông Thạch Lương. Nó lừng danh không chỉ vì có lan can cầu bằng đá xanh chạm trổ tinh xảo. Mà còn bởi là nơi Quan Vân Trường thời Tam quốc đã cởi quan phục trả lại Tào Tháo khi hộ tống hai chị dâu tìm về với Lưu Bị. Đầu cầu có tấm bia đá ghi rằng: “Nơi Hán Thọ Đình Hầu cởi áo bào”. Chẳng những thế, bách tính Hứa Xuơng còn xây miếu thờ Quan Công ở phía tây cầu, cạnh miếu có cây bách cao lớn, già nua, chẳng rõ đã bao năm tuổi.
Trong Quách gia trang cũng trồng bách đã mấy đời nên cảnh vật luôn xanh tươi, râm mát. Chủ nhân đương đại của tòa trang viện này là Quách Thiên Tường. Ông sở hữu bảy, tám đại tửu lâu và đại khách điếm trong thành Hứa Xương. Nhưng Thiên Tường đã sớm giao lại việc kinh doanh cho con gái, con rể, hưởng nhàn bên người vợ kế. Quách trang chủ góa vợ hồi bốn mươi lăm tuổi, ba năm sau tục huyền với một nữ nhân tuổi tam thập, tên gọi Kỹ Thanh Lam. Kỹ nương không phải người Hứa Xương, gốc gác ra sao thì ít ai được rõ. Và làm thế nào mà bà trở thành vợ kế của Quách trang chủ cũng chỉ có trời mới biết được. Tuy nhiên, Kỹ nương xinh đẹp phi thường, đức hạnh tuyệt luân, một lòng một dạ yêu thương tôn kính ông chồng già. Và tuyệt diệu nhất là việc bà đã sinh hạ cho Quách Thiên Tường một nam tử để nối dõi tông đường.
Đứa bé ấy được đặt tên là Quách Tử Khuê, cái tên này được xuất phát từ một cố sự ngộ nghĩnh và có phần huyền hoặc. Số là một đêm nọ, Kỹ nương nằm mộng thấy mình lạc đến Thiên cung, đang ngơ ngác giữa những đám mây la đà, thì chứng kiến cảnh một chàng trai áo tía xinh đẹp chọc ghẹo lão Thiên Lôi mỏ nhọn. Lôi Thần nổi giận rượt đuổi và liên tiếp tung búa giáng sấm sét để giết chàng áo tía. Chàng ta sợ hãi chạy dài nhưng xem ra khó thoát. Cuối cùng rồi y cũng chạm mặt Kỹ nương và cười:
- Ta là Khuê tinh trong dãy chòm sao Bạch Hổ. Nay ta lỡ đắc tội với Lôi công, chẳng còn dám lưu lại Thiên đình, đành xuống trần gian làm con của phu nhân vậy.
Dứt lời, Khuê Tinh nhảy đến ôm chặt Kỹ nương. Bà sợ quá thét lên, giật mình tỉnh giấc và kể cho Thiên Tường nghe. Quả nhiên, tháng sau bà phát hiện mình thụ thai.
Tử Khuê được xem là có gốc gác thần tiên nên song thân rất mực cưng chiều, chẳng bao giờ đánh đòn cả. Thực ra thì giấc mơ kia rất đáng tin cậy vì Khuê nhi thông minh xuất chúng học một biết mười, nhưng cậu ta cực kỳ hiếu động, suốt ngày chạy nhảy, miệng cười toe toét, nghịch ngợm, táy máy. Khổ nỗi vì Khuê nhi lại rất vụng về lơ đễnh, đụng đâu bể đó, hủy hoại hàng trăm món đồ cổ đắt giá. Sau mỗi lần như thế Khuê nhi đều tỏ ra áy náy, hối lỗi, tự hứa sẽ thận trọng hơn, nhưng rồi cũng vậy. Đối với nhà đại phú thì những tổn thất vật chất ấy không đáng kể, có điều là Khuê nhi còn cực kỳ xui xẻo, thường xuyên gặp tai họa, bươu đầu sứt trán vì té ngã hoặc va phải vật cứng. Giả như có ai đánh rơi mảnh vỏ chuối hay mảnh sành trong gia trang thì kẻ đạp trúng nhất định phải là Tử Khuê.
Hoặc là nếu trong tám cái ghế trống quanh bàn bát tiên mà có một cái sắp gãy thì cũng chính Tử Khuê đã chọn đúng vị trí ấy.
Vợ chồng Quách Thiên Tường vô cùng rầu rĩ, cho rằng đấy là sự báo thù của Thiên Lôi chứ làm gì có ai xui xẻo đến thế. Kỹ nương là mẹ nên đứt từng khúc ruột mỗi lần thấy con bị đau đớn. Bà liền thóa mạ tổ tông mười tám đời của Lôi Thần và tìm cách bảo vệ đứa con bảo bối. Kỹ Thanh Lam vốn là cao thủ Hắc đạo, lừng lẫy đất Thục với mỹ danh Băng Tâm Ma Nữ. Bà xuất thủ cực kỳ tàn nhẫn, chẳng hề biết xót thương kẻ địch, tựa như có trái tim bằng băng tuyết vậy. Trong vòng mười năm, Kỹ nương đã giết khá nhiều người khiến giới võ lâm Tứ Xuyên phải hãi hùng. Tuy nạn nhân của bà đều là bọn trời đánh thánh vật nhưng Kỹ nương vẫn mang tiếng là ác nhân. Năm ba mươi tuổi, bà vẫn phòng không chiếc bóng vì chẳng có ma nào dám tán tỉnh, cầu hôn. Ngày nọ, Kỹ Thanh Lam chạm trán một vị thiền sư, nghe được lời giáo hóa mà tỉnh ngộ, phong kiếm quy ẩn, thôi không gây thêm sát nghiệp nữa.
Kỹ nương rời Tứ Xuyên để chôn vùi một quá khứ tanh máu. Khi đến Hứa Xương, bà tình cờ gặp lại Quách Thiên Tường, người đã từng được bà cứu mạng ở cạnh bờ sông Gia Lăng. Nghe tâm sự của Thanh Lam, Quách trang chủ liền mời bà về làm khách để đền ơn và cuối cùng đã ngỏ lời cầu hôn.
Giờ đây, vì đứa con bé bỏng, Kỹ nương đã phá bỏ lời thề đem thuật học năm xưa ra sử dụng. Trước tiên, bà không tiếc bạc vàng mua toàn những loại dược thảo quí hiếm, theo bí phương mà bào chế thành linh đan và linh thủy trong uống ngoài thoa, bồi bổ gân cốt và da thịt Tử Khuê.
Sau 5 năm được mẫu thân tài bồi, Khuê nhi đã có một cơ thể rắn chắc, chẳng thể bị tổn thương bởi những cú ngã bất ngờ hay những va chạm ngớ ngẩn cứ xảy ra liên tục. Đồng thời, cậu bé cũng làu thông pho “Nga Mi đạo quyền” một tuyệt học sắp thất truyền. Tại sao có thể thất truyền khi phái Nga Mi vẫn tồn tại và hùng mạnh nhất vùng Tây Thục ? Xin thưa rằng phái Nga Mi hiện nay thuộc Phật giáo chứ không phải Nga Mi Đạo giáo thuở xa xưa. Số là trước đây núi Nga Mi là thánh địa của đạo Lão Trang và các đạo sĩ Nga Mi đã sáng tạo ra một loại võ công rất tuyệt điệu. Khi Phật giáo từ Thiên Trúc truyền vào Trung Hoa thì cả hai tôn giáo ấy cùng tồn tại trên núi Nga Mi. Nhưng đến thời Tống thì Phật giáo hưng thịnh rực rỡ, còn Đạo giáo lại suy tàn đi, chùa chiền tấp nập tín đồ, và đạo quán thì vắng tanh không kẻ cúng dường. Các đạo sĩ Nga Mi biết ở lại sẽ chết đói nên đã bỏ đi nơi khác và núi này trở thành thánh địa Phật giáo, một trong Tứ đại Phật sơn của Trung Hoa. Tăng lữ Vạn Niên tự đã kết hợp tinh thần của hai tôn giáo lại nên võ thuật Nga Mi hiện tại khác với bản gốc ngày xưa. Bằng chứng cho việc này là một tác phẩm của Đường Thuận Chi thời nhà Minh, tên gọi Nga Mi Đạo Nhân Quyền Ca. Trong quyển võ luận này, họ Đường đã miêu tả cụ thể võ học thượng thừa của đạo giáo núi Nga Mi với nhiều tranh minh họa rất sống động. Tóm lại, Kỹ nương may mắn được thụ giáo một đạo nhân thuộc hệ phái đạo giáo Nga Mi ngày trước nên mới biết pho “Nga Mi đạo quyền”. Không những thế, bà còn sở đắc cả pho “Thanh Long kiếm pháp”, một tuyệt học khác của Nga Mi cổ xưa. Đạo giáo Trung Hoa xem Thanh Long là vị thần hộ vệ ở phương Đông, tức là bảy chòm sao Giác, Cang, Đê, Phòng, Tân, Vĩ, Cơ.
Năm năm là một khoảng thời gian khá dài, đủ để Khuê nhi học xong cả hai pho quyền, kiếm của mẫu thân. Mỗi đường quyền cước, mỗi chiêu kiếm đều đòi hỏi sự chính xác cao. Do vậy, võ nghệ đã giúp cho tay chân Khuê nhi không còn vụng về. Cậu bé đã thôi làm vỡ đồ vật, thôi vấp ngã, nhưng vận đen vẫn chẳng chịu buông tha. Cành khô, cứt chim, ngói vỡ vẫn cứ rơi vào cái đầu xui xẻo của Khuê nhi. Còn khi cậu ta gieo xúc xắc thì luôn luôn thua, dầu giao ước lớn ăn hay nhỏ ăn thì cũng thế. Tuy nhiên, nhờ giỏi võ nên Tử Khuê phản ứng nhanh, nhạy thoát khỏi những tai ương quái dị ấy.
Song khủng khiếp thay, đến năm mười ba tuổi thì Khuê nhi bị sét đánh không chỉ 1 mà là những 4 lần, lần nào nhát búa của Lôi thần cũng cách xa Khuê nhi vài trượng song cũng đủ để đứa bé ngã lăn, lông tóc dựng ngược, nằm liệt mấy ngày mới dậy nổi. Đương nhiên nhà cửa cũng bốc cháy và hư hại nặng nề. Vợ chồng Quách Thiên Tường lo lắng đến phát sốt, nhờ đạo quán Thiên Sư trong thành Hứa Xương lập đàn cầu an, van xin Lôi Thần bỏ qua thù oán với Khuê Tinh. Nhưng lão mỏ nhọn chết toi ra vẫn không rộng lượng, cuối mùa thu giáng thêm búa nữa, lần này Khuê nhi vô sự vì đã chui xuống gầm bệ thờ Phật tổ Như lai mà ẩn nấp ngay khi trời đổ mưa.
Song chẳng lẽ Tử Khuê phải suốt đời ru rú trong nhà, quanh quẩn bên tượng Phật ? Cho nên Kỹ nương đã nhớ đến viên “Tỵ Lôi thần châu”. Trời vừa chớm Đông là bà cấp tốc đưa chồng con lên đường đi đến núi Vũ Lương sơn ở vùng đông nam Tứ Xuyên. Khác với Âu Dương Mẫn, Kỹ nương biết chính xác ai là người đang giữ bảo vật.
Vũ Lương sơn là một rặng núi thấp. Chỉ cao độ gần năm trăm trượng và ở đấy có vị đạo sĩ già mang đạo danh Vu Mộc chân nhân, sở hữu “Tỵ Lôi thần châu”. Sau hơn một tháng bôn hành vất vả cỗ xe song mã của nhà họ Quách đã đến Vũ Lương sơn. Để ả tỳ nữ đóng xe ở lại chân núi, ba người dắt díu nhau thượng sơn. Đạo Am của Vu Mộc chân nhân nằm trên một bình đài, cao cách mặt đất độ vài chục trượng. Quanh chiếc am gỗ mái lá đơn sơ là hàng chục cây cổ thụ thân to cỡ hai ba người ôm, tàn lá sum suê. Vu mộc là loài cây vô dụng nhất thế gian, gỗ xấu đến mức chẳng làm được bất cứ vật dụng gì. Song chính vì thế mà cây vu sống rất dai, chẳng ai thèm đốn. May thay, Vu Mộc chân nhân có ở nhà, đang nhâm nhi chén rượu cay với lạc rang. Ông ta chẳng có vẻ gì là một kẻ tu hành đạo hạnh uyên thâm hoặc võ nghệ phi phàm. Người ông gầy như que củi và cao lênh khênh mặt mũi tầm thường da nhăn, tóc bạc, tai vểnh như tai voi, mắt thì sâu hoắm.
Kỹ nương vội chắp tay nghiêng mình thi lễ:
- Đệ tử rất mừng khi thấy sư bá pháp thể an khang.
Vu Mộc chân nhân chắc cũng vui khi gặp lại đệ tử của người sư đệ quá cố nên nở nụ cười tươi rói. Lạ thay, lúc này dung mạo ông hòa ái, rạng rỡ và chẳng còn xấu xí chút nào cả. Kỹ Thanh Lam ngượng ngùng giới thiệu chồng và con. Quách Thiên Tường vòng tay thi đại lễ, còn Tử Khuê quỳ xuống ấp úng:
- Tiểu tôn là Tử Khuê xin bái kiến sư bá tổ.
Chân nhân vui vẻ xua tay, mời khách ngồi xuống mấy chiếc đôn gỗ thô kệch. Khuê nhi thủ lễ đứng cạnh mẫu thân chứ không dám ngồi. Vả lại, cậu chẳng chắc rằng cái ghế mà mình chọn có an toàn hay không. Vu Mục chân nhân ngắm nghía gương mặt thanh tú trắng hồng của Tử Khuê mà khen thầm. Sau vài câu xã giao, Kỹ nương liền kể rõ ngọn ngành việc của con mình.
Chân nhân kinh ngạc cau mày nói:
- Này tiểu hài tử! Ngươi bước sang đây, cho bần đạo xem thử!
Tử Khuê ngoan ngoãn vâng lời. Vu Mộc chân nhân cởi cả áo lông lẫn áo trong của cậu bé rồi sờ nắn xương cốt, đầu gật gù lộ vẻ hài lòng. Cuối cùng, ông nắm cổ tay Tử Khuê dùng phép “Thái tố” mà chuẩn đoán hậu vận, bỗng ánh mắt Chân nhân lộ vẻ lo sợ khiến vợ chồng Quách Thiên Tường chột dạ. Chân nhân bảo Khuê nhi mặc y phục lại rồi hỏi bát tự niên canh của Thiên Tường và Kỹ nương. Ông bấm tay tính toán một lúc và thở dài:
- Thằng bé này cốt cách thanh kỳ, căn cơ thượng phẩm, song vận số lại hắc ám, dẫu có đeo “Tỵ Lôi thần châu” thì cũng khó thọ đến quá tuổi mười tám.
Nghe như sét đánh ngang tai, vợ chồng Thiên Tường tái mặt, rời ghế quỳ ngay xuống nền đất nện. Vừa lạy lục, Kỹ nương vừa khóc nói:
- Sư bá là bậc thần tiên pháp lực thông thần, xin hãy nghĩ cách cứu Khuê nhi. Nếu nó vắn số thì điệt nữ cũng chằng còn muốn sống nữa.
Dứt lời, bà phục xuống đát khóc nức nở. Thiên Tường cũng đau lòng đến mức nói chẳng nên lời cứ đập đầu lạy mãi. Khuê nhi thấy vậy cũng ôm lấy mẫu thân mà khóc ròng. Vu Mộc chân nhân nhăn mặt cằn nhằn:
- Thôi được rồi! Đừng khóc nữa, bần đạo đã có cách rồi.
Vợ chồng họ Quách mừng như sống lại, vội đứng lên và Kỹ nương sụt sùi hỏi :
- Dám hỏi sư bá phương cách ấy thế nào?
Vu Mộc chân nhân cười cười đáp:
- Do mạng của Tử Khuê tương khắc với vợ chồng ngươi nên ở chung thì càng mau chết. Vì vậy, thằng bé sẽ ở lại đây làm đệ tử bần đạo, pháp lực của ta sẽ che chở cho Khuê nhi mọi tai kiếp. Song phải qua tuổi mười tám. Lúc đó về thì sẽ hết đen đủi và rất thọ.
Nghe nói phải xa con vợ chồng họ Quách rầu thúi ruột, Thiên Tường liếc quanh cảnh nghèo nàn thiếu thốn trong đạo am mà ngao ngán. Lẽ nào ái tử của lão lại ở chốn khốn khó, hoang vu này ? Lòng mẹ thương con như trời biển nên Kỹ nương quyết định rất nhanh:
- Bẩm sư bá, nếu thế thì diệt nữ cũng ở lại đây, dựng nhà nơi chân núi, ngày hai lần mang cơm nước lên để sư bá và Khuê khi dùng bữa. Có như thế thì thằng bé mới không quá buồn rầu vì phải đột ngột xa từ mẫu.
Dường như Vu Mộc chân nhân cũng biết tài bếp núc thượng thừa của Kỹ nương nên tưởng tượng ngay đến những món ăn thơm ngon, liền nuốt nước miếng, gật đầu chấp nhận:
- Thế cũng được. Quý hồ mẹ con ngươi không ở chung nhà là tốt rồi. Lam nhi cứ đựng quách một mái lá trên bình đài này, chẳng cần phải đi đâu cho bất tiện.
Khuê nhi thở phào mừng rỡ, nhưng Quách trang chủ thì vô cùng ngao ngán. Lão tuyệt đối chẳng muốn xa người vợ trẻ mỹ miều, tất phải ở lại Vũ Lương sơn khỉ ho cò gáy, thiếu mọi tiện nghi này.
Thiên Tường ngập ngừng bảo:
- Tiểu tế cũng chẳng thể rời xa thê tử, nên xin sư bá cho phép ở lại đây. Và tiểu tế xin tỏ chút lòng tri ân bằng cách cho xây dựng lại đạo am này. Mong sư bá rộng lòng chấp nhận.
Vu Mộc chân nhân phì cười:
- Bần đạo đã ở ngoài tục lụy, sướng khổ cũng như nhau. Vậy thí chủ muốn làm sao thì tùy.
Vàng bạc có mãnh lực vô song nên bọn thợ thổ mộc trong trấn Vũ Lương gần chân núi đã làm việc cật lực ngày đêm, bất chấp cả mưa tuyết lạnh lùng. Chỉ gần một tháng sau, trên bình đài đã chễm chệ đạo am khang trang và một am nhỏ trống trải xinh xắn. Nhưng chỉ đến tháng tư năm mới thì Quách Thiên Tường lâm bệnh vì thủy thổ bất phục. Kỹ nương đành rứt ruột xa con, đưa lão chồng già về Hứa Xương tĩnh dưỡng. Bà ôm Tử Khuê an ủi rằng sẽ trở lại ngay khi Thiên Tường khỏe hơn. Sau mấy tháng thụ giáo, Khuê nhi biết sư phụ rất nghiêm khắc nên không dám khóc, chỉ ứa lệ gật đầu. Ả nữ tỳ Tiểu Loan vẫn ở lại hầu hạ thiếu chủ và Vu Mộc chân nhân.
Nhưng Kỹ nương không thực hiện được lời hứa vì bà đã cấn thai khi về đến Hứa Xương. Khi
Quách trang chủ bình phục thì bụng bà đã to. Nhớ thương con, vợ chồng họ Quách chỉ còn cách viết thư liên tục mỗi tháng, nhờ dịch trạm chuyển giùm. Thỉnh thoảng Quách Thiên Tường sai 2 con gái đi núi Vũ Lương thăm em. Tuy là chị em cùng cha khác mẹ, nhưng đại tiểu thư Quách Thu Dung và nhị tiểu thư Quách Xuân Hương rất yêu thương Tử Khuê. Tuổi của 2 người chị này đều đã quá 30, tuy  đã lập gia đình nhưng lại không có con trai nên đặt cả tình thương vào đứa em kháu khỉnh mà số phận bạc bẽo.
7 năm sau, Quách Tử Khuê đã bước sang tuổi hai mươi mà vẫn còn học nghệ ở Vũ Lương sơn. Chàng phải hoàn thành lớp thứ năm của thần công “Thao Quang tâm pháp” thì mới được phép hạ sơn. Nhờ căn cơ tuyệt đỉnh và sự rèn luyện của mẫu thân từ lúc chàng còn nhỏ, nên Tử Khuê mới tiến bộ vượt bậc như vậy, chứ theo lệ thường thì 7 năm chỉ đủ cho lớp thứ ba. Cậu bé xinh xắn ngày nào giờ đã trở thành một thanh niên cường tráng, khôi ngô. Tử Khuê dong dỏng cao, thân thể không vạm vỡ nhưng đầy những cơ bắp rắn như thép. Cùng với tác dụng của linh đan, linh thủy mà mẹ chàng đã bồi bổ suốt năm năm, nội công “Thao Quang” cũng tạo nên màn cương khí bảo vệ da thịt Tử Khuê. Tuy không thể gọi là mình đồng da sắt song việc đả thương chàng chẳng dễ. Và việc giết chàng lại bội phần khó khăn hơn, khả năng chịu đòn của chàng gấp bội người thường.
Vu Mộc chân nhân tuy mang tên của một loài cây vô dụng nhưng lại là kẻ tài hoa xuất chúng, văn võ song toàn. ông tinh thông nhiều tuyệt học nhờ bốn mươi mấy năm phiêu bạt, vân du. Chân nhân chắt lọc những cái hay của trăm nhà bổ xuyết cho hoàn mỹ hơn và giờ đây truyền thụ lại cho đồ đệ.
Vu Mộc chân nhân xuất gia tu đạo từ nhỏ, phát thệ trường trai và giới sát nên không sử dụng vũ khí. Sở trường của ông chính là khinh công và quyền chưởng. Nhưng pho “Thao Quang tâm pháp” lại vô cùng bác tạp, uyên thâm, bao hàm cả phép “Phất huyệt” lẫn “Phách Không chưởng” chứ không chỉ có quyền cước. Khi Tử Khuê đã đạt được bảy thành hóa hầu “Thao Quang tâm pháp” thì từ hai huyệt Thương Dương, Trung Xung trên đầu các ngón trỏ và giữa của cả hai bàn tay sẽ phát ra tia chân khí mảnh như tơ dài độ hai gang. Tia chỉ kình này không thể xuyên thủng thịt da đối phương song vẫn đủ sức phong tỏa huyệt đạo. Nghĩa là chàng chẳng cần phải chạm vào người kẻ địch mà vẫn đắc thủ một cách khó ngờ. “Phách Không chưởng” thì càng thập phần lợi hại, đả thương người từ khoảng cách ba bốn xích, dài hơn đao kiếm một chút. Song công phu này đòi hỏi đến chín thành hỏa hầu và nó chẳng thể thi triển thường xuyên vì rất hao tổn chân nguyên. Dĩ nhiên là còn lâu Tử Khuê mới đạt đến trình độ ấy.
Tuy không sở trường trong việc sử dụng vũ khí nhưng Vu Mộc chân nhân vẫn tinh thông kiếm thuật, đao thuật, thương thuật, côn thuật. Ông nghiên cứu các môn ấy để tìm ra cách đối phó bằng “Thao Quang thần thức”. Vì thế, Chân nhân hoàn toàn có thể hướng dẫn đệ tử rèn luyện và đạt đến mức tinh túy của pho “Thanh Long kiếm pháp”. Ngoài ra, ông còn dạy thêm cho Tử Khuê những chiêu kiếm ảo diệu, cái mà ông đã thu hoạch được của thiên hạ. Do vậy, bản lĩnh kiếm thuật của Tử Khuê rất cao siêu và phức tạp. Về phần pho “Nga Mi đạo quyền” thì chính là căn bản của “Thao Quang thần thức”.
Tóm lại, sau 7 năm miệt mài khổ luyện, học tập, Quách Tử Khuê đã trở thành một cao thủ hàng đầu trong giới thanh niên. Lúc ấy là mùa Thu năm Quý Sửu, năm thứ tư trong sự trị vì của Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn. Là ngày vừa tròn năm từ lúc lão bị Lôi thần thăm viếng lần đầu, lần thứ hai vừa mới xảy ra vào cuối hạ năm nay. Thế cho nên Âu Dương Mẫn càng nóng ruột, muốn có ngay viên “Tỵ Lôi thần châu”. Giờ đây, lão đang ở trên đỉnh cao của quyền lực và giầu sang, tài sản hàng trăm vạn lượng nên lại càng sợ chết. Lão ta liền tăng gấp đôi giá mua “Tỵ Lôi thần châu”, nghĩa là tròn vạn lượng hoàng kim. Hơn thế nữa, lão còn thẳng thắn loan báo rằng dù ai đó chỉ cung cấp manh mối về hạ lạc của thần châu thì cũng được thưởng ngàn vàng Người võ lâm thầm hiểu rằng Âu Dương Mẫn sẵn sàng giết người đoạt của nếu chủ của thần châu không chịu bán. Cuối cùng thì cũng có người đem tin tức đến bán cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn để lãnh món tiền cò ngàn lượng. Gã này tên gọi Nhâm Đức Tín, 43 tuổi, quê quán Hứa Xương. Và gã chính là rể lớn nhà họ Quách, trượng phu của đại tiểu thư Quách Thu Dung.
Theo tục lệ xưa của Trung hoa, con trai mới có quyền thừa kế, còn con gái thì không. Bởi vậy mới có câu “Nữ sanh ngoại tộc”. Khi xuất giá nữ nhân chỉ được một khoản tài sản nho nhỏ làm của hồi môn. Khoản này nhiều hay ít là tùy theo gia thế và hảo tâm của cha mẹ. Nhưng hoàn cảnh của Quách gia trang có hơi khác. Hai chị của Tử Khuê đều có nhà riêng song lại trực tiếp quản lý cơ nghiệp họ Quách, chờ chàng trưởng thành thì giao lại. Đương nhiên, hàng tháng họ được hưởng một phần lợi tức trong việc kinh doanh, thù lao công điều hành quản lý. Xuân Hương và Thu Dung yêu thương Tử Khuê còn vì một lý do khác. Đó là tấm lòng rộng rãi của Nhị nương Kỹ Thanh Lam. Sau khi sanh hạ Tử Khuê, bà đã bàn với Quách trang chủ rồi cho gọi hai vị tiểu thư đến. Kỹ nương đã hứa với họ rằng tài sản sẽ chia làm bốn, và Tử Khuê chỉ nhận hai phần. Sau này, khi Kỹ nương sinh thêm bé trai là Tử Chiêm thì di chúc của Quách trang chủ được sửa lại đôi chút. Di sản chia năm, Từ Khuê hưởng hai phần, ba là của hai nữ nhân và Chiêm nhi.
Dù như thế thì đó cũng là phúc phần của Thu Dung và Xuân Hương, dẫu họ có nằm mơ cũng không tưởng đến. Do vậy, hai người con vợ trước của Quách lão một lòng một dạ vì việc nhà và xem hai đứa em khác mẹ như ruột thịt. Nhưng khổ thay, Nhâm Đức Tín lòng lang dạ sói, không cảm kích trước sự rộng lượng của Kỹ nương, lại cho rằng chia ba tốt hơn chia năm. Gã lại đang mê tít một ả kỹ nữ nên rất cần tiền, mà Thu Dung thì chẳng bao giờ chịu để chồng mang của cải đi bao gái lầu xanh. Thế là Đức Tín nghĩ đến chuyện bán đứng Quách Tử Khuê. Trước tiên, gã có ngàn vàng và nhân tiện là tăng phần thừa kế.
Sau khi tiếp Nhâm Đức Tín, trao cho gã  500 lượng, hẹn khi đi Vũ Lương sơn về sẽ giao nốt nửa còn lại, ngay trưa hôm ấy Âu Dương Mẫn liền thống lĩnh hộ vệ cùng 50 thủ hạ nữa trực chỉ Tứ Xuyên. Lần này lão không giương cờ gióng trống mà lặng lẽ trảy quân, chẳng hề quấy nhiễu các bang hội trên đường đi. Chiều hai mươi chín tháng chín, đoàn người chỉ còn cách Vũ Lương sơn độ một ngày đường. Âu Dương Mẫn ra lệnh ghé vào trấn Thanh Giang nghỉ trọ. Đúng lúc ấy, thầy trò Quách Tử Khuê cùng nhau dùng bữa chiều. Tỳ nữ Tiểu Loan đã về Hứa Xương để lấy chồng từ hai năm trước, nhân dịp phu thê Quách Thiên Tường đến thăm con. Do vậy, những món cơm chay của Tử Khuê không được ngon lắm. Bảy năm nay, chàng thiếu gia nhà họ Quách ăn chay. May mà rặng Vũ Lương sơn mọc đầy nấm dại rất bổ dưỡng nên Tử Khuê đủ năng lượng mà luyện võ. Dĩ nhiên chàng ăn rất nhiều, mỗi bữa hơn thăng gạo.
Thu về, trời se lạnh và trên núi càng lạnh hơn. “Minh sư tất hữu cao đồ”. Thầy là ma men thì trò bợm nhậu. Nói cho vui thế thôi chứ bậc chân tu chẳng bao giờ sa đà trong lạc thú trần gian. Vu Mộc chân nhân và Tử Khuê dù tửu lượng rất cao nhưng chỉ uống vài chung để tìm thi hứng, làm thơ. Ngâm thơ hoặc nghe thơ thì phải có chút hơi men mới khoái. Thu phong bổng đưng ào ạt thổi qua bình đài làm cho hàng dậu phù dung trước cửa đạo am phải tơi bời, hoa lá rụng rơi. Vu Mộc chân nhân tức cảnh sinh tình, sáng tác ngay một bài thơ. Ông cất giọng rè rè, khàn đục mà ngâm nga:

Phù Dung hoa lạc diệp phân phân
Môn yếm tà phi nhất viện bần
Trú cửu đốn vong thân thị khách
Niên thâm cảnh giác lão tùy thân
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân
Lưu lạc bạch đầu thành để sự
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.

Tạm dịch :
Phù Dung tơi tả lá cùng hoa
Một gian lầu nét khép lơ là
Trọ lâu quên bẵng thân là khách
Năm lụn thêm đau nỗi tuổi già
Đất lạ giả ngây phòng thói tục
Yên thân đời loạn nể người ta
Nổi trôi bạc tóc chưa nên việc
Thổi bật khăn đầu trận gió qua...

Tứ thơ bàng bạc tư tưởng Lão Trang và hàm ẩn ý ngậm ngùi cho kiếp nhân sinh đầy khổ ải. Tử Khuê nghe xong khoan khoái vỗ bàn khen hay. Vu Mộc chân nhân tươi rói nét mặt, đắc ý như trẻ con được trưởng bối tán dương. Ông vừa định nói vài câu khiêm tốn gì đó thì ngoài cửa am có con chim lạ lông màu đỏ sa xuống và kêu lên 9 tiếng bi thương. Sau nó vỗ cánh bay đi mất. Vu Mộc chân nhân lẩm bẩm :
-Dương Cửu ! Dương Cửu ! Thì ra đã đến lúc rồi !
Tử Khuê ngơ ngác hỏi :
- Bẩm ân sư! Điềm lạ này có ý nghĩa hung cát như thế nào?
Vu Mộc chân nhân không đáp, bấm tay tính toán, suy nghĩ rất lâu mới lên tiếng:
- Khuê nhi ! Khí số bần đạo đã tận chỉ còn sống được ít tháng nữa thôi. Vì thế, bần đạo sẽ đưa ngươi lên thạch động trên đỉnh cao nhất Vũ Lương sơn. Trong động có bí kíp của 7 chiêuOán Thiên kiếm pháp”. Tuyệt học này lợi hại vô song và cực kỳ độc ác, tàn nhẫn. Nhưng con là kẻ có lòng nhân tất sẽ biết cách sử dụng đúng vào việc trừ gian diệt bạo.
Tử Khuê chẳng hề chú ý đến 7 chiêu tuyệt kiếm, chỉ mếu máo đau xót khi nghe nói sư phụ sắp từ trần. Thường xuyên được nghe Vu Mộc chân nhân lải nhải câu “sinh ký tử quy”, chết là về với tự nhiên, nhưng chàng cũng không thể nào bình tâm khi sắp phải mất đi người mình yêu thương tôn kính. Bảy năm sớm tối cận kề, ngày ngày nghe lời giáo huấn, Tử Khuê thân thiết với Chân nhân còn hơn cha ruột. Chàng ứa lệ nhìn ân sư trân trối, nghẹn ngào nói :
-Sao sư phụ không nán lại hồng trần ít năm để đồ nhi phụng dưỡng hầu hạ. Ân sư pháp lực vô biên muốn sống lâu trăm tuổi nào có khó gì.
Vu Mộc chân nhân ôn tồn hòa ái đáp:
-Trương Tam Phong mang nặng nghiệp quả của phái Võ Đang nên phải sống lây lất đến 140 năm mới được về với đạo lớn. Nay bần đạo chẳng sở đắc một điều gì, lại có ngươi là kẻ kế thừa xứng đáng thì còn vương vấn cõi đời ô trọc này làm chi nữa ? Khuê nhi bất tất phải thương tâm mà hãy mừng cho bần đạo sớm được thăng thiên.
Mờ sáng hôm sau, tức đầu tháng mười, hai thầy trò rời bình đài trên núi Vọng Vân, đi sang ngọn Oán Thiên ở gần đấy rồi trèo lên đỉnh. Oán Thiên là ngọn núi cao nhất dãy Vũ Lương sơn. Đường lên núi cực kỳ cheo leo, hiểm trở, nhưng do thông thạo địa hình và có tài nghệ khinh công thượng thừa nên hai người đến nơi lúc giữa trưa. Oán Thiên động ở độ cao gần 500 trượng, thường xuyên bị mây mù che phủ, phong cảnh huyền hoặc tựa cõi tiên. Nhưng vào giờ Ngọ hôm nay, nắng thu rực rỡ khiến bên trong thạch động không đến nỗi tối tăm. Chờ Tử Khuê bẻ cành cây quét dọn xong, Vu Mộc chân nhân thọc tay vào một hốc đá kín đáo trên vách, lấy ra một gói vải vuông vắn. Trong ấy chính là quyển “Oán Thiên kiếm lục”.
Sau bữa cơm trưa đạm bạc ăn với nấm khô kho muối, Chân nhân lập tức bắt tay vào việc giảng giải chiêu đầu tiên có tên là “Hoàng Thiên Bất Tiếu” (Trời chẳng biết cười). Chiêu này cũng như sáu chiêu còn lại đều mang những cái tên đầy phẫn nộ, oán trách ông trời. Nhờ Chân nhân tỉ mỉ chỉ điểm từng thế thức, từng yếu quyết biến hóa nên một kẻ có căn cơ thượng thặng như Tử Khuê dễ dàng hoàn thành chiêu kiếm lúc chiều buông. Tất nhiên là chưa đến mức tinh thông, vì việc này đòi hỏi thời gian và sự khổ luyện không ngừng.
Trong lúc học trò luyện kiếm thì sư phụ nấu cơm. Chân nhân ăn vội hai chén rồi hạ sơn, để Tử Khuê Ở lại Oán Thiên động, tiếp tục suy ngẫm về chiêu kiếm, cạnh đống lửa bập bùng.
Không vướng bận Tử Khuê, Chân nhân lướt đi như gió thoảng, nhảy những bước dài, hạ thân xuống những mỏm đá chênh vênh hiểm nghèo. Gần canh giờ sau ông đã có mặt trên núi Vọng Vân, ẩn mình nghe ngóng. Lúc này Âu Dương Mẫn và bọn thủ hạ đã chiếm lĩnh bình đài, từ trong đạo am đến tòa tiểu viện chỗ ở cũ của vợ chồng Quách Thiên Tường. Số còn lại mai phục lưng chừng sơn đạo, ý như chờ đợi thầy trò Tử Khuê trở về. Nhưng Vu Mộc chân nhân đã lên núi bằng đường khác, âm thầm áp sát đạo am, nơi có hai lão nhân đang uống trà trò chuyện.
Người thứ nhất mặc trường bào xanh, viền trắng, mặt mũi tuấn tú thêm phần oai vệ bởi bộ râu ba chòm cùng nhãn thần sáng quắc. Dung mạo lão có phần đường chính, song đôi huệ nhãn của Vu Mộc chân nhân đã phát hiện ra thần khí của lão là đại ác. Trong phép xem tướng của Trung Hoa, sắc diện là vẻ ngoài, thần khí là bản chất, chỉ những bậc Chân nhân mới nhìn ra. Người thứ hai là một lão đạo sĩ râu tóc hoa râm, tuổi độ bảy mươi, mặc đạo bào màu xanh nhạt. Tướng người này mập mạp phương phi, mặt tròn nung núc thịt mũi tẹt, môi dày, mắt híp tựa hai sợi chỉ.
Vu Mộc chân nhân không biết người áo xanh nhưng lại rất rành lai lịch lão đạo sĩ to béo kia. Lão ta từng lừng danh võ lâm với mỹ hiệu Diệu Thủ Thần Cơ. Tư Mã Uy là đệ tử phái Hoa Sơn đã bị trục xuất từ bốn mươi năm trước. Tuy nhiên, lão không lộ mặt ác ôn và luôn miệng xưng bần đạo. Tư Mã Vy cơ trí tuyệt luân, đa mưu túc kế, bụng đầy thao lược và còn là một vị thần y. Do đó, lão mới được giang hồ đặt cho danh hiệu ấy. Nhưng khổ thay, Diệu Thủ Thần Cơ lại dâm đãng phi thường, làm cho hàng chục nữ đạo cô phải thất tiết. Thế là phái Hoa Sơn đành phải cắn răng đuổi cổ gã đệ tử kỳ tài. Năm ấy, Tư Mã Uy mới tròn tam thập. Rời Hoa Sơn, Diệu Thủ Thần Cơ đến Chương Phàn, cạnh bờ sông Hán Thủy, đoạn sông thuộc tỉnh Hồ Quảng mà cư trú, lập nghiệp bằng nghề thầy thuốc. Đại phu làm cái nghề vừa có tiền lại vừa được tri ân. Bệnh nhân dù bị cứa cổ, vét sạch hầu bao song vẫn nhớ ơn, quý hồ khỏi bệnh và Tư Mã Uy lại là một thần y có thực tài, chữa đâu khỏi đó. Trừ tứ chứng nan y « phong, lao, cổ, lại », lão chưa hề bó tay trước bất cứ loại bệnh nào, dù nội khoa hay ngoại khoa. Tư Mã Uy lại có tài mổ xẻ thuộc hàng thượng thặng, chẳng kém gì Hoa Đà thời Tam Quốc, bởi thế cho nên lượng khách nữ nhân của lão rất đông đảo. Những nét xấu xí như nốt ruồi, mụn cóc, vết chàm... đều biến mất. Thậm chí, Tư Mã Uy còn vá được sứt môi hoặc nâng cao sống mũi xẹp của một cô gái sinh ra trời bắt xấu. Khi giải phẫu, Tư Mã Uy thường cho bệnh nhân uống “Ma Phí tán” để tránh đau đớn. Sau khi tỉnh dậy họ thấy mình đẹp hơn xưa nên vui lòng bỏ qua việc bị gian dâm. Vả lại, khai ra thì càng thêm xấu hổ, khó mà sống nổi.
Với mối quan hệ ngày càng rộng rãi, đầy ắp ân tình đến năm tứ thập thì Tư Mã Uy trở thành quân sư quạt mo của giới Hắc đạo. Lão đã dùng cơ trí siêu phàm của mình để xếp đặt kế hoạch, tổ chức những cuộc đánh cướp vô cùng táo bạo, tinh vi chấn động cả triều đình và võ lâm. Nhưng việc này chỉ vài người biết, trong số đó có Vu Mộc chân nhân. Tư Mã Uy rất gian ngoan ăn vụng khéo chùi mép, chẳng hề sơ xuất.
Năm ấy, giang hồ nổi lên một tổ chức cường đạo thần bí tên gọi Huyết Mai hội. Bọn này hành sự cực kỳ tàn ác, đã cướp của lại còn tàn sát cả gia đình nạn nhân. Đáng sợ nhất là những thủ đoạn tra tấn dã man để bắt khổ chủ phải khai ra chỗ giấu tài sản. Chúng còn để lại hiện trường một đóa hoa mai sáu cánh bằng lụa đỏ như máu, để khoe khoang rằng đây là lãnh địa của mình. Trong 40 năm chúng đã thực hiện sáu mươi vụ án lớn, giết hại hơn ba trăm người và lấy đi số của cải có trị giá lên đến hai trăm vạn lượng hoàng kim. Lực lượng bộ đầu và công sai các tỉnh Hà Nam, Sơn Tây, Hà Bắc bị triều đình khiển trách nặng nề nên đã ráo riết truy lùng, rình rập Huyết Mai hội chủ. Họ đặt bẫy quanh những nhà đại phú và đã vài lần vây được con mồi nhưng lần nào cũng tóm hụt. Lý do là bản lĩnh của bọn Huyết Mai hội rất cao cường, nhất là tên thủ lĩnh. Đao pháp của Huyết Mai hội chủ đã đến mức xuất thần nhập hóa, đường đao nhanh nhẹn, độc ác và mãnh liệt phi thường. Khi sa vào trận địa mai phục của quan quân, lão ta phóng tay chém giết phá vây mà dẫn thủ hạ đào tẩu an toàn. Số người của Nha môn chết dưới tay lão cũng hơn con số một trăm.
Quân triều đình bất lực phải cầu viện đến giới võ lâm, Minh chủ lúc ấy là Hoàng Hà Thần Côn Giả Nam Long, đệ tử tục gia phái Thiếu Lâm. Ông ta liền huy động hào kiệt Trung nguyên tham gia việc tảo trừ Huyết Mai hội. Bảy tháng sau, chính Vu Mộc chân nhân là người tìm ra chỗ ẩn thân của Huyết Mai hội chủ. Một hôm ông đến ngoạn cảnh Vân Vụ sơn, ngọn cực Nam của rặng Thái Hoàng, nằm trong điạ phận Hà Nam. Núi này có thắng cảnh nổi tiếng là “Vân Vụ giản” khe nứt sâu hun hút, quanh năm mờ mịt khói sương. Mỗi buổi bình minh hoặc hoàng hôn, “Vân Vụ giản” biến thành một bức tường mây đầy những mống cầu vồng rực rỡ và diễm lệ. Đã sáu năm mới quay lại thăm cảnh cũ, Chân nhân ngỡ ngàng nhận ra giờ đây có một tòa trang viên đồ sộ, kín cổng cao tường, chễm chệ nằm trên bờ vực.
Tình cờ Vu Mộc chân nhân bắt gặp Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy đang rời khỏi nơi ấy, nón rộng vành sùm sụp che kín nửa mặt như chẳng muốn ai nhận ra. Do biết rõ Tư Mã Uy là quân sư của giới đạo tặc nên Chân nhân sinh lòng nghi ngờ chủ nhân của tòa trang viện tráng lệ kia. Ông ở lại Vân Vụ sơn ba đêm mà rình rập. Cuối cùng, Chân nhân phát hiện ra sào huyệt của Huyết Mai hội chủ.
Chân nhân liền xuống núi, đi thẳng lên Tổng đàn Võ lâm trên núi Quảng Sơn, báo cho Giả Minh chủ biết. Hoàng Hà Thần Côn vui mừng khôn xiết, huy động toàn bộ lực lượng của Tổng đàn và mời thêm hơn trăm cao thủ Thiếu Lâm tự kéo đến Vân Vụ sơn. Bị tập kích bất ngờ bởi một lực lượng quá mạnh nên Huyết Mai hội chủ không thể nào địch lại. Còn việc đào vong thì vô vọng vì sau lưng họ là vực thẳm. Rốt cuộc, hơn trăm gã hung thần đã phải đền tội, kẻ bị giết, người thì tự sát. Chúng biết rằng nếu bị bắt sống thì cũng không tránh khỏi án chém của triều đình và còn liên lụy đến gia đình, tủi hổ tông môn. Riêng Huyết Mai hội chủ thì thần dũng vô song, giết chết mười mấy cao chủ chùa Thiếu Lâm và đả thương Minh chủ Giả Nam Long rồi mới bị đánh văng xuống vực thẳm. Cho đến tận lúc ấy, người ta vẫn không thấy được chân diện mục của Huyết Mai hội chủ, vì lão luôn bịt khăn ngang mặt.
Cớ sự ấy cách nay đã 25 năm bỗng ập về trong tâm tưởng Vu Mộc chân nhân như tia chớp kinh hoàng, vì ông nghe được câu nói của Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy :
- Điền đại ca? Tiểu đệ không ngờ đại ca lại thoát chết dưới vực thẳm “Vân Vụ giản” hóa thân thành Lư Châu đại hiệp và chiếm được ngôi Minh chủ Võ lâm. Nay đại ca có lòng thương tưởng, tiểu đệ nguyện đem chút tài mọn ra phò tá.
- Năm xưa, khi bị Giả Nam Long và bọn lừa trọc Thiếu Lâm đẩy rơi xuống khe sâu, lão phu may mắn sống sót, lại còn tìm được linh quả và bí kíp, lòng những tưởng mình được trời già ủng hộ. Nào ngờ, khi Điền Sĩ Lệ ta sắp thâu tóm được cả võ lâm thì lão Hoàng thiên chết toi ấy lại sinh lòng đố kỵ, hai lần sai Thiên Lôi giáng họa. Phải chăng đã đến lúc lão phu phải gánh chịu quả báo của những tội ác mà Huyết Mai hội chủ đã gây ra thuở trước.
Diệu Thủ Thần Cơ cười ngặt nghẽo:
- Đại ca quả là lẩn thẩn, làm gì có trời hay quả báo. Vũ trụ vận hành theo những quy luật tất nhiên, nhưng không thể tuyệt đối chính xác nên những yếu tố ngẫu nhiên vẫn tồn tại song song. Mây trên cao ngưng tụ, ngẫu nhiên bay qua núi Quảng Sơn thì đủ yếu tố tạo ra mưa cùng sấm sét. Và tất nhiên tia sét ấy sẽ chọn Tổng đàn Võ lâm làm mục tiêu vì cơ ngơi ấy cao nhất. Còn nếu đúng là trời xanh có mắt sai Thiên Lôi diệt kẻ ác thì tiểu đệ đã chết từ lâu rồi.
Điền Sĩ Lệ tức Âu Dương Mẫn bán tín bán nghi, cau mày bác lại :
- Thế tại sao theo lời kể của Nhâm Đức Tín thì em vợ gã là Quách Tử Khuê đã năm lần bị sét đánh, dù nhà cửa thấp hơn những cơ ngơi chung quanh.
Tư Mã Uy gật gù đắc ý, giải thích thêm :
- Việc ấy chẳng có gì là huyền bí cả. Tiểu đệ đã nhiều năm nghiên cứu những hiện tượng này và phát hiện ra rằng trong vài chục vạn người sẽ có một, hai người bẩm sinh kỳ lạ như gã Tử Khuê. Trong cơ thể gã tiềm tàng một luồng nhân điện mạnh mẽ hơn chúng ta. Do đó, sẽ thu hút những tia sét nếu chung quanh không có mục tiêu nào mang hấp lực mạnh hơn. Phục Lôi Thần Quân Thương Vô Hoán cũng ở trong trường bợp ấy.
Tư Mã Uy nhấp hớp trà rồi tiếp lời :
- Có thể là chính đại ca cũng rơi vào cảnh ấy, sau khi luyện thành “Thiết Sa thần công”. Hai mươi năm ngâm mình trong thiết thủy đã khiến cơ thể đại ca nhiễm đầy chất sắt.
Âu Dương Mẫn tỉnh ngộ, vỗ đùi cười dài:
- Tư Mã lão đệ quả là kiến văn uyên bác, trí tuệ vô song, đã xua tan đám mây mù trong lòng lão phu. Nếu không có Trời và luật nhân quả thì Điền mỗ còn phải sợ gì ai nữa. Chỉ cần tìm được “Tỵ Lôi thần châu” là lão phu có thể an tâm thống trị võ lâm.
Và lão bỗng nghiến răng trợn mắt:
- Đã đến lúc lão phu thiêu hủy Thiếu Lâm tự và giết sạch bọn lừa trọc để báo phục mối hận năm xưa.
Nghe đến đây, Vu Mộc chân nhân chột dạ, hiểu rằng võ lâm sắp rơi vào cảnh suối máu rừng xương. Sau Thiếu Lâm tự sẽ là năm phái Bạch đạo kia, vì lực lượng cận vệ Tổng đàn Võ lâm ngày ấy đều là cao thủ của họ. Một kẻ ác độc và thù dai như Điền Sĩ Lệ gã không bao giờ bỏ qua mối hận nào dù rất nhỏ. Và trước mắt, người bị nguy hiểm nhất chính là Quách Tử Khuê. Bằng mọi giá, Âu Dương Mẫn sẽ phải giết chàng đề đoạt lấy “Tỵ Lôi thần châu”.
Vu Mộc chân nhân rầu rĩ rời Vọng Vân sơn, tìm chỗ nghỉ ngơi, chờ rạng sáng mới trở về Oán Thiên động. Kể từ hôm ấy, đêm đêm Chân nhân lén điểm huyệt ngủ của đồ đệ rồi san sẻ chân nguyên. Giới hạn của việc này là mười tám năm tu vi, vượt quá thì người cho bị tổn thọ nặng nề và có thể vong mạng. Tình phụ tử là một bản năng mãnh liệt của con người. Tuy Chân nhân xuất gia từ nhỏ, phát nguyện tu tiên song khi gần gũi Tử Khuê đã vô tình yêu thương chàng như con ruột. Giờ đây Chân nhân quyết định chấp nhận lìa đời sớm để học trò đủ công lực mà đối phó với một cường đạo như Điền Sĩ Lệ.
Giữa tháng mười Tử Khuê đã hoàn tất bảy chiêu “Oán Thiên kiếm pháp”. Sáng ngày mười sáu khi chàng thức giấc thì phát hiện ân sư đã tọa hóa trong thế kiết già, trước mặt đặt một phong thư dày.
Tử Khuê đau lòng khóc lóc thảm thiết, rất lâu sau mới trấn tĩnh lại được, mở di thư xem. Trong thư, Vu Mộc chân nhân kể rõ lai lịch của Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, cũng như sự phản bội của Nhâm Đức Tín. Ông cảnh báo những nguy hiểm mà Tử Khuê sẽ gặp phải sau này, nhất là khi trở lại Hứa Xương. Chân nhân cũng dạy đồ đệ đi tìm một người để có trợ thủ đối phó với kẻ thù.
Tuy nhiên, Chân nhân tuyệt đối không tiết lộ việc mình hi sinh tính mạng mà truyền chân nguyên. Do đó, Tử Khuê hoàn toàn không biết rằng hiện nay công lực mình đã tăng gấp bội, hoàn thành lớp thứ bảy của “Thao Quang tâm pháp”.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
Chương 2
 
Cuối tháng 10 năm ấy, có một chàng đạo sĩ trẻ cưỡi ngựa chậm rãi đi vào thành Quan Hóa, cách ranh giới Bắc Hà và Hồ Nam vài dặm.
Chàng ta có nét mặt và ánh mắt trong sáng, ngây thơ tuổi đôi mươi. Trán cao, mũi thẳng. Mắt sáng miệng rộng và những nét mặt đẹp của nam nhân, nhưng chưa đủ để tạo nên một Phan An hay Tống Ngọc vì kèm một vài khuyết điểm đầu của mũi dọc dừa ấy hơi nhọn, còn đôi môi của miệng rộng thì khá dầy. Tóm lại vị đạo sĩ trẻ này có một dung nhan kha điển trai chứ không thể gọi là mỹ nam tử. Tuy nhiên cổ nhân đã có câu: “Trai tài gái sắc”, nên giá trị của đàn ông chẳng phải ở bên ngoài như đám hồng nhan. Bộ đạo bào xanh còn lấm bụi đường chứng tỏ cái kẻ muốn thành tiên kia vừa trải qua một cuộc hành trình thiên lý. Chàng đạo sĩ dừng cương trước Kiều Hương đại phạn điếm, cẩn thận đọc kỹ mảnh giấy lớn dán cạnh cửa quán rồi mới xuống ngựa. Trên giấy ấy ghi rằng:
“Bổn điếm có bán cả những món chay ngon nhất Hồ Bắc”
Té ra chàng đạo sĩ này ăn chay chứ không phải lén phá giới khi có dịp hạ sơn. Gia tiểu nhị hớn hở chạy ra đỡ lấy dây cương và hớn hở nói:
- Đạo trưởng cứ yên tâm món chay của bổn quán lừng danh mấy chục năm, từng được thượng tổ của phái Võ Đương khen ngợi.
Chắc là gã ta không dám nói láo vì trong quán đang hiện diện khá đông những đạo sĩ của núi Võ Đương. Rất dễ nhận ra đám đồ tử đồ tôn của Trương Tam Phong vì thời ấy họ mặc đạo bào trắng, vạt áo trước và lưng áo đều có thêu hình thái cực đồ bằng chỉ màu tím than. Phái Hoa Sơn chọn áo xanh nhạt, hình thái cực màu đen. Phái Toàn Chân chọn đạo bào màu vàng đất. Còn Thiên Sư giáo thì chọn đạo bào đủ màu song thêu hình bát quái bằng chỉ đen. Riêng chàng đạo sĩ mới xuất hiện thì chẳng rõ được chi phái nào, trong đạo giáo nào và trên đạo bào không một nét thêu thùa, đầu không mũ mạo. Nhưng kiểu áo và búi tóc thì đúng là kẻ thờ Tam Thanh.
Chàng ta chắc mới xuống núi lần đầu nên cử chỉ rụt rè, thận trọng, ánh mắt bỡ ngỡ và đầy vẻ háo hức, tò mò. Đám đệ tử Võ Đương trong quán cũng hiếu kỳ, chăm chú nhìn kẻ mới đến vì phát hiện chàng kia không cùng môn phái. Họ thắc mắc và cố đoán xem đối phương xuất thân từ cửa nào.
Nhưng tất nhiên những thực khách quay lưng ra ngoài thì không thấy và không để ý. Nền văn hóa hơn bốn ngàn năm chẳng hề giúp cho người Trung Hoa bỏ được cái tật khạc nhổ bừa bãi. Họ thản nhiên gieo cái thứ đờm dãi nhầy nhụa ấy chung quanh chỗ mình ngồi, nhất là trong quán. Bởi thế cho nên sàn gạch của Kiều Hương đại phạn điếm có rất nhiều những vệt xanh vàng nhớp nhúa. Tệ hơn thế nữa, có kẻ còn quăng vỏ chuối xuống nền nhà, tất nhiên là gần với chỗ ngồi chứ không đến nỗi ra giữa đường đi. Nhưng khổ thay vị đạo sĩ trẻ không môn không phái mới xuất hiện lại là người ưa sạch sẽ và có thói quen quan sát rất kỹ đoạn đường mà mình sẽ đặt chân. Chàng ta nhăn mặt ghê tởm và cố tránh những cục đờm vương vãi đầy mặt đất. Dáng đi ngập ngừng xiêu vẹo ấy khiến thực khách cười thầm. Tiếc rằng kẻ mới ra đời sinh nhầm phải ngôi sao xấu, vận mạng đen đủi thì dù có cẩn thận cách mấy cũng hoài công. Khi chàng đạo sĩ trẻ tuổi bước xéo sang mé hữu để tránh vài bãi đờm thì tình cờ có một thực khách khoan khoái buông rơi cái vỏ chuối, đúng vào vị trí mà bàn chân phải của chàng đạo sĩ đặt xuống. Thế là nạn nhân trượt chân, ngã sấp mặt xuống nền gạch vừa dơ vừa cứng. Giờ thì chúng ta đã biết kẻ xui tận mạng ấy là Quách Tử Khuê chứ chẳng còn ai vào đây nữa. May thay, hiện nay Tử Khuê đã có một bản lĩnh võ nghệ cao siêu, phản ứng cực kỳ nhanh nhẹn. Chàng lập tức vươn tay hữu, hai ngón trỏ và giữa điểm xuống mặt gạch đẩy ngược thân thể đứng lên song mảnh vỏ chuối vẫn còn dính ở đế giày phải nên chân phải chàng trượt về phía trước, khiến người suýt ngã ngửa. Tử Khuê loạng choạng một hồi mới đứng vững, sắc mặt đỏ gay vì hổ thẹn và vì tiếng cười nắc nẻ của gần trăm thực khách.
Tử Khuê lúng ta lúng túng bước thêm ít bước đến ngồi ở một bàn trống. Chàng gọi cơm chay vừa ăn vừa ngao ngán cho cái số mạng đen như mõm chó của mình. Song chàng nhớ lời dạy của ân sư và thôi không rầu rĩ nữa. Vu Mộc chân nhân đã từng bảo rằng:
-Trong phúc có họa nên người đắc phúc chớ vội mừng. Trong họa có phúc nên người xui xẻo chớ nên buồn. Do đó bậc Chân nhân sống bình dị mà đợi mệnh trời, xem sinh tử, họa phúc, được mất chỉ là một.
Nghĩ đến đây chàng thanh niên nở một nụ cười rất tươi khiến vài vị đạo cô Võ Đương phải xao xuyến. Nãy giờ họ len lén liếc nhìn vị đạo hữu lạ mặt với ánh mắt ái mộ. Chàng ta có gương mặt rất dễ mến và một vẻ rụt rè, nhút nhát khiến các nàng nữ hiệp hào khí can vân sinh lòng thương xót, muốn ra tay chỉ dạy, bảo bọc. Họ còn phát hiện ra rằng đối phương có nụ cười đầy nam tính và vô cùng quyến rũ. Phái Võ Đương không cấm đệ tử kết hôn nên các nữ đạo cô đua nhau hạ sơn hành hiệp tìm cho mình một tấm chồng ưng ý. Bọn nam đạo sĩ cũng thế, khiến cho lượng hiệp khách xuất thân từ Võ Đương rất đông, gây dựng thanh danh môn phái ngày càng hiển hách. Tất nhiên là những người này xuất thân từ nhà giàu khá giả mới có tiền mua ngựa và lộ phí để tiêu xài trên đường phiêu bạt. Kẻ xuất gia chân chính thường nghèo rớt mồng tơi. Do đó, đại đa số hiệp sĩ Võ Đương dương danh chốn giang hồ đều là đệ tử tục gia. Lúc còn học nghệ trên núi thì họ mặc đạo bào, ăn chay, tụng kinh song khi hạ sơn thì chẳng cần giữ giới. Họ mặc những bộ võ phục bằng gấm lụa thượng hạng nhưng vẫn chuộng màu trắng hoặc nguyệt bạch và vạt áo thêu một hình thái cực đồ màu tím nhỏ cỡ bàn tay. Được làm đệ tử phái Võ Đương là một vinh dự rất lớn.
Võ Đương ẩn mình trong địa phận Hồ Bắc nên các nhà quyền quý giàu có đều gởi con em đến học võ. Đây cũng là một kế sách lâu dài trong kinh doanh vì khi họ gặp nạn có thể cầu cứu phái Võ Đương hỗ trợ. Điểm khá đặc biệt cần lưu ý là số nữ đệ tử tục gia của núi Võ Đương rất đông, hơn hẳn các phái trong thiên hạ. Điều này không khó hiểu vì nữ nhân chẳng thể múa côn, múa thương hay đánh đao được. Vũ khí thích hợp với họ chính là trường kiếm. Mà kiếm thuật của Trương Tam Phong thì đứng đầu võ lâm. Cho nên cả những người ở xa Hồ Bắc cũng lặn lội đến núi Võ Đương xin học nghệ.
Những kiến thức ấy Quách Tử Khuê được ân sư truyền thụ lại. Vu Mộc chân nhân đã đem kinh nghiệm giang hồ mấy chục năm nhét vào cái đầu non nớt của chàng. Giờ đây, Tử Khuê thích thú quan sát những bậc anh hùng trẻ tuổi của phái Võ Đương một cách kín đáo, tế nhị, không dám nhìn sỗ sàng vì sợ họ nổi giận. Chàng lắng nghe và biết họ đều từ phương xa, trở về để dự lễ thượng thọ 71 của Chưởng môn nhân vào ngày đầu tháng mười một, tức ngày mai.
Tử Khuê bất giác sinh lòng ngưỡng mộ những bậc hiệp sĩ trẻ tuổi ấy và ước ao được như họ. Chàng chỉ ái ngại rằng võ nghệ của mình còn kém cỏi, chẳng thể vẫy vùng ngang dọc như đám đệ tử Võ Đương kia, Tử Khuê không biết rằng bản lãnh của chàng hiện nay còn cao hơn vài cao thủ lão thành phái Võ Đương. Vu Mộc chân nhân suốt đời khiêm tốn, luôn bịt mặt lúc so tài với các cao thủ trong thiên hạ, chủ yếu để nghiên cứu võ thuật, nên khi thấy đủ là nhận bại và rút lui. Do đó Chân nhân chẩng có tiếng tăm gì và rất ít người biết bản lãnh siêu quần bạt tụy của ông. Tất nhiên, Chân nhân cũng không khoe với đồ đệ mình là Võ lâm Đệ nhất cao thủ, lại còn dặn dò Tử Khuê phải thận trọng, khiêm cung để toàn sinh.
Tử Khuê cũng không tránh khỏi rung động trước vài gương mặt xinh đẹp trong đám đạo cô phái Võ Đương. Chàng đang tuổi hoa niên, lòng dễ bị xao xuyến trước nhan sắc của nữ nhân. Các nàng cũng phát hiện ánh mắt ái mộ của chàng nên cũng đã ban phát vài nụ cười khuyến khích khiến trái tim chàng trai khờ khạo đập liên hồi. Tử Khuê đang ngây ngất hưởng thụ cảm giác ôn nhu ấy thì nghe cả quán kêu lên:
- Võ Đương Thần Kiếm!
Và gần trăm đệ tử Võ Đương cả nam lẫn nữ nhất loạt đứng lên, hoan hỉ gọi léo nhéo, chào đón vị khách mới đến. Kẻ thì kêu « sư huynh », người gọi « sư đệ »... om sòm cả phạn điếm. Cao giọng nhất vẫn là bọn đạo cô, ai cũng rống lên như sợ mất phần vậy. Tử Khuê bị bỏ rơi, chìm vào cảm giác ê chề, hụt hẫng. Chàng ngán ngẩm dõi mắt quan sát người mới đến. Nhận ra Võ Đương Thần Kiếm là nam nhân khả ái ngời ngời. Gã ta tuổi độ tam thập, thân hình cao lớn tráng kiện và mặt mũi thì đẹp như tiên, phong thái của gã hiên ngang, oai vũ và không kém phần văn nhã. Loại nam nhân như Võ Đương Thần Kiếm có thể chinh phục bất cứ trái tim nữ nhân nào dù là tiết hạnh khả phong. Tử Khuê nhờ sự giáo huấn của sư phụ mà rành rọt lai lịch hầu hết các cao thủ thành danh trong thiên hạ. Chàng hiểu Võ Đương Thần Kiếm tên gọi Mộ Duy Lộ, 32 tuổi, con nhà đại phú đất Nghi Xương. Mộ Duy Lộ mang vạn lượng vàng đến bái sư, nên được Chưởng môn phái Võ Đương là Văn Thiện Tử đặc cách nhận làm đệ tử tục gia. Theo quy củ của Võ Đương thì học trò Chưởng môn bắt buộc phải xuất gia, suốt đời chay tịnh.
Mộ Duy Lộ có căn cơ võ học rất tốt, lại siêng năng cần mẫn, nên bản lĩnh tăng tiến mau chóng vượt xa bạn đồng môn. Sau mười năm rèn luyện, võ công của gã chỉ thua Vân Thiên Tử và bốn vị sư thúc. Mộ Duy Lộ được xem là đóa kỳ hoa của phái Võ Đương, ai nấy đều yêu mến. Gã hạ sơn năm 24 tuổi, ngang dọc giang hồ trừ gian, diệt bạo, cứu khổ phò nguy, được đời ca tụng là Võ Đương Thần Kiếm. Tóm lại, Mộ Duy Lộ là kẻ đẻ bọc điều, có đủ những điều kiện tốt nhất, dung mạo, gia thế, võ công, thanh danh. Bởi vậy cho nên gã trở thành thần tượng của mấy trăm nữ đệ tử chưa chồng phái Võ Đương, cũng như rất nhiều khuê nữ khác ở đất Hồ Bắc. Khổ thay, Mộ Duy Lộ lại kiêu ngạo phi thường chẳng chịu trao trái tim mình cho bóng hình nào cả. Gã luôn dịu dàng, hòa ái và vui vẻ đón nhận những hiến dâng mà không hề hứa hẹn hoặc vướng vào lưới nhện của ai. Mộ Duy Lộ đã lần lượi bỏ rơi vài tá nữ nhân song chẳng hề mang tiếng háo sắc hay bạc tình. Nạn nhân lặng lẽ chấp nhận thiệt thòi và còn xem đoạn ân tình ngắn ngủi kia là kỷ niệm khó phai. Nghĩa là Mộ Duy Lộ đã đạt đến trình độ thượng thừa của nghệ thuật chinh phục đàn bà.
Tử Khuê cay đắng hiểu rằng mình hoàn toàn thua sút cái gã chết tiệt Mộ Duy Lộ kia. Song chàng chợt cau mày khi nhớ lại lời nhận xét của ân sư. Vu Mộc chân nhân đã nói thế này:
-Bậc quân tử không lấy cái mình không đáng được nhận, Mộ Duy Lộ là kẻ bất nhân, bất nghĩa nên mới lường gạt đám thiếu nữ ngây thơ, khờ dại. Sau này thanh danh Võ Đương sẽ vì hắn mà tan nát.
Tử Khuê thở dài tiếc cho một bậc tài mạo xuất chúng chỉ vì tâm bất chính mà sa vào ma đạo, trở thành tai họa của nhân quần xã hội. Và chàng cũng thầm cao hứng, tự nhủ rằng mình hơn được đối phương ở phần nhân phẩm. Đố kỵ và so sánh là cố tật của loài người, nhất là kẻ thanh xuân, những kẻ chưa hiểu rõ chính mình cũng như cuộc thế vô thường này.
Tử Khuê bình tâm quan sát cái cảnh Võ Đương Thần Kiếm tiếp xúc với đồng môn. Mộ Duy Lộ có giọng nói trầm ấm, ngọt như mía lùi, ngôn từ thì khôn khéo, dí dỏm, khiến người nghe phải ngất ngây. Còn ánh mắt gã nhìn các đạo cô thì chan chứa ân tình như gọi mời, như hò hẹn. Với phong thái ấy, gã chẳng cần phải tán tỉnh cũng có nhiều nàng xuân nữ hiểu lầm mà trao trọn trái tim non trẻ. Nhưng Mộ Duy Lộ rất khôn ngoan, luôn giữ phương châm “làm đĩ chín phương, chừa một phương lấy chồng”, nghĩa là gã không bao giờ dây dưa đến đám nữ đồng môn.
Sắp đến giữa giờ Ngọ thì Kiều Hương đại phạn điếm có thêm vài chục thực khách, đa số là đại biểu của những phái, bang hội lớn như Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Toàn Chân, Thiên Sư giáo, Võ Đương.
Quang Hóa là khu thị đô duy nhất nằm gần Võ Đương nên các khách khứa phải ghé đây ăn bữa trưa rồi lên núi. Nhưng cũng có những người ở lại đây đến sáng mai, sẽ chẳng dại gì đi sớm để phải nuốt những món chay nhạt nhẽo và phải giữ vẻ trang nghiêm trên thánh địa của đạo giáo. Khách đến chúc thọ đều thuộc hạng trưởng bối nên đám đệ tử Võ Đương phải một phen khom lưng thi lễ. Qua những lời xưng hô, chào hỏi ấy, Tử Khuê biết được thân phận của các vị khách mới đến. Chàng phấn khởi trố mắt nhìn những bậc cao nhân với niềm tôn kính, định đứng lên thi lễ song họ lại chẳng màng đến nên thôi.
Phái Võ Đương đang thời kỳ hùng mạnh, cùng Thiếu Lâm tự nhận lời tôn xưng “Thái Sơn Bắc Đẩu”. Vân Thiên Tử còn là người đứng đầu Hội đồng Võ lâm nên năm vị Chưởng môn kia đều đích thân đến mừng thọ. Họ gồm có:
- Đại Giác thiền sư, Phương trượng của chùa Thiếu Lâm.
- Tùng Xuân Tử, Chưởng môn phái Toàn Chân.
- Trúc Lâm Tử, Chưởng môn phái Hoa Sơn.
- Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách, tức Trương Thiên Sư của núi Long Hổ sơn.
- Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường, Bang chủ Cái bang.
Năm người này là tôn sư các phái lớn nên đều có tùy tùng theo hộ vệ, hầu hạ, cho nên nhân số mới lên đến hơn hai chục người. Kiều Hương đại phạn điếm tuy chỉ có một tầng song rất rộng rãi, bày đủ sáu chục bàn, chẳng sợ thiếu chỗ. Võ Đương Thần Kiếm lập tức đến bàn của năm vị Chưởng môn để vấn an. Tuy thuộc hàng hậu bối song gã được họ đối xử rất trọng hậu vì những khoản cúng đường rất lớn của Mộ Dung gia trang. Bản thân kẻ tu hành thì không cần vàng bạc nhưng sự tồn tại của một môn phái lại đòi hỏi ngân sách dồi dào.
Mộ Duy Lộ đã thi hành chiến thuật “phóng tài hóa thu phục nhân tâm”. Gã mua chuộc Hội đồng Võ lâm y như mua những nàng trinh nữ trong đời mình. Võ Đương Thần Kiếm không đồng hành với nữ nhân nào quá 3 tháng. Trong thời gian ấy gã cung phụng cho nữ nhân vàng bạc, châu báu, lụa là, gấm vóc, những món ăn sơn hào hải vị và những cuộc du ngoạn đắt tiền. Không một nữ nhân nào có thể từ chối những tặng vật hậu hĩnh ấy cả. Thích ăn ngon, mặc đẹp, đeo nữ trang chính là bản năng của đàn bà.
Nữ nhân say đắm Mộ Duy Lộ vì gã tài mạo song toàn và cũng vì cảm kích trước những ân sủng. Họ mê muội hiến dâng thân xác để rồi nuốt lệ chia tay. Họ cắn răng chấp nhận vì Mộ Duy Lộ tuyên bố trước rằng gã sẽ sống độc thân đến tuổi tứ tuần để hoàn thành lý tưởng là người hiệp nghĩa cứu khổ phò nguy, giáng ma vệ đạo. Phải chăng chính những nữ nhân kia cũng có lỗi khi để những cám dỗ vật chất xa hoa và cái đẹp mã của kẻ bạc tình làm cho mình mê muội?
Tử Khuê đang miên man suy nghĩ như thế thì giật mình bởi tiếng ghế khua. Tất cả thực khách đã rời vị trí kẻ đứng người quỳ để đón tiếp ai đó. Chỉ có các trưởng lão Chưởng môn mới được phép đứng, kỳ dư đều phải dập đầu hành lễ. Tử Khuê nhận ra nhân vật được tôn kính cực kỳ ấy là lão đạo sĩ áo đen cao gầy, râu tóc hoa râm, tuổi độ thất tuần. Gương mặt xương xương của lão vô cùng lạnh lẽo, còn ánh mắt thì sáng quắc không kém phần lãnh đạm. Tử Khuê bối rối nhưng vẫn đứng lên chắp một tay nghiêng mình thi lễ theo lối đạo gia. Chàng cho rằng đối phương nhỏ tuổi hơn sư phụ mình nên chưa xứng với đại lễ. Hơn nữa, song phương chẳng hề quen biết.
Phương trượng Thiếu Lâm tự đã lên tiếng:
- A Di Đà Phật. Bần tăng vui mừng vì được diện kiến Thánh Y. Không ngờ lão thí chủ lại hạ cố di giá đến chúc phúc cho Vân Thiên Tử đạo huynh.
Nghe xong Tử Khuê lập tức nhớ ra lai lịch của lão đạo sĩ áo đen. Ông ta chính là Cửu Hoa chân nhân Cổ Sĩ Hoành, tuổi độ 74. Đầu Hạ năm năm trước, tức năm Kỷ Dậu, nhân dịp khánh hạ tân đại hồng chung của Thiếu Lâm tự, Chưởng môn, long đầu các phái lớn trong võ lâm đã đến chúc mừng, đồng thời bàn bạc việc tổ chức Đại hội Võ Lâm sang năm. Nào ngờ một ác ma bị truy tung nhiều năm, đột nhiên xuất hiện để báo thù. Độc Tu La Địch Thăng đã ném vào giữa khu hành lễ một quả “Vong Mệnh thần lôi” làm cho hơn trăm người thọ hại, trong đó hầu hết là những đại nhân vật các phái, kể cả Hội đồng Võ lâm. Độc Tu La bị những người ở vòng ngoài vây chặt uy hiếp sinh mạng của lão để đổi lấy thuốc giải. Nhưng Địch Thăng đã ngạo nghễ tuyên bố rằng chất độc kia trên thế gian không ai giải được, rồi lão tự sát.
Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Vy được mời đến song cũng phải bó tay, và các nạn nhân chỉ còn cách nằm chờ chết. Họ không chết ngay mà ngắc ngoải hàng tháng trong cảm giác đau đớn vô biên. May thay, Cửu Hoa chân nhân đã lên núi Tung Sơn, đối chứng lập phương, tìm ra giải dược cứu đủ 164 tinh hoa của võ lâm. Cửu Hoa chân nhân không chịu nhận bất cứ sự đền ơn nào, chỉ lạnh lùng bảo rằng:
-Bần đạo chỉ cần chư vị học lấy đức khiêm cung. Như thế là đã đủ.
Kể từ lúc ấy, Cửu Hoa chân nhân được tôn xưng là Thánh Y và được hưởng sự tôn kính tuyệt đối của hội đồng Minh chủ. Nhưng ông ta ít khi xuống núi nên mọi người chẳng có nhiều dịp để tỏ ra khiêm tốn. Nhắc lại sau khi nghe xong câu nói của Đại Giác thiền sư, Cửu Hoa Thánh Y phất tay áo nghiêm nghị trách:
- Đức khiêm cung hiện hữu ở trong tâm chứ không phải ở lễ nghi lạy lục. Thi lễ mà không lòng kính thì cũng vô ích.
Rồi ông chỉ vào Tử Khuê mà nói tiếp:
- Tiểu tử kia không quỳ, nhưng lại là kẻ chí thành.
Lời chê trách của Chân nhân đã khiến các Chưởng môn và đệ tử của sáu phái bẽ bàng, bực bội nhìn chằm chằm kẻ đã được khen, khiến Tử Khuê ngượng ngùng đỏ mặt. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là bằng hữu thâm giao với Cửu Hoa chân nhân, dù nhỏ hơn gần chục tuổi. Chính vì thế mà đệ tử Cái bang mới biết Cổ Sĩ Hoàng tinh thông y học, đi mời đến chữa trị cho Bang chủ và những nạn nhân khác. Thất Bổng Cái quá rõ tính nết quái dị của Cửu Hoa chân nhân, liền cười khanh khách bảo:
- Này Cổ chân nhân! Chẳng qua gã mũi trâu trẻ tuổi ấy không thuộc những phái đã chịu ơn ông nên chẳng thèm lạy lục đấy thôi.
Cửu Hoa Thánh Y lộ vẻ ngạc nhiên thất vọng:
- Thế mà ta nghĩ môn phái Võ Đương đã sản sinh được một nhân tài xuất chúng, trăm năm có một.
Câu này như gáo nước lạnh dội vào đầu bọn đệ tử Võ Đương đang hiện diện. Mộ Duy Lộ là người kiêu ngạo, bước ra vòng tay nói:
- Nhân tài núi Võ Đương nhiều như lá mùa thu, ngay đệ tử đây tuy kém cỏi song cũng tự thấy mình chẳng thua sút vị đạo hữu kia ở điểm nào.
Đám nữ đệ tử Võ Đương phấn khởi cổ vũ cho thần tượng:
- Đúng vậy ! Không thể thua được.
Cửu Hoa chân nhân ngắm nghía Mộ Duy Lộ một lúc rồi cười ruồi:
- Ngươi cũng là kẻ căn cơ thượng phẩm, nhân tài của võ lâm. Song ngươi vì quen thói tham hoa luyến sắc nên nhân phẩm và võ nghệ đều sa sút. Bần đạo e rằng ngươi không duy trì nổi ba khắc khi chạm trán với con cọp non kia.
Mộ Duy Lộ bị chê bai quá cỡ như vậy nên lửa giận bừng bừng, mặt đỏ gay, gã cười nhạt đáp:
- Nếu đệ tử không duy trì nổi ba khắc thì nguyện sẽ phế bỏ danh hiệu Võ Đương Thần Kiếm.
Cửu Hoa chân nhân lạnh lùng lắc đầu:
- Cái hư danh kia dẫu mất hay còn cũng không quan trọng. Bần đạo chỉ muốn ngươi bế quan vài năm, nên luyện thêm võ nghệ và tu dưỡng đạo đức, hầu sau này trở thành người hữu dụng. Tám năm qua ngươi đã tạo nên biết bao nhiêu nghiệp chướng sắc dục, sắp đến lúc nhận lấy quả xấu.
Lời chính khí ấy khiến toàn trường chết lặng song không cảnh tỉnh nổi kẻ u mê. Mộ Duy Lộ nhếch mép cười ngạo nghễ:
- Cảm tạ bậc trưởng bối đã quan hoài. Song đệ tử tự xét mình vô tội chẳng có gì phải sợ hãi cả. Tuy nhiên đao kiếm vốn vô tình, nếu lần này lỡ tay đả thương hay sát hại vị đạo hữu kia thì xin Chân nhân lượng thứ cho.
Đôi mắt đẹp của gã lộ đấy sát khí khiến Tử Khuê sợ nhũn cả người. Chàng vội lúng túng thoái thác:
- Bẩm Cổ tiền bối. Đệ tử là Vu Diệp, tuổi mới hai mươi, học võ công chỉ vài năm chẳng thể nào địch lại một cao thủ lừng danh như Mộ Duy Lộ thí chủ đây. Đệ tử xin phép được cáo thoái.
Cửu Hoa chân nhân trừng mắt, nạt:
- Khiêm tốn là điều tốt song không được nhút nhát. Bần đạo đã nhìn ra ngươi, chẳng thể lầm được.
Tử Khuê rầu rĩ biện bạch:
- Tiền bối mới gặp đệ tử lần đầu, làm sao biết được bản lĩnh của kẻ hèn này cao thấp thế nào?
Tùng Xuân Tử, chưởng môn phái Toàn Chân, ngơ ngác hỏi chàng:
- Té ra ngươi và Cửu Hoa Thánh Y chẳng hề quen nhau sao? Thế mà nãy giờ bần đạo cứ ngỡ hai người cố tình bày trò giễu cợt Mộ Duy sư điệt.
Tử Khuê ấp úng đáp:
- Bẩm tiền bối. Đệ tử mới hạ sơn được nửa tháng, nào có quen biết ai.
Thất Bổng Cái phá lên cười sằng sặc, nói với Cửu Hoa chân nhân:
- Này Cổ đạo huynh. Xem ra cái phép xem tướng gà của ông đã hết thời rồi. Sao lại nhìn gà mái ra gà trống.
Toàn trường ồ lên cười khoái trá, mỉa mai Cổ Sĩ Hoàng. Nhưng Cổ chân nhân vẫn thản nhiên, dịu giọng hỏi Tử Khuê:
- Vu Diệp sư điệt, phải chăng song thân ngươi vẫn còn.
Vu Diệp chính là đạo hiệu của Quách Tử Khuê, do chàng cầu khấn sư phụ ban cho. Tuy không xuất gia song Tử Khuê vẫn tự xem mình là đệ tử Tam Thanh. Tử Khuê nghe hỏi vậy bỡ ngỡ trả lời:
- Bẩm tiền bối. Quả đúng như thế.
Cổ chân nhân hài lòng, gật gù nói tiếp:
- Vậy thì ngươi hãy nhận lời giao đấu cùng gã Mộ Duy Lộ để thực hiện lòng hiếu thảo với song thân. Bất kể ngươi thắng hay bại, bần đạo cũng sẽ ban cho hai viên “Trường Thọ đan”, giúp lệnh huyện đường kháng kiện và sống thọ quá chín mươi.
Tử Khuê choáng váng trước đề nghị hấp dẫn kia, tim đập thình thịch, cứ phân vân chẳng biết phải làm sao. Chàng hiểu rằng hai viên linh đan nọ cực kỳ quý giá và rất cần cho cha mẹ mình. Vả lại, phụ thân chàng tuổi đã cao, thường xuyên bệnh hoạn. Lòng hiếu thảo đã khiến Tử Khuê bớt sợ hãi rụt rè hỏi lại:
- Bẩm tiền bối. Có đúng là dẫu bại cũng được linh đan hay sao?
Cổ Sĩ Hoàng gật đầu, móc ra chiếc lọ ngọc bước đến trao cho chàng và bảo:
- Đây là hai viên “Trường Thọ đan” cuối cùng của bần đạo. Ngươi hãy giữ lấy trước để yên tâm tham chiến.
Tử Khuê ngập ngừng thò tay nhận lấy cẩn thận nhét vào dải thắt lưng quần. Bỗng chàng nghe bên tai có tiếng người thì thầm, nhỏ như tiếng muỗi vo ve:
- Vu Diệp sư điệt ! Bần đạo chính là Kỳ Hoàng chân nhân, sư thúc của ngươi đây. Nay Mộ Duy Lộ đã sa vào tà đạo làm nội gián cho ác ma. Do đó, sư điệt phải vì võ lâm mà nỗ lực. Ngươi hãy dùng “Thao Quang thần thức”, âm thầm điểm vào bốn huyệt Trung Chu, Duy Đạo, Phúc Kết, Ngoại Lăng trên bụng của y. Sau đó, sư điệt bãi chiến và nhận bại.
Tử Khuê cố nén nỗi vui mừng bởi tìm được vị sư thúc hành tung kỳ bí, đúng như di ngôn của ân sư dặn dò. Đồng thời, chàng cũng thêm phần tự tin vào bản lãnh vì biết sư thúc chẳng bao giờ đưa mình vào chỗ chết. Nghĩa là ông biết chàng có thể thắng được Mộ Duy Lộ. Và nếu như làm được điều ấy thì quả là tuyệt diệu. Tử Khuê nghe bầu nhiệt huyết sôi lên, khẽ gật đầu tỏ vẻ đã thông suốt.
Toàn bộ thực khách rời quán, kéo ra mảnh đất rộng phía sau. Nơi này trước đây có lẽ là vườn hoa song giờ đã thành chốn đậu xe và cột ngựa. Dọc theo hai bức tường Đông Tây là dãy chuồng ngựa san sát. Năm nay tuyết rơi muộn song trời vẫn lạnh căm căm, cây cỏ tiêu điều xơ xác, ánh dương nhạt nhòa dù là đang giờ Ngọ.
Võ Đương Thần Kiếm cởi chiếc áo khinh cừu trắng muốt trao cho một đồng môn. Là đệ tử tục gia nên Mộ Duy Lộ không mặc đạo bào. Bộ võ phục màu nguyệt bạch, bằng gấm Hàng Châu thượng hạng, mép vạt thêu hoa văn chỉ tím ôm sát lấy thân hình cường tráng của gã làm nổi bật lên những cơ bắp cuồn cuộn. Tử Khuê không có áo cừu để cởi vì đã quen với cái lạnh thấu xương của vùng núi non Tứ Xuyên. Chàng đã nhường áo lông cừu của mình cho sư phụ. Giờ đây, trong tấm đạo bào thùng thình bằng vải xấu, trông chàng chằng chút oai phong, kém xa đối thủ. Đứng trước một cao thủ thành danh và cao lớn hơn mình, trong lòng Tử Khuê không khỏi có chút lo lắng, sợ hãi. Nhất là khi bọn đệ tử Võ Đương cứ ngoác miệng cổ vũ cho Mộ Duy Lộ. Nhưng bỗng Tử Khuê phát hiện trong hàng ngũ đối phương có một cặp mắt nhung huyền đang nhìn mình lộ vẻ khuyến khích, mong đợi. Đấy là một đạo cô tuổi độ đôi tám, đôi chín, đầu mũ vải đen, chứng tỏ đã xuất gia chứ không phải tục gia đệ tử. Nhan sắc của nàng ta không rực rỡ, sắc sảo song ngũ quan đoan chính, trán cao thanh thoát. Và ánh mắt này rất sinh động, tựa như biết cười, biểu lộ một tính cách tinh minh, thông tuệ. Khi nhận ra Tử Khuê nhìn mình, vị tiểu đạo cô kia đã nở nụ cười ấm áp rồi nháy mắt vời chàng. Tử Khuê ngây ngất và nghe dũng khí hừng hực lan tỏa khắp châu thân. Chàng không thể để mất mặt với kẻ đã ngưỡng mộ mình.
Thực ra, Tử Khuê không phải kẻ hèn nhát. Chẳng qua suốt một thời thơ ấu, chàng luôn gặp tai họa và luôn được mẫu thân dặn dò cẩn trọng, nên đởm lược tiêu tan. Nay có đạo cô này đỡ tinh thần, Tử Khuê vượt qua được sự e dè thiếu tự tin, bình thản bước vào cuộc chiến. Chàng rút kiếm ra, nghiêm trang dựng trước mặt. Chuôi kiếm bằng đồng đã lạnh tanh vì gió đông làm tê cả lớp da lòng bàn tay hữu. Nhưng chính hơi thép lạnh đã biến Tử Khuê thành một người khác. Tổng cộng, chàng đã có mười hai năm khổ luyện kiếm thuật, nhờ ngộ tính cao mà đạt đến trình độ thượng thừa, tâm và kiếm hòa làm một. Giờ đây, lòng chàng phẳng lặng như gương, không chút bụi tạp niệm và tất nhiên chẳng còn cảm giác sợ hãi. Hơn nữa, thanh trường kiếm này vốn là vũ khí tùy thân của mẫu thân chàng năm xưa. Trước khi rời bỏ kiếp giang hồ, Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã đến Vũ Lương sơn thăm Vu Mộc chân nhân và gởi bảo kiếm. Tử Khuê kính yêu từ mẫu nhất trên đời và hãnh diện về quá khứ oai hùng của bà như bất cứ đứa trẻ nào khác. Kỹ nương chỉ tiêu diệt kẻ ác và chưa hề giết lầm. Có điều là thủ đoạn của bà quá quyết liệt, không phù hợp với đức hiếu sinh của trời đất. Giờ đây, Tử Khuê không thể làm nhục lưỡi gươm hào hùng của mẫu thân. Có thể là do chưa hề gặp cường địch nên Băng Tâm Ma Nữ luôn chiến thắng. Tử Khuê là người học đạo tất biết về thịnh suy tiến thoái, không mong trở thành vô địch, song ít nhất là phải thắng ở trận đấu đầu đời.
Hữu xạ tự nhiên hương. Nhưng bản lãnh của người kiếm sĩ cũng tựa như hương thơm kín đáo của một loài hoa lạ, chỉ có những cái mũi tinh tế mới nhận ra được. Năm vị Chưởng môn nhân ngạc nhiên trước khí thế bất phàm của chàng kiếm thủ trẻ măng, bèn quay lại nhìn Cửu Hoa Thánh Y với vẻ nghi ngờ. Thất Bổng Cái vốn là người thẳng thắn, lên tiếng hỏi ngay:
- Này Cổ chân nhân ! Gã tiểu tử Vu Diệp kia là học trò của bậc kỳ nhân nào mà lại có bản lĩnh kiếm thuật cao siêu như thế. Và phải chăng ông định mượn tay y để giết Mộ Duy Lộ?
Cửu Hoa chân nhân nghiêng người thì thầm vào tai người bạn vong niên, nghe xong, Thất Bổng Cái tái mặt than:
- Chẳng lẽ có việc ấy sao?
Và Bang chủ Cái bang vội đi rỉ tai bốn vị Chưởng môn còn lại, ai nấy đều phiền muộn lo lắng.
Lúc này, Tử Khuê đã xuất chiêu, theo lời mời ngạo nghễ của Võ Đương Thần Kiếm. Chàng nhỏ tuổi hơn nên có quyền ra tay trước. Tử Khuê không biết mình đã được ân sư truyền cho mười tám năm tu vi, tổng cộng tròm trèm ba chục năm công lực, nên hơn hẳn đối phương. Tử Khuê sợ thua thiệt nên đã dồn hết sức vào chiêu “Thanh Long Lộng Nguyệt”. Mộ Duy Lộ cũng là kiếm thủ tài ba nên lập tức đề cao cảnh giác khi thấy trường kiếm của đối phương hóa thành những chiếc móng bạc và phát ra những âm thanh vun vút, rợn người. Những hiện tượng ấy chứng tỏ Vu Diệp có công lực cực kỳ thâm hậu và đường gươm nhanh tựa sao sa. Chỉ có bậc kiếm sĩ thượng thừa mới tạo ra được màn kiếm ảnh, không còn thấy thân kiếm đâu nữa. Mộ Duy Lộ càng bội phần khiếp đảm khi những chiếc móng màu bạc kia ập đến nhanh hơn gió. Nghĩa là khinh công của Vu Diệp cũng thuộc hạng quán thế.
Mộ Duy Lộ nghiến răng xuất chiêu “Thanh Tùng Nghiêng Vũ”, công thủ vẹn toàn, một trong những chiêu lợi hại nhất của Võ Đương kiếm pháp. Bảo kiếm trên tay gã dệt nên một màn thép dày đặc và tua tủa những mũi thép nhọn hoắt, tựa như tàn lá thông sum suê, rậm rạp đang chào đón trận mưa xuân. Núi Võ Đương trồng rất nhiều cây tùng nên Trương chân nhân đã dùng tên của loài cây ấy đặt cho vài chiêu kiếm.
Song phương chạm mặt, tiếng thép ngân vang, lúc thanh tao, khi chát chúa, nối nhau không dứt. Khách quan chiến có thể thấy rõ là chín đạo kiếm quang như móng rồng của Vũ Diệp đã bao trùm lấy chiếc tán thép xanh biếc quanh người Mộ Duy Lộ. Những chiếc móng bạc ấy đảo lộn trong không gian, liên tục vươn lên mục tiêu hoặc lượn lờ chẳng khác gì rồng thiêng giữa trăng. Cảnh tượng này vô cùng ngoạn mục làm say đắm người xem, song Mộ Duy Lộ thì đang sợ đến toát mồ hôi hột. Chiếc móng rồng thứ chín luôn thập thò uy hiếp bảy đại huyệt trên ngực và bụng của gã, trong lúc tám đạo kiếm ảnh còn lại bao vây chặt chẽ, chẳng còn đường tránh né. Nhưng may thay Mộ Duy Lộ chợt phát hiện đối phương có một sơ hở chết người, liền mau chóng thọc mũi kiếm vào đấy. Quả nhiên Vu Diệp phải thoái bộ, bỏ lỡ chiêu kiếm. Mộ Duy Lộ phấn khởi xông lên, tấn công bằng chiêu “Thu Phong Xuy Lạp”, ảo diệu và mãnh liệt phi thường. Vu Diệp lập tức bị hạ phong, rơi vào thế thủ.
Bọn Võ Đương mừng rỡ, reo hò vang dội khi thấy gà nhà đang thắng thế. Quả đúng như vậy, Mộ Duy Lộ đã hiển lộ thần oai, ra đòn như bão táp mưa sa khiến Vu Diệp chẳng thể phản kích được.
Nhưng hai khắc sau, dẫu xuất hạn dầm dề mà Võ Đương Thần Kiếm vẫn không sao đả thương được đối thủ. Gã nóng ruột tăng thêm công lực, cố kết liễu trận đánh.
Chỉ có năm vị Chưởng môn và Cửu Hoa Thánh Y là biết Vu Diệp đang nhường nhịn, cam tâm chịu thế hạ phong. Dẫu chàng có giả vờ lúng túng khi chiết chiêu thì cũng không qua được mắt họ. Tử Khuê vốn là kịch sĩ hạng bét. Chàng quên rằng một kẻ kém tài chẳng thể duy trì hơn ba trăm chiêu mà không đổ mồ hôi.
Sau lần chạm chiêu đầu tiên Tử Khuê đã biết bản lãnh mình cao hơn Mộ Duy Lộ vài bậc, cả về công lực lẫn nghề đánh kiếm. Vì thế, chàng cố tình lộ sơ hở để đối phương phản kích. Sau đó Tử Khuê giảm bớt chân khí ở tay kiếm, thi triển yếu quyết « kiên thủ nhi an », bình thản giải phá những chiêu công quyết liệt của kẻ địch. Phòng thủ là sở trường số một của Vu Mộc chân nhân. Ông có thể cầm cự hàng ngàn chiêu để nghiên cứu sở học của đối phương. Rốt cuộc, kẻ ấy kiệt sức mà bỏ cuộc, chẳng thèm đánh nữa. Chân nhân truyền thụ cái công phu nọ cho đồ đệ và Tử Khuê đã từng chịu đựng được những trận đánh dài hàng canh giờ. Do chàng không bị ràng buộc bởi lời thề giới sát nên trong lúc thủ có thể phản công khi đối phương sơ hở. “Thao Quang thần thức” là môn võ công diệu kì, có riêng những chiêu thuộc về tay tả để sử dụng phối hợp với kiếm pháp.
Tuyệt học của Nga Mi đạo giáo thuở xưa vốn gồm có năm môn: nội công, kiếm thuật, quyền, chưởng, khinh công và y thuật. Lớp đệ tử cuối cùng chính là Vu Mộc chân nhân, Thạch Long chân nhân, Kỳ Hoàng chân nhân tức là Cửu Hoa Thánh Y. Mỗi người đã chọn sở trường cho mình chuyên luyện một hai môn.
Nhắc lại, trận đấu này đã giúp cho Tử Khuê đánh giá đúng bản lãnh võ nghệ đích thực của mình. Đồng thời chàng cũng phát hiện ra việc đã hoàn thành lớp thứ bảy của “Thao Quang tâm pháp”. Khi vận vào bàn tay tả để điểm huyệt Mộ Duy Lộ, chàng bàng hoàng nhận ra hai tia chân khí mờ nhạt, dài độ hai gang. Tử Khuê ngờ ngợ hiểu ra, lòng vô cùng đau đớn và tiếc thương sư phụ. Chàng cố nén thương tâm, khéo léo điểm từng huyệt đạo trên bụng Mộ Duy Lộ rồi tìm cách bãi binh.
Trong giao đấu, kiếm kình cuồn cuộn uy hiếp da thịt nên Võ Đương Thần Kiếm không hề phát hiện cảm giác đau nhè nhẹ khi bị điểm huyệt. Rõ ràng là bàn tay của Vu Diệp chưa hề chạm đến người của gã. Khi cây hương thời gian sắp cháy đến khắc thứ ba thì Cửu Hoa chân nhân lên tiếng nhắc nhở. Tử Khuê hiểu ý vừa giật lùi vừa nói:
- Tiểu đạo chỉ giỏi nghề thủ thân, có đánh tiếp cũng không đi đến đâu, mong đạo hữu tha cho.
Ngoài kia, Cửu Hoa Thánh y cũng cao giọng:
- Thôi đủ rồi! Bần đạo công nhận Võ Đương Thần Kiếm đã thắng. Gã Vu Diệp này cứ như rùa rụt cổ, chẳng phản công được lấy một chiêu khiến người xem phải chán ngán.
Mộ Duy Lộ đang mệt muốn đứt hơi, mừng rỡ nhận lời ngay. Gã nhảy lùi lại tra gươm vào vỏ, ra vẻ kẻ cả mà khen ngợi Vu Diệp.
- Ngươi cũng là tay khá đấy. Hãy cố rèn luyện nữa nhé.
Chợt gã phát hiện giọng nói mình nặng nhọc, thiếu hơi và toàn thân bải hoải, nhớp nhúa mồ hôi, liền sượng sùng im bặt. Tử Khuê hiểu thấu tim đen đối phương nên nhũn nhặn trả lời :
- Tiểu đạo luyện “Đồng Tử công”, không gần nữ sắc nên rất ít mồ hôi.
Mộ Duy Lộ tưởng thật, thầm nghĩ:
- Có lẽ ta phải sống điều độ lại mới được.
Nhưng hình bóng mỹ miều của Đông Nhạc Tiên Hồ hiện ra đầy cám dỗ, khiến gã hiểu rằng mình không thể giảm bớt thú phong lưu. Người đàn bà ấy là báu vật số một thế gian, mỵ lực mê hồn, chỉ nghĩ đến lòng đã nghe rạo rực. Gã say đắm nàng ta đến mức sẵn sàng bán cả hồn phách cho qủy dữ.
Vài ngày sau, Quách Tử Khuê sang đến địa phận Hà Nam, ghé vào huyện Trình ngủ một đêm. Huyện Trình nằm giữa đoạn đường từ Quang Hóa đi Nam Dương. Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi mà tên của một dòng họ trở thành tên địa phương. Số là thế này ngày trước, khi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tấn công thành Nam Dương thì gặp sự kháng cự quyết liệt của quân Mông Cổ. Thành Nam Dương cực kỳ kiên cố và người Mông thì giỏi nghề cung tiễn. Do đó, Chu Nguyên Chương hao binh tổn tướng rất nhiều, vây hãm thành hàng tháng mà không sao phá được.
Lúc ấy, bỗng có một thế hào ở vùng ranh giới Hồ Bắc-Hà Nam mang gia đinh đến hỗ trợ quân Minh. Người này họ Trình, chuyên nghề nuôi ong lấy mật. Vùng đất từ phía Nam thành Nam Dương đến Quang Hóa nằm trong vùng lưu vực của hai con sông Bạch Hà và Doan Hà nên rất phì nhiêu. Ngày đó rừng ở huyện Trình còn rất nhiều, lại gồm toàn những cây có hoa, nên nghề nuôi ong vô cùng phát đạt và dòng họ Trình làm nghề này lâu đời nhất. Tổ phụ họ Trình đã mang đến Nam Dương năm mươi đàn ong độc và điều khiển chúng dễ dàng như người ta dạy chó vậy. Mấy vạn con ong vàng đen vằn vện ấy đã vô hiệu hóa bọn cung thủ Mông Cổ trên mặt thành nên quân Minh ung dung dùng cự mộc phá cửa thành mà vào. Chu Nguyên Chương vui mừng vô hạn liền ban cho Trình Phú Thứ tước Hoàng Phong Hầu và đất đai. Sau này, khi thống nhất được giang sơn, phân chia địa giới hành chính, huyện Trình đã được thành lập, trực thuộc phủ Nam Dương, tỉnh Hà Nam.
Đấy là chuyện xa xưa, giờ đây người kế thừa của họ Trình là nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, tuổi độ 23. Trình tiểu thư vẫn tiếp tục nghề nuôi ong mật, song lại còn tổ chức thêm một bang hội lấy tên là Hoàng Phong bang. Và đây là bang hội nhỏ duy nhất không thèm đóng góp cho ngân quỹ của Tổng đàn Võ lâm. Âu Dương Mẫn vô cùng cay cú song phải lờ đi vì cái tước Hầu của Trình Thiên Kim, cũng như những đàn ong độc đáng sợ. Hắn chẳng thể dùng độc mà ám toán nữ Hầu tước như đã làm với vài người khác. Còn như vu oan giá họa thì cũng chẳng được vì quan lại địa phương đều là người họ Trình.
Sáng mùng sáu tháng mười một, Tử Khuê rời huyện Thành đi về hướng Nam Dương xế chiều hôm sau thì đến Bạch Ngưu trấn. Đây là nơi mà Hầu phủ và Tổng đàn Hoàng Phong bang tọa lạc. Quanh trấn toàn là rừng xanh và trảng cỏ đầy hoa, chốn kiếm ăn của hàng ngàn đàn ong mật. Mật đắt hơn gạo nên cư dân trong trấn chẳng thèm trồng lúa cứ việc bán mật mà mua ngũ cốc từ địa phương khác. Tuyết bắt đầu rơi lất phất nên ai nấy đều co ro trong áo bông áo kép, đầu đội mũ lông hoặc nón rộng vành. Mặc nhiên là chẳng ai muốn ra đường trừ phi có việc cần. Vậy mà cạnh chiếc cổng đá đồ sộ phía nam Bạch Ngưu trấn có mặt 8 người cứ đứng phơi mình, mắt hướng về phía hướng nam với vẻ đợi chờ, sốt ruột. Họ gồm bốn nam, bốn nữ tay cầm cờ, lọng, chiêng, khánh, có lẽ đang chờ để tiếp đón thượng khách nào đó. Thỉnh thoảng, gió bấc lại thổi tung lá đại kỳ nền vàng ủ rũ, ẩm ướt, để lộ ba chữ màu đen: “Hoàng Phong bang”. Y phục của tám người ấy cũng có màu vàng sậm, thắt lưng đen. Trong đám đó, người cao niên nhất là một lão nhân tuổi quá sáu mươi, râu ba chòm điểm bạc. Ông nhăn mặt cằn nhằn:
- Lạ thực! Trương Thiên Sư đã hứa rằng sau ngày khánh thọ Văn Thiên Tử sẽ đích thân đi, hoặc cử đệ tử giỏi nhất của mình đến đây. Sao giờ vẫn chưa thấy nhỉ ?
Bỗng đôi mắt diều hâu của lão sáng lên khi phát hiện bóng dáng một kỵ sĩ đang đi đến. Lão hồi hộp nói với bảy người kia:
- Có lẽ là khách đã đến, các ngươi mau chuẩn bị đi.
Kỵ sĩ áo xanh đang đội tuyết ấy đã đến nơi. Gã ta không mặc áo cừu nên ai cũng thấy rõ bộ đạo bào thùng thình thêu thùa hình Bát Quái. Lão nhân râu ba chòm cau mày lẩm bẩm:
- Gã tiểu đạo sĩ này tuổi mới đôi mươi, chẳng lẽ lại là đệ tử có pháp thuật cao cường nhất của Trương Thiên Sư ? Hay là tài không đợi tuổi? Vả lại, pháp thuật cao thấp là do đạo hạnh, hoặc công lao tu hành kiếp trước, chứ đâu phải võ thuật mà cần nhiều năm khổ luyện.
Lão tự an ủi mình như thế rồi bước ra chặn đầu ngựa của lữ khách, cung kính vòng tay thi lễ:
- Lão phu là Trình Kiếm Các, Phó bang chủ Hoàng Phong bang. Dám hỏi phải chăng đạo trưởng từ Võ Đương sơn đến?
Người bị hỏi chính là chàng trai xui xẻo Quách Tử Khuê của chúng ta. Tử Khuê ngỡ ngàng chắp một tay lên ngực, cúi đầu đáp lễ và đáp:
- Bẩm lão thí chủ ! Tiểu đạo Vu Diệp đúng là từ nơi ấy đến.
Lòng chàng rất ngạc nhiên, chẳng hiểu vì sao đối phương lại biết việc ấy.
Trình Kiếm Các mừng rỡ hỏi thêm một cách xã giao:
- Chẳng hay ngọc thể lệnh Giáo chủ có an khang hay không?
Câu này cũng giống như cái cách mà người ta hỏi thăm sức khỏe phụ mẫu của nhau vậy.
Sau khi được Tử Khuê cho biết đương kim Minh chủ Âu Dương Mẫn là lão ác ma Huyết Mai hội chủ năm xưa, Hội đồng Võ lâm vô cùng lo lắng. Họ khẩn khoản mời Cửu Hoa Thánh Y đứng ra chủ trì đại cuộc, tìm cách tiêu diệt đại họa cho võ lâm. Cổ Sĩ Hoàng là người tài trí, đa mưu túc kế lại giỏi y thuật, quả xứng là lãnh tụ của phe Bạch đạo trong sự nghiệp giáng ma. Cửu Hoa chân nhân đã nhận lời nên Tử Khuê cũng được xem trọng vì là sư điệt. Phần Trương Thiên Sư thì càng yêu mến Tử Khuê khi biết chàng là đệ tử duy nhất của Vu Mộc chân nhân. Trương Thiên Sư đặc biệt kính mến Chân nhân, xem ông là bậc Địa Tiên. Thấu hiểu hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm hiện nay của Tử Khuê, Trương giáo chủ đã hăng hái giúp đỡ bằng cách ban cho chàng một tờ “Đạo điệp”. Từ nay Tử Khuê sẽ mang thân phận đệ tử Thiên Sư giáo, đánh lạc hướng kẻ thù. Vì vậy, giờ đây chàng mặc áo đạo bào thiêu hình Bát Quái và phải ngượng ngùng đáp Trình Kiếm Các như sau:
- Đa tạ lão thí chủ. Gia sư vẫn bình an.
Cho rằng đã đón đúng người, Trình lão hân hoan ra hiệu cho thủ hạ. Thế là ba nam bốn nữ ấy vội khua chiêng, gõ khánh ỏm tỏi và mang lọng đến che đầu cho khách. Phần Trình phó bang chủ thì nắm lấy dây ràng mõm ngựa mà dắt vào trấn. Tử Khuê như người rơi từ cung trăng xuống. Chẳng biết phải phản ứng thế nào, đành bấm bụng để mặc bọn Hoàng Phong bang thực hiện nghi lễ đón khách khá long trọng. Bách tính ở hai bên đường nghe tiếng chuông, khánh vang rần, biết ngay rằng Hầu phủ đã mời được đại pháp sư đến. Họ ùa ra xem, đứng chật cả vệ đường, kính cẩn vái dài, dù lòng thì tự hỏi liệu cái gã đạo sĩ mặt búng ra sữa kia có « bỏ của chạy lấy người » như những pháp sư khác hay không ? Bang chủ Hoàng Phong bang tức Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim đã bị quỷ ám 3 tháng nay. Thầy thuốc lắc đầu, còn các hòa thượng, đạo sĩ quanh vùng bị con quỷ đó đánh tơi bời, đành tuyên bố bỏ nghề tróc quỷ.
Người trong Bạch Ngưu trấn vẫn lén gọi Trình Thiên Kim là Trình Giảo Kim. Chẳng phải vì nàng ta có râu hoặc sử dụng búa làm vũ khí, mà vì Nữ Hầu tước ấy tính nóng như lửa. Và khi nàng đã nổi nóng thì còn dữ dằn hơn cả Thiên Lôi, toàn trấn phải đóng chặt cửa nếu không muốn bị mang hoạ. Tuy nhiên, lúc bình thường, Thiên Kim lại cực kỳ nhân hậu, rộng rãi và dễ thương. Do tính nết như thế nên đến tuổi 23 mà Trình tiểu thư vẫn chưa chồng. Khi nàng lâm bênh, bị nhốt chặt trong trang, dân trong trấn mới biết họ đều yêu mến nàng. Ngay cả những kẻ từng là nạn nhân cũng vậy. Thiên Kim luôn bồi thường cho khổ chủ với giá gấp ba. Bởi vậy, ai cũng mong cho nàng sớm lành bệnh.
Nhắc lại, Tử Khuê ngồi ngây người như tượng gỗ trên lưng ngựa, đỏ mặt, tía tai vì ánh mắt tò mò hoặc giễu cợi của dân chúng. Chàng tự nguyền rủa thầm cái số mạng đen đủi của mình và thở dài phó mặc.
Lát sau, đoàn người đã về đến phủ Hầu tước, ở giữa trấn. Cơ ngơi này rất rộng lớn, đầy nét cổ kính nhưng không điêu tàn vì được tôn tạo mỗi năm, dù đã hơn trăm tuổi. Sân trước của Hầu phủ rộng thênh thang và sâu thăm thẳm, khiến khách phải mỏi chân mới vào đến tòa khách sảnh.
Hầu tước lão phu nhân, mẹ của Trình Thiên Kim ra tận cửa đại sảnh để đón khách. Ánh mắt bà cũng lộ vẻ thất vọng khi thấy vị pháp sư này còn quá trẻ. Sau khi chủ khách đã an tọa bên bàn bát tiên, lão thái lập tực trình bày việc ái nữ bị quỷ ám nên bà mới cho người mang thư và lễ vật đến Long Hổ sơn, nhờ Trương Thiên Sư giúp đỡ cứu con gái bà. Nghe xong, Vu Diệp tá hỏa tam tinh, không ngờ lại rơi vào cảnh ngộ éo le này. Vu Mộc chân nhân sư phụ chàng không hề dạy học trò những phép yểm ma trừ quỷ, hoặc nghi thức cúng bái trừ tai nạn, cầu phúc đức. Lãnh vực này vốn là của Thiên Sư giáo. Nay Tử Khuê đã nhận mình là đệ tử của Thiên Sư giáo thì chẳng thể bảo rằng không biết trấn yêu, hàng quỷ ma. Hơn nữa ánh mắt thiết tha cầu khẩn và những giọt lệ trên gương mặt nhăn nheo của Trình lão thái đã khiến chàng không thể thoái thác.
Tử Khuê ngồi chết lặng, miên man suy nghĩ cách giải quyết ổn thoả, thì một kỷ niệm xưa hiện về. Năm ấy chàng được 15 tuổi, Vu Mộc chân nhân nhận được thư của bằng hữu liền khăn gói đi thăm, dặn dò học trò ở nhà không được biếng nhác luyện võ. Chàng chẳng thể sang ngủ chung với tỳ nữ Tiểu Loan nên đành phải ở một mình trong đạo am. Chàng sợ ma và đã ngượng ngùng thú nhận với ân sư. Chân nhân phì cười và nghiêm nghị bảo:
-Ngươi vốn là Bạch Hổ Đế Quân giáng phàm, khi gặp yêu ma quỷ quái thì chỉ cần trợn mắt nạt lớn một tiếng là xong, sao lại phải sợ ?
Nhờ câu nói ấy mà Tử Khuê không còn sợ ma nữa. Giờ đây, khi nhớ lại chuyện xưa, chàng bỗng muốn thử một phen, xem lời sư phụ có đúng hay không. Chàng sẽ tận lực và nếu có thất bại thì chủ nhà cũng chẳng thể trách được. Nghĩ thế nên Tử Khuê bình tâm lại, nói với lão Hầu Tước phu nhân:
-Bần đạo mong thí chủ nói rõ bệnh tình của lệnh ái hiện nay.
Trình lão thái sùi sụt kể:
-Kim nhi hiện đang bị nhốt trong một tòa nhà lớn phía sau Hầu phủ. Ban ngày thì nó hiền lành, ngây dại, để yên cho bọn nữ tỳ chăm sóc. Nhưng cứ từ đầu canh hai trở đi thì Kim nhi phát cuồng, đánh đuổi mọi người ra khỏi nơi ấy và múa quyền cho đến lúc gà gáy sáng, cứ như phải tử chiến với ai vậy ! Khi lão thân mời pháp sư, hòa thượng đến lập đàn tróc yêu thì Kim nhi xông ra đánh cho họ bươu đầu sứt trán.
Tử Khuê cau mày bảo:
- Những hiện tượng ấy không chứng minh lệnh ái bị quỷ ám mà có thể là mắc một thứ tâm bệnh nào đấy chăng ?
Phó bang chủ Hoàng Phong bang, Trình Kiếm Các nhăn nhó đỡ lời chị dâu:
- Đạo trưởng không biết đấy thôi, Kim nhi chỉ giỏi đánh kiếm pháp, còn quyền thuật thì rất kém. Thế mà lúc nó nổi điên ngay đánh quyền thì lão phu cũng chẳng địch lại. Hơn nữa, Kim nhi lại nói bằng giọng nam nhân già nua, thường vỗ ngực tự xưng mình là Vô Địch Quyền Vương. Có lẽ oan hồn của lão chết toi ấy đã nhập vào con bé.
Tử Khuê đã phóng lao thì phải theo lao, chẳng thèm lo lắng nữa. Chàng nghe bụng sôi sùng sục liền ngượng ngùng nói:
- Mong chư vị cho bần đạo một bữa cơm chay. Tối nay bần đạo sẽ tiến hành ngay việc hàng yêu.
Trình lão thái vui vẻ đáp:
- Lão thân quả là vô ý. Sẽ cho người dọn cơm ngay để Chân nhân dùng. Nhưng xin hỏi vật cúng tế gồm những gì để lão thân chuẩn bị.
Tử Khuê sượng sùng đáp:
- Bần đạo trị quỷ bằng đạo hạnh chứ không bằng bùa chú, kinh kệ, xin lão thí chủ chớ bận tâm.
Phương pháp này khác xa những người đến trước khiến Hầu tước lão phu nhân bội phần tin tưởng hân hoan, bèn đưa bậc Chân nhân xuống phòng ăn.
Đầu canh hai đêm ấy, Tử Khuê và phe chủ nhà có mặt ở vườn hoa lớn, phía sau Hầu phủ. Cuối vườn hoa là một tòa nhà gạch, được vây quanh bởi bức tường thấp ngang ngực, biệt lập với chung quanh. Đây là nơi Trình Thiên Kim luyện võ và hội họp với những đầu lĩnh Hoàng Phong bang, có tên là Tụ Nghĩa sảnh. Tổng đàn của bang hội nhỏ bé này nằm trên mảnh đất mé hữu Hầu phủ và thông với nhau ở phần đuôi.
Trước giờ bị đuổi ra, tỳ nữ Hầu phủ đã thắp sáng mười ngọn đèn tọa đăng để người ngoài có thể quan sát những diễn biến bên trong Tụ Nghĩa sảnh. Suốt ba tháng nay, đêm nào bọn tỳ nữ cũng phải thay phiên, túc trực bên ngoài phòng, nhìn qua cửa chính và những ô cửa sổ, lợp pha lê, để theo dõi động tĩnh của Trình Thiên Kim.
Trình lão thái cũng thường xuyên chống gậy mà đến đây khóc lên trước cảnh ái nữ múa quyền như điên dại, y phục ướt đẫm mồ hôi, tóc tai rũ rượi. Tối nay, bà hăng hái dẫn vị pháp sư trẻ tuổi tiến vào Tụ Nghĩa sảnh. Cạnh bà là Trình Kiếm Các, em họ thúc bá của lão Hầu tước. Và theo sau bà là 20 tỳ nữ cầm đuốc, cũng là đệ tử Hoàng Phong bang. Nhưng khi đoàn người đi được nửa sân gạch, còn cách thềm hiên Tụ Nghĩa sảnh hai, ba trượng thì từ trong cửa sảnh rộng mở kia có luồng gió mạnh như bão tố thổi ra. Đạo cuồng phong này lạnh buốt thấu xương, cuốn những bông tuyết đang rơi, thổi tắt 20 cây đuốc trong tay bọn tỳ nữ và mạnh đến mức đẩy Trình lão thái ngã ngửa. Trình Kiếm Các kinh hãi đỡ chị dâu và quát mọi người lùi lại. Nhưng gã đạo sĩ trẻ Vu Diệp chân nhân vẫn thản nhiên dấn bược, cứ như chẳng hề có luồng gió nào cả. Điều đáng ngạc nhiên là bộ đạo bào của Vu Diệp cũng không lay động nghĩa là ngọn quỷ phong kia không chạm được vào người chàng ta.
Trình lão vô cùng khâm phục, chỉ cho chị dâu xem và bảo:
- Đại tẩu có thấy không ! Không ngờ Vu Diệp còn trẻ mà pháp lực đã cao siêu dường ấy. Hèn chi tuổi gã mới đôi mươi mà đã được phong làm “Chân nhân”. Xem ra Kim nhi có cơ may thoát nạn rồi.
Hầu tước phu nhân cũng khấp khởi mừng, song vẫn chưa hoàn hồn nên chỉ gật đầu.
Lúc này, Tử Khuê đã bước qua cửa sảnh. Chàng đang ngơ ngác nhìn quanh tòa nhà rộng rãi và trống trơn để tìm người bệnh thì nghe tiếng khàn khàn ngạo nghễ:
- Té ra ngươi là một gã nhãi ranh học đòi làm thầy pháp bắt ma. Nhưng lão phu đây lúc còn sống đã không sợ trời sợ đất, khi thành quỷ cũng cóc nể ai. Nếu ngươi giỏi quyền thuật hơn thì Lỗ mỗ mới cúi đầu tuân phục.
Câu nói vừa dứt thì từ trên xà ngang Tụ Nghĩa sảnh có người nhảy xuống, đứng đối diện Tử Khuê, cách chừng hơn trượng. Đấy là một nữ lang võ phục xanh, tóc búi theo kiểu nam nhân, mặt trái xoan với ngũ quan thanh tú, da dẻ trắng xanh vì đã gần trăm ngày không ra khỏi cửa. Ánh mắt tỏa sáng rực rỡ uy nghiêm, hai chân đứng dang rộng như đàn ông chẳng kín đáo chút nào cả. Tức cười thay, nàng ta còn đưa tay vuốt râu cằm dù chẳng có cọng nào.
Nghe đối phương đòi tỷ quyền, Tử Khuê cũng vững bụng. Chàng phì cười chế giễu:
- Lão khoái vuốt râu sao không tìm kẻ già nua mà nhập vào, lại chọn chi nữ nhân cằm trơn láng.
Trình Thiên Kim bực bội chửi đổng:
- Con bà nó. Lão phu đang yên phận làm Phán quan dưới Âm ty bỗng phát hiện tóc cứ rụng dần và da dẻ thì ngứa ngáy. Lão phu liền rời Quỷ môn quan, thăm lại mộ phần thì mới biết con bé Trình Giảo Kim này xây buồng tắm gần đấy, và xả nước đúng vào quan tài của lão phu. Cái thứ nước ô uế ấy thì người sống còn sợ chứ đừng nói người chết. Bởi vậy, lão phu mới cố tình đầy đọa ả cho bõ ghét.
Tử Khuê cố nén cười, tủm tỉm bảo:
- Lỗ phán quan hành hạ nàng ta 3 tháng chắc cũng đã hết giận. Thí chủ cứ về lại Âm ty, để việc còn lại cho bần đạo lo liệu.
Vô Địch Thần quyền lắc đầu, đắc ý đáp:
- Lão phu là người công bằng, sòng phẳng, ân oán phân minh. Ả phóng uế vào đầu lão phu một năm thì cũng phải chịu khổ ngần ấy thời gian. Nếu muốn lão phu tha ngay cho ả họ Trình thì ngươi phải thắng được Lỗ mỗ cái đã.
Lúc này bọn Trình lão thái cũng tỳ nữ vẫn còn đứng ngoài sàn gạch, không sao vượt qua được luồng quái phong mãnh liệt. Hơn nữa, trên dãy hành lang xung quanh Tụ Nghĩa sảnh có những bóng trắng lượn lờ khiến đám nữ nhân sợ đến nhũn cả người. Ngay một bậc cao thủ lão thành như Trình Kiếm Các cũng rợn tóc gáy, chẳng dám tiến lên. Ở vị trí ngoài ba trượng, họ không hề bị quái phong chạm đến và có thể nhìn, nghe thấy những gì xảy ra trong sảnh. Do đó, họ đã hiểu ra được nguồn căn bệnh của Trình tiểu thư. Trình lão thái nghe hồn ma đòi đánh nhau với Vu Diệp chân nhân thì hoảng hốt thét lên:
- Mong đạo trưởng nhẹ tay, đừng gây thương tích cho Kim nhi.
Trình Kiếm Các cười khổ, bảo chị dâu:
- Đại tẩu đừng lo lắng vô ích. Ngay tiểu đệ là kẻ mang danh Phá Sơn Quyền mà còn bị hồn ma lão họ Lỗ trong xác Kim nhi đánh cho liểng xiểng, thì gã đạo sĩ trẻ kia làm sao sống sót nổi. Không chừng gã bị trọng thương hay bỏ mạng, khiến chúng ta đắc tội với Thiên Sư giáo đấy.
Trình lão thái bối rối đáp:
- Tam đệ có lý. Nếu Vu Diệp chân nhân chết thì Trương Thiên Sư sẽ kiện cáo đến cùng. Lão ta được Thiên Tử tôn kính tất thừa sức khép tội Hầu phủ. Tam đệ mau gọi Vu Diệp chân nhân ra đi.
Trình Kiếm Các gật đầu, vận công quát lớn:
- Xin đạo trưởng hãy rút lui, quyền thuật của lão quỷ ấy rất lợi hại. Hơn nữa, đạo trưởng không được phép đả thương Kim nhi.
Tử Khuê nghe xong câu ấy liền bỏ ý định tỷ võ với Lỗ phán quan. Song trước khi rút lui, Tử Khuê cố gỡ gạc chút thể diện, đồng thời kiểm nghiệm xem mình có đúng là thần tiên giáng phàm hay chăng ? Chàng trợn mắt chỉ vào Trình Thiên Kim mà nạt lớn:
- Lỗ phán quan. Nếu lão không mau trở về Âm phủ thì chớ trách bổn Tinh Quân độc ác.
Nào ngờ đối phương chẳng chút sợ hãi ôm bụng cười sặc sụa khiến Tử Khuê xấu hổ, ngượng đến chín cả người. Cười xong, ả giai nhân bị quỷ ám kia khạc xuống nền gạch một bãi đờm to tướng vô cùng gớm ghiếc, rồi ngạo mạn nói:
-Bổn Phán Quan là chức sắc chốn Diêm cung chứ nào phải bọn quỷ tép riu mà ngươi hòng dọa nạt. Tinh Quân cái khỉ mốc.
Tử Khuê không ngờ mình bị hố to, mới khai trương nghề thầy pháp mà đụng ngay phải quỷ dữ. Chàng nhủ thầm rằng mạng mình vẫn còn đen như lông chó mực, làm gì cũng chẳng thành.
Nhưng Tử Khuê chưa kịp hát bài “tẩu mã” thì đối phương đã như cơn lốc ập đến tấn công. Trong lúc bất ngờ, Tử Khuê đã phản ứng bằng cách đảo bộ tránh né. Thế là Lỗ phán quan chiếm ngay vị trí cửa ra rồi từ đấy đánh ngược vào. Tử Khuê lúng túng thi triển “Thao Quang thân pháp” mà tránh đòn. Lỗ phán quan đánh hụt tám, chín chiêu giận giữ gầm vang như sấm và hăm dọa:
-Nếu ngươi cứ tiếp tục bỏ chạy thì lão phu sẽ móc mắt con tiện tỳ Trình Giảo Kim này ra đấy.
Lão oán ghét kẻ đã ngày ngày thải cái thứ nước đủ mùi vị và màu sắc của đàn bà vào hài cốt mình nên luôn gọi Nữ Hầu tước là Trình Giảo Kim, một lão ngốc đời Đường. Tử Khuê nghe vậy nên không dám bỏ chạy nữa, đình bộ tiếp chiêu. Chàng cũng đã nghĩ ra cách dùng phép “Cương ty phất huyệt” để đối phó mà không mạo phạm đến thể xác Thiên Kim.
Lỗ phán quan cao hứng đem sở học lúc còn sống ra thi thố. Quyền pháp của lão cực kỳ ảo diệu, biến hóa khôn lường, đáng gọi là tuyệt học hãn thế. Lão ngứa nghề đòi tỷ võ chứ chẳng phải là muốn giết người nên ra sức không nhiều. Sau vài chục chiêu, thấy đối phương chẳng hề nao núng, lão tăng dần lực đạo và xuất những chiêu ác liệt hơn, quyền phong xé gió vù vù, song quyền song cước nối nhau ra đòn liên miên bất tuyệt. Tiếng da thịt, xương cốt chạm nhau không vang rền hay chát chúa như sắt thép mà chỉ « lịch bịch », « bì bạch” hòa với tiếng y phục phất gió phần phật, song cũng tạo cho người xem cảm giác hồi hộp và đầy kích thích.
Trình Kiếm Các, ở bên ngoài tròn mắt theo dõi cuộc đấu, người nhấp nha nhấp nhổm, tay chân ngọ nguậy liên tục. Lão là tay quyền thủ lừng danh nên đủ bản lĩnh để thưởng thức hết những cái hay, cái lạ của cặp đấu sĩ kia. Trình lão luôn miệng trầm trồ tán dương Vu Diệp chân nhân. Chàng đạo sĩ trẻ măng ấy đang thi triển một loại quyền pháp lạ mắt nhưng bội phần kỳ ảo, song thủ lúc xòe lúc cụp, lúc giương thành trảo, ung dung chống đỡ những đòn sấm sét, hiểm hóc của đối phương. Lúc chàng ta phòng thủ thì vững như núi Thái, còn khi tấn công dũng mãnh tựa thần long cho nên dần dần đã chiếm được thượng phong, đẩy kẻ địch lui dài.
Trình lão ngạc nhiên và khâm phục, nhưng Lỗ phán quan thì nổi giận. Lão không thể chấp nhận việc mình kém tài một gã nhãi ranh tuổi mới đôi mươi. Chẳng những Vu Diệp giỏi quyền thuật mà công lực cũng thâm hậu hơn tuổi tác, và lại còn học được yếu quyết “Tụ khí thành ti”, điểm huyệt mà không cần chạm đến áo đối phương. Lỗ phán quan ngao ngán nhận ra rằng Vu Diệp càng đánh càng hay, càng thâm nhập vào tinh tuý của pho quyền. Và lúc này chiêu thức của gã cuồn cuộn, mênh mang tựa nước biển Đông, ồ ạt dâng tràn, nhấn chìm mọi nỗ lực của lão. Quả đúng như vậy. “Thao” có nghĩa là nước lớn mênh mông, cuồn cuộn, cho nên “Thao Quang thần thức” uyên ảo, bão táp phi thường, gồm thâu tinh tuý trăm nhà, là tâm huyết của một đời Vu Mộc chân nhân.
Sau hơn 400 chiêu, Lỗ phán quan thức ngộ rằng mình không thể nào hơn được đối phương và nắm chắc phần thất bại. Lão bất giác sinh lòng thán phục và yêu mến chàng trẻ tuổi kỳ tài. Nhưng vì tự ái của kẻ già nua, lão không cam tâm bỏ cuộc, tìm cách rút lui trong danh dự. Bỗng trong đầu lão lóe lên một ý niệm ngộ nghĩnh, liền mỉm cười, nhảy lùi lại giơ tay xin đình chiến. Và lão thoăn thoắt cởi mau chiếc áo đẫm mồ hôi, miệng thì phân bua:
- Áo chật làm cản trở đường quyền, lão phu phải cởi áo mới thi thố được hết tài nghệ.
Có lẽ bọn tỳ nữ quên mặc yếm cho tiểu thư nên trong áo chẳng còn gì ngoài thịt da ngà ngọc. Tử Khuê đỏ mặt, líu lưỡi khi nhìn thấy làn da trắng mịn và đôi nhũ phong kiêu hãnh, mơn mởn tựa quả tuyết lê. Chàng kinh hãi lắp bắp:
- Lỗ thí chủ là chức sắc chốn Diêm đình, sao không giữ giới mà lại làm như thế.
Lỗ phán quan cười kiêu hãnh:
- Cơ thể nữ nhân đối với lão phu đâu có lạ, sáu chục năm nay ngày nào mà chả thấy. Thế ngươi tưởng các tội nhân dưới ngục A tỳ đều đầy đủ y phục khi được thả vào vạc dầu hay sao?
Tử Khuê chưa kịp đối đáp thì đã bị đối phương tấn công quyết liệt. Vì bản năng sinh tồn buộc chàng phải chống đỡ những đòn hiểm độc ấy. Tất nhiên chàng chẳng thể nhắm mắt mà đánh nhau nên càng bối rối trước cặp nhũ phong mỹ miều, khêu gợi đang nhảy múa trước mắt. Họ Lỗ lại còn cố tình đưa ngực ra đón những đòn chân của chàng khiến Tử Khuê phải rút về ngay. Tâm loạn thì chân khí không đủ, chiêu thức lệch lạc nên Tử Khuê thất thế, liên tiếp bị trúng đòn. Tuy không thọ thương, song chàng cũng nghe đau thấu trời.
Ngoài kia, Trình lão thái vò đầu bứt tóc kêu trời khi thấy ái nữ lõa thể mà đánh nhau với nam nhân. Trình Kiếm Các thì đã sớm bỏ chạy, không tiện ở lại. Lễ giáo Trung Hoa rất nghiêm khắc, ngay cả cha ruột cũng không được phép nhìn thấy thân thể con gái mình. Trình lão thái hậm hực chửi vang:
- Mả cha cái lão Phán Quan họ Lỗ. Lão làm thế thì con gái lão thân còn lấy ai được nữa? Chẳng thà lão giết quách Kim nhi đi cho xong.
Bên trong, Lỗ phán quan nghe vậy liền nạt lớn:
- Mụ mà còn thóa mạ lão phu thêm một câu thì lão phu cởi luôn quần ra đấy.
Trình lão thái sợ nhũn cả người, chẳng dám chửi thêm. Nhưng khi đứng nhìn Vu Diệp chân nhân vừa đánh vừa lùi, trúng đòn liên tục, bà bèn động lòng trắc ẩn và cũng sợ chàng chết thì nguy to. Vả lại nếu Vu Diệp thua thì Kim nhi sẽ điên cuồng thêm chín tháng. Bởi thế Trình lão thái nghĩ nhanh và cao giọng nói:
- Này Vu Diệp đạo trưởng. Xin ngài cứ thẳng tay đối phó, đừng kiêng kỵ nữa. Nếu ngài để thua thì lão thân sẽ bắt ngài phải lấy Kim nhi đấy.
Tử Khuê nghe xong vô cùng kinh hãi, vội trấn tĩnh lại và phản công. Chàng dồn hết nội công vào những chiêu thần diệu nhất, song thủ hóa thành trăm ảnh chưởng chập chờn, chỉ kình vun vút. Chỉ sau ba chiêu, chàng đã quất một cước vào gò mông tròn trịa, nẩy nở của đối phương, khiến Lỗ phán quan la oai oái. Giờ đây, người phải thoái hậu tránh né lại là họ Lỗ. Thêm vài chục chiêu nữa, Tủ Khuê chợt phát hiện cơ hội hạ thủ vì đối phương đã lộ sơ hở rất lớn bên sườn trái. Chàng liền ập vào xuất chiêu “Hoàng Thủy Thao Thao” (nước Hoàng Hà cuồn cuộn), khóa chặt đường quyền của đối phương rồi vươn tay điểm vào huyệt Đại Bao bên trái. Nào ngờ, đúng lúc ấy vị thần xui xẻo ra tay hành động. Mũi giầy phải của Tử Khuê đặt đúng vào bãi đờm nhơn nhớt mà Trình Thiêm Kim tức Lỗ phán quan đã khạc ra lúc trước. Tử Khuê trượt chân chới với, không những hụt mục tiêu mà còn bị đối phương điểm vào huyệt Bách Hội trên đầu. Tử Khuê mê man, ngã sấp mặt xuống, may mà được Lỗ phán quan thò tay chụp búi tóc giữ lại. Lão ta khoái trá cười vang và đưa cánh tay còn lại khua một vòng. Trong sảnh bỗng nổi lên trận cuồng phong làm cho những ngọn đèn tắt lịm.
Trình lão thái và bọn tỳ nữ kinh hoàng thét lên song đành thúc thủ, vì những bóng ma ghê rợn vẫn còn lượn quanh dãy hành lang. Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các nghe tiếng cười, tiếng thét, liền từ vườn hoa chạy vào. Thấy Tụ Nghĩa sảnh tối đen như mực, lão hiểu rằng Vu Diệp chân nhân đã thất bại. Lão thở dài, an ủi chị dâu:
-Đại tẩu có khóc cũng vô ích, xin hãy về phòng nghỉ ngơi, để tiểu đệ canh chừng nơi này. Sáng mai chúng ta sẽ biết rõ an nguy của Vu Diệp chân nhân. Nhưng theo tiểu đệ suy đoán thì Lỗ phán quan sẽ không dám giết oan người vô tội.
Trình lão thái hơi yên tâm, thiểu não theo bọn tỳ nữ về hậu viện. Bà cũng chẳng còn sức để đứng lại chịu đựng thêm cái lạnh cắt da của đêm đông. Nãy giờ, dù được trùm kín trong áo choàng lông thượng hạng, đầu che ô mà bà cũng hắt hơi hàng chục cái.
Phá Sơn Quyền ở lại, lủi thủi đi đến tòa tiểu đình cạnh cổng ngồi tránh tuyết. Lão khép chặt áo lông, miên man suy nghĩ tìm cách biện bạch với Thiên Sư giáo nếu chẳng may Vu Diệp chân nhân táng mạng. Lão không biết rằng chàng đạo sĩ trẻ kia chẳng hề gặp nguy hiểm lại còn đang lạc bước Vu sơn.
Tử Khuê nằm trên chiếc giường bát bửu trải nệm rất cao, đặt ở góc Tây Nam Tụ Nghĩa sảnh, cạnh chàng là nữ Hầu tước Trình Thiên Kim. Tử Khuê mơ thấy mình cưới vợ và tân nương lại chính là nữ Hầu tước họ Trình. Chàng ngây ngất trước nhan sắc kiều diễm của Thiên Kim, nghe lòng yêu thương dào dạt, nàng cũng nhìn chàng bằng ánh mắt đắm say, tình tứ. Sau vài cái hôn nồng thắm, họ bạo dạn vuốt ve nhau và rồi cởi từng mảnh xiêm y cho rơi xuống sàn nhà. Tử Khuê hôn hít mãi cơ thể ngà ngọc của vợ yêu. Tất cả những nét quyến rũ ấy đều lạ lùng với chàng, chỉ trừ đôi gò bồng đảo kia trông có vẻ quen quen. Đôi mắt nhung huyền của Thiên Kim rực rỡ đam mê, mời gọi. Nàng run rẩy mơn trớn những bắp thịt rắn chắc trên người Tử Khuê với niềm háo hức ngút trời. Cửa đào nguyên rộng mở rước khách phong lưu lạc bước. Ái ân là hành vi bản năng không cần phải học, hai kẻ thanh xuân dẫn nhau vào hoan lạc, mỗi bước thêm thành thục. Bước đầu hơi vội vã song những bước sau chậm rãi, ung dung.
Thiên Kim không hề gặp trở ngại trong việc cảm thụ khoái lạc. Sau ba tháng bị Lỗ phán quan mượn xác luyện võ, dẫu nàng có là trinh nữ thì chút tiết hạnh mỏng manh ấy cũng đã toang hoang. Trong phép đánh trường quyền, chân của người võ sĩ vươn rất dài, khẩu độ giữa hai chân nhiều lúc bẹt ra, gần như đường thẳng. Dĩ nhiên, về mặt lễ giáo thì tư thế ấy quả là lộ liễu lẳng lơ, nên nữ nhân không được phép học. Các phái thường dạy cho nữ đệ tử loại cước pháp kín đáo hơn, ra đòn ngắn và thấp, chủ yếu tấn công hạ bàn đối phương. Nay Lỗ phán quan chơi ác, sử dụng cơ thể Thiên Kim mà đánh những chiêu cước của nam nhân khiến nhụy hoa tơi tả. Song nàng chẳng hề biết mà oán trách lão ta, cứ hân hoan cùng Tử Khuê dạo chung một giấc Vu sơn. Nàng nhận được quá nhiều hạnh phúc nên tri ân và yêu thương mãnh liệt người chồng mới cưới. Thiên Kim chợt tiếc nuối rằng vì sao chẳng lấy chồng từ thuở tuổi mười lăm, để phải chịu cảnh phòng không chiếc bóng đến tận tuổi này.
Đêm đông dài dằng dặc, ngay lũ gà cũng ngủ vùi, chẳng thèm gáy sớm. Cho nên đến gần giữa canh năm thì mới có một con lên tiếng. Phá Sơn Quyền đang ngủ gật trên ghế đá trong tôn tiểu đình liền giật mình thức giấc. Lão dụi mắt ngồi dậy, bốc nắm tuyết trên thành lan can mà rửa mặt cho tỉnh táo rồi bước về phía Tụ Nghĩa sảnh. Thấy đám hồn ma đã biến mất, lão định bước vào trong song lại nhớ đến cảnh thoát y đêm qua nên chẳng dám, đành đứng ngoài hiên chờ đợi. Lát sau, Trình lão thái được hai ả tỳ nữ hộ tống đến nơi. Bà vội vã hỏi:
-Tam đệ. Tình hình thế nào rồi?
Trình Kiếm Các cười khổ:
-Tiểu đệ chưa dám vào nên chưa rõ.
Trình lão thái hiểu ý gật đầu rồi cao giọng gọi:
-Kim nhi ! Kim nhi ! Con đã tỉnh giấc chưa?
Bà chỉ gọi theo bản năng, chứ thường thì ban ngày Thiên Kim câm như hến, hết ngủ rồi lại ăn chứ không nói năng gì cả. Nào ngờ lần này lão thái được nghe lại giọng nói trong trẻo, thanh tao của ái nữ:
-Hài nhi đang rửa mặt. Mời mẫu thân nhập sảnh.
Cả nhà mừng rỡ tiến vào, nhìn thấy Thiên Kim từ phòng vệ sinh phía sau sảnh bước ra, quần áo đầy đủ, sắc mặt nàng tươi tỉnh, ánh mắt tinh anh và môi thì nở hoa. Thiên Kim nghiêng mình chào Trình Kiếm Các rất lễ độ, rồi nắm tay mẹ và nũng nịu:
- Trời lạnh thấu xương thế này sao mẫu thân không chờ hài nhi lên vấn an, mà lại xuống đây làm gì?
Trình lão thái ngơ nhác nhìn ái nữ, chẳng hiểu đây có phải là con mình hay không? Trước đây, Thiên Kim có bao giờ ăn nói dịu dàng, mềm mỏng thế này đâu? Nàng ta đầy nam tính, nói năng ngắn gọn, dứt khoát, thiếu tình cảm. Dường như Thiên Kim muốn bỏ đi tác phong của nam nhân. Phá Sơn Quyền đang nẫu ruột vì việc khác nên chẳng thèm lưu tâm đến sự bình phục của cháu gái. Lão cau mày hỏi ngay:
-Này Kim nhi. Vu Diệp chân nhân đâu?
Thiên Kim ngơ ngẩn đáp:
-Bẩm biểu thúc. Ở đây chỉ có mình tiểu điệt, làm gì còn ai khác?
Phá Sơn Quyền chợt điếng người, phất tay bảo một tỳ nữ.
-Tiểu Hồng ngươi quay ra đi tìm Tổng quản Hầu phủ, bảo lão huy động gia đinh lục soát khắp nơi, kiếm cho được Vu Diệp chân nhân.
Ả tỳ nữ nhận lệnh đi ngay. Và Trình Kiếm Các cũng rảo bước đến phía sau Tụ Nghĩa sảnh. Lão tìm cả trong phòng tắm, nhà bếp, nhà xí, vườn hoa song chẳng thấy Vu Diệp đâu cả. Ngoài này, Trình lão thái kể lại cho con gái nghe việc nàng bị quỷ ám ra sao và cuộc chiến của Vu Diệp chân nhân đêm qua. Bà sợ Thiên Kim hổ thẹn nên không nhắc đến việc nàng thoát y. Phá Sơn Quyền lên đến thì câu chuyện vừa kể xong, và ả tỳ nữ Tiểu Hồng cũng trở lại. Ả hớn hở báo cáo:
- Bẩm Phó bang chủ. Gã đạo sĩ ấy hiện ở trong căn phòng mà chúng ta đã dành cho. Gã đang sửa soạn hành lý để ra đi.
Trình Kiếm Các thở phào nhẹ nhõm, nói với Trình lão thái:
- Đại tẩu. Tai họa đã qua. Chúng ta mau đến cảm tạ Vu Diệp chân nhân.
Hầu tước lão phu nhân vui vẻ tán thành bảo con gái:
- Kim nhi cũng phải đến đấy khấu đầu tạ ơn. Không có y thì ngươi phải khổ sở thêm 9 tháng nữa.
Thiên Kim nhu thuận gật đầu, đi theo từ mẫu. Họ lên đến phòng dành cho khách thì Tử Khuê đã gói ghém xong hành trang. Cửa phòng hơi hẹp nên Tử Khuê chỉ thấy hai người đứng trước là Trình lão thái và Phá Sơn Quyền. Chàng sượng sùng nghiêng mình nói:
-Bần đạo bất tài, không trị nổi con quỷ dữ kia, lòng vô cùng hổ thẹn. Bần đạo đã viết sẵn một bức thư kể rõ nội tình, lão thí chủ cho người mang đến Long Hổ sơn tất Giáo chủ bổn giáo sẽ đích thân đến đây. Giờ cho phép bần đạo xin cáo từ.
Trình lão thái ngạc nhiên hỏi lại:
- Chẳng lẽ đạo trưởng không biết rằng mình đã đánh đuổi được con quỷ già họ Lỗ ấy sao? Hiện nay Kim nhi đã hoàn toàn tỉnh táo.
Và bà quay lại kéo tay ái nữ bước vào trong phòng. Thiên Kim thẹn thùng quỳ xuống thi lễ:
- Tiện nữ xin khấu đầu cảm tạ đại ân của Chân nhân.
Tử Khuê nhớ đến tấm thân mỹ miều của nàng đêm qua mà đỏ mặt, ấp úng đáp:
- Xin nữ thí chủ chớ đa lễ khiến bần đạo thêm hổ thẹn. Chẳng qua Lỗ phán quan tự ý bỏ đi đấy thôi. Bần đạo bị lão đánh cho mê man, mang về bỏ trong phòng này, xem như đã thua cuộc.
Trình Thiên Kim đứng lên nhìn chàng với ánh mắt biết ơn và ngỏ lời an ủi:
- Tuy Chân nhân võ nghệ không bằng, nhưng dũng khí và nhiệt huyết của người đã khiến con quỷ kia phải khâm phục, tha tội cho tiểu nữ. Do đó, chẳng thể gọi là thất bại được. Ơn trọng này tiểu nữ xin ghi tâm, khắc cốt.
Trình lão thái hớn hở đỡ lời ái nữ:
- Lão thân xin dâng ngàn vàng để đạo trưởng làm lộ phí trở về núi.
Tử Khuê lúng túng đáp:
- Lão thí chủ đã cúng dường bổn phái rất hậu nên Giáo chủ đã lệnh cho bần đạo không được nhận thêm.
Sau một hồi bị níu kéo, Tử Khuê đành phải nhận trăm lượng vàng và bộ áo, mũ lông thượng hạng rồi ra đi. Lòng chàng rất thanh thản vì đã quên sạch giấc Vu sơn đêm qua. Trình Thiên Kim cũng thế.
Nhưng trong mấy ngày sau đó, Thiên Kim phát hiện bọn nữ đệ tử Hoàng Phong bang thường nhìn minh bằng ánh mắt bí ẩn, pha chút giễu cợt. Nàng liền gọi ả tỳ nữ thân tín Tiểu Huệ đến gạn hỏi thì được nghe thêm việc mình cởi áo mà giao đấu với Vu Diệp chân nhân. Nghe xong, nàng tái mặt vì hổ thẹn song không phát tác, đập phá lung tung như trước nữa. Nàng thay đổi nhiều đến mức khó ngờ. Thiên Kìm ngồi thừ người suy nghĩ, lòng vô cùng hoang mang. Sau khi Vu Diệp chân nhân bị hồn ma Lỗ phán quan đánh ngã lúc gần cuối canh hai, việc gì đã xảy ra trong bóng tối? Và tại sao giờ đây hàng đêm nàng thao thức với niềm rạo rực của xác thân, mơ đến gương mặt dễ mến của chàng đạo sĩ trẻ kia. Song phương hội ngộ chưa đầy một khắc mà sao nàng cứ nhớ nhung da diết người ta như thế? Tối mười hai, Thiên Kim lần đến khuê phòng của mẫu thân, ngượng ngùng thố lộ tâm sự, kể hết những cảm giác lạ lùng mà mình đang có. Hầu tước lão phu nhân rụng rời chân tay thảng thối nói:
- Thôi chết rồi. Hay là cái lão Lỗ phán quan chết tiệt kia đã trả thù bằng cách để cho Vu Diệp chiếm đoạt ngươi ? Hèn chi gã cứ nằng nặc đòi đi ngay, chẳng dám lưu lại một khắc nào nữa. Thật là một kẻ khốn nạn.
Thiên Kim vội đưa tay bịt miệng lão thái, và dịu dàng phân giải:
- Theo thiển ý của hài nhi thì chàng ta cũng không biết việc gì đã xảy ra. Chàng nhìn hài nhi bằng ánh mắt thẹn thùng song chẳng có chút áy náy tội lỗi.
Trình lão thái gật đầu công nhận ái nữ có lý, và ngậm ngùi hỏi:
- Thế Kim nhi tính sao ?
Thiên Kim đáp bằng giọng buồn bã song đầy kiên quyết:
- Hài nhi thức ngộ rằng mình đã yêu thương Vu Diệp tha thiết, và chẳng hề hối tiếc việc thất thân. Và sang xuân hài nhi sẽ đi Hứa Xương tìm chàng. Có lẽ giờ đây Vu Diệp cũng đang ở trong hoàn cảnh tương tự hài nhi.
Té ra Trình Thiên Kim không ngốc như Trình Giảo Kim, đã nhận xét rất đúng đắn về Tử Khuê. Trên đường thiên lý, chàng đang khổ sở bởi sự trỗi dậy của dục tính và nỗi nhớ thương nữ Hầu tước họ Trình. Tử Khuê cố đè nén bằng cách luyện công tọa thiền song không sao xóa mờ được hình bóng quyến rũ của hai quả tuyết lê mơn mởn. Chàng còn mơ hồ mường tượng rằng mình đã từng ôm ấp thân thể ngọc ngà của Thiên Kim. Song khác với Thiên Kim, Tử Khuê sợ hãi điều ấy, cho rằng Lỗ phán quan đã ám quẻ mình. Chàng thường mơ đến một tình yêu thuần khiết, nhẹ nhàng, e ấp nên bị choáng ngợp bởi sự lộng lẫy nồng nàn của dục tình và vẻ đẹp xác thân.
Tử Khuê cảm thấy tội lỗi bèn hình dung đến gương mặt thánh thiện của người nữ đệ tử Võ Đương hôm trước. Lúc theo sư thúc lên núi, chàng có gặp nàng vài lần nữa nhưng không tiện hỏi han. Nàng ta cũng chỉ mỉm cười với chàng rồi quay bước. Con tim Tử Khuê đã rộn ràng xao xuyến biết bao bởi những rung động đầu đời ngây thơ ấy.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
Chương 3
 
Cổ nhân có câu: “Đường ở cửa miệng”, nên dù chẳng biết gì, Tử Khuê cũng vẫn có thể tìm về cố quận, mỗi ngày một gần hơn. Non nửa hạ tuần tháng mười một, Tử Khuê đến Nghiệp Thành và chỉ còn cách Hứa Xương bảy tám ngày đường.
Lãnh thổ Trung Hoa rộng mênh mông nên việc có những địa phương trùng tên là không thể tránh khỏi. Ngay trong tỉnh Hà Nam đã có hai vùng đất mang tên Nghiệp, một là đây và một ở phía đông nam thành An Dương. Đất Nghiệp phương Nam sầm uất hơn đứa em cùng tên phương Bắc. Đường trong thành thẳng tắp, cắt nhau như ô bàn cờ, rộng hai chục bước chân, mặt lát đá phẳng phiu, hai bên là hàng cây cao vút hơn trăm tuổi. Trên phố chính bắc nam, đông tây, lầu quán, thương hiệu rất nhiều nằm xen kẽ với những tranh viện cổ kính và tráng lệ. Du khách khá đông nhưng số thương lái còn đông hơn. Nghiệp Thành là đầu mối buôn bán nông sản và hàng thủ công đi khắp nơi. Nghiệp ở đây có nghĩa là nghề, nên địa phương này đông nhung nhúc phường hội, làng nghề, làm ra đủ thứ trên đời.
Song có một nghề cao quý đến nỗi bậc nghệ nhân cũng chẳng bao giờ tiết lộ ra ngoài. Đấy là nghề làm đồ giả. Tử Khuê ghé Nghiệp thành để tìm đệ nhất cao thủ của nghề ấy là Ngụy Công Tử Tề Thúc Như, theo lời dạy của sư thúc. Họ Tề tuy mới 42 song tay nghề tinh xảo bậc nhất thiên hạ. Gã đã làm giả vật gì thì ngay chủ của nó cũng không thể phân biệt được. Ngụy Công Tử Tề Thúc Như tài hoa xuất chúng song tính tình cổ quái, kiêu ngạo, suốt đời chỉ chịu khâm phục có mình Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành là cậu ruột Thúc Như và cũng là người chữa khỏi cái bệnh “liệt dương” quái ác của gã. Đàn bà là thứ tuyệt vời nhất mà lão trời già vụng về kia đã làm ra được. Cho nên, thân nam nhi mà không có khả năng thưởng thức sự tuyệt diệu ấy quả là đáng tiếc. Tề Thúc Như đã hối tiếc nhiều đến mức định treo cổ tự tử chết cho xong, may mà Cửu Hoa chân nhân về thăm chị đúng lúc.
Giờ đây, Cổ Sĩ Hoành sai Tử Khuê đi tìm Tề Thúc Như để nhờ gã làm một viên “Tỵ Lôi thần châu” giả. Và Tử Khuê sẽ mang viên ngọc giả ấy bán cho Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn. Chỉ cần hình dáng bên ngoài giống như thực là quá đủ vì công dụng chẳng thể kiểm tra. Khi Âu Dương Mẫn biết mình mua lầm thì cũng đã bị sét đánh chết tươi rồi.
Tử Khuê đến Nghiệp Thành lúc đầu giờ Ngọ, chẳng tiện ghé thẳng Tề gia trang vì đang là thời gian dùng cơm trưa. Do vậy, chàng đi dọc phố chính Bắc Nam, tìm phạn điếm bán đồ chay. Vào thời nhà Minh, Phật giáo rất hưng thịnh và đạo giáo cũng chưa suy tàn nên số người trì trai trong xã hội khá đông đảo. Vì vậy các phạn điếm thường bán cả mặn lẫn chay. Tử Khuê tình cờ dừng cương trước Hồng Vận đại phạn điếm, nơi không hề có tiểu nhị đứng ngoài cửa níu kéo, mời chào như những quán khác. Nhưng khi chàng vừa hạ mã thì có hai gã hầu chạy ra, một đỡ đầu ngựa một khom lưng tươi cười:
- Kính thỉnh thiếu gia.
Bộ áo mũ lông cừu đã che kín đạo bào và làm cho Tử Khuê có dáng dấp của một gã con nhà giàu.
Dù tuyết chỉ rơi nhẹ song cũng bám đầy y phục, Tử Khuê phải dùng chiếc chổi rễ tre dựng cạnh cửa phạm điếm, phủi sạch tuyết rơi rồi mới bước vào. Khi chàng lột mũ lông, búi tóc đạo sĩ lộ ra khiến họ giật mình, mỉm cười bí ẩn. Gã hớn hở đưa khách vào tận giữa quán, nơi có ba chiếc bàn trống, gần lò sưởi ấm áp. Trong mùa đông rét mướt, vị trí này rất được ưa chuộng mà chẳng có ai ngồi cả. Gã tiểu nhỉ tủm tỉm nói:
- Mời đạo trưởng tùy chọn bàn nào cũng được.
Tử Khuê gật đầu, bước đến chiếc bàn tương đối xa lò sưởi. Chẳng phải chàng sợ khói than mà là thói quen khiêm tốn, không muốn chiếm tiện nghi hơn những kẻ đến sau. Tám chiếc ghế xếp quanh bàn với một cư ly lý tưởng để khách có thể ngồi xuống ngay mà chẳng cần xê dịch.
Tử Khuê đặt tay nải và bảo kiếm lên mặt bàn rồi khoan khoái an toạ. Nào ngờ vận đen chẳng buông tha nên chàng lại thêm một lần chọn trúng phóc cái ghế gãy. Hai chân sau của chiếc đôn lập tức đoạn lìa và bầu không khí êm ắng của phạn điếm vỡ toang bởi những tràng cười khoái trá. Nãy giờ, thực khách ở những bàn chung quanh đã nín thở chờ đợi khi thấy có người rơi vào bẫy của Hồng Vận đại phạm điếm. Trò xảo quyệt này mới bày ra độ gần tháng và chỉ dành cho khách phương xa độc hành là kẻ tu hành, cả tăng lẫn đạo, nhưng từ ngày mở đến nay chưa có ai xui xẻo đến mức chọn đúng chiếc ghế bị cưa chân trong hai mươi bốn chiếc ghế của ba bàn, nên Tử Khuê trở thành nạn nhân đầu tiên.
Nhưng những tiếng cười khả ố kia bỗng tắt lịm vì thân hình chàng đạo sĩ trẻ kia không bật ngửa rơi xuống nền gạch như họ đã hình dung. Những chiếc ghế gãy đã ám ảnh Tử Khuê suốt thời niên thiếu nên trong tiềm thức chàng đã hình thành một bản năng đề phòng, khi ngồi xuống bất cứ chỗ nào. Những bắp thịt đều rắn chắc, mạnh mẽ của chàng đã căng cứng, giữ cho cơ thể treo lơ lửng như người đang ngồi trên một vật bằng pha lê trong suốt vậy.
Tử Khuê đứng lên, quay lại nhìn chiếc đôn gãy, phát hiện dấu cưa rất bằng bặn, hiểu rằng mình bị chơi khăm. Lửa giận tuổi thanh xuân bùng lên khiến ánh mắt chàng sắc như dao và lạnh tựa phủ sương. Trong huyết quản Tử Khuê, dòng máu của Băng Tâm Ma Nữ đang cuồn cuộn chảy. Bà là người cương trực, quyết liệt, khả sát bất khả nhục, nên Tử Khuê cũng thế. chẳng qua số mạng đen đủi đã biến chàng thành người nhút nhát thận trọng đấy thôi. Nhưng dần dà, những tính cách mà chàng thừa hưởng của mẫu thân sẽ lộ ra. Song may thay, những lời giáo huấn của Vu Mộc chân nhân trong 7 năm đã có tác dụng. Tử Khuê bình tâm lại, lay thử chiếc đôn kế bên rồi ngồi xuống.
Chàng hiền hòa nói với tên tiểu nhị xảo trá, kẻ đã đưa mình vào bẫy:
- Phiền thí chủ sắp cho bần đạo một mâm cơm chay và nửa cân rượu ngon.
Gã đang tái xanh mặt vì ánh mắt uy nghiêm đáng sợ của chàng lúc nãy, vội vàng vái dài rồi tất tả bước vào trong. Chỉ lát sau, từ trong vọng ra tiếng cười sảng khoái, cao hứng là một lão nhân tuổi thất tuần xuất hiện, bước đến bàn Tử Khuê. Ông ta có thân hình phốp pháp bệ vệ, mặt đỏ hồng đầy nét trưởng giả, râu tóc hoa râm, mặc trường bào gấm xanh, ngoài khoác áo cừu ngắn. Đi bên cạnh lão nhân là một hán tử áo cừu đen lực lưỡng, tay bưng thay gỗ son lấp lánh ánh vàng. Lão nhân mặt đỏ ôm quyền thi lễ và tươi cười nói với Tử Khuê:
- Lão phu là Tống Nhiên, chủ nhân của phạn điếm này và cũng là người bày ra trò thử thách lúc nãy. Lão phu xin thành thật tạ lỗi đạo trưởng, và cũng xin chúc mừng đạo trưởng đã đoạt giải thưởng 100 lượng vàng của tệ điếm.
Lão vừa dứt lời thì hán tử áo cửu đen đặt khay gỗ son xuống mặt bàn. Trong khay là chục nén vàng mười lượng vô cùng hấp dẫn. Tử Khuê đã hiểu ra, thản nhiên nhặt vàng bỏ vào tay nải. Trên đường thiên lý, chàng đã chứng kiến biết bao cảnh cơ cực của bách tính, những kẻ bần hàn đang run bần bật vì bụng đói và áo không đủ ấm. Đối với họ, những bông tuyết trinh trắng kia quả là đáng nguyền rủa chứ chẳng hề đẹp đẽ hay thơ mộng như các văn nhân, thi sĩ thường ca tụng. Tử Khuê đã bố thí gần hết số vàng trong người, chỉ còn chừa lại đủ lộ phí về Hứa Xương. Con đường phía trước chắc còn nhiều người cần giúp đỡ và trăm lượng vàng kia sẽ rất hữu ích. Người nghèo chỉ cần vài ba lượng bạc là có thể sống sót qua mùa đông chết tiệt này. Viễn cảnh ấy làm lòng chàng ấm áp, vui vẻ hỏi lại:
- Này, Tống lão thí chủ. Nếu lúc nãy bần đạo ngã bể đầu thì có được nhiều vàng hơn không?
Tống nhiên cười mát:
-Nếu đạo trưởng ngã ngửa thì chỉ được năm chục lượng và nếu còn nóng nảy chửi bới thì chẳng được xu nào cả.
Chợt lão cau mày hỏi lại:
- Chẳng hay đạo trưởng lai lịch ra sao và đang đi về đâu?
Tử Khuê thận trọng đáp:
- Bần đạo là Vu Diệp chân nhân, đệ tử Thiên Sư giáo, đang có việc cần phải đi đến đạo quán của bổn giáo ở Hứa Xương.
Tống lão lộ sắc mừng:
- Thế thì may quá. Lão phu đang muốn gửi thư cho một bằng hữu ở đấy, phiền đạo trưởng mang giúp hộ, lão phu sẽ hậu tạ hai mươi lượng vàng.
Tử Khuê mau mắn gật đầu:
- Việc nhỏ ấy bần đạo có thể giúp lão thí chủ mà không cần nhận thù lao.
Tống lão ngạc nhiên cười hỏi:
- Lúc nãy Chân nhân hoan hỉ nhận trăm lượng vàng sao giờ lại chê vàng?
Tử Khuê bình thản đáp:
- Trăm lượng kia là thí chủ phải trả cho trò tai quái của mình, song việc bần đạo mang thơ thì lại không xứng với số vàng 20 lượng.
Tống Nhiên lắc đầu khâm phục, vái dài:
- Quả là cao luận của bậc Chân nhân. Lão phu xin bái phục. Lát nữa dùng cơm xong, mời đạo trưởng quá bộ vào trong để bần đạo trao thư, ngoài này đông người e không tiện.
Tử Khuê nghe cũng phải nên gật đầu. Chàng cắm cúi ăn vội mấy bát cơm vì ái ngại ánh mắt tò mò, ganh tỵ của bọn thực khách. Họ còn xầm xì bàn tán, chê chàng là kẻ ngu đần, sĩ diện hão lên mới chê 20 lượng vàng thù lao đưa thư. Tử Khuê ăn xong, uống chén trà thơm rồi bảo gã tiểu nhị đang đứng chờ:
- Phiền thí chủ đưa bần đạo vào trong nhận thư.
Gã cười toe toét đưa tay mới chàng rồi rảo bước. Gã dẫn chàng đi xuyên qua khu nhà bếp tấp nập phía sau phạn điếm, ra một vườn hoa lớn. Giờ đây, những nét đẹp hữu tình của hoa viên đã biến mất dưới màu trắng tiêu điều của tuyết. Cỏ cây xơ xác, hòn non bộ ngậm ngùi, nước khe đóng váng chẳng buồn chảy nữa. Hai người vượt qua những lối quanh co, vài cây cầu gỗ, đến bức tường cao cuối vườn. Bức tường này chưa phải giới hạn chiều sâu của khuôn viên phạn điếm, nó chỉ che chắn cho một quần thể kiến trúc khác mà thôi. Khoảng cách giữa hai bức tường ấy là khung cửa rộng với hai cánh gỗ dày sơn đen. Gã tiểu nhị cầm vòng đồng trên cánh cửa đập mạnh và cửa được mở ra.
Người đã mở cửa là một lão già thân thấp to ngang, râu ngắn, cằm cụt ngủn. Trên gương mặt vuông vức, cương nghị của lão ta có hai nét đặc biệt là đôi mắt diều hâu sáng quắc và chiếc mũi lân đỏ ửng. Lão oai vệ báo gã tiểu nhị:
- Ngươi đã hết nhiệm vụ.
Gã ta vội nở nụ cười cầu tài rồi rút lui ngay. Lão nhân râu ngắn đóng cổng, cài then cẩn thận và lầm lũi đi trước dẫn đường cho khách. Tử Khuê lơ đãng quan sát cảnh vật qua làn mưa tuyết, nhận ra quanh chiếc sân gạch rộng mênh mông này là ba dãy nhà lợp ngói lưu ly xanh. Trên sân không hề có chậu kiểng, bồn hoa, chỉ có những gốc tùng cổ thụ, cành lá đọng tuyết loang lổ. Hai người vừa đi đến giữa sân thì lão nhân râu ngắn bất ngờ quay lại, múa quyền tấn công Tử Khuê với nét mặt cực kỳ hung dữ. Thân thể lão không cao nhưng song thủ khá dài thích hợp với quyền thuật. Quyền phong vù vù chấn động không gian cuốn theo những bông tuyết thổi về phía Tử Khuê như bão tố.
Tử Khuê hốt hoảng đảo bộ tránh đòn thét lên:
- Sao lão thí chủ bị khùng hay sao lại đánh bần đạo?
Lão ta chẳng nói chẳng rằng, lầm lì xông lên tấn công tiếp, cứ như chàng là người cướp vợ của lão vậy. Tử Khuê vừa sợ vừa kinh ngạc, thi triển Thao Quang thân pháp mà chạy quanh. Chàng rầu rĩ nghĩ thầm:
- Sao số ta luôn rơi vào những tình cảnh khó khăn, ngang trái thế này chứ nhỉ !
Khinh công của chàng rất linh diệu khiến đối phương không sao tiếp cận được. Lão bực bội quát:
- Con bà nó! Ngươi mà không đứng lại bồi tiếp vài trăm chiêu thì lão phu sẽ lôi tổ tông phụ mẫu của ngươi ra mà thóa mạ đấy.
Tổ tông thì quá xa lạ song Tử Khuê chẳng thể để lão chửi bới cha mẹ mình được. Hào khí tuổi thanh xuân và lòng hiếu thảo đã khiến chàng phẫn nộ trước thái độ ngang ngược của kẻ địch. Tử Khuê lập tức buông tay nải xuống đất rồi trụ tấn chờ đợi. Lão nhân râu ngắn mừng rỡ lao đến, vươn đôi tay vượn đánh liền mười sáu đòn vừa quyền vừa trảo, uy hiếp tám đại huyệt trên thân trước Tử Khuê.
Đường quyền của lão nhanh nhẹn và dũng mãnh phi thường, chứng tỏ một bản lĩnh cao cường, thâm hậu. Khi đã lâm trận thì Tử Khuê chẳng còn là một chàng trai thận trọng, nhút nhát nữa. Chàng cũng hiểu rõ chẳng khác gì sư phụ, nên giờ đây ánh mắt rực rỡ niềm hứng khởi, khoan khoái giải phá chiêu thức ác liệt của đối phương. Quyền pháp đạo gia hình thành trên nền tảng tư tưởng Đạo giáo, chủ trương nhu thắng cương. Cho nên về hình thức, pho Thao Quang thần thức không có được vẻ đẹp cương mãnh oai phong như Thiếu Lâm Trường Quyền. Song thủ Tử Khuê giờ đây mềm mại như hai dải lụa ẻo lả đang cố chịu đựng những đòn công phá hung hãn của kẻ địch. Nhưng thực ra, lực đạo âm nhu của ở hai bàn tay chàng rất mạnh mẽ, và tốc độ xuất chiêu cũng nhanh hơn đối thủ trong cùng một thời gian.
Mười sáu thế thức sấm sét của lão nhân râu ngắn áo cừu đen lập tức bị ngăn chặn. Không những thế, lão còn phải thoái bộ để tránh một cước như chớp của Tử Khuê vào đùi trái. Gương mặt lão nhân lộ rõ vẻ ngạc nhiên vì phát hiện chàng đạo sĩ trẻ kia có công lực khá cao và quyền thuật thì ảo diệu khôn lường. Lão luyện quyền cước 50 năm thừa bản lãnh để nhận ra Tử Khuê đã thi triển yếu quyết tá lực đả lực Tứ Lượng Bạt Thiên Cân. Nghĩa là, chàng đã đạt đến trình độ bám theo đường quyền của lão và dùng một lực tương đối nhỏ để xô lệch tay quyền khỏi quỹ đạo. Tuy ngạc nhiên song lão bội phần cao hứng, hân hoan vì gặp kẻ địch xứng tay. Lão dồn thêm sức, đánh tiếp. Lão nhân tấn liền ba mươi tám thế, gồm ba mươi bốn quyền và bốn cước.
Không phải ngạc nhiên mà người ta dùng quyền thuật để chỉ phép sử dụng tay chân. Trong võ thuật Trung Hoa, đòn chân rất ít và thường chỉ được sử dụng bất ngờ, mang tính cách ám tập. Lực đạo của đòn chân mạnh mẽ hơn tay quyền tuy tầm sát thương chẳng dài hơn. Nhưng ngược lại, khi xuất cước, người võ sĩ để lộ sơ hở rất lớn. Ngay ở chân ra đòn đã có những yếu huyệt để kẻ địch tấn công. Chẳng hạn như các huyệt Phục Thố, Lương Khâu, Độc Ty, Túc Tam Lý, Giải Khê.... thuộc kinh Túc Dương Minh Vị. Do vậy các quyền thủ luôn phải rút chân về thật nhanh, dù có đá trúng mục tiêu hay không. Lão nhân râu ngắn này cũng thế, thỉnh thoảng lão quét nhanh một cước chứ không dám lạm dụng chỉ sợ bàn tay thép của đối phương điểm trúng yếu huỵêt. Nhưng về những thế quyền thì lão không hề ngán ngại, ung dung va chạm và tự tin sẽ chiếm thượng phong. Lão dồn hết tám thành công lực nên quyền kình ào ạt khí thế tựa sóng dữ Hoàng Hà. Nếu xét về tương quan lực lượng thì Tử Khuê không tài nào chống nổi. Tay quyền của chàng sẽ bật ra khi chạm vào đối phương và để lộ sơ hở. Hơn nữa, lão nhân râu ngắn lại là cao thủ trong làng quyền cước, đôi tay cứng rắn như thiết mộc. Nhưng may thay, xương cốt, da thịt Tử Khuê cũng chẳng đến nỗi yếu mềm, nhờ linh thủy của mẫu thân và 7 năm mẫn cán đánh vào đám cây du tội nghiệp. Song, điều quan trọng nhất trong quyền pháp của chàng là Tứ Lượng Bạt Thiên Cân và pháp Cương Ty Phất Huyệt. Tử Khuê nghe quyền phong mà biết đối phương đã nặng tay, chàng liền xuất chiêu Hoa Ảnh Triều Phong, hai bàn tay lúc xòe lúc cụp, quyền ảnh chập chờn tựa như trăm bông hoa lay động trước gió, hóa giải ba mươi tám thức quyền cước hung mãnh và độc địa của đối thủ.
Kẻ tấn công không thành đương nhiên sẽ lộ sơ hở. Đấy là khi dứt chiêu này và chuyển sang chiêu khác. Đối với đại cao thủ thì khoảnh khắc ấy rất ngắn và thường được lấp đầy bằng lối đánh liên hoàn, chiêu nọ nối chiêu kia tựa sóng xô. Nhưng trong trường hợp của lão nhân râu ngắn hôm nay thì hơi khác. Thức quyền mà lão nhắm vào ngực trái Tử Khuê không bị ngăn chặn. Chàng đạo sĩ trẻ thản nhiên đổi mạng, vươn hữu trảo chụp vào tâm thất đối phương. Lão nhân râu ngắn chắc mẩm rằng tay mình sẽ chạm mục tiêu trước. Nào ngờ chợt phát hiện hai huyệt Linh Khư, Bộ Lang ở ngực trái khẽ nhói lên, mặc dù trảo của Vu Diệp chân nhân còn ở cách xa hơn gang. Lão ta thất kinh hồn vía, lập tức hoán vị về mé hữu để tránh đòn, trước khi lực đạo vô hình quái dị kia xoáy sâu đến đáy huyệt. May mà lão công lực thâm hậu có lớp cương khí hộ thân, và mặc áo lông cừu dày nên sự tình chưa đến nỗi tệ hại. Hiểu rằng đối phương đã luyện thành tuyệt kỹ Tụ Khí Thành Chỉ, Cách Không Phất Huyệt, lão râu ngắn nản chí anh hùng chẳng còn muốn đấu nữa. Lão vừa chống đỡ chiêu công của Tử Khuê, vừa lùi dần và ngoác họng gọi lớn:
- Nhị ca mau ra tiếp chiêu, tiểu đệ không phải là đối thủ của tiểu tử mũi trâu này.
Thế là trong một phòng nào đó của dãy nhà hướng đông có bốn bóng người lao vút ra. Một trong bọn họ rút kiếm tấn công Tử Khuê. Lão nhân râu ngắn thấy vậy tung mình rời khỏi đấu trường chứ không liên thủ với người cầm kiếm. Tử Khuê cũng mặc kệ lão, lo rút gươm để đối phó với tay kiếm thủ mới xuất hiện. Đó là một lão nhân mặc khinh cừu trắng muốt, râu cằm đen nhánh dài và mượt. Mặt lão xương xương, lưỡng quyền cao nhọn, lông mày lưỡi mác rậm rì. Cộng với chiếc mũi ưng và đôi mắt dài nhỏ, dung mạo lão đầy vẻ khắc nghiệt và hung dữ. Chiêu kiếm của lão cũng bội phần độc ác, vun vút xé tan màn không gian lạnh lẽo, tĩnh mịch của buổi trưa mùa đông, phát ra những âm thanh lạnh buốt rợn người.
Tử Khuê trẻ người non dạ, cho rằng mình đã rơi vào bẫy của Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn, lòng vô cùng lo sợ, liền tính kế đào tẩu. Hiện tại phe đối phương mới có năm người, nếu để họ kéo ra đông hơn nữa thì nguy to. Do đó quyết định kết thúc cuộc đọ kiếm này thật sớm rồi vượt tường bỏ chạy mà Tử Khuê xuất chiêu Mạc Mạc Trần Ai (mịt mờ bụi bặm), một trong những chiêu lợi hại nhất của Thanh Long kiếm pháp. Chiêu này công thủ vẹn toàn và cực kỳ ảo diệu. Nó gồm đến ba trăm sáu mươi thế thức, tạo nên một màn kiếm ảnh dày đặc khiến đối phương phải hoang mang. Hơn nữa tuyết đang rơi như trời mưa, quyện vào kiếm phong càng phát huy diệu dụng của kiếm chiêu. Kết quả là lão nhân râu ngắn cảm thấy như mình đang đối diện với cơn bão tuyết cuồng nộ, mịt mờ. Thép chạm thép vang rền, song phương xoắn lấy nhau rồi tách ra. Kẻ chịu thiệt thòi là lão nhân râu dài và chính lão đã phải nhảy lùi, rời xa đối thủ để tránh thương vong. Bốn người đứng ngoài “ồ” lên kinh hãi khi thấy thân trước chiếc áo lông cừu trắng của đồng đảng bị rách toạc. Nghĩa là chỉ xém chút nữa là lão ta toi mạng.
Tử Khuê đang định bỏ chạy thì ngẩn người bởi những tràng vỗ tay tán thưởng của kẻ thù. Riêng lão nhân râu dài thì giơ ngón cái cất lời khen ngợi:
- Hảo thiếu niên! Không ngờ Thiên Sư giáo lại có thể sản sinh ra một bậc kỳ tài như túc hạ. Lão phu xin khấu đầu bái phục.
Nhưng một trong bốn người đã cải chính:
- Nhị ca sai rồi! Y không phải là đệ tử Thiên Sư giáo. Võ công y là của Huyền Hư phái, một chi nhánh đạo giáo đã từng tồn tại ở núi Nga Mi trước khi Phật giáo truyền vào Trung Hoa.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc, không ngờ kẻ kia lại tỏ tường lai lịch sư môn của mình như thế. Chàng quay sang nhìn thì thấy người ấy là một hán tử tuổi độ bốn mươi, dung mạo tuấn tú và có một nốt ruồi son trên gò má trái. Tử Khuê mừng rỡ bước đến chắp tay, cúi đầu thi lễ và hỏi:
- Bần đạo là Vu Diệp. Còn thí chủ phải chăng là Ngụy Công Tử họ Tề?
Gã ta cau mày gật đầu:
- Tại hạ chính là Tề Thúc Như. Nhưng tại sao đạo trưởng lại nhận ra?
Tử Khuê hớn hở đáp:
- Bần đạo thừa lệnh sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y, đến Nghiệp thành này tìm thí chủ.
Chủ nhân phạn điếm là Tống Nhiên cũng có mặt nơi này, lão cười ha hả bảo:
- Té ra là chỗ quen biết, mời mọi người vào trong đàm đạo cho ấm áp.
Chiều mùng sáu tháng chạp, Tử Khuê bồi hồi lỏng tay cương, chậm rãi qua cầu Bá Lăng. Dẫu cho tuyết rơi mù mịt, từ trên cầu này chàng vẫn nhìn thấy thấp thoáng bóng dáng Quách gia trang, nơi có những người thân đang trông ngóng mình. Trong thư gửi về nhà hồi tháng tám, chàng đã nói rằng sang xuân mới có thể hạ sơn. Nay chàng về sớm thế này chắc song thân sẽ vui mừng lắm. Dường như chính lá thư ấy đã khiến Âu Dương Mẫn không đặt phục binh ở dọc đường. Lão đã có nội gián là Nhâm Đức Tín, anh rể Tử Khuê, nên chẳng sợ bắt hụt con mồi. Ngoài ra còn một số yếu tố khác khiến cho Tử Khuê được an toàn, đó là việc đối phương không biết dung mạo của chàng, sau bảy năm, một đứa bé trở thành người lớn và đổi khác. Giờ đây chỉ có song thân và hai bào tỷ của chàng mới có thể nhận ra, vì đã gặp vài lần trong mấy năm qua. Nghĩa là Nhâm Đức Tín muốn mô tả hoặc vẽ lại gương mặt vóc dáng của chàng cũng chẳng bắt được. Tất nhiên, gã không thể yêu cầu vợ mình giúp đỡ.
Cầu hẹp, Tử Khuê cho ngựa chạy chậm, lòng chàng nôn nao, sôi sục chỉ muốn mau chóng trở lại chốn cũ dấu yêu. Cho nên vừa sang đến bờ bên kia, Tử Khuê lập tức rẽ trái ra, rồi giục ngựa phi nhanh. Nửa dặm chẳng là bao, lát sau chàng đã tới nơi. Nhưng chàng chẳng dám gõ vào cánh cổng khép kín im lìm nọ, đứng lặng người một lúc rồi quay ngược trở ra, đi vào thành tìm chỗ trọ. Theo kế hoạch Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành, Tử Khuê phải âm thầm trừng trị Nhâm Đức Tín trước khi công khai quay về Quách gia trang. Có như thế thì Âu Dương Mẫn mới không nghi ngờ chàng là thủ phạm. Vô hiệu hóa nội gián là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an toàn cho Tử Khuê và gia quyến. Dĩ nhiên Tử Khuê chẳng thể giết anh rể để bào tỷ phải góa bụa, ba đứa cháu gái phải mồ côi. Cửu Hoa chân nhân đã dạy sư điệt một thủ đoạn phi thường, dầu Diệu Thủ Thần Cơ cũng phải bó tay. Không những thế, Chân nhân còn tặng Tử Khuê một quyển Y Cảo, tâm huyết của cả một đời để chàng trở thành người thừa kế trọn vẹn tuyệt học của Huyền Hư phái. Khác với Vu Mộc chân nhân và Thanh Long chân nhân, Cổ Sĩ Hoành nuôi chí trùng hưng môn phái, không chịu để tông môn mai một. Có lẽ ý tưởng nảy sinh khi ông gặp gỡ Tử Khuê, nhận ra chàng là bậc kỳ tài, đủ sức dương danh Huyền Hư phái trên chốn võ lâm.
Hơn nữa Tử Khuê đã tình cờ vào thế đối đầu với Minh chủ Âu Dương Mẫn, tức Huyết Mai hội chủ, công địch của Võ Lâm. Chàng không thể rời xa Tỵ Lôi thần châu và đối phương thì quyết chiếm cho bằng được. Do đó, Tử Khuê bắt buộc phải chiến đấu để sinh tồn và trở thành vị tướng tiên phong trong sự nghiệp giáng ma. Nếu chàng thành công, thanh danh sẽ lẫy lừng kim cổ. Lúc ấy, việc thu nhận đệ tử, khôi phục lại phái Huyền Hư dễ như trở bàn tay.
Bản thân Tử Khuê thì vốn không có ý định ấy vì sư phụ chàng, Vu Mộc chân nhân, chưa hề đề cập đến. Nhưng chàng cho rằng đây là cách tốt nhất để báo công ơn như trời biển của ân sư. Vì thế, chàng nhất nhất nghe theo lời dạy bảo của tam sư thúc Cổ Sĩ Hoành. Hơn nữa, học võ để làm gì nếu không nuôi chí trừ gian diệt bạo. Nhắc lại đầu canh ba hôm ấy, Tử Khuê mặc bộ võ phục màu trắng, rời quán trọ tìm đến Nhâm gia trang trên phố chính bắc nam của thành Hứa Xương. Lúc tối, chàng đã ra ngoài sắm sửa y phục để thực hiện kế hoạch đã định sẵn. Cơ ngơi này được mua bằng số vàng hồi môn của đại tỷ Tử Khuê là Quách Thu Dung, nhưng gái theo chồng nên trở thành tài sản họ Nhâm. Tử Khuê rất quen thuộc nơi đây vì thuở nhỏ thường lui tới chơi đùa. Đại tỷ chàng không có con trai nên thường tìm cách lôi kéo đứa em trai kháu khỉnh đến nhà mình bằng những món bánh kẹo ngon ngọt. Tử Khuê biết rõ khuê phòng của chị mình nằm trong dãy nhà hướng bắc liền vượt tường sau, nhảy xuống vườn hoa rồi áp sát vách hậu, ghé mắt qua khe cửa mà quan sát.
Chàng rất hồi hộp và lo lắng khi lần đầu làm kẻ dạ hành, chỉ sợ bọn gia nhân phát hiện. May thay trong tiết trời lạnh giá này mọi người đều ngủ sớm và bọn gia đinh tuần tra cũng tìm chỗ kín gió mà ngồi chứ không đi qua đi lại. Họ có thể lơi là nhiệm vụ vì những cơ ngơi của nhà họ Quách được quan quân thành Hứa Xương ưu ái trong việc bảo vệ. Tổng binh Hứa Xương là cháu ruột của Quách trang chủ, tức em thúc bá với Tử Khuê. Gã được làm Tổng binh cũng là nhờ vàng bạc và thế lực của Quách Thiên Tường. Vì vậy Quách Tử Xuyên đã bắt bọn quân sĩ dưới trướng đêm đêm đội tuyết dầm sương rảo quanh nhà của hai biểu tỷ Thu Dung, Xuân Hương. Đối với Quách gia trang ở ngoại thành, gầm cầu Bá Lăng, việc tuần tra bảo vệ còn được thực hiện nghiêm ngặt hơn.
Thực ra Tử Xuyên chẳng lỗ lã gì vì vẫn nhận được những khoản ban thưởng của Quách gia trang. Ngay bọn lính tuần cũng có phần thưởng nên vui vẻ hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng sự mẫn cán của họ chỉ dọa được bọn đạo chích cò con, và vô dụng trước những cao thủ võ lâm. Lúc nãy, Tử Khuê dễ dàng qua mặt bọn lính tuần, vượt bức tường cao hon trượng chỉ bằng một động tác nhún chân.
Trở lại với kẻ dạ hành bất đắc dĩ là Tử Khuê, chúng ta sẽ thấy chàng đang rầu rĩ khi chứng kiến cái cảnh gia đình bào tỷ bị xào xáo, bất hoà. Thì ra, Nhậm Đức Tín vừa từ thanh lâu trở về, người nồng nặc mùi rượu và son phấn. Khi bị Quách Thu Dung cằn nhằn, trách móc thì họ Nhậm hùng hổ nạt:
-Nàng chớ nhiều lời, Nhâm mỗ không có con trai nối dỗi tông đường nên lòng chẳng vui, phải chơi bời để giải khuây thế thôi.
Quách Thu Dung cười nhạt:
-Tướng công là thứ nam, trong khi cháu đích tôn họ Nhâm đã có rồi, thì việc tiện thiếp có sinh con trai hay không nào có quan trọng gì?
Đức Tín đuối lý, trả đũa một cách đểu cáng. Gã nhếch mép mỉa mai:
-Thực ra ta đến thanh lâu vì quá chán cái thân thể nhão nhẹt, béo phệ cũng như gương mặt xấu xí của nàng đấy.
Đối với nữ nhân, chê bai nhan sắc là câu mạt sát nặng nề nhất. Quách Thu Dung tái mặt, dòng lệ tủi hổ trào tuôn, ôm mặt chạy ra khỏi khuê phòng, sang ngủ với các con. Nhâm Đức Tín cười đắc ý, lảo đảo đi theo, đóng sầm cửa phòng lại rồi trở vào, leo lên giường. Gã đã say mèm nên không nghĩ đến chuyện cài then cửa và chỉ lát sau đã ngáy khò khò. Tử Khuê thương cho hoàn cảnh của chị mình, liền thay đồi chút ít thủ đoạn. Theo kế hoạch của Cửu Hoa chân nhân Cổ Sĩ Hoành thì Tử Khuê phải dùng phép tỏa kinh bế mạch biến họ Nhâm thành kẻ bại liệt, giống như người trúng gió vậy. Tử Khuê mau chóng nhảy lên mái ngói, chuyển ra phía trước, vào bằng cửa chính. Chàng thận trọng điểm Thụy Huyệt của gã say khốn kiếp rồi mới hạ thủ. Phất huyệt là phần quan trọng nhất của pho Thao Quang thần thức, nên sau bảy năm khổ luyện, Tử Khuê vẫn có thể nhắm mắt mà vẫn điểm huyệt chính xác, chẳng sai một ly. Sáng mai, khi thức dậy, Nhâm Đức Tín sẽ nghe đau ở hai khớp gối, hai cùi chỏ và xương hàm, gã chỉ có thể đi thật chậm như một lão già chín mươi, còn hai tay thì chỉ đủ sức để bưng chén cơm hoặc chùi đít. Gã cũng sẽ thôi chửi bới vợ con vì nói năng khó khăn. Nhưng có một thứ vẫn nguyên vẹn là khả năng dục tình. Lúc ấy, họ Nhâm sẽ phải lạy lục, van xin người vợ già xấu xí của mình.
Xế trưa mùng chín tháng chạp, Tử Khuê dừng cương trước cổng Quách gia trang. Chàng nôn nao gõ dồn dập vào cánh cửa gỗ khiến gã gia đinh ra mở cửa phải bực bội. Gã nhăn nhó trách:
- Túc hạ là ai mà sao lại có cái lối gọi cửa vô lễ như vậy?
Tử Khuê nhận ra gã là Tiểu Toàn, con của lão đầu bếp Quách gia trang. Tiểu Toàn bằng tuổi chàng, và thuở nhỏ hai người rất thân nhau. Giờ đây Tiểu Toàn đã trở thành một tráng đinh lực lưỡng, râu mép lún phún, Tử Khuê mừng rỡ nói:
- Tiểu Toàn đấy ư? Ta là Tử Khuê đây!
Gã giật mình nhìn chàng thật kỹ rồi rú lên:
- Ôi, thiếu gia!
Và gã ôm chầm lấy chàng, vỗ lưng bồm bộp theo cách mà bọn nam nhân thường làm. Tiếng rú của gã đã đánh động ả nữ tỳ đang quét tuyết ngoài cửa thùy hoa, cửa dẫn vào sân trong. Ả này vội quăng chổi chạy vào bẩm báo. Cả nhà lập tức kéo ra, chủ tớ chẳng sót một ai. Tử Khuê và Tiều Toàn cũng dắt díu nhau vào đến, qua khỏi cửa thùy hoa thì gặp người thân.
Chàng vô cùng xúc động khi thấy song thân, liền phục xuống lạy:
- Bất hiếu nhi bái kiến huyên đường.
Quách Thiên Tường cười ha hả, ánh mắt rực rỡ niềm vui sướng. Còn Kỹ nương bước đến đỡ ái tử dậy rồi ôm lấy mà khóc ròng. Tử Khuê cũng mủi lòng song không dám để lộ vì sợ bọn tỳ nữ chê cười. Họ đang dán những ánh mắt ngưỡng mộ vào gương mặt khôi ngô của cậu chủ trẻ, người sẽ cưu mang họ sau này. Họ không dám mơ trở thành vợ chàng song làm tỳ thiếp thì có thể. Bữa cơm trưa trở thành tiệc đoàn viên, vài món được nấu thêm dọn lên hơi trễ. Lúc chuẩn bị tắm gội, Tử Khuê sực nhớ ra hỏi từ mẫu:
- Mẫu thân! Chiêm đệ đâu sao chẳng thấy?
Kỹ nương thở dài, nặng trĩu u buồn:
- Chiêm nhi mắc bệnh lạ đã hai tháng nay, các đại phu trong thành đều bó tay, nếu sống sót thì cũng trở thành phế nhân.
Tử Khuê bàng hoàng chết lặng, lòng dạt dào nỗi xót thương đứa em bé bỏng. Sực nhớ đến quyển Y Cảo mà Cửu Hoa Thánh Y đã tặng, chàng mừng rỡ an ủi mẹ:
- Mẫu thân chớ muộn phiền. Hài nhi đã gặp Kỳ Hoàng sư thúc tổ, được người tặng cho quyển Y kinh. Mẹ con ta nghiên cứu quyển sách ấy tất sẽ tìm ra cách chữa trị cho Chiêm đệ.
Thực ra trong nghề võ, cùng đồng bối với Kỹ nương, nhưng trước mặt từ mẫu vẫn gọi Cửu Hoa Thánh Y là sư thúc tổ. Kỹ Thanh Lam vui mừng khôn xiết reo lên:
-Đa tạ hoàng thiên. Ta đã nghĩ đến Tam sư thúc nhưng chẳng biết ở đâu mà tìm.
Bà hân hoan nhận lấy quyển sách thuốc dày cộm và nhìn con trái với ánh mắt chan chứa yêu thương. Đến giữa giờ Ngọ thì hai chị và hai anh rể của Tử Khuê đã có mặt. Nhâm Đức Tín được vợ dìu đi, lê lết từng bước rất khổ sở, mặt nhăn như khỉ. Nhưng mắt gã sáng lên khi thấy viên ngọc tròn màu tía trên ngực em vợ. Lúc Tử Khuê đến chào, gã thều thào bảo:
- Này tam đệ! Phải chăng.... đấy là viên Tỵ Lôi thần châu? Ngươi đưa tỷ phu xem thử.
Tử Khuê vui vẻ gật đầu, tháo dây tơ, trao viên ngọc giả cho họ Nhậm, miệng thì nói:
- Công dụng của thần châu cũng không lớn lắm, dù đeo nó mà tiểu đệ cũng mấy lần ngã lăn vì sét đánh, nhưng được cái là chẳng thể chết. May mà giờ tiểu đệ đã qua tuổi mười tám, chẳng còn cần đến Tỵ Lôi thần châu nữa.
Nhậm Đức Tín mừng húm, chỉ chực mở miệng ra xin, nhưng Nhị tiểu thư Quách Xuân Hương đã buột miệng:
- Ngu tỷ nghe đồn lão Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn cũng bị Thần Lôi ám quẻ, đang cần mua Tỵ Lôi thần châu với giá vạn lượng vàng.
Nàng quản lý ba bốn tửu lâu nên chẳng thiếu thông tin. Quách Thu Dung bật cười nói đùa:
- Thế thì hay quá. Chừng nào ngu tỷ thiếu vốn thì Tam đệ bán đi cho ta mượn.
Kỹ nương dịu dàng xen vào:
- Đấy là kỷ vật của sư phụ Tử Khuê, chẳng thể bán được.
Sau bữa tiệc tương phùng đầy ắp tiếng cười, Nhâm Đức Tín nôn nóng đòi về, mượn cớ chân đau chẳng tiện ngồi lâu. Quách Thu Dung liền sai gia nhân đánh xe đưa gã về trước, còn mình ở lại trò chuyện với đứa em trai cách biệt đã lâu. Họ Nhâm về đến nhà lập tức viết thư sai gã gia đinh thân tín đi trao cho thủ hạ của Âu Dương Mẫn. Ở mỗi địa phương sầm uất, phồn vinh đều có vài tên thủ hạ của Minh chủ võ lâm cắm chốt. Nhiệm vụ của chúng là dò la tình hình giới giang hồ và các bang hội, báo về Tổng đàn bằng đường dây dịch trạm.
Do đó, chỉ sáu ngày sau là Âu Dương Mẫn gõ cửa Quách gia trang. Cùng đi với lão có Diệu Thủ Thần Cơ, 30 gã vệ sĩ và một lão nhân râu năm chòm. Lão ta tuổi độ 65, trán cao, mắt sáng, đầy vẻ thông tuệ, nếu mũi không quá tẹt và miệng không quá nhỏ thì cũng khá đẹp lão. Bác Cổ tiên sinh Lương Viễn Phương lừng danh Trung thổ vì kiến văn uyên bác, tinh thông nghề thiết kế cơ quan ám khí, và là một bậc thầy trong ngành khảo cổ. Âu Dương Mẫn mời Lương Viễn Phương đi theo để thẩm định viên Tỵ Lôi thần châu. Dù đối với lão vạn lượng vàng không lớn nhưng nếu mua nhằm của giả thì mạng già sẽ ra ma.
Theo đúng lễ, khách đưa bái thiếp cho gia nhân rồi đứng đợi. Gã Tiểu Toàn hộc tốc chạy vào báo cho Quách trang chủ. Lúc này thì vợ chồng Quách Thiên Tường đã được Tử Khuê kể rõ ngọn ngành và có sẵn kế sách đối phó. Trang chủ thản nhiên bảo Tiểu Toàn ra mời khách nhập trang. Ba mươi gã kiếm sĩ Tổng đàn đứng ngoài giữ ngựa, chỉ có Âu Dương Mẫn và hai lão nhân đi theo Tiểu Toàn.
Quách trang chủ một mình tiếp khách, vui vẻ bảo ả nữ tỳ Tiểu Cầm châm trà. Sau khi nhấp vài hớp trà Long tỉnh thượng hạng, Âu Dương Mẫn trình bày mục đích của mình. Quách Thiên Tường chau mày ngạc nhiên:
- Tại sao tôn giá lại biết việc Quách gia trang sở hữu thần châu?
Âu Dương Mẫn ỡm ờ đáp:
- Có người tình cờ nhìn thấy lệnh lang đem ngọc đi dạo phố nên đã đến báo với lão phu.
Quách trang chủ gật gù chấp nhận lý do ấy rồi nói:
- Đúng là hiện nay khuyển tử đã thoát tai ương, không cần đến Tỵ Lôi thần châu nữa. Nhưng nó lại là di vật của sư phụ nên e rằng Khuê nhi chẳng chịu bán. Nay Âu Dương huynh đã khẩn khoản như thế, để lão phu cho gọi khuyển tử ra hỏi ý.
Diệu Thủ Thần Cơ cười mát, nói một câu đầy ẩn ý:
- Cứu một mạng người còn hơn xây bảy cấp phù đồ. Nếu Trang chủ cố khuyên lệnh lang nhường lại Tỵ Lôi thần châu thì công việc kinh doanh của nhà họ Quách sẽ ngày càng thịnh vượng. Lỡ quý hiện có bị ai cạnh tranh hay quấy rối thì Âu Dương minh chủ sẽ ra oai trấn áp giùm.
Quách Thiên Tương là kẻ lọc lõi chốn thương trường, thừa bản lãnh để thay đổi, sắc mặt giả vờ sợ hãi, bối rối trước lời nói hăm dọa của đối phương. Ông đứng lặng người một lúc rồi thiểu não nói:
- Lão phu đã hiểu ý tứ Tư Mã lão huynh, sẽ tận lực thương lượng với khuyển tử.
Ông đứng lên lật đật đi vào trong. Nửa khắc sau Quách trang chủ trở ra cùng con trai. Từ ngày hồi trang, Tử Khuê bị song thân bắt phải trút bỏ cái lốt đạo sĩ, mặc y phục bằng gấm lụa, chàng cũng ăn mặn để từ mẫu được vui lòng. Chàng là người thừa kế hương hỏa dòng họ Quách nên không thể đi tu được. Quách lão còn đốc thúc ái tử cưới vợ song chàng đã khất lần. Hôm nay Tử Khuê mặc trường bào gấm xanh, ngoài khoác áo khinh cừu ngắn, trông như chàng công tử văn nhã chẳng chút gì giống kẻ học võ cả. Quách trang chủ giới thiệu con trai với khách. Tử Khuê chắp tay thi lễ rồi ấp úng:
- Bẩm Âu Dương minh chủ. Nếu người thực sự cần đền Tỵ Lôi thần châu thì vãn bối chẳng dám tiếc. Có điều là viên ngọc này không thực sự công hiệu như lời đồn đãi. Gia sư bảo rằng nó chỉ giúp người đeo được toàn mạng chứ không tránh khỏi sự khiếp sợ và tổn thương nho nhỏ. Sau này, mong Minh chủ chớ trách vãn bối không nói trước.
Tử Khuê chẳng quen nói dối nên lời lẽ ngập ngừng, ánh mắt đầy vẻ sợ sệt. Nhưng Âu Dương Mẫn và hai đồng đảng lại cho rằng chàng không muốn bán. Nhà họ Quách giàu có đã mấy đời, chẳng tham vạn lượng vàng làm gì. Âu Dương Mẫn nghe vậy lại càng hăng tiết muốn mua. Da thịt lão rất bền chắc nhờ Thiết Sa Thần Công, hơn hẳn gã công tử yếu đuối kia, nên sẽ chẳng hề suy suyễn. Lão chỉ cần cái công dụng bảo mạng của Tỵ Lôi thần châu là quá đủ rồi. Nghĩ vậy nên Âu Dương Mẫn đáp lời:
- Công tử thành thật như thế thì sao lão phu dám oán trách. Mong công tử cho bọn lão phu xem qua cái vật kỳ lạ ấy.
Tử Khuê tháo ngọc đặt xuống bàn rồi lui về, đứng sau lưng phụ thân chàng. Chàng là hậu bối, không được phép ngồi chung với khách của cha mẹ, trừ phi họ yêu cầu.
Âu Dương Mẫn cầm lấy, xem qua loa, thấy bề mặt của viên ngọc tía nhỏ cỡ hột nhãn này chi chít những chữ nhỏ như kiến. Không phải Hán tự tức có thể là chữ Phạn. Lão mù tịt nên đưa sang cho Bác Cổ tiên sinh Lương Viễn Phương. Lương lão xem xét bằng một mảnh pha lê trong suốt hình bán cầu, bằng cỡ nửa trái cam. Nó chính là kính phóng đại do người Tây Dương làm ra, đem đến Trung Hoa bán với giá đắt hơn vàng. Người Trung Hoa phát minh ra nhiều thứ, trước các nước phương Tây cả mấy chục năm nhưng chẳng hiểu sao họ lại thất bại trong ngành thủy tinh, làm ra những sản phẩm chỉ đáng gọi là “ve chai”. Việc chế tạo thủy tinh ở Trung Quốc đã có nguốn gốc từ thời nhà Thương. Ngành này có quan hệ chặt chẽ với công việc làm đồ sứ và luyện kim. Thời Trung Hoa đã có những lò nung đạt đến đạt nhiệt độ 1.530 độ, đủ điều kiện làm thủy tinh. Có lẽ, loại thủy tinh đầu tiên ở Trung Hoa là sản phẩm phụ khi đúc đồng. Lúc thải bỏ xỉ, người ta ngẫu nhiên phát hiện ra thủy tinh. Ngay đến tận thời nhà Minh, Trung Quốc vẫn chưa làm được loại thủy tinh trong suốt, chất lượng cao chứ đừng nói đến thủy tinh quang học. Đầu tiên, khoảng thời Nam Tống, có kính mắt, tức kính lão, được đưa từ các nước Ba Tư vùng Tây Vực vào Trung Hoa, giá đắt ngàn vàng. Sau này, người Tây phương đã mang kính lão và những sản phẩm thủy tinh khác đến Trung Hoa. Kính cận thì tới thời nhà Thanh mới có.
Nghĩa là Bác Cổ tiên sinh vì nhu cầu nghề nghiệp mà đã phải cắn răng bỏ ra mấy trăm lượng vàng để mua cái cục thủy tinh nặng trịch ấy. Nhưng lão sẽ không bao giờ phải hối tiếc vì giờ đây những chữ Phạn nhỏ li ti kia lớn lên gấp mấy lần rõ ràng từng nét. Và không hổ danh uyên bác, Lương lão đọc được ngay câu thần chú trúc trắc, khó hiểu nọ. Tổng cộng gần ba trăm sáu mươi chữ, đúng như cổ thư đã ghi chép. Hơn nữa, có vài chục chữ đã hơi mờ và mòn đi bởi tay người, đúng là đồ cổ.Lão không biết rằng Ngụy Công tử Tề Thúc Như thừa thủ đoạn để làm cho một vật già đi vài trăm tuổi. Làm mòn vẹt là dễ nhất, mài vào da trâu ít khắc là xong. Hơn nữa Bác Cổ tiên sinh chưa hề thấy qua vật thực, thì làm sao phân biệt giả chân? Lão chỉ đinh ninh rằng chủ cũ chẳng có động cơ gì để đưa ra của giả, và nhà họ Quách chỉ bán vì bị hăm dọa. Do đó Lương lão vững dạ tuyên bố với Âu Dương Mẫn:
- Chúc mừng Minh chủ mua được bảo vật.
Âu Dương Mẫn hân hoan móc ra xấp ngân phiếu vạn lượng hoàng kim, đẩy về phía Quách trang chủ rồi cảm ơn rối rít. Quách Thiên Tường làm ra vẻ miễn cưỡng, sai Tiểu Cầm lấy văn phòng tứ bảo. Lão viết nhanh hai bản văn tự với đầy đủ những ý mà Tử Khuê đã nói, song phương ấn ký rồi chia nhau mỗi người một bản. Vậy là dẫu sau này Âu Dương Mẫn có bị sét đánh thọ thương thì cũng chẳng thể đổ thừa cho Quách gia trang.
Nước cờ này rất tuyệt diệu, đề phòng đối phương bị Lôi Thần thăm viếng lần nữa mà không chết. Còn như lão chết toi thì võ lâm thoát nạn và sẽ chẳng còn ai để kiện cáo.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
Chương 4
 
Đến cuối tháng chạp thì cậu bé Quách Tử Chiêm hoàn toàn bình phục, khiến niềm vui của Quách gia trang được trọn vẹn Kỹ nương đã có căn bản về y học, nay được thêm quyển sách thuốc của Cửu Hoa Thánh Y nên đã cứu được con thơ. Tử Chiêm biết mình thoát chết nhờ ai nên vô cùng yêu mến Tam ca, quấn quýt chẳng rời. Tử Khuê đã dâng lên song thân hai viên “Trường Thọ đan” nhưng chỉ mình Quách trang chủ sử dụng, Kỹ nương nhỏ hơn chồng mười mấy tuổi lại có công lực thâm hậu nên rất trẻ trung tráng kiện. Bà mà uống “Trường Thọ đan” thì e rằng Quách lão chịu không thấu.
Hương xuân của năm Giáp Dần chưa tan thì Tử Khuê đã phải lên đường. Tiếng rằng đi du ngoạn song thực ra là chàng chính thức dấn thân vào chốn giang hồ.
Việc trước tiên Tử Khuê phải thực hiện là đến núi La Sơn, cạnh bờ sông Trúc Can Hà một phụ lưu của sông Hoài. Sứ mạng ấy xuất phát từ chiếc ghế gãy của Hồng Vận đại phạn điếm đất Nghiệp, chứ chẳng phải do Cửu Hoa Thánh Y giao phó. Số là thế này, trong hàng ngũ bô lão võ lâm có ba nhân vật cực kỳ lợi hại, tuổi đã gần chín mươi, được người đời xưng tụng là Võ lâm Tam Tôn. Họ gồm Bắc Thiên Tôn ở phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây, Nam Thiên Tôn đất Thiệu Dương, tỉnh Hồ Quảng và Trung Thiên Tôn núi La Sơn, tỉnh Hà Nam. Ba vị kỳ nhân này võ công cái thế, song từ lâu đã không màng đến sự đời nên Âu Dương Mẫn mới có thể hoành hành được. Và giờ đây, Tử Khuê đến La Sơn là để bái kiến Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh. Lão ta hiện đang giam giữ ái nữ của chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm Tống Nhiên. Cô ả này tên gọi Tống Thụy, tuổi đã 26 mà vẫn chưa chồng. Không phải vì nàng ta quá xấu nên ế ẩm. Ngược lại, Tống Thụy khá xinh đẹp và lại còn rất thông minh mẫn tiệp nữa. Chẳng qua, cô con gái út nhà họ Tống có máu giang hồ, thích phiêu bạt đó đây mà hành hiệp chứ không cam tâm làm một ả hoàng hoa khuê nữ. Năm 20 tuổi, Tống Thụy đã học hết nghề của cha và các nghĩa thúc, liền mang gươm xuất đạo ngay. Chỉ sau bốn năm, Tống tiểu thư đã lừng danh với cái xú hiệu Thiết Đảm Hồng Nhan. Tuy là gái nhưng nàng có cái lối đánh nhau cực kỳ liều lĩnh, táo bạo khiến đám nam nhân phải xanh mặt. Mỗi năm, Tống Thụy chỉ về nhà một tháng Tết, nhân dịp giỗ mẹ hiền. Tống lão có rầy la quở mắng thì nàng chỉ mỉm cười ôn nhu chẳng hề biện bạch. Tống lão chịu thua vì chẳng nỡ đánh đập hay xiềng xích đứa con gái mang dung mạo của người mẹ quá cố. Tống Thụy mất mẹ từ nhỏ, lại giống Tống phu nhân như đúc nên được cha cưng chiều nhất nhà.
Tống Nhiên vốn là một cao thủ Hắc đạo hoàn lương. Ông có ba nghĩa đệ, hai người đã so tài quyền, kiếm với Tử Khuê, người thứ ba chính là Ngụy Công Tử Tề Thúc Như. Tống Thụy cũng là học trò của ba kẻ ấy. Đầu năm ngoái, Thiết Đảm Hồng Nhan tình cờ lạc bước đến núi La Sơn mà không biết đấy là chốn ẩn cư của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh. Phong cảnh La Sơn lúc Xuân về cực kỳ diễm lệ, hoa tháng hai tưng bừng nở rộ. Tống cô nương say sưa dạo chơi và thò tay định ngắt vào đóa hoa thì bị một con chim ưng tấn công lén, mổ vào đầu đau điếng. Tống Thụy nổi giận thi triển ngay tuyệt kỹ của cha già, phóng một mũi “Yến Vỹ châm” giết chết con chim xảo quyệt. Nào ngờ, nó lại là vật nuôi yêu quý của Trung Thiên Tôn và tiếng kêu lìa đời thảm thiết của thần ưng đã đánh động chủ nhân. Trần lão liền chạy ra, tóm cổ Thiết Đảm Hồng Nhan đem vào thạch động giam giữ.
Sau đó, Trung Thiên Tôn gởi thư cho Tống Nhiên kể rõ sự tình, bảo rằng sẽ cầm tù Tống Thụy cho đến khi nào họ Tống tìm được 1 con chim ưng khác để bồi thường, nếu không Tống Thụy sẽ phải uống 1 thăng rượu mỗi ngày nếu chim chưa tới ! Chim ưng thì chẳng thiếu, song khổ nỗi Trần Ninh Tĩnh lại đòi một con biết nhậu và tửu lượng trên 1 thăng (lít). Tống điếm chủ thương con vô hạn, liền tìm mua mấy chục chú chim ưng rồi tập cho chúng uống rượu. Kết quả là chẳng con nào chịu uống cả và nếu miễn cưỡng đổ vào họng chưa đến nửa thăng thì chúng lăn ra chết toi. Tống Nhiên cùng ba vị bái đệ đành bó tay cứ nghĩ đến Tống Thụy bị giam cầm cô đơn, thiếu thốn là lòng đau như xé. Mỗi ngày phải uống thăng rượu thì hai năm sau Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ biến thành « bạch cốt dạ xoa », dung nhan tàn tạ và sức lực mỏi mòn. Thể chất của nữ nhân hoàn toàn không thích hợp với rượu. Họ uống chơi vài chung thì được chứ cứ nốc tràn thường xuyên thì yểu mạng.
May thay, hồi đầu tháng mười một năm ngoái, sứ giả của Trung Thiên Tôn đến Nghiệp Thành để trao thư. Trong thư ấy, Trung Thiên Tôn yêu cầu Tống Nhiên xếp đặt cái bẫy mà Tử Khuê đã sa vào. Và nếu kẻ xui tận mạng ấy chịu đến La Sơn hội kiến với Thiên Tôn thì Tống Thụy sẽ được thả ra ngay. Bởi thế cho nên, Tống điếm chủ cùng ba người đệ tử khẩn khoản van nài Tử Khuê giúp đỡ. Ngụy Công Tử Tề Thúc Như còn dùng việc làm giả Viên “Tỵ Lôi thần châu” để uy hiếp Tử Khuê. Nếu chàng không chịu nhận lời đi La Sơn thì gã cũng sẽ chẳng thèm trổ tài xảo thủ. Thế là Tử Khuê đành phải gật đầu.
Người Trung Hoa rất coi trọng chữ tín nên vợ chồng Quách trang chủ đành phải gạt lệ tiễn con, dù lòng chẳng hề muốn xa. Cậu bé Tử Chiêm thì sụt sùi khóc lóc khi tống biệt Tam ca, khiến Tử Khuê phải hết lòng an ủi. Chỉ mình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam biết rằng lần ra đi này sẽ đưa đến những lần xa nhà khác. Ân oán giang hồ vốn dây dưa không dứt, người hiệp khách có thể chẳng cần hư danh song lòng nhiệt huyết của tuổi thanh xuân đã khiến vó câu bôn ba chẳng mỏi. Ngày xưa bà cũng đã từng là một người như thế. Nhưng nữ nhân dễ rút chân khỏi chốn giang hồ khi xuất giá, còn nam nhi thì khác hẳn. Khi đã thành danh, bọn đàn ông sống chết vì nó, mặc cho thê tử lo lắng, nhớ thương. Do tin tưởng rằng con mình là thần tiên giáng phàm tất chẳng thể sống cuộc sống tầm thường, Kỹ nương cắn răng chấp thuận cho Tử Khuê xuất đạo.
Nhưng nếu Âu Dương Mẫn chính là Huyết Mai hội chủ thì việc đối đầu với lão ta sẽ nguy hiểm khôn lường cho cả Tử Khuê lẫn người thân. Do đó, bà đã luôn nhắc nhở con trai mình phải thận trọng, không được sính cường hay sơ xuất. Và chàng phải tuyệt đối giữ kín lai lịch, không làm liên lụy đến Quách gia trang. Kỹ nương đã khóc khi dặn dò khiến Tử Khuê mủi lòng, vội nặng lời thề thốt để trấn an. Chàng hứa vời mẹ rằng sẽ sống sót trở về bằng mọi giá.

* * * * *

Đầu tháng ba, dưới chân núi La Sơn xuất hiện một kỵ sĩ. Người này mặc đạo bào xanh, đầu đội nón tre rộng vành, thân hình khá lực lưỡng và mặt thì đầy râu nên người ngoài sẽ phỏng đoán rằng gã độ hăm lăm, hăm sáu tuổi. Chàng đạo sĩ ấy dừng cương trước một nhà tiều phu, xuống ngựa hỏi thăm chủ nhà:
- Bẩm lão thí chủ! Dám hỏi đường nào lên Trung Thiên động?
Người tiều phu đã già, tuổi quá sáu mươi nên khi hỏi đường, gã đạo sĩ phải lột nón xuống. Nhờ vậy mà chúng ta nhận ra chàng trai số mạng xui xẻo đất Hứa Xương, dù dung mạo kia đã khác đi nhiều !
Lý do là vì Tử Khuê đã nặng hơn xưa đến ba chục cân. Món mặn luôn ngon hơn món chay, nếu không thì thiên hạ đã đi tu cả. Suốt mấy tháng qua, ngày nào Tử Khuê cũng ăn toàn sơn hào hải vị, vừa thơm ngon vừa bổ dưỡng nên tăng trọng rất nhanh. Chàng ăn vì khoái khẩu và cũng vì muốn làm vui lòng từ mẫu. Kỹ nương đã đích thân xuống bếp trổ tài thánh thủ nên Tử Khuê phải ăn cho hết. Quách lão cũng luôn miệng ép con trai ăn thật nhiều để bù đắp cho 7 năm chay tịnh, kiêng khem. Ông quan niệm rằng với chiều cao hiện nay thì Tử Khuê quá gầy. Riêng Kỹ nương thì còn một lý do khác. Sau lần bán “Tỵ Lôi thần châu” cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, bà càng chú trọng đến việc ăn uống của ái tử. Bà hiểu rằng khi Tử Khuê mập lên mấy chục cân và có một gương mặt đầy râu thì Âu Dương Mẫn sẽ khó nhận ra vì chỉ gặp gỡ một lần. Trong quyển y lão Cửu Hoa Thánh Y có sẵn toa thuốc mọc râu vô cùng thần hiệu.
Bởi thế cho nên giờ đây gương mặt Tử Khuê đầy đặn, phương phi và râu thì phủ kín nửa mặt, bó cằm trông rất oai võ.
Do yêu cầu của Trung Thiên Tôn nên hôm nay Tử Khuê mới mặc lại đạo bào. Còn sau này, khi cần chàng có thể dùng võ phục và mang cái lai lịch Hàn Thiếu Lăng, 27 tuổi, quê quán Tuần Châu, một huyện thuộc phủ Hứa Xương. Hàn Thiếu Lăng thực là một gã lính lệ trong dinh Tổng binh Quách Tử Xuyên, biểu đệ của Tử Khuê. Nguồn cơn là vậy, giờ chúng ta quay lại La Sơn để xem Quách Tử Khuê rơi vào cảnh ngộ như thế nào. Chàng nghe lời chỉ dẫn của lão tiều phu, theo đường sơn đạo cách đấy vài chục trượng mà lên núi. Trung Thiên động nằm trên một bình đài cao gần trăm trượng, lưng chừng núi La Sơn. Ngựa vốn có bốn chân song không thể leo núi được, Tử Khuê đành phải gởi lại nhà lão tiều phu.
Lên đến nơi, Tử Khuê chỉ thấy một vùng toàn hoa cỏ ngào ngạt sắc hương và chẳng hề có bóng dáng nhà cửa, xa mút tầm mắt cũng chỉ có một màu xanh mơn mởn của loài Mộc cẩn. Có lẽ Trung Thiên động nằm ở chân vách đá, phía sau hàng rào Mộc cẩn nọ ? Mộc cẩn còn có tên là cây vông vang, chị em ruột với hai loài dâm bụt và phù dung, loài cây bụi nhỏ hoặc thân gỗ nhỏ thuộc họ cẩm quỳ. Mộc cẩn là loài thân gỗ cao từ hai đến sáu thước, cánh nhỏ màu xám nâu, vỏ dai, khó gãy. Lá hình trứng hoặc hình trứng xẻ thùy, hoa đơn có màu tím, trắng, đỏ, tím nhạt. Kỳ hoa rất dài, năm đến mười tháng hoa nở liên miên, sáng nở tối tàn nên còn có tên “Hoa sáng nở chiều tàn” từ đầu Hạ đến tận tiết Sương giáng, ngày nào hoa cũng nở. Bởi vậy, người ta gọi nó là loài cây hoa “Nở không dứt, bứt không hết”. Trong lúc các loài hoa khác đã thưa thớt thì Mộc cẩn lại nở rộ, sắc màu rực rỡ. Hoa Mộc cẩn dạng như cái bát, giống hoa phù dung, vỏ lại giống cây đay, vì thế còn gọi là “đay hoa bát” hoặc “đay phù dung” ! Đoạn mô tả lê thê trên dành cho những độc giả có vợ mê phim Hàn Quốc. Người Triều Tiên trồng loài cây hoa này ở khắp nơi, xem nó là tượng trưng của sự xinh đẹp và hạnh phúc vĩnh hằng, ca tụng nó như quốc hoa của Triều Tiên. Còn trong bộ truyện này, Mộc cẩn chính là chiêu bài của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh lúc vừa xuất đạo giang hồ. Hơn 60 năm trước, họ Trần tự xưng là Mộc Cẩn Tú Sĩ. Nhờ võ công tuyệt thế, danh hiệu ấy mau chóng lẫy lừng Trung Thổ. Song người đời lại lén gièm pha rằng Trần Ninh Tĩnh hơi thiếu chất đàn ông. Họ Trần chuộng những bộ y phục có màu tím hoặc tím nhạt, tính tình lại bất thường, sáng nắng chiều mưa. Trần Ninh Tĩnh nghe được lời đàm tiếu ấy liền chứng minh phẩm chất đại trượng phu bằng cách lấy 1 lúc hai người vợ. Và trong ba năm có liền sáu đứa con. Nhưng sau đó, thê tử của lão bị bọn ác ma giết sạch. Báo thù xong thì đầu họ Trần đã bạc và được đời xếp vào hàng ngũ “Võ lâm Tam Tôn”. Thanh danh chẳng thể khiến Trần Ninh Tĩnh bớt chán đời, lão trở thành đạo sĩ, chọn La Sơn làm chốn tu tiên. Gốc gác, lai lịch của Trung Thiên Tôn thì Tử Khuê chẳng lạ, chàng đã từng được nghe ân sư kể lại. Chàng chỉ tự hỏi rằng sau mấy chục năm tu hành liệu tính nết lão ta có còn cổ quái, nóng nảy như xưa hay không? Và chàng sẽ phải làm gì để đổi lấy tự do cho Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy?
Rút kinh nghiệm của cô ả liều mạng họ Tống, Tử Khuê chẳng dám hái hoa bắt bướm, từng bước thận trọng tiến vào. Đến trước hàng Mộc cẩn rậm rạp, chàng dừng chân vận công gọi lớn:
- Đệ tử là Vu Diệp, từ Nghiệp thành đến xin cầu kiến Trần tiền bối.
Từ trong vọng ra tiếng người già nua:
- Mời vào!
Tử Khuê mừng rỡ tiến lên. Nhưng khi vừa vượt qua hàng cây đầu tiên, chàng lập tức rơi vào một biển sương mù dày đặc, chẳng còn thấy được gì nữa. Tử Khuê thất kinh hồn vía, hiểu rằng đã lọt vào một trận kỳ môn. Chàng hoang mang thét lên:
- Mong tiền bối chỉ giáo cách qua trận.
Trung Thiên Tôn cười nhạt đáp:
- Đúng là đồ bị thịt. Chỉ một trận thế “Điên Đảo Ngũ Hành” mà cũng không biết. Tiến ngũ, tả tam, tiến tam, hữu ngũ!
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi bước theo thứ tự ấy, lát sau vào đến khoảng đất trống trước cửa một thạch động ở chân vách đá. Trung Thiên Tôn đứng chắn cửa động, tay xách bầu rượu, tay cầm vật gì đấy đưa lên miệng gặm. Tử Khuê chưa kịp thi lễ thì phát hiện ngực áo đạo bào trắng của Trần lão bê bết máu tươi và cái khúc dài dài mà lão đang cắn chính là 1 đoạn cẳng tay người đủ năm ngón dài, trắng trẻo. Chàng rùng mình, rợn tóc gáy, sợ đến mức tứ chi bủn rủn, chẳng nói nên lời và không tin vào mắt mình. Trong lúc ấy, Trung Thiên Tôn lộ nét hân hoan, quẳng khúc xương cẳng tay đi và cười khanh khách:
- Ái chà! Thằng bé này to béo thực. Chắc ta phải xẻ thịt ướp muối mà ăn từ từ chứ không thể chén sạch ngay trong một ngày được.
Cái miệng rộng và hàm răng trắng nhởn của lão cũng đầy máu tươi, trông rất ấn tượng đáng sợ.
Tử Khuê thôi dụi mắt, hiểu rằng Trung Thiên Tôn đã hóa thành quái vật ăn thịt đồng loại. Và có lẽ nạn nhân đầu tiên của lão chính là Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Trong tiềm thức người đàn ông, mỹ nhân luôn là một cái gì yếu đuối, mỏng manh cần được bảo vệ. Từ cổ chí kim, nữ nhân và bọn nhi đồng là hai đối tượng mà người hiệp sĩ phải bênh vực giúp đỡ. Nay nghĩ đến cảnh Tống Thụy bị ăn tươi nuốt sống, Tử Khuê vô cùng thương xót và bất giác nổi cơn thịnh nộ. Chàng chẳng còn màng đến sinh tử, quyết liều thân giết lão ác ma. Tử Khuê trợn mắt rống vang trời, rút kiếm xông đến, dồn hết lòng căm hận vào chiêu “Kiếm Quải Thu Phong”. Cái tên đầy thi vị ấy không biểu hiện được hết nội dung chiêu thức. Kiếm kình chẳng hề nhu hòa, hây hây như gió thu mà rít lên rợn người, xé nát không gian. Còn kiếm quang thì chớp loang loáng dưới nắng xuân, sát khí bức người.
Trung Thiên Tôn biến sắc trước chiêu kiếm tuyệt luân, định thần múa tít bầu rượu trên tay để chống đỡ. Quả là danh bất hư truyền, chiếc bầu rượu dài hơn gang kia lập tức tạo nên một bức tường kiên cố và kín đáo, đón lấy đạo kiếm quang vũ bão của đối phương.
Khi hai loại vũ khí chạm nhau, tiếng thép ngân lên oang oang, chứng tỏ bầu rượu được Trung Thiên Tôn làm bằng kim loại và khá dày. Bảo kiếm của Tử Khuê bị chấn động mãnh liệt vì công lực của lão quái thai họ Trần thâm hậu hơn chàng gấp bội. Cảm giác đau rát ở hộ khẩu đã làm cho Tử Khuê tỉnh táo lại. Chàng thức ngộ rằng chẳng thể dùng sức mà thắng đối phương.
Tử Khuê liền cố tĩnh tâm thi triển yếu quyết “Nhược Liễu Tùy Phong”, đường kiếm mềm mại, nhu hòa song cực kỳ nhanh và hiểm ác. Mũi kiếm của chàng bám chặt lấy cổ tay cầm bầu rượu của Trung Thiên Tôn chẳng chịu rời, khiến lão nhất thời lúng túng như gà mắc tóc. Và thỉnh thoảng, Tử Khuê điểm những nhát thần tốc làm cho lão ta phải rụng rời, mau mau thoái hậu hoặc nghiêng mình né tránh. Trung Thiên Tôn bực bội tăng thêm lực đạo, đánh những đòn nặng như núi đổ, bầu rượu bay vun vút tựa dải lụa đen mờ. Lúc ấy, Tử Khuê khôn ngoan hoán vị tránh chiêu và lựa thế mà phản kích. “Tránh voi chẳng xấu mặt nào” và trường kiếm vốn dĩ mỏng manh, nhẹ nhàng, không phải loại vũ khí chủ về lực đạo. Trong trường hợp này, Tử Khuê có ưu thế về chiều dài binh khí nên những đòn phản công của chàng rất đáng sợ. Tất nhiên phải kể đến tài nghệ cũng như bản chất của pho “Thanh Long kiếm pháp”. Tử Khuê có đến 12 năm khổ luyện võ nghệ, lần lượt do Kỹ nương rồi Vu Mộc chân nhân dạy dỗ thành tựu, kiếm thuật của chàng cao hơn quyền chưởng vì được sự hỗ trợ của “Thao Quang thần thức”. Với khả năng phát xạ tia chân khí để điểm huyệt và những chiêu thức chuyên biệt dành cho tay tả, chàng đã trở thành một trong những kiếm thủ hiếm hoi sử dụng cả hai tay. Hôm nay trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này, Tử Khuê phải dốc hết vốn liếng ra mà chiến đấu. Ít phút sau, Tử Khuê phiên thân tránh một đòn cuồng nộ của Trung Thiên Tôn rồi phản công bằng chiêu “Nguyệt Phùng Thiên Lý” (Bóng trăng dập dờn ngàn dặm). Từ khoảng cách hơn trượng, Tử Khuê ẩn mình trong kiếm quang, thân ảnh chập chờn trôi nổi, ập vào đối thủ.
Khi chạm mặt nhau, trường kiếm của Tử Khuê thọc nhanh hàng trăm thế, dồn dập tựa mưa sa, phong tỏa đường chùy của kẻ địch. Chiếc bầu rượu bằng thép ròng của Trung Thiên Tôn được sử dụng như một loại chùy cán ngắn. Và chàng bất ngờ vươn tả thủ xạ liền hai tia chân khí vào song nhãn Trần lão quái. Tử Khuê chọn mắt làm mục tiêu vì biết Trung Thiên Tôn có hơn hoa giáp công lực, lớp cương khí hộ thân rất dày, chỉ có đôi mắt là yếu nhất. Nhưng Trần Ninh Tĩnh là bậc kỳ nhân quán thế, chẳng dễ thất cơ trước một kẻ hậu sinh. Lão hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn ám tập song vẫn kịp lách người né tránh nên chỉ có vầng tráng rộng đầy nếp nhăn trúng đòn và hơi đau đớn.
Tuy nhiên, việc này cũng khiến cho Trung Thiên Tôn hoảng vía. Lão không ngờ một chàng trai trẻ măng lại sở đắc thủ pháp “Cương Ty Phất Huyệt” thất truyền. Trần lão quỷ vừa chống đỡ những chiêu kế tiếp của Tử Khuê vừa thét lên, gọi ơi ới:
- Cha chả! Tiểu tử này lợi hại thực! Đồ đệ mau mang kiếm ra cho sư phụ thì mới mong có thịt mà ăn.
Tử Khuê giật mình lo ngại vì hiểu rằng nếu có thêm học trò của Trung Thiên Tôn nữa thì chàng khó mà thoát chết, đừng nói đến việc giết lão ta. Nhưng may thay, tên đồ đệ của Thiên Tôn không xuất hiện mà chỉ từ trong hang đá tối tăm kia ném kiếm ra ngoài cho sư phụ. Trần Ninh Tĩnh quét mạnh một đường chùy, đẩy lùi Tử Khuê rồi vươn tay tả chụp lấy bảo kiếm. Lão ném bầu rượu xuống bãi cỏ, vung kiếm thị uy và cười khà khà:
- Này con trâu nước rậm lông kia! Lúc nãy lão phu không có kiếm trong tay nên ngươi mới được dịp sính cường. Giờ thì ngươi đừng hòng ra oai nữa.
Dứt lời, Trung Thiên Tôn lướt tới tấn công ngay. Lạ thay, kiếm pháp của lão hiền hòa quảng đại chứ chẳng hề hung hãn. Tử Khuê đã nghe tôn sư kể lại rằng sở trường của Trần lão là kiếm thuật nên càng ngao ngán, thận trọng đón chiêu và chỉ sau gần khắc, chàng biết ngay mình chẳng phải là đối thủ, khi mất ưu thế về vũ khí. Đường kiếm của Trung Thiên Tôn nhẹ nhàng, lưu loát tựa nước chảy mây trôi nhưng biến ảo vô song và cực kỳ hùng hậu. Nghĩa là lão đã đạt đến cảnh giới thượng thừa tùy tâm nhi phát, thuận tay mà đánh. Nhìn nụ cười ngạo nghễ và ánh mắt giễu cợt của đối phương, lòng Tử Khuê rực cháy niềm bi phẫn. Chàng quên cả lời giáo huấn của ân sư và từ mẫu, nghiến răng xuất chiêu “Hoàng Thiên Bất Tiếu”, chiêu đầu tiên trong pho “Oán Thiên kiếm pháp”. Trong mấy tháng ở nhà, Tử Khuê đã ráo riết luyện tập và đạt đến mức tinh túy của hai chiêu đầu.
“Oán Thiên kiếm pháp” độc ác phi thường vì nó đem máu của người thi triển đổi lấy máu hoặc mạng kẻ thù. Và nó xảo quyệt ở chỗ dùng hàng trăm thế thức đẩy đưa xếp đặt, từng bước, cuối cùng bắt buộc đối phương phải tấn công vào chỗ sơ hở đã lộ ra. Nạn nhân sẽ mắc bẫy, hân hoan hạ thủ và trúng đòn ở một vị trí ác nghiệt hơn. Giờ đây, Trung Thiên Tôn cũng bị chiêu thức quái dị kia lường gạt. Đang chạm kiếm, lão chợt nhận ra rằng mình chỉ cần vươn tay là dễ dàng đâm thủng huyệt Thái Ất trên bụng trái đối phương. Nhưng chẳng hiểu sao lão quái vật ăn thịt người ấy lại bỏ qua và lập tức thoái hậu. Nhờ vậy, lão tránh được việc thủng yết hầu bởi một nhát gươm kín đáo của Tử Khuê.
Da cổ mát lạnh vì hơi thép quá gần, Trung Thiên Tôn rợn da gà quát lớn:
- Thì ra là “Oán Thiên kiếm pháp”. May mà bần đạo chẳng có ác ý với ngươi, nếu không thì đã toi mạng rồi.
Tử Khuê đang say máu, chẳng để ý đến câu nói ấy, tiếp tục xông đến xuất chiêu thứ hai là “Tặc Thiên Manh Nhãn” (lão giặc trời mù mắt). Kiếm thuật ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của người kiếm sĩ nên lúc này ánh mắt của Tử Khuê tràn ngập sát khí, đôi môi mím chặt khiến nét mặt trở nên tàn nhẫn, ác độc. Trung Thiên Tôn hoảng vía bỏ chạy la bải hải:
- Thụy nhi mau ra đây! Tiểu tử này nổi điên rồi !
Từ trong hang, một nữ nhân áo hồng lao vút ra chặn đường Tử Khuê, mỉm cười:
- Xin đạo huynh bớt cơn thịnh nộ. Tiểu muội là Tống Thụy đây. Việc gia sư ăn thịt người chỉ là trò đùa thôi.
Trong lúc Tử Khuê còn bàng hoàng, ngơ ngác thì Trung Thiên Tôn quay lại, đưa cho chàng xem cái cẳng tay người mà lão quăng đi lúc nãy. Trấn Ninh Tĩnh cười khanh khách bảo:
- Nó bằng gỗ ngô đồng đấy, đồ ngốc ạ. Còn máu trên miệng và áo bần đạo là mực son.
Tử Khuê hiểu ra, ngượng ngùng ấp úng:
- Nhưng sao tiền bối lại bày trò chọc ghẹo vãn bối làm gì?
Thiên Tôn vỗ vai chàng, nheo mắt tinh quái:
- Phải khích cho ngươi bừng lửa giận thì bần đạo mới có thể biết được chân bản lĩnh chứ.

* * * * *

Cuối thượng tuần tháng tư, Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy rời La Sơn. Trong hơn tháng qua, Trung Thiên Tôn ra sức tài bồi kiếm thuật cho Tử Khuê. Khác với Vu Mộc chân nhân, sở trường của Trần Ninh Tĩnh là nghề đánh kiếm. Ông luyện kiếm đã gần 80 năm, tiến đến cảnh giới thượng thừa của kiếm đạo. Có thể nói rằng Vu Mộc chân nhân là vua quyền thuật còn Trung Thiên Tôn chính thị bậc kiếm vương. Ông không dạy Tử Khuê kiếm chiêu mà chỉ giảng giải về cái thần khí của kiếm thuật, tức là lẽ biến hóa. Yếu quyết này cực kỳ vi diệu, cao siêu, chỉ những bậc đại trí tuệ, bẩm sinh ngộ tính thượng đẳng mới có thể hiểu được.
Trung Thiên Tôn đã sớm thu Tống Thụy làm đệ tử và truyền thụ yếu quyết này. Nhưng tiếc thay, nàng chỉ thuộc hàng tiểu thông minh nên không thể tiếp thu được. Nay thấy Tử Khuê dễ dàng hiểu thấu những điều mà mình mù tịt thì Tống Thụy vô cùng thán phục. Và vì nàng là một nữ nhân mang bản chất nam nhi nên không hề ganh ghét, đố kỵ.
Được thụ giáo bậc kỳ nhân, Tử Khuê vô cùng phấn khởi, vui vẻ gánh vác sứ mạng mà Trung Thiên Tôn giao cho. Chàng sẽ phải so tài với hai truyền nhân của Bắc Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn vào ngày rằm tháng mười sang năm. Tử Khuê đã có sư phụ nên không thể gọi Trung Thiên Tôn là thầy. Chàng bèn lạy chín lạy, xưng nghĩa tử. Với danh phận ấy, chàng mới được quyền đại diện Trần Ninh Tĩnh. Mối duyên phụ tử này do Tử Khuê tự nguyện đề xuất vì Trung Thiên Tôn đã có ý định bỏ cuộc phó ước giữa tam Tôn. Ông là bậc Chân nhân đạt đạo, chẳng còn xem trọng hư danh nữa. Ông dạy kiếm đạo thượng thừa cho Tử Khuê là vì không muốn tâm huyết một đời bị mai một, thất truyền.
Nhưng khi tình cờ nghe Tống Thụy kể lại cái hẹn rằm tháng mười, Tử Khuê cho rằng mình có nghĩa vụ phải thành toàn ý nguyện nhỏ nhoi ấy để đáp đền ơn truyền tuyệt học. Trung Thiên Tôn rất ngạc nhiên và vô cùng cao hứng khi cuối đời có được đứa con nuôi thông tuệ, khôi ngô, cốt cách anh hùng cái thế. Lúc này, Tử Khuê mới khai rõ lai lịch, tính danh, tuổi tác thực. Thời gian qua, Thiên Tôn không hỏi nên chàng không có dịp nói ra. Và khi Tử Khuê định gọi Tống Thụy là sư tỷ thì Trần lão không cho. Ông cười mát bảo:
- Ngươi đúng là một ngốc tử. Ta lớn hơn lão Tống Nhiên mấy chục tuổi thì ngươi phải ở vai anh mới hợp đạo lý. Hai là, nữ nhân chẳng bao giờ muốn được gọi bằng chị, nghe già nua lắm. Hãy cứ để Thụy nhi xưng tiểu muội như cũ hay hơn.
Rồi lão nheo mắt hỏi Thiết Đảm Hồng Nhan:
- Sư phụ quyết định như thế có đúng ý con không hở?
Tống Thụy cố tỏ vẻ thản nhiên song ánh mắt không giấu được nỗi thẹn thùng. Nàng giả vờ hờ hững đáp xuôi:
- Đồ nhi đã quen phận làm em, chẳng cần phải thay đổi nữa.
Và nàng ôm quyền vái:
- Tiểu muội vui mừng có được một sư huynh như Quách công tử.
Tử Khuê lúng túng đáp lễ:
- Ngu huynh trẻ người non dạ, quả không xứng làm anh. Nhưng can gia đã dạy thế thì mong rằng sư muội đừng buồn. Sau này, ngu huynh còn phải học hỏi sư muội rất nhiều.
Tống Thụy chưa kịp nói vài lời khiêm tốn thì Trung Thiên Tôn đã cười ha hả, cao hứng bảo:

-Đúng thế! Đúng thế! Sau này Thụy nhi phải luôn sát cánh với Khuê nhi mà hành hiệp. Giang hồ hung hiểm tuyệt luân, xảo quyệt khôn lường, nếu để một mình gã vừa ngây thơ vừa xui xẻo đi một mình thì lòng già này chẳng yên tâm.
Nói xong, ông nháy mắt với Tông Thụy, hàm ý tác thành duyên nợ cho đôi trẻ. Thiết Đảm Hồng Nhan hiểu ý ân sư, lòng ngập tràn nỗi xuyến xao và bối rối. Dẫu biết rằng phận nữ nhi là phải xuất giá, nhưng bao năm qua trái tim này vẫn chưa hề rung động mãnh liệt trước một nam nhân nào. Ngay cả đối với Tử Khuê cũng vậy, sau gần tháng tiếp cận, nàng chỉ thấy mến mà thôi. Phải chăng tình yêu cần có thời gian để đơm hoa kết trái ? Nàng mến Tử Khuê hơn bất cứ nam nhân nào đã từng gặp nên hy vọng rằng sẽ yêu được chàng. Ý nguyện này xem ra có cơ hội thành tựu, lúc hai người xuống núi thì tình cảm của Tống Thụy dành cho Tử Khuê đã thắm đượm hơn môt bậc. Nhưng nếu gọi là yêu thì chưa hẳn. Giờ đây, đôi trai gái đồng hành trên đường thiên lý, lòng ngổn ngang những cảm giác mơ hồ, chẳng thể xác định được.
Trong tình yêu, nam nhân không tinh tế, nhạy cảm bằng nữ nhân. Họ thường hồ đồ, thiếu sáng suốt, chẳng hiểu rõ lòng mình cũng như lòng bạn gái. Có nhiều chàng trai ngốc đến nỗi khi mất nhau rồi mới biết mình đã yêu tha thiết. Nhưng tục ngữ có câu: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”. Chúng ta cứ để thời gian và hoàn cảnh làm cônng việc của mình. Giờ chúng ta sẽ bám theo đôi nam thanh nữ tú ấy, trên con đường ngàn dặm từ La Sơn đến Nghiệp Thành.Trước tiên, họ phải qua Tín Dương ở phía tây La Sơn. Sau đó đi chếch hướng tây bắc để đến Nam Dương và từ Nam Dương họ sẽ thẳng đường về đất Nghiệp. Cuối tháng tư, Tử Khuê và Tống Thụy có mặt trong thành Nam Dương ghé vào Bạch Hà đại tửu lâu dùng bữa trưa. Sông Bạch Hà chảy qua mạn hướng Đông Thành, là một bộ phận gắn liền vời đất Nam Dương, nên tên của nó được nhiều lâu quán ưa chuộng. Đối diện Bạch Hà đại tửu lâu còn có Bạch Hà đại lữ điếm, Bạch Hà lạp vị gia.
Ở vùng Hoa Trung, bốn mùa rõ rệt, Hạ về đúng hẹn nên nắng vàng chói chang và hoa lựu nở khắp nơi, rực rỡ ánh hồng. Tầng trệt của Bạch Hà đại tửu lâu đông nghẹt thực khách vì dưới này mát mẻ hơn lầu trên, và người ta có thể vừa ăn nhậu vừa ngắm cảnh vườn hoa xung quanh qua những khung cửa sổ rộng. Trưa nay, trong tầng dưới tửu lâu có khá đông khách võ lâm, chứng tỏ rằng Nam Dương đã xảy ra một biến cố lớn hoặc đám gì đó. Người Trung Hoa rất hào sảng, rộng rãi và thích ồn ào. Dẫu đám ma, đám cưới, đám giỗ, đám thượng thọ, họ cũng cố tổ chức ăn nhậu và mời mọc khắp nơi, tuy chỉ có một chút dây mơ rễ má hoặc sơ giao. Người được mời không thể không đi và sau này có dịp thì mời lại. Kết quả là mỗi năm họ phải đi dự hàng chục, hàng trăm đám tiệc vừa tốn kém ngân lượng vừa mất thời giờ. Giàu thì không sao, chỉ tội cho những người nghèo mà có chút thanh danh ở địa phương, văn võ gì cũng vậy. Nhiều khi vợ con đói meo mà một vị tú tài hay ngài đại hiệp nào đó phải cầm cố, vay mượn để có tiền đi đám.
Tử Khuê và Tống Thụy vào đến một bàn trống, cạnh tường Đông, lột nón rộng vành và an tọa. Lúc này, bọn hào khách trong quán mới nhận ra Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Có nhiếu người quen biết nàng, khấp khởi mừng, song không vội hô hoán. Họ khá bỡ ngỡ khi thấy nàng nữ hiệp liều mạng kia đồng hành với một Hán tử râu ria, oai võ, thân thể cao to. Tống Thụy tính tình cởi mở, quảng giao nhưng ít khi đi chung với nam nhân. Nhưng có một kẻ hoặc đã hơi say hoặc vì quá ái mộ Thiết Đảm Hồng Nhan nên không thể nén lòng, lập tức đứng lên bước đến chào hỏi. Đấy là một nam nhân tuổi độ hai mươi bảy, hai mươi tám, người mảnh khảnh, tầm vóc trung bình, mặc trường bào gấm màu nâu, hông mang kiếm, tay cầm quạt lụa. Trông ra dáng một kẻ xuất thân kim ốc. Dung mạo khá anh tuấn dù cằm hơi lẹm và mắt hơi lớn, điểm chút nữ tính. Gã là kẻ có thanh danh chốn võ lâm nên phong thái không khỏi có phần tự mãn. Lư Công Đán là ái tử duy nhất của Lư Tài Thần đất Dụ Châu, nằm giữa Nam Dương và Nghiệp Thành. Gã còn là đệ tử tục gia ưu tú của phái Hoa Sơn, võ nghệ cao cường, hai mươi tuổi đã nổi danh Tây Nhạc kiếm khách.
Giới cao thủ lớp trẻ đương đại có năm người xuất sắc, được giang hồ võ lâm gọi là “Võ lâm Ngũ Tú”. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán ở trong số ấy. Ngũ Tú gồm: Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, Nga Mi Nhất Kiếm Lạc Y Thường, Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán, Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân, Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương. Cách xếp đặt thứ tự trên chẳng phải dựa vào bản lĩnh võ công, những người này chưa hề tỷ thí với nhau.
Trở lại với Lư Công Đán, ta sẽ thấy gã hớn hở ôm quyền thi lễ và ngọt ngào nói với Thiết Đảm Hồng Nhan:
- Tống cô nương ! Đã hơn năm trời cách biệt, lòng tại hạ xiết bao nhung nhớ. Nay tình cờ được tái ngộ cố nhân, Lư mỗ cao hứng phi thường. Các huynh đệ Hà Nam cũng nóng lòng muốn được cùng Thiết Đảm Hồng Nhan uống chén tương phùng, nên cử tại hạ qua đây mời Tống cô nương và vị đại huynh này sang bàn bên ấy.
Rồi gã vái Tử Khuê, tươi cười bảo:
- Tiểu đệ là Lư Công Đán, bằng hữu của Tống nữ hiệp, xin đại huynh chớ ngại.
Tử Khuê bị bộ râu rậm rì làm cho già đi nên dung mạo trông như đã gần ba mươi. Do đó, Lư Công Đán mới gọi chàng là anh và xưng tiểu đệ. Việc này khiến Tử Khuê rất ngượng ngùng, lúng túng đáp:
- Tại hạ họ Hàn, tên Thiếu Lăng. Xinh cảm tạ Lư thiếu hiệp đã có lời mời mọc nhưng việc này...
Chàng chưa dứt lời thì Tống Thụy xen vào, nàng ôn tồn bảo họ Lư:
- Lư huynh cứ về bàn trước đi. Tiểu muội ăn vài chén với Hàn sư huynh xong sẽ sang cùng chư vị đối ẩm. Đói bụng thì uống rượu sẽ mau say.
Lư Công Đán lộ vẻ kinh ngạc:
- Té ra Hàn đại huynh đây là sư ca của cô nương đấy sao? Lư mỗ thật là thất lễ.
Gã đi rồi, Tử Khuê dịu giọng bảo Tống Thụy:
- Sư muội không cần phải ăn chung với ta, cứ sang với họ đi!
Và chàng mỉm cười:
- Sư muội chớ nên phụ lòng ưu ái của Lư công tử. Ta đoán rằng gã đã say mê muội từ lâu rồi.
Tuy làm ra vẻ thản nhiên song trong thâm tâm Tử Khuê lại rối bời một cảm giác khó gọi tên. Chàn thầm mong Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ không sang với Tây Nhạc kiếm khách mà ở lại với mình. Tống Thụy nhìn sâu vào mắt chàng, điềm đạm đáp:
- Cố tri tái hội tất phải uống vài chén tương ngộ. Hơn nữa, bọn họ hầu hết đều quen biết với tiểu muội chứ chẳng phải mình Lư Công Đán. Nhưng nếu sư huynh không muốn dồn bàn với họ thì tiểu muội cũng đành chờ dịp khác vậy.
Tử Khuê nghe câu nói tế nhị hợp tình hợp lý ấy thì đâm ra hổ thẹn. Chàng tự trách mình:
- Bậc trương phu sao lại có thể hẹp hòi như thế được? Dẫu ta và Tống tiểu thư đã là một đôi tình lữ thì cũng không thể cấm nàng vui với bạn bè, huống hồ song phương chẳng có một mối dây luyến ái.
Nghĩ thế nên lòng chàng thanh thản lại, cười rất tươi:
-Ta cũng muốn cùng sư muội sang đấy cho vui song chỉ sợ làm họ mất tự nhiên.
Tống Thụy rất hài lòng, dịu dàng nói:
-Bọn họ đều hào sảng, khoáng đạt, hảo tửu, tất sẽ rất vui khi có mặt sư huynh. Chúng ta đi thôi.
Hai người thu nhặt tay nải và nón tre, bước về phía khu vực trung tâm tửu quán, nơi bọn Lư Công Đán đã bày tiệc mới. Bàn bát tiên thường có mặt hình vuông, chân hơi cong. Nhưng ở các lâu quán, bốn chân bàn được làm rất thẳng để khi cần có thể ghép nhiều bàn lại với nhau. Giờ đây sáu chiếc bàn kề vai sát cánh, thừa chỗ cho hai chục người ngồi quanh. Chén đũa, thức ăn đều mới dọn lên, nghi ngút khói và thơm ngậy. Bọn Lư Công Đán hân hoan đứng cả dậy đón chào cố hữu.
Thiết Đảm Hồng Nhan là bậc anh hùng trong giới quần thoa, tính tình cương nghị, sảng khoái như đàn ông, nhưng ngôn từ, cử chỉ lại chẳng kém phần thùy mị, tinh tế. Về nhan sắc thì Tống Thụy xứng danh mỹ nữ, mắt bồ câu đen lay láy, mũi dọc dừa thẳng tắp môi anh đào mong mỏng có đường viền gọn ghẽ. Bình thường, gương mặt trái xoan kiều diễm ấy hơi phảng phất nét buồn. Nhưng khi nàng cười thì dung nhan rực rỡ khách thường và làm say đắm lòng người. Răng nàng không đều, có hai chiếc răng khểnh, song chẳng hiểu sao những nụ cười hồn nhiên kia lại có mị lực mê hồn đến thế? Cho nên không chỉ Lư Công Đán mà khá nhiều nam nhân hiện diện ái mộ Tống Thụy. Sau một thời gian tiếp cận họ đều thất vọng, bỏ cuộc vì hiểu rằng trái tim nàng xa lạ với tình yêu nam nữ. Nàng chỉ xem họ như những hảo bằng hữu trên chốn giang hồ, có thể cùng nhau hàn huyên và uống rượu giải khuây, hoặc sánh vai đối phó với kẻ thù nào đó. Tuy từ bỏ ước mơ giai ngẫu song những người ấy rất vui khi gặp Tống Thụy. Họ hân hoan cười nói, đón chào và bắt cố nhân phải cạn chén trùng phùng.
Tửu lượng của Tống Thụy khá cao, dẫu uống nhiều mặt hoa cũng chỉ phớt hồng chứ không đỏ rực. Nhưng dầu sao nàng cũng là nữ nhân nên được bọn đàn ông khoan nhượng không ép uổng. Riêng đối với Tử Khuê thì khác, chàng phải cạn liền mười tám chung với những kẻ mới quen. Uống xong, sắc diện Tử Khuê chỉ hơi tái đi và vẫn hoàn toàn tỉnh táo, khiến bọn hào khách Hà Nam phục lăn. Trong bàn ăn nhậu, kẻ có tửu lượng cao cường, phong thái trầm tĩnh thư thái vui vẻ rất dễ tạo được hảo cảm. Vì vậy, dẫu Tử Khuê chỉ mỉm cười và nốc rược mà vẫn được mếm mộ. Chàng thực lòng cao hứng khi tham gia bữa tiệc này chứ không hề gượng ép. Điều ấy đã khiến cho Tống Thụy rất vui, nhìn chàng với ánh mắt cảm kích. Nếu chàng khách sáo hoặc ngượng ngùng thì nàng sẽ mất mặt với bạn bè cũ. Sau vài tuần rượu, Thiết Đảm Hồng Nhan dò hỏi:
- Lư huynh! Vì sao chư vị lại tề tựu ở đây đông đủ như vậy?
Lư Công Đán nhướng mày, làm ra vẻ quan trọng:
- Thụy muội không biết gì sao? Tại phủ Nam Dương sắp xảy ra cuộc chiến khốc liệt để tranh giành vật chí bảo của võ lâm là cây “Diêm Vương quỷ kỳ”. Vật ấy hiện ở trong tay một thổ hào đất Bảo Bình, cách Nam Dương hai chục dặm về phía Tây.
Thiết Đảm Hồng Nhan cau đôi mày liễu chẳng hề được tỉa tót, tô vẽ mà vẫn xanh đen, hỏi lại:
- Lư huynh! Cây “Diêm Vương quỷ kỳ” ấy quý giá ở chỗ nào?
Lư Công Đán đắc ý kể lể:
-Theo truyền thuyết của võ lâm thì vào thời đầu Nam Tống, cách nay hơn 300 năm, giang hồ xuất hiện một đại ác ma là Quỷ chân nhân Đơn Ngạn Hòa. Lão ta chỉ có 10 đệ tử nhưng đã trở thành tai họa khủng khiếp nhất cho võ lâm và bách tính. Quỷ chân nhân đã đánh cướp hàng trăm nhà đại phú ở cả hai vùng lãnh thổ Nam Tống và nước Kim. Số nạn nhân của lão lên đến hàng ngàn, cả dân thường lẫn khách giang hồ và quan quân. Quỷ chân nhân có thể hoành hành bá đạo như vậy là nhờ có cây “Diêm Vương quỷ kỳ”. Cây cờ này ban đêm sai khiến được âm binh, tạo ra những luồng quái phong làm tê liệt bất cứ ai chạm phải. Ban ngày thì tác dụng kém đi, quái phong chỉ công hiệu trong bán kính hơn trượng. Song như thế cũng quá đủ để Quỷ chân nhân Đơn Ngạn Hòa thành kẻ bất bại. Cuối cùng, tổ sư phái Toàn Chân là Vương Trùng Dương đã loan tin khắp giang hồ, khiêu chiến với Quỷ chân nhân. Vương Tổ sư chấp nhận so tài cả vào ban đêm, lúc “Diêm Vương quỷ kỳ” có uy lực cao nhất. Quỷ chân nhân đã nhận lời vì cho rằng Vương Trùng Dương chẳng thể nào hơn được Phật Như Lai. Lão đã từng đánh cướp Tàng kinh các của chùa Thiếu Lâm mà Phật tổ vẫn lặng thinh, chẳng làm được gì.
Nhưng để chắc ăn, Quỷ chân nhân chọn giờ Hợi đêm rằm tháng bảy đêm của vong hồn. Còn địa điểm là bãi đất hoang cạnh bờ sông Bạch Hà cách thành Nam Dương này hơn chục dặm về hướng bắc. Đêm ấy, trước sự chứng kiến của mấy người, Quỷ chân nhân vũ lộng Quỷ kỳ, tạo nên luồng quái phong mãnh liệt, chập chờn ngàn bóng u linh ghê rợn, làm cho cát bụi mịt mù. Nào ngờ, Vương tổ sư thản nhiên xông thẳng qua trận bão ma ấy, chỉ một chiêu kiếm đã đâm thủng tâm thất họ Đơn.
Tuy trúng đòn trí mạng như thế mà Quỷ chân nhân vẫn còn đủ sức tung mình xuống sông Bạch Hà mất dạng, mang theo “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nhưng sau đó lão không hề xuất hiện nữa nên mọi người đoán rằng Đơn Ngạn Hòa đã chết.
Nghe xong Thiết Đảm Hồng Nhan mỉn cười khen ngợi:
-Lư huynh quả là người uyên bác và có tài kể chuyện!
Được mỹ nhân tán dương, Tây Nhạc kiếm khách cực kỳ khoan khoái hai cánh mũi phập phồng và nở lớn. Gã hắng giọng nói tiếp:
-Tống hiền muội biết không, ngay cả việc tái xuất của “Diêm Vương quỷ kỳ” cũng rất éo le, lý thú. Số là thổ hào đất Bảo Bình kia tên gọi Kỹ Tòng Thư, tuổi độ 67. Lão ta quê quán Tứ Xuyên, mười hai năm trước đến Bảo Bình sang lại hơn ngàn mẫu cây ăn quả, sống đời nhàn hạ, sung túc.
Kỹ lão sính văn chương, thường đến Trích Tiên lâu ở cửa Tây thành Nam Dương này ngâm vịnh. Gia phụ cũng có thú ấy nên hai người đã trở thành bằng hữu. Ngu huynh thường theo phụ thân đến chơi Kỹ gia trang nên mới biết Kỹ Tòng Thư rất giỏi võ. Ông ta vốn là đệ tử tục gia của phái Thanh Thành. Kỹ đại thúc đã dạy dỗ, huấn luyện 300 tráng đinh trong trang thành những tay kiêu dũng, giỏi cả kiếm lẫn cung. Ông cũng truyền cho ngu huynh vài chiêu kiếm rất thần diệu. Kỹ đại thúc không có con trai nên hai năm trước nạp một người tiểu thiếp tuổi mới hăm lăm, tên gọi Lâm Cổ Hoàn. Nào ngờ Lâm thị là người phóng đãng, lẳng lơ, âm thầm thông dâm với một đệ tử của Kỹ đại thúc. Đầu xuân năm nay, Lâm Cổ Hoàn đã cùng với tên đốn mạt ấy lấy trộm ba ngàn lượng vàng rồi trốn đi. Biết rằng Kỹ đại thúc sẽ không bỏ qua, truy đuổi đến cùng, nên Lâm Cổ Hoàn và gã Đinh Văn Kiệt đã rêu rao suốt đường đi rằng “Diêm Vương quỷ kỳ” đang ở Kỹ gia trang. Họ muốn Kỹ Tòng Thư phải chết. Thế là cả võ lâm chấn động, ùn ùn kéo nhau về Bảo Bình. May thay, Tổng binh thành Nam Dương Từ Hậu lại là bạn thi văn với Kỹ đại thúc và gia phụ, nên đã mang ngàn quân đến bảo vệ Kỹ gia trang, khi nhận được lời cầu cứu của bạn già. Do đó, suốt nửa tháng nay, Kỹ gia trang vẫn bình yên. Nhưng thiên hạ lại đồn rằng Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn đang trên đường đến Bảo Bình. Với cương vị của mình, lão có quyền thu hồi cái vật có thể gieo tai họa cho giang hồ và bách tính.
Tống Thụy ngắt lời gã:
- Nếu thế thì sự việc sẽ diễn ra suông sẻ, làm gì có đánh nhau mà Lư huynh bảo rằng khốc liệt.
Lư Công Đán khoan đáp, nâng chén mời cả bàn uống cạn rồi mới lên giọng:
-Ngu huynh chẳng hề dám phóng đại, hiện nay, uy quyền của Âu Dương Mẫn đã giảm sút rất nhiều. Từ cuối năm ngoái, giới giang hồ đã rỉ tai nhau một chuyện động trời, rằng Âu Dương Mẫn chính là tên ác ma Huyết Mai hội chủ năm xưa. Tin này lan nhanh như gió, tới cả tai Đô Sát viện ở Bắc Kinh. Thế là triều đình ra lệnh cho Tam Ty Hà Nam điều tra sự việc và tước bớt quyền hành của Âu Dương Mẫn. Lão ta vẫn là Minh chủ Võ lâm nhưng không còn được quyền huy động nhân thủ hoặc can thiệp vào nội bộ các phái. Tất nhiên là cũng chẳng ai thèm đóng góp cho ngân quỹ Tổng đàn như trước nữa. Không những thế, có hai bang hội mới thành lập mà chẳng cần xin phép Minh chủ, và cái tên của họ cũng hàm ý khiêu khích Âu Dương Mẫn.
Phái thứ nhất là Chiết Mai bang ở núi Lĩnh Sơn vùng đất cực tây Hà Nam, giáp với Thiểm Tây. Phái thứ hai là Bích Huyết bang ở huyện Tân Thái cách đây chừng hai trăm dặm về phía đông. Với vị trí như thế, vô hình trung hai bang ấy muốn cùng Âu Dương Mẫn tạo thành thế ba chân vạc trên đất Hà Nam, tâm điểm của võ lâm.
Âu Dương Mẫn rất cay cú song phải lờ đi vì e ngại những đại nhân vật đang đỡ đầu cho hai bang hội ngạo mạn kia. Hậu thuẫn của Chiết Mai bang là Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan, của Bích Huyết bang là Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến. Hiện nay, Chiết Mai bang cùng Bích Huyết bang đều đã kéo lực lượng đến Bảo Bình, tất sẽ không để Âu Dương Mẫn đoạt cây “Diêm Vương quỷ kỳ”. Và ngược lại, Âu Dương Mẫn cũng quyết lấy cho được bảo vật để thực sự trở thành bá chủ. Bởi thế, cuộc chiến trước mắt sẽ rất ác liệt, máu xương chồng chất.
Kể xong, Lư Công Đán lộ sắc lo âu hạ giọng:
-Ngu huynh nhận lệnh gia phụ đến Quách gia trang khuyên nhủ Kỹ đại thúc đừng vì bảo vật mà lụy đến thân. Tốt nhất là trao cho Từ tổng binh hủy hoại Quỷ kỳ trước mặt mọi người, giải trừ tai họa.
Bỗng có tiếng cười trong như ngọc vỡ, đầy vẻ quyến rũ cất lên và ai đó nhẹ nhàng mỉa mai:
-Lư Công Tử quả là kẻ ngây thơ. Sẽ chẳng ai chịu tin cây cờ bị hủy là thực cả. Và khi quan quân rút đi rồi thì Kỹ gia trang sẽ thành bình địa.
Người nói ra câu chí lý ấy là một nữ lang võ phục vàng nhạt, áo choàng lưng màu tía, đầu đội nón rộng vành có rèm che mặt. Khi nàng lột nón ra, bọn nam nhân hoảng hốt ré lên:
- Đông Nhạc Tiên Hồ!
Lư Công Đán đứng lên, ngượng ngùng nói:
- Té ra là Dịch cô nương. Mời cô nương an tọa rồi chỉ giáo cho tại hạ cách giải cứu Kỹ gia trang.
Đông Nhạc Tiên Hồ mỉn cười, chậm rãi bước đi trong một khoảng không gian hoàn toàn im lặng. Mọi thực khách đều đã nín thở, trố mắt chiêm ngưỡng ả hồ ly núi Thái Sơn. Dịch Tái Vân xinh đẹp phi thường, đẹp đến mức chẳng bút nào tả xiết, một cái đẹp rất đàn bà chứ không pha chút nam tính như Thiết Đảm Hồng Nhan. Ở nàng, mọi bộ phận đều đạt đến mức tuyệt mỹ, chỉ có thể hình dung bằng những ẩn dụ như : « Làn Thu thủy nét Xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ».
Nhìn nàng, bọn đàn ông lập tức bị quyến rũ mê muội và khao khát. Có thể vì gương mặt tiên nga và cũng có thể vì thân hình thon thả, khêu gợi của nàng. Dịch Tái Vân ăn mặc kín đáo, chẳng chút hở hang song tất cả dường như đã lộ ra dưới lớp lụa óng ả, bó sát cơ thể. Chiếc áo ấy được may một cách chính xác đến từng ly, tôn vinh vòng eo thon thả, bờ mông tròn trịa và đôi gò bồng đảo kiêu sa thấp thoáng nhấp nhô hai núm vú nho nhỏ. Lối phục trang ấy không che được gì cả mà chỉ khiến cho đàn ông rờn rợn thịt da, mặt nóng bừng vì động tình.
Đâu đây bỗng khẽ có những tiếng thở dài, những âm thanh của động tác nuốt nước bọt đầy thèm khát. Nhưng có một người mỉm cười đó là Quách Tử Khuê. Chàng cũng ngất ngây trước nhan sắc khuynh thành của Đông Nhạc Tiên Hồ song chẳng hề mê muội. Lý do là vì Tử Khuê biết rõ rằng xác thân nóng bỏng kia được tạc bằng băng tuyết, rằng Dịch Tái Vân chẳng phải đàn bà. Cũng như sư phụ là Thái Sơn Tiên Nương, Tái Vân đã luyện công phu “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp”. Tuyệt học này giúp người luyện trẻ trung rất lâu, nhan sắc như tồn tại mãi với thời gian. Nhưng đổi lại, người ấy sẽ đánh mất hoàn toàn những cảm xúc tình dục. Bí mật ấy Tử Khuê biết được là do sự tiết lộ của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành trong lần gặp nhau ở Quang Hóa. Cổ lão đã từng yêu thương Thái Sơn Tiên Nương, cố đem tài Hoa Đà, Biển Thước ra khắc phục khuyết điểm chết người của “Thái Âm Tố Nữ thần công”, nhưng đã thất bại. Ngày ấy, trước lễ thọ của Chưởng môn phái Võ Đương, Cổ Sĩ Hoành tình cờ biết được việc Âu Dương Mẫn sai Đông Nhạc Tiên Hồ quyến rũ Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ để đánh cắp thanh “Trạm Lư thần kiếm”, nên đã bảo Tử Khuê dùng phép “Phất Huyệt Tỏa Kinh” phá vỡ âm mưu kia. Mộ Duy Lộ mất đi khả năng tình dục tất sẽ chẳng còn say mê Dịch Tái Vân được nữa.
Tử Khuê nhớ lại thủ đoạn quái ác của sư thúc mà không nén nổi cười. Và chính nụ cười lạ lùng ấy đã khiến Đông Nhạc Tiên Hồn ngạc nhiên, thắc mắc. Tại sao Hán tử râu rậm kia lại nhìn mình rồi mỉn cười, cứ như phát hiện ra một vết lọ nồi khôi hài trên mặt vậy? Là ánh mắt chàng ta cũng biểu hiện rõ vẻ giễu cợt, thích thú. Nàng chẳng có khả năng cảm nhận khoái lạc xác thịt với nam nhân nhưng vẫn là một người đàn bà say mê tôn thờ nhan sắc của chính mình. Do đó, Dịch Tái Vân không chịu nổi thái độ kỳ quặc, khó hiểu của Tử Khuê, liền rảo bước đến, hậm hực hỏi chàng:
- Dám hỏi vì sao các hạ lại cười cợt bổn cô nương?
Tử Khuê đang lúng túng, chưa biết trả lời thế nào thì Thiết Đảm Hồng Nhan đứng phắt dậy, lạnh lùng bảo:
- Cười thì đã sao? Chẳng lẽ gặp nàng bọn ta phải khóc?
Cái câu: “Rừng không hai cọp” cũng có nghĩa là ở cùng một chỗ chẳng nên có hai người đàn bà đẹp. Sự đố kỵ về nhan sắc đã ăn sâu vào máu huyết nữ nhân, được giấu kín nhờ trí tuệ và nhân phẩm mỗi người. Những khi có cơ hội thì cái bản năng ấy bùng nổ rất dữ dội. Rõ ràng là vẻ đẹp lồ lộ, đầy ma lực của Đông Nhạc Tiên Hồ đã lấn áp nét đẹp hấp dẫn kín đáo của Thiết Đảm Hồng Nhan, khiến Tống Thụy hơi buồn trong dạ. Nàng thầm chán ngán đám nam nhân háo sắc chung quanh. Nay Tử Khuê không giống họ, lại còn chọc giận con chồn cái lẳng lơ kia, làm cho nàng thấy lòng được an ủi, và khi nghe Dịch Tái Vân dám hạch sách kẻ tri âm, tri kỷ duy nhất của mình thì Tống Thụy liền nổi tam bành. Đông Nhạc Tiên Hồ giật mình nhìn Tống Thụy rồi cười yêu mị:
- Phải chăng nàng là Thiết Đảm Hồng Nhan, nữ nhân đất Nam Dương? Ngoài Tống nữ hiệp ra chẳng có nữ nhân nào vừa đẹp vừa nóng nảy như thế?
Câu khen ngợi khéo léo này đã dập bớt lửa giận trong lòng Tống Thụy. Nàng hờ hững đáp:
-Không dám! Không dám! Bổn cô nương làm sao sánh được với Đông Nhạc Tiên Hồ.
Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán nhăn nhó giảng hòa:
-Xin nhị vị nể mặt Lư mổ mà « dĩ hòa vi quý ». Song phương đều là chỗ thâm giao, nếu xảy ra hiềm khích thì Lư mỗ sẽ rất khó xử.
Dịch Tái Vân cười tươi như hoa, trấn an họ Lư:
-Lư huynh cứ yên tâm. Tiểu muội chẳng dại gì chọc giận Thiết Đảm Hồng Nhan.
Nàng vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh Lư Công Đán, đối diện với Tử Khuê và Tống Thụy.
Sau màn giới thiệu tính danh, Tái Vân cạn chén với cả bàn rồi tủm tỉm hỏi Tử Khuê:
-Hàn đại ca tướng mạo oai phong song chẳng thiếu phần văn nhã, chắc cũng là bậc tao nhân mặc khách, liệu đại ca có thể trổ tài phun châu nhả ngọc, bình phẩm chút nhan sắc hèn mọn này của tiểu muội hay không.
Rõ ràng là ả hồ ly vẫn còn ấm ức nên tìm cách chơi trác Tử Khuê. Tái Vân cho rằng một gã to con thô kệch, mặt đầy râu kia chẳng thể nào làm nổi một câu thơ. Và giả như chàng có làm được thì ả cũng thừa sức bắt bẻ, chê bai khiến chàng phải bẽ mặt. Lư Công Đán quá rõ thâm ý của Đông Nhạc Tiên Hồ liền bác ngay:
-Dịch cô nương chớ bày trò làm khó người ta. Hàn đại huynh đây là bậc anh hùng cái thế, chỉ quen với kiếm cung, đâu phải là một gã mọt sách.
Nào ngờ, Tử Khuê lại ứng tiếng:
-Không sao đâu, Lư công tử. Tại hạ tuy dốt song cũng tập tễnh làm thơ. Nay có dịp để khoe tài với mỹ nhân, tại hạ chẳng thể bỏ lỡ được.
Họ Lư thở dài, thầm lo lắng rằng lát nữa đây con cọp cái Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ chẳng tha cho Đông Nhạc Tiên Hồ. Dù Tống Thụy không có tên trong hàng ngũ sao sáng võ lâm nhưng võ công chẳng kém gì gã. Và với đấu pháp liều lĩnh, đáng sợ của nàng thì Dịch Tái Vân thua là cái chắc. Tiên Hồ quá xem trọng nhan sắc nên sợ thương tích, dũng khí đâu mà chống chọi với một đối thủ không sợ chết ? Lúc này, Tử Khuê đã hắng giọng ngâm nga, mắt nhìn thẳng vào mặt Tái Vân:

Hiềm huy vạn diễm vô năng noãn
Mỹ nữ thiên hương bất khả xan!

Tạm dịch :
Ánh trăng dẫu sáng không làm ấm
Gái đẹp dù xinh chẳng thể ăn!

Bọn nam nhân vỗ tay tán thưởng hai câu thơ dí dỏm ngộ nghĩnh. Họ không để ý rằng gương mặt đẹp của Đông Nhạc Tiên Hồ giờ đây tái xanh như tàu lá và ánh mắt nàng tràn ngập vẻ hoang mang, sợ hãi. Nàng không ngờ gã râu rậm chết toi kia lại biết rõ bí mật của mình. Hiềm huy tức thị Thái Âm, còn mỹ nữ cũng chính là Tố Nữ. Lời thơ còn hàm ý rằng gã biết nàng lãnh cảm, không thể sưởi ấm và làm thỏa lòng người đàn ông được. Nhưng đồng thời, Tái Vân lại nhận thấy sắc diện cùng nhãn thần đối phương rất hiền hòa, chẳng chút gì gọi là cay độc, mỉa mai. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng chỉ tình cờ sáng tác hai câu thơ ấy chứ không hề biết nàng luyện Thái Âm Tố Nữ thần công ? Trong tâm trạng rối bời, nửa tin nửa ngờ, Tái Vân chẳng còn lòng dạ nào mà bắt bẻ nữa, gượng gạo vỗ tay khen hay và cảm ơn Tử Khuê.
Lư Công Đán mừng hết lớn dõng dạc mời cạn chén và nói lảng sang chuyện khác. Gã thực sự đã yêu thương Thiết Đảm Hồng Nhan song cũng chẳng hờ hững với Đông Nhạc Tiên Hồ. Gã có quyền mơ mộng đến cả hai vì họ đều ở ngoài tầm tay, chưa ai chịu ban bố chút ân tình nào.
Quá ngọ, Tây Nhạc kiếm khách đưa cả đám rời Nam Dương, đi đến Kỹ gia trang ở đất Bảo Bình.
Dọc đường, Lư Công Đán gióng ngựa sánh đôi Tống Thụy vì Dịch Tái Vân đã cặp kè Tử Khuê. Đông Nhạch Tiên Hồ chẳng yên tâm, quyết tiếp cận gã râu rậm họ Hàn để điều tra hư thực. Nếu đúng là Hàn Thiếu Lăng nắm được nhược điểm của nàng thì gã phải chết. Tái Vân không hề nghĩ đến Cửu Hoa chân nhân Cổ Sĩ Hoành vì Thái Sơn Tiên Nương, sư phụ nàng chưa bao giờ nhắc lại cuộc tình vô vọng cũ. Muốn cho một nam nhân cung cấp tin tức, bộc lộ tâm can thì chẳng có cách nào tốt hơn là dùng « mỹ nhân kế ». Phương pháp này đã được sử dụng hàng trăm năm mà vẫn luôn luôn công hiệu. Và Đông Nhạc Tiên Hồ lại là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, dẫu Hằng Nga, Tây Thi tái sinh cũng không thể qua nổi. Do đó, Dịch Tái Vân rất tự tin, đem hết bản lãnh quyến rũ đàn ông ra chinh phục Tử Khuê.
Đầu mày, cuối mắt, giọng nói, tiếng cười tất cả đều hấp dẫn phi thường có thể lung lạc ngay một bậc cao tăng đắc đạo. Nhưng khổ nỗi Tử Khuê lại hiểu quá rõ bản chất thực của mỹ nhân nên nhận ra những biểu hiện bên ngoài ngọt ngào, kiều mị kia toàn là giả dối. Nhờ vậy, chàng không bị mê muội, thản nhiên và tỉnh táo đối đáp. Thực ra, Tử Khuê cũng có đôi chút xuyến xao, rạo rực trước nhan sắc khuynh thành và thân hình bốc lửa của Tái Vân. Mấy tháng qua, chàng ngã mặn, lại ăn toàn cao lương mỹ vị đầy chất bổ nên dục tính rất vượng. Vả lại, ấn tượng của giấc mơ ái ân với Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim luôn ám ảnh, khiến chàng hổ thẹn và tự nhủ rằng đến lúc phải lấy vợ. Tuy nhiên, khác với Trình Thiên Kim, Tử Khuê không thức ngộ được rằng giấc mơ kia là thực. Việc nam nhân thỉnh thoảng mộng tinh là rất thường tình. Nghĩa là, Tử Khuê chỉ xem Bang chủ Hoàng Phong bang giống như Thiết Đảm Hồng Nhan, một trong những đối tượng có thể thành vợ mình. Riêng đối với Dịch Tái Vân, Tử Khuê không mơ tưởng đến, chỉ có cảm giác như người đang thưởng lãm một pho tượng đẹp vô tri, vô giác.
Rời cửa tây thành Nam Dương được sáu bảy dặm, đoàn người đi xuyên qua một cánh rừng sơn, loại cây nguyên liệu chính cho ngành sản xuất sơn màu của Trung Hoa cổ. Thình lình, khung cảnh tĩnh lặng bị xé toang bời một tràng cười ghê rợn, chói tai. Và từ trong rừng, hàng trăm gã võ sĩ áo xanh thẫm ùa ra, chặn kín hai đầu quan đạo, vây chặt bọn Tử Khuê lại. Vũ khí của chúng là những cây đao lớn, nước thép xanh rờn. Đây là loại đao làm phỏng theo kiểu đao Nhật Bản, dài tổng cộng non nửa trượng, chuôi một xích rưỡi. Thứ vũ khí này rất thịnh hành trong quân binh, từ sau thời nhà Nguyên. Do chuôi đao dài nên người ta có thể cầm bằng hai tay, chém người, ngựa trong những trận chiến trên bộ rất tiện lợi, lực đạo mạnh mẽ và tầm sát thương khá rộng. Tuy nhiên, nó vẫn được xếp vào hàng ngũ đoản binh vì trường đao dài đến hai phần ba trượng và nặng tới hai mươi lăm cân.
Thủ lĩnh của đội quân áo xanh nọ là một lão nhân thân hình khôi vĩ, mặt đỏ như son, tóc xõa ngang lưng, râu hùm hàm én rất oai phong. Tuổi lão chắc khoảng thất thập vì râu tóc đều đã hoa râm. Với tướng mạo anh hùng ấy, lão ta chẳng thể là kẻ vô danh, nên bọn Tây Nhạc kiếm khách nhận ra ngay. Gã vội hạ mã, kính cẩn ôm quyền thi lễ:
- Tần đại thúc chặn đường bọn tiểu điệt có điều chi dạy bảo?
Gã chẳng dám thất lễ vì biết lão mặt đỏ là Bảo chủ Thần Đao bảo Tần Minh Viên, hùng cứ đất Thẩm Dương, cách Nam Dương gần trăm dặm về hướng đông. Tần lão có sức khỏe phi thường, đao pháp tinh thông, được xem là cao thủ số hai của võ lâm. Thần Đao bảo chủ chính là người đã cùng Lư Châu đại hiệp Âu Dương Mẫn đấu trận chung kết tranh ngôi Minh chủ. Sau gần ngàn chiêu, Âu Dương Mẫn mới thắng nổi Tần Minh Viên. Tổ phụ họ Tần còn là công thần triều Minh, con cháu đời đời Tập Tước Thần Đao Bá, nên thế lực Thần Đao bảo cực kỳ hùng mạnh. Ngay Âu Dương Mẫn cũng nể mặt, chẳng dám đụng chạm đến.
Nhắc lại Tần Minh Viên nghe Lư Công Đán hỏi như thế thì cười nhạt đáp:
- Lão phu đến đây là vì con nha đầu Dịch Tái Vân. Các ngươi hãy chuẩn bị lễ vật để mừng đám cưới của Đông Nhạc Tiên Hồ với khuyển tử Tần Trọng Vỹ.
Trừ Tử Khuê ra, bọn Lư Công Đán gần hai mươi người đều giật bắn mình thầm thương xót cho Dịch Tái Vân. Thiếu bảo chủ Thần Đao bảo Tần Trọng Vỹ vốn được thiên hạ gọi bằng cái xú danh Đà Bối Ngốc Đao. Tuy vừa gù vừa ngu song nhờ gia thế giàu sang nên cũng lấy được vợ. Nhưng chỉ hai tháng sau là vợ gã chịu đựng hết nổi ôm gói bỏ trốn. Kể từ lúc ấy, chẳng nhà nào dám gả con gái cho Trọng Vỹ nữa. Người ta đồn rằng Đà Bối Ngốc Đao mắc bện bạo dâm, phải đánh đập, hành hạ người phối ngẫu thì mới thỏa lòng. Vì vậy, người ngoài chỉ giật mình nhưng Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân thì sợ đến chết khiếp. Nàng cố trấn tĩnh lên tiếng:
- Sao Tần bảo chủ lại có thể hoành hành ngang ngược như vậy được? Bổn cô nương gặp lệnh lang chỉ có một lần và chẳng hề muốn làm dâu họ Tần.
Bảo chủ Thần Đao bảo thản nhiên đáp:
- Hồi đầu xuân, Vỹ nhi đến Y Xuyên ngoạn cảnh Long môn Phật động. Lúc trở về, y phát bệnh tương tư, nằng nặc đòi cưới cho được ngươi. Trọng Vỹ không ăn, không ngủ suốt mấy tháng qua nên giờ đây tính mạng như đèn trước gió. Lão phu chỉ có y là kẻ nối dõi tông đường nên chẳng thể khoanh tay nhìn con mình chết thảm và họ Tần tuyệt tự. Do vậy, lão phu bất chấp thủ đoạn, bằng bất cứ giá nào cũng phải đưa ngươi về Thần Đao bảo để cứu mạng Vỹ nhi.
Nghe giọng lưỡi bá đạo ấy, Đông Nhạc Tiên Hồ càng bội phần lo lắng, đành phải thổ lộ chút bí mật để giải vây, nàng nghiêm nghị nói:
- Tôn giá đã chọn sai đối tượng để hà hiếp rồi. Bổn cô nương chính thực là nghĩa nữ của đương kim Minh chủ võ lâm, ông mà mạo phạm đến thì mang họa đấy.
Nào ngờ Tần Minh Viên không hề sợ hãi, lại ngửa cổ cười dài:
- Dịch nha đầu! Ngươi đã dám công nhận mối quan hệ ấy thì lão phu càng dễ hành động. Thú thực là lão phu đã mang sính lễ đến Tổng đàn Võ lâm cầu hôn và được lệnh nghĩa phụ chấp thuận rồi. Nếu không thì sao lão phu biết được ngươi sẽ đi đến Bảo Bình mà mai phục.
Đông Nhạc Tiên Hồ chết điếng người không ngờ Âu Dương Mẫn lại bán đứng mình để đổi lấy sự hỗ trợ của Thần Đao bảo. Sau khi bị triều đình tước bớt quyền hành để điều tra, Âu Dương Mẫn cảm thấy mình cô thế trước sự uy hiếp của hai bang hội mới là Chiết Mai bang và Bích Huyết bang, nên rất cần đến thế lực hùng mạnh của Thần Đao bảo. Dịch Tái Vân xảo quyệt như chồn nên mới có danh hiệu Tiên Hồ. Nàng chẳng cam tâm thúc thủ ngay mà cố nghĩ cách thoát thân. Tái Vân làm ra vẻ ung dung nói:
- Dẫu cho tôn giá có sự hậu thuẫn của gia nghĩa phụ thì cũng muộn rồi. Bổn cô nương đã lỡ có vị hôn phu, chẳng thể làm dâu họ Tần được. Người ấy cũng đang hiện diện ở đây.
Kế sách này của Đông Nhạc Tiên Hồ rất lợi hại vì dẫu sao thì Tần Minh Viên cũng là kẻ có thanh danh cao cả trong võ lâm, đồng thời còn là một Bá tước, chẳng thể giết người đoạt vợ được. Nếu nàng chưa chồng thì lão có thể mượn Âu Dương Mẫn làm bình phong, tàm tạm muối mặt với thiên hạ. Lúc này, số người hiếu kỳ tụ tập ở chung quanh đã khá đông, họ cũng đang trên đường đến Bảo Bình, thấy việc lạ thì mừng rỡ xúm lại xem. Thần Đao bảo chủ bối rối suy nghĩ:
- Chết thực! Nếu ả hồ ly này đã thề nguyền trăng sao với tiểu tử Lư Công Đán thì ta chẳng thể làm được gì. Lư Tài Thần thế lực vươn đến tận kinh sư, không dễ đụng vào.
Nhưng vì thương con, Tần Minh Viên bấm bụng chơi trò tháu cáy, quắc mắt hăm dọa:
- Lão phu chưa hề nghe Âu Dương minh chủ nhắc đến chàng rể nào nên xem như không có. Và kẻ nào đã ăn gan hùm mật gấu dám đứng ra nhận càn thì lão phu sẽ giết ngay.
Rồi lão bất ngờ chỉ mặt Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán mà nạt lớn:
- Có phải ngươi không?
Họ Lư hồn vía lên mây, thảng thốt đáp liền:
- Không! Không phải vãn bối!
Phần vì sợ hãi cái oai của đối phương, phần vì trong lòng vốn nặng tình với Thiết Đảm Hồng Nhan hơn nên gã đã buột miệng trả lời như vậy. Nói xong, Công Đán liếc nhìn Tống Thụy như gởi gắm tâm tình. Nào ngờ, Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng chút cảm động mà còn cau mày biểu lộ vẻ không hài lòng. Tuy Tống Thụy chẳng ưa gì Đông Nhạc Tiên Hồ song rất chán ghét hành vi bá đạo của Thần Đao bảo. Hơn nữa, cùng là phận gái, nàng không muốn Tái Vân ngọc nát châu trầm trong tay một gã quái vật như Đà Bối Ngốc Đao Tần Trọng Vỹ. Thiết Đảm Hồng Nhan thừa cơ trí để hiểu kế sách của Tái Vân. Ngờ đâu, Lư Công Đán vì khiếp nhược mà làm hỏng diệu kế ấy. Vả lại, Công Đán đã có lòng ái mộ Tái Vân sao giờ có thể vì sợ chết mà bỏ nàng ta?
Phần Đông Nhạc Tiên Hồ cũng rất bẽ bàng trước sự phủ nhận mau mắn của gã chết tiệt họ Lư. Song nàng thầm hy vọng rằng Tần Minh Viên vì thanh danh mà không dám giết càn dẫu người nàng chọn lựa là ai cũng thế. Do đó, Tái Vân giả vờ bình thản, cười khanh khách:
- Tần bảo chủ nhìn lầm người rồi. Vị hôn phu của bổn cô nương nào phải kẻ tầm thường như Tây Nhạc kiếm khách. Để ta giới thiệu người ấy cho lão biết.
Nói xong nàng quay lại nhìn đám nam nhân đồng hành, cố tìm nhanh một đối tượng. Khổ thay hầu hết bọn họ đều ngoảnh đi hoặc cúi mặt, chẳng muốn dính vào, mặc dù trước đây vài khắc họ luôn nhìn nàng bằng cặp mắt đắm say, tôn thờ. Chỉ có chàng rậm râu Hàn Thiếu Lăng là đang thì thầm to nhỏ gì đó với Thiết Đảm Hồng Nhan. Và chàng còn mỉm cười nữa. Thực ra, lúc ấy Tử Khuê nói với Tống Thụy thế này:
- Tống sư muội! Số mạng của ta vốn cực kỳ xui xẻo, thế nào cũng bị Dịch Tái Vân gọi ra làm “thế tử quỷ”. Lúc ấy theo ý sư muội thì ta phải làm sao ?
Quả y như rằng, Đông Nhạc Tiên Hồ cất giọng ngọt ngào gọi:
- Hàn đại ca! Mời chàng bước ra cùng tiểu muội bái kiến Tần bảo chủ.
Giọng nàng hơi run vì sợ rằng gã họ Hàn cũng chết nhát như Lư Công Đán thì nguy to. Nhưng may thay Hàn Thiếu Lăng đã xuống ngựa bước đến cạnh nàng, ôm quyền ngượng nghịu nói với Tần Minh Viên:
- Vãn bối là Hàn Thiếu Lăng, đã cùng Dịch cô nương đây đính ước trăm năm. Tần bảo chủ là bậc đại nhân chắc chẳng nỡ rẽ thúy chia loan bọn hậu sinh.
Thấy dáng vẻ ngượng ngùng, gượng gạo của Tử Khuê, Tần Minh Viên đoán ngay ra ngụy kế của Dịch Tái Vân, lão thầm suy nghĩ:
- Gã chết bằm này không sợ chết nên dám bước ra, ta có hù dọa thêm cũng vô ích, phải tìm cách khác mới xong.
Tần Minh Viên nghiêm nghị bảo:
- Này Hàn thiếu hiệp! Đông Nhạc Tiên Hồ là một nữ nhân gian hoạt, xảo trá bậc nhất thế gian, ngươi chớ vì nhan sắc của ả mà tiêu tan một đời hảo hán. Dẫu ngươi có đúng là vị hôn phu của Tái Vân thì trước sau gì cũng bị ả bỏ rơi. Nay lão phu thương ngươi cốt cách anh hùng nên mới cảnh tỉnh như thế. Và nếu ngươi chịu nghe lời giáo huấn ấy, từ bỏ Dịch Tái Vân thì lão phu sẽ thưởng cho ba ngàn lượng vàng.
Bọn Lư Công Đán bàng hoàng tiếc rẻ, không ngờ chỉ với chút can đảm mà Hàn Thiếu Lăng lại vớ được món hời. Té ra, Tần Minh Viên chỉ lên tiếng hù dọa chứ không dám giết người, và sẵn sàng ném vàng ra để giải quyết êm xuôi. Đông Nhạc Tiên Hồ cũng không nghĩ đến thủ đoạn phi thường này của Tần lão, lòng rất lo sợ Hàn Thiếu Lăng tham vàng mà chối bỏ mình. Trong cơn bối rối, Tái Vân buột miệng thề độc:
- Tướng công chớ tin lời lão ta ! Thiếp xin thề có Lôi Thần chứng giám rằng sẽ suốt đời chung thủy với tướng công. Ngoài chàng ra, thiếp sẽ không nhìn đến nam nhân nào khác trong thiên hạ.
Tình cờ, khi nàng vừa nói xong từ xa xa vọng lại tiếng sấm ì ầm cứ như là lão Thiên Lôi mỏ nhọn biểu hiện sự chứng thực của mình vậy. Tái Vân ghê sợ gã quái thai Tần Trọng Vỹ đến mức mất cả hồn vía, sẵn sàng lấy bất cứ ai, trừ gã ta. Tử Khuê nghe lời thề thốt ấy mà hoảng vía than thầm:
 « Chết ta rồi! Ả này tuy đẹp nhưng chỉ là tượng đá, chẳng biết yêu đương và cũng không thể sinh con, chắc chắn sẽ khiến song thân ta phiền muộn. Ta phải lo phần mình trước đã ».
Chàng gượng cười trả lời Tái Vân:
- Dịch hiền muội! Nàng đã lập thệ như thế thì ta cũng yên lòng. Có điều rằng tính ta vốn ưa trăng hoa, dự định sẽ lấy đến ba bốn vợ, liện nàng có rộng lượng thứ tha hay không?
Đang cơn nguy cấp, Đông Nhạc Tiên Hồ chẳng còn tâm trí đâu mà cò kè, mặc cả. Nàng gật đầy ngay:
- Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, thiếp quyết chẳng dám ghen tuông.
Người chung quanh dở khóc dở cười, chẳng hiểu Hàn Thiếu Lăng điên hay tỉnh? Đã lấy được thiên hạ đệ nhất mỹ nhân mà gã chưa thỏa lòng, còn đòi thêm vài cô vợ nữa. Tử Khuê an bài xong gia sự, yên lòng phúc đáp Trần Minh Viên:
- Nay Dịch cô nương đã lập trọng thệ như thế nên vãn bối rất an tâm cùng nàng kết duyên Tần - Tấn. Xin cảm tạ hảo ý của bậc trưởng thượng!
Tần bảo chủ biết mình đã thua, đứng ngẩn ngơ một lúc lâu. Hình dáng gầy gò, thảm hại của đứa con yêu hiện ra khiến lão đau lòng khôn xiết. Nghĩ đến cảnh mất con và tuyệt tự, Tần lão phát điên lên, cơ hồ chẳng còn màng đến thanh danh nữa. Nhưng Tần Minh Viên là kẻ cơ trí, thức ngộ rằng phe đối phương đang đi đến Kỹ gia trang, nơi sẽ là đấu trường đẫm máu và lão còn nhiều cơ hội để ám sát Hàn Thiếu Lăng giành lại con dâu. Do chủ ý này mà Tần lão cố nhẫn nại, ra hiệu rút quân. Mai phục không còn, bọn Tử Khuê tiếp tục lên đường nhưng ai nấy lặng lẽ như đưa đám, chẳng nói tiếng nào. Lư Công Đán và bọn hào khách Nam Dương thì hổ thẹn, Dịch Tái Vân thì bối rối và hối hận. Nàng thầm đào mồ cuốc mả Tần Minh Viên ra mà nguyền rủa. Lão ta và đứa con chết tiệt đã xô đẩy nàng vào bước đường cùng, phải chịu lấy họ Hàn. Nhưng nàng là thạch nữ, lấy chồng làm gì cơ chứ ? Được hơn dặm, đoàn người dừng chân ở quán nước bên đường để giải khát. Nhân dịp này, Dịch Tái Vân ấp úng nói với Tử Khuê:
- Hàn đại ca! Tiểu muội là một nữ nhân nhiều tai tiếng, chẳng đáng làm kẻ nâng khăn sửa túi cho đại ca. Lúc nãy, vì ngộ biến tùng quyền mà tiểu muội đã phải mạo muội xưng là vị hôn thê của đại ca. Nay tai họa đã qua, tiểu muội khấu đầu mong đại ca giải trừ lời thề nguyền ấy. Tiểu muội quyết chẳng để Hàn đại ca thiệt thòi, xing dâng ngàn lượng vàng gọi là tạ ân cứu mạng.
Bọn Thiết Đảm Hồng Nhan hồi hộp dán mắt vào Tử Khuê, chờ xem chàng phúc đáp thế nào. Trong thâm tâm, họ đoán rằng chàng sẽ không chịu bỏ lỡ cơ hội làm chồng người đàn bà đẹp nhất võ lâm.
Ngờ đâu gã họ Hàn tốt phúc kia lại trầm ngâm đáp:
- Hôn nhân chẳng thể miễn cưỡng mà có. Do đó, ta sẵn sàng từ hôn. Đương nhiên, ta sẽ chẳng lấy nàng mà chỉ yêu cầu nàng thề rằng từ nay không tiếp tay cho Âu Dương Mẫn nữa. Và tốt nhất là nàng nên xa lánh lão ta để khỏi mang họa sau này.
Đông Nhạc Tiên Hồ cũng chẳng giàu có gì nên mới khuất thân làm nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn. Nay không phải mất ngàn lượng vàng thì nàng mừng húm, hớn hở hứa ngay:
- Tiểu muội xin hứa rằng sẽ nghe theo lời dạy bảo của Hàn đại ca.
Tử Khuê hài lòng gật đầu tuyên bố:
- Ta là Hàn Thiếu Lăng, nay tự nguyện bãi bỏ hôn ước với Dịch Tái Vân cô nương, mong trời xanh và chư vị huynh đệ hiện diện chốn này làm chứng cho.
Đông Nhạc Tiên Hồ cảm động trước tấm lòng rộng rãi, cao cả của đối phương liền vái dài, thành thực đáp:
- Ơn đức của đại ca, kiếp sau tiểu muội sẽ đáp đền.
Đúng lúc này mặt đất rung rinh vó ngựa ầm ầm, dồn dập của một đoàn kỵ sĩ đông đến mấy trăm đang trẩy quân qua. Mọi người nhìn ra thì thấy thấp thoáng lá đại kỳ võ lâm đang phần phật tung bay trong gió hạ. Dịch Tái Vân mừng rỡ nói mau:
- Gia nghĩa phụ và đại quân đã đến. Tiểu muội xin cáo biệt chư vị.
Thế là nàng chụp lấy tay nải, lao vút ra ngoài, nhảy lên lưng ngựa đuổi theo Âu Dương Mẫn. Thì ra, Tái Vân chỉ hứa suông với Tử Khuê mà thôi. Thiết Đảm Hồng Nhan bật cười, chế giễu Tử Khuê:
- Sư huynh đã mắc lừa ả rồi. Sao lúc nãy sư huynh không nhận ngàn lượng vàng cho xong.
Tử Khuê cười khà khà chống chế:
- Tống sư muội không biết đấy thôi. Lão lôi công kia vừa hẹp hòi vừa thù dai, chẳng để Tái Vân qua mặt đâu !
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
Chương 5
 
Gần canh giờ sau, bọn Tử Khuê có mặt trước Kỹ gia trang và cục diện nơi đây đã đến hồi gây cấn.
Vòng ngoài, hàng ngàn cao thủ độc hành, hắc đạo đứng quanh quẩn đó đây, mũ rộng vành sùm sụp. Vòng trong, 4 lực lượng hùng mạnh nhất đứng theo hình nan quạt đối diện với phe chủ nhà. Có lẽ Âu Dương Mẫn đã dùng thân phận Võ lâm Minh chủ để ép buộc Kỹ Tòng Thư phải xuất trang đối thoại. Kỹ trang chủ cùng 100 cung thủ áo xanh, đầu chít khăn đen đứng trấn giữa cổng trang, khí thế kiên cường. Số tráng đinh còn lại rải đều phòng thủ trên đỉnh tường quanh trang, cung tiễn sẵn sàng.
Nhưng đội ngũ đó xem ra quá nhỏ bé so với lực lượng Hắc Bạch đông đến mấy ngàn người đang lăm le uy hiếp. Phe Bạch đạo gồm cao thủ của năm phái trong Hội đồng Võ lâm, chỉ thiếu Thiên Sư giáo. Vì “Diêm Vương quỷ kỳ” uy lực vô song, quan hệ đến vận mệnh của võ lâm, nên các phái chẳng thể làm ngơ. Họ đến đây để cản trở việc tái xuất của một Quỷ chân nhân thứ hai, tai họa khủng khiếp nhất trong lịch sử võ lâm Trung Thổ. Phái Võ Đương ở gần hơn cả nên đã mang đến Bảo Bình hơn trăm đệ tử giỏi nhất, do chính Chưởng môn nhân Vân Thiên Tử thống lĩnh. Bốn phái Hoa Sơn, Thiếu Lâm, Toàn Chân, Cái bang vì ở xa nên mỗi phái chỉ hiện diện độ ba mươi người, song toàn là cao thủ hàng đầu.
Hơn 200 con người sẵn sàng hi sinh vì thanh bình của võ lâm giang hồ ấy tập trung thành mũi dùi mé hữu Kỹ gia trang. Ba mũi dùi còn lại lần lượt là Tổng đàn Võ lâm, Chiết Mai bang và Bích Huyết bang. Chẳng khó để nhận ra họ vì mỗi đội quân đều có một lá đại kỳ oai phong, sặc sỡ, lớn cỡ mảnh chiếu, ghi rõ chiêu bài. Giờ đây, những thủ lĩnh của bốn lực lượng đang tranh luận với Kỹ trang chủ về phương thức giải quyết “Diêm Vương quỷ kỳ”.
Kỹ Tòng Thư hoàn toàn cô thế vì không còn được sự hỗ trợ của Tổng binh thành Nam Dương là Từ Hậu. Chẳng thấy bóng dáng quan quân đâu, Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán vô cùng lo lắng liền hỏi thăm một hán tử mang đao. Gã này cười đáp:
- Lão chết tiệt Âu Dương Mẫn quả là thần thông quản đại, mang đến công văn của Tri phủ Nam Dương, lệnh cho Từ tổng binh phải rút lui đứng ngoài cuộc tranh chấp.
Lư Công Đán thở dài, quay sang nói với bọn Tử Khuê:
- Tại hạ cho rằng chúng ta nên đứng chung phía với các phái bạch đạo, rồi tùy cơ ứng biến. Nay Âu Dương Mẫn và hai bang hội mới kia đều muốn chiếm đoạt “Diêm Vương quỷ kỳ” không đồng ý để Kỹ Tòng Thư hủy đi, thì chắc chắn sẽ có giao tranh.
Quả đúng như vậy, lúc này Kỹ trang chủ đang tức giận cao giọng:
- Lão phu một đời chính trực, tuy lấy đựơc Quỷ kỳ đã 10 năm, nhưng chưa một lần tìm hiểu bí mật của nó, nếu không đã trở thành thiên hạ vô địch. Nay lão phu đồng ý hủy đi sao chư vị nghi ngờ là của giả.
Âu Dương Mẫn lạnh lùng đáp trả:
- “Nhân tâm nan trắc” nên lão phu chẳng thể sơ xuất được. Tôn giá cứ giao cho lão phu thẩm định rồi sau đó tự tay hủy hoại.
Nhưng Bang chủ Chiết Mai bang, một nữ nhân áo vàng, mặt che bằng xa đen đã cười khanh khách bác bỏ:
- Cả giang hồ đều nói các hạ là tên ác ma Huyết Mai hội chủ năm xưa, nên bổn Bang chủ rất e ngại không thể đồng ý được.
Âu Dương Mẫn giận điên lên chỉ mặt đối phương mà quát:
- Dương Tố Vy! Nàng đừng nghĩ có thể dựa thế lão Bắc Thiên Tôn mà ngạo mạn. Nàng có gan thì hãy cùng lão phu tỉ thí. Sau ba trăm chiêu mà lão phu chẳng giết được ngươi thì lão phu quyết chẳng làm người.
Té ra Bang chủ Chiết Mai bang họ Dương tên Tố Vy, nàng ta thản nhiên đáp:
- Bổn cô nương chẳng hề sợ hãi một lão già sắp xuống lỗ, nhưng phải chờ tới khi giải quyết xong “Diêm Vương quỷ kỳ” cái đã.
Âu Dương Mẫn cũng không muốn rơi vào cảnh “Trai cò cắn nhau, ngư ông hưởng lợi”, nên im tiếng, lão quay lại hỏi Kỹ Tòng Thư:
- Này Kỹ trang chủ! Nếu ông có cách chứng minh cây cờ trong tay mình là của thực thì lão phu sẽ để cho ông phá huỷ.
Gương mặt cương nghị của Kỹ Tòng Thư tái nhợt đi đầy vẻ tuyệt vọng, làm bớt son đỏ giữa trán cao càng nổi bật. Ông ngẩn ngơ đưa cây cờ quỷ quái lên ngắm nghía, chẳng biết làm sao. “Diêm Vương quỷ kỳ” có cán bằng thép ròng, dài độ hơn ba xích, đầu có mũi nhọn hoắt hình mũi giáo. Lá cờ hình tam giác, nền vàng viền xanh, thêu nhằng nhịt những nét chữ kỳ quái bằng chỉ đen, không rõ văn tự của nước nào. Chẳng hiểu nó được dệt bằng loại tơ gì mà sau ba trăm năm vẫn chưa hề mục nát, chỉ hơi phai màu. Nếu nhìn thật kỹ người ta sẽ nhận ra cán cờ gồm bốn ống thép, luồn vào nhau có thể thu ngắn lại được. Và trên thân ống, chi chít những chữ Phạn nhỏ li ti, có lẽ là kinh văn hay thần chú.
Nhắc lại Kỹ Tòng Thư đứng lặng một hồi rồi nghiêm trang kể:
- “Mười năm trước lão phu mới định cư chốn này được hai Thu, một đêm nằm mộng thấy vị đạo sĩ râu ba chòm, tuổi độ gần lục tuần, người này tự xưng là Vương Trùng Dương, Chưởng môn phái Toàn Chân. Vương Tổ sư đã chỉ cho lão phu biết nơi Quỷ chân nhân Đơn Ngạn Hòa vùi thây năm xưa. Họ Đơn trúng kiếm của Vương tổ sư, nhảy xuống sông đào tẩu, tìm đến núi Bách Khổng, cách bờ tây Bạch Hà mười tám dặm để dưỡng thương. Nhưng lão không qua được và chết âm thầm trong một động đá kín đáo”.
Vương chân nhân dạy rằng:
- Vạn vật vốn vô tính, do người sử dụng mà thành thiện hay ác. Thí chủ hãy giữ gìn “Diêm Vương lệnh kỳ” này, chờ khi gặp được tướng tinh giáng phàm thì giao cho người ấy, để bình định võ lâm, bảo vệ giang sơn xã tắc. Bằng như không có duyên ấy thì hãy hủy bỏ bảo vật này đi.
Lão phu không hiểu nên hỏi lại:
- Bẩm lão thần tiên, làm sao đệ tử nhận ra người ấy?
Vương tồ sư liền cười đáp:
-Chàng trai đó có thể khắc chế được linh kỳ.
Kể xong, Kỹ Tòng Thư ứa lệ cao giọng:
-Nay chư vị chẳng thể là chàng trai mà lão phu chờ đợi, nên linh kỳ phải được hủy đi. Sau đó, Kỹ mỗ sẽ tự sát để tỏ lòng thanh bạch.
Đến lúc này thì Chưởng môn các phái bạch đạo đã tin tưởng tấm lòng chân thật của Kỹ Tòng Thư. Vân Thiên Tử vội gọi lớn:
- Kỹ thí chủ chớ vọng động! Lão phu sẽ đứng ra giải quyết vụ này.
Đúng lúc ấy, Âu Dương Mẫm bất ngờ lao vút về phía Kỹ Tòng Thư với tốc độ sao băng. Dẫu biết rằng sau khi đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì sẽ bị toàn trường vây hãm, lão vẫn không hề sợ hãi. Có cờ báu trong tay, lão sẽ trở thành bất khả xâm phạm. Âu Dương Mẫn là một trong những người hiếm hoi biết được câu thần chú cổ xưa. Nhưng đồng thời, từ hàng ngũ bạch đạo cũng có một bóng người bay vút ra. Người ấy đứng ở vị trí hơi xa Kỹ Tòng Thư nên chậm chân hơn Âu Dương Mẫn một bước. Song hắn ta nhờ thân pháp nhanh như điện mà bắt kịp và bủa lưới kiếm vào thân tả đối phương. Đấy là hán tử áo lam, râu rậm, thân hình to lớn tên gọi Hàn Thiếu Lăng.
Chỉ mình Thiết Đảm Hồng Nhan biết họ Hàn là Quách Tử Khuê, hay Vu Diệp chân nhân. Chẳng hiểu vì lý do gì mà Tử khuê lại liều lĩnh xuất chiêu “Thương Thiên Vô Tâm” (trời xanh không có tim), chiêu thứ ba trong pho “Oán Thiên kiếm pháp”. Chàng đã dồn toàn lực nên kiếm phong vút lên veo véo, kiếm kình cuồn cuộn, khiến Âu Dương Mẫn chột dạ, phải phế bỏ ý định hạ sát Kỹ Tòng Thư, quay sang đối phó.
Kỹ trang chủ đang bị đường gươm mãnh liệt và quỷ dị tuyệt luân của Âu Dương Mẫn uy hiếp tính mạng, bỗng thoát chết thì mừng vô hạn. Nhưng ông chưa kịp hoàn hồn thì phát hiện Bang chủ Chiết Mai bang và Bang chủ Bích Huyết bang đang lao đến. Bọn cung thủ Kỹ gia trang đã buông tên xạ thẳng vào đội hình của phe địch, trừ các phái bạch đạo. Kỹ Tòng Thư đã sớm dặn dò thủ hạ như thế. Những xạ thủ trên đỉnh tường trước Kỹ gia trang cũng đã ra tay, khiến lực lượng địch tổn thương vài chục.
Nhưng toán cung thủ đứng sau lưng Kỹ Tòng Thư chưa kịp tra tên bắn lượt thứ hai thì đã phải buông cung, rút kiếm vì quân thù đến ào ào như thác lũ. Chỉ còn hai trăm tay thiện xạ trên đầu tường là hoạt động hiệu quả. Họ bắn như mưa vào hàng ngũ địch giúp đồng bọn giữ vững cổng trang.
Nhắc lại Âu Dương Mẫn, hụt mất con mồi là Kỹ Tòng Thư và “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì vô cùng giận dữ. Lão nghiến răng đánh chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” (mây mềm ẩn chưá sự sắc bén). Chiêu này ảo diệu và ác độc phi thường, kiếm ảnh trùng điệp tựa mây mù, che kín chân thân song lại hàm chứa những thế đâm như chớp giật, tùy nghi thọc vào tử huyệt đối phương, từ song nhãn đến đầu gối. Đây là chiêu kiếm hữu hiệu nhất dùng trong trường hợp bị tập kích. Âu Dương Mẫn chính thực Điền Sĩ Lệ, Hội chủ Huyết Mai hội năm xưa. Lúc bị đánh rơi xuống vực thẳm, lão thoát chết nhờ đám dây leo và còn may mắn gặp được nơi tọa hóa của Tam tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, cao thủ thời nhà Nguyên. Ngoài pho bí kíp gồm ba phần tuyệt học là “Thiết Sa thần công”, “Nhu Vân kiếm pháp”, “Kỳ Môn Độn Giáp”, thần quân còn để lại một nhánh “Thiên niên Hà thủ ô”. Nhờ vậy mà hiện nay Âu Dương Mẫn sở hữu đến hơn hoa giáp công lực dù tuổi chỉ mới quá sáu mươi. Với tu vi thâm hậu từng ấy, với chiêu “Nhu Vân Tiềm Lợi” do lão thi triển có oai lực kinh hồn, trong võ lâm chẳng mấy ai chống nổi. Nhất là đối thủ của lão lúc này chỉ là một kẻ hậu sinh.
Quả đúng như thế, đường kiếm của gã râu rậm kia bị Âu Dương Mẫn chặn đứng. Và sau hơn trăm tiếng thép va chạm chói tai, lão phát hiện ra ngay hai chỗ sơ hở, là huyệt Đại Hoành trên bụng trái và huyệt Phúc Ai bên sườn phải đối phương. Hai huyệt này thuộc Kinh túc thái âm tỳ, thông với nội tạng. Trong tâm lý kích động và nóng vội, Âu Dương Mẫn chẳng hề ngần ngại, thọc kiếm vào huyệt Đại Hoàng bên trái. Vị trí ấy không được xương sườn che chở nên dạ dày và lá lách có thể bị xuyên thủng dễ dàng. Nào ngờ dường như hán tử áo lam râu ria kia đoán trước được, khẽ nghiêng người về mé hữu để né tránh và vươn tay điểm liền một thế kiếm thần sầu quỷ khóc, nhắm vào huyệt Nhũ Trung trên ngực trái Âu Dương Mẫn. Phía sau huyệt này chính là quả tim.
Nhát kiếm nhanh và biến hóa đến mức dù Âu Dương Mẫn đã đưa bàn tay tả che chắn mà vẫn thọ thương. Mũi kiếm như có mắt lập tức hạ thấp xuống một chút, đâm gãy xương lồng ngực lão ta. Nếu là người khác thì đã lủng tim, nhưng Âu Dương Mẫn luyện “Thiết Sa Thần Công” đã hơn hai chục năm, thân thể xương cốt cực kỳ rắn chắc nên đã bảo toàn được phủ tạng. Tuy nhiên đoạn xương bị gãy đã làm rách màng phổi, khiến Âu Dương Mẫn đau thấu trời và hô hấp rất khó khăn.
Lão thất kinh hồn vía, mượn lực phản chấn mà tung mình ra thật xa để tránh chiêu kiếm thứ hai của kẻ địch. Xui xẻo thay, lão vừa hạ thân xuống đã bị Bang chủ Chiết Mai bang tấn công. Âu Dương Mẫn cắn răng chống đỡ, vừa đánh vừa vận khí trị thương. Dương Tố Vy phát hiện máu hồng loang ướt đẫm ngực áo đối phương thì rất phấn khởi, ra đòn như thác lũ mưa rào. Kiếm pháp của nàng ta ảo diệu tuyệt luân nhưng xem ra khí lực không đủ. Nhờ vậy mà Âu Dương Mẫn dễ dàng cầm cự được.
Bang chủ Chiết Mai bang thấy lão bị thương mà còn kiêu dũng như vậy thì rất bực bội, nàng ta bèn đánh đòn tâm lý bằng cách thét vang:
- Âu Dương Mẫn bị đâm thủng ngực rồi.
Giọng nàng cao vút át cả âm thanh náo động của cuộc loạn chiến khốc liệt giữa ba trăm thủ hạ Tổng đàn Võ lâm và hai bang Chiết Mai, Bích Huyết. Gọi là loạn chiến vì chúng đánh lẫn nhau và đánh cả bọn gia đinh của Kỹ gia trang. Lực lượng năm phái bạch đạo vẫn án binh bất động, chưa tham chiến. Hầu hết họ là hòa thượng, đạo sĩ, chẳng quen với cảnh máu chảy đầu rơi. Hơn nữa, dù sao Âu Dương Mẫn vẫn còn là Minh chủ võ lâm, họ chẳng thể công khai đối địch với lão được. Trừ khi Âu Dương Mẫn đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ” thì họ sẽ liều mạng để tiêu diệt.
Năm vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đứng hàng đầu, nên đã mục kích cảnh hán tử áo xanh, râu rậm đả thương Âu Dương Mẫn một cách dễ dàng. Họ vô cùng kinh ngạc, hỏi Lư Công Đán về lai lịch của chàng trai kỳ tài, vì chàng ta đã cùng đi với họ Lư. Tây Nhạc kiếm khách là đệ tử của Trúc Lâm Tử, Chưởng môn nhân phái Hoa Sơn, nay nghe sư phụ hỏi gã kính cẩn đáp:
-Phải bẩm ân sư và chư vị Chưởng môn. Vị đại ca ấy họ Hàn tên Thiếu Lăng là sư huynh của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường buột miệng nói ngay:
- Lạ thật theo lão ăn mày ta được biết, thì con bé liều mạng kia học võ của cha, chú làm gì có sư phụ?
Bang chủ Cái bang là người thông thạo tin tức nhất võ lâm, nắm rõ lai lịch từng cao thủ, nên đã nói ra thì phải chính xác. Lư Công Đán ngượng ngùng gật đầu:
- Bẩm Thạch trang chủ, vãn bối cũng nghi ngờ điều ấy, nhưng không tiện hỏi. Tống cô nương đột nhiên biệt tích cả năm trời, có lẽ trong thời gian đó đã bái một vị kỳ nhân làm sư phụ.
Đại Giác thiền sư, Phương trượng chùa Thiếu Lâm bỗng lên tiếng:
- A di đà phật. Xin chư vị để ý quan sát sẽ thấy lộ số võ công của Hàn thí chủ và Tống thí chủ chẳng hề giống nhau.
Mọi người kiểng chân nhìn về phía mà thiến sư đã chỉ thì thấy Thiết Đảm Hồng Nhan đang sát cánh cùng với Hàn Thiếu Lăng mà chiến đấu. Họ đang cố mở đường máu, đưa Kỹ trang chủ trở vào trong. Lúc này cổng chính Kỹ gia trang đã bị các đầu lĩnh Bích Huyết bang chấn giữ, chặn đứng sinh lộ của Tòng Thư. Đám cao thủ nọ gồm chín người, kể cả Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm. Họ Trịnh tuổi độ hơn ba mươi, mắt diều, mũi ưng, miệng rộng, mày kiếm xếch ngược, tướng mạo oai võ tuấn tú, phong thái hiên ngang đáng mặt anh hùng. Vũ khí của gã là một cây thương bằng thép mạ vàng, rực rỡ dưới ánh chiều tà. Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến là võ lâm đệ nhất thần thương nên đệ tử của lão cũng dùng thương.
Trịnh Bá Nghiêm còn đội ngân quan có gắn hai cọng lông đuôi chim công dài nên càng giống Thường Sơn Triệu Tử Long trong tuồng cổ. Gã thống lĩnh bốn lão nhân dùng đao, tuổi quá lục tuần, vây đánh Kỹ Tòng Thư, quyết đoạt cho được “Diêm Vương quỷ kỳ”. Bốn lão còn lại trấn giữ cổng trang không cho bọn gia đinh bên trong ra tiếp viện. Không chỉ bấy nhiêu, gần trăm bang chúng Bích Huyết bang cũng tham gia, so tài với bọn kiếm thủ, học trò của Tòng Thư.
“Minh sư tất hữu cao đồ’, do đó tuy tuổi mới chỉ ba mươi, bốn mươi, mà bản lãnh của Trịnh Bá Nghiêm lại cao siêu hơn Kỹ trang chủ, gã may mắn được Nam Thiên Tôn cho ăn kỳ trân của đất Miêu Cương là con “Bách Niên Xuyên Sơn Giáp”. Xem ra món thịt trúc già hầm thuốc bắc ấy quả là rất bổ béo nên Bá Nghiêm có thêm mười năm chân khí, với số tu vi tròn trèm nửa hoa giáp, gã có thể vũ lộng cây thương nặng ba chục cân một cách nhẹ nhàng, phát huy hết uy lực của pho “Hoàng Long thương pháp”. Thương dài gần gấp đôi trường kiếm, lại nặng hơn nên Kỹ Tòng Thư càng bất lợi. Ông thủ nhiều hơn công chủ yếu là để bảo toàn tính mạng. Và may thay, Tòng Thư đã thức ngộ ra rằng đối phương không dám hủy hoại “Diêm Vương quỷ kỳ”, nên ông đã khôn ngoan đưa cả mảnh lụa cũ ấy ra mà chống đỡ những đường thương dũng mãnh của Bá Nghiêm. Thế là họ Trịnh hoảng vía phải thu kim thương về, sợ làm rách bảo vật. Nhờ vậy mà Kỹ Tòng Thư có thể ung dung cầm cự, che chắn mặt sau cho đôi trai gái lạ mặt kia mở đường máu rút lui.
Kỹ trang chủ thầm đoán ra lai lịch của Thiết Đảm Hồng Nhan, khi chứng kiến lối đánh nhau hung hăng và bạt mạng của nàng. Trong võ lâm, chỉ mình nữ nhân Tống Thụy là có đấu pháp này, còn hán tử áo xanh lực lưỡng kia là ai thì lão chẳng rõ, chỉ nghe Tống Thụy gọi là sư huynh. Nhưng chàng ta lại chính là kẻ đã đả thương Âu Dương Mẫn để cứu mạng lão. Kỹ Tòng Thư tri ân họ nhưng vẫn canh cánh đề phòng, sợ hai người ấy giả vờ thân thiện rồi thừa cơ chiếm linh kỳ.
Tử Khuê và Tống Thụy chẳng hề để ý tới tâm tư của Tòng Thư, cứ ra sức chiến đấu vì lão. Tuy không hiểu lý do vì sao Tử Khuê ra tay cứu giúp họ Kỹ, song Thiết Đảm Hồng Nhan vẫn hăng hái sánh vai chàng. Nàng chỉ chậm hơn vị sư huynh hờ kia vài bước. Giờ đây đối thủ của hai người là bốn lão nhân cầm đao, có lẽ là hộ pháp của Bích Huyết bang. Dẫu biết rằng “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”, nhưng Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng hề run sợ, thản nhiên mà đối phó bằng dũng khí của một con cọp cái. Trong thời gian qua, tuy không học được yếu quyết cao nhất của kiếm đạo là phép biến hoá, song nàng cũng tiếp thu khá nhiều chiêu thức tuyệt diệu của Trung Thiên Tôn. Việc này đã làm cho bản lĩnh của nàng tăng tiếng thêm vài bậc. Trước kia võ công Tống Thụy còn kém Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán một chút, nhưng giờ đây gã chỉ đáng xếp hàng sư đệ. Nhờ vậy mà hôm nay nàng có thể chống chọi với hai cao thủ lão làng của phương nam.
Tống Thụy giữ được thế quân bình thì Tử Khuê phải khá hơn. Sau khi thụ giáo Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh về kiếm đạo, nghề đánh gươm của Tử Khuê đã đạt tới mức thượng thừa, không còn lệ thuộc vào hình thức của kiếm chiêu nữa. Bằng chứng là khi xuất chiêu “Thượng Thiên Vô Tâm”, trong pho “Oán Thiên kiếm pháp”, chàng đã đắc thủ mà không hề bị thương. Biến hóa là đạo lý vận hành của vũ trụ, võ học cũng chẳng nằm ngoài lý ấy. Cho nên, kẻ nắm được biến hóa chính là người thượng trí, thành tựu vượt xa người thường. Tuy nhiên, võ nghệ còn tùy thuộc vào bản thân sức lực, tu vi nên bản lĩnh Tử khuê vẫn còn kém so với các cao thủ lão thành, như Âu Dương Mẫn chẳng hạn. Lúc nãy, Tử khuê đả thương được lão ta là nhờ yếu tố bất ngờ cũng như đặc tính quái dị của “Oán Thiên kiếm pháp”. Lần sau gặp gỡ, Âu Dương Mẫn sẽ không còn khinh địch nữa và chàng sẽ thua thiệt. Nhưng giờ đây đối thủ của chàng chẳng phải là Âu Dương Mẫn nên chỉ sau vài chục chiêu là Tử Khuê đã phá được thế giáp công của hai lão hộ pháp Bích Huyết bang. Chàng xuất chiêu “Mộ Cổ Thần Cung” (Trống chiều chuông sáng) trong pho “Thanh Long kiếm pháp”, bủa lưới kiếm chụp lấy lão già cao gầy ở mé hữu. Nạn nhân lập tức nghe hơi thép lạnh làm rờn rợn thân trên và trước mặt là hàng trăm bóng kiếm chập chờn. Lão chột dạ múa tít cương đao giải phá chiêu kiếm đáng sợ kia. Song chỉ sau vài tiếng thép chạm nhau tinh tang, lão chợt nghe bụng nhói đau khủng khiếp. Chẳng hiểu bằng cách nào mà mũi kiếm của đối phương đã đi xuyên qua huyệt Thần khuyết nơi rốn lão và cắt đứt ruột non. Lão hộ pháp cao gầy rú lên thảm hại, ôm vết thương ngã quỵ.
Trước đó Tử khuê đã kịp thu kiếm, đảo thân trên kịp tránh chiêu của kẻ địch thứ hai, rồi quay người nghênh chiến. Nếu đường gươm và thân pháp của chàng không nhanh như điện thì đã chẳng toàn mạng. Hôm nay, vì một lý do bí ẩn nào đó mà Tử Khuê ra tay rất tàn nhẫn, chẳng còn chút nhân từ nào nữa. Tuy nhiên, tử trạng và tiếng thét thê lương của nạng nhân đã khiến kẻ giết người lần đầu phải xốn xang bất nhẫn.
Nhưng đúng lúc ấy, Kỹ trang chủ cũng khẽ kêu rên lên vì trúng một thương của Trịnh Bá Nghiêm vào vai trái, tiếng rên kia làm cho Tử khuê nghe lòng thắt lại bởi lo âu thương xót. Kỹ Tòng Thư chính là cậu ruột của chàng. Đấy là nguyên nhân vì sao Tử khuê sẵn sàng đổ máu để bảo vệ ông. Nhà họ Kỹ có sáu anh em, nhưng bốn người đã chết lúc mới vài tuổi, nên chỉ còn lại Kỹ Tòng Thư và thân mẫu Tử Khuê là Kỹ Thanh Lam. Khi Kỹ nương lên bốn thì xuân huyên lần lượt qua đời, Tòng Thư liền thay cha mẹ mà nuôi em gái. Ông hơn Kỹ Thanh Lam gần hai mươi tuổi nên lúc ấy đã trưởng thành. Ơn nghĩa đó nặng hơn núi Thái Sơn. Lớn lên, Kỹ nương thành danh Băng Tâm Ma Nữ, giết người như ngoé, nên bị đại ca quở trách nặng lời. Bà tức giận cắt vạt áo rồi dứt tình huynh muội rồi bỏ đi. Vài năm sau, khi tỉnh ngộ nhờ sự điểm hóa của Vô danh thiền sư, Kỹ nương vô cùng hối hận hành động nông nổi, bất nghĩa với huynh trưởng lúc trước, nhưng vì xấu hổ mà không dám quay về tạ lỗi.
Hơn 20 năm qua, tuy yên ấm với chồng con ở đất Hứa Xương song lúc nào lòng bà cũng canh cánh nhớ thương người anh ruột ở Tứ Xuyên. Mười năm trước khi bà đủ dũng khí gửi thư về cố quận thì lại chẳng nhận được hồi âm. Bà cho rằng Tòng Thư chưa tha thứ cho mình nên không dám liên lạc nữa. Nào ngờ Kỹ Tòng Thư đã rời quê đến đất Bào Bình này lập nghiệp. Tử Khuê nghe mẹ mình nhắc đến đại cửu phụ hàng trăm lần, nên biết rõ tính danh, tuổi tác và đặc điểm là bớt son đỏ hình đám mây ở giữa trán. Nay tình cờ gặp ông, Tử Khuê vui mừng khôn xiết, quyết cứu cửu phụ bằng mọi giá.
Nhắc lại Tử Khuê, thấy cậu mình bị thương thì chẳng còn dám thương xót với kẻ thù nữa. Chàng nghiến răng xuất chiêu “Vũ Đả Lê Hoa” (Mưa vùi dập hoa lê) tung ra hàng trăm thức kiếm dồn dập tựa mưa rào khống chế đường đao của lão hộ pháp béo lùn rồi đâm thủng ngực. Lão tử đã dạy rằng “Thử lưỡng giả đồng” (Hai cái cùng là một) và “Hữu vô tương sinh” (Có và không cùng sinh). Cho nên trong kiếm đạo, bậc kiếm sĩ vô chiêu cũng phải vận chiêu thức. Nhưng khi xuất chiêu họ tùy nghi biến hóa chẳng hề bị ràng buộc, nên gọi là vô chiêu. Tử Khuê cũng vậy, chàng vẫn thi triển những chiêu thức trong sở học của mình, song kiếm ý thênh thang tự tại, tùy cơ nhi tác không chút trở ngại. Kết liễu xong địch thủ thứ hai, Tử khuê chợt phát hiện Thiết Đảm Hồng Nhan đang nguy ngập tính mạng, bởi một chiêu đao hợp bích cực kỳ ảo diệu của hai lão hộ pháp Bích Huyết bang. Chàng liếc nhanh, thấy Tòng Thư chưa đến nỗi nào, an tâm tiếp viện Tống Thụy trước.
Tử Khuê đề khí lao vút đi, chỉ một bước nhảy đã vượt khoảng cách gần hai trượng tiếp cận mục tiêu. Tuy tăng trọng đến hơn hai chục cân nhưng Tử Khuê vẫn nhanh nhẹn như xưa. Chàng hiểu rằng tốc độ của thân pháp là yếu tố sống còn trong giao đấu cũng như khi đào tẩu, nên đã không ngừng khổ luyện. Rốt cục, nhìn bề ngoài thân thể chàng to béo nhưng thực ra cơ thể chàng gồn toàn những bắp thịt rắn rỏi và chẳng chút mỡ thừa. Cơ đùi nở nang mạnh mẽ hơn giúp chàng không nặng nề vì trọng lượng đã tăng thêm. Nhờ vậy, giờ đây Tử khuê kịp thời cứu mạng ả sư muội không biết sợ chết. Nàng ta sắp toi mạng bởi lưỡi đao oan nghiệt của lão già không râu mé tả. Tống Thụy đang phải đối phó với lão mặt ngựa mé hữu nên chẳng thể nào thoát chết.
Tử Khuê biến sắc đánh liền mười tám thức gươm thần tốc, kiếm kình rít lên lanh lảnh, tấn công vào mé trái lão không râu. Lão ta rợn da gà vì đánh hơi được tử thần, đành bỏ Tống Thụy, quay lại tiếp chiêu của kẻ mới đến. Với kinh nghiệm giang hồ mấy chục năm, lão hiểu rằng tay non chẳng thể nào có được đường gươm xé không gian như vậy. Nhưng kinh nghiệm dày dạn lại không giúp lão toàn mạng vì Tử Khuê đã nhờ thế bất ngờ mà chiếm được tiên cơ. Kiếm của chàng nhanh gấp đôi bội đao của đối phương, trong sát na đã xuyên thủng ngực kẻ xấu số. Tiếng rên la thảm não của lão không râu, khiến cho lão mặt ngựa chấn động tâm can, đường đao hơi rối loạn và lộ sơ hở.
Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, thọc kiếm vào vùng bụng trống trải của kẻ thù. Là kẻ giàu kinh nghiệm, sau khi đâm thủng gan ruột của địch nhân, Tống Thụy lập tức thu kiếm và lùi lại vì lão mặt ngựa có thể dồn toàn lực vào đao cuối cùng. Do đó nàng tình cờ xô phải Tử Khuê ở phía sau. Chàng sợ nàng thất thế nên đã chực hờ, sẵn sàng tiếp cứu. Cú va chạm khá mạnh nên Tử Khuê phải trụ tấn và ôm chặt giai nhân, bàn tay tả của chàng vô tình áp lên ngực trái Thiết Đảm Hồng Nhan khiến cho ả thẹn chín người. Tống Thụy chưa kịp cảm nhận hết vị ôn nhu của sự tiếp xúc ngọt ngào ấy thì Tử Khuê đã buông ra, lao vút về phía Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiên, vừa đâm thêm một thương vào đùi Kỹ Tòng Thư.
Họ Trịnh đã mục kích cảnh chàng đả thương Âu Dương Mẫn và sát hại ba hộ pháp của mình nên rất tức giận. Nhưng đồng thời gã lại chẳng dám coi thường, đành bỏ Kỹ lão quay sang đón tiếp Tử Khuê bằng một đường thương vũ bão. Thương, giáo, kích, trường đao, trường côn, đinh ba... là loại binh khí dài, nặng, tầm sát thương rộng, đòn đánh rất mãnh liệt. Nhưng cũng chính vì chiều dài và trọng lượng mà chúng luôn chậm hơn đoản binh như đao, kiếm. Dẫu cho Trịnh Bá Nghiêm là học trò của Thương Thánh thì khuyết điểm ấy vẫn tồn tại. Và “Thao Quang Thần Thức” chính là khắc tinh của mọi loại trường binh. Tử Khuê không dám thò tay chụp đao kiếm nhưng hoàn toàn có thể khóa cứng một đường thương. Năm xưa, sư phụ chàng, Vu Mộc chân nhân đã từng đến Hồ Nam, bịt mặt so tài với Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến. Tuy tay không mà ông vẫn cầm cự được hai ngàn chiêu, sau đó trá bại bỏ đi. Về đến Vũ Lương sơn, Chân nhân nghiền ngẫm, nghiên cứu suốt một năm ròng, tìm ra nhưng chiêu thức đặc biệt để hóa giải thương pháp của họ Từ. Giờ đây, Tử Khuê kế thừa tuyệt học ấy thản nhiên cử kiếm chống đỡ những thế thương ác liệt ấy của Trịnh Bá Nghiêm và tay tả bất ngờ khoa nhanh, vẽ nên những vòng tròn kỳ ảo, bám lấy đầu thương rồi chụp lấy đoạn cán thép ở sát phần mũi thương sắc bén. Tử Khuê chẳng dại gì giành giật cây thương khi đối phương đang cầm bằng hai tay. Chàng chỉ thuận thế kéo Bá Nghiêm về phía mình rồi tràn tới nhanh tựa cơn lốc thọc bốn kiếm vào người gã. Bá Nghiêm thất kinh hồn vía vội buông vũ khí, phiên thân tránh né. Gã đã dày công khổ luyện suốt hai mươi mấy năm nên bản lãnh cao cường, phản ứng thần tốc nên nhờ vậy mà thoát chết, chỉ bị thương nơi vai tả. Vết thương không nguy hiểm đến tính mạng nhưng đã khiến tay trái gã tạm thời bị phế. Khổ thay người sử dụng thương phải cầm cả hai tay, bại liệt một coi như cũng tiêu đời. Trịnh Bá Nghiêm chẳng còn chút dũng khí nào nữa, bỏ của chạy lấy người. Tử Khuê không thèm truy đuổi, quay lại tìm đại cửu phụ.. Tòng Thư đang được Thiết Đảm Hồng Nhan băng bó vết thương bằng vạt áo của chính nàng xé ra. Tống Thụy mỉm cười, ánh mắt đầy vẻ khâm phục:
- Sao sư huynh không quăng cây thương chết tiệt ấy đi? Nó bằng thép mạ vàng chứ đâu phải vàng ròng mà sư huynh tiếc của.
Thì ra vũ khí của Bang chủ Bích Huyết bang vẫn còn nằm trong tay chàng, Tử Khuê tra kiếm vào vỏ, cười đáp:
- Chẳng phải ta tham vàng mà muốn dùng nó để phá vây! Ta cũng học vài đường thương, nay thi thố thử xem sao.
Kỹ Tòng Thư nãy giờ chăm chú quan sát chàng trai râu rậm, bỗng nhận ra nụ cười cởi mở thân mật kia cảm thấy thân thiết lạ lùng. Ông run giọng hỏi:
- Thiếu hiệp là ai mà lại cố công bảo toàn cái mạng già này của lão phu vậy?
Tử Khuê bước đến thật sát kề tai ông mà nói:
- Đại cửu phụ! Tiểu điệt là Quách Tử Khuê, giọt máu của Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đây. Nhưng bí mật này tuyệt đối không được để lộ ra ngoài, xin cửu phụ cứ làm như chẳng có quan hệ gì. Trước mắt chúng ta phải vào được trong trang cái đã.
Kỹ Tòng Thư tin đã tám phần, song vẫn cẩn thận hỏi lại:
- Thế mẫu thân ngươi có điểm gì kỳ lạ trên người?
Tử Khuê đỏ mặt đáp:
- Gia mẫu có một bớt son đỏ hình đám mây bên ngực trái.
Kỹ Tòng Thư mừng muốn sa lệ, định ôm cháu mà không dám, ông chỉ nghẹn ngào bảo:
- Tạ ơn Trời Phật, lão phu đã tìm thấy em gái của mình rồi.
Thiết Đảm Hồng Nhan nghe tất cả, giận dỗi trách Tử Khuê:
- Sao sư huynh không sớm nói cho tiểu muội biết? Phải chăng sư huynh không tin tiểu muội?
Tử khuê cười gượng:
- Chẳng phải ta không tin nàng, mà ta không muốn nàng bởi việc riêng của ta mà thọ nạn đấy thôi. Ta hứa từ nay sẽ không giấu diếm sư muội điều gì cả.
Tống Thụy hài lòng vui vẻ nói:
- Sư huynh hãy đánh mở đường, tiểu mụôi dìu Kỹ cửu phụ theo sau.
Kỹ Tòng Thư phì cười :
-Lão phu chỉ bị thương nhẹ, đâu cần ngươi dìu dắt. Hay là nha đầu ngươi muốn lập công mua chuộc già này ?
Tử Khuê không hiểu nhưng Tống Thụy nhận ra ngay ẩn ý của câu nói đó. Nàng thẹn đỏ mặt vội vàng thúc ép Tử Khuê tiến bước. Nãy giờ họ trao đổi được vài câu ngắn ngủi như thế là nhờ có sự bảo vệ của mấy chục gia đinh nhà họ Kỹ. Tòng Thư đối xử với đệ tử thủ hạ rất hậu nên bọn chúng trung thành tuyệt đối, chết chẳng sờn lòng. Họ biết rằng nếu mình có mạng vong thì thê tử sẽ được Kỹ gia trang nuôi dưỡng chu đáo. Giờ đây khi nghe Kỹ trang chủ cao giọng ra lệnh, họ lập tức tập trung thành đội ngũ quanh ông, vừa đánh vừa tiến theo nhịp độ phá vây của hán tử áo xanh, râu rậm. Họ không biết người ấy là ai song trong lòng kính phục vị anh hùng cái thế. Ngay cả năm vị Chưởng môn nhân bạch đạo cùng mấy trăm đệ tử cũng phải lắc đầu thán phục khi thấy Hàn Thiếu Lăng đả thương và tước vũ khí của Bang chủ Bích Huyết bang chỉ với một chiêu. Thất Bổng Cái là người tự hào biết rành lai lịch, lộ số võ công ngàn nhà, nay không nhận ra môn hộ của Hàn Thiếu Lăng, nên vò đầu bứt tóc vừa chửi vừa khen:
- Con bà nó! Không hiểu cái môn phái quỷ quái nào, đã sản sinh ra một bậc kỳ tài, anh hùng xuất chúng đến thế nhỉ ? Lão phu mà không điều tra ra được thì thề sẽ bỏ rượu.
Bang chủ Cái bang là con sâu rượu, nên lời thề ấy đối với lão là độc địa nhất.
Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng có mặt chốn này. Sau lễ thượng thọ sư phụ là Vân Thiên Tử, Mộ Duy Lộ đã lên đường đi Nhưỡng Thành để tìm Đông Nhạc Tiên Hồ. Khi dừng chân qua đêm ở huyện Bảo An Định, gã ghé thăm một thanh lâu nổi tiếng để mua vui. Khủng khiếp thay, ngay đêm ấy gã phát hiện mình bị liệt dương. Mặc cho ả danh kĩ hoa nhường nguyệt thẹn, thân hình bốc lửa kia trổ hết ngón nghề của làng chơi, “thần thương” của Mộ Duy Lộ cứ vẫn ỉu xìu như cọng bún thiu. Gã chết điếng người, tưởng như bầu trời sụp xuống đầu mình, tuyệt vọng rời thanh lâu trong ánh mắt khinh thị, giễu cợt của bọn kĩ nữ. Thế là Mộ Duy Lộ chẳng còn lòng dạ nào mà đi đến chỗ hẹn với Đông Nhạc Tiên Hồ ở Nhưỡng Thành nữa. Gã cấp tốc quay về núi Võ Đương, khóc lóc, van nài Vân Thiên Tử chữa trị giùm. Sư phụ gã chẩn mạch cẩn thận và an ủi học trò rằng bệnh này rất dễ chữa, chỉ cần gã chuyên cần rèn luyện nội công “Võ Đương tâm pháp” trong ba năm, ngày ngày uống thuốc là sẽ lành bệnh. Từ đó, Mộ Duy Lộ trở thành một đệ tử siêng năng, cần mẫn và có đạo đức không chê vào đâu được. Gã chẳng bao giờ nhìn ngắm hay cười cợt với bọn nữ đồng môn, lúc nào cũng trang nghiêm, đạo mạo tựa bậc cao tăng đắc đạo vậy. Nhưng đêm về, gã mân mê khúc thịt thừa vô dụng rồi thở dài thườn thượt và oán trời, trách đất chẳng tiếc lời. Hôm nay, Mộ Duy Lộ chứng kiến cảnh Hàn Thiếu Lăng hiển lộng thần oai, được người người thán phục, ca ngợi thì lòng vô cùng tức tối. Gã càng đố kỵ đến điên người khi thấy Thiết Đảm Hồng Nhan cứ bám lấy họ Hàn mà vào sinh ra tử. Mộ Duy Lộ đã từng tán tỉnh Tống Thụy nhưng không thành công. Con nha đầu ấy đã dửng dưng trước dung mạo tuyệt thế cũng như tài sản kếch xù của gã.
Với tâm trạng xấu ấy, Mộ Duy Lộ buột miệng gièm pha:
- Võ công của Hàn Thiếu Lăng có lẽ xuất xứ từ bàng môn tà đạo nên mới lợi hại khác thường như vậy. Cái cảnh đánh lén Âu Dương minh chủ là đủ biết họ Hàn chẳng phải người quang minh chính đại.
Sau khi biết học trò cưng của mình vì nữ sắc mà bán rẻ tông môn, Vân Thiên Tử rất đau lòng và không còn ưu ái Mộ Duy Lộ nữa. Nay nghe y giở thói tiểu nhân, buông lời đố kỵ kẻ hơn mình, Vân Thiên Tử bực bội nạt:
- Câm ngay! Ngươi biết gì về chính tà mà dám lạm bàn trước mặt trưởng bối? Và nếu Hàn thí chủ không tập kích Âu Dương Mẫn thì làm sao cứu mạng Kỹ trang chủ kịp thời?
Mô Duy Lộ hổ thẹn vòng tay nhận lỗi rồi lùi về phía sau. Y đi rồi, Đại Giác thiền sư, Phương trượng Thiếu Lâm tự bỗng thở dài:
- A Di Đà Phật. Lão nạp thấy cảnh chúng sinh tàn sát lẫn nhau, thịt nát xương tan mà lòng đau như cắt. Chẳng lẽ chúng ta cứ đứng khoanh tay nhìn mãi hay sao?
Tùng Xuân Tử, Giáo chủ Toàn Chân giáo buồn rầu ứng tiếp:
- Chúng ta là kẻ tu hành, không quen ứng phó với những hoàn cảnh như thế này. Phải chi có Cửu Hoa Thánh Y ở đây thì hay quá.
Thất Bổng Cái bực mình chửi đổng:
- Mẹ kiếp! Cái lão mũi trâu họ Cổ này quả là đáng ghét, lúc người ta cần đến thì chẳng thấy đâu, thế mà lão dám tự hào mình là bậc thần cơ diệu toán.
Bang chủ Cái bang là bằng hữu chí thân của Cửu Hoa Thánh Y nên mới dám phê phán nặng như thế. Chợt Trúc Lâm Tử reo lên:
- Chư vị hãy xem kìa, Âu Dương Mẫn đã phá được vòng vây của Bang chủ Chiết Mai bang cùng các Hộ pháp và ra lệnh rút quân.
Các Chưởng môn nhân đang đứng trên một gò đất khá cao nên quan sát trận địa dễ dàng. Quả đúng vậy, Âu Dương Mẫn bị gãy xương và rách màng phổi bên trái, mỗi lần hô hấp là đau đớn vô cùng, võ công chỉ còn một nửa. Trong khi đó, Dương Tố Vy được sự hỗ trợ của sáu đầu lĩnh võ nghệ cao cường nên đã chiếm thượng phong. Là kẻ gian hùng cái thế, Âu Dương Mẫn hiểu rõ rằng mình đã thất bại, cưỡng cầu chỉ tổ thiệt thân. Lão ta bèn xuất kỳ chiêu, đả thương một hộ pháp Chiết Mai bang rồi rút quân. Ba trăm kiếm thủ Tổng đàn giờ chỉ còn lại hai đội ngũ chỉnh tề, theo Minh chủ phá vây. Y như Huyết Mai hội chủ năm xưa, Âu Dương Mẫn phóng tay chém giết hung hãn như cọp cùng đường chẳng ai có thể ngăn bước.
Không còn trở ngại nào khác, Dương Tố Vy kéo dốc thủ hạ đến hợp lực với Bích Huyết bang để đoạt linh kỳ. Trước đó, Trịnh Bá Nghiêm đã quay lại tấn công bọn Tử Khuê để rửa hận. Gã mang theo phó tướng của mình và những thủ hạ kiêu dũng nhất. Bản thân họ Trịnh cũng tham chiến với vũ khí là một thanh trường kiếm lúc nãy đeo lủng lẳng ngang hông. Người sử dụng trường binh thường có thói quen mang thêm đao hoặc kiếm. Lý do là vì thương giáo rất cồng kềnh, nặng nề. Không thể lúc nào cũng mang kè kè bên mình được. Chẳng lẽ đi dạo phố hay dự tiệc mà cũng vác thương theo. Hoặc giả khi phải chiến đấu trong một môi trường chật hẹp, vướng víu như rừng cây chẳng hạn thì vũ khí dài rất bất lợi. Cho nên, ngay cả Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến cũng phải đeo gươm, và Trịnh Bá Nghiêm cũng thế. Tất nhiên, kiếm pháp của họ không lợi hại lắm.
Trường hợp của Tử Khuê thì ngược lại, chàng chuyên luyện quyền kiếm song vẫn biết qua loa phép đánh vài loại trường binh, và khá thông thạo thương thuật, côn thuật. Điều này xuất phát từ quá trình hoàn thiện pho “Thao Quang thần thức” của Vu Mộc chân nhân. Sư phụ chàng đã dồn tâm huyết một đời vào việc biến pho “Nga Mi đạo quyền” thành một tuyệt học có một không hai, hơn cả Thiếu Lâm “Thập Bát La Hán quyền” hay “Võ Đương trường quyền”. Pho quyền này sẽ giúp người võ sĩ chống chọi được cả với binh khí, dù dài hay ngắn. Binh pháp Tôn Tử có câu: “Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng”, vì vậy, Chân nhân đã phải nghiên cứu phép đánh của rất nhiều loại vũ khí để tìm ra cách khắc chế. Riêng đối với pho “Hoàng Long thương pháp” và pho “Thiếu Lâm trường côn”, ông đã phải lao tâm khổ tứ hàng năm trời. Với trí tuệ mẫn tiệp phi thường, Chân nhân đã tự tái hiện từng chiêu thức ảo diệu nhất của đối phương và giải phá.
Khi truyền nghề cho Tử Khuê, Vu Mộc chân nhân đã dạy luôn những gì mình thu hoạch được của thiên hạ. Điều này chẳng phải là vô ích vì thế sự vốn vô thường, bất trắc, không thể lường trước được. Biết đâu có lúc Tử Khuê không còn trường kiếm trong tay, phải vớ đại đoạn tre gỗ nào đó, hoặc đoạt lấy vũ khí của kẻ địch mà sử dụng. “Thao Quang thần thức” dù tuyệt diệu đến mấy cũng sẽ kém hiệu quả trong một cuộc hỗn chiến với số đông. Bởi những hạn chế ấy của quyền thuật mà người ta đã chế tạo ra vũ khí và dùng trong chiến tranh. Trường thương là loại binh khí cực kỳ lợi hại chốn xa trường. Xưa kia, đại tướng của Lưu Bị là Triệu Vân, tức Thường Sơn Triệu Tử Long, một thương một ngựa xông pha giữa vạn quân như chốn không người. Và trong sử sách Võ Lâm còn kể rằng lúc giữ thành Tương Dương, vị đại hiệp thực thà Quách Tĩnh cũng đã dùng thương mà đánh nhau với quân Mông Cổ. Mặc dù bình thường ông quen xài kiếm hơn. Tóm lại, Tử Khuê rất có lý khi sử dụng cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm khi phá vây. Tuy chàng chỉ biết bảy chiêu thương và tám chiêu trường côn song cũng tạm đủ. Thứ nhất là vì phép đánh trường côn chính là căn bản của thương thuật. Để tăng khả năng sát hại, người ta đã gắn thêm mũi thép sắc nhọn vào đầu gậy mà tạo ra thương và giáo. Từ đó mà thương pháp có nhiều thức đâm hơn côn pháp. Bảy cộng tám là mười lăm, song với một kẻ đã thấu hiểu đạo biến hóa của võ học thì mười lăm chính là vô số. Đương nhiên Tử Khuê sẽ ngượng tay vì không quen và chẳng đạt đến mực thượng thừa của thương thuật như Trịnh Bá Nghiêm. Nhưng đám bang chúng tép riu của Bích Huyết bang thì Tử Khuê thừa sức quét văng đi bằng những thế công cực kỳ dũng mãnh. Kim thương nặng gần chục cân được vũ lộng bằng đôi bàn tay với những bắp thịt nở nang, rắn chắc nên khí thế hùng hậu phi thường. Đao kiếm của bọn thủ hạ Bích Huyết bang chạm phải đường thương thì lập tức văng khỏi, bàn tay rướm máu. Tử Khuê luyện cả nội công, ngoại công, sức lực hơn hẳn Trịnh Bá Nghiêm.
Tử Khuê hứng chí xông lên, trường thương bay lượn vun vút tựa dải lụa vàng, kình phong xé gió vù vù, dọa khiếp phe địch. Về mặt tâm lý thì bọn đệ tử Bích Huyết bang đã có phần khiếp sợ Tử Khuê khi thấy chàng sử dụng vũ khí của thượng cấp mình. Bang chủ còn thua thì thủ hạ nào thấm thía gì với đối phương? Lại thêm bằng chứng hiển nhiên là đường thương vũ bão nên chúng chẳng dại gì đương cự mà mang họa.
Thế là vòng vây trước mặt Tử Khuê ngoan ngoãn dãn dần ra, theo từng bước chân của chàng, Tử Khuê đánh hết mười lăm chiêu, đưa đoàn người tiến lên được bốn trượng, chỉ còn cách cổng Quách gia trang ba trượng nữa thì nghe Trịnh Bá Nghiêm quát vang:
- Kẻ nào lùi bước sẽ bị xử tội chết !
Bọn bang chúng sợ hãi liều mạng xông vào tấn công Tử Khuê, không dám nhường đường nữa. Tử Khuê múa tít kim thương đánh bạt chúng ra và suy nghĩ:
-Dẫu ta giết chết mấy chục gã này mà vào được trong thì cuộc chiến vẫn không kết thúc. Phải tìm cách khác mới được.
Chàng lùi lại, ra hiệu cho Tống Thụy thay thế mình rồi đến sát Kỹ Tòng Thư mà nói nhanh:
-Chúng ta vào trong cũng vô ích. Tiểu điệt sẽ cố mang “Diêm Vương lệnh kỳ” đến giao cho Hội đồng Võ lâm, có như thế mới giải được tai họa.
Kỹ lão thấy đệ tử thương vong khá nhiều, hiểu rằng mình đánh nữa sẽ chẳng còn một mống. Và nếu ông cố giữ Quỷ kỳ thì Kỹ gia trang không một ngày yên ổn. Vì vậy, Tòng Thư đồng ý ngay, trao cây cờ báu cho cháu trai. Từ Khuê nhận lấy, giơ cao lên phất và quát lớn:
-Xin Hội đồng Võ lâm tiếp nhận linh kỳ!
Sau đó Tử Khuê thu ngắn cánh cờ, cuộn mảnh lụa tam giác lại, giắt vào thắt lưng rồi múa thương đánh thốc về hướng Tây, nơi mà các phái Bạch đạo đang đứng như phỗng. Lúc này, Trịnh Bá Nghiêm và lão Phó bang chủ râu dài đang tiến vào từ hướng Nam, còn cách xa đội ngũ của Kỹ trang chủ mấy trượng. Thấy phòng tuyến hướng Tây khá mỏng, Bá Nghiêm vội quát:
- Không cần giữ cửa trang nữa, mau chặn gã cầm cờ cho ta!
Thế là bọn thủ hạ của gã bỏ chỗ cũ, ùn ùn kéo về hướng tây, bổ sung quân số cho vị trí quan trọng. Ngay cả bốn lão hộ pháp trước giờ canh giữ trước cổng, nay cũng bỏ nghề.
Thiết Đảm Hồng Nhan bảo Kỹ lão:
- Xin Cửu Phụ cứ rút vào trong trị thương trước. Tiểu nữ sẽ đuổi theo hỗ trợ Quách sư huynh.
Kỹ Tòng Thư gật đầu và dặn dò:
- Đao, kiếm không có mắt. Lão phu mong rằng hai người cẩn trọng. Lão phu sẽ điều binh hỗ trợ ngay.
Tống Thụy ôm quyền chào rồi phi thân về hướng Tử Khuê đang tả xung hữu đột. Phe đối phương muốn cầm chân chàng nên tập trung rất dày ở trước mặt, sau lưng cũng có nhưng không nhiều. Nhờ vậy, Thiết Đảm Hồng Nhan có thể phá vây, vào với Tử Khuê. Thấy nàng, Tử Khuê vô cùng cảm động và yên tâm mở đường máu vì đã có người che chắn mặt sau lưng. Đối thủ lúc này của chàng gồm Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy và lão nhân râu dài Phó bang chủ Bích Huyết bang. Chung quanh đấu trường là sáu trăm thủ hạ của hai bang hội Chiết Mai, Bích Huyết. Họ tập trung nhiều ở hướng tây để đề phòng sự tham chiến của phe Bạch đạo. Tuy lực lượng này chỉ độ hơn hai trăm song đều là tay khá nhất là năm vị Chưởng môn nhân và Thập Bát La Hán Thiếu Lâm tự. Nhưng với oai phong của Bắc Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn chưa chắc bọn hòa thượng, đạo sĩ, ăn mày ấy dám tham chiến. Bằng chứng là từ đầu đến giờ họ cứ bình chân như vại. Nhưng sự thực lại khác với dự đoán của Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy, Vân Thiên Tử Chưởng môn nhân phái Võ Đương đã vận công quát vang:
- Hội đồng Võ lâm yêu cầu Chiết Mai bang và Bích Huyết bang đình thủ ! Hội đồng sẽ thu nhận “Diêm Vương quỷ kỳ” và hủy hoại ngay tại chốn này.
Dương Tố Vy bỏ trận địa, nhảy lên đứng trên vai ả nữ thủ hạ to con rồi khôn khéo đáp:
- Bẩm chư vị Chưởng môn! Gia sư Bắc Thiên Tôn muốn sử dụng linh kỳ để giúp đạo quân triều đình ở vùng quan ải phía bắc Sơn Tây, đương cự với rợ Mông. Mong Hội đồng Võ lâm ủng hộ hành vi chính nghĩa ấy.
Vân Thiên Tử bối rối, chẳng biết phải giải quyết thế nào thì được một nữ đồ đệ đứng bên hiến kế. Vị đạo cô ấy là đệ tử nhỏ nhất của ông, đứng hàng thứ tám đạo danh Linh Tuệ. Nàng ta tuổi mới đôi chín, tính tình hiền lành, vui vẻ nhưng đầu óc thông minh tuyệt thế, mẫn tiệp phi thường. Khác với Mộ Duy Lộ, Linh Tuệ đến Võ Đương không một xu lễ vật mà vẫn được làm đệ tử của Chưởng môn nhân, tức đời thứ hai. Đáng lẽ, nàng ta phải làm đệ tử đời thứ ba mới đúng quy củ. Nhưng chẳng ai ganh ghét với Linh Tuệ cả vì nàng là cháu gọi Vân Thiên Tử bằng chú ruột. Vả lại, Linh Tuệ rất dễ mến, được cả phái yêu thương. Và nàng chính là người duy nhất cổ vũ cho Tử Khuê trong trận so tài với Mộ Duy Lộ ở Quang Hóa. Giờ đây, cô nàng có cặp mắt tinh đời ấy rỉ tai mách nước cho sư phụ. Nghe xong, Vân Thiên Tử hớn hở cao giọng trả lời Dương Tố Vy:
- Thiện tai! Thiện tai! Bắc Thiên Tôn đã có lòng vì xã tắc như thế thì Hội đồng Võ lâm rất khâm phục. Nhưng nếu chư vị không mau đình thủ thì e rằng vị thí chủ họ Hàn kia sẽ hủy bảo vật đi đấy.
Câu nói khách sáo ấy chính là lời nhắc nhở Tử Khuê mau phá hủy linh lỳ. Chàng trai xui xẻo của chúng ta tuy hơi thật thà nhưng không đến nỗi ngốc. Tử Khuê liền tỉnh ngộ, quét một thương sấm sét, đẩy lùi những đối thủ của mình. Và bất ngờ phóng thẳng kim thương vào người lão Phó bang chủ Bích Huyết bang. Lão ta không dám né tránh sợ hại mạng bọn thủ hạ phía sau, đành vung đao chặn lại. Đao pháp của lão rất linh diệu nên đã đánh rơi được mũi ám khí to đùng ấy xuống đất. Nhưng Tử Khuê đã lợi dụng khoảnh khắc nọ mà rút Diêm Vương quỷ kỳ ra, kéo dài cán thép, sử dụng như một thanh kiếm thứ hai bên tay trái. Chàng có thể dùng tả thủ đánh những chiêu quyền, trảo, phối hợp với trường kiếm bên tay hữu thì việc múa cờ bằng tay trái chẳng phải là khó. Nghĩa là Tử Khuê đã không làm theo lời nhắc nhở của Chưởng môn phái Võ Đương mà lại dùng sự toàn vẹn của “Diêm Vương quỷ kỳ” để phá vây. Phe địch rơi vào thế “Ném chuột sợ vỡ đồ quý” sẽ phải nhường đường. Chàng muốn thay thân mẫu báo đáp đại ân dưỡng dục của Tòng Thư nên cố gắng hoàn thành tâm nguyện của ông là bảo toàn linh kỳ, sau này trao cho người tài đức.
Vậy phải chăng Tử Khuê thầm cho rằng mình là vị tướng tinh giáng phàm ấy? Không phải vậy ! Từ sau lần thất bại trước hồn ma của Lỗ phán quan ở Trình gia trang, chàng không còn chút ảo tưởng nào vào cái gốc gác thần tiên của mình nữa. Tử Khuê là người thẳng thắn, khoáng đạt, nên chẳng thèm để ý đến chúng nữa. Nhưng ma quỷ và thuật bói toán là hai mặt hiển nhiển nhiên tồn tại của văn hóa Trung Quốc mấy ngàn năm nên Tử Khuê chấp nhận được. Do đó, chàng không thắc mắc vì sao Cửu Hoa Thánh Y nhận ra mình dù chưa hề gặp gỡ. Còn ma thì chàng đã gặp rồi.
Nhắc lại, với chủ ý ấy, Tử Khuê ung dung lao vút về phía trước. Dùng linh kỳ đâm Trịnh Bá Nghiêm ba nhát. Họ Trịnh không dám dùng thanh gươm được mài sắc như dao cạo của mình chống đỡ, đành phải thoái hậu. Gã sợ chém rách cờ báu thì uổng công lao kéo quân đến đây và không hoàn thành sứ mạng do Thiên Tôn đã giao phó. Họ đã ra lệnh cho gã và Tố Vy chiếm cho bằng được “Diêm Vương quỷ kỳ”. Đẩy lùi được Bá Nghiêm, Tử Khuê yên tâm xông vào tấn công lão Phó bang chủ Bích Huyết bang. Tuy là phó nhưng bản lĩnh lão ta còn cao hơn họ Trịnh. Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quan năm nay đã sáu mươi sáu tuổi, có tài đánh đao siêu việt, hùng cứ đất Hành Dương đã mấy chục năm. Hướng lão mở trường dạy đao thuật, lấy tên là “Bá Đao đường”, đệ tử động đến gần ngàn. Hướng Vụ Quan vốn không có tham vọng lớn lao, bằng lòng với vai trò bá chủ vùng đông nam tỉnh Hồ Quảng ( gồm Hồ Bắc và Hồ Nam hiện tại ). Nhưng do từng chịu ơn cứu mạng của Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến nên Hướng lão đã khuất thân làm phó cho Trịnh Bá Nghiêm. Ông còn đưa mấy trăm học trò giỏi của mình đến gia nhập Bích Huyết bang, tạo thành lực lượng nòng cốt của tổ chức non trẻ này.
Tử Khuê nhờ thấy bảy vòng thép rủng rẻng trên sống đao đối phương mà nhận ra lai lịch lão gì có gương mặt chữ điền cương nghị kia. Tuy biết Thất Hoàn Đao không phải là kẻ ác, song đã ở thế đối đầu thì chàng chẳng thể nương tay. Tử Khuê trận trọng xuất chiêu “Tường Vân Long Hiện” (Rồng hiện trong đám mây lành). Vầng kim ô đã khuất sau rặng núi xa xăm cuối trời tây, chỉ còn lại chút nắng vàng hiu hắt nhuộm dở dang những đám mây trắng lững lờ. Những tia nắng ấy không đến được đấu trường đẫm máu này để tô điểm cho màn kiếm ảnh dày đặt của Tử Khuê tạo ra một đóa mây lành rực rỡ. Nhưng chẳng vì thế mà chiêu kiếm giảm phần lợi hại, tám mươi sáu thức đâm như chớp giật vẫn khiến cho Thất Hoàn Đao phải rợn tóc gáy. Lão ta cẩn trọng đón đỡ bằng một chiêu đao cực kỳ thận trọng và hùng mạnh. “Hướng gia đao pháp” vốn nổi tiếng võ lâm về tính trầm ổn, vững vàng. Bản đao rộng gấp đôi bảo kiếm nên khi phòng thủ thì bội phần kín đáo. Hơn nữa, Hướng Vụ Quan luyện võ rất sớm, cả đao pháp lẫn công lực đều thâm hậu. Nhờ vậy, lão cản phá được gần hết những thế công của Tử Khuê. Nhưng Hướng Vụ Quan không ngờ rằng gã tiểu tử râu rậm kia lại có thể sử dụng hai tay cùng một lúc, dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” thọc liền năm thức thành năm đòn đâm nhanh tựa độc xà thiểm điện. Nên Hướng lão chỉ có thể rút chân trái về và dùng đao che chắn thân phải. Khổ nỗi là lão cũng không dám hủy hoại cờ báu nên đành phải nhắm vào đoạn thép ở mũi cán cờ mà va chạm. Đã phân tâm đếm mức ấy thì đường đao không thể nhanh và kín như thường lệ được. Thế là lão trúng một kiếm của đối phương vào sườn tả. Vết thương không nặng nhưng cũng đủ khiến Thất Hoàn Đao nản chí rời vị trí, nhường đường cho kẻ địch. Đánh nhau mà phải kiêng dè đủ thứ thì thà không đánh còn hơn.
Trịnh Bá Nghiêm cũng hiểu hoàn cảnh éo le ấy nên không hề trách móc vị lão tướng của mình. Gã bực bội xông vào tấn công Thiết Đảm Hồng Nhan vì nàng bám sau lưng Tử Khuê, mà vượt lên. Thất Hoàn Đao thấy thế cũng hợp lực cùng Bang chủ, cho rằng nếu bắt được Tống Thụy thì gã râu rậm kia sẽ phải dùng linh kỳ để đổi con tin. Hướng lão dồn toàn lực xuất chiêu “Bạt Sơn Đảo Hải”. Đường đao mãnh liệt phi thường, quyết chặt gãy hoặc đánh văng bảo kiếm của ả họ Tống. Nếu là đơn đấu một chọi một thì Thiết Đảm Hồng Nhan còn có thể tránh né va chạm và đối phó chiêu đao dữ dội ấy bằng những thế đâm nhanh qua sơ hở, là sở trường của kiếm. Nhưng lúc này, nàng đang phải đọ kiếm với Trịnh Bá Nghiêm nên chỉ còn cách chặn đường đao rồi thoái hậu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người đời gọi nữ nhân là phái yếu, trời sinh họ ra với khung xương nhỏ nhắn, cơ bắp mềm mại, chẳng phải để đánh nhau. Những tạo vật mỹ miều đáng kính ấy có nhiệm vụ cao quý là sinh sản, bảo tồn nòi giống nhân loại. Chỗ thích hợp của họ là một ngôi nhà ấm cúng, một cái giường trải nệm êm, hoặc là một cái bàn thờ trên đầu đức ông chồng râu quặp. Nghĩa là trừ trường hợp giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, họ đừng nên vác tấm thân nõn nà, mềm mại của mình ra chốn đầu gươm mũi giáo. Do sự thua thiệt bẩm sinh ấy mà năm ngón tay búp măng của Tống Thụy đã không giữ nổi chuôi kiếm khi va chạm với nhát đao nặng như núi Thái của Hướng lão. Hổ khẩu nàng rách toạc, trường kiếm văng ra và gò nhũ phong bên trái bị mũi đao rạch một đường không sâu lắm. Nữ nhân quý trọng nhất là gương mặt của mình, sau đó chính là bộ ngực. Bởi thế, dẫu có là cọp cái thì Tống Thụy cũng phải kinh hoàng rú lên, vì đau thì ít mà hoảng hồn thì nhiều. Nàng tưởng rằng một chỏm ngọc phong đã bị chặt cụt, tan nát đời mỹ nữ.
Do thoái hậu quá gấp nên lưng nàng đã chạm lưng Tử Khuê. Nghe tiếng rú của sư muội, Tử Khuê kinh hãi đảo bộ quay ngoắt lại che cho nàng, đối diện ngay với Thất Hoàn Đao và Trịnh Bá Nghiêm. Chàng đâm liền năm thức như mưa xa để ngăn cản rồi trao “Diêm Vương quỷ kỳ” cho Tống Thụy sử dụng. Tống cô nương hoàn hồn, sau khi sờ lên ngực yên tâm vì núm vú hồng hồng xinh xắn vẫn còn nguyên. Nàng vừa điểm huyệt chỉ huyết, vừa vung cờ chống chọi với Dương Tố Vy ở trước mặt. Nàng ta dãn ra ngay vì sợ làm rách cờ. Thiết Đảm Hồng Nhan cao hứng tràn lên, quét rộng linh kỳ, tiến rất nhanh. Dương Tố Vy và bọn thủ hạ chẳng đủ bản lãnh đả thương người mà không làm hại đến lá cờ nên đành bó tay.
Lúc này, cục diện chiến trường có diễn biến mới. Kỹ trang chủ đã băng bó vết thương xong, cùng thứ nữ là Kỹ Lưu Tiên kéo lực lượng gia đinh ra hỗ trợ Tử Khuê. Họ đã xuất trang bằng lối sau vòng sang hướng Tây và bất ngờ đánh tập hậu phe đối phương. Gần hai trăm cây cung chia hai đợt mà buông tên với lòng căm thù, giận dữ nên đã thu hoạch không nhỏ. Có đến bảy tám chục gã thủ hạ của hai bang Chiết Mai - Bích Huyết bị trúng đòn, kêu gào thảm thiết.
Kỹ Tòng Thư là người thích săn bắn, thuật xạ tiễn rất cao cường. Kỹ gia trang lại tọa lạc đơn độc ở một vùng vắng vẻ, chung quanh là vườn cây bạt ngàn, nên ông đã chú tâm dạy nghề bắn cung cho các gia đinh. Cung tiễn là thứ vũ khí phòng thủ hoặc tấn công từ xa rất hữu hiệu. Trận này, Kỹ lão đã tổn thất một phần ba quân số, song lực lượng còn lại càng thêm kiêu dũng, vì muốn báo thù cho đồng đội. Họ là những nông dân chất phác trong vùng, sống bằng nghề chăm sóc vườn tược đã bao đời. Khi Kỹ Tòng Thư mua lại ngàn mẫu vườn này, không những tăng lương cho họ mà còn dạy võ nghệ, kiếm cung, khiến ai cũng vô cùng cảm kích. Họ rất giận dữ khi người ngoài ngang nhiên đến cướp đoạt một vật nằm trên bàn thờ nhà họ Kỹ đã mười năm. Nếu vì lá cờ kia có thể giết người kia mà phải hủy bỏ nó đi thì có khác nào cần phải thiến hết đàn ông trong thiên hạ để không còn tội cưỡng dâm. Thiện ác do lòng người chứ nào phải do vật. Họ không quen bắn vào đồng loại nên đầu trận hơi run tay, nhưng giờ thì ai nấy lạnh lùng buông từng mũi tên chính xác đến không ngờ. Kẻ đứng người quỳ, thay nhau bắn vào những kẻ hung ác đang xông đến.
Bọn đầu lĩnh hai bang Bích Huyết - Chiết Mai ỷ vào bản lĩnh cao cường cố vượt trận mưa tên, dẫn quân tiến lên. Mười mấy gã Hộ pháp, Đường chủ ấy đều là cao thủ thành danh, thừa sức dùng vũ khí đánh bạt những mũi tên không bọc sắt, bắn ra từ những cây cung nhỏ. Cung vốn có hai loại. Trường cung có cánh dài độ sải tay, bắn ra những mũi tên dài nặng, đầu bọc sắt, bay rất xa và có thể xuyên thủng giáp mỏng. Nhưng loại này đòi hỏi sức lực mạnh mẽ, thường chỉ dùng trong chiến trận. Loại thứ hai là đoản cung, cánh ngắn và mỏng hơn, tên cũng nhẹ và ít khi bọc mũi. Đoản cung bắn gần rất tốt, tiện lợi hơn trường cung. Năm xưa, mỗi kỵ binh Mông Cổ đều được trang bị cả hai loại cung này, và tài xạ tiễn của họ đã tạo nên một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng đám gia đinh Kỹ gia trang chẳng phải người Mông. Họ chỉ có thể sử dụng đoản cung và do bọn cường đạo không bao giờ mặc áo giáp nên tên của họ chẳng cần bọc mũi bằng kim loại làm gì. Vì vậy, mười bảy gã hung thần đã an toàn đến nơi, tấn công quyết liệt, khiến số cung thủ phải bỏ nghề, rút kiếm đương cự. Kỹ Tòng Thư và ái nữ là Kỹ Lưu Tiên cũng xuất kiếm.
Bọn bang chúng đằng kia bị trúng tên thương vong một sống, song cuối cùng cũng đã ào đến ngày càng đông và áp đảo được phe Kỹ gia trang. Đến nước này thì Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán không còn nhẫn nhịn được nữa. Gã chẳng thể đứng nhìn bằng hữu của phụ thân mình thảm tử. Họ Lư lúng túng nói với Trúc Lâm Tử:
- Bẩm ân sư! Đồ nhi được lệnh của gia phụ đến đây hỗ trợ cho Kỹ trang chủ. Nay ông ta đang lâm nguy, đồ nhi chẳng thể làm ngơ. Xin ân sư lượng giải cho.
Trúc Lâm Tử buồn rầu đáp:
- Nam - Bắc Thiên Tôn là bằng hữu chí thân của tiền nhiệm Chưởng môn năm phái nên bọn ta không thể can thiệp vào việc của họ. Hơn nữa, Bắc thiên tôn lại mượn cớ dùng linh kỳ để bảo vệ giang sơn, khiến năm phái càng khó ra tay. Nhưng nay Đán nhi đã nhận lệnh của cha già thì cứ hành động.
Tây Nhạc kiếm khách mừng rỡ kéo mười mấy gã huynh đệ chạy về hướng đấu trường, tiếp tay cha con Kỹ Tòng Thư. Lư Công Đán là kiếm thủ cừ khôi nên mới được xếp vào hàng “Võ lâm Ngũ tú”. Gã vung kiếm đâm liền chín thức, đẩy lùi một trong hai gã Đường chủ Chiết Mai bang đang uy hiếp Kỹ Lưu Tiên, giải tỏa áp lực cho nàng, rồi sánh vai người đẹp mà chiến đấu. Tuy không thể sánh bằng Đông Nhạc Tiên Hồ hay Thiết Đảm Hồng Nhan, song nhan sắc Kỹ Lưu Tiên cũng thuộc hàng mỹ nữ. Nếu nàng ta không có tính cả thẹn, thường tránh mặt khi khách đến chơi thì không chừng Lư Công Đán đã phải lòng rồi. Trước giờ gã chỉ thấy thấp thoáng bóng hồng chứ không tỏ tường mặt mũi. Họ Lư đang thất vọng vì đánh mất hai thần tượng là Dịch Tái Vân và Tống Thụy nên giờ đây dễ dàng xao xuyến trước một mục tiêu mới đầy hấp dẫn. Lưu Tiên không nói lời đa tạ, chỉ đỏ mặt liếc gã bằng ánh mắt đầy cảm kích, song cũng đủ khiến họ Lư nghe tâm hồn rộn rã, rạo rực. Gả bèn trổ hết bản lãnh, đả thương đối thủ của mình để khoe tài với mỹ nhân.
Sự tham chiến của Lư Công Đán và mười bảy gã cao thủ đất Nam Dương chỉ cải thiện đôi chút thế hạ phong của phe Kỹ gia trang. Nhưng may thay, Tử Khuê cùng Thiết Đảm Hồng Nhan đã thoát khỏi sự vây hãm của kẻ thù, đến được vị trí mà phe Bạch đạo đang đứng. Tống Thụy hổn hển nói:
- Kỹ trang chủ xin dâng linh kỳ cho Hội đồng Võ lâm gìn giữ.
Dứt lời, nàng trao cờ báu cho Vân Thiên Tử, Chưởng môn nhân phái Võ Đương cũng là người đứng đầu Hội đồng Võ lâm. Vân Thiên Tử vừa nhận lấy thì bọn Trịnh Bá Nghiêm chạy đến. Họ Trịnh lộ rõ vẻ nóng nảy nhưng Dương Tố Vy thì gian hoạt, nghiêng mình lại uyển chuyển nói:
- Khải bẩm Hội đồng Võ lâm ! Gia sư tuổi hạc đã cao nhưng vì gian sơn xã tắc mà ngày đêm lo lắng, buồn phiền quyết ra tay trừng trị bọn rợ Mông, bảo vệ biên thùy. Chư vị cũng là phần tử của Đại Minh, xin hãy thành toàn ý nguyện ấy của người. Gia sư sẽ vô cùng cảm kích.
Lúc này, Tử Khuê và Tống Thụy đang đứng phía sau với năm vị Chưởng môn nhân. Tử Khuê liền rỉ tai Thất Bổng Cái:
- Thạch bang chủ! Vãn bối là Vu Diệp đây. Gia nghĩa phụ Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh đã từng bảo rằng Nam - Bắc Thiên Tôn tuy già mà lòng vẫn đầy tham vọng. Vì vậy, chúng ta không thể để “Diêm Vương quỷ kỳ” lọt vào tay họ được.
Thất Bổng Cái vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, đấm vào vai Tử Khuê:
- Con bà nó! Té ra ngươi đã bái lão họ Trần làm cha nuôi nên kiếm thuật tăng tiến nhanh như vậy, khiến lão phu ngờ ngợ đoán ra mà không dám khẳng định.
Rồi lão quay sang đỡ lời Vân Thiên Tử, đối đáp với Dương Tố Vy:
- Cây cờ này oai lực phi phàm, quan hệ rất lớn đối với vận mệnh Võ Lâm, nên bọn lão phu chẳng thể khinh suất giao cho cô nương được. Nếu quả thực là lệnh sư có tâm nguyện ấy thì cứ khải tấu lên hoàng thượng, xin một đạo Thánh chỉ. Lúc đó, Hội đồng Võ lâm sẽ cung kính trao bảo vật. Còn giờ đây, cờ báu sẽ được mang về núi Võ Đương cất giữ, theo đúng ý nguyện của chủ nó là Kỹ trang chủ.
Lúc này, Kỹ Tòng Thư và thủ hạ đã rút về đến cổng trang và phe địch cũng chẳng truy đánh vì có mục tiêu mới là phe Bạch đạo. Kỹ trang chủ nghe được câu nói của Thất Bổng Cái liền cao giọng xác nhận:
- Thạch bang chủ nói chí phải.
Dương Tố Vy tức tối trở giọng đe dọa các Chưởng môn nhân:
- Chư vị làm thế là khinh thường một bậc tiền bối đức cao vọng trọng, e rằng gia sư sẽ giận đấy.
Toàn Chân trưởng giáo Tùng Xuân Tử cười nhạt đáp:
- Nữ thí chủ đừng giở trò “cáo mượn oai hùm”. Các phái vì chút nghĩa tình của tiền nhân mà nể trọng lệnh sư chứ chẳng hề sợ hãi. Nay thí chủ chỉ bằng lời nói suông mà muốn Hội đồng Võ lâm phải phải ngoan ngoãn trao bảo vật hay sao?
Trịnh Bá Nghiêm, Bang chủ Bích Huyết bang là người nóng nảy, hùng hổ quát:
- Được! Để xem phái Võ Đương sẽ giữ Quỷ kỳ được bao lâu, khi Song Tôn giá lâm hỏi tội.
Lời đe dọa hàm ý xem thường này đã làm cho đệ tử phái Võ Đương tức giận, nhưng chỉ mình Linh Tuệ thì không. Nàng cười khúc khích rằng:
- Hai lão ấy sẽ không ra tay! Họ đã già khú để mà lấy vợ trẻ trung thì sức đâu đánh đấm nữa.
Bá Nghiêm giật bắn mình, buột miệng:
- Sao ngươi lại biết?
Linh Tuệ vui vẻ đáp:
- Năm ngoái tiểu đạo về Sơn Tây thăm quê, có đi ngang Đại Bạch sơn, tình cờ nghe bách tính đồn đãi việc vị lão tiên họ Phùng, tuổi đã quá tám mươi mà còn mê gái đẹp. Tiểu đạo liền suy rằng Nam Thiên Tôn cũng thế.
Hai trăm đệ tử Bạch đạo phá lên cười khoái trá. Riêng năm vị Chưởng môn nhìn nhau lo lắng, hiểu rằng hiện tượng kia chẳng hề đơn giản. Sự thoái hóa tư cách của hai lão bất tử nọ đã phần nào giải thích được nguyên nhân vì sao họ để cho đồ đệ mình khai bang lập phái. Hội đồng Võ lâm càng tin lời Tử Khuê, quyết không trao “Diêm Vương quỷ kỳ” cho họ. Đại Giác thiền sư, Phương trượng Thiếu Lâm tự nói với giọng hiền hòa nhưng kiên quyết:
- A Di Đà Phật. Nhị vị thí chủ hãy về bẩm báo lại với Song tôn như thế. Nếu có Thánh chỉ thì bọn lão nạp sẽ dâng cờ.
Trời đã nhá nhem tối nên không ai để ý thấy một cánh chim khổng lồ đang lơ lửng trên không trung và bất ngờ lao vút xuống từ hướng tây, tức phía sau phe Bạch đạo. Trên lưng chim là một bóng người nhỏ thó như một đứa trẻ lên mười. Lúc con chim lượn đến vị trí trên đầu các Chưởng môn nhân, người ấy khéo léo điều khiển cây nhuyễn tiên dài ngoằng quấn lấy cây “Diêm Vương quỷ kỳ”, đang nằm trong tay Vân Thiên Tử. Thủ pháp của hắn cực kỳ chuẩn xác và nhanh đến mức Chưởng môn nhân phái Võ Đương không sao phản ứng kịp, đừng nói chi đến những người khác.
Khi mọi người hiểu ra có kẻ cướp cờ, la hét thất thanh thì cánh chim đã bay vút lên cao, chỉ còn lại tiếng cười ngạo nghễ. Thất Bổng Cái tức tối chửi vang:
- Tổ cha cái lão Phi Điểu Thần Ma. Không ngờ lão đốn mạt ấy còn sống đến đây cướp đoạt linh kỳ.
Vân Thiên Tử bẽ bàng nói lời hối lỗi:
- Bần đạo bất tài, để cho bảo vật lọt vào tay kẻ ác, lòng vô cùng hổ thẹn. Sau này Phi Điểu Thần Ma dùng cờ báu mà tàn phá sinh linh thì bần đạo chỉ còn cách liều chết với y để trả nợ cùng Võ Lâm.
Dương Tố Vy hậm hực trách cứ:
- Nếu lão sớm đưa ngay linh kỳ cho ta thì làm gì lão quỷ Lục Doãn Ngôn cướp được. Tội lỗi tày trời ấy lão hãy cố mà gánh lấy.
Dứt lời, nàng cùng Trịnh Bá Nghiêm ra lệnh rút quân vì ở lại cũng vô ích.
Ở đây các Chưởng môn nói lời an ủi Vân Thiên Tử song không sao làm cho ông vơi đi niềm hối hận. Nhưng Tử Khuê đã cải thiện được tình hình, chàng từ tốn nói:
- Theo thiển ý của vãn bối thì việc Phi Điểu Thần Ma đoạt cờ có cái hay của nó. Lục Doãn Ngôn tính khí thất thường, cổ quái nhưng không phải là kẻ gian xảo, nhiều tham vọng. Tiên sư từng nhận xét rằng Phi Điểu Thần Ma đáng thương hơn là đáng ghét. Nay dẫu cho ông ta có linh kỳ trong tay thì chắc cũng để dương oai cùng Võ Lâm chứ không dùng với mục đích cướp bóc hay tranh hùng tranh bá. Nhưng ngược lại, nếu Nam - Bắc Thiên Tôn đoạt được bảo vật thì hậu quả khó lường. Gia nghĩa phụ bảo rằng hai người ấy là những kẻ đạo đức giả, nhờ khéo che giấu bản chất tham dục mà được Võ Lâm kính trọng.
Kỹ trang chủ cũng đã đến nơi, vui vẻ mời cả lực lượng Bạch đạo vào trong dùng cơm và nghỉ ngơi. Trời đã tối hẳn, ai nấy đều đói meo và nhớp nháp nên nhận lời ngay.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Sáng hôm sau, quần hùng rời Kỷ gia trang, chỉ còn lại Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan. Họ ở thêm bốn ngày nữa mới lên đường.
Kỹ Tòng Thư lưu luyến mãi và hứa với cháu trai rằng sẽ đi Hứa Xương ngay khi lành vết thương. Ông nóng lòng muốn gặp lại đứa em gái xa cách bao năm. Ông sẽ đích thân đến thăm Quách gia trang trước để chứng tỏ rằng mình chẳng hề oán hận Kỹ Thanh Lam. Không những thế, Tòng Thư còn muốn định cư ở Hứa Xương để anh em được gần gũi nhau. Ngàn mẫu vườn ở đây ông sẽ bán đi hai phần, phần còn lại tặng cho bọn đệ tử, kẻ chết được nhiều hơn người còn sống.
Hai người đến Dụ Châu thì trời đã xế chiều, có đi tiếp cũng chẳng về kịp Nghiệp thành. Họ ghé vào quán trọ trong thành nghỉ ngơi. Sau trận chiến tại Kỹ gia trang, thanh danh Hàn Thiếu Lăng đã nổi như cồn, trước tiên là ở cùng đất phía Nam tỉnh Hà Nam này. Và chắc chắn rằng tiếng tăm ấy sẽ dần lan tỏa khắp võ lâm theo bước chân của những người đã chứng kiến trận chiến ấy. Họ Hàn lần lượt đả thương Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn, Bang chủ Bích Huyết bang Trịnh Bá Nghiêm và Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quang bằng chỉ một chiêu. Chiến tích ấy quả là vô tiền khoáng hậu, oanh liệt phi thường. Người ta đã mau mắn tặng cho Hàn Thiếu Lăng một mỹ hiệu là Cầu Nhiêm đại hiệp (Đại hiệp rậm râu). Thiết Đảm Hồng Nhan, kẻ luôn sát cánh chiến đấu bên cạnh ngôi sao mới, cũng được ca ngợi và đánh giá rất cao.
Nhân vật nổi tiếng thứ ba là Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, kẻ đã cướp được “Diêm Vương quỷ kỳ” trước mặt Hội đồng Võ lâm. Thiên hạ còn rỉ tai nhau một tin đồn là Chiết Mai bang cùng Bích Huyết bang đã trao giải thưởng ba ngàn lượng vàng cho bất cứ ai cáo giác chỗ trú ẩn của Thần Ma.
Nhưng ít người ham hố số vàng ấy vì lão chết toi họ Lục di chuyển trên không trung, biết đâu mà lần.
Thanh danh là chiếc áo lộng lẫy nhưng cũng mang đến nhiều phiền toái cho người quân tử, chỉ những kẻ tiểu nhân mới đắc ý khi nổi tiếng và lợi dụng thanh danh để trục lợi.
Vì còn trẻ nên lúc đầu Tử Khuê cũng rất khoan khoái khi nghe mọi người ca tụng mình. Nhưng trên đoạn đường từ Báo Bình đến Dụ Châu, do chàng đã phải dừng cương ngựa hàng chục lần để đáp lễ sự tôn sùng của khách võ lâm liền thức ngộ ra rằng mình không thích hợp với thanh danh. Chàng ngượng ngùng lắng nghe những câu tán dương sáo rỗng và thầm hổ thẹn xiết bao khi được gọi là “Võ Lâm đệ nhất cao thủ”, “Thiên hạ đệ nhất kiếm”... Chàng càng bối rối khi Tống Thụy đứng gần đấy cứ nhìn rồi tủm tỉm cười. Cho nên giờ đây, hai người cố tình tìm một khách sạn sang trọng, đắt tiền nhất, nơi mà khách giang hồ ít khi dám bén mảng tới. Xương Vinh đại lữ điếm là một nơi như thế chỉ dành cho bậc phú quý hay những lái buôn lắm vàng nhiều bạc.
Gương mặt râu ria oai vệ của Tử Khuê đã khiến lão chưởng quỹ già chột dạ. Lão phân vân không hiểu hai kẻ mang gươm này vào đây ở trọ với mục đích gì? Nhưng chợt nhớ ra rằng mình đã biếu xén hậu hĩnh cho Tri huyện Dụ Châu hàng tháng, nên đêm đêm có quân binh túc trực bên ngoài, lão an tâm phúc đáp:
- Bẩm đại gia và phu nhân! Bổn điếm vẫn còn một phòng thượng hạng rộng rãi và thoáng mát, hy vọng nhị vị hài lòng.
Tống Thụy thoáng chau mặt nhưng không cải chính. Nàng gật đầu và dặn thêm một mâm cơm cùng vò rượu Thiệu Hưng lâu năm. Lão chưởng quỹ sai tiểu nhị đưa khách lên phòng trên lầu, rồi cắm cúi ghi chép tên họ hai kẻ khả nghi vào sổ. Lão giữ luôn thẻ Đinh của họ nên chẳng sợ bị quỵt tiền.
Dù là phòng thượng hạng thì cũng chỉ có một chiếc giường, Tử Khuê ngao ngán thầm nghĩ đêm nay mình sẽ phải ngủ trên trường kỷ hoặc sàn nhà. Chàng rất thương mến Tống Thụy song vẫn chưa đến mức quyết tâm lấy nàng làm vợ. Mẹ chàng là người chán ghét chế độ đa thê, thường dạy rằng: “Nam nhân nhiều vợ sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực. Do đó, trừ phi chính thất không sanh được con trai nối dõi tông đường. Khuê nhi chớ nên đa mang”. Lý do thứ hai ít quan trọng hơn là vì Thiết Đảm Hồng Nhan lớn hơn chàng bốn tuổi. Kỹ nương cũng không thích điều ấy. Tuổi xuân của nữ nhân qua mau hơn nam nhân, nhan sắc tàn phai theo từng đứa con, và đến một lúc nào đó vợ chồng sẽ như đũa lệch khó so, người đàn ông lại nghĩ đến chuyện nạp thiếp. Chính vì những nguyên nhân ấy mà Tử Khuê đã chấp nhận từ hôn Đông Nhạc Tiên Hồ, dù lòng cũng tiêng tiếc. Tuy Thái Vân chỉ như tượng đá nhưng lại là pho tượng đẹp hiếm có trên đời.
Tối hôm ấy, hai người tĩnh tọa luyện khí, Tử Khuê có công lực thâm hậu hơn nên xả công hơi trễ. Lúc mở mắt thì chàng thấy Tống Thụy đã giành lấy chiếc trường kỷ, nhường giường cho mình. Tử Khuê nói mãi chẳng được liền xách gối xuống sàn gỗ mà ngủ. Hai người trằn trọc một lúc lâu rồi cũng thiếp đi vì mệt mỏi. Cưỡi ngựa đường dài là một việc cực nhọc, tổn hao nhiều sức lực, cơ đùi, cơ lưng đều mỏi rời. Cuối canh ba, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng nghe gan bàn chân nhột nhạt, thức giấc mở mắt ra xem. Nàng giật bắn mình khi thấy một bóng ma trắng toát, tóc buông xõa, mặt mũi đầy máu, lưỡi thè ra dài cả gang tay. Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn tọa đăng mù mù, cảnh tượng ấy càng bội phần đáng sợ. Ma quỷ là hiện tượng siêu nhiên nằm ngoài sự hiểu biết của lý trí lại hiếm khi gặp được, nên con người luôn khiếp sợ, nhất là nữ nhân. Thiết Đảm Hồng Nhan to gan lớn mật, sẵn sàng đối mặt với cả cái chết nhưng cũng không bình tĩnh nổi trong trường hợp này. Sợ ma, sợ rắn và bóng tối là bản năng của đàn bà. Tống Thụy hồn phi phách tán, rú lên rồi nhảy vào đến chỗ Tử Khuê, chui vào chăn, ôm chặt chàng mà run như cầy sấy, miệng lắp bắp:
- Quỷ! Có quỷ!
Tử Khuê ngồi bật dậy ngó quanh rồi vỗ về, trấn an:
- Ma quỷ nào đáng sợ. Ta đã từng gặp qua rồi, nàng không nhớ sao!
Tống Thụy vẫn chưa hoàn hồn, kéo chàng nằm xuống rồi rúc vào nách. Gần khắc sau nàng đã hết sợ, bắt đầu biết hổ thẹn khi ôm ấp Tử Khuê. Nhưng nàng không sao buông ra được nữa, tâm thức bị xâm chiếm hoàn toàn bởi ý niệm khát khao được ở mãi bên chàng. Đây chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời mà nàng tìm kiếm bao năm. Tử Khuê như cây sồi cao lớn, vững chắc để nàng nương tựa suốt đời. Tống Thụy suy nghĩ miên man, hiểu rằng mình đã yêu say đắm chàng trai anh hùng cái thế và trung hậu này. Ngoài chàng ra, chẳng còn nam nhân nào khác trong thiên hạ xứng đáng để nàng trao thân gửi phận. Khi đã xác định được tình cảm, Tống Thụy bớt băn khoăn về việc đụng chạm xác thân, đắm chìm trong tâm trạng của kẻ tìm được tình yêu. Nàng là người trọng tình cảm lứa đôi thơ mộng nên nhẹ phần dục tính, dẫu có rạo rực cũng không nghĩ đến chuyện hiến dâng.
Ngược lại Tử Khuê đang trong thời kỳ phát dục mạnh mẽ nên cơ thể rất nhạy cảm với mùi hương kiều mỵ và sự mềm mại, ấm nóng của da thịt mỹ nhân. Chàng cắn răng chế ngự lửa lòng, nằm im như tượng gỗ, thao thức đến gần sáng mới ngủ được.
Thực ra, Thiết Đàm Hồng Nhan cũng vậy. nàng không ngủ được vì quá hạnh phúc và vì một chút nghi hoặc, giận hờn. Tuy nàng rất khâm phục tư cách quân tử của chàng song lại tự hỏi:
- Phải chăng Tử Khuê không yêu ta nên mới trơ ra như thế kia? Đáng lẽ chàng phải ôm ta hoặc hôn hít vài cái để biểu lộ tình cảm chứ?
Do không nắm chắc được tình cảm đối phương nên Tống Thụy khá phân vân, quyết định giữ kín nỗi lòng, chờ Tử Khuê tỏ tình trước. Sáng ra, Thiết Đảm Hồng Nhan đã toại nguyện vì Tử Khuê say ngủ ôm nàng như ôm gối dài, vô cùng thân mật. Thiết Đảm Hồng Nhan khoan khoái hưởng thụ một lát rồi cựa quậy khiến Tử Khuê thức giấc. Chàng hổ thẹn vì tư thế nằm sỗ sàng của mình liền ngõ lời tạ lỗi. Tống Thụy cười mát, hững hờ đáp:
- Sư huynh chớ lo. Tiểu muội chẳng vì việc đêm qua mà bắt huynh phải lấy tiểu muội đâu.
Đàn bà là thế đấy, tuy đã yêu chết mê chết mệt mà ngoài mặt cứ vẫn kiêu kỳ.
Dùng điểm tâm xong, hai người rời thành Dụ Châu. Họ chẳng ghé thăm Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán vì mới gặp mấy hôm trước. Chiều hôm ấy, Tử Khuê và Tống Thụy về đến Nghiệp Thành. Tuy rất vui mừng nhưng Tống Nhiên và Ngụy Công Tử không giấu được vẻ lo âu. Chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm nghiêm nghị bảo Tử Khuê:
- Khuê nhi! Hiện nay ngươi đã trở thành mục tiêu săn đuổi của rất nhiều người, tính mạng đang bị đe dọa trên từng dặm đường phía trước. Hôm qua, lão phu được một bằng hữu trong giới Hắc Đạo cho biết Âu Dương Mẫn đã ngấm ngầm bắn tin với Hoạch Đầu hội, tổ chức giết mướn đáng sợ nhất võ lâm rằng sẽ mua thủ cấp Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng với giá vạn lượng vàng ròng. Hoạch Đầu hội đã nhận lời và đang triển khai nhân thủ truy tìm ngươi. Mặt khác, cả Chiết Mai bang và Bích Huyết bang cũng cử nhân thủ bám theo để giết ngươi cho bằng được.
Tử Khuê nghe lão nói thế nên xanh mặt. Chàng được sư phụ và mẫu thân dặn dò rất kỹ câu “Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng”, nên giờ đây rất lo lắng. Thiết Đảm Hồng Nhan phì cười chế giễu:
- Té ra Cầu Nhiêm đại hiệp, một kẻ thần dũng tuyệt luân, lại có lá gan hơi nhỏ.
Tử Khuê rầu rĩ thú nhận:
- Đúng là ta có sợ thực. Đối phương dùng thủ đoạn đánh lén thì dẫu Đại La Thiên Tiên cũng khó toàn mạng, huống hồ gì ta.
Ngụy Công Tử Tề Thúc Như tủm tỉm gật gù khen:
- Khuê đệ còn trẻ mà không hiếu thắng, cao ngạo thì quả đáng phục. Ngươi chớ lo, ta đã có sẵn diệu kế giúp ngươi thoát khỏi đại họa này.
Tử Khuê mừng rỡ vái tạ:
- Thế thì hay quá. Mong Tề đại ca chỉ giáo cho tiểu đệ.
Ngụy Công Tử đắc ý trình bày:
-Tề mỗ đã chuẩn bị cho ngươi một lai lịch giả rất chu đáo, cộng với tài hóa trang của ta thì dẫu kẻ thù đứng trước mặt ngươi cũng không nhận ra.
Thúc Như dừng lời, nâng chén rượu mời cả bàn uống cạn rồi mới nói tiếp:
- Trong võ lâm đương đại có một cao thủ độc hành, tuổi trung niên, tên Bàng Nguyên Hối, biệt hiệu là Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ Bàng tính tình cô độc, lạnh lùng tự xem mình đứng giữa chính tà, hành động theo ý thích bản thân, lúc thiện, lúc ác, không theo quy củ nào cả. Vóc dáng và dung mạo Bàng Nguyên Hối cũng na ná như Khuê đệ nên hóa thân không khó.
Tử Khuê nhăn mặt:
- Nhưng lỡ mà tiểu đệ xui xẻo đến mức chạm mặt Thiết Thủ Thần Tiêu thực thì biết làm sao?
Ngụy Công Tử mỉm cười mà ánh mắt bi thương:
- Ngươi cứ yên tâm. Họ Bàng đã chết cách nay hai năm, do bọn ta tự tay chôn cất một cách bí mật, chẳng ai biết việc ấy.
Tống Nhiên thấy gã nghẹn lời liền kể thay:
- Nguyên Hối và Tề Tứ đệ vốn là bạn tri âm tri kỷ. Một đêm nọ, họ Bàng mang thương tích trầm trọng chạy đến Tề gia trang và chết ở đấy. Do kẻ thù của Thiết Thủ Thần Tiêu rất lợi hại nên Thúc Như phải âm thầm chôn bạn trong vườn nhà, không mộ chí.
Thiết Đảm Hồng Nhan hiếu kỳ hỏi:
- Bẩm phụ thân! Chẳng hay, hung thủ là nhân vật nào mà đáng sợ như thế? Và vì sao Bàng đại thúc lại có thù oán với họ?
Tống lão vuốt râu tư lự:
- Võ lâm chẳng phải chỉ gồm hai phe Hắc - Bạch mà còn có những cao thủ, dị nhân, những môn phái thần bí nữa. Trong số ấy, Lôi Đình thần cung là lực lượng đáng gờm nhất. Gần ba mươi năm trước, Lôi Đình thần cung đã một lần giương oai làm chấn động võ lâm. Lôi Đình cung chủ Trác Ngạn Chi xuất cung lần lượt so tài với các phái lớn, các đại cao thủ trong thiên hạ. Với hai pho “Lôi Đình kiếm pháp” và “Lôi Đình thần chưởng”, Trác cung chủ đả bại và đánh trọng thương rất nhiều tinh hoa của võ lâm Trung Nguyên. Cho rằng võ công của mình là vô địch nên Lôi Đình Đế Quân đã trúng kế khích tướng của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh chấp nhận xa luân chiến với Tam Tôn. Quả nhiên, Đế Quân đả bại được Nam Thiên Tôn rồi Bắc Thiên Tôn, nhưng rốt cuộc, vì đuối sức nên lão ta đã trúng một kiếm của Trung Thiên Tôn. Vết thương không nặng song Đế Quân phải theo lời giao ước mà hồi cung. Khổ thay, Thiết Thủ Thần Tiêu lại tình cờ lạc đến Lôi Đình thần cung, nơi mà chẳng ai biết chỗ. Và không hiểu Nguyên Hối đã phạm lỗi gì mà bị Đế Quân cho thủ hạ truy sát đến tận Nghiệp Thành này ? Họ Bàng đã giấu kín ẩn tình ấy, chẳng chịu tiết lộ cho Thúc Như nghe.
Nghe xong, Tử Khuê đau khổ hỏi lại:
- Bẩm Tống lão gia. Nếu thế thì việc tiểu đệ hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu có khác gì “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Thoát được Hoạch Đầu hội mà đụng nhằm Lôi Đình thần cung không chừng còn chết sớm hơn.
Ngụy Công Tử trừng mắt trách chàng:
- Sao ngươi ngốc thế. Chẳng lẽ bọn ta không biết điều ấy? Thực ra năm ngoái chẳng hiểu vì sao Lôi Đình thần cung lại nhờ Cái bang loan tin khắp nơi rằng họ đã bãi bỏ lệnh truy nã Bàng Nguyên Hối. Nghĩa là ngươi rất an toàn.
Tử Khuê thở phào ngượng nghịu nói:
- Tiểu đệ quả hồ đồ. Mong Tề huynh lượng thứ cho.
Quá trưa ngày mồng chín tháng năm, Tử Khuê đến Nhưỡng Thành, chỉ còn cách Hứa Xương độ hai ngày đường nữa. Chàng đói bụng nên ghé vào Tịch hà đệ nhất tửu quán dùng cơm. Do sông Tịch chảy ngang ngoại thành phía Nam nên chủ quán lấy tên này, hàm ý rằng tiệm mình đứng nhất trong cả vùng lưu vự sông Tịch Hà.
Nhưỡng Thành nằm ở giao lộ của năm con đường, tỏa đi năm hướng nên có phần phồn vinh hơn Nghiệp thành. Và Tịch Hà tửu quán cũng xứng danh đệ nhất vì cơ ngơi đồ sộ, tráng lệ, rộng rãi. Bàn ghế ở đây toàn bằng danh mộc đen bóng. Mặt bàn phủ vải xanh, còn ghế thì là loại ghế dựa. Phạn điếm thuần túy thì dùng ghế đôn, còn tửu quán luôn luôn bày ghế dựa. Lý do là vì các bợm nhậu thường ngồi lè nhè hàng mấy canh giờ, thắt lưng mỏi rời, cần có chỗ nương tựa. Bàn bát tiên của Trung Hoa lúc đầu có mặt hình vuông nhưng sau đã biến thể thêm dạng tròn. Mặt bàn hình tròn vừa thẩm mỹ lại vừa tăng thêm diện tích, phòng khí số khách là chín hoặc mười chứ không phải tám. Tửu khách luôn muốn được ngồi chung với bạn nhậu tâm đầu ý hợp, dẫu chật một chút cũng chẳng sao.
Tịch Hà đệ nhất tửu điếm có hai tầng, tổng cộng một trăm bốn chục bàn, đều là loại mặt tròn cả. Tầng trệt đã chật ních, gã tiểu nhị liền dẫn Tử Khuê lên lầu. Chàng ngồi xuống, lột nón rộng vành, thận trọng quan sát các bàn chung quanh, và giật mình khi nhận ra Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim cùng hai ả nữ tỳ. Cả ba đều lặng lẽ ăn uống, chẳng nói cười láu táu như các nữ nhân thường làm. Cổ nhân đã nói: “Ba người đàn bà đủ họp thành chợ”, thế mà họ im như thóc chứng tỏ tâm trạng rất nặng nề. Nhất là Trình Thiên Kim, hoa dung sầu héo, ánh mắt buồn vời vợi, cứ nâng chén nốc tràn chẳng động đến thức nhắm. Da mặt nàng không đỏ mà lại hơi tái nên nét muộn phiền càng lộ rõ. Tử Khuê không sao rời mắt khỏi gương mặt đẹp ai oán ấy và lòng choáng ngợp bởi một tình cảm lạ kỳ. Bóng Thiên Kim luôn vương vấn trong hồn nhưng Tử Khuê vì hổ thẹn mà cứ cố quên đi. Giờ gặp lại cố nhân chàng chợt thức ngộ rằng mình đã hoan hỉ phi thường, chỉ muốn bước sang cùng nàng trò chuyện. Tất nhiên, Tử Khuê rất xót xa khi thấy Thiên Kim buồn bã đến thế. Chàng muốn biết nguyên do và làm người an ủi. May thay, ả tỳ nữ áo xanh, mắt một mí, đã lên tiếng giúp Tử Khuê hiểu ra cớ sự. Ả dịu dàng an ủi Thiên Kim:
- Tiểu thư chớ nên quá bi quan. Tuy đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương không biết Vu Diệp chân nhân là ai song tiểu tỳ tin rằng chàng ta chẳng phải kẻ gian trá. Có lẽ chàng mới nhập môn và mới rời Long Hổ sơn lần đầu nên bọn đạo sĩ Thiên Sư ở các địa phương khác không thể biết được. Chúng ta cứ đi thẳng đến Thượng Thanh cung ở Giang Tây, hỏi thăm Trương Thiên Sư tất cả rõ thực.
Trái tim Tử Khuê đập loạn như trống trận vì hiểu rằng Thiên Kim đã đến Hứa Xương tìm mình, vì không thấy nên thất vọng. Chàng chưa kịp nghĩ thêm thì nghe mỹ nhân nói:
- Tiểu Trinh! Ta vì bệnh tình của thân mẫu mà khởi hành quá trễ, đã tự nhủ rằng nếu đến Hứa Xương không gặp thì sẽ đi Long Hổ sơn tìm chàng. Ta chỉ lo lắng một điều là vì sao chàng không có mặt ở Hứa Xương như đã nói. Ta tin chàng nói thật nhưng lại sợ Vu Diệp ngộ nạn dọc đường nên không sao cứu được.
Ả tỳ nữ thứ hai nàng mặc áo xanh, đúng quy định của hạng nô bộc, song dung mạo khác ả kia ở chỗ mắt to và răng thì khấp khểnh. Ả ngập ngừng xen vào:
- Nô tỳ chỉ e ngại một việc là liệu khi gặp nhau chàng ta có chịu tiếp thu ân tình của tiểu thư hay không?
Thiên Kim thở dài đáp:
- Tiểu Huệ nói chẳng sai. Nhưng ta tin rằng mối chân tình này có thể khiến chàng thấu hiểu và thương xót.
Tử Khuê bàng hoàng, ngơ ngẩn khi biết Nữ Hầu tước yêu thương mình tha thiết. Lạ thay, chàng lập tức cảm thấy hạnh phúc vì điều ấy, và tự nhủ:
- Ta lấy Trình tiểu thư làm vợ thì cũng tốt chứ sao. Nhưng phải xem thử cái tính nóng như Trương Phí của nàng ta có sửa đổi được hay không?
Lúc này, bất chợt Thiên Kim quay mặt nhìn về hướng Tây, bắt gặp ánh mắt trân trối, sỗ sàng của Tử Khuê. Nhưng thay vì nổi tam bành, Thiên Kim chỉ khẽ cau đôi mày liễu, chẳng nói gì. Tử Khuê rất hài lòng trước phong thái đoan trang, thùy mị ấy, vừa ăn vừa suy nghĩ cách làm quen và đưa nàng về Hứa Xương. Chàng định ăm chén thứ ba thì bên bàn của Thiên Kim đã xảy ra sự cố. Có năm người mặc áo tơi bằng vải sơn màu xanh, đầu đội nón tre sùm sụp, xăm xăm bước đến, vậy chặt bàn của chủ tớ Trình Thiên Kim. Ba nữ nhân biến sắc đứng phắt dậy, tay đặt vào đốc gươm, sẵn sàng đối phó. Thiên Kim điềm đạm hỏi:
- Ngũ vị là cao nhân phương nào và đến tìm ta có việc gì?
Một trong năm người kỳ dị ấy cười rộ, ngạo nghễ đáp:
- Chẳng lẽ kiến văn của Trình tiểu thư lại nông cạn đến mức nhìn không ra lai lịch của bọn ta sao? Xoa Lạp cốc mới bế môn có mấy năm đã bị lãng quên, lòng người quả là đen bạc.
Xoa nghĩa là áo tơi để che mưa, còn lạp là nón tre rộng vành. Hèn chi năm người này trang bị đủ hai thứ ấy, dù trời chẳng hề mưa. Tử Khuê từng nghe sư phụ nhắc đến Xoa Lạp cốc, một trong những môn phái cổ quái nhất võ lân. Cũng như đối với Lôi Đình thần cung, người giang hồ chẳng hề biết địa điểm của Xoa Lạp bí cốc. Người ta chỉ có thể hiểu đại khái rằng Lôi Đình thần cung tọa lạc đâu đó ở vùng Thiểm Bắc, còn Xoa Lạp bí cốc thì nằm trong tỉnh Sơn Tây. Xoa Lạp cốc tồn tại đã gần trăm năm song thỉnh thoảng mới xuất hiện trên chốn giang hồ. Tuy nhiên, môn nhân của họ có bản lĩnh rất cao cường, thủ đoạn lại tàn nhẫn phi thường, từng khiến người võ lâm phải rùng mình khi nhớ đến chuyện xưa. Điển hình nhất là vụ Xoa Lạp cốc tiêu diệt Thạch Long trại ở vùng cực Bắc tỉnh Hà Nam, nơi giáp ranh với Sơn Tây. Toàn bộ ba trăm lẻ tám người của tổ chức này đều bị giết sạch, không chừa cả đàn bà lẫn trẻ con. Tuy chẳng có ai sống sót để tố cáo nhưng thiên hạ đều biết Xoa Lạp cốc là hung thủ. Trước đó nửa tháng, Thạch Long trại chủ Hạ Tường Khánh vì tranh giành một ả kỹ nữ ở An Dương mà chặt đứt bàn tay của một khách mua hoa. Nào ngờ gã ta lại là thủ hạ Xoa Lạp cốc và tuyên bố sẽ trả thù. Việc này được nhiều người chứng kiến nên sau khi huyết án xảy ra, lai lịch hung thủ lập tức được xác nhận.
Nhắc lại, nữ Hầu tước Trình Thiên Kim nghe đối phương xưng là người Xoa Lạp cốc thì cũng chẳng hề sợ hãi. Nàng đã uống khá nhiều rượu nên dũng khí ngất trời, không xem đám tơi nón kia ra gì. Thiên Kim thản nhiên hỏi lại:
- Chư vị chưa nói lý do đến tìm bản cô nương?
Kẻ lên tiếng lúc nãy là một lão nhân râu ngắn, mặt mũi âm trầm, trắng bệch, tuổi độ quá sáu mươi. Lão ta cười nhạt đáp:
- Mấy ngày trước, Thiếu cốc chủ bổn cốc tình cờ gặp tiểu thư ở Hứa Xương. Người sinh lòng ái mộ nên sai bọn lão phu đến rước nàng đi du ngoạn Xoa Lạp cốc một chuyến.
Tử Khuê và toàn bộ thực khách tưởng rằng vị nữ Hầu tước nổi tiếng nóng nảy kia sẽ chửi bới hoặc rút gươm chém cái kẻ đã buông ra lời đề nghị khiếm nhã. Nào ngờ, Thiên Kim mỉm cười gật đầu:
- Hay lắm! Bổn cô nương từ lâu đã ngưỡng mộ oai danh của Xoa Lạp bí cốc, nay có dịp thăm thú thì quả là mãn nguyện bình sinh. Phiền chư vị dẫn đường cho.
Nói xong, nàng hớn hở gọi tiểu nhị tính tiền. Năm sứ giả của Xoa Lạp cốc ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ sứ mạng của mình tưởng khó khăn ai dè lại hoàn thành một cách dễ dàng như thế. Lão râu ngắn có vẻ là trưởng toán nên luôn đứng ra phát biểu, lão ta hào phóng nói:
- Trình tiểu thư là thượng khách của bổn cốc, xin cứ để lão phu vinh hạnh thanh toán bữa cơm này.
Rồi lão loay hoay móc túi bạc ra để trả cho gã tiểu nhị. Đúng lúc hai tay lão bận rộn, Trình Thiên Kim rút kiếm đâm liền một nhát thần tốc xuyên thủng ngực đối phương. Hai ả tỳ nữ Tiểu Trinh, Tiểu Huệ cũng xuất thủ gần như đồng thời với chủ nhân. Chúng kề cận Thiên Kim đã mười năm nên hiểu rõ ý này đến mức chẳng cần phải dùng lời hay dấu hiệu. Khi Thiên Kim bạt kiếm thì hai ả cũng rút gươm thọc vào người hai lão Xoa Lạp cốc gần mình nhất. Nhưng do bản kĩnh không cao, động tác chậm chạp nên họ chẳng đả thương được ai, chỉ dọa cho hai lão ấy khiếp vía nhảy lùi.
Mảng vòng vây phía nam đã vỡ, Thiên Kim cùng hai tỳ nữ lao vút về hướng cầu thang mà đào tẩu. Trước đó, Thiên Kim còn vung cước hất ngã chiếc bàn bát tiên để cản đường đối phương. Lão sứ giả bị thương gục ngã nhưng vẫn giận dữ quát:
- Đuổi theo bằm xác chúng cho ta!
Một lão ở lại chăm sóc thương thế cho nạn nhân, ba lão kia chạy xuống lầu. Thực khách nhốn nháo như ong vỡ tổ, một số hiếu kỳ ồ ạt kéo nhau ra lan can để xem Trình Thiên Kim có thoát được hay không. Thì ra nàng ta và hai nữ tỳ xinh xắn đã bị chặn lại ở sân trước bởi hai gã tơi nón khác. Như vậy là Xoa Lạp cốc cử đến đây tổng cộng bảy thủ hạ. Hai kẻ chặn cổng tuổi chỉ độ tứ tuần song võ công rất cao cường, chỉ bằng một chiêu liên thủ họ đã chặn đứng được chủ tớ Thiên Kim. Ba nữ nhân hợp sức tấn công quyết liệt mà không sao mở được sinh lộ để đào vong, cuối cùng thì ba lão già trên lầu cũng đã xuống tới, vây chặt họ lại.
Do oán hận Thiên Kim dùng ngụy kế đả thương thượng cấp của mình nên ba lão này xuất thủ cực kỳ độc ác. Chỉ trong chớp mắt bằng một đòn hợp công, họ đã đánh bay thanh trường kiếm trên tay Thiên Kim và một lão xấn tới để kết liễu đời nàng. Thiên Kim mất vũ khí, chỉ còn cách thoái hậu và chờ chết vì lưng đã chạm phải Tiểu Huệ. Trong lúc tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc thì trên không trung có bóng người sa xuống, đứng chắn trước mặt nàng và vung khí giới đánh chặn lão sứ giả hung hăng kia. Quái nhân là một hán tử tuổi độ bốn mươi. Mặc võ phục trắng, thân thể lực lưỡng. Dung mạo của gã đáng lẽ cũng khá anh tuấn nếu đôi lông mày sâu róm kia không quá rậm và thô kệch. Lại thêm hai mảng lông đen ở dưới mắt, kéo dài từ chân sống mũi đến hết gò má, trông thật quái dị. Ngoài râu mép, gã còn có túm râu dê dưới cằm rất khó coi.
Đấy chính là nhan sắc hiện nay của Tử Khuê. Nhờ thứ thuốc mọc lông thần diệu của Cửu Hoa Thánh Y mà Ngụy Công Tử dễ dàng tạo cho chàng những đặc điểm của Thiết Thủ Thần Tiêu Bàng Nguyên Hối. Gia dĩ, họ Bàng tung hoành ở phía Tây ít khi dương oai nơi xứ lạ nên chẳng mấy người rõ mặt. Lúc lìa đời trong Tề gia trang, Nguyên Hối đã để lại đầy đủ khí giới, giấy tờ tùy thân và cả bí kíp võ công. Tử Khuê chỉ cần tham khảo bí kíp hai ngày là đã có thể sử dụng thanh “Hắc Long Tiêu” một cách nhuần nhuyễn. Thực ra phép đánh tiêu rất gần với kiếm pháp, gồm nhiều thức đâm. Tiêu thân tròn, không thể chém nhưng đòn quét của nó cũng làm cho đối phương thọ thương chứ chẳng chơi, vì “Hắc Long Tiêu” làm bằng thép ròng và nặng như trường kiếm. Do đó, Tử Khuê không gặp trở ngại gì khi dùng tiêu thi triển sở học kiếm thuật cao siêu của mình.
Giờ đây, Tử Khuê múa tít “Hắc Long Tiêu” xuất chiêu “Nghịch Thủy Hành Chân” (Ngược nước giong thuyền), tiêu ảnh mịt mờ. Tiêu kình cuồn cuộn tựa sóng Trường Giang lớp lớp xuôi về Đông. Không khí lọt qua những lỗ tiêu tạo thành những âm thanh là lạ tựa tiếng gió hú trong cơn mưa bão. Lão sứ giả Xoa Lạp cốc hung hãn cử kiếm công phá màn tiêu ảnh và có cảm giác như mình là kẻ lội ngược dòng, áp lực chung quanh cực kỳ nặng nề. Đường kiếm của lão hơi chậm lại và chính lúc ấy Tử Khuê thò tả thủ khóa chặt lưỡi gươm rồi thọc mũi kiếm ở đầu tiêu vào tim kẻ địch. Nạn nhân rú lên thảm khốc ôm ngực quỵ xuống trong sự bàng hoàng của đồng đảng. Người vừa bị giết là Ngũ Hộ pháp của Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường, sao lại có thể thọ hại ngay trong chỉ một chiêu. Điều đáng sợ kế tiếp là bàn tay của gã áo trắng chẳng ngán gươm đao.
Cái chết chóng vánh của ngũ hộ pháp đã khiến bọn Xoa Lạp cốc khiếp hãi, nhảy lùi về phía sau xem xét hung thủ là ai. Tiểu Trinh, Tiểu Huệ mừng vì được nghỉ tay, đứng thở dốc. Thiên Kim thì phấn khởi nhận lấy thanh kiếm mà Tử Khuê đoạt được của kẻ thù. Nàng nhận ra ân nhân là kẻ đã nhìn ngắm mình lúc trước nhưng không biết đấy là Vu Diệp chân nhân. Lúc này, một sứ giả Xoa Lạp cốc đã nhớ ra lai lịch của gã cầm tiêu sắt, hai bàn tay xỏ trong đôi găng tay kỳ lạ, đầy những vẩy cá óng ánh. Lão ta giận dữ quát:
- Thiết Thủ Thần Tiêu! Ngươi quả là không biết sống chết nên mới dám can thiệp vào việc của bổn cốc và lại còn giết chết Ngũ Hộ pháp nữa. Hôm nay bọn ta sẽ phân thây ngươi làm trăm mảnh.
Dứt lời, lão đưa tay trái lột chiếc nón tre có vành rộng hơn hai gang trên đầu xuống, sử dụng như chiếc khiên. Ba người kia cũng hành động như thế. Nhờ sự dạy dỗ của Vu Mộc chân nhân mà Tử Khuê sớm biết rằng nón tre của Xoa Lạp cốc là loại vũ khí. Phía dưới lớp cột tre đan kia là một lớp thép lá mỏng nhưng rất kiên cố, khả dĩ chịu đựng được đao kiếm. Và hơn thế nữa, phép đánh kiếm thuẫn hợp bích của họ rất quỷ dị, lợi hại.
Tử Khuê đã có “Ngư giáp miệt” (Vớ vẩy cá) vũ khí thành danh của Bàng Nguyên Hối, nên chẳng hề sợ hãi. Đôi găng tay quý giá này được khâu từ da của loại cá lạ sống ở hồ Thanh hải, hồ nước mặn lớn nhất Trung Hoa. Lúc xuất đạo, Nguyên Hối mới tròn hai mươi, trong một lần đến thăm người dì ruột sống cạnh hồ Thanh hải, thì nghe bà kể về con Thiết Giáp ngư. Gã liền tìm cách bắt cho bằng được cá quý. Sau bảy tháng nhẫn nại thả thuyền buông câu, cuối cùng, họ Bàng đã tóm được Thiết Giáp ngư, lột da khâu thành đôi bao tay. Nhờ có “Ngư giáp miệt” mà Nguyên Hối mau chóng thành danh, nổi tiếng khắp ba tỉnh Tây Bắc và đất Thiểm. Giờ đây, “Ngư Giáp miệt” đã làm cho công phu “Thao Quang thần thức” của Tử Khuê lợi hại hơn trước gấp bội. Đôi găng quý che phủ đến tận khuỷu tay, tạo ưu thế tuyệt đối cho một quyền thủ. Tử Khuê tận dụng ưu thế ấy vươn tả thủ vẽ liền chín thức Thao Quang, đối phó với thanh kiếm của lão sứ giả mặt tròn nung núc thịt, còn thiết tiêu thì điểm nhanh tựa mưa rào. Lão ta dùng nón tre phòng thủ rất hiệu quả vì diện tích nó khá lớn. Thủ pháp sử dụng thuẫn của lão lại vô cùng linh diệu tạo thành cả một bức màn thép kín như bưng, vô hiệu hóa toàn bộ những thế công của Tử Khuê. Nhưng chẳng phải vì thế mà lão chiếm được thượng phong bởi lo sợ tả thủ đối phương đoạt mất kiếm. Cánh tay trái Tử Khuê hoạt động độc lập, chập chờn bám theo lưỡi kiếm của lão, thế thức huyền ảo phi thường. “Ngư giáp miệt” quả là báu vật hãn thế, kiếm sắt chạm vào là bị trượt đi nên không hề làm tróc được miếng nào.
Miệt có móng nhọn được mang ở tay thì gọi là “Thủ miệt”. Ở chân gọi là “Cước miệt”. Xuất hiện trước thời nhà Hán, nhưng lúc ấy miệt hoàn toàn làm bằng da thú. Đến thời Đông Hán có thêm loại vớ, găng khâu bằng tơ lụa, gọi là “la”. Nhưng cuối cùng thì sau vài ngàn năm, từ “miệt” vẫn được sử dụng rộng rãi hơn cả.
Nhắc lại, Tử Khuê có “Ngư giáp miệt” mà vẫn ở thế quân bình, thì Trình Thiên Kim và hai ả nữ tỳ, chẳng thể an lành trước phép đánh kiếm thuẫn lợi hại của Xoa Lạp cốc. Chưa đầy nửa khắc, Tiểu Trinh, Tiểu Huệ đã lần lượt bị thương, kêu rên não ruột. Tử Khuê chột dạ, hiểu rằng chẳng thể kéo dài cuộc chiến thêm nữa. Chàng nghiến răng, dồn toàn lực đánh liền sáu chiêu liên hoàn, tiêu ảnh mịt mờ xám xịt khiến đối thủ tối tăm mặt mũi bởi hàng ngàn thế thức tựa mưa sa. Lão sứ giả Xoa Lạp cốc chẳng phải kẻ tầm thường, tuy hoa mắt trước đường tiêu vũ bão song vẫn ngoan cường chống cự, kiếm thuẫn dệt lưới quanh thân, kín đáo và vững chắc như tường đồng vách sắt. Công lực của lão thâm hậu hơn đối phương, thừa sức chịu đựng cho đến lúc gã họ Bàng đuối tay, rồi mới phản công. Trong thế phòng thủ, đường kiếm loang nhanh như gió, thuận thế mà bay lượn chứ chẳng có điểm chết như lúc tấn công. Do đó, lão ta không sợ Tử Khuê chụp trúng kiếm của mình.
“Hắc Long tiêu” tuy làm bằng thép dày song cũng là vật rỗng nên khi va chạm với kiếm thì ngân lên ong ong rền rĩ tựa tiếng chuông. Bỗng lão sứ giả thấy Thiết Thủ Thần Tiêu nhấp nhô, chờn vờn, thân trên ngã về mé tả, có vẻ như muốn đảo bộ sang hướng ấy để tránh chiếc thuẫn lỳ lợm và tìm sơ hở trong đường gươm của mình. Tất nhiên đối phương phải làm như thế vì cái thuẫn thiết lạp phòng thủ kín đáo hơn trường kiếm. Nào ngờ, khi lão vừa xoay theo thì Bàng Nguyên Hối lại thả tấn về mé hữu, vươn thủ chụp lấy chóp nhọn của nón rồi hất ngược lên. Đương nhiên, sườn trái của lão hở ra và họ Bàng đã thọc mũi “Hắc Long tiêu” vào đấy. Đoạn thép ở đầu “Hắc Long tiêu” chỉ lú ra độ nửa gang dạng như mũi trường kiếm, làm bằng loại thép cực tốt của Nhật Bản được mài sắc như dao cạo và mỏng như đầu kim, xuyên thấu phổi nạn nhân. Với vết thương trầm trọng ấy, lão sứ giả Xoa Lạp cốc khó mà thoát chết.
Tử Khuê rảnh tay, lập tức quay ngoắt lại tấn công đối thủ của Tiểu Trinh là lão sứ giả mắt trâu, mũi lộ. Chàng xuất chiêu “Phiên Thiên Phục Địa” (Lật nhào trời đất) đánh vào mé hữu đối phương. Ả tỳ nữ Tiểu Trinh thấy có tiếp viện thì phấn khởi tinh thần, xông lên đẩy kẻ thù vào thế lưỡng đầu thọ địch. Lão mắt trâu bắt buộc phải dùng chiếc thuẫn nón tre đối phó với Tiểu Trinh còn trường kiếm ở tay phải thì chống đỡ đường tiêu của Tử Khuê. Trong văn chương cũng như võ học, yếu tố thiên bẩm cực kỳ quan trọng. Do thiên phú chẳng đồng đều nên có kẻ học một biết mười và người học mười biết một. Kẻ đỗ Trạng nguyên khi chưa đến tuổi nhược quan, kẻ thi tám lượt chẳng đậu nổi tú tài. Tử Khuê được trời xanh ưu đãi, ban cho trí tuệ thượng thừa, nên tuy còn trẻ mà đã thấu hiểu được đạo biến hóa của võ học, thành tựu vượt xa người thường. Điều ấy giải thích cho việc chàng có thể đánh thắng những kẻ địch lão làng, tu vi thâm hậu hơn mình.
Nghề đánh kiếm cũng là một nghệ thuật giống như âm nhạc, thi văn hay hội họa vậy. Và trong nghệ thuật thì tài không đợi tuổi. Tử Khuê nắm được đạo biến hóa nên đường kiếm tiêu dao tự tại tựa nước chảy mây trôi và nhanh như gió thoảng. Trong khoảnh khắc chàng tung ra vài trăm thế thức với tốc độ kinh hồn phong tỏa thân trên đối thủ. Lão sứ giả Xoa Lạp cốc rơi vào cơn lốc dữ, bấm bụng loang nhanh trường kiếm, cố bảo vệ mặt ngực và bụng. Lão luyện kiếm bốn mươi mấy năm, công thì chưa chắc đã hay nhưng phòng thủ thì thừa sức. Lão ta đã đỡ gạt được hết những đòn hiểm ác của cây tiêu đen trùi trũi, lòng cũng bớt khiếp sợ. Lão ung dung cử kiếm đánh bạt mũi tiêu đang thọc vào ngực mình. Nào ngờ, thép chẳng hề chạm thép và bụng dưới thì đau đớn khủng khiếp. Khi huyệt Khí Hải đã bị đâm thủng thì Hạng Vũ cũng trói gà không chặt. Lão sứ giả rú lên thảm khốc, tứ chi bủn rủn, lảo đảo ngã quỵ. Tiểu Trinh nhân cơ hội này đâm bồi một kiếm vào ngực lão để rửa hận. Lúc nãy, lão ta đã rạch ba đường trên làn da mỹ miều của ả.
Tiểu Trinh quay sang giúp Tiểu Huệ, còn Tử Khuê thì liên thủ với Trình Thiên Kim. Nhưng từ trên lan can lầu phía trước tửu điếm, có tiếng già nua quát lớn:
- Rút lui thôi, quân binh đã đến!
Thế là hai gã tơi nón tuổi trung niên bỏ cuộc mà đào tẩu. Mấy lão già trên lầu cũng đã cõng người bị thương, nạn nhân của Thiên Kim, nhảy xuống đất chạy mất. Quan quân Nhưỡng thành chẳng dám hạch sách vị Nữ Hầu tước đáng kính, lặng lẽ thu dọn xác chết mang về Nha môn. Chiến tích oanh liệt của Thiết Thủ Thần Tiêu đã khiến chủ nhân Tịch Hà đệ nhất tửu điếm vô cùng thán phục. Ông kính cẩn mời những kẻ thắng trận vào khu hậu viện trị thương. Băng bó và thay y phục xong, Thiên Kim cùng hai nữ tỳ nghiêng mình tạ ơn ân nhân. Tử Khuê hiền hòa bảo:
- Tại hạ tương trợ tiểu thư cũng là vì tình bằng hữu với Vu Diệp chân nhân, xin tiểu thư chớ bận tâm.
Thiên Kim đỏ mặt thẹn thùng hiểu rằng đối phương đã nghe hết tâm sự thầm kín của mình lúc còn ở trên lầu tửu điếm. Đồng thời, nàng rất hân hoan khi có tin tức về người trong mộng. Thiên Kim e lệ nói:
- Nay Bàng đại hiệp đã hiểu rõ tâm tình của tiện nữ, xin hãy nhủ lòng thương mà chỉ giáo hạ lạc của Vu Diệp. Tiện nữ cơ hồ tuyệt vọng khi đạo quán Thiên Sư ở Hứa Xương phúc đáp rằng chẳng biết chàng là ai.
Tử Khuê nghiêm nghị trả lời:
- Vu Diệp có nhiều kẻ thù lợi hại, sợ liên lụy đến gia quyến nên phải giữ kín lai lịch. Thực ra, y không phải là đồ đệ Thiên Sư giáo nên chẳng đến đạo quán làm gì. Vu Diệp tên thật là Quách Tử Khuê, nhà ở ngoại thành Hứa Xương, gần cầu Bá Lăng. Tiểu thư muốn tìm gặp cứ đến Quách gia trang tất sẽ gặp. Nhưng tại hạ mong rằng tiểu thư sẽ hành sự thật kín đáo và thận trọng.
Chiều mười một tháng năm, Tử Khuê và Thiên Kim về đến Hứa Xương. Tiểu Trinh và Tiểu Huệ đã quay lại Huyện Trình vì đi đông không có lợi. Khi đến bờ sông Thạch Lương, Tử Khuê cáo biệt. Chàng điềm đạm dặn dò:
- Vu Diệp còn có song thân nên chẳng thể tự quyết định được hôn nhân. Tiểu thư hãy vào thành nghỉ ngơi, suy nghĩ cho chín chắn, tìm ra cách tốt nhất để vào Quách gia trang. Cái tính nóng như lửa và mỹ hiệu Trình Giảo Kim trước đây e rằng sẽ khiến cha mẹ Vu Diệp ái ngại. Tại hạ có mặt trong hoàn cảnh này sẽ bất tiện và cũng chẳng giúp được gì. Hơn nữa, tại hạ có việc gấp phải ngược Bắc ngay. Xin cáo biệt. À quên! Tại hạ đã thề giữ kín lai lịch của Vu Diệp, vì vậy tiểu thư tuyệt đối không được cho nhà họ Quách biết tại hạ là người tiết lộ.
Thiên Kim nói lời cảm tạ rồi rầu rĩ giục ngựa qua cầu Bá Lăng, đi thẳng vào trong thành, Tử Khuê quanh quẩn trong khu rừng liễu vắng vẻ cạnh bờ sông, chờ tối hẳn mới về nhà. Chàng bỏ ngựa lại trong rừng, kín đáo vượt tường phía sau Quách gia trang, tìm đến phòng của mẫu thân trước. Qua khung cửa phía sau, Tử Khuê thấy cha mẹ mình đang ngồi uống trà, chuyện trò rất vui vẻ liền nói:
- Nhị vị nhân gia, hài nhi đã về đây!
Quách Thiên Tường và Kỹ Thanh Lam giật mình hoan hỉ rú lên:
- Khuê nhi!
Kỹ nương mau mắn rảo bước đến, mở cánh cửa thông với vườn hoa rồi ôm chầm lấy con trai. Quách lão cười khà khà bảo:
- Thằng bé này quả là linh hiển, chúng ta vừa nhắc đến thì đã có mặt ngay.
Tử Khuê dìu mẫu thân trở lại ghế rồi lột nón, phục xuống khấu đầu:
- Hài nhi bái kiến phụ mẫu.
Quách lão cằn nhằn:
- Sao mặt Khuê nhi gớm ghiếc thế? Nếu ngươi không lên tiếng trước chắc bọn ta chẳng nhận ra.
Kỹ nương bảo Tử Khuê ngồi vào ghế, ngắm nghía chàng bằng ánh mắt yêu thương rồi âu yếm hỏi:
- Sao Khuê nhi lại phải hóa trang thành Thiết Thủ Thần Tiêu. Phải chăng thân phận Hàn Thiếu Lăng chẳng còn an toàn nữa?
Tử Khuê gật đầu, kể lại mọi tao ngộ từ lúc rời nhà, kể cả việc Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim sẽ đến đây nay mai. Kỹ nương cao hứng nhất là việc Tử Khuê cứu được Đại Cửu phụ và anh em bà sẽ sớm được tái ngộ. Thấy ý con trai đã chịu lấy vợ thì Quách lão rất vui. Ông cười bảo:
- Ngươi chịu kết hôn là tốt rồi. Còn con bé họ Trình kia dù có dữ dằn cỡ Trương Phi cũng phải hiền như bụt khi làm dâu của mẫu thân ngươi. Lão phu còn phải sợ bà ấy thì Trình Giảo Kim thấm thía gì.
Kỹ nương hổ thẹn nguýt ông chồng già và điềm đạm bảo Tử Khuê:
- Hôn nhân là chuyện quan trọng cả đời. Để ta xem thử tính nết Thiên Kim thế nào rồi mới quyết định được.
Sáng hôm sau, Tử Khuê trở lại là một vị thiếu gia văn nhã, mặt mũi trắng trẻo, trơn láng, không một cọng râu, lông mày cũng thanh mảnh như trước. Gia nhân tỳ nữ hoan hỉ đến chào và nô nức chuẩn bị cho tiệc tẩy trần, mừng thiếu chủ mới du ngoạn Bắc Kinh trở về. Người vui nhất có lẽ là Quách Tử Chiêm, bào đệ của Tử Khuê. Cậu bé bám chặt lấy Tam ca chẳng rời luôn miệng hỏi han về chuyện Bắc hành. Tử Khuê phúc đáp đầy đủ, miêu tả rất sống động cảnh vật phồn hoa và những danh thắng chốn Đế Đô. Những kiến văn này chàng thu lượm được từ sách vở. Nguyên ngày hôm ấy, chẳng thấy Trình Thiên Kim xuất hiện, Tử Khuê rất nóng ruột, đứng ngồi chẳng yên. Kỹ nương cười bảo:
- Khuê nhi chớ trông ngóng cho uổng công. Con bé ấy làm sao dám vô cớ nhập trang trong khi ngươi đã cấm không được khai ra Bàng Nguyên Hối? Ta đã cho tỳ nữ Thu Linh giám sát cổng trang, phát hiện một nữ lang xinh đẹp đã ba lần đi ngang qua. Nhưng Khuê nhi cứ yên tâm, mẫu thân đã có diệu kế để thử thách nàng dâu.
Sáng ra, Kỹ nương sai ả tỳ nữ thân tín Thu Linh kẻ đã hầu bà suốt hơn hai chục năm qua, dán lên cổng Quách gia trang một tờ thông báo tuyển nữ gia nhân. Lập tức có nhiều người đến xin việc nhưng Kỹ nương đều khéo léo từ chối cho đến xế chiều Thu Linh hớn hở chạy vào thông báo với Kỹ nương:
- Bẩm phu nhân! Cá cắn câu rồi. Cô ả hôm qua đã thay y phục bằng vải xấu đến xin làm gia nhân. Mời phu nhân ra đại sảnh xem mặt nàng dâu.
Quách lão cũng có mặt tại khuê phòng gật gù bảo:
- Không ngờ rằng Trình Giảo Kim này lại chí tình với Khuê nhi như thế. Nàng ta là con nhà danh gia vọng tộc, lại mang hàm tước Hầu, vậy mà dám hạ mình làm tôi tớ Quách gia, tình ý ấy quả là đáng khâm phục. Lão phu sẽ cùng bà ra xem mặt bậc kỳ nữ.
Kỹ nương cũng rất xúc động, vui vẻ cùng trượng phu tiến ra khách sảnh. Phu thê an tọa xong, Kỹ nương mới ra lệnh cho Thu Linh ra cửa sảnh mời cô gái đang đứng khép nép dưới hàng hiên. Thiên Kim ngượng ngùng theo Thu Linh vào bái kiến vợ chồng Quách trang chủ, những người mà nàng thiết tha được gọi là cha mẹ chồng. Đến nơi, nhìn thấy gương mặt nghiêm nghị của Kỹ nương, Thiên Kim bất giác nghe lạnh xương sống, người run như cầy sấy. Nàng nghiêng mình thi lễ, ấp úng thưa:
- Bẩm Trang chủ cùng phu nhân, tiện nữ họ Hồ tên Thiên Kim, quê quán Phủ Nam Dương, năm nay hai mươi bốn tuổi. Tiện nữ vì hoàn cảnh khó khăn mà phải rời quê, đến Hứa Xương nương tựa một vị biểu thúc, nhưng chẳng may người ấy đã dời nhà đi địa phương khác. Thời may, tiện nữ đi ngang qua quý trang thấy thông báo tuyển gia nhân nên mạo muội vào đây, khẩn cầu nhị vị thương tình mà thu nạp.
Thiên Kim đã học thuộc lòng thiên cố sự này nhưng giờ đây ngấp nga ngấp ngứ mãi mới nói ra được. Nàng không quen nói dối nên mặt đỏ như gấc vì xấu hổ, mắt huyền đẫm lệ trông rất đáng thương. Hôm nay, vị nữ Hầu tước kiêu sa mặc bộ y phục bằng vải xấu rộng thùng thình, chắc là mua lại của ai đó. Tóc nàng thắt bím đơn sơ, chân mang giày cỏ, giống hệt kẻ nghèo hèn. Nhưng không vì thế mà nhan sắc Thiên Kim mờ nhạt đi, nàng vẫn xinh đẹp lạ lùng, một vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc của loài hoa dại. Kỹ nương rất hài lòng trước dung nhan và tấm chân tình của Thiên Kim. Bà hiểu rằng nàng có một trái tim vĩ đại, son sắt, sẽ mang lại hạnh phúc cho Tử Khuê. Kỹ nương tủm tỉm cười bảo:
- Công việc trong Quách gia trang rất bề bộn và nặng nhọc, lão thân chỉ sợ cô nương không kham nổi đấy thôi. Cô nương có nước da trắng trẻo, mịn màng, bàn tay thon thả, chẳng một vết chai sần, chắc trước giờ chưa hề vất vả. Bổn trang chỉ thiếu một chân phụ bếp, liệu cô nương có làm được không? Chắc lão thân phải tìm người khác quá.
Thiên Kim hốt hoảng van nài:
- Bẩm phu nhân! Tiện nữ tuy bề ngoài yếu đuối mảnh mai nhưng sức lực chẳng kém nam nhân. Dẫu công việc nặng nề đến mấy tiện nữ cũng hoàn thành được.
Nàng vừa nói vừa sa lệ khiến Quách trang chủ mủi lòng, lên tiếng chấp thuận ngay:
- Thôi được! Kim nhi đừng khóc nữa. Lão phu sẽ nhận ngươi vào làm.
Thiên Kim mừng như chết đi sống lại, quỳ ngay xuống dập đầu cảm tạ. Nàng đi theo tỳ nữ Thu Linh xuống chỗ ở của gia nhân, không để ý đến thư phòng của vợ chồng Quách trang chủ. Thiên Kim vừa đi ra ngoài thì Tử Khuê bước vào, ngượng nghịu hỏi:
- Nhị vị nhân gia nhận xét thế nào về Thiên Kim?
Quách lão vỗ đùi đắc ý:
- Tốt lắm! Tốt lắm! Được một nàng dâu như thế thì lão phu còn mong gì hơn nữa.
Kỹ nương mỉm cười phát biểu:
- Ta cũng rất hài lòng nhưng cứ chờ thêm vài hôm nữa để xem Kim nhi có thể vì tình yêu mà hy sinh đến mức nào?
Trong những ngày sau đó, Thiên Kim phải làm quần quật từ sáng đến tối, chẳng hề được ngơi tay. Ngoài việc phục vụ cho ba bữa cơm, nàng còn bị sai phái một cách vô tội vạ. Không những thế, Thiên Kim còn bị Thu Linh mắng mỏ, giễu cợt không thương tiếc. Thực ra cũng có nguyên nhân là sự vụng về của vị tiểu thư chưa bao giờ làm việc nhà. Thiên Kim thường đánh vỡ chén đĩa khi rửa chúng, nhặt rau không sạch, thái thịt không xong, miếng nào cũng thô kệch và nham nhở như chó gặm. Có lúc, Thiên Kim tưởng chừng như mình không sao chịu đựng nỗi cơ cực này thêm một ngày nào nữa. Nhưng chính những phút giây ngắn ngủi được nhìn thấy Tử Khuê, dù chỉ xa xa đã nâng đỡ tinh thần nàng. Thiên Kim lặng lẽ chấp nhận công việc tôi đòi đầy tủi nhục, chờ cơ hội tiếp cận Tử Khuê. Tình yêu đã giúp nàng nhẫn nhịn đến mức chẳng hề nổi giận khi bị Thu Linh tát vào mặt. Nàng chỉ ứa lệ, thầm gọi tên chàng. Thu Linh tuổi đã gần bốn mươi, theo hầu Kỹ nương từ lúc bà còn nổi danh Băng Tâm Ma Nữ. Khi bà rời bỏ chốn giang hồ thì Thu Linh cũng cùng đi. Hiện nay, Thu Linh đã trở thành quản lý các gia nhân, tỳ nữ của Quách gia trang. Nàng cũng là người duy nhất biết rõ ẩn tình và thừa lệnh chủ mà thử thách Thiên Kim.
Trưa ngày hai mươi mốt, ngày thứ tám làm đầy tớ của Thiên Kim, sau khi tát nàng dâu tương lai của họ Quách xong, Thu Linh hớn hở đến phòng vợ chồng Trang chủ báo cáo:
- Bẩm Trang chủ và phu nhân. Nô tỳ đã thử tát Trình tiểu thư để xem phản ứng. Nàng ta không hề có sắc giận, chỉ khóc mà thôi.
Quách Thiên Tường bất nhẫn trách vợ:
- Bà quả là người thận trọng quá mức, đầy đọa dâu quý của lão phu. Lỡ Kim nhi chịu đựng chẳng nổi mà bỏ đi thì có phải uổng không?
Kỹ nương cũng có vẻ hối hận, phân bua với trượng phu:
- Thiếp vì quá lo lắng cho hạnh phúc mai sau của Khuê nhi nên hành sự hơi quá tay. Nhưng giờ thì đã đủ, chúng ta có thể nhận dâu được rồi.
Bà quay sang dặn dò người tỳ nữ trung niên. Thu Linh vui vẻ đi ngày xuống bếp, tìm Thiên Kim và nói:
- Này Hồ hiền muội. Phu nhân cho rằng ngươi không thích hợp với việc bếp núc nên giao cho nhiệm vụ khác. Từ nay ngươi sẽ hầu hạ Tam công tử.
Thiên Kim tưởng mình nằm chiêm bao, vui sướng đến ngẩn người. Nàng ngơ ngẩn bước theo Thu Linh, lòng bối rối nô nức lo âu, không hiểu Vu Diệp sẽ đối xử với mình thế nào? Đến phòng Tử Khuê ở dãy Đông Sương, Thu Linh đẩy cửa, kéo Thiên Kim vào rồi im lặng bỏ đi.
Tử Khuê đã đứng sẵn mỉm cười âu yếm. Thiên Kim nhìn chàng trân trối, nước mắt tuôn như suối, không nói được tiếng nào. Nàng chẳng dám chắc chắn rằng chàng có nhận ra mình hay không khi song phương chỉ tương hội một khoảnh khắc ngắn ngủi, và hiện giờ nàng đã khác hẳn vì đội lốt nghèo hèn. Nhưng Tử Khuê đã bước đến, siết chặt nàng vào lòng và hỏi:
- Thiên Kim! Nàng có hạ cố nhận lời cầu hôn của ta không? Nàng đã vượt qua được sự thử thách của song thân ta rồi đấy.
Thiên Kim bừng tỉnh ngộ, bật khóc rấm rức và đấm thùm thụp vào ngực Tử Khuê.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Tuy nhiên, vợ chồng Quách trang chủ chỉ có thể bí mật nhận dâu và Thiên Kim vẫn giữ vai tỳ nữ. Thứ nhất là vì thanh danh của Hầu phủ, thứ hai vì mối hiểm họa Xoa Lạp cốc.
Một chiều gần cuối tháng năm, Quách gia trang nhận được hai lá thư gần như cùng một lúc.
Lá thứ nhất là của Kỹ Tòng Thư thông báo hôn lễ giữa ái nữ Kỹ Lưu Tiên và nam tử của Lưu Tài Thần. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ngỏ lời cầu hôn và đám cưới sẽ cử hành vào đầu hạ tuần tháng sáu. Đấy là lý do vì sao Tòng Thư không đi Hứa Xương như đã hẹn. Kỹ lão đã mời vợ chồng Quách Thiên Tường và Tử Khuê đến chơi sẵn có dịp tham dự hôn lễ luôn một thể. Được tin này, Kỹ nương rất hân hoan vì có dịp tạ lỗi với huynh trưởng. Bà sẽ đứng ra tổ chức lễ vu qui cho cháu gái một cách linh đình và chu đáo nhất. Tòng Thư là nam nhân lại góa vợ nên chẳng thể nào làm tốt việc ấy được. Kỹ nương thì đã từng gả hai chị cùng cha khác mẹ của Tử Khuê nên rất có kinh nghiệm.
Lá thư thứ hai là của Bang chủ Cái bang gởi cho Tử Khuê. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường là một trong hai người của Hội đồng Võ lâm biết lai lịch thực của Vu Diệp chân nhân. Người kia là Trương Thiên Sư. Nội dung thư chỉ vỏn vẹn có mấy chữ:
“Kỳ Hoàng đã ngộ nạn. Vu Diệp mau đến Lạc Dương”.
Kỳ Hoàng chính là đạo hiệu của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ hoành, sư thúc của hai mẹ con Tử Khuê. Thư gởi đi Hứa Xương bằng chim câu, do đệ tử Cái bang sở tại mang đến Quách gia trang, xem ra tình trạng của Cổ chân nhân rất nguy ngập. Người võ sĩ rất xem trọng nghĩa sư môn nên Kỹ nương vô cùng lo lắng, đốc thúc Tử Khuê lên đường ngay sáng hôm sau. Bà tư lự nói:
- Thạch bang chủ đã viết như thế là có ý bảo ngươi dùng thân phận Vu Diệp chân nhân mà đến Lạc Dương. Nghĩa là ngoài Bang chủ Cái bang và Trương Thiên Sư ra, không ai biết ngươi là Quách Tử Khuê!
Trong lúc ái tử sửa soạn hành lý, Kỹ nương sai tỳ nữ Thu Linh đi vào thành mua ba bốn bộ đạo bào. Tử Khuê đã mập lên rất nhiều chẳng thể mặc vừa y phục đạo sĩ cũ. Trình Thiên Kim rất muốn đi theo Tử Khuê nhưng không dám ngỏ lời. Nàng sắp phải tháp tùng vợ chồng Quách trang chủ đi Bảo Bình sau đó về Hầu phủ. Họ sẽ mang lễ vật đến gặp Trình lão thái, chính thức hỏi cưới nàng cho Tử Khuê. Thiên Kim mới được gần gũi người thương chẳng mấy ngày, nay phải xa lìa nên lòng buồn vô hạn. Tối đến, nàng lặng lẽ bỏ những vật dụng cần thiết vào tay nải của Tử Khuê và thỉnh thoảng lén gạt nước mắt. Tử Khuê liền ôm nàng, hôn lên mắt:
- Chúng ta chỉ xa nhau vài ngày thôi, nàng chớ nên bi lụy. Ta sẽ xuôi Nam ngay khi có thể và muộn lắm thì cũng tương phùng trong ngày xuất giá của Lưu Tiên biểu tỷ.
Thiên Kim gật đầu, tỏ vẻ đồng ý nhưng vẫn ôm chặt tình lang như chẳng muốn xa. Da thịt mềm mại ấm nóng và mùi hương ôn nhu từ tóc nàng đã khiến Tử Khuê động tình. Chàng đã biết giấc mộng Vu Sơn ngày ấy là thực, càng yêu thương Thiên Kim tha thiết và không quá giữ gìn lễ giáo khi kề cận. Nhưng hai người chỉ dám vuốt ve nhau chứ không giao hợp vì sợ Thiên Kim cấn thai trước ngày cưới. Nàng là một Nữ Hầu tước, chẳng thể để người đời dị nghị được. Hôm nay, hai thân xác thanh xuân dán chặt vào nhau nên Thiên Kim cảm nhận được ngay sự ham muốn của Tử Khuê. Nàng thẹn thùng thì thầm:
- Thiếp cũng khao khát được hầu hạ gối chăn cho tướng công. Chỉ tiếc rằng chàng là đạo sĩ mà không thạo thuật Phòng Trung của đạo gia nên hậu quả sẽ khó lường.
Tử Khuê tỉnh ngộ, nhớ lại những đoạn văn trong Đạo Tạng. Chàng hôn nàng và ngượng ngùng nói:
- Ta đúng là ngốc tử. Cảm tạ nàng đã nhắc nhở. Thực ra, muốn tránh thai thì nào có khó gì?
Đạo Tạng là tổng hợp kinh thư của Đạo giáo, bắt đầu xuất hiện từ giữa thời Đông Hán, trước hết là Thái Bình kinh và các đạo thư liên quan đến dưỡng sinh. Từ thời Đường đến thời nhà Minh, Đạo Tạng được hoàn thành và thông hành toàn quốc gồm có: Tam Động Quỳnh Cương, Đại Tống Thiên Cung Bảo Tạng, Vạn Thị Đạo Tạng, Đại Kim Huyền Đô Bảo Tạng, Chính Thống Đạo Tạng, Vạn Lịch Tục Đạo Tạng. Nội dung sách vở được đưa vào Đạo Tạng rất phồn tạp, có một lượng lớn Đạo kinh và các điển tích liên quan tới sự tích thần tiên, nghi thức tri tiên, cũng có cả giáo nghĩa của các giáo phái khác nhau trong các đời. Ngoài ra còn có sách vở của Bách Gia Chư Tử, từ Tiền Tần đến đời Minh, và những sách liên quan tới các nội dung y dược, dưỡng sinh, luyện đan. Trong phép dưỡng sinh của Đạo Tạng có cả thuật Phòng Trung, dựa vào thuyết Âm Dương Hòa Hợp. Thuật Phòng Trung là nghệ thuật đạt đến hoan lạc tột cùng trong ân ái, hoặc thu được lợi ích từ việc giao phối để thân thể tráng kiện, sống lâu. Một trong những thủ thuật ấy của nam nhân là giữ cho mình không thoát dương. Tuy người đàn ông sẽ thiệt thòi về mặt khoái lạc nhưng nguyên khí được bảo toàn. Đạo Tạng còn dạy cả một phương thức tránh thai rất đơn giản là thoát dương bên ngoài. Đã có cẩm nang, đội uyên ương dìu nhau vào cõi mộng, thỏa lòng nhung nhớ bấy lâu.
Mờ sáng ngày hai mươi bảy tháng năm, Tử Khuê bí mật rời Hứa Xương, mang theo hương hoa da thịt nồng nàn của Thiên Kim. Xế chiều ngày hôm sau, chàng chỉ còn cách Dĩ thành vài dặm. Chợt trời đổ mưa như trút nước, giông gió thét gào, biến những giọt mưa thành những mũi kim đâm rát mặt người và che mờ nhãn tuyến. Dù đã có áo tơi nhưng Tử Khuê cũng đành bó tay, thúc ngựa ghé vào căn Thập Lý đình bên vệ đường mà ẩn náu. Dù là trường đình hay tiểu đình thì chung quanh cũng chẳng bao giờ có vách nên bụi mưa tạt vào đến tận nơi. Nhưng dẫu sao thì còn khá hơn là phơi mình dưới gió mưa. Vả lại, sấm sét nổ liên hồi, giận dữ xé toang bầu trời xám xịt.
Sau khi đến Vũ Lương sơn, Tử Khuê đã ba lần bị sét đánh và thấy được công dụng nhiệm màu của “Tỵ Lôi thần châu”. Mặc dù thế, chàng cũng chẳng thích làm mục tiêu cho Lôi Thần một chút nào cả. Viên ngọc quý đã được giấu trong đùi chàng bởi một vết mổ nhỏ để nó không bị thất lạc. Tử Khuê ngơ ngẩn ngắm cảnh mưa gió tơi bời, tiếc rằng không có Thiên Kim bên cạnh để hàn huyên và sưởi ấm cho nhau. Những trận ái ân cuồng nhiệt, đắm say đêm hôm trước đã khắc sâu hình bóng nàng vào tâm thức Tử Khuê. Giờ đây, tất cả những nữ nhân khác mà chàng từng biết đều mờ nhạt bên cạnh Thiên Kim. Nữ Hầu tước chẳng những xinh đẹp mà còn là tình nhân vĩ đại nhất thế gian.
Đang miên man tưởng nhớ đến người yêu, Tử Khuê chợt phát hiện trên đường quan đạo có một bóng kỵ sĩ rạp mình phi nước đại về hướng Thập Lý đình, nơi chàng đang đứng. Và kỳ lạ thay, những tia sét liên tiếp giáng xuống xa xa vó ngựa cứ như Lôi Thần đang truy sát người ấy vậy.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc và thoáng nghĩ:
- Chẳng lẽ kỵ sĩ kia là kẻ hung tàn, ác độc tới mức chấn động lòng trời? Hay hắn cũng mang một số phận giống ta?
Lúc này, nạn nhân của lão Thiên Lôi mỏ nhọn chỉ còn cách căn Thập Lý đình sáu bảy trượng. Và một tia sét đã giáng xuống khá gần con tuấn mã, làm cho nó đau đớn hí vang rồi gục ngã, quăng cả người cưỡi ngựa xuống đất. Ánh sáng rực rỡ của nhát búa lôi đình đã giúp Tử Khuê nhìn rõ gương mặt đầy nét kinh hoàng của Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Tóc tai dựng ngược, toàn thân đau đớn khủng khiếp, nhất là hai chân, nhưng Tái Vân vẫn gượng đứng lên, loạng choạng chạy về phía căn dịch đình. Tử Khuê chẳng kịp suy nghĩ thiệt hơn, lao vút ra như mũi tên rời dây cung, dang tay đón lấy nàng và nhấc bổng lên khỏi mặt đất sũng nước rồi nhảy lùi.
Sau đó, tia sét cuồng nộ kế tiếp đã đánh thẳng xuống, cách hai người mấy bước. Đông Nhạc Tiên Hồ tưởng phen này chết chắc, sợ quá nên ngất xỉu bởi tiếng sét đinh tai nhức óc. Khi tỉnh lại, Tái Vân mơ màng nhận ra mình đang lõa thể, nằm ngửa trên một lớp vải lụa khô ráo. Và có đôi bàn tay ấm của ai đó xoa bóp khắp thân người nàng. Kỳ diệu thay, đội bàn tay nọ chạm đến đâu thì vị trí ấy không còn đau đớn nữa. Nàng đã nhớ ra kẻ cứu mình là một nam nhân nhưng không quan tâm đến. Nàng chỉ muốn mau mau thoát khỏi cảm giác đau nhức mà thôi. Thấy ân nhân không dám động chạm đến hai vùng cấm, Tái Vân liền kéo tay người ấy đặt lên đôi nhũ phong mơn mởn của mình, rồi đến phần bụng dưới. Khi đã hoàn toàn thư thái, Tái Vân ngồi lên, thản nhiên nói:
- Ơn cứu mạng tiện nữ chẳng dám quên. Nếu các hạ thích thú, tiện nữ xin hầu hạ ba ngày để đền đáp.
Lúc này ngoài trời mưa đã bớt dữ dội nhưng không gian vẫn tối mờ. Nhờ ánh sáng của một tia sét ở xa xa, Tái Vân nhìn hơi rõ dung mạo của ân nhân. Té ra đấy là một chàng đạo sĩ trẻ, mặt mũi khá tuấn tú. Chàng ta chẳng hề tỏ ra ham hố hay phân vân mà lại nghiêm trang bảo:
- Nữ thí chủ vốn kém phần âm đức, lại dám đem Lôi Thần ra đùa giỡn nên mới bị báo ứng ngay trong kiếp này. Nếu nữ thí chủ không tỉnh ngộ sửa mình, tu nhân tích đức thì khó toàn thây. Bấy nhiêu lời nhắn nhủ, mong nữ thí chủ chớ quên. Đấy chính là cách đền ơn bần đạo.
Nói xong, vị đạo sĩ trẻ mở tay nải, trao cho Tái Vân một bộ đạo bào để mặc tạm. Y phục nàng đã ướt và dính đầy bùn đất. Tái Vân thẫn thờ mặc vào, lòng rất sợ hãi, nhớ đến việc mình bắt Hàn Thiếu Lăng từ hôn dù đã nhờ Lôi Thần chứng giám. Trong nỗi tuyệt vọng ngút ngàn, Đông Nhạc Tiên Hồ chợt thức ngộ ra rằng chỉ có cách đi theo vị đạo sĩ thần thông quảng đại này thì mới mong sống thọ. Tuy trẻ tuổi nhưng đạo hạnh của chàng cao thâm đến mức cứu được người bị sét đánh. Tái Vân liền quỳ xuống, hành lễ khóc nói:
- Đệ tử Dịch Tái Vân, trước giờ chỉ làm ác, hại người, tội lỗi chất chồng, nay đã tỉnh cơn mê, xin theo bậc Chân nhân tu hành sám hối, mong đạo trưởng cứu vớt kẻ bạc mệnh này.
Tử Khuê mỉm cười đáp:
- Nàng là tuyệt sắc giai nhân, làm đạo sĩ chẳng phải uổng kiếp hồng nhan hay sao?
Tái Vân buồn rầu thú thực:
- Bẩm đạo trưởng! Đệ tử luyện “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp” nên chẳng còn ham muốn nhục dục, đi tu cũng là phải đạo.
Tử Khuê hài lòng, nói bỡn:
- Vậy tại sao lúc nãy nàng lại đòi hiến thân cho bần đạo?
Tái Vân thẹn thùng đáp:
- Đệ tử biết người là bậc chân tu, không màng sắc dục nên mới nói thế. Vả lại, đệ tử hơi ấm ức khi thấy người chẳng hề động lòng trước vẻ quyến rũ của đệ tử.
Tử Khuê thấy nàng cực kỳ chân thực với mình nên cũng thương xót. Chàng trầm ngâm bảo:
- Đạo danh của ta là Vu Diệp chân nhân. Bần đạo cũng muốn giúp nàng trở về nẻo chánh nhưng đồng hành thì e rằng không tiện. Người ngoài làm sao biết nàng là thạch nữ.
Dịch Tái Vân dập đầu van nài:
- Đệ tử xin từ bỏ danh hiệu Đông Nhạc Tiên Hồ, suốt đời mặt áo đạo sĩ, tôn người làm sư phụ. Danh phận rõ ràng như thế thì người đời sẽ không đàm tiếu được.
Tử Khuê bối rối tự nhủ:
- Ta đâu có đóng mãi vai Vu Diệp và cũng chẳng thể tiết lộ thân thế thì làm sao dám cưu mang ả hồ ly đã hướng thiện này?
Chàng phân vân một lúc rồi nói:
- Bần đạo trẻ tuổi hơn mà, nếu nàng làm học trò thì quả là miễn cưỡng, khó coi. Hay là bần đạo thay mặt tiên sư, nhận nàng làm đệ tử Huyền Hư phái. Nàng gọi ta là sư huynh thì hợp lý hơn. Ta sẽ dạy nàng kinh nghĩa.
Dịch Tái Vân nghe xuôi tai, mừng rỡ hỏi lại:
- Dám hỏi tiên sư đạo hiệu là chi?
Tử Khuê liền nói ra danh hiệu Vu Mộc chân nhân và giải thích sơ qua nguồn gốc của Huyền Hư phái núi Nga Mi. Chàng cũng đặt cho Tái Vân đạo hiệu Vu Thiện. Tạnh mưa, hai người cưỡi chung một con ngựa, chậm rãi đi đến Dĩ thành. Trước tiên, Tử Khuê ghé tiệm bán y phục mua sắm vài bộ đạo bào mới cho Tái Vân, cùng những vật dụng cần thiết của mỹ nhân. Tay nải của nàng đã rơi mất trên đường chạy trốn sấm sét.
Đêm ấy, họ trọ trong lữ điếm, sáng ra mua thêm ngựa khởi hành đi Lạc Dương. Hai ngày sau, hai kẻ đồng môn đến Đăng Phong, mướn phòng ở Tung Sơn đệ nhất khách sạn. Rặng Trung Nhạc lừng danh ở phía Bắc thành Đăng Phong, chỉ cách chừng vài dặm. Nửa đêm, tiết trời u ám và nhiều sấm sét. Tái Vân sợ khiếp bỏ lại phòng riêng, sang phòng Tử Khuê nép vào người chàng mà run rẩy. Chợt có tia sét đánh tới gần, nàng hoảng hốt ôm chặt lấy chàng.
Tử Khuê dở khóc dở mếu, nằm cứng đơ chịu trận. Tuy mang bản chất thạch nữ song Tái Vân lại là vưu vật hiếm có trên đời. Mặt nàng đẹp tựa tố nữ trong tranh, da dẻ trắng trẻo, thơm tho như bông bưởi. Thân thể nàng là kiệt tác của một nghệ sĩ điêu khắc bậc thầy, cân đối phi thường. Hôm trước, lúc hút điện sét trong người nàng ra, Tử Khuê đã có dịp chiêm ngưỡng, lòng thầm khen đấy là tác phẩm không hề có khuyết điểm. Ngực Tái vân đầy đặn nhưng không quá lớn, vòng eo thanh mảnh tương xứng với đôi mông tròn trịa, gọn gàng và cặp chân dài săn chắc. Pho tượng quyến rũ ấy không biết rung động nhưng cũng khiến bọn nam nhân cháy bỏng bởi khát khao. Đêm ấy, Tài Vân tả tơi khốn khổ vì tai họa nên Tử Khuê chỉ lo cứu chữa mà không nổi tà tâm. Đêm nay, uy lực của nàng đã phục hồi nguyên vẹn, ngát hương dưới lớp áo ngủ bằng the mỏng. Trước những cơn mưa Hạ, tiết trời khá oi bức nên Tử Khuê đã ở trần, cảm nhận được tận cùng sự tiếp xúc thịt da người ngọc.
Chàng biết mình đã động tình, liền cố hình dung đến khuôn mặt u buồn của Thiên Kim để sự hổ thẹn dập tắt lửa dục. Tử Khuê đã cầm cự được cho đến lúc tạnh mưa, nhẹ nhõm trút bỏ gánh nặng :
- Sư muội có thể về phòng mình được rồi đấy.
Tái Vân phụng phịu dụi đầu vào chàng mà thỏ thẻ:
- Lỡ trời lại mưa nữa thì sao? Tiểu muội chỉ yên tâm khi ở bên cạnh sư huynh.
Tử Khuê thở dài bảo:
- Ta là người chứ nào phải thần tiên mà có thể dằn lòng mãi khi nằm cạnh sư muội.
Tái Vân cười khúc khích:
- Té ra sư huynh cũng bị tiểu muội cám dỗ, nãy giờ cắn răng kiềm chế lửa lòng. Nhưng để xem định lực của sư huynh thâm hậu đến dường nào, nếu sư huynh không động tình, tiểu muội sẽ về phòng mình.
Dứt lời, nàng vuốt ve khắp người chàng chẳng sót chỗ nào cả. Song Tử Khuê lại có linh cảm rằng Tái Vân đã sinh nghi, đang cố tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” trên cơ thể mình. Nàng là nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn tất phải biết thần châu là vật duy nhất đối phó được với sấm sét. Sự cảnh giác đã khiến lòng chàng nguội lạnh, lửa dục tắt lịm. Tử Khuê còn thầm lo lắng mình sẽ vì Tái Vân mà bại lộ thân thể, di hại đến gia đình. Bỗng Tái Vân dừng tay, cúi xuống hôn lên má chàng và thì thầm:
- Tiểu muội biết sư huynh là công tử nhà họ Quách và cũng là Hàn Thiếu Lăng. Nhưng sư huynh cứ yên tâm, tiểu muội thà bị sét đánh chứ không tiết lộ việc này cho ai biết.
Tử Khuê hoảng sợ tới mức toát mồ hôi hột, lát sau mới trấn tĩnh được và ấp úng hỏi:
- Vì sao nàng biết được bí mật của ta?
Tái Vân cười đắc ý:
- Tiểu muội có một khả năng là luôn ghi nhớ những đặc điểm của người mình đã gặp, từ ánh mắt, nụ cười, giọng nói, dáng đi. Vì vậy, chỉ cần kề cận một hai hôm là tiểu muội đã nhận ra chàng là gã râu rậm Hàn Thiếu Lăng. Còn cái thân phận thực thì chẳng khó đoán, vì ngoài “Tỵ Lôi thần châu” ra không gì có thể cứu được một nạn nhân của Lôi Thần. Từ lâu, tiểu muội đã nghi ngờ Quách gia trang bán ngọc giả cho Âu Dương minh chủ.
Và nàng đổi giọng u uất:
- Quách công tử! Hai lần được chàng cứu mạng, lòng thiếp vô cùng cảm kích. Thiếp hận mình là một thạch nữ, không xứng nâng khăn sửa túi cho chàng. Nhưng thân xác hèn mọn này, thiếp xin dâng cho chàng mua vui. Dẫu sao thì lần trước thiếp đã thề chỉ thuộc về chàng rồi.
Dứt lời, Tái Vân gục xuống ngực chàng mà thổn thức. Tử Khuê động lòng trắc ẩn vuốt ve lưng nàng và định nói lời an ủi nhưng chẳng biết nói sao. Trưa mùng bốn tháng sáu, Tử Khuê cùng Tái Vân đến Lạc Dương. Đưa nàng vào Tổng đàn Cái bang thì bất tiện, Tử Khuê để Tái Vân ở lại trong Cửu Triều đại khách sạn. Lạc Dương được tôn xưng là “Cửu triều danh đô” (Kinh dô danh tiếng của chín triều đại), nên lữ điếm này mới chọn tên như thế, hàm ý tự hào về lịch sử lâu đời. Chính Tái Vân chọn khách sạn này, vì nó có đến bốn tầng, sấm sét chẳng thể nào xuyên thủng hết được. Và nàng còn thận trọng đòi tầng dưới cùng. Thẹn vì thân không chút bạc vàng, sống bám vào Tử Khuê nên nàng phải tiết kiệm. Biết giá phòng đắt cắt cổ, Tái Vân thản nhiên bảo lão chưởng quỹ:
- Bọn ta là phu thê, chỉ cần một phòng mà thôi.
Đạo giáo Trung hoa có rất nhiều môn phái, quy củ mỗi phái khác nhau, và đa số không cấm đồng môn kết hôn. Ví dụ như Thiên Sư giáo hoặc Hoa Sơn chẳng hạn. Vì thế, lão chưởng quỹ không lấy làm lạ, cứ thế thi hành. Vào đến trong phòng Tái Vân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- Thiếp phải xưng mình là vợ chàng may ra Lôi Thần nguôi giận, bỏ qua lỗi cũ.
Tuy đang cười song ánh mắt nàng buồn vời vợi, khiến Tử Khuê bất nhẫn. Quả thực là trên đường đi, Tái Vân đã chăm sóc cho chàng chu đáo chẳng khác gì hiền phụ. Giờ đây nàng lặng lẽ theo vào phòng tắm, kỳ lưng và gội đầu cho chàng. Chẳng kịp dùng cơm, Tử Khuê đi ngay đến tổng đà Cái bang ở gần cửa Đông thành. Nghe khách xưng là Vu Diệp chân nhân, bọn hán tử ba túi cho người dẫn vào ngay.
Cơ ngơi của ăn mày tất chẳng nguy nga, tráng lệ, sơn son thếp vàng. Ở đây chỉ có màu xanh của cây cối là tươi mát, còn toàn bộ quần thể tam hợp viện này khá u ám bởi những mảng màu xám xịt, lờ lợ. Mái ngói rêu xanh, tường vôi loang lổ, cột kèo tróc sơn, trơ mộc, nền gạch mòn vẹt, lở lói. Ba năm liền nhiều địa phương lại bị thiên tai, đệ tử Cái bang chết đói như rạ, nên Thất Bổng Cái làm gì có tiền tu sửa tổng đà. Đấy là thảm trạng của hai dãy Tây sương và Đông sương, nằm cạnh sân gạch rộng, lồi lõm. Còn dãy mặt Bắc, nơi thờ phụng linh vị Đại Tổ sư và hội họp, tiếp khách thì có khá hơn đôi chút. Trong gian khách sảnh ở mé Đông Bắc, sáu vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm đang ngồi uống trà, sắc mặt buồn rầu, trầm trọng. Tử Khuê vội chắp tay thi lễ:
- Đệ tử Vu Diệp bái kiến lục vị Chưởng môn.
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Được rồi, ngươi cứ việc ngồi!
Tử Khuê an tọa, chưa kịp hỏi han tình hình của sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y thì Bang chủ Cái bang đã hỏi ngay:
- Này Vu Diệp! Chẳng hay ngươi có quen biết lãi già nào họ Lỗ tên Trực hay không?
Tử Khuê nhớ đến Lỗ phán quan, phân vân đáp:
- Bẩm có! Nhung lão ấy là Phán quan dưới Âm ty chứ đâu phải người sống.
Trương Thiên Sư vỗ đùi cái bép và than:
- Thôi đúng rồi! Hèn chi lúc gặp lão, bần đạo nghe âm khí nặng nề song không thể xác quyết vì cho rằng ma quỷ chẳng dám lên Long hổ sơn. Té ra Lỗ Trực là chức sắc của Diêm cung nên chẳng sợ Tam Thanh.
Thấy vẻ ngơ ngác của Tử Khuê, Trương giáo chủ giải thích ngọn ngành:
- Số là thế này. Hồi cuối tháng tư, lúc hiền điệt và ngũ vị Chưởng môn đây, đang ở Kỹ gia trang vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, thì bần đạo vẫn còn ở Long Hổ sơn. Tối ngày hai mươi chín, bỗng đệ tử vào báo rằng có khách xin cầu kiến, đem đến tin tức của Cửu hoa Thánh Y. Bần đạo mừng rỡ ra ngay khách sảnh, thấy một lão nhân tuổi độ sáu mươi, râu quai nón rất oai phong. Lão ta tự giới thiệu mình là Vô Địch Quyền Vương Lỗ Trực, bằng hữu vong niên của Vu Diệp hiền điệt. Sau đó, Lỗ thí chủ nghiêm trang bảo rằng Cổ chân nhân hiện đang bị giam cầm trong “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận”, trên đất Hồ Nam. Lão không tiết lộ địa điểm mà nói rằng chỉ một mình Vu Diệp hiền điệt là có thể phá được trận pháp ấy. Và hiền điệt phải có mặt ở bờ hồ Động Đình, ngay trước lầu Nhạc Dương, đúng đêm rằm tháng bảy, để lão ta dẫn đi phá trận. Nói xong lão bỏ đi ngay. Bần đạo lìên bói một quẻ, để xem Thánh Y hung cát thế nào, thì phát hiện tượng quả cực kỳ hắc ám, nguy hiểm phi thường. Vì vậy bần đạo tin lời Lỗ thí chủ, lên đường đi Lạc Dương hy vọng Cái bang sẽ tìm ra Vu Diệp hiền điệt.
Biết Tử Khuê không hiểu vì sao Hội đồng Võ lâm lại đủ mặt, Thất Bổng Cái tiếp lời Trương giáo chủ:
- Lúc đến Nam Xương, Trương Thiên Sư đã nhờ đệ tử bổn bang dùng chim câu báo tin trước, nên lão phu kịp thông tin cho bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Hoa Sơn, Toàn Chân. Cổ chân nhân là đại ân nhân của sáu phái nên các Chưởng môn đã mau chóng có mặt.
Tùng Xuân Tử, Chưởng môn nhân phái Toàn Chân, hiền hòa an ủi Tử Khuê:
- Hiền điệt cứ an tâm lên đường. Trước ngày rằm tháng bảy, lực lượng của sáu phái sẽ có mặt ở Nhạc Dương để hỗ trợ hiền điệt.
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi hỏi Thất Bổng Cái:
- Bẩm Thạch tiền bối. Chẳng hay người có đoán ra nhân vật nào ở Hồ Nam liên quan đến “Bát Quái Oan Hồn quỷ trận” hay chưa?
Thạch Kính Tường nhăn mặt lắc đầu:
- Chẳng có chút manh mối nào cả. Lão phu chỉ thị cho ba ngàn đệ tử bổn bang ở Hồ Nam truy tìm những địa điểm khả nghi song đến nay vẫn chưa có kết quả.
Tử Khuê thất vọng cáo từ, hứa với sáu Chưởng môn rằng sẽ có mặt đúng hẹn. Chàng về đến phòng trong khách sạn thì Tái Vân vẫn chờ cơm chứ không ăn trước. Nàng đợi quá lâu nên mệt mỏi ngủ gục ngay tại bàn ăn. Tử Khuê mỉm cười vỗ nhẹ vai nàng lay gọi. Tái Vân tỉnh giấc, đứng bật dậy, tuy còn ngái ngủ mà ánh mắt vẫn tràn ngập niềm hân hoan cực độ:
- Ôi, tướng công! Chàng đã về đấy ư ! 
Tử Khuê rùng mình, xúc động đến tận đáy lòng, bất giác ôm lấy Tái Vân và hôn lên má, lên môi. Tái Vân có vẻ sung sướng, đứng im nhận lãnh sự ban thưởng, song sau đó bật cười khúc khích, tuột khỏi vòng tay chàng:
- Để thiếp bảo tiểu nhị bưng thức ăn xuống bếp hâm lại đã. Cơm canh nguội cả rồi.
Hai người trò chuyện, dùng bữa xong thì trời đổ mưa rào. Tử Khuê quyết định trọ lại Lạc Dương một đêm, sáng mai mới lên đường. Những cơn mưa Hạ khu vực sông Hoàng Hà rất dai dẳng, kéo dài suốt mấy canh giờ, và Tái Vân thì tối kỵ đi lại dưới mưa. Tử Khuê bỗng nghe mệt mỏi che miệng ngáp dài và tìm một giấc ngủ trưa. Tái Vân thấy vậy sốt sắng lấy áo mỏng đến, dịu dàng giúp chàng thay y phục. Nàng vui vẻ bảo:
- Tướng công cứ nghỉ ngơi đi. Thiếp đã ngủ được một chút rồi.
Khi Tử Khuê lên giường thì nàng cũng lên theo song nằm cách xa vài gang. Mùi hương tóc và da thịt mỹ nhân khiến Tử Khuê nhớ đến ái thê Trình Thiên Kim, lòng chợt xốn xang, bối rối. Chàng sẽ giải thích với nàng thế nào đây về việc gắn bó với Tái Vân. Do định mệnh mà chàng và Đông Nhạc Tiên Hồ đã trở thành một đôi uyên ương sống chết không rời. Nếu có thể thì chàng đã tặng viên “Tỵ Lôi thần châu” cho Tái Vân rồi. Tử Khuê còn thầm lo ngại khi phát hiện mình ngày càng có cảm tình với ả hồ ly núi Thái Sơn. Chàng rất hổ thẹn và buột miệng thở dài. Dịch Tái Vân thấy chàng thao thức mãi liền xích lại gần, thỏ thẻ bảo:
- Thiếp sẽ hát ru tướng công ngủ.
Sau đó, nàng hát nho nhỏ một khúc dân ca đất Sơn Đông. Âm điệu đều đều, buồn bã đã đưa Tử Khuê vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Sẩm tối, Tử Khuê mới thức giấc, liếc sang bên cạnh thì thấy Tái Vân đang miên man nhìn lên trần nhà và lệ tuôn dài. Có lẽ nàng thương tâm vì số phận hẩm hiu của mình, một kiếp hồng nhan nửa mùa và suốt đời phải trốn chạy những cơn mưa. Tử Khuê chợt cảm thương nàng vô hạn, xoay qua kéo nàng vào lòng tỏ ý bảo bọc. Tái Vân bật khóc thành tiếng, ôm lấy chàng thật chặt.
Bỗng nàng thủ thỉ:
- Thiếp sợ, nhưng không hề oán giận lão Lôi Thần. Nhờ lão ta mà thiếp được kề cận tướng công và hạnh phúc biết bao. Có lẽ trong thiếp đã nảy sinh một thứ tình cảm mà thế gian gọi là tình yêu? Và thiếp đã khóc vì sợ mình sẽ bị Trình tiểu thư xua đuổi, bắt phải xa tướng công.
Tử Khuê bàng hoàng nhớ đến mối tình tuyệt vọng của Thái Sơn Tiên Nương và Cửu Hoa Thánh Y. Đúng là những nữ nhân lãnh cảm vẫn có thể yêu. Thân xác họ nguội lạnh nhưng trái tim chẳng bao giờ thôi xúc cảm. Tử Khuê đã kể hết gia thế và tao ngộ trong cuộc đời mình cho Tái Vân nghe, nên nàng biết tính nết của Kỹ nương cũng như Thiên Kim. Nghĩa là không còn chỗ cho Tái Vân trong Quách gia trang và Tử Khuê thì chẳng thể phụ bạc tấm lòng trinh liệt của Thiên Kim. Tái Vân hiểu được điều ấy qua thái độ câm lặng của Tử Khuê. Nàng ngồi dậy, nhìn vào mắt chàng và nói với giọng thiết tha:
- Thiếp quyết chẳng để tướng công phải khó xử nên sẽ rời xa chàng trước khi đến Kỹ gia trang. Trong những ngày còn lại, mong tướng công đối xử với thiếp như người vợ thực thụ để hóa giải tai họa Lôi giáng. Sau này xa cách, thiếp sẽ vẫn chung thủy đúng như lời thề xưa, chắc là Lôi Thần sẽ nguôi giận.
Nói xong, Tái vân run rẩy cởi áo ngủ và yếm đào, để lộ phần thân trên kỳ diệu của mình. Và nàng cầm tay Tử Khuê đặt vào đôi nhũ phong mơn mởn tựa đào tơ. Tử Khuê hiểu rằng đây là cách duy nhất để cứu Tái Vân và giải quyết mối quan hệ éo le của hai người. Hơn nữa, chàng thực sự bị quyến rũ bởi nét đẹp thiên kiều bá mị của Tái Vân. Tử Khuê say đắm vuốt ve thân thể ngà ngọc của Tái Vân. Nàng hân hoan đón nhận nhưng da thịt chẳng hề có dấu hiệu của sự động tình và ánh mắt thấp thoáng vẻ sợ sệt. Tử Khuê xót thương vô cùng và hiểu rằng mình không thể ái ân với Tái Vân được. Chàng nghe lửa dục nguội dần và định bỏ cuộc. Nào ngờ, bên tai Tử Khuê bỗng nghe văng vẳng tiếng ai, nhỏ tựa tiếng muỗi vo ve:
- Hãy điểm vào bốn huyệt Thủy Đạo, Phủ Xá, Quan Nguyên, Âm Giao trên bụng và ba huyệt Yên Du, Huyền Khu, Cân Súc trên xương sống.
Giọng nói đầy ma lực khiến Tử Khuê răm rắp làm theo, chẳng chút nghĩ ngợi. Chàng là đại cao thủ trong nghề phất huyệt môn nên chẳng cần nhìn cũng có thể điểm rất chính xác. Sau bốn huyệt trên bụng dưới, Tử Khuê lòn tay bấm tiếp ba huyệt dưới lưng người ngọc. Kỳ diệu thay, gương mặt trắng trẻo của Tái Vân bỗng đỏ hồng và ánh mắt rực rỡ nỗi khát khao. Nàng háo hức mời gọi ái ân và rồi đắm mình trong hoan lạc. Đến tận cuối canh hai đôi uyên ương mới rời nhau. Tái Vân gối đầu lên vai Tử Khuê, thẹn thùng nói:
- Sao tướng công biết phương thức hóa giải khuyết điểm của “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp”. Giờ thiếp đã là một người đàn bà trọn vẹn rồi.
Tử Khuê nhớ lại, hiểu rằng hồn ma Lỗ phán quan đã chỉ điểm cho mình lúc nãy chứ chẳng còn ai khác. Chàng vô cùng hổ thẹn khi nghĩ đến việc lão chết tiệt ấy đã rình xem cảnh phong lưu giữa mình và Tái Vân. Nhưng Tử Khuê cho rằng lão là ma nên không giận. Tất nhiên, chàng chẳng thể nói thực với Tái Vân, đành gượng cười:
- Phương pháp ấy ta học trong sách thuốc từ lâu, nay dùng thử không ngờ lại công hiệu.
Tái Vân định nói gì đấy nhưng lại thôi.
Sáng ra, hai người xuôi Nam, từ Lạc Dương xuống Nam Dương còn có đường khác, không phải qua Hứa Xương. Niềm hạnh phúc được trở thành người đàn bà thực thụ đã biến đổi tâm trạng Tái Vân. Sau lớp sa đen buông quanh vành nón rộng, nụ cười kiều mị thoáng điểm và ánh mắt nàng dành cho Tử Khuê luôn chất ngất yêu thương và mê đắm. Nàng càng vui hơn khi thức ngộ Tử Khuê cũng yêu mến mình. Tái Vân sung sướng vì điều ấy và thề sẽ lấy cho được chàng, dẫu phải chịu muôn ngàn cay đắng cũng chẳng từ nan. Nhưng giờ đây, nàng chưa vội thổ lộ ý định nọ.
Xế chiều mùng bảy tháng sáu, cặp đạo sĩ giả hiệu đến cánh rừng hòe ngoại thành Nhữ Châu. Thành nằm cạnh sông Nhữ Hà nên mới có tên như thế. Mùa hạ là mùa của loài hòe nên cành lá sum suê, um tùm, che mát cả một đoạn quan đạo dài đến tận mấy dặm. Và lúc này đang là tháng sáu, hoa hòe nở rộ vàng rực bên đường, hương thơm ngào ngạt. Không những thế, hoa rụng đầy đường tựa như tấm thảm gấm vàng đón chào người lữ khách. Hoa hòe được dùng làm thuốc nhuộm và còn là nguồn tạo ra mật ong tốt nên loài vật nhỏ bé siêng năng ấy bay lượn khắp nơi, ve ve góp tiếng cùng lũ ve sầu đang rỉ rả khóc than. Đàn ong gợi cho Tử Khuê nhớ đến Thiên Kim, người con gái nuôi ong ở đất Trình. Lòng chàng thắt lại vì hổ thẹn. Tử Khuê do hoàn cảnh mà ngày càng say đắm Tái Vân nhưng vẫn yêu Thiên Kim hơn cả. Dẫu cho tập quán đa thê được thế gian công nhận song đấy vẫn là hành vi bất nghĩa mà người quân tử không làm.
Dòng suy tư phiền muộn của Tử Khuê bị cắt ngang bởi chuyện lạ trước mắt. Bên vệ đường mé hữu có một toán kỵ sĩ đang nghỉ chân. Họ gồm bốn người, áp giải một cỗ tù xa. Trong xe tù là một nam nhân áo đen, vóc dáng trung bình. Gọi là lạ vì bốn kỹ sĩ kia chẳng phải là công sai mà là cao thủ của Xoa Lạp cốc, còn cỗ xa tù thì lại cắm cờ Tổng đàn Võ lâm. Tử Khuê biết lai lịch họ là nhờ nhận ra hai gã trung niên đã từng chặn đánh chủ tớ Trình Thiên Kim ở cổng Tịch Hà Đệ nhất tửu quán. Tử Khuê và Tái Vân chẳng có gì phải sợ vì đang mặc y phục đạo sĩ và đội nón tre có riềm the đen phủ kín mít. Bộ đạo bào hơi rộng nên đã che giấu thân hình thon thả của Tái Vân, khiến người ngoài thoạt nhìn khó biết là nam hay nữ. Nhưng khi đi ngang qua cỗ xe tù, thấy gương mặt tiền tụy, lem luốc của tù nhân, chẳng hiều sao Đông Nhạc Tiên Hồ lại thoáng rùng mình.
Hai người chậm rãi phi nước kiệu trước ánh mắt soi mói, đề phòng của 4 kẻ giải tù đang ngồi trên bãi cỏ. Lúc đã khuất tầm mắt của họ bởi một khúc đường quanh co, Tái Vân bỗng đưa tay ra hiệu cho Tử Khuê rẽ vào lối mòn. Rồi nàng hạ mã, quỳ xuống mặt cỏ, dập đầu lạy chàng và khóc nói:
- Tướng công! Người tù nhân kia chính là đại ca của thiếp. Hai mươi năm trước, nhà thiếp ở vùng quan tái phía bắc tỉnh Hà Bắc, cha làm Tri huyện huyện Ngọc Điền. Tiên phụ tính tình thanh liêm, chính trực, từng gởi tấu chương về kinh sư để đàn hặc tội tham nhũng, xén bớt quân lương của Tri phủ Bắc Bình là Lý Cần Khoa. Lão cẩu quan ấy được Thái sư đỡ đầu nên đã bình an vô sự và còn biết ai đã tố cáo mình. Thế là lão ta liền mướn cao thủ đến tàn sát gia đình thiếp. Nam phụ lão ấu, tổng cộng hai mươi tám người đã bị giết, chỉ mình thiếp và đại ca Dịch Quan San thoát ra được. Biết rằng ở lại quê nhà sẽ khó sống sót dưới tay Lý Tri phủ nên gia huynh đã cõng thiếp lúc ấy mới năm tuổi trốn vào Trung Nguyên. Sau khi gởi gắm thiếp cho tiên sư là Thái Sơn Nương Nương, gia huynh đi tìm bậc dị nhân mà học thêm võ nghệ. Tiên sư chính thực là đại di của anh em thiếp. Song vì võ công của bà không thích hợp với nam nhân nên đã giới thiệu gia huynh với một bằng hữu của mình.
Ba năm sau, gia huynh quay về cố quận, hành thích Lý Tri phủ rửa thù nhà. San ca đã tra khảo Lý Tri phủ để biết lai lịch toán sát thủ mà lão ta đã mướn. Kể từ lúc ấy, gia huynh dành cả cuộc đời cho việc truy tầm sào huyệt của Hoạch Đầu hội. Nay chẳng hiểu sao Âu Dương Mẫn lại cho người truy bắt gia huynh? Thiếp xin dập đầu khẩn cầu tướng công bạt kiếm cứu y. Thiếp nguyện làm thân trâu ngựa mà hầu hạ tướng công suốt kiếp này và muôn kiếp khác.
Tái Vân kể lể một hơi rồi gục vào ngực Tử Khuê mà khóc vùi. Chàng đã sớm xuống ngựa đỡ nàng lên chứ không để mỹ nhân quỳ lâu như thế. Tử Khuê không ngờ cuộc đời Đông Nhạc Tiên Hồ lại đầy bất hạnh đến vậy. Chàng xúc động đưa tay lau nước mắt trên má nàng và nghiêm nghị nói:
- Vân muội cứ yên lòng. Tất nhiên là ta phải cứu Đại cửu tử của mình rồi.
Tái Vân choáng váng bởi niềm hạnh phúc bất ngờ, hiểu rằng Tử Khuê đã quyết lấy mình làm vợ. Nàng e ấp thỏ thẻ:
- Đa tạ tướng công đã xót thương thân phận bọt bèo này. Song thiếp chỉ e tình khang lệ của chàng sẽ vì thế mà sứt mẻ.
Tử Khuê cười buồn:
- Thiên Kim tính tình cương liệt, hào sảng chẳng kém bậc tu mi, hy vọng sẽ rộng lượng chấp nhận mối nhân duyên kỳ lạ của chúng ta. Nhưng theo gia quy nhà họ Quách, nàng phải cam phận nhị phòng, chịu nhiều thiệt thòi.
Tái Vân sung sướng đưa tay bịt miệng tình quân, vui vẻ nói:
- Tướng công bất tất xót xa cho thiếp. Được hầu hạ chàng và Trình tiểu thư là thiếp mãn nguyện lắm rồi. Hơn nữa, thiếp không sinh nở được, sao dám so bì với Thiên Kim ?
Tái Vân rất thản nhiên khi nói lên điều đau lòng ấy. Nhưng thực ra, cũng chẳng có gì đáng buồn vì phong tục xã hội đương thời quy định rằng con của thiếp phải xem người vợ cả là đích mẫu và nàng chỉ như kẻ mang thai hộ mà thôi. Vả lại, việc sanh nở sẽ khiến nhan sắc nữ nhân tàn phai nhanh chóng, một điều mà Tái Vân tối kỵ. Không còn bận bịu con cái, nàng sẽ luôn được thảnh thơi cùng Tử Khuê hưởng lạc thú hoặc sánh vai hành hiệp. Là người cơ trí, Tái Vân biết mình phải làm gì, liền dặn dò Tử Khuê:
- Thiếp cho rằng tướng công nên giữ kín việc thiếp không còn là thạch nữ, như thế sẽ khiến Trình thư yên tâm hơn.
Tử Khuê mỉm cười giả lả rằng:
- Trò xảo quyệt ấy ta không làm được. Nếu Thiên Kim hỏi thì ta chẳng thể giấu vì phu thê phải luôn thành thực.
Tái Vân đỏ mặt vì xấu hổ song trong lòng thầm kính phục Tử Khuê. Nàng liền đánh trống lảng bằng cách bàn định kế hoạch giải cứu Dịch Quan San.
- Tướng công! Chúng ta sẽ giải cứu Dịch đại ca bằng cách nào?
Nàng nổi danh là hồ ly núi Thái Sơn, mưu kế có thừa, song vì kính yêu phu tướng mà chẳng dám khoe tài, tế nhị hỏi ý kiến Tử Khuê. Tuy dung nhan trẻ tựa gái đôi mươi, Tái Vân vẫn tự hiểu mình đã 26, không nên tỏ ra quá lão luyện khiến chàng trai non nớt kia mặc cảm. Nam nhân thích là cây sồi vững chắc cho nữ nhân nương tựa chứ không muốn kém cạnh đàn bà. Tái Vân tưởng Tử Khuê sẽ vấn kế mình, nào ngờ chàng lại từ tốn đáp:
- Bốn kỵ sĩ chính là cao thủ Xoa Lạp cốc, bản lĩnh rất cao cường. Chúng ta chỉ có hai người, chẳng thể nào ngăn cản họ hạ sát Dịch đại ca khi thấy nguy. Vì vậy, ta nghĩ rằng phải chờ họ vào thành Nhữ Châu nghỉ trọ rồi hẵng ra tay. Tù xa phải để ở ngoài quán và phe đối phương luân phiên canh giữ. Khi họ chỉ còn một hoặc hai người thì việc cướp tù rất dễ dàng.
Tái Vân nghe đúng ý mình chẳng sai một nét, lòng vô cùng cao hứng, thán phục. Nàng kiễng chân lên hôn vào má chàng và tán dương:
- Tướng công quả là bậc tài trí, liệu việc như thần.
Tử Khuê cười mát:
- Ta làm sao dám sánh với nàng.
Gần cuối canh hai đêm ấy, trăng thượng huyền bàng bạc giữa không trung tỏa ánh sáng dịu dàng vuốt ve vạn vật, song không làm lộ tung tích hai khách dạ hành đang ẩn mình trên tàng cây du rậm rạp, cạnh bức tường cao của Hoàng Lương đại lữ điếm trong thành Nhữ Châu. Tử Khuê và Tái Vân ngồi bên nhau trên một chảng ba, nhìn xuống cỗ tù xa không ngựa đặt trên một sân gạch rộng ở giữa dãy phòng ốc của lữ điếm. Xe tù thực chất là một xe độc mã không mui, trên có cũi gỗ chắc chắn. Cũi gỗ ấy chỉ cho vừa đến vai người ngồi bệt nên đầu của tù nhân sẽ ló ra ngoài. Nhưng cạnh bên của cũi tù kết cấu bằng những thanh song gỗ lớn nhưng mặt trên là hai mảnh ván dày. Chỗ tiếp giáp là hai mảnh ván ấy có khoét lỗ để gông ngang cần cổ tù nhân. Lỗ này rộng hơn vòng cổ một chút nhưng đủ hẹp để đầu không qua được. Nghĩa là kẻ phạm tội phải giữ mãi tư thế khổ sở ấy suốt những dặm đường áp giải. Tất nhiên hai tay họ bị xích chặt, chẳng thể thò ra tháo chốt gông được.
Kích thước cũi tù tính theo tầm vóc trung bình của người Hán nên tù nhân nào quá cao hoặc quá thấp thì sẽ phải khốn khổ, khốn nạn.
Tử Khuê ngắm nghía cỗ tù xa và thảm trạng của tù nhân mà lòng bất nhẫn. Chàng chua chát nghĩ thầm:
- Tại sao một dân tộc có nền văn hóa rực rỡ như Trung Hoa lại có thể sáng chế ra cái loại hình cụ đáng ghê tởm đến thế nhỉ? Sao không để cho kẻ xấu số kia lọt hẳn vào trong cũi, ngã lưng đôi chút trên nệm rơm?
Tử Khuê bỗng rùng mình nhớ lại tướng nước Tần, Võ An Quân Bạch Khởi, trong một đêm đã cho giết sạch bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu khi chiếm được ải Trường Bình. Sử chép rằng ngày ấy máu đổ nhiều đến nỗi nước sông suối, ao hồ của vùng Dương Cốc đều biến thành sắc đỏ. Trước hành vi tàn nhẫn phi thường ấy thì cũi tù quái ác kia nào có đáng gì! Tử Khuê là người nhân hậu, tin vào trời đất, quỷ thần nên chán ghét điều ác.
Chàng chợt nghĩ đến bộ lạc người Di hiền lành ở vùng núi Vũ Lương sơn và cho rằng họ tốt hơn người Hán rất nhiều. Khổng Phu Tử luôn đề cao đức nhân vì thiên hạ vốn bất nhân, nhất là bọn vua quan. Bất giác, Tử Khuê thở dài khiến Tái Vân thắc mắc, nàng nghé tai chàng nũng nịu thì thầm:
- Tướng công phiền muộn vì điều gì vậy, sao không chia sẽ với thiếp.
Tử Khuê chưa kịp đáp thì trống canh ba từ huyện đường vọng lại, sau đó là tiếng mõ tre của những gã tuần đêm, nhắc nhở bách tính cài chặt then cửa, dập lửa trong bếp, đề phòng đạo chích cùng hỏa hoạn. Phía dưới sân kia, đối phương đã thay ca gác, một già, một trẻ. Theo kế hoạch, Tử Khuê cùng Tái Vân đợi thêm ít khắc, chờ hai kẻ đã đi vào phòng ngủ thật say và hai kẻ ở ngoài cũng gật gù mới ra tay thần phục. Nhưng cặp mới thay ca lại lớn tiếng gọi bình trà thật đậm khiến Tử Khuê quyết định thay đổi chiến thuật. Chàng nói nhanh ý mình rồi nhảy xuống đất, chạy vào khu nhà bếp. Thấy gã tiểu nhị của lữ điếm đang lui cui pha trà và chỉ có một mình, Tử Khuê liền điểm huyệt gã rồi lột áo mặc bên ngoài bộ hắc y. Người võ lâm nào cũng có trong tay nải một bộ y phục sẫm màu, thường là màu đen, may bằng lụa tốt, bó sát thân mình để dễ bề hành động trong đêm tối.
Khi rời nhà, Tử Khuê không mang theo “Hắc Long Tiêu” nhưng lại chẳng quên đôi bao tay “Ngư giáp miệt” cực kỳ quý giá. Đêm nay, chàng đã sớm đeo vào, tăng cường ưu thế để có thể kết liễu đối thủ thật bất ngờ và chóng vánh. Dưới ánh trăng mờ ảo này, người ngoài sẽ khó mà nhận ra việc chàng mang bao tay, nhất là khi chúng đã được quét lên một lớp sơn màu da người.
Tử Khuê chít dải khăn của gã tiểu nhị lên đầu, cố tình để một đầu khăn rũ xuống che bớt khuôn mặt.
Chàng đã để trường kiếm lại cho Tái Vân nên giờ đây hai tay rảnh rang, bưng khay đồng đựng ấm chén trà. Khi Tử Khuê bước đến gần chỗ cỗ xe tù thì Tái Vân cũng lần tới mép mái ngói của dãy Tây sương, chờ phối hợp hành động. Hai kẻ gác tù đang ngồi trên một mành chiếu, cách tù xa hơn trượng. Họ không dám ngồi gần vì xe tù rất hôi hám, sặc mùi nước tiểu. Tội nhân chỉ được phép xin dừng xe để đại tiện mỗi ngày một lần, còn tiểu tiện thì tại chỗ ngồi. May thay, Dịch Quan San chưa ngủ, rầu rĩ ngửa cổ ngắm những vầng trăng mùa Hạ. Và khi liếc về hướng Tây, gã đã phát hiện một hắc y nhân trên rìa ngói. Người này giơ hai bàn tay trắng muốt như ra dấu với gã. Dịch Quan San nhận ra đối phương cứ vẽ lên không trung một chữ “Vân” thì biết là bào muội mình. Gã vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa tỏ vẻ đã hiểu ý. Rồi gã bắt đầu ho lên sù sụ, liên miên như đứa trẻ bị ho gà. Những âm thanh ấy đã che giấu tiếng động mà Tái Vân sẽ gây ra khi nhảy xuống đất, phía sau hai gã Xoa Lạp cốc. Cặp cai tù cùng ngồi quay về hướng Đông để có thể quan sát cỗ tù xa.
Cuối cùng, Tử Khuê cũng đã đến bên chiếc chiếu, còn Tái Vân thì cách chỉ gần một trượng. Đêm hè oi bức nên hai vị cai tù đã lột bỏ tơi nón, tạm quên mình là người của Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy Tử Khuê nhận rõ dung mạo nạn nhân của mình. Đấy là Hán tử tuổi bốn mươi mà chàng đã gặp và một lão nhân tuổi lục tuần, không râu, mũi to, mặt xương xẩu, đanh ác. Hai người ấy ngồi xếp bằng, kiếm tuốt trần gác lên đùi, và vì là kẻ lão luyện giang hồ nên họ đã sớm đặt tay lên chuôi gươm để đề phòng bất trắc, dù gã tiểu nhị kia không hề có khí giới. Tử Khuê thản nhiên ngồi cạnh manh chiếu, đặt khay trà xuống, và chàng mỉm cười, hắng giọng như chuẩn bị nói vài lời nịnh nọt vậy. Nhưng không phải thế, đấy chính là ám hiệu để Tái Vân xuất thủ. Nàng đang ngồi thu lu sau một chậu hoa, nghe hiệu lệnh của tình lang thì búng mạnh đôi chân lao vút đến. Khi một kẻ bị định đánh lén từ phía sau lưng, trong một khoảng cách quá gần như thế thì rất khó toàn mạng. Lưỡi kiếm của Tái Vân đã tiện phăng cổ Hán tử trung niên, khiến tiếng rú bi thương không sao phát ra được. Trước đó một khoảnh khắc nhỏ bé, Tử Khuê đã vươn tả thủ thọc vào yết hầu người còn lại. Lão ta thuộc hàng Hộ pháp của Xoa Lạp cốc nên bản lãnh chẳng tầm thường, lại sớm vận khí phòng bị nên phản ứng rất mau lẹ. Thanh bảo kiếm trên đùi lão lập tức ngóc lên, chặt vào cổ tay Tử Khuê. Đồng thời, tay trái của lão xỉa thẳng vào ngực chàng theo thế cương đao. Hai thế thức nọ đúng là công thủ vẹn toàn nhưng chỉ tiếc rằng vô hiệu đối với “Ngư giáp miệt”. Lưỡi gươm sắc bén của lão ta không chặt đứt được uyển mạch Tử Khuê, còn tả thủ thì chạm phải lòng bàn tay phải cứng như thép nguội mà chàng đã thủ hờ. Bốn ngón tay của Tử Khuê xuyên thủng cổ họng nạn nhân, phá nát cả khí quản lẫn thực quản nên những tiếng rên ằng ặc, tắc nghẹn không làm chấn động cảnh đêm trăng tĩnh mịch.
Sau khi đắc thủ, hai người lập tức chạy đến tù xa. Trong lúc Tử Khuê loay hoay tháo chốt gông cổ, Tái Vân ôm đầu bào huynh mà khóc:
- Đại ca! Đã hơn 5 năm không gặp, nào ngờ đại ca lại rơi vào cảnh ngộ này.
Dịch Quan San cằn nhằn:
- Hồi nhỏ ngươi khóc lóc chưa đủ sao? Mau đưa ta rời chốn này kẻo không kịp nữa.
Tử Khuê đã tháo được hai mảnh gông, vươn vai nhấc bổng tù nhân ra ngoài, bồng xốc họ Dịch rồi cùng Tái Vân lướt về phía vườn hoa nhỏ sát tường sau lữ điếm. Chàng thuận đà chạy nên có trớn lao vút qua bức tường cao gần trượng khiến Dịch Quan San vô cùng thán phục. Gã nằm ngửa nên nhìn rõ nét mặt trẻ trung, văn nhã của Tử Khuê, liền nghĩ thầm:
- Tiểu tử này là học trò của bậc dị nhân nào mà võ công lại cao cường đến thế nhỉ? Tướng mạo y đầy vẻ thuần hậu, thiện lương, sao lại xui xẻo đến mức bị em gái ta chài mồi lợi dụng. Ta phải bảo Vân muội buông tha cho gã mới được.
Dịch Quan San thừa biết bào muội mình là thạch nữ nên sẽ chẳng thực lòng với bất cứ nam nhân nào. Nửa khắc sau, ba người về đến một tòa trang viện hoang phế gần cửa Tây thành. Tử Khuê và Tái Vân đã chọn nơi này làm chỗ trọ để dễ bề hành động. Họ không thể đưa Dich Quan San đến khách điếm được. Đã lâu không có người chăm sóc nên tòa phế trang tiêu điều. Cỏ dại và bụi rậm mọc đầy sân. Tuy nhiên, tường và cổng trang còn nguyên vẹn nên người ngoài chẳng thể thấy ánh đèn phát ra từ một phòng ở dãy nhà hướng Đông. Nó tương đối tốt vì Tái Vân đã quét dọn rất sạch sẽ. Nhà hoang chẳng có vật dụng gì cả song may thay những chiếc lu sành sau bếp lại đầy ắp nước mưa. Dẫu là anh em một thì trai gái cũng không thể tắm cho nhau nên Tử Khuê phải lãnh luôn nhiệm vụ cọ rửa cái xác thân hôi hám của Dịch Quan San. Gã đã kiệt lực chẳng còn sức đâu mà kỳ cọ. Chàng rất ngạc nhiên khi họ Dịch cẩn thận gỡ tấm mặt nạ da người, để lộ một dung mạo tuấn tú, khá giống Tái Vân.
Gần nửa canh giờ sau, họ Dịch sạch sẽ và tươi tỉnh trong y phục mới. Tái Vân đã mua sẵn cho bào huynh bốn năm bộ và đồ lót. Món cháo gà hầm tam thất nóng hổi và vài chung rượu ngon đã làm cho gương mặt tái sanh của Quan San có sắc hồng. Trước đó, gã đã được Tử Khuê cho uống ba viên linh đan do mẹ chàng bào chế theo toa trong y kinh của Cửu Hoa Thánh y.
Dịch Quan San là kẻ thâm trầm, kín đáo, cơ trí còn tinh minh còn hơn cả Tái Vân. Cho nên, đến tận lúc này gã mới mở miệng, nghiêm trang bảo Tử Khuê:
- Này Quách công tử! Tại hạ thọ ơn cứu mạng nên chẳng thể lừa dối ân nhân của mình. Tại hạ xin nói thực rằng gia muội là người mắc quái tật không thể làm vợ, làm mẹ được. Do vậy, tốt nhất là công tử nên cắt đứt mối tình duyên này tìm một nữ nhân toàn vẹn hơn mà gá nghĩa.
Gã tưởng chàng sẽ nhảy dựng lên, nào ngờ Tử Khuê chỉ mỉm cười, hòa nhã đáp:
- Cảm tạ đại ca đã có thành ý. Nhưng thực ra tiểu đệ đã sớm biết việc này và vẫn yêu thương Tái Vân.
Đông Nhạc Tiên Hồ nhìn gương mặt ngơ ngác của bào huynh mà phá lên cười ngặt nghẽo. Rồi nàng ghé tai thì thầm khiến Dịch Quan San giật mình mừng rỡ, cười khà khà:
- Hay lắm! Đại ca xin chúc mừng cho hai người.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Sáng ngày hôm sau nữa, tức mùng mười tháng sáu, một cỗ xe song mã sang trọng ung dung rời cửa nam thành Nhữ Châu. Rèm che cửa sổ hai bên không buông xuống nên thiên hạ có thể thấy trong thùng xe là một đôi uyên ương già, nam tuổi xấp xỉ bốn mươi, còn nữ độ tam tuần. Độ lệch chín mười năm của niên kỷ chẳng quan trọng trong hôn nhân nhưng hơn kém về dung mạo mới là việc đáng bàn. Người chồng vừa già vừa xấu, tuy vóc dáng hiên ngang nhưng da đen như trôn chảo, trán và má phải có bướu thịt lớn cỡ quả nhãn. Ngược lại, người vợ trẻ kia khá xinh đẹp, phong vận có vẻ lẳng lơ, phấn son đậm nét, nên đôi môi dày mọng và cặp mắt phượng long lanh rất chi là gợi cảm. Thân hình nàng thon thả nhưng nở nang, so với Đông Nhạc Tiên Hồ có lẽ hấp dẫn hơn một bậc. Đôi phu thê đũa lệch ấy nổi danh trong giới võ lâm Tứ Xuyên với mỹ hiệu Tử Bạch song kiếm, do nam chuộng màu tía, còn nữ thích màu nguyệt bạch. Nam tên Liễu Từ Sơn, người phủ Nam Sang, vùng đất trù phú ở giữa tỉnh Tứ Xuyên. Gã rất giàu nên dù xấu trai vẫn lấy được vợ trẻ đẹp tên là Đảo Tích Xuân, tiểu sư muội của mình. Hai vợ chồng đều giỏi kiếm pháp bèn tự xưng là Tử Bạch song kiếm. Từ ngày có vợ đẹp thì họ Liễu ít giao thiệp với người ngoài vì sợ mất Tích Xuân. Do đó thỉnh thoảng vài năm người ta mới thấy Tử Bạch song kiếm rời Nam Sang.
Liễu Từ Sơn ghen tuông như thế tại sao lại mướn một gã xà ích đẹp trai hơn mình? Gã này tuổi độ bốn mươi mốt, bốn hai, mặt chữ điền, rắn rỏi, mũi cao, mắt sáng, miệng rộng, tuấn tú hơn Từ Sơn tám chín bậc. Thực ra, gã phu xe hèn mọn ấy còn nổi tiếng hơn Tử Bạch song kiếm. Mười mấy năm nay giang hồ vẫn thường nhắc đến một nhân vật thần bí có danh hiệu là Vô Tướng Quỷ Hồ Tạ Dương. Họ Tạ có tài dịch dung đứng vào thượng thừa, biến hóa đến mức chẳng ai biết được mặt thực. Về cơ trí thì gã xảo quyệt mưu mô chẳng kém cáo chồn, dẫu hoàng cung cũng có thể mò vào. Hai điều ấy đã tạo nên danh hiệu song vẫn chưa đầy đủ vì Tạ Dương còn là kiếm thủ dũng mãnh và lợi hại. Người võ lâm sẽ té ngửa khi biết Vô Tướng Quỷ Hồ là bào huynh của Đông Nhạc Tiên Hồ, mỹ nhân số một của Trung Nguyên. Và hôm nay khi Dịch Quan San để lộ chân diện mục mà đóng vai xà ích thì cặp uyên ương trong xe phải là em gái và em rể của gã, tức Tái Vân và Tử Khuê.
Dịch Quan San quen thân với Tử Bạch song kiếm, biết rằng vợ chồng họ Liễu đang bận rộn bởi đứa con mới chào đời, chẳng thể rời nhà một bước. Vì vậy gã đã hóa trang cho hai em mình thành đôi cao thủ đất Tứ Xuyên. Khi xuôi nam, họ có thể gặp người của Thần Đao bảo nên Tái Vân cần giấu mặt. Phần Dịch Quan San thì không đáng ngại sao? Gã đã chẳng phải bị bắt một lần rồi đấy ư? Họ Dịch ngượng ngùng nhớ lại việc mình rình mò vào Tổng đàn Võ lâm ở Trịnh Châu, trộm được một túi lớn châu báu, cùng tấm bản đồ da dê cũ kỹ, nhưng xui xẻo bị lộ bởi một con chó chết tiệt. Gã phải bỏ của chạy lấy người và tuột mất một chiếc giày vải. Nào ngờ, Âu Dương Mẫn lại âm thầm liên minh với Xoa Lạp cốc nên lúc ấy có mặt lão Thất hộ pháp của phe tơi nón. Lão ta được trời ban cho cái lỗ mũi thính hơn chó săn, đánh hơi chiếc giày mà truy đuổi đến tận huyện Y Dương, cách Nhữ Châu vài chục dặm về hướng tây. Dịch Quan San bị bắt sống ngay trong một quán trọ, mất “Tàng bảo đồ” và còn xém bị giết. Với cơ trí tuyệt luân, họ Dịch khôn khéo nói rằng mình đã tìm ra bí mật của bản đồ ấy và sẽ tiết lộ khi gặp Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn. Kế hoãn binh nọ đã kéo dài mạng sống của Quan San cho đến lúc gặp Tử Khuê và Tái Vân. Giờ đây cái lão mũi chó săn đã bị Tử Khuê giết chết, họ Dịch chẳng còn sợ ai tìm ra mình nữa.
Dịch Quan San nghe tiếng cười trong như ngọc vỡ của bào muội mà lòng ấm áp phi thường. Bao năm nay gã đau lòng vì số phận hẩm hiu của Tái Vân. Nàng chẳng bao giờ cười vui. Nên khi thấy nàng hạnh phúc, ấm áp chan hòa bên Tử Khuê, Quan San vô cùng hoan hỉ. Gã cao hứng quay người quất mạnh mấy roi vào mông của song mã, thúc giục chúng phóng thật nhanh. Từ Nhữ Châu lữ khách có thể đến Nam Dương bằng một con đường tắt, không phải qua Nghiệp Thành và Dụ Châu. Đường nhỏ vắng người nên cước trình của cỗ xe song mã khá mau lẹ, chỉ bảy ngày sau đã đến Nam Dương.
Trời đã quá ngọ, ba người ăn vội một bữa cơm rồi lên đường đi Bảo Bình ngay. Tử Khuê muốn đưa Tái Vân về ra mắt mẫu thân trước khi Trình Thiên Kim hiện diện. Theo dự định, lúc còn ở nhà thì Thiên Kim sẽ về Hầu phủ trước, và ngày mười tám mới có mặt ở Kỹ gia trang. Tử Khuê biết rằng mẹ mình vì thương con sẽ chấp thuận Tái Vân. Sau đó, Kỹ nương sẽ lựa lời khuyên giải Thiên Kim để nàng đứng ra nạp thiếp cho Tử Khuê. Giữa giờ thân, cỗ xe song mã đến Bảo Bình, không dừng lại mà rẽ đi vào đường nhỏ ngược lên hướng bắc Kỹ gia trang nằm cách huyện thành độ sáu dặm trong rừng cây ăn trái mênh mông bát ngát. Dặm cuối của con đường đất này sẽ đi qua khu rừng già râm mát, tài sản của Kỹ Tòng Thư. Nhưng đoạn phía ngoài đất đai khá cằn cỗi, hai bên gò đống lổm nhổm và mọc đầy cỏ dại, chỉ hợp với việc chăn dê, bò. Đi được hơn hai dặm thì ba người nghe phía trước vọng lại tiếng sắt thép chạm nhau gay gắt, tiếng quát tháo. Tử Khuê chột dạ nói lớn:
- Có thể Kỹ gia trang đã xảy ra biến cố gì, xin đại ca phóng thật nhanh cho.
Chàng chẳng nói thì Dịch Quan San cũng quất túi bụi vào mông ngựa khiến chúng lồng lên phi nước đại. Và gã chỉ gò cương khi còn cách đấu trường độ chục trượng.
Tử Khuê nhanh nhẹn trèo lên nóc thùng xe, chú mục quan sát. Chàng sợ đến toát mồ hôi khi nhận ra cỗ xe song mã quen thuộc mà song thân chàng thường sử dụng. Và cạnh đó, Kỹ nương, Trình Thiên Kim, Trình Kiếm Các cùng 8 ả nữ tỳ Hầu phủ, đang tử chiến trong vòng vây của gần trăm gã cao thủ Xoa Lạp cốc. Nghĩa là Kỹ nương đã thay đổi kế hoạch ban đầu, đi thẳng đến huyện Trình trước, gặp Hầu tước lão phu nhân để xác định mối lương duyên của Tử Khuê và Thiên Kim. Sau đó, mẹ chồng nàng dâu quay lại Bảo Bình dự đám cưới. Đã là thông gia nên Hầu phủ cử Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các đại diện mình đến chung vui với nhà họ Kỹ. Có lẽ Xoa Lạp cốc đang trên đường đến huyện Trình để tấn công Hầu phủ thì chạm mặt Thiên Kim. Họ đã bám theo đến tận đoạn đường vắng vẻ này mới ra tay. May mà trận địa rất gần Kỹ gia trang nên một tá điền của Tòng Thư đã chạy về thông báo. Kỹ gia trang đang mong chờ bào muội, nên đoán ra ngay lai lịch những vị khách gặp nạn. Ông lập tức kéo đi hơn trăm đệ tử giải vây.
Nhưng phe đối phương bản lĩnh rất cao cường, lại có vật che thân hữu hiệu là những chiếc nón tre lợp thép mỏng khiến cung tên của Kỹ gia trang mất tác dụng. Đám gia đinh chỉ còn biết chiến đấu bằng trường kiếm. Tòng Thư cùng ái nữ là Lưu Tiên dẫn đám thuộc hạ mở đường máu vào cứu, mười hai nạn nhân đang sa bẫy. Tổng số là mười hai vì trong xe thấp thoáng bóng của một lão nhân râu ba chòm, đích thị Quách Thiên Tường, chồng của Kỹ Thanh Lam. Lúc Tử Khuê nhận ra người thân thì tình hình của họ đã khá nguy ngập, vài tỳ nữ thọ thương, máu nhuộm đỏ y phục. Chàng nghẹn ngào nói nhanh với Dịch Quan San:
- Gia mẫu và gia phụ đang lâm nguy, xin đại ca giúp một tay.
Vô Tướng Quỷ Hồ lẳng lặng lao vút đi trước cả Tử Khuê. Tái Vân cũng bám theo tình lang và thỏ thẻ:
- Thiếp xin được chết như một nàng dâu nhà họ Quách.
Tử Khuê cảm động gật đầu song chẳng có gì để nói trong lúc này. Chàng lướt đi như tên bắn, cùng Quan San nhất tề tấn công hai tên tơi nón đang giao đấu với bốn đệ tử Kỹ gia trang. Đối tượng của Tử Khuê là một gã trung niên. Gã cảnh giác nhảy lùi khỏi hai địch thủ cũ mà đón đánh cái tên áo gấm, mặt sần sùi và đen như trôn chảo bằng một chiêu kiếm mãnh liệt. Tử Khuê đã sớm đeo “Ngư giáp miệt” nên thản nhiên, thò tả thủ chặn đứng thanh kiếm của kẻ thù và thọc một gươm vào mắt trái. Nhãn cầu và não bộ bị xuyên thủng, tạo ra cảm giác đau đớn tột độ khiến nạn nhân rú lên thảm khốc. Tử Khuê chẳng dừng chân, tiếp tục sấn tới. Mục tiêu thứ hai của chàng chưa hiểu đồng bọn bị thảm tử mau lẹ bởi thủ đoạn gì nên hung hãn lao vào báo phục. Tử Khuê lạnh lùng khoa nhanh tả thủ, trong chớp mắt đã khóa cứng vũ khí của đối phương rồi vung kiếm tiện đứt cánh tay phải. Chàng đã thức ngộ ra rằng cách hạ thủ này nhanh gọn và hiệu quả hơn nhiều, vì nạn nhân không thể dùng nón thép mà chống đỡ.
Dịch Quan San và Tái Vân cũng đã giết được một tên song khá vất vả. Gã thấy Tử Khuê tiến quá nhanh và sẽ chậm chân vì phía sau không có người bảo vệ, phải phân tâm đối phó. Gã liền kéo Tái Vân lao theo, đấu lưng với Tử Khuê, vừa đánh vừa lui theo bước tiến của chàng. Họ thủ nhiều hơn công, chỉ cốt để Tử Khuê an tâm mở đường máu. Bản lĩnh kiếm thuật của Đông Nhạc Tiên Hồ cũng rất cao siêu. Nếu không nàng đã chẳng có tên trong “Võ Lâm Ngũ Tú”. Nhưng do quý trọng nhan sắc, Tái Vân thương né tránh những cuộc chiến khốc liệt. Trong trận tranh giành “Diêm Vương quỷ kỳ” ở Kỹ gia trang lần trước, Tái Vân đã nhảy tót lên ngọn cây mà quan chiến, mặc cho Âu Dương Mẫn vào sinh ra tử. Nhưng hôm nay, Tái Vân chẳng còn màng đến dung nhan hay tính mạng, nguyện cùng Tử Khuê sống chết có nhau.
Nàng hiểu rằng Tử Khuê phải cứu cho được song thân bằng bất cứ giá nào, và nàng có nhiệm vụ giúp chàng, dẫu có mất mạng cũng cam lòng. “Thái Âm kiếm pháp” của núi Đông Nhạc là tuyệt học chỉ dành cho phái nữ, chiêu thức ảo diệu linh hoạt, chú trọng đến tốc độ và tính hiểm ác hơn là sức lực. Tái Vân rất thông minh và thừa xảo trá nên đã tiếp thụ trọn vẹn sở học của Thái Sơn Nương Nương. Và khi có dũng khí có của một kẻ dám hy sinh vì người yêu thì đường gươm của nàng càng ác độc bội phần. Thế gian vẫn truyền tụng câu “Tối độc phụ nhân tâm”, độc nhất là lòng dạ đàn bà, cho nên loại kiếm pháp dành đàn bà cũng đáng sợ chẳng kém gì bản chất của họ. Tái Vân thi triển “Thái Âm kiếm pháp” để giết người mà cứ như một tiên nữ đang múa điệu Nghê Thường. Thân hình nàng uyển chuyển, uốn éo cực kỳ đẹp mắt, môi anh đào nở nụ cười mê hoặc khiến đối phương ngơ ngẩn. Song đường gươm hoa mỹ, khinh khoái kia hàm chứa sát cơ vì gồm hàng trăm thế thức hiểm hóc thâm độc. Chính Dịch Quan San cũng phải khâm phục tài nghệ của em gái, khi thấy nàng vừa cười vừa đâm thủng hai người gã Xoa Lạp. Bản thân gã cũng chỉ thu hoạch được bấy nhiêu chiến tích.
Những áp lực xung quanh ngày càng nặng nề vì tiếng rên la xé lòng của những gã bị Tử Khuê chặt tay hay đâm chết đã đánh động đám cao thủ Xoa Lạp cốc già nua. Bọn lão thành ấy kéo đến, cố chặn bước tiến của ba người. Một lão cầm chân Tử Khuê và hai lão khác tấn công anh em họ Dịch.
Ba lão nhân nọ mặc áo tơi sơn màu xanh, chứng tỏ vai vế khá cao vì những gã trẻ hơn chỉ khoác áo tơi đen. Trong làng võ, độ tuổi từ năm mươi tới bảy mươi là khoảng thời gian mà bản lãnh người võ sĩ phát triển tốt nhất. Lúc ấy, tu vi đã thâm hậu, kinh nghiệm dày dạn, võ nghệ tinh thông. Sau đó cái già xồng xộc đến, mang theo bệnh hoạn nên phần lớn các võ sĩ có tuổi sẽ yếu đi. Tất nhiên cũng có ngoại lệ là những người chăm chỉ luyện khí công và không ăn chơi trác táng. Dẫu giỏi võ cách mấy mà cứ nốc rượu như hũ chìm, thức trắng đêm trong đổ trường, kỹ viện nhiều năm thì về già làm sao tráng kiện nổi. Tóm lại, ba lão sứ giả Xoa Lạp cốc đang hồi sung sức vì tuổi độ chỉ dưới trên lục tuần, thừa sức gây khó khăn cho bọn Tử Khuê.
Sau vài chiêu, Tái Vân bị trúng một kiếm vào bắp tay tả. Tiếng rên của nàng càng khiến Tử Khuê càng thêm nóng ruột. Chàng đã xuất chiêu “Kiếm Quải Thu Phong” mà không sao chiếm được chút lợi thế nào. Tử Khuê nghiến răng đánh chiêu “Thiên Đoạn Nhân Trường” (Trời cắt ruột người) trong “Oán Thiên kiếm pháp”, tấn công như vũ bão. Mấy trăm thế thức huyền ảo đã khéo léo đưa đối phương vào bẫy. Lão tơi nón hân hoan thọc nhanh một kiếm vào chỗ sơ hở chết người mà gã mặt đen vô tình để lộ ra. Bậc kiếm thủ thượng thừa luôn biết khai thác kịp thời những cơ hội ngàn vàng như thế. Nhưng khi thanh kiếm của lão ta vừa đâm rách da thịt Tử Khuê thì đã bị chàng thò tả thủ chụp lấy. Đồng thời mũi gươm của chàng chẳng rõ bằng cách nào đã xuyên thủng bụng đối thủ. Sau đó, Tử Khuê khẽ xoay bản kiếm, gạt xéo sang phải, cắt đứt phủ tạng nạn nhân. Vết thương trầm trọng này đã buộc lão già xấu xổ phải rú lên và ngã quỵ. Tử Khuê không phí thời gian kết liễu đời kẻ đã thọ thương, lập tức quay ngắt lại tấn công đối thủ của Tái Vân, một lão râu ba chòm rất đẹp.
Lão ta đành phải dùng khiên đỡ đòn của Tái Vân, còn trường kiếm thì đương cự với Tử Khuê. Khi đã phân tâm như vậy thì lão chẳng thể nào phá giải nổi chiêu “Thanh Long Lộng Nguyệt” của chàng. Trong chớp mắt chín đạo kiếm quang tựa móng rồng đã phủ lấy mục tiêu và đâm thủng ba lỗ trên người của lão.
Tử Khuê giải vây cho người yêu xong, quay lại đối phó với hai gã Xoa Lạp đang cắn trộm. Bàn tay trái của chàng chập chờn vài lượt đã tóm được lưỡi kiếm của một gã. Cùng lúc ấy, chàng điểm liền mười sáu nhát, đâm thủng tim gã còn lại. Cái gã bị Tử Khuê đoạt kiếm đã khôn ngoan bỏ vũ khí mà thoái bộ nên thoát chết. Và Tử Khuê sắp đến được với những người thân. Chàng đề khí tung mình qua đầu bốn năm gã Xoa Lạp cốc, rơi xuống sau lưng đối thủ của mẹ mình. Chân vừa chạm đất thì mũi gươm của chàng đã đâm thủng hậu tâm lão già nọ.
Kỹ nương vui mừng khôn xiết khi nghe gã mặt đen xấu xí kia khẽ lên tiếng:
- Mẫu thân! Hài nhi đây!
Giọng nói của con mình thì không một người mẹ nào lầm được. Nhưng Kỹ nương không dám hô hoán vì sợ bại lộ tung tích của Tử Khuê, liên luỵ đến Quách gia trang sau này. Tử Khuê đã quay sang, nhảy xổ vào địch thủ của Thiên Kim. Đấy là một gã thuận tay trái nên cầm nón sắt bằng hữu thủ. Tử Khuê chẳng khó chăn gì cũng chụp trúng chóp nón, hất ngược lên và đâm thủng sườn phải của gã. Nữ Hầu tước họ Trình đã thọ thương nơi bụng, máu đào loang ướt bộ võ phục bằng lụa xanh. Nàng nhìn ân nhân bằng ánh mắt biết ơn rồi lảo đảo, Tử Khuê kinh hãi đưa tay đỡ lấy nàng, điểm huyệt chỉ huyết và nói rằng:
- Kim muội! Vết thương có sâu đến phủ tạng hay không?
Thiên Kim giật mình hỏi:
- Tướng công đấy ư?
Thấy chàng gật đầu, nàng mừng đến ứa nước mắt dù miệng cười như hoa nở. Và nàng trấn an phu tướng:
- Tướng công chớ lo. Đây chỉ là vết thương ngoài da thôi.
Chỉ trao đổi được bấy nhiêu là họ đã phải vung gươm cự địch. Lúc này, Dịch Quan San và bào muội cũng đã đến nơi. Gã vỗ thử vào thùng xe và cao giọng:
- Tất cả những người bị thương nặng hãy lên xe.
Nói xong họ Dịch vung gươm chặt dây nhợ trên càng xe để tách rời thùng xe ra khỏi hai con ngựa đã chết bởi ám khí của Xoa Lạp cốc. Thứ ám khí độc đáo ấy là những chiếc nón thép. Lúc cần thiết, lớp tre bên ngoài được gỡ ra rất dễ dàng và lớp thép mỏng bên trong thừa sức cắt phăng da thịt của người hay vật khi được phóng ra với tốc độ kinh hồn. Có lẽ Xoa Lạp cốc chỉ muốn bắt sống Trình Thiên Kim, nếu không thì ngay từ đầu họ đã thi thố “Phi Lạp trận”. Gần trăm chiếc nón sắt nhất tề bay đến thì chẳng còn mấy người sống sót. Sau khi bốn tỳ nữ thọ thương đã vào trong thùng xe, Dịch Quan San và Trình Kiếm Các cùng nắm lấy càng xe kéo đi, cánh tay còn lại múa tít đao kiếm mở đường.
Trình lão nổi danh Phá Sơn Quyền là do lúc trẻ từng đến Giang Nam tranh chức “Giang Nam đệ nhất quyền thủ”. Lão đã lọt vào hàng ngũ mười người giỏi nhất đánh vòng chung khảo. Tuy bị thua ở vòng này song cái tên Phá Sơn Quyền cũng được tán tụng. Nhưng quyền thuật chẳng thể cạnh tranh với khí giới, bằng chứng là không có cuộc chiến tranh nào sử dụng nắm đấm cả. Bởi thế cho nên Trình Kiếm Các cũng phải học đao pháp. Lão lại may mắn thừa kế của sư phụ mình một thanh đao rất tốt. Tuy nó không sắc bén đến mức chặt gẫy được đao kiếm của đối phương, song lại đủ sức chém rách những chiếc nón bằng thép mỏng của bọn Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy mà Trình Kiếm Các đã giết được khá nhiều kẻ địch và hỗ trợ hữu hiệu cho đám nữ nhân. Nếu không họ đã chẳng cầm cự được đến giờ này. Lưỡi đao, lưỡi kiếm đều được mài rất sắc thì tại sao động tác chém lại là sở trường của đao ? Xin thưa rằng, đấy là vì đao nặng gần gấp đôi kiếm, lực đao rất mạnh mẽ và yếu tố quan trọng nhất chính là độ cong của lưỡi đao, lưỡi kiếm thì thẳng băng nên diện tích tiếp xúc với vật sẽ lớn, áp lực trải đều và phân tán. Trong khi ấy, do độ cong mà đao tiếp xúc với vật ít hơn, áp lực tập trung vào một đoạn nhỏ tất nhiên sức công phá sẽ rất mãnh liệt. Tóm lại đao chính là khắc tinh của các loại khiên thuẫn, nhất là thứ đao quý. Giờ đây, Trình lão hiên ngang bổ những nhát đao dũng mãnh khiến chiếc nón thép kêu lên loảng xoảng, ồn ào và rách toang. Ở tuổi 62, không vợ con, lấy võ học làm niềm vui nên bản lĩnh và nội lực của Trình Kiếm Các rất cao thâm.
Thấy Dịch Quan San phải đối phó vất vả với lũ tơi nón, Trình lão liền nói:
- Túc hạ hãy kéo xe một mình để lão phu mở đường cho.
Họ Dịch gật đầu, tra kiếm vào vỏ, dùng cả hai tay nắm lấy càng xe, ra sức kéo. Trình Kiếm Các rảnh tay hiển lộng thần oai, quét những đường đao rất rộng, đánh bạt bọn tơi nón trước mặt. Phần Tử Khuê thì cùng bảy nữ nhân kia bảo vệ thùng xe. Chàng không đứng yên một chỗ mà cứ lướt nhanh khắp lượt phòng tuyến, hỗ trợ người thân. Càng đánh lâu, Tử Khuê càng hiểu rõ lộ số thủ pháp đánh thuẫn tức nón thép của phe Xoa Lạp cốc. Và khi chàng đã biết rõ nó biến hóa như thế nào thì đối phương khó sống. Mũi kiếm của chàng chỉ điểm hờ vài lượt là đã xuyên qua màn lạp ảnh, đâm thủng người kẻ địch. Dĩ nhiên cùng lúc ấy chàng phải thi triển “Thao Quang thần thức” bên tay trái để chống đỡ đối với lưỡi gươm của kẻ thù. “Ngư Giáp miệt” đã phát huy hết oai lực của “Thao Quang thần thức” về mặt quyền thuật, song giá như nó còn để cho những tia chân khí ở đầu ngón tay của Tử Khuê thoát ra được thì hay biết mấy. Nhưng thực ra trong trường hợp đối phó với vũ khí thì phép “Cương Ty Phất Huyệt” không có hiệu quả cho lắm. Công lực Tử Khuê còn non, độ dài của tia chân khí chẳng vươn tới được cơ thể của kẻ thù. Với ưu thế hiện tại, Tử Khuê cũng đã là đại khắc tinh của Xoa Lạp cốc. Tiếng rên la liên tiếp vang lên của mấy chục nạn nhân khiến bọn sát thủ tơi nón phải chột dạ. Nhân số Xoa Lạp cốc giảm đi nhanh chóng theo bước tiến chậm chạp của cỗ xe không ngựa.
Mặt trận vòng ngoài cũng rất khả quan. Phe Kỹ gia trang nhờ nhân số đông gấp đôi, dùng hai chọi một nên chiếm thượng phong. Và cuối cùng cha con Kỹ Tòng Thư và đệ tử đã phá vỡ được phòng tuyến phía bắc, tiếp cận được với cỗ xe. Bọn Xoa Lạp cốc đã lùi hẳn về phía nam và còn bị vây kín mít. Kỹ nương thấy mặt huynh trưởng lập tức cúi xuống dập đầu:
- Đại ca! Đứa em bất mục, bất nghĩa này xin khấu đầu tạ tội với đại ca.
Kỹ Tòng Thư vội đỡ em gái lên, sa lệ nói:
- Lục muội! Ngu ca chưa bao giờ giận ngươi cả.
Kỹ Thanh Lam chưa kịp nói thêm lời nào thì từ xa vọng lại tiếng vó ngựa, tiếng trống chiêng của quân binh Bảo Bình. Vòng vây xung quanh bốn mươi mấy gã Xoa Lạp cốc càng vững chắc vì có thêm hai trăm quân của nha môn. Tri huyện Bảo Bình đã cùng viên lãnh binh đã kéo quân đi ngay khi nghe báo rằng có cường đạo tấn công phe Kỹ gia trang. Kỹ Tòng Thư tính tình hào phóng, rộng rãi, nên rất được lòng các quan lại địa phương.
Biết rằng có chống cự nữa cũng không thể nào thoát được, bọn Xoa Lạp cốc liền buông vũ khí đầu hàng. Người của nha môn lúc nào cũng mang theo xích sắt nên chỉ lát sau bọn tù bình đã bị trói chặt. Những tên thọ thương trong trận đánh lúc nãy đã bị các gia đinh bên Kỹ gia trang giết chết.
Dịch Quan San nghiêm nghị nói nhỏ với Tòng Thư:
- Kỹ trang chủ! Tốt nhất là nên giết sạch hàng binh, phi tang các xác chết, xem như bọn Xoa Lạp cốc chưa hề đến đây. Nếu không thì cả huyện đường lẫn Kỹ gia trang sẽ chẳng còn một mảnh ngói lành trước sự trả thù của Xoa Lạp cốc. Trang chủ không nhớ vụ huyết án Thanh Long trại hay sao?
Kỹ Tòng Thư rùng mình, suy nghĩ một lúc rồi bước đến bàn bạc với Hà tri huyện và Hồ lãnh binh. Hai người này vợ con đùm đề nên cũng sợ khiếp vía, liền đồng ý với kế hoạch của Tòng Thư. Hà tri huyện nhăn mặt nói:
- Kỹ lão huynh cứ tùy nghi xử trí. Bổn quan bảo đảm rằng bọn lính sẽ thủ khẩu như bình.
Nói xong, lão bảo Hồ lãnh binh thu quân, để bọn tù binh ở lại. Họ đi khuất rồi, Kỹ Tòng Thư lập tức ra lệnh:
- Giết hết bọn Xoa Lạp cốc cho ta!
Đám gia đinh nhà họ Kỹ hung hãn ùa đến, định thi hành lệnh của chủ nhân. Tử Khuê đang ở trong xe vấn an phụ thân, nghe câu nói đầy sát khí của Đại Cửu phụ thì rùng mình vội nhảy xuống đất và hét lên:
- Khoan đã! Xin chớ giết họ!
Tòng Thư đã biết gã mặt đen kia là cháu mình, liền cau mày bảo:
- Lão phu vì an nguy của chúng ta sau này nên không thể tha chúng được. Mong Khuê nhi hiểu cho.
Tử Khuê buồn bã khẩn cầu:
- Xin Cửu phụ để cho tiểu điệt thử một phen. Giết người vì tự vệ thì còn biện minh được chứ sát hại kẻ đã đầu hàng e rằng không nên.
Kỹ nương thở dài xen vào:
- Sát nhân nào phải chuyện tốt lành, nhưng xem ra chẳng còn cách nào khác. Khuê nhi chớ can thiệp vào.
42 gã tù binh Xoa Lạp cốc biết mình sắp bị giết thì lòng vô cùng kinh hãi. Họ đầu hàng vì biết chắc rằng sớm muộn gì Cốc chủ Xoa Lạp cốc cũng sẽ kéo đại quân đến phá lao cưỡng tù. Nào ngờ đối phương lại đoán ra điều ấy, chặt đứt sinh cơ bằng cách giết người diệt khẩu. Họ thuộc lớp đệ tử đời thứ tư, mới được tuyển mộ độ mười năm nay, tuổi trên dưới ba mươi, lứa tuổi cường tráng và khát khao sự sống. Đa số trong bọn họ là người thiểu số ở Sơn Tây, vì nghèo khổ mà phải gia nhập Xoa Lạp cốc kiếm chén cơm manh áo. Cao nguyên Sơn Tây rất lạnh giá, đất đai cằn cỗi, chỉ toàn là than đá, đất canh tác được rất ít. Nay đứng trước cái chết, những con người chất phác, thô lậu và khốn khổ ấy hoảng sợ đến mức tứ chi bủn rủn, mặt mày tái mét, ánh mắt đầy vẻ van xin, trông rất đáng thương. Họ đã loáng thoáng nghe được cuộc tranh luận của phe địch nên đặt hết niềm hy vọng vào cái gã mặt đen kia. Gã ta đúng là một hung thần, đã giết chết và đả thương khá nhiều đồng đảng của họ, nhưng không ngờ lại là kẻ có lòng nhân hậu.
Lúc này Tử Khuê đang cố van nài cậu và mẹ. Chàng rầu rĩ nói:
- Bẩm Đại Cửu phụ và mẫu thân, hài nhi là kẻ có số phận đen đủi, từ nhỏ đã luôn gặp phải những tai ương kỳ dị, nhờ vậy mà thức ngộ được rằng thế gian có luật nhân quả báo ứng. Nay chúng ta sát hại một lúc hơn bốn chục sinh linh thì sẽ tổn hại đến âm đức, tạo nghiệp chướng cho kiếp này và kiếp sau.
Quách Thiên Tường đã xuống, nghe ái tử nói vậy thì đồng ý ngay. Ông nghiêm nghị bảo Tòng Thư:
- Khuê nhi bảo rất phải. Tiểu đệ khẩn cầu đại ca tha cho họ. Tiểu đệ không sợ chết mà chỉ sợ quả báo.
Kỹ Tòng Thư ngượng ngùng phân bua:
- Đây vốn chẳng phải là ý của Kỹ mỗ. Nay muội phu đã nói thế thì ta sẽ giao lại cho Khuê nhi giải quyết.
Tử Khuê mừng rỡ vái tạ rồi bước đến nói với bọn tù binh:
- Ta vì đức hiếu sinh của trời đất mà tha mạng cho các người. Nhưng ta sẽ phế bỏ võ công để các ngươi không thể tiếp tục theo Xoa Lạp cốc mà làm việc ác nữa. Các ngươi hãy về bẩm báo với Cốc chủ rằng Hàn Thiếu Lăng muốn so tài để kết liễu ân oán. Thời hạn và địa điểm sẽ tùy quý Cốc chủ định đoạt.
Được tha chết, đám tù binh mừng hết lớn nhưng không nói lời cảm tạ. Một gã dùng Thổ ngữ nói gì đó với đồng đảng và được cả bọn tán thành. Gã ta liền ấp úng thưa với ân nhân:
- Bẩm công tử. Nếu bọn ta mất võ công thì có về đến quê hương cũng chết đói. Hay là công tử nhận bọn ta làm thuộc hạ, cơm no áo ấm là đủ, không phát lương cũng chẳng sao.
Gã dứt lời, nuốt nước miếng nói tiếp:
- Tất nhiên là trong bữa cơm phải có vài ly rượu, không có thứ ấy thì bọn ta chết mất.
Cả sắc diện lẫn ngôn từ đều thật thà như đếm, khiến mọi người bật cười. Quách Thiên Tường lão luyện thương trường, nhìn người rất giỏi. Ông hiểu ngay bọn dũng sĩ kia có thể tin tưởng được. Và nếu được hậu đãi, họ sẽ xả thân để phò tá Tử Khuê. Ông luôn lo lắng khi thấy ái tử một mình một ngựa gánh vác những chuyện bao đồng của võ lâm. Quách lão liền cười khà khà, bước đến vui vẻ nói với bọn tù binh:
- Nếu các ngươi hết dạ phò tá con trai ta, thì ngoài cơm áo lão phu sẽ phát lương mỗi tháng mười lạng bạc trắng.
Thời ấy lương của một binh sĩ triều đình chỉ độ một lượng bạc. Và chính bọn thủ hạ cấp thấp của Xoa Lạp cốc cũng lãnh bấy nhiêu nên chúng vui mừng khôn xiết, nhất tề gật đầu lia lịa. Gã đại diện thì cười toe toét phúc đáp:
- Bẩm lão gia! Nếu biết ông trả lương cao như thế thì bọn ta đã đến nhà ông xin làm đầy tớ từ lâu rồi. Chỉ sau một năm là bọn ta đã dành dụm đủ tiền để cưới vợ.
Tối hôm ấy Kỹ gia trang mở tiệc mừng anh em đoàn tụ và mừng chiến thắng. Niềm vui khá trọn vẹn vì phe nhà chỉ bị thương chứ không ai mất mạng. Với lợi thế hai đánh một, đám đệ tử nhà họ Kỹ đã bảo toàn được mạng sống trước những tay kiếm lợi hại của Xoa Lạp cốc. Nhờ vậy mà họ không oán hận và dễ dàng hòa hợp với 42 gã hàng binh. Song phương vui vẻ cùng nhau vùi lấp ba mươi tám tử thi thủ hạ Xoa Lạp cốc trong khu rừng. Chắc là năm sau cây sẽ sai trái nhờ thứ phân bón đặc biệt là thịt người. Nhất là những cây được hân hạnh đón tiếp thi thể của ba vị Hộ pháp thân phận cao cả. Họ đều đã chết dưới tay Tử Khuê.
Trong số những người thọ thương có cả Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Nàng trúng tổng cộng ba nhát kiếm, nhát đầu vô hại nhưng hai nhát sau khá nặng. Tái Vân chiến đấu ở giữa Kỹ nương với Thiên Kim và nàng đã vì cứu mạng họ mà bị thương. Hai người ấy rất biết ơn Tái Vân và cả Dịch Quan San. Tuy nhiên do đã từng nghe Tử Khuê kể về bệnh lãnh cảm của Đông Nhạc Tiên Hồ nên Kỹ nương và Thiên Kim không hề nghi ngờ rằng chàng cùng Tái Vân dan díu với nhau. Dịch Quan San cũng đã khuyên Tử Khuê khoan tiết lộ, chờ cơ hội tốt hơn. Những vết thương nhẹ không cản trở Trình Thiên Kim và Tái Vân tham gia bữa tiệc tẩy trần. Họ ngồi cạnh nhau, nói cười thân thiết như tỷ muội. Quách Thiên Tường được dịp ngắm kỹ Dịch Tái Vân, lòng vô cùng ái mộ. Ông thầm suy nghĩ:
- Họ Quách mà có thêm nàng dâu như con bé họ Dịch này thì cả thành Hứa Xương phải ganh tỵ. Chẳng lẽ Khuê nhi lại khờ dại đến mức bỏ qua một nữ nhân nhan sắc tuyệt trần như thế?
Quách lão không biết gì về quái tật của Tái Vân thì Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các cũng vậy. Và với cương vị là biểu thúc của Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, ông lấy làm lo ngại cho cháu gái khi thấy Đông Nhạc Tiên Hồ quá đẹp và lại đồng hành cùng Tử Khuê một cách rất đáng ngờ. Trình lão liền dò hỏi Quan San:
- Này Dịch hiền điệt! Vì sao ngươi và lệnh muội lại chung đường với Khuê nhi ?
Dịch Quan San khôn ngoan đáp:
- Bẩm Trình tiền bối. Vãn bối bị bọn Xoa Lạp cốc bắt sống, giải về Tổng đàn Võ lâm, đến thành Nhữ Châu thì được Quách công tử cứu mạng. Vì đại ân ấy mà huynh muội vãn bối nguyện đi theo hầu hạ Quách công tử để đáp đền ân nghĩa.
Trình lão than thầm, tìm cách nhắc nhở cháu gái. Ông tủm tỉm cười nói:
- Ngươi thọ ân thì phải trả nhưng sao lại bắt một nữ nhân nổi tiếng như Tái Vân theo hầu Khuê nhi? Như vậy chẳng phải là khuất tất cho lệnh muội lắm ư?
Trình Thiên Kim không hề lưu tâm đến lời cảnh báo của biểu thúc, cau mày hỏi Dịch Quan San vấn đề khác:
- Dịch đại ca! Âu Dương Mẫn liên minh với Xoa Lạp cốc phải chăng là để đối phó với Nam - Bắc Song Tôn?
Nàng là bậc anh thư, chí khí chẳng kém bậc mày râu nên mới thành lập Hoàng Phong bang, dương danh thiên hạ. Do đó Thiên Kim rất chú ý đến cục diện võ lâm, thay vì đề phòng phu tướng đa mang. Đàn bà như nàng quả thật là hiếm có vậy. Dịch Quan San từ tốn đáp:
- Tiểu thư quả là sáng suốt, đúng là Âu Dương Mẫn đã tính toán như thế. Tại hạ tin chắc rằng giang hồ sắp nổi phong ba, máu chảy thành sông khi Âu Dương Mẫn cùng Xoa Lạp cốc quyết tảo trừ Mai Hoa bang và Bích Huyết bang.
Trình Thiên Kim đầy bụng “Lục thao tam lược”, hào hứng bàn tiếp:
- Nếu đúng như thế thì tiểu muội phỏng đoán rằng trong Xoa Lạp cốc phải có một đại cao thủ đủ sức đánh bại hai lão Thiên Tôn. Bằng không, Âu Dương Mẫn sẽ chẳng dám sính cường.
Dịch Quan San mỉm cười:
- Tiểu thư luận việc như thần, tại hạ xin bái phục. Đương kim Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc chính là đệ tử của Lôi Đình Đế Quân, bản lĩnh nghiêng trời lệch đất, thừa sức thắng Nam hoặc Bắc Thiên Tôn.
Kỹ Tòng Thư nghi hoặc hỏi:
- Vì sao ngươi lại biết tất cả những bí mật ấy?
Dịch Quan San nghiêm nghị đáp:
- Vãn bối đã nằm trên mái ngói Tổng đàn Võ lâm 3 ngày đêm, nghe được hết cuộc đàm đạo giữa Minh chủ Âu Dương Mẫn và bọn hộ pháp Xoa Lạp cốc.
Trừ Tử Khuê và Tái Vân, những người khác còn lại trong bàn đều giật mình, không ngờ Dịch Quan San lại tài ba đến mức ấy. Phá Sơn Quyền suy nghĩ một lúc, trầm giọng bảo:
- Với tài hóa trang và thuật “Phi thiềm tẩu bích” kia thì các hạ phải là Vô Tướng Quỷ Hồ. Lão phu nói có đúng không?
Dịch Quan San mỉm cười gật đầu:
- Chính là tại hạ.
Rồi gã kể lại cớ sự bi thảm của gia đình mình khiến ai cũng động lòng thương xót. Thiên Kim thở dài bảo Tái Vân:
- Tiểu muội không ngờ số phận của Dịch thư thư lại đáng thương như vậy.
Quách Thiên Tường đã ngà ngà say, chẳng còn sợ vợ nữa, kề tai phụ nhĩ con trai:
- Này Khuê nhi! Con đừng vì chút thành kiến hẹp hòi của mẫu thân ngươi mà để lỡ cơ hội ngàn vàng. Tái Vân xinh đẹp như tiên, ngươi bỏ qua thì đúng là ngốc tử. Đã có phụ thân hậu thuẫn, ngươi cứ việc tùy nghi hành động. Ta muốn con gom hết mỹ nhân trong thiên hạ về Quách gia trang, có thế mới đáng mặt trượng phu.
Tử Khuê vừa mừng, vừa thẹn, lí nhí đáp:
- Hài nhi rất muốn tuân mệnh phụ thân song lại sợ mẫu thân và Thiên Kim. Mong phụ thân khéo léo an bài, kẻo hài nhi lãnh đủ hậu quả. Một kẻ vận đen đủi như hài nhi thì chuyện tình duyên cũng khó mà suông sả được.
Quách Thiên Tường đắc ý đáp:
- Khuê nhi chớ lo. Lão phu đã có diệu kế.
Ông quay sang giả vờ chuyện trò với anh vợ là Kỹ Tòng Thư một lúc rồi mới cao giọng bảo Kỹ nương:
- Này phu nhân! Hôm nay chúng ta được toàn mạng cũng có phần công lao của anh em Dịch hiền điệt đây. Họ lại mồ côi, không nơi nương tựa nên lão phu định bàn với bà nhận họ làm con nuôi. Ý phu nhân thế nào?
Tất nhiên là Kỹ nương tán thành ngay, cho rằng mình chẳng thiệt thòi gì. Bà vui vẻ đáp:
- Tướng công dạy rất phải. Thiếp cũng mong được như vậy.
Dịch Quan San và Tái Vân lập tức rời ghế, quỳ xuống lạy chín lạy, gọi vợ chồng Quách Thiên Tường là Can gia, Can nương. Quách lão cười ha hả, tuyên bố:
- Vân nhi! Con đã vì Can nương và Thiên Kim mà lãnh hai vết thương nên lão phu sẽ tặng ngươi hai vạn lạng vàng làm của hồi môn.
Sự hào phóng khủng khiếp ấy đã làm Kỹ nương choáng váng và tiếc đứt ruột. Nhưng lời nói ra bốn ngựa khó theo, bà không thể làm gì được nữa, đành phải gượng cười. Kỹ nương là người căn cơ, cần kiệm, tuy tri ân Tái Vân nhưng không đến mức đền đáp bằng một số vàng lớn như thế. Vả lại chính anh em họ Dịch đã chịu ơn Tử Khuê trước. Bà nhìn sang con dâu thì thấy Thiên Kim cũng lộ vẻ xót xa, tiếc của y như mình. Chờ hai đứa con nuôi chết tiệt kia nói xong lời tạ ơn và ngồi vào ghế, Kỹ nương liền giả vờ rủ Thiên Kim vào sau thay áo, tức là đi tiểu. Vừa khỏi phòng ăn, bà đã nghiến răng nói:
- Chết thực! Không ngờ lão già say rượu nói càn, đem tài sản mồ hôi nước mắt của nhà ta ra cho người ngoài. Hai ngàn lượng thì còn được chứ hai vạn lượng thì ta không thể chấp nhận được.
Thiên Kim thực thà đáp:
- Hài nhi cũng tiếc lắm. nhưng nuốt lời thì còn gì là danh dự của Quách gia?
Kỹ nương trầm ngâm một lúc rồi dỗ dành con dâu:
- Này Kim nhi! Tái Vân là thạch nữ, không thể so bì với ngươi được. Hay là Kim nhi xúi Tử Khuê lấy quách ả làm nhị phòng, có thế thì chúng ta mới không mất hai vạn lượng.
Thiên Kim ngơ ngẩn đáp:
- Hài nhi xin tuân lệnh gia nương song chỉ sợ tướng công không thuận. Chàng đã khẳng khái từ hôn với Tái Vân khi giả làm Hàn Thiếu Lăng. Lấy một nữ nhân không biết xúc cảm thì có ích gì?
Kỹ nương kiên quyết bảo:
- Chỉ cần con ưng thuận là được. Khuê nhi rất sợ ta, tất phải nghe lời dù muốn hay không muốn.
Nói xong, bà vẫy tay một ả tỳ nữ lại, sai đi mời Tử Khuê ra. Lát sau Tử Khuê xuất hiện, ngơ ngác khi nghe mẹ mình tuyên bố:
- Này Khuê nhi! Tái Vân tuy là thạch nữ nhưng nhan sắc tuyệt trần, khiến ta và Kim nhi rất thương mến. Do vậy bọn ta đã quyết thu nạp Vân nhi làm thiếp cho ngươi. Đây là tâm nguyện của già này, ngươi là đứa con hiếu thảo chắc không nỡ cãi lời.
Câu nói hàm ý bắt buộc ấy đã khiến Tử Khuê cố nín cười. Té ra phụ thân chàng biết quá rõ tính nết tằn tiện của vợ cũng như con dâu nên mới bày ra diệu kế này. Thiên Kim cũng lên tiếng cầu khẩn:
- Tướng công hãy vì gia nương và thiếp mà chịu thiệt thòi đôi chút. Vả lại Vân thư là kẻ thành danh chốn võ lâm, làm nô bộc cho chàng sao tiện.
Tử Khuê chợt thấy xấu hổ trước tấm lòng thuần hậu và độ lượng của Thiên Kim. Chàng ngượng ngùng đáp:
- Người bị thiệt thòi chính là nàng chứ chẳng phải ta. Dù lấy Tái Vân hay không thì ta vẫn yêu thương nàng nhất trên đời.
Thấy chàng đồng ý, Kỹ nương hân hoan bảo:
- Ngươi đúng là đại hiếu tử. Ngươi cứ quay lại bàn tiệc, ta và Kim nhi sẽ lên sau.
Tử Khuê vừa ngồi xuống ghế thì Quách lão đã giả vờ say quàng lấy vai con trai và hỏi:
- Khuê nhi, phải chăng mẫu thân ngươi đã trúng kế.
Tử Khuê ngượng nghịu gật đầu:
- Phụ thân quả là lợi hại. Mẫu thân đã ép hài nhi phải cưới Tái Vân.
Quách Thiên Tương rất đắc ý song chẳng dám cười lớn, cố nén lòng chờ đợi. Lát sau, Kỹ nương cùng Thiên Kim vào đến. Bà đổi chỗ với nữ Hầu tước, ngồi xuống cạnh Tái Vân và nghiêm nghị hỏi:
- Vân nhi! Lúc đi thay áo, lão thân có nghe Kim nhi kể lại việc ngươi đã từng bị Thần Đao bảo chủ uy hiếp mà phải nhận Khuê nhi làm vị hôn phu. Ngươi còn đem Lôi Thần ra thề thốt nhưng sau đó lại tráo trở từ hôn, việc ấy đúng hay sai?
Tái Vân hổ thẹn gật đầu:
- Bẩm Can nương. Quả đúng là có việc ấy.
Kỹ nương thở dài trách móc:
- Con đúng là kẻ hồ đồ nên mới xem thường thần thánh như vậy. Can nương e rằng con sẽ khó thoát khỏi cơn thịnh nộ của Lôi Thần đấy. Luật trời báo ứng nhãn tiền chứ chẳng đợi đến kiếp khác đâu.
Kỹ nương tung xong trái cầu thì Thiên Kim hứng ngay. Nàng trịnh trọng nói:
- Vân thư! Tiểu muội tha thiết đề nghị Vân thư chịu khuất tất nhận lời làm con dâu thứ hai của Quách gia thực hiện lời thề cũ, thì may ra Lôi Thần sẽ nguôi giận. Tiểu muội hứa rằng sẽ không ỷ mình là chính thất mà bạc đãi Vân thư.
Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các giật bắn mình không ngờ cháu gái lại dại dột như thế. Ông thầm nghĩ:
- Vợ chồng họ Quách đã biết Tử Khuê dan díu với Đông Nhạc Tiên Hồ, muốn hợp thức hóa việc ấy nên bày ra kế dụ dỗ Vân nhi chứ làm gì có việc Lôi Thần linh hiển đến thế? Nãy giờ trời đổ mưa, sấm sét ì ầm mà có thấy con nha đầu họ Dịch bị cái quái gì đâu?
Ông vừa định lên tiếng phản đối thì một tia sét cực mạnh đã giáng xuống khá gần Kỹ gia trang. Lạ thay, cả bàn đều vô sự, chỉ hơi kinh hãi và ù tai, riêng Dịch Tái Vân run như cầy sấy, tóc dựng ngược tựa lông nhím.
Trình lão vô cùng kinh ngạc, không dám mở miệng ngăn cản quyết định của Thiên Kim nữa.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Mờ sáng ngày hai mươi tháng sáu, đàng trai có mặt ở Kỹ gia trang và đầu giờ Tỵ thì tân nương đã được rước về đến Lư gia trang, gần cửa đông thành Dụ Châu. Cơ ngơi của Lư Tài thần rất bề thế, tráng lệ và nằm trong một vườn cảnh cực kỳ xinh đẹp, rộng đến hàng chục mẫu. Do đó tiệc cưới được bày ngay trên thảm cỏ hoa viên, giữa sắc màu rực rỡ của hoa lựu. Vườn cảnh này có cả hoa lựu màu thuần trắng và vàng chanh, nhưng màu đỏ là chính. Mùa hè cây cối xum xuê cành lá, hoa bông ít ỏi, là lúc hoa lựu đỏ rực bừng nở, thi sắc đua hương, vô cùng hấp dẫn đáng yêu.
Nhà họ Lư giàu có nhất Dụ Châu nên khách khứa rất đông, lên đến hơn ngàn. Trong số ấy, ngoài những khách được mời còn có cả những kẻ bị mời. Đấy là đám họ hàng nghèo khó của Lư Tài thần. Họ đã rầu thúi ruột khi nhận thiệp mời đám cưới. Bản thân Lư Tài thân cũng chẳng muốn mời lũ bà con nghèo mạt rệp ấy, song lại ngại tiếng đời dị nghị, chê bai nên chẳng dám quên. Trong lễ giáo Trung Hoa, tình quyến thuộc rất được xem trọng, ít nhất là về mặt hình thức. Lư Tài thần không muốn sau này một lão chú họ khố rách áo ôm nào đó chửi bới, trách móc mình vì đã không đưa thiệp hồng khi cưới dâu. Dù rằng lão ta đã rất mừng khi được quên lãng, khỏi phải bán gà, bán thóc lấy tiền đi ăn cưới.
Số khách nghèo ấy độ hai ba trăm, được bố trí riêng một khu vực. Tuy nhiên thức ăn các bàn đều như nhau. Trăm bàn tiệc còn lại được dành cho những người khá giả hoặc quyền quý. Do chú rể Lư Công Đán là kẻ thành danh chốn võ lâm nên lượng khách giang hồ khá đông. Tây Nhạc kiếm khách là đệ tử yêu của Trúc Lâm Tử, Chưởng môn nhân phái Hoa Sơn. Vì vậy mà số đồng môn đến mừng hôn lễ Công Đán đã gần trăm. Ngoài ra Trúc Lâm Tử còn mời cả năm vị Chưởng môn nhân kia trong Hội đồng Võ lâm đến chúc mừng cho học trò mình. Đấy sẽ là một vinh dự cực kỳ lớn lao đối với nhà họ Lư. Đằng nào họ cũng phải đưa quân đến Lạc Dương hỗ trợ Tử Khuê, giải cứu Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành, nên chẳng vị long đầu nào từ chối được. Chính vì thế mà Hội đồng Võ lâm đã gặp Tử Khuê khi chàng theo đám đưa dâu về đến Lư gia trang.
Đàng trai thì rước, đàng gái thì đưa. Ngoài Kỹ Tòng Thư và gia đình em gái, trong đoàn tống hôn còn có những nhân vật nổi tiếng như Bang chủ cùng Phó bang chủ Hoàng Phong bang đất Trình và Võ lâm đệ nhất mỹ nhân Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Việc này đã khiến khách đàng trai rất ngạc nhiên. Nhất là khi Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim và Dịch Tái Vân sánh vai nhau với vẻ thân thiết. Trước giờ họ nào có quen biết, qua lại gì đâu? Mọi người ngắm hai đóa hoa ấy và thầm khen Bang chủ Hoàng Phong bang kiều diễm chẳng kém Đông Nhạc Tiên Hồ. Dịch Tái Vân thì coi trọng nhan sắc của chính mình nên rất tinh thông thuật trang điểm. Dưới bàn tay tinh tế, tài hoa của nàng, dung nhan Trình Thiên Kim hay bất cứ nữ nhân nào cũng đều trở nên xinh đẹp hơn trước bội phần. Nàng đã ra sức điểm phấn tô hồng cho tân nương Kỹ Lưu Tiên, Trình Thiên Kim và cả mẹ chồng nữa. Kỹ nương đã đẹp đến nỗi Quách lão và Tử Khuê phải trầm trồ khen ngợi mãi. Kỹ nương vô cùng đẹp dạ sinh lòng yêu thương đứa con dâu bất đắc dĩ. Ngược lại, với tài nghệ bậc thầy. Tái Vân đã kín đáo che mờ bớt nhan sắc của mình. Nàng thực lòng yêu thương Tử Khuê và mong muốn chàng được hạnh phúc trong cảnh gia đình êm ấm, nên sẵn sàng quên đi chính bản thân. Hơn nữa Tái Vân cảm thấy mình quá nhỏ bé trước mối chân tình quá sâu nặng mà nữ Hầu tước họ Trình đã dành cho Tử Khuê.
Họ Kỹ quê tận Tứ Xuyên, không có bà con chốn này nên đã mang theo sáu chục gia đinh để tăng phần thanh thế. Trong số ấy có bốn mươi gã hàng binh Xoa Lạp cốc. Sau hôn lễ, chúng sẽ hộ tống vợ chồng Quách Thiên Tường về Hứa Xương, không quay lại Bảo Bình nữa. Nón tre mới, y phục bằng lụa thượng hạng và không có áo tơi, bọn dũng sĩ đất Sơn Tây đã lột xác, chẳng còn ai nhận ra lai lịch. Họ vui sướng đến mức nói cười luôn miệng, thỉnh thoảng lại thò tay sờ nắn túi bạc bên hông. Quách lão đã phát trước cho mỗi gã ba chục lượng tiền lương. Số bạc ấy là cả một gia tài đối với những kẻ nghèo khổ, quê mùa. Lãnh thổ Trung Hoa rộng lớn nhưng chỉ có ba phần mười diện tích trồng trọt được. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt năm nào cũng có nên việc đói kém là thường xuyên, còn nghèo túng là bệnh kinh niên của lê thứ.
Nhắc lại, thực khách bị hai nữ nhân cuốn hút nên không chú ý đến chàng công tử áo bào xanh, tuổi độ quá hai mươi, đi chung với đàng gái. Gương mặt chàng ta trắng xanh mịn màng, toát ra vẻ văn nhã và có phần nhu nhược. Chỉ mình Bang chủ Cái bang Thạch Kính Tường nhận ra gã trai yếu đuối ấy là kẻ đã từng làm chấn động võ lâm với những chiến tích lẫy lừng. Và gã cũng là mục tiêu săn đuổi của khá nhiều người. Không ai có thể ngờ rằng chàng công tử mặt trắng trơn kia lại là Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng. Râu của Tử Khuê mọc ra do xức thuốc nên khi cạo sạch và bôi thêm một loại thuốc khác thì chẳng còn dấu vết. Người rậm râu tự nhiên dù cạo sạch kỹ cách mấy thì chân râu vẫn xanh rì một khoảng da mặt.
Sau nghi lễ bái đường, hai họ ra hoa viên để nhận lời chúc mừng của khách và khai mạc tiệc cưới.
Bàn chủ vị đặt ở giữa các bàn của khách, dành cho phụ mẫu, trưởng bối hai họ, nam tả nữ hữu. Đã chia tả hữu thì phải ngồi đối diện nên ba chiếc bàn bát tiên mặt vuông đã được nối lại thành một bàn hình chữ nhật. Đàng gái bảy người thì đàng trai cũng bấy nhiêu. Trong đám cưới, người Trung Hoa kỵ số lẻ vì “giai ngẫu” có nghĩa là đẹp đôi. Cho nên kể cả tân nương vào thì đàng gái chẵn tám. Do thiếu người nên đàng gái phải đưa cả những kẻ có vai vế thấp như ba vợ chồng Tử Khuê vào đoàn đại biểu. Tương ứng với việc ấy, đàng trai cũng có mặt ba chị gái của chú rể. Đám hậu bối đương nhiên phải ngồi ở cuối bàn. Hiện tượng này hơi trái lễ tục song Lư Tài thần và Kỹ Tòng Thư là bạn văn chương, tính tình phóng dật nên chẳng thèm để ý đến tiểu tiết.
Lư Tài thần tên gọi Cảnh Thuần, tuy giàu cự vạn, song lại chẳng phải loại trọc phú mà là hạng trưởng giả phong lưu tao nhã. Thân hình lão mảnh khảnh, mặt mũi thanh tú, râu ba chòm dài thượt, trông giống thầy đồ hơn là lái buôn. Nhưng vợ lão lại không được đẹp, thân thể núc ních những ngấn mỡ, mặt tròn như mặt thớt, trông mà phát chán. Chính vì thế mà Lư Cảnh Thuần vô cùng ái mộ nhan sắc não nùng của Kỹ Thanh Lam, em gái của sui gia mình. Ở tuổi quá ngũ thập mà Kỹ nương trẻ trung, xinh đẹp khác thường, khiến Tài thần càng tủi thân và sinh lòng ghen tỵ với Quách Thiên Tường. Ngược lại Quách lão rất đắc ý, hãnh diện vì vợ mình xinh đẹp hơn hẳn vợ đối phương. Ông thầm thương hại Lư Cảnh Thuần khi phát hiện lão nhìn Kỹ Thanh Lam với ánh mắt say mê. Họ Lư có thể mua những tỳ thiếp nhan sắc hơn Thanh Lam nhưng chẳng thể trưng ra khoe được. Lư phu nhân mới là người có quyền cùng Cảnh Thuần xuất hiện giao tế. Rốt cuộc Lư Tài thần vẫn bẽ mặt vì có bà vợ quá xấu. Ngoài vợ chồng Lư Cảnh Thuần cùng ba ái nữ, phe đàng trai còn có vợ chồng lão biểu đệ của Cảnh Thuần. Lão này tên gọi là Lư Cảnh Duy, quân sư quạt mo của Lư Tài thần.
Hầu hết những dòng họ của Trung Hoa đều dùng chữ lót để phân biệt bối phận. Như trường hợp này chẳng hạn, những người lót chữ Cảnh thì cùng một đời, là huynh đệ với nhau. Tên con của Cảnh Thuần lót chữ Công và con của Lư Công Đán lót chữ Tú. Lư Cảnh Duy là người mưu mẹo, giỏi nghề nịnh hót và đoán ý chủ nhân. Lão hiểu thấu tim đen Cảnh Thuần nên tìm cách tâng bốc họ Lư và bỉ mặt Quách Thiên Tường. Vì an nguy của Quách gia trang mà Kỹ Tòng Thư chỉ giới thiệu phe mình một cách đại khái sơ lược, khiến cho đàng trai tưởng Quách Thiên Tường chỉ là một tiểu phú đất Hứa Xương. Thực ra gia sản nhà họ Quách còn lớn hơn nhà họ Lư, dù Thiên Tường không mang danh Tài thần. Hứa Xương là nơi đô hội phồn vinh nhất Hà Nam, còn Dụ Châu chỉ là một địa phương nhỏ bé thô lậu. Cho nên người giàu nhất Dụ Châu cũng chỉ bằng một kẻ bậc trung ở Hứa Xương.
Đối với hai nữ nhân thì Tòng Thư cũng không nói rõ thân phận cháu dâu, chỉ xem Thiên Kim và Tái Vân là khách, được mượn đi đám cưới cho đông đủ. Thứ tự chỗ ngồi của bảy người đàng gái như sau: Kỹ Tòng Thư, Quách Thiên Tường, Kỹ Thanh Lam, Trình Thiên Kim, Dịch Tái Vân, Trình Kiếm Các, Quách Tử Khuê. Chính vì vậy người ngoài khó đoán ra quan hệ giữa Quách công tử và hai ả hồng nhan tuyệt thế. Hơn nữa nữ Hầu tước cùng Đông Nhạc Tiên Hồ đều là bậc hào kiệt võ lâm, lẽ nào lại chịu ghé mắt xanh đến cái gã con nhà giàu bạc nhược nọ? Mắt Quách công tử có vết thâm quầng chứng tỏ tính cách ăn chơi, truỵ lạc, vô tích sự.
Sau vài tuần rượu, Lư Cảnh Duy đứng lên, nâng chén uống mừng Lư Tài thần và sang sảng nói với toàn trường:
- Lư Tài thần phú xưng địch quốc, lại là kẻ tao nhân mặc khách, văn tài xuất chúng khác hẳn lẽ thường, khiến người người khâm phục. Công Đán hiền điệt cũng là bậc anh hùng cái thế, danh vang tứ hải, làm rạng rỡ tông môn. Lão phu vô cùng hãnh diện nên nhân ngày đại vũ hôm nay, ra một vế đối như sau:
“Phú tỷ Đào Chu, phụ Văn tử Võ, Lư thị lưỡng thế vinh hiển!”
(Đào chu tức là Đào Chu Công, tên khác của Phạm Lãi thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sau khi giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, Phạm Lãi đã mang Tây Thi trốn đi. Ông đổi tên thành Đào Chu Công, làm nghề buôn bán và trở nên rất giàu có).
Đọc xong vế đối, Cảnh Duy mỉm cười nói tiếp:
- Lão phu xin trao giải thưởng trăm lượng vàng cho bậc tài tử nào hoàn thành vế đối thứ hai.
Lư Tài thần được biểu đệ tâng bốc trước mặt Kỹ nương lòng vô cùng khoan khoái, lão liền cười rạng rỡ, đứng lên cao giọng:
- Một trăm lượng thì e rằng không xứng với giá trị của văn chương, lão phu xin góp thêm vào giải thưởng thêm bốn trăm lượng nữa!
Thực khách cực kỳ hoan hỉ. Nhất là đám người từng tập tành thi phú. Họ quên cả ăn uống, cau mày nhăn trán, cố nặn ra chữ nghĩa để chiếm lấy năm trăm lượng vàng.
Cảnh Duy an tọa xong, thân mật bảo đằng gái:
- Kỹ lão huynh có tài bảy bước làm thơ nên sẽ không được tham gia, kỳ dư đều có thể!
Và lão thâm hiểm mời mọc Quách Thiên Tường:
- Quách trang chủ văn chất bân bân, sao không phun châu nhả ngọc, tặng cho lão phu vế đối thứ hai.
Tướng mạo Quách Thiên Tường hơi thô lậu, cục mịch nên đối phương chắc mẩm rằng ông dốt nát chuyện văn chương. Quả là Cảnh Duy tinh đời, đã đánh trúng nhược điểm của Quách lão. Nhưng Thiên Tường đã có chỗ sở cậy nên thản nhiên cười khà khà đáp:
- Lão phu đã sớm nghĩ ra vế đối song xin nhường cho quan khách trổ tài trước. Chúng ta là chủ nhà, lẽ nào lại tranh giành với khách?
Quách lão vừa nói xong thì đã có một người lên tiếng. Giọng gã ta oang oang và rè như chuông bể:
- Tại hạ họ Tang tên Đông Dã, tuy là người học võ song cũng sính văn chương, từng được chị em kỹ nữ thành Côn Minh tặng cho danh hiệu Vân Nam Tài Tử.
Thực khách phá lên cười và có vẻ mỉa mai:
- Con bà nó! Té ra ngươi là thi sĩ chốn lầu xanh, chuyên làm thơ vuốt mông bọn gái điếm. Thế mà cũng khoe!
Tang Đông Dã là một hán tử tuổi độ ba mươi lăm, ba mươi sáu, mặt ngựa, răng hô, trán thấp, mắt trâu, mũi hếch, gò má cao, xấu xí đến mức ban ngày cũng có thể dọa được lũ con nít. Thân hình gã lực lưỡng, thô kệch nhưng lại khoác áo học trò, đầu đội mũ thư sinh, trông thật ngứa mắt. Họ Tang bị giễu cợt, xỏ xiên mà không hề nao núng, thản nhiên nói tiếp:
- Bẩm Lư trang chủ! Vãn sinh được lệnh lang cứu mạng cả tháng nay nên sẽ không nhận hết giải thưởng. Vãn sinh chỉ lấy bốn trăm chín chục lượng, còn mười lượng kia xem như đền ơn cơm áo nhà họ Lư!
Té ra Tang Đông Dã lưu lạc đến Dụ Châu, bụng không túi rỗng, sắp sửa đi ăn mày thì gặp được Tây Nhạc kiếm khách. Lư Công Đán động lòng trắc ẩn, kết bạn với hắn và đưa về nhà nuôi nấng. Lư Tài thần cố nín cười, ôn tồn đáp:
- Tang hiền điệt cứ trổ tài trước rồi hãy nghĩ đến giải thưởng. Ngoài ngươi còn nhiều người khác nữa kia mà!
Tang Đông Dã ngượng nghịu gật đầu, hắng giọng ngâm nga cả hai vế đối:
“Phú tỷ Đào Chu, phụ Văn tử Võ, Lư thị lưỡng thế vinh hiển!”
Vế thứ hai do gã sáng tác thì được đọc lớn hơn và giàu âm điệu:
“Mỹ tự Tây Thi, nhũ Đại túc Trường, Cô nương chung dạ đắc hỉ hoan!”.
Tạm dịch như sau:
“Giàu sánh Đào Chu, cha văn con võ, họ Lư hai đời cùng vinh hiển”.
“Đẹp tựa Tây Thi, vú lớn chân dài, Cô nàng suốt đêm được sung sướng!”.
Toàn trường phá lên cười hô hố, cười sằng sặc, cười lăn cười lóc. Trong khi đó mặt mũi anh em Lư Tài thần xám ngoét lại. Lư Cảnh Duy giận dữ tím người, quát vang như sấm:
- Gã khốn kiếp họ Tang kia! Sao ngươi dám sỉ nhục họ Lư chúng ta! Mau cút ra khỏi chốn này!
Khác với Lư Tài thần, Lư Cảnh Duy còn giỏi cả võ nghệ, công lực khá cao nên giọng nói rất lớn.
Tang Đông Dã đang hớn hở đắc ý về tài thi phú của mình, miệng cười toe toét, chìa hàm răng hô vàng ố, bỗng bị chửi mắng thì vô cùng ngạc nhiên. Gã bối rối biện bạch:
- Bẩm Lư nhị thúc! Vãn bối đối như thế là rất chỉnh, ý tứ hàm súc mạch lạc, sao gọi là sỉ nhục họ Lư được?
Thất Bổng Cái, Bang chủ Cái bang biết Tang Đông Dã ngốc nghếch bẩm sinh, bị bọn kỹ nữ lừa dối huyễn hoặc nên cứ tưởng là mình hay chữ. Ông sinh lòng tội nghiệp gã nên cố nín cười mà giải thích:
- Này Tang hiền điệt! Người đem gái điếm đối với Lư thị thì có khác gì chửi cha người ta. Lão phu khuyên người đừng bao giờ làm thơ nữa, có ngày mang họa đấy.
Tang Đông Dã hiểu ra, toát mồ hôi hột, hổ thẹn vái dài, ấp úng nói:
- Lư trang chủ! Vãn sinh vì ngu muội mà xúc phạm ân nhân, lòng vô cùng hối hận. Vãn sinh cáo từ, ân cứu mạng hẹn kiếp sau đền đáp.
Dứt lời, gã rời bàn thất thểu bỏ đi, trông vừa tức cười vừa đáng thương. Lạ thay, lát sau chàng công tử họ Quách bất ngờ đứng lên, vái phe chủ nhà như xin phép rồi lén đi theo Tang Đông Dã. Đến gần cổng thì chàng ta bắt kịp họ Tang. Tử Khuê chặn gã ta lại và hỏi:
- Phải chăng Tang huynh là nam tử của Địa Thần Tang Thư Chí?
Tang Đông Dã giật mình bối rối, ngần ngừ một lúc rồi gật đầu:
- Đúng vậy! Nhưng tại sao công tử lại biết việc này?
Tử Khuê mỉm cười:
- Tiên sư là Vu Mộc chân nhân, cùng lệnh tôn giao tình mật thiết. Tại hạ nghe ân sư thường nhắc đến Tang tiền bối, nay thấy Tang huynh có hàm răng rất giống Địa Thần nên tại hạ đoán càn vậy thôi.
Tang Đông Dã buồn rầu nói:
- Té ra lệnh sư cũng cưỡi hạc qui tiên như gia phụ. Năm mười hai tuổi tại hạ có được diện kiến lệnh sư một lần khi người đến Côn Minh thăm tiên phụ.
Tử Khuê trầm ngâm hỏi:
- Vì cớ gì mà Tang huynh lại rời quê, lưu lạc đến tận đây?
Tang Đông Dã đỏ mặt, thú thực:
- Tại hạ là kẻ bất hiếu, quen thói lăn lóc chốn yên hoa, nên chỉ hai năm đã khánh kiệt, chẳng còn nhà cửa lẫn ruộng nương. Ở lại Côn Minh thì xấu hổ đành phiêu bạt giang hồ, dầu cho đói khổ thì cũng chẳng ai biết mình họ Tang.
Tử Khuê lên tiếng:
- Tại hạ xin tặng Tang huynh năm trăm lượng vàng để chuộc lại nhà cửa, ruộng vườn. Mong Tang huynh vì giao tình của tiền nhân mà hạ cố nhận cho.
Tang Đông Dã vui mừng khôn xiết, lúng ta lúng túng, vò nát quần áo mà chẳng nói nên lời. Cuối cùng gã cười hì hì đáp:
- Tại hạ đang sắp chết đói, chẳng dại gì mà từ chối lòng tốt của công tử. Nhưng tiên phụ từng dạy ta rằng “Vô công bất thụ lộc”, nên Tang mỗ sẽ theo hầu hạ công tử một hai năm, sau đó về quê cũng chẳng muộn. Tài sản họ Tang được cầm cố cho bà con nên muốn chuộc lại lúc nào cũng được. Nếu công tử đồng ý điều kiện ấy thì ta mới dám nhận vàng.
Tử Khuê nghe gã nói cũng phải đạo, đành gật đầu chấp thuận. Chàng vui vẻ bảo:
- Tại hạ họ Quách tên Tử Khuê, nhà ở Hứa Xương. Tệ trang cũng sắp sửa chữa, e rằng cần đến tài ba của Tang huynh đấy.
Tang Đông Dã phấn khởi đáp:
- Công tử cứ yên tâm! Tang mỗ tuy xấu xí, khờ khạo nhưng đã hấp thụ hết gia học, tinh thông các khoa địa chất, thổ mộc và thiết kế cơ quan ngầm. Tại hạ sẽ ra tửu điếm đối diện Lư gia trang mà chờ công tử.
Biết gã rỗng túi, Tử Khuê trao ngay một xấp tiền giấy trị giá đến bốn trăm lượng bạc. Đông Dã mừng húm, vái dài rồi quay bước. Tử Khuê trở lại bàn, giả như người vừa đi tiểu xong. Bị tòa khách sảnh đồ sộ che mắt nên những người trong khu bàn tiệc không thể thấy chàng trò chuyện với Tang Đông Dã. Tử Khuê ngồi được một lúc thì quản sự Lư gia trang dẫn thêm khách vào. Vị khách đến trễ này chính là Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy, bằng hữu chí thân của tân lang.
Lư Công Đán vội bước ra đón tiếp, ngỡ ngàng nhận thấy Tống Thụy đi cùng với một nam nhân lạ mặt. Người ấy tuổi độ tam thập, dung mạo anh tuấn nhưng cực kỳ lãnh đạm cao ngạo. Ánh mắt của gã lạnh tanh và oai nghiêm đến bức người. Lư Công Đán từng yêu thương Thiết Đảm Hồng Nhan trong nhiều năm, nên dù đã vui duyên mới mà lòng vẫn tiếc nuối không nguôi. Thà rằng Tống Thụy đi chung với sư huynh là Cầu Nhiêm Hàn Thiếu Lăng thì gã còn đỡ tức tối. Nay trong ngày đại hỉ của gã, Tống Thụy đến nhưng lại còn tha một gã “mục hạ vô nhân” khiến gã càng bội phần bất mãn.
Tây Nhạc kiếm khách hờ hững nói:
- Tống cô nương! Chẳng hay vị huynh đài này là cao nhân ở phương nào đến vậy?
Tống Thụy lạnh lùng đáp:
- Người này là vị hôn phu của ta. Họ Nhạc tên Cuồng Loan.
Lư Công Đán cười nhạt nói móc:
- Lạ thật! Thế mà trước giờ ta cứ ngỡ cô nương ái mộ Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng. Mời nhị vị nhập tiệc!
Nói xong gã quay bước đi trước, chẳng cần biết khách có cắn xé nhau vì câu nói chết người của mình hay không. Nhưng sắc diện của Nhạc Cuồng Loan vẫn bình thản, không biểu lộ bất cứ một cảm xúc nào. Gã lặng lẽ sánh vai Tống Thụy đi theo Lư Công Đán. Bọn hào khách Nam Dương thấy mặt Thiết Đảm Hồng Nhan thì hớn hở đứng lên réo gọi mời mọc. Song Tống Thụy cứ tảng lờ như không hề hay biết vậy. Thái độ bất thường này của nàng đã làm đám bằng hữu cũ bất bình. Họ thầm đoán nguyên nhân xuất phát từ cái gã mặt trắng mặc trường bào gấm nâu đang đi cạnh Tống Thụy.
Họ nóng nảy vẫy Lư Công Đán lại hỏi han:
- Này Lư huynh! Gã chết tiệt ấy là ai mà khiến cho Thiết Đảm Hồng Nhan phớt lờ cả bằng hữu cố tri vậy?
Tây Nhạc kiếm khách hậm hực đáp:
- Gã ta tên Nhạc Cuồng Loan, là vị hôn phu của Tống cô nương đấy. Trông kiểu cách khinh người của gã mà tại hạ ngứa mắt.
Đám cưới nào cũng có vài bàn dự trữ, phòng khi khách đến đông hơn thiệp mời. Do đó, một bàn mới đã được mau chóng dọn ra dành riêng cho Thiết Đảm Hồng Nhan và Nhạc Cuồng Loan. Tình cờ vị trí ấy khá gần bàn chủ vị và nằm ở mé Đông nên bọn Tử Khuê dễ dàng nhìn thấy vì đang ngồi quay mặt về hướng ấy. Từ đầu tiệc đến giờ, Tử Khuê luôn thắc mắc vì sao sư muội của mình không hiện diện? Giờ thấy Tống Thụy đi với vị hôn phu, Tử Khuê bỗng nghe lòng ngập tràn cảm giác xót xa, mất mát. Mùi hương tóc Tống Thụy như thoảng đâu đây, nhắc nhở lại kỷ niệm đêm nào trong Vĩnh Xương đại lữ điếm, tại chính thành Dụ Châu này, Thiết Đảm Hồng Nhan vì sợ ma mà đã ngủ chung với chàng. Tử Khuê cũng không quên được lúc chàng và nàng sát cánh vào sinh ra tử trong trận đại chiến trước cửa Kỹ gia trang. Chàng bỗng rùng mình vì thức ngộ rằng đã yêu Tống Thụy mà không biết. Và chắc chắn là Thiết Đảm Hồng Nhan cũng yêu chàng, nếu không đã chẳng dám đồng sàng.
Tử Khuê vô cùng hối tiếc và chỉ còn có cách tự an ủi rằng song phương đều đã yên phận. Chàng có vợ và nàng có chồng, tình cũ sẽ phai dần theo năm tháng.
Tử Khuê sẽ kiềm chế được nỗi lòng, nhìn chăm chú gương mặt thanh tú, thoảng buồn của người xưa. Bất chợt, Tống Thụy cũng nhìn về phía chàng, nháy mắt mấy lượt như ra hiệu gì đó. Tử Khuê bàng hoàng hiểu ngay rằng nàng đang bị hán tử kia khống chế và cầu cứu mình. Chàng khẽ gật đầu tỏ vẻ đã hiểu ý để Tống Thụy yên lòng. Tử Khuê đang vắt óc suy nghĩ kế sách thì Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San bước vào, kề tai chàng nói nhỏ:
- Này muội phu! Một tên trong bọn hàng binh Xoa Lạp cốc đã nhận ra lai lịch kẻ đi cùng với Thiết Đảm Hồng Nhan. Gã ta chính là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc đấy. Tên hàng binh không biết danh tính của gã, nhưng theo lời của Lư Công Đán thì gã ta họ Nhạc tên Cuồng Loan.
Tử Khuê thở dài:
- Tống sư muội vừa nháy mắt cầu cứu. Tiểu đệ đang tự hỏi họ Nhạc đã khống chế nàng ta bằng thủ đoạn đặc biệt gì? Nếu không thì nàng ta đã có thể vạch mặt gã ta giữa chốn đông người này và li khai.
Dịch Quan San tư lự bảo:
- Thiết Đảm Hồng Nhan nổi tiếng là người không sợ chết thì chắc là bị ràng buộc bởi an nguy của người thân hoặc lời thề nguyền gì đấy? Theo ý ta thì muội phu hãy hóa trang thành Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng, dùng thân phận sư huynh mà hỏi han nguyên cớ và tùy cơ giải cứu Tống Thụy.
Gã dặn dò Tử Khuê vài câu nữa rồi bỏ đi. Ở đây Tử Khuê kể rõ tình hình với Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các, nhờ ông báo lại cho những người khác. Sau đó chàng giả vờ đi thay áo, rời khỏi bàn tiệc.
Chàng lần đến phía sau hòn giả sơn lớn nhất trong hoa viên, cách tường Đông Lư gia trang chỉ mười mấy trượng. Nơi đây rất vắng vẻ vì mọi người đang mải ăn nhậu, chẳng hơi đâu mà đi ngoạn cảnh. Lát sau, Dịch Quan San cũng xuất hiện, mang theo tay nải và đồ nghề hóa trang, lấy từ trong xe song mã ra. Gã chỉ mất có nửa khắc để biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm đại hiệp với làn da rám nắng và bộ râu rậm rì. Đấy là râu giả, được dán vào mặt bằng một loại keo đặc biệt. Xong xuôi, Tử Khuê đeo kiếm, khoác tay nải vào vai, lén lút vượt tường vây ra ngoài. Chàng đi vòng về phía cổng gia trang, giả như vừa mới đến.
Bọn gia đinh gác cổng ngơ ngác nhìn vị khách mang võ phục lam đậm, râu ria phủ kín nửa mặt, tự hỏi chàng ta còn đến làm gì khi tiệc cưới đã khai mạc được nửa canh giờ. Nhưng một gã vẫn phải tươi cười đưa vị khách bất lịch sự ấy vào trong. Người có danh như cây có bóng, bọn hào kiệt giang hồ ngồi ở hàng ngoài cùng đồng thanh hô to:
- Cầu Nhiêm đại hiệp!
Hàn Thiếu Lăng ôm quyền chào mọi người với phong thái nhã nhặn, thân thiện, khiến ai nấy đều hài lòng. Họ lục tục đứng lên đáp lễ, hỏi han ríu rít. Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán đã ra đến, hớn hở nói:
- Vạn hạnh! Vạn hạnh! Tiểu đệ không ngờ Hàn huynh hạ cố giá lâm, uống chén rượu mừng. Tiểu đệ đã gửi thiếp báo hỉ đi La Sơn, song không dám chắc Hàn huynh có mặt ở đây.
Hàn Thiếu Lăng mỉm cười:
- Lư công tử đã có lòng mời thì tất nhiên tại hạ phải đến.
Hai người vào đến bàn chủ vị. Hàn Thiếu Lăng chào hỏi trưởng bối hai họ. Lư Tài thần thì gượng gạo nhưng Kỹ Tòng Thư tỏ ra rất hân hoan. Ông cười bảo:
- Đại ân của Hàn đại hiệp, lão phu luôn khắc cốt ghi tâm song chưa có dịp đáp đền. Sau tiệc cưới này, đại hiệp phải đến Kỹ gia trang để lão phu phụng hầu nửa năm cho thỏa nguyện.
Hàn Thiếu Lăng điềm đạm đáp:
- Cảm tạ thành ý của Trang chủ. Nhưng tiếc rằng gia nghĩa phụ đang lâm bệnh nên vãn bối chẳng thể chiều ý người được.
Gia thế của chàng trai trẻ tuổi kỳ tài này vẫn còn là một bí mật nên có kẻ tò mò hỏi ngay:
- Hàn đại hiệp! Chẳng hay lệnh tôn là bậc cao nhân nào vậy?
Họ Hàn thành thật đáp:
- Gia nghĩa phụ là Trung Thiên Tôn họ Tần.
Cử tọa ồ lên kinh ngạc, hiểu ra vì sao võ công Thiếu Lăng lại cao siêu đến mức ấy. Hàn Thiếu Lăng tức Tử Khuê nhìn thấy có một kẻ rất giống mình đang ngồi cạnh Phá Sơn Quyền thì lòng vô cùng khâm phục Dịch Quan San. Tài dịch dung của gã quả là thần sầu quỷ khốc, trong khoảnh khắc có thể biến một đệ tử Kỹ gia trang thành Quách công tử để tránh mọi nghi ngờ. Tử Khuê yên lòng sang bái kiến lục vị Chưởng môn ở bàn gần đấy. Họ đều biết chàng là Vu Diệp chân nhân song chỉ mình Thất Bổng Cái và Trương Thiên Sư biết thêm Vu Diệp còn là ai nữa. Lão hiểu ngay rằng đã có sự cố gì nên Tử Khuê mới phải dùng đến thân phận của Cầu Nhiêm đại hiệp.
Thạch bang chủ vồn vã kéo Hàn Thiếu Lăng ngồi xuống ghế trống cạnh mình.
- Hàn thiếu hiệp là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn thì không cần phải thủ lễ, cứ ngồi chung với bọn lão phu cho vui.
Bàn bát tiên vốn có tám ghế, trừ sáu vị Chưởng môn nhân thì vẫn còn dư hai ghế. Vân Thiên Tử Chưởng môn nhân phái Võ Đương, ngạc nhiên hỏi nhỏ:
- Sao Vu Diệp sư điệt lại cải trang thành Hàn Thiếu Lăng mà xuất hiện chốn này?
Tử Khuê hạ giọng đáp:
- Bẩm lục vị Chưởng môn! Hán tử áo nâu đi chung với Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy chính là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc, tên gọi Nhạc Cuồng Loan. Dường như hắn ta đã âm thầm khống chế Tống sư muội. Do đó, đệ tử phải tìm cách giải cứu nàng. Mong lục vị hỗ trợ cho, vì đệ tử tự lượng không địch lại họ Nhạc. Có người đã vào tận Tổng đàn Võ lâm dọ thám tình cờ biết rằng Âu Dương Mẫn đã liên kết cùng Xoa Lạp cốc để đối phó với Nam - Bắc Song Tôn, và Nhạc Cuồng Loan chính là đại tướng của liên minh ấy. Gã đã thụ giáo Lôi Đình Đế Quân nên bản lĩnh rất cao siêu, có thể thắng được bất kỳ ai trong Song Tôn.
Sáu vị Chưởng môn chấn động tâm thần, không ngờ cả hai tổ chức bí mật đáng sợ kia lại đứng về phía Âu Dương Mẫn, tức Huyết Mai hội chủ, công địch của võ lâm. Trương Thiên Sư thận trọng bàn:
-Trong ngày đại hỷ không nên để xảy ra đổ máu. Nếu bắt buộc phải xô xát, sư điệt hãy rủ họ Nhạc ra ngoại thành. Bọn bần đạo sẽ đi theo quan chiến và tùy cơ mà tương trợ hiền điệt.
Trương Thiên Sư tức Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách, đã cùng Thất Bổng Cái chia sẻ bí mật về lai lịch của Tử Khuê. Chẳng phải họ không tin tưởng bốn vị Chưởng môn còn lại, song vì là bậc tôn sư nên chẳng nói lời thừa. Đã gọi là bí mật thì càng ít người biết càng tốt. Vả lại bốn vị long đầu kia có hỏi đâu mà họ phải khai ra?
Tử Khuê cảm tạ Hội đồng Võ lâm rồi đứng lên, đi về hướng bàn của Tống Thụy và Nhạc Cuồng Loan. Nhưng trước khi đi đến được đấy, chàng đã phải dừng chân vài lần để uống vài chung với những kẻ ngưỡng mộ mình và nghe những lời tán dương, ca tụng sáo rỗng. Tử Khuê thầm hổ thẹn và bất giác nổi giận. Chàng giận thói đời u mê, thấy đỏ ngỡ là son, mù quáng trước hư danh, say đắm vẻ rực rỡ của những mống cầu vồng bèo bọt, yểu mệnh và không nhận ra giá trị chân thực của cuộc sống. Đấy là sự sinh tồn, là niềm hạnh phúc được cùng mọi người hưởng sự thanh bình, yên ấm. Chính những kẻ tài ba kiêu ngạo và háo danh đã gây nên sóng gió khiến máu xương chồng chất. Tử Khuê bỗng sinh lòng khinh bỉ và chán ghét cái gã Thiếu cốc chủ mặt vênh váo kia, quyết dạy cho Nhạc Cuồng Loan một bài học.
Nếu họ Nhạc có thể đánh thắng Nam - Bắc Thiên Tôn thì thừa khả năng giết được chàng. Nhưng Tử Khuê còn có một sức mạnh khác, đó là trí tuệ của một bậc Chân nhân đạt đạo, xem danh lợi như phù vân. Chim sẻ không hiểu được chí khí của chim hồng hộc, thì Nhạc Cuồng Loan cũng chẳng thể đoán ra hành động của chàng. Tử Khuê thản nhiên cạn chén với từng bàn, y như kẻ háo danh đắc ý với vinh quang. Cuối cùng chàng đến chiếc bàn ở ngay sau lưng Tống Thụy và Nhạc Cuồng Loan.
Một hán tử áo xanh, mặt chữ điền hớn hở đứng lên, rót đầy hai chung rượu mời mọc Tử Khuê:
- Hàn đại hiệp! Tại hạ là Khương Nguyên Lượng, được giới võ lâm Hà Nam yêu mến mà tặng cho cái danh hiệu Phi Long Thần Đao. Từ lâu rồi, thanh danh Cầu Nhiêm đại hiệp như mặt trời chính Ngọ, người người ca tụng, khiến Khương mỗ khát khao được diện kiến. Nay đã thỏa nguyện bình sinh, Khương mỗ xin kính Hàn đại hiệp một chung này gọi là tỏ lòng ngưỡng mộ.
Tử Khuê cười:
- Tại hạ thiết nghĩ Khương huynh sẽ thất vọng đấy thôi. Lời đồn đãi chẳng bao giờ đúng cả.
Đây là một câu nói khiêm tốn, đầu môi chót lưỡi mà khách giang hồ thường dùng, cốt để được nghe thêm vài lời tán tụng nữa. Lần này cũng thế, họ Khương lập tức khen dồi, cố chứng tỏ rằng Cầu Nhiêm đại hiệp xứng danh võ lâm đệ nhất kiếm với những chiến tích lẫy lừng. Nhưng Hàn Thiếu Lăng bất ngờ quay ngoắt người lại, bước đến vung quyền giáng thật mạnh vào huyệt Linh Đài giữa lưng Nhạc Cuồng Loan. Đòn này dẫu không đả thương được nạn nhân thì cũng khiến lớp cương khí hộ thận bị tản mát, chẳng còn bảo vệ được những huyệt đạo trên cơ thể nữa. Sau đó họ Hàn điểm ngay các huyệt Phong Môn, Thần Đường, Ý Xá, Khí Hải du thuộc kinh tác Thái dương Bàng quang, dọc lưng phải họ Nhạc. Quả nhiên là Nhạc Cuồng Loan đã dồn chân khí bảo vệ hậu tâm dù cho rằng một kẻ thành danh lừng lẫy như Cầu Nhiêm đại hiệp thì chẳng bao giờ đánh lén cả. Đấy chỉ là hành vi tự vệ có tính bản năng mà thôi. Do đó mà khi nắm tay của Tử Khuê chạm vào lưng gã phát ra âm thanh khá lớn, tựa như đánh vào da trâu vậy. Và nếu như Tử Khuê xuất thủ nhẹ tay hơn thì đã chẳng thể thành công vì Nhạc Cuồng Loan sở hữu đến tròn hoa giáp công lực dù tuổi mới ba mươi ba. Nguyên nhân của sự tăng tiến tu vi một cách phi thường này là con “Thiên niên tuyết xà”, kỳ vật hãn thế của đất Liêu Đông lạnh giá.
Sau cơn ngỡ ngàng, bọn hào kiệt võ lâm bắt đầu tỏ vẻ phẫn nộ, hết lời chê bai hành vi đê hèn của Hàn Thiếu Lăng. Họ Hàn vươn hữu thủ nắm chặt cần cổ của Nhạc Cuồng Loan rồi cười khanh khách:
-Giờ thì các vị có thể thôi gọi ta là đại hiệp được rồi đấy, nghe chướng tai lắm!
Và chàng dõng dạc bảo tù binh của mình:
-Nhạc Cuồng Loan! Ta biết ngươi là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc và tự lượng không địch lại nên đành phế thanh danh mà đánh lén. Nghĩa là ta sẵn sàng tra tấn ngươi bằng những thủ đoạn tàn độc nhất và biến ngươi thành một kẻ tàn phế, trói gà không chặt. Vì vậy ta mong rằng ngươi hãy thành thật trả lời những gì ta hỏi. Nếu ngươi không man trá, ta hứa sẽ phóng thích với đầy đủ công lực.
Quần hùng nghe nói họ Nhạc là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc thì giật mình, thôi không chửi bới Hàn Thiếu Lăng nữa. Chỉ nội việc gã dám đối đầu với tổ chức khủng bố đáng sợ ấy cũng đủ gọi là dũng cảm rồi. Họ im lặng chờ xem diễn biến của sự việc. Lúc này Nhạc Cuồng Loan mới chịu mở miệng. Ánh mắt của gã căm hờn nhưng giọng nói lại dịu dàng:
-Thủ đoạn của ngươi thật phi thường khiến bổn nhân phải kính phục. Xem ra trong võ lâm, chỉ mình các hạ xứng làm địch thủ của ta mà thôi. Nay bổn nhân sa cơ thất thế tất phải hết lòng hợp tác. Nhưng sau này bổn nhân sẽ huy động toàn bộ lực lượng Xoa Lạp cốc để tầm thù, song Tống Thụy cùng gia quyến thì không. Và nếu cần Xoa Lạp cốc sẽ rưới máu khắp giang hồ, cho đến lúc các hạ chường mặt ra mới thôi. Vì vậy nếu các hạ muốn tránh phải nhìn thấy cảnh tang thương ấy thì hãy nhận lời cùng ta so tài. Giờ Tỵ ngày rằm tháng hai sang năm, ta chờ các hạ ở chân núi Thiếu Thất.
Quần hùng chấn động trước khẩu khí kiêu ngạo, tanh máu của Nhạc Cuồng Loan nhưng hiểu rằng Xoa Lạp cốc thừa sức để làm như vậy. Hàn Thiếu Lăng chưa kịp phúc đáp thì Thiết Đảm Hồng Nhan đã run giọng can ngăn:
- Sư huynh chớ nên nhận lời. Võ công hắn ta đã đến mức siêu phàm nhập thánh, chỉ một chiêu đã đả thương tiểu muội và bắt sống gia phụ.
Họ Hàn mỉm cười bảo nàng rằng:
- Sư muội yên tâm! Trong nghề đánh kiếm ngu huynh chưa hề biết sợ ai.
Và chàng nghiêm nghị bảo với Nhạc Cuồng Loan:
- Nhạc các hạ sở đắc tuyệt học của Xoa Lạp cốc và Lôi Đình thần cung, lại có hoa giáp công lực nên ta tự lượng chẳng bằng. Nhưng nếu các hạ hứa rằng không thi triển “Lôi Đình thần chưởng” thì Hàn mỗ sẵn sàng nhận lời phó ước.
Người xung quanh nghe nói họ Nhạc là học trò Lôi Đình thần cung và có cả hoa giáp chân khí thì khiếp vía, hiểu rằng lúc nãy Hàn Thiếu Lăng bắt buộc phải đánh lén chứ không còn cách nào khác.
Họ thông cảm cho chàng nên giờ đây đồng thanh ủng hộ, đốc thúc Nhạc Cuồng Loan nhận lời. Vì thanh danh của Xoa Lạp cốc và tự tin vào bản lĩnh của mình. Cuồng Loan đã ưng thuận:
- Được! Bổn nhân sẽ chỉ dùng kiếm mà thôi.
Đã đến lúc Hội đồng Võ lâm có cơ hội can thiệp. Vân Thiên Tử cao giọng:
- Hội đồng Võ lâm sẽ làm trọng tài cho cuộc tử đấu giữa Nhạc thí chủ và Hàn thí chủ. Một lôi đài sẽ được dựng lên, mong mọi người đến chứng kiến cho.
Bọn hào khách phấn khởi reo to, tán thành ngay. Sau đó họ im bặt, lắng nghe Hàn Thiếu Lăng tra hỏi tù binh:
- Phải chăng các hạ đã dùng sinh mạng của Tống lão gia để bắt Thiết Đảm Hồng Nhan phải lấy mình.
Nhạc Cuồng Loan gật đầu xác nhận chẳng chút hổ thẹn. Họ Hàn lại hỏi tiếp:
- Ngoài việc lập trọng thệ ra, các hạ có còn dùng thủ đoạn nào khác để khống chế Tống Thụy và gia quyến nữa không?
Thấy họ Nhạc lắc đầu, Hàn Thiếu Lăng trầm giọng bảo:
- Hôn ước do uy hiếp mà có thì không có hiệu lực. Phiền các hạ tuyên bố từ hôn, giải tỏa lời thề cho.
Nhạc Cuồng Loan tỏ ra tiếc nuối, chậm rãi nói:
- Bổn nhân với Tống cô nương từ nay không bị ràng buộc bởi lời thề cũ nữa.
Thíêt Đảm Hồng Nhan chỉ chờ có thế, ung dung tát mạnh vào mặt gã rồi bật khóc và bất ngờ bỏ chạy khỏi hiện trường. Đám bằng hữu hốt hoảng gọi lại nhưng không được, chỉ trong khoảnh khắc Tống Thụy đã mất dạng. Mọi người vô cùng xót thương nàng và oán hận Nhạc Cuồng Loan. Họ đoán già đoán non rằng Thiết Đảm Hồng Nhan đã thất thân với gã chồng hờ nên mới có thái độ ấy.
Sau khi bắt Nhạc Cuồng Loan hứa rằng sẽ không động chạm đến Tống Thụy và gia quyến, Hàn Thiếu Lăng giải huyệt cho gã, rồi chàng đuổi theo Tống Thụy.
Ở đây, Nhạc Cuồng Loan ngửa cồ cười dài. Tiếng cười của gã khiến mọi người đinh tai nhức óc và chấn động tâm can. Họ Nhạc ngạo nghễ bảo Hội đồng Võ lâm:
- Lục vị hãy về chuẩn bị đi! Sau ngày rằm tháng hai, bổn nhân sẽ đến thăm từng phái để so tài cao thấp, y như Lôi Đình Đế Quân ngày xưa vậy.
Nói xong Nhạc Cuồng Loan đưa song thủ vỗ hai chưởng vào không trung. Hai đạo chưởng kình chạm nhau nổ vang rền như sấm dậy và làm cho hàng trăm chiếc lá của cây bạch ngọc lan ở gần đấy phải lìa cảnh rơi lả tả.Tuyệt kỹ “Lôi Đình thần chưởng” đã làm cho toàn trường khiếp vía, lo sợ.
Nhưng Vân Thiên Tử là người cương trực, bất khuất, chẳng chịu để cho ai uy hiếp. Ông đứng lên cười nhạt:
- Chẳng dám nhọc công Nhạc thí chủ đi lại nhiều mỏi chân, mỗi phái sẽ cử một đại biểu đến so tài với thí chủ. Thời gian là sáng ngày Trùng Cửu sang năm và địa điểm là chân núi Võ Đang. Mỗi ngày thí chủ phải đấu một trận, không thể gọi là xa luân chiến.
Quần hùng khoái trá vỗ tray, hăm hở nghĩ đến những trận thư hùng quyết liệt trăm năm có một. Nhạc Cuồng Loan thản nhiên đồng ý và ngạo nghễ đáp:
- Bổn nhân tán thành và mong chư vị cho làm sẵn một lá đại kỳ thêu sáu chữ “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” để tặng người giỏi nhất. Lục phái không thể đại diện cho cả nền võ học Trung Nguyên nên bổn nhân chính thức khiêu chiến với toàn thể hào kiệt tứ hải. Trong dịp ấy, vị nào tự lượng có thể đánh thắng được ta thì cứ việc thượng đài.
Ý tưởng này rất tuyệt diệu nên được đám hào khách Hà Nam nhiệt liệt hưởng ứng. Trước giờ chỉ có đại hội tranh chức Minh chủ Võ lâm, giới hạn tuổi tác là 70 trở xuống, nên Minh chủ chưa hẳn có võ công cao nhất làng võ. Vì vậy tổ chức một thịnh hội tranh danh hiệu “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” quả là rất cần thiết và lí thú. Nhưng khổ thay cái danh hiệu cao quý bậc nhất ấy sẽ khiến giang hồ nổi sóng. Những kẻ thiếu tinh thần thượng võ sẽ dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ kình địch của mình trước ngày đại hội. Háo danh là tật xấu muôn đời của nhân loại, ít người tránh khỏi. Vì hậu quả đáng sợ ấy mà mấy trăm năm nay, các đời Hội đồng Võ lâm chưa bao giờ để cái danh hiệu ấy được chính thức khai sinh. Nó luôn chỉ là lời phong tặng của hậu thế đối với bậc tiền nhân xuất chúng nào đó như Vương Trùng Dương hoặc Trương Tam Phong chẳng hạn.
Bởi thế cho nên Vân Thiên Tử chẳng thể đồng ý đề nghị của Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc. Nhưng ông chưa kịp phản đối thì Tùng Xuân Tử Chưởng môn nhân phái Toàn Chân đã lên tiếng:
- Bần đạo tán thành ý kiến của Nhạc thí chủ.
Vân Thiên Tử giật mình, trố mắt nhìn Tùng Xuân Tử và càng ngạc nhiên hơn khi thấy Trúc Lâm Tử Chưỏng môn phái Hoa Sơn cũng nói:
- Bần đạo cho rằng đã đến lúc dùng danh hiệu “Võ lâm Đệ nhất cao thủ” để chấn hưng nên võ học Trung Hoa. Người người sẽ hăng hái chuyên cần rèn luyện vì đã có mục tiêu để vươn tới.
Vân Thiên Tử chợt thức ngộ rằng bấy lâu nay sáu phái đã “đồng sang dị mộng”, vì có kẻ không hài lòng trước thanh danh rạng rỡ của núi Võ Đang. Vân Thiên Tử chua chát bảo hai người ấy:
- Nhị vị không nghĩ đến hậu quả hay sao?
Tùng Xuân Tử cười mát đáp:
- Đạo huynh cứ yên tâm! Bần đạo đã suy nghĩ rất chín chắn. Lần này người võ lâm chẳng hơi đâu mà chém giết lẫn nhau vì đối tượng chính của họ sẽ là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc, một kẻ có đến hoa giáp công lực và tuyệt học của Lôi Đình Đế Quân.
Lập luận ấy quả là chí lí khiến Vân Thiên Tử không sao bắt bẻ được. Ông hiểu rằng hai phái Toàn Chân, Hoa Sơn đều có những trưởng lão cao niên, võ nghệ thông thần thừa sức thắng Nhạc Cuồng Loan, nên họ muốn có cơ hội dương danh. Phần phái Võ Đương thì khá thiệt thòi vì cao thủ lớp trước đều đã quy tiên, và Vân Thiên Tử hiện là người cao niên nhất. Thấy ba vị Chưởng môn còn lại không có ý kiến gì, ông đành buông xuôi.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Đêm ấy, trong lúc tân lang và tân nương vầy duyên cá nước, lạc bước Vu Sơn thì Tử Khuê gặp ma. Chàng đang mơ màng giấc điệp thì nghe có tiếng gọi nhỏ:
- Quách công tử! Quách công tử!
Tử Khuê giật mình thức dậy, điếng hồn nhận ra một bóng đen đang đứng lù lù cạnh giường. Chàng ngồi bật lên, kinh hãi đến mức cứng cả quai hàm, chẳng nói nên lời, chỉ trố mắt nhìn lão già áo đen, râu ria bờm xờm. Lão ta mỉm cười trấn an:
- Lão phu là Lỗ Trục đây, công tử chớ sợ.
Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu khâu nhỏ, hàm răng lão trắng nhỡn nhưng không đáng sợ vì chẳng có răng nanh. Tử Khuê thở phào ấp úng:
- Té ra là Lỗ phán quan! Chẳng hay túc hạ tìm Quách mỗ vì chuyện gì?
Lỗ Trực ngồi xuống cạnh giường vui vẻ nói:
- Lão phu chán nghề phán quan nên đã xin Diêm Vương đổi làm Chiêu Vong tuần sứ, lo công việc dẫn độ những oan hồn vất vưởng trong thiên hạ về “Quỷ môn quan”.
Gương mặt lão đoan chính, uy nghiêm nhưng khá thân thiện khiến Tử Khuê bớt ái ngại. Chàng cười bảo:
- Đáng lẽ Quách mỗ phải có chén rượu để mừng cho túc hạ mới phải đạo. Tiếc rằng đêm đã khuya, xin hẹn dịp khác.
Lỗ Trực lộ sắc mừng:
- Nếu công tử không tỵ hiềm âm dương cách biệt thì lão phu sẽ rất vui mừng được cùng nhau đối ẩm. Từ sau trận tỷ quyền ở Hầu phủ, Lỗ mỗ rất ngưỡng mộ công tử, muốn được kết làm bằng hữu.
Tử Khuê bối rối đáp:
- Niên kỷ của Lỗ túc hạ còn hơn cả gia phụ, làm sao tại hạ dám tự xưng bằng hữu?
Lỗ Trực mỉm cười lắc đầu:
- Trong vòng luân hồi, mỗi chúng sinh đều trải qua hàng trăm nghìn kiếp, sao có thể nói ai già hơn ai? Công tử cứ gọi lão phu là Lỗ đại ca là đủ rồi!
Tử Khuê nghe cũng có lý, ôm quyền vái:
- Tiểu đệ bái kiến đại ca!
Lỗ Trực vái trả rồi phấn khởi bảo:
- Lão phu phải kiếm mấy cân rượu để uống mừng mối giao tình hiếm có này mới được. Hiền đệ hãy chờ ta một chút.
Lão nói xong thì biến mất chẳng thấy chút tăm hơi, lát sau quay lại với vò rượu lớn và một đùi dê nướng. Hai thứ này chắc là của nhà bếp Lư gia trang. Trong phòng ngủ Tử Khuê có chiếc bàn nhỏ, nơi đặt đĩa đèn dầu lạc cùng hai chiếc ghế đôn. Hai người ngồi ở đấy mà thù tạc, chuyền tay nhau vò rượu và đùi dê, ăn uống rất thâm tình. Lỗ Trực cười nói sảng khoái thế mà chẳng đánh động đến bất cứ ai ở những phòng bên. Tử Khuê kinh ngạc hỏi han thì lão đắc ý giải thích:
- Hiền đệ cứ yên lòng. Khi lão phu không muốn thì ngoài ngươi ra chẳng ai có thể nhìn thấy hoặc nghe được giọng nói của lão mỗ cả.
Chợt lão chính sắc bảo:
- Quách hiền đệ! Hôm nay lão phu đến tìm ngươi là vì có chuyện quan trọng. Mong ngươi cố bình tâm mà nghe tin dữ. Thiên cơ bất khả lậu nên lão phu chỉ có thể tiết lộ sơ lược rằng cuộc đời hiền đệ vô cùng sóng gió, đầy dãy tai ương. Bởi vậy trong bất cứ hoàn cảnh nào ngươi cũng không được phép tuyệt vọng, chán nản mà phải kiên cường tồn sinh bằng cái tâm của một kẻ hiểu rõ đạo đời.
Tử Khuê chột dạ đáp:
- Tiểu đệ ngu muội, chẳng dám chắc hiểu được đại đạo, chỉ cố giữ tấm lòng nhân hậu. Nhưng giang hồ ân oán triền miên, tay tiểu đệ đã nhiều lần nhuốm máu, lòng vô cùng hổ thẹn và chắc rằng không tránh khỏi nghiệp quả xấu.
Lỗ Trực nở nụ cười độ lượng:
- Hiền đệ đã đi đúng hướng rồi đấy. Đức nhân chính là đạo trời. Hổ dữ cũng là chúng sinh nhưng kẻ giết hổ để tự vệ, để bách tính được yên vui thì không tạo sát nghiệp. Tuy nhiên không sát sinh thì vẫn tốt hơn, sau này hiền đệ hãy cố chừa cho đối thủ một cơ hội hồi đầu hướng thiện.
Tử Khuê gật đầu tỏ vẻ hiểu ý và tò mò hỏi:
- Lỗ đại ca! Thần thánh của Đạo giáo và Phật giáo chẳng giống nhau, kinh nghĩa cũng vậy. Thế thì thực ra ai đúng ai sai, ai có ai không?
Lỗ phán quan cười khanh khách đáp:
- Hiền đệ cứ nên tin rằng chư Phật hay Tam Thanh đều hiện hữu và giáo lý của họ đều cần thiết cho cuộc sống này.
Rồi lão nói lảng sang chuyện khác:
- Này Quách hiền đệ! Sáng mai ngươi không cần phải đi Hồ Nam nữa.
Tử Khuê ngơ ngác hỏi lại:
- Tại sao vậy?
Lỗ Trực bùi ngùi đáp:
- Lệnh sư thúc Kỳ Hoàng chân nhân Cổ Sĩ Hoành đã chết đêm hôm kia rồi. Đúng ra lão ta còn thọ được mười hai năm nữa, song do kẻ thù phép thuật quá cao cường, đã dùng phép “Ám Tinh Đoạn Thần” giết chết Cổ chân nhân trong Quỷ trận.
Tử Khuê đau đớn hỏi:
- Lỗ đại ca! Chẳng hay hung thủ là kẻ nào vậy?
Lỗ phán quan tư lự đáp:
- Người ấy là Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giản, trên núi Quân Sơn giữa hồ Động Đình. Lão ta tuổi độ 80, võ nghệ cao cường, tinh thông võ trận kỳ môn lẫn yêu thuật. Đường Mai Giản vốn là bằng hữu với Cổ Sĩ Hoành, và ba năm trước có mượn của họ Cổ mảnh “Chiếu yêu Bát quái bảo kính”, vật trấn sơn của Huyền Hư phái ngày xưa. Do Cổ chân nhân tin rằng Quách hiền đệ sẽ khôi phục lại tông môn Huyền Hư phái nên ông ta đã đến Quân Sơn đòi lại bảo kính, vật tượng trưng cho quyền Chưởng môn nhân. Nào ngờ lão chết toi Đường Mai Giản lại rắp tâm chiếm đoạt bảo vật, đã lừa Cổ Sĩ Hoành vào “Oan Hồn quỷ trận” mà sát hại. Sau đó họ Đường đốt xác nạn nhân, rải xuống hồ để phi tang.
Tử Khuê nghe xong căm hận bảo:
- Tiểu đệ thề sẽ rửa thù cho sư thúc và đoạt lại bảo vật của sư môn.
Lỗ Trực cau đôi mày lưỡi mác, trầm ngâm suy nghĩ một lúc lâu mới nói:
- Ngươi không cần phải đi. Ít tháng nữa Đường lão quỷ sẽ vào đất Hà Nam này. Lúc ấy ngươi báo thù cũng không muộn.
Tử Khuê sực nhớ đến chuyện hôm trước, đỏ mặt trách móc:
- Sao đại ca lại dòm ngó chuyện phòng the của tiểu đệ?
Lỗ phán quan cười khà khà:
- Lão phu nào có hứng thú với chuyện ấy. Chẳng qua lão phu muốn thành toàn mối lương duyên của ngươi với nha đầu họ Dịch mà thôi. Từ nay lão phu chả bao giờ bén mảng đến khi ngươi đang hưởng lạc.
Và lão đắc ý kể công:
- Đáng lẽ ngươi phải tạ ơn Lỗ mỗ mới phải. Ta phải năn nỉ mãi nên cái lão Hoa Đà mới chịu dạy cho phương pháp trị bệnh lãnh cảm của Tái Vân đấy. Sau này nếu có dịp đi ngang núi Thiếu Hoa Sơn thì vợ chồng ngươi nhớ thắp nén hương cảm tạ lão ta.
Hai người chuyện trò, bàn bạc thêm một lúc lâu thì gà gáy sáng. Lỗ phán quan bưng vò rượu nốc cạn rồi cáo từ. Tử Khuê ngồi lại một mình, tiếc thương vị sư thúc tài hoa. Chàng thầm khấn vái hương hồn Cổ chân nhân và hứa với ông rằng sẽ phục hưng Huyền Hư phái để ông mỉm cười nơi chín suối.
Vài khắc sau, đoán rằng phụ mẫu đã dậy, Tử Khuê thay áo bước ra ngoài, tìm đến phòng của họ để vấn an. May thay Trương Thiên Sư và Bang chủ Cái bang cũng có mặt ở đấy, đang nói về cái chết của Cửu Hoa Thánh Y. Lỗ phán quan đã ứng mộng thông tin cho Trương Sách biết việc ấy.

* * * * *

Gần giữa tháng bảy, đoàn người về đến Hứa Xương và khoảng đầu tháng tám thì Quách Thiên Tường tiến hành việc tu sửa Quách gia trang để sửa soạn đám cưới Tử Khuê. Hôn lễ sẽ cử hành vào tháng tư sang năm. Đồng thời cũng ở gần đó, một tòa Kỹ gia trang cũng được xây dựng gấp rút. Kỹ Tòng Thư quyết định ở lại Hứa Xương để an dưỡng tuổi già, bên cạnh vợ chồng em gái và các cháu.
Công trình sư của cả hai công trình ấy chính là chàng xấu trai Tang Đông Dã. Dưới sự chỉ huy của gã, bốn mươi hai tên hàng binh Xoa Lạp cốc kiến tạo một mật thất cực kỳ kiên cố và đầy dẫy những cơ quan tinh xảo, phía dưới vườn hoa lối sau Quách gia trang. Khi nguy biến mọi người có thể ẩn nấp ở đấy mà không sợ chết đói. Lúc bình thường, mật thất sẽ là nơi luyện võ kín đáo của Tử Khuê.
Dù rất muốn gần gũi tình lang nhưng vì thân phận tôn quý mà nữ Hầu tước Trình Thiên Kim phải quay về Hầu phủ, để một mình Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân đến Quách gia trang hầu hạ cha mẹ chồng. Nhưng Tái Vân chỉ hưởng lợi thế được đúng hai tháng thì Tử Khuê lại phải lên đường. Lão chết tiệt Lỗ phán quan đã xuất hiện đêm đầu tháng mười, báo rằng Quân Sơn chân nhân có mặt ở Lạc Dương. Lão ta còn không cho Tái Vân đi theo Tử Khuê, viện cớ rằng nàng đã thoát khỏi cơn giận của Lôi Thần, chẳng cần bám lấy Tử Khuê nữa. Đêm ấy Lỗ Trực đã nhậu nhẹt với Quách Thiên Tường và Kỹ Tòng Thư khá lâu. Được đối ẩm với ma là cơ hội ngàn vàng nên hai lão cao hứng, uống thả giàn và say bí tỷ.
Sáng mùng hai, Tử Khuê một mình một ngựa rời Hứa Xương. Từ Hứa Xương đi Lạc Dương, lữ khách phải ngang qua Đăng Phong, nên trưa ngày mùng sáu Tử Khuê có mặt ở đấy. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy trong thành Đăng Phong đầy dẫy những khách giang hồ. Hiện tượng này chỉ xảy ra khi một địa phương sắp có biến cố hay thịnh hội gì đó. Nhưng Đăng Phong rất gần núi Tung Sơn, vậy phải chăng chính Thiếu Lâm tự là nguyên nhân?
Đến trước cửa Khai Tân đại phạn điếm, Tử Khuê nhận ra bên trong có hàng trăm hào kiệt đang cười nói oang oang. Chàng liền dừng cương, hạ mã và được gã tiểu nhị chào mời. Vào trong quán thấy Giáo chủ Thiên Sư giáo, Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách đang nhìn ra ngoài, bất giác Tử Khuê định thi lễ. Nhưng Trương Thiên Sư lại chẳng hề lộ vẻ gì là quen biết, khiến chàng nhớ lại rằng mình đang hóa trang, liền đi tìm bàn trống mà ngồi. Trong cuộc tồn sinh con người luôn tìm cách để khẳng định bản thân chính mình trước tha nhân. Thậm chí đại đa số nhân loại còn sa vào tật háo danh. Cho nên cảnh giác của một kẻ luôn phải giấu mặt quả là chẳng hay ho gì. Tuy nhiên Tử Khuê lại mãn ý về điều này, khi mà chàng không háo danh và coi trọng an nguy của người thân hơn tất cả.
Tử Khuê gọi một mâm cơm và bình rượu nhỏ. Đầu Đông tuyết chưa rơi, nhưng trời đã lành lạnh nên chàng định dùng vài chung cho ấm. Trong lúc chén thù chén tạc, Tử Khuê lắng nghe câu chuyện riêng của thực khách và hiểu ra nguyên cớ. Té ra hôm mùng một tháng chín vừa qua, hơn ngàn khách hành hương đã nhìn thấy Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn xuất hiện trên bầu trời Thiếu Thất sơn. Và xui xẻo cho họ Lục là lúc ấy có mặt Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết, cung thủ giỏi nhất võ lâm đương đại. Phan lão có thân hình khôi vĩ, thần lực kinh nhân, sử dụng một cây “Chấn Thiên cung” cánh thép, lớn gấp rưỡi trường cung bình thường. Mũi tên của lão bằng thép, bay xa hàng dặm mạnh mẽ đến mức có thể bắn xâu táo một lúc bảy tám người. Hôm đó Phan Nguyên Kết lên chùa Thiếu Lâm để xin cho con trai mình vào học võ. Khi phát hiện ra cánh chim khổng lồ của Phi Điểu Thần Ma, Phan lão nhớ ngay đến món tiền thưởng ba ngàn lượng vàng mà Minh chủ Võ lâm đã rêu rao. Họ Phan mừng húm giương “Chấn Thiên cung” trổ tài Dưỡng Do Cơ. Danh bất hư truyền, mũi tên của lão cắm vào bụng con đại bàng và còn xuyên thủng người Phi Điểu Thần Ma nữa. Nhưng con chim xấu số không chết ngay, theo bản năng mà xòe cánh cưỡi gió là đà rơi xuống vùng rừng rậm rạp bạt ngàn cách núi Thiếu Thất vài dặm về hướng Đông.
Rặng Tung Sơn có đến bảy mươi hai ngọn núi, sơn vực rất rộng và đầy cây cối, muốn tìm ra Phi Điểu Thần Ma chẳng phải dễ. Nhưng cây “Diêm Vương quỷ kỳ” oai lực vô song, ảnh hưởng rất lớn đến vận mệnh của võ lâm, nên Thiếu Lâm tự đã huy động toàn bộ tăng lữ trong chùa truy tầm Phi Điểu Thần Ma. Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết không dám tranh giành với phái Thiếu Lâm, hậm hực xuống núi. Lão ta mất giải thưởng ba ngàn lượng vàng nên đi thẳng đến Tổng đàn Võ lâm ở Trịnh Châu mà báo công. Dọc đường họ Phan còn loan báo rộng rãi tin này khiến cả giang hồ chấn động, lũ lượt kéo về núi Tung Sơn tìm vận may. Ngoài Minh chủ Võ lâm và ba trăm thủ hạ, các lực lượng chính tà hùng hậu khác đều đến nơi. Nghe nói có cả Chiết Mai bang, Bích Huyết bang và Xoa Lạp cốc. Điều này hứa hẹn một cuộc chiến long trời lở đất nếu chùa Thiếu Lâm tìm được Phi Điểu Thần Ma trước. Do đó Cái bang đã thả chim câu gửi thư hỏa tốc, mời các phái trong Hội đồng Võ lâm đến hỗ trợ Thiếu Lâm tự.
Nghe xong Tử Khuê bâng khuâng suy nghĩ:
- Tung Sơn cũng thuộc địa phận phủ Lạc Dương. Có lẽ gã chết toi Quân Sơn chân nhân đã đến đây vì việc “Diêm Vương quỷ kỳ”, nên Lỗ đại ca mới bảo ta như thế. Hơn nữa Đại Giác thiền sư là bậc cao tăng đáng kính, ta không thể đứng ngoài cuộc được.
Sau hôn lễ của Kỹ Lưu Tiên và Lư Công Đán, mối quan hệ giữa các phái trong Hội đồng Võ lâm đã bị rạn nứt. Vì cái danh hiệu Võ lâm Đệ nhất cao thủ mà vô tình họ trở thành địch thủ của nhau. Những kẻ cùng một mối lo thì là bạn và khi cùng một tham vọng sẽ biến thành thù, đạo lý ấy luôn luôn đúng. Có thể bản thân một thiền sư đắc đạo như Đại Giác sẽ không tha thiết với thanh danh, nhưng mấy ngàn tăng lữ Thiếu Lâm thì lại chẳng muốn chùa Thiếu Lâm đứng thứ hai. Trường hợp của phái Võ Đương cũng thế. Riêng hai phái Cái bang và Thiên Sư thì đành ngậm ngùi cay đắng vì không có cao thủ nào kiệt xuất. Do đó chàng chắc rằng trong cục diện hôm nay, năm phái kia sẽ hết lòng tương trợ Thiếu Lâm tự. Tử Khuê ngày càng trưởng thành, tâm cơ sâu sắc hơn trước, luận việc rất thấu đáo. Nhưng sự việc chỉ khiến chàng thêm buồn, ngao ngán cho thói trọng lợi danh của người đời.
Chàng ngắm gương mặt đầy nếp nhăn và mái tóc bạc của Trương Thiên Sư mà lòng thầm ái ngại xót thương. Vì chút danh phận trong Hội đồng Võ lâm mà vị Giáo chủ mang dòng màu thần tiên phải bôn ba mãi, chẳng được yên thân. Rốt cuộc ông sẽ nhận được gì khi Thiếu Lâm, Võ Đương vẫn là “Thái Sơn Bắc Đẩu” của võ lâm, còn Thiên Sư giáo chỉ được giới giang hồ xem như lũ thầy pháp múa kiếm không rành? Trương Sách cũng như nhiều đời Thiên sư trước đều bị luỵ vì cái danh.
Tử Khuê nghĩ ngợi đến đây thì tửu quán có thêm khách là phái Võ Đương. Vân Thiên Tử đã thống lĩnh 50 đệ tử đi vào quán. Theo sau ông chính là hai học trò cưng, Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ và đạo cô Linh Tuệ. Trương Thiên Sư và mọi người hớn hở đứng lên chào đón. Cùng là đạo gia nên ông khá thân thiết với Chưởng môn nhân phái Võ Đương. Tất nhiên Trương Sách mời Vân Thiên Tử ngồi chung bàn. Bọn đệ tử Võ Đương thì tự tìm lấy chỗ. Tình cờ, Mộ Duy Lộ và Linh Tuệ đạo cô ngồi ở bàn bên cạnh Tử Khuê.
Vài khắc sau, quần hùng rời quán để đến núi Thiếu Thất, Tử Khuê cũng lặng lẽ đi theo. Đầu giờ Mùi, mái ngói rêu phong của ngôi chùa danh tiếng nhất Trung Hoa hiện ra trước mắt chàng, thấp thoáng sau rừng tùng rậm rạp lưng chừng núi. Thiếu Lâm tự có nghĩa là ngôi chùa giữa rừng cây trên núi Thiếu Thất. Thực ra ngọn núi mà Thiếu Lâm tọa lạc có tên là Ngũ Nhũ Sơn, một đỉnh của chân núi Thiếu Thất. Song nếu vì vậy mà đặt tên chùa là Ngũ Nhũ tự hoặc Nhũ Thượng tự thì nghe chẳng hay ho chút nào. Bởi thế người xưa đã uyển chuyển chọn chiêu bài Thiếu Lâm tự. Nhưng cho dù mang cái tên gì thì hôm nay đất Phật cũng chẳng còn thanh tịnh, trang nghiêm nữa. Trên vùng đất quanh chân núi Ngũ Nhũ hiện giờ ngổn ngang chen chúc mấy trăm lều vải, màu sắc kích thước không đều.
Quần hùng đã ăn dầm nằm dề cả tháng nay để tham gia việc truy lùng Phi Điểu Thần Ma. Có người muốn chiếm hữu bảo vật song có người chỉ đi tìm vận may. Biết đâu tổ tông hiển linh xui khiến họ vớ được cây “Diêm Vương quỷ kỳ”, đem bán lại cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, hoặc hai bang Bích Huyết - Chiết Mai. Lúc ấy thì số vàng sẽ không chỉ là ba ngàn lượng mà còn hơn nữa.
Bọn hào khách các lộ có thể dựng lều để đỡ tốn tiền trọ song không thể tự lo được việc ăn uống. Do đó, các lâu quán trong thành Đăng Phong đã mau mắn đến hiện trường mở hàng trăm tiểu điếm, cung cấp những dịch vụ sinh tồn cho gần nửa vạn khách giang hồ. Mùi rượu ngon, mùi xào nấu thịt, cá, heo nồng nàn ngan ngát cả vùng núi Thiếu Thất và chắc đã xộc vào tận mũi của những pho tượng Phật trong chùa Thiếu Lâm. May thay bọn chủ chứa cũng còn nể mặt chư Phật nên đã không huy động bọn kỹ nữ đến đây hành nghề. Những tửu quán, phạn điếm tạm bợ ấy tuy đều làm bằng những vật liệu thô sơ như gỗ, tre, rơm, lá, nhưng đều khá xinh xắn, rộng rãi và sạch sẽ. Chúng nằm thẳng thớm hai hàng song song, đối diện nhau tạo thành cả một dãy phố, y như chốn thị thành vậy.
Các dịch vụ này nằm khá gần những túp lều, thuận tiện cho bọn hào khách lui tới ăn uống, nhậu nhẹt và bài tiết. Có vào phải có ra, gần trăm lều quán dã chiến kia đều kín đáo đào hố phân để phục vụ các thượng khách của mình. Nhưng chẳng phải ai cũng chịu nổi cho tới khi chạy được đến nơi, nên bọn hào khách thường “tùy ngộ nhi an”, tìm một bụi rậm hay gốc tùng nào đấy. Hậu quả là giờ đây bầu không khí quanh núi Thiếu Thất luôn thoang thoảng một mùi thum thủm, ô nhiễm, mất vệ sinh. May mà mấy ngàn con tuấn mã đã được gửi phân tán trong các nhà dân quanh vùng, nếu không môi trường Phật địa còn bị ô nhiễm nặng nề hơn nữa.
Tử Khuê đến đây tìm kẻ thù chứ không phải tìm bảo vật nên chẳng gởi ngựa, lững thững đi thẳng vào khu phạn điếm. Dù đang là thời gian thích hợp để truy lùng Phi Điểu Thần Ma song các quán xá vẫn có khách. Tiệm nào cũng được vài bàn, tiếng cười nói râm ran. Đất rộng nên các quán không phải chen chúc giáp vách nhau, khiến khách có thể đi đến từ mọi hướng. Trời lạnh nhưng tuyết chưa rơi nên các liếp tre vẫn được chống lên, để hở ba cạnh, trừ cạnh đặt nhà bếp. Tường xây bằng ván mộc hoặc tre trúc, chỉ thấp cỡ mặt bàn. Nhờ vậy Tử Khuê có thể nhìn thấy những tửu khách bên trong quán. Chàng chỉ tìm cầu may vì đoán rằng Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giản đã vào khu rừng rậm phía Đông núi Ngũ Nhũ để tìm “Diêm Vương quỷ kỳ”. Những gã trong quán kia có lẽ chỉ là kẻ hiếu kỳ, hiếu sự ham vui mà đến, hoặc giả là người quá mệt mỏi, chán nản việc lặn lội mò kim đáy biển nên cóc thèm nhọc xác nữa.
Đến trước phạn điếm kiêm tửu quán ở đoạn giữa dãy quán hướng bắc, Tử Khuê chợt phát hiện có khá đông khách và thấp thoáng nơi bàn ngoài là dung mạo quen thuộc của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Tử Khuê khấp khởi mừng rỡ, rẽ ngay vào đấy. Được gã tiểu nhị chào mời, chàng hạ mã, trao dây cương cho gã rồi dần bước. Nhưng Tử Khuê lại nhận ra Tống Thụy không độc ẩm mà đang trò chuyện thân mật với người cùng bàn. Đấy là một hán tử võ phục đen, ngoài khoác áo lông cừu trắng, thân thể tráng kiện, mặt chữ điền vuông vắn khôi ngô. Tuy ăn mặc theo lối thế tục song đầu gã lại cạo nhẵn thín, y như một nhà sư vừa hoàn tục vậy. Và cây đoản côn bằng thép đen bóng nằm trên bàn đã giúp Tử Khuê nhớ ra gã là Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương, một trong “Võ lâm Ngũ Tú”. Tử Khuê chợt nghe lòng se lại một niềm cay đắng không tên. Chàng bâng khuâng ngồi xuống bàn gần đấy, ngắm nhìn nửa gương mặt quay nghiêng của cố nhân. Tống Thụy không hề phát hiện ánh mắt nồng nàn song đầy xót xa của chàng. Nhưng lát sau, Lã Hoa Dương tình cớ quay về phía Tử Khuê, khó chịu vì có kẻ dám chiêm ngưỡng mỹ nhân của mình, liền quắc mắc đe doạ. Tử Khuê chẳng sợ gì gã song cũng không tiện gây hấn, đành tảng lờ nâng chén rượu và quay sang hướng khác. Chàng quan sát khắp tửu quán, không thấy đệ tử năm phái Bạch đạo. Có lẽ họ đã lên cả Thiếu Lâm tự. Lúc này Thiên Sư giáo và phái Võ Đương cũng đã thượng sơn.
Chợt ngoài cửa vang lên tiếng cãi cọ ồn ào của gã tiểu nhị. Gã đang cố ngăn chặn xua đuổi một người :
- Mụ hãy đi chỗ khác mà xin ăn. Hôi hám, dơ dáy như mụ mà vào quán thì khách của bổn điếm bỏ chạy hết.
Người kia bật cười khanh khách trả lời bằng một giọng thanh tao, trẻ trung:
- Ngươi lầm rồi! Bổn cô nương đến đây để tìm trượng phu chứ chẳng phải để xin cơm.
Quan khách hiếu kỳ nhìn cả ra ngoài, thấy một nữ nhân đầu bù tóc rối, y phục phong phanh, rách rưới và cực kỳ bẩn thỉu. Gương mặt nàng dơ bẩn cáu ghét đen sì trong rất ghê tởm và có vẻ như thân thể sẽ bốc mùi khó chịu. Riêng Tử Khuê cảm thấy xót thương cho kẻ bạc mệnh kia khi thấy ả không mặc áo bông trong tiết Đông lạnh giá này. Bệnh điên đứng đầu trong nan y tứ chứng khiến nền y học Trung Hoa phải bó tay. Ngay những kẻ có lòng cũng không thể giúp đỡ được họ. Có lần Tử Khuê đã tặng áo lông cừu cho một người điên song người ấy đã vứt đi ngay sau đó không lâu.
Bất ngờ, nữ nhân dở người kia bỏ cửa chính hướng nam lao vút về cạnh đông tửu quán, nhảy qua vách thấp mà vào. Thân pháp nhanh như chớp khiến toàn bộ thực khách phải bàng hoàng, hiểu rằng nàng ta có bản lãnh rất cao cường. Họ nín thở quan sát trong khi nữ nhân điên khùng chậm rãi đi qua từng bàn nhìn mặt từng người. Có lẻ là ả ta đang đi tìm chồng thật. Ai cũng ghê rợn và lo sợ nàng ta túm lấy mình. Đối với người điên thì không thể lý luận hay biện minh gì hết.
Trước tiên nàng tiến sâu vào trong, kiểm tra các bàn ở cuối quán rồi đi ngược ra cửa. Tử Khuê là người thấp thỏm, hồi hộp nhất vì biết số mình đen đủi, luôn vướng vào những tai họa ngớ ngẩn. Khi ả khùng bước đến gần, chàng cố tình nâng ly rượu lên môi, quay mặt về phía cửa sổ, giả như đang ngắm cảnh. Nhưng đúng là chạy trời không khỏi nắng, nàng ta đã dừng chân cạnh bàn chàng, nhìn chăm chú rồi bất ngờ quỳ xuống khóc gọi:
- Tướng công! Thiếp là Thanh Chân đây. Biết chàng vì tính mệnh không dám quay lại Thiểm Bắc nên thiếp đã bẻ xiềng trốn khỏi nhà, bôn ba vạn dặm suốt mấy tháng nay để tìm kiếm. Mối chân tình ấy chẳng lẽ không khiến tướng công động lòng hay sao?
Bọn thực khách nửa tin nửa ngờ, nhìn Tử Khuê với ánh mắt chán ghét hoặc thương hại. Tử Khuê rầu rĩ nói với nữ lang:
- Cô nương hãy bình thân rồi nhìn kỹ dung mạo của tại hạ xem có giống lệnh phu hay không?
Nàng ta đứng bật dậy, cười khúc khích:
- Tướng công tưởng rằng thiếp không nhận ra chàng mang mặt nạ hay sao, và giọng nói của chàng thì thiếp chẳng lầm được.
Tử Khuê chết điếng người, không ngờ sự tình lại tệ hại đến mức này. Làm sao nàng ta có thể khám phá ra thủ đoạn hóa trang kỳ tuyệt của Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San cơ chứ? Và tất nhiên chàng không dám lột mặt nạ ra để chứng minh thân phận trước mặt quá nhiều người. Sự im lặng hoang mang của chàng đã khiến quần hào ngộ nhận. Họ bắt đầu tin rằng hán tử mũi két không râu kia chính là kẻ bạc tình. Vài người đã lên tiếng chửi rủa, nói xỏ nói xiên. Ngay Thiết Đảm Hồng Nhan cũng nhìn chàng bằng ánh mắt phẫn nộ.
Tử Khuê rối như tơ vò, chưa biết phải đối phó thế nào thì ả điên Thanh Chân sụt sùi khóc bảo:
- Hối ca! Nếu chàng quyết không nhìn nhận lương duyên thì thiếp cũng đành cam quay lại cố hương, tiếp tục chịu cảnh giam cầm.
Nghe đối phương gọi mình bằng cái tên ấy, Tử Khuê rùng mình bởi một ý niệm mơ hồ, kỳ lạ. Tuy chưa hiểu rõ nguồn cơn, nhưng chàng biết rằng mình không thể để nữ lang khốn khổ này ra đi được. Tử Khuê buột miệng nói ngay:
- Chân muội đừng đi!
Thanh Chân vui mừng khôn xiết, sụp xuống ôm chân chàng mà khóc. Mùi hôi hám từ người nàng ta xộc vào mũi Tử Khuê khiến chàng buồn nôn song không dám chê, chỉ dịu dàng bảo:
- Chúng ta sẽ đi sang khách điếm bên kia đường để nàng tắm gội và thay y phục.
Có kẻ đa sự lên tiếng:
- Ở đây làm gì có chỗ nào bán y phục phụ nữ !
Quả đúng vậy, có ai nghĩ đến chuyện kinh doanh quần áo đàn bà ở chốn chiến trường sát máu này? Số nữ hào kiệt như Thiết Đảm Hồng Nam rất hiếm. Và chính Tống Thụy đã lặng lẽ mở tay nải lấy ra vài bộ võ phục, một đôi giày vải cùng đồ lót, bước đến trao cho Thanh Chân. Ả điên thản nhiên nhận lấy và toét miệng cười bảo:
- Cảm ta hiền muội. À này! Người xinh đẹp thế kia sao lại lấy một gã trọc phá giới, mặt trơ trán bóng như vậy? Đến Phật tổ mà hắn còn dám lật lọng thì còn chung thủy với ai được nữa?
Quần hùng phá lên cười nắc nẻ khi thấy Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương bị mụ khùng kia chê bai quá cỡ. Họ Lã thì giận đến đỏ mặt, tức cành hông khi bị mạt sát trước mặt người đẹp. Nhưng chẳng lẽ phát tác trước mặt kẻ điên cuồng nên đành bấm bụng ngồi yên. Nào ngờ Thanh Chân thấy thế lại đắc ý nói tiếp:
- Hiền muội biết không. Hồi xưa ta thường được nghe nhũ mẫu kể lại vùng Du Lâm có một gã sư hổ mang, đêm đêm đội tóc giả để đi mò mẫm các thôn nữ, cuối cùng bị người ta đánh gãy giò, giải lên quan. Hiền muội hãy nghe lời ta, bỏ quách tên trọc ấy cho rồi.
Do mặt mũi lem luốc nên người ta không rõ Thanh Chân bao nhiêu tuổi song giọng nói thì rất trẻ trung. Khổ thay nàng cứ điềm nhiên xưng chị với Tống Thụy. Và một lần nữa, các tửu khách lại rống lên cười cợt. Họ chẳng ưa gì một kẻ kiêu ngạo như Lã Hoa Dương. Họ Lã không còn kiềm chế được nữa khi nghe Thiết Đảm Hồng Nhan trả lời ả điên chết tiệt kia:
- Đại tẩu cứ yên tâm. Vị huynh đài ấy chỉ là bằng hữu chứ không phải là ý trung nhân của tiểu muội.
Lã Hoa Dương đỏ mặt tía tai, đứng phắt dậy chửi vang:
- Mụ điên khốn kiếp kia sao dám nhục mạ ta?
Dù rất ngao ngán không muốn xía vào chuyện của mụ vợ bất đắc dĩ, điên khùng, song đến nước này Tử Khuê cũng phải lên tiếng. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân:
- Chân muội! Nàng hãy im miệng và đến tạ lỗi với Lã thiếu hiệp.
Thanh Chân ngoan ngoãn gật đầu vâng dạ nhưng lập tức ngơ ngác hỏi lại chàng:
- Tướng công bắt thiếp im miệng thì làm sao tạ lỗi được?
Câu nói ngây thơ, ngốc nghếch của nàng lại khiến cử tọa cười nôn ruột. Tống Thụy cũng không nín được, cười bảo:
- Không cần đâu! Nhị vị cứ đi đi!
Tử Khuê rầu rĩ gật đầu tỏ ý cảm tạ Thiết Đảm Hồng Nhan rồi dắt theo sau cô vợ trên trời rớt xuống của mình rời quán. Chàng lấy đồ đi đến khách điếm đối diện. Tuy không rộng rãi song đây là cơ ngơi khang trang, kiên cố nhất có vách và sàn bằng ván được bào nhẵn nhụi. Người ta đã tháo dỡ kiến trúc gỗ này trong thành Đăng Phong và mang đến đây ghép lại, chỉ khác trước ở chỗ mái tranh thay mái ngói. May thay Lương Phong khách điếm vẫn còn trống phòng. Có lẽ vì giá đắt cắt cổ nên chẳng mấy người dám mướn. Khách giang hồ chứ nào phải lái buôn? Lão chưởng quỹ mặt choắt, râu dê cười hề hề bảo khách:
- Bẩm đại ca. Bổn điếm có quy củ là lấy tiền trước, giá mỗi ngày mười lạng bạc, mong đại ca thông cảm cho.
Đúng là đắt đến đau ruột, còn hơn cả giá phòng ở Đăng Phong. Nhưng Tử Khuê đang rối tơ vò nên chẳng để ý đến, móc ngay túi bạc đặt lên quầy và yêu cầu một bồn nước nóng. Lão chưởng quỹ này đã biết chuyện “Vạn lý tầm phu” của đôi khách vì gã tiểu nhị đã sang đây hóng hớt. Lão vui vẻ gật đầu, đưa khách vào trong. Tám phòng dùng chung một nhà tắm song may là giờ này khách trọ trước đã đi vắng cả. Thanh Chân tha hồ kỳ cọ, cạo ghét gần nửa canh giờ mới xong.
Khi nàng đẩy cửa vào phòng thì Tử Khuê đang ngồi tư lự trên cạnh giường, nghĩ cách giải tỏa tai hoạ. Chàng khẽ giật mình trước dung nhan thiên kiều bá mị của người thiếu nữ trước mặt mình. Chàng chẳng dám chắc đấy có phải là Thanh Chân hay không nữa? Có lẽ nhờ lớp cáu ghét dày cộm che chở nên da mặt nàng không bị nám đi bởi nắng mưa, vẫn trắng hồng và mịn màng. Giờ đây mái tóc huyền óng ả buông dài, ôm lấy gương mặt trái xoan thanh tú. Cặp mắt nhung đen lay láy, sống mũi thon thon, bờ môi hồng cong cớn và hai núm đồng tiền duyên dáng kia toát ra một vẻ ngây thơ, trong trắng lạ thường. Đây là thần sắc của một cô bé mười hai mười ba tuổi chứ chẳng phải kẻ trưởng thành. Nghĩa là có thể Thanh Chân chỉ khờ dại, non nớt chứ không hề điên loạn.
Nàng nhoẻn miệng cười tươi:
- Hối ca! Chàng thấy thiếp có đẹp hơn vị cô nương tốt bụng lúc nãy hay không?
Tử Khuê bất giác gật đầu rồi lại lắc đầu, Mỗi người một vẻ quả là khó so sánh hơn thua. Thấy Thanh Chân bước đến định sà vào lòng mình, Tử Khuê vội đứng lên và mời nàng đến cùng ngồi trên hai chiếc ghế đôn gỗ cạnh bàn bát tiên trong phòng. Rồi chàng nghiêm nghị hỏi:
- Chân muội! Phải chăng nàng cho rằng ta chính là Thiết Thủ Thần Tiêu Bàng Nguyên Hối?
Tử Khuê đã suy nghĩ rất lâu trong lúc Thanh Chân tắm gội, đi đến kết luận rằng nàng ta chính thị người tình bí mật của họ Bàng, khi gã lạc đến Lôi Đình thần cung ở Thiểm Bắc. Chàng không chắc lắm nhưng chẳng còn giả thiết nào đáng tin cậy hơn. Quả nhiên Thanh Chân vui vẻ gật đầu:
- Đúng vậy! Ngày ấy chàng đã bảo với thiếp rằng tên mình là thế khi thiếp cứu chàng khỏi “Thạch trận” của Lôi Đình thần cung.
Tử Khuê mừng thầm, biết mình đã đi đúng hướng. Chàng từ tốn bảo:
- Giờ đây ta sẽ gỡ mặt nạ để Chân muội hiểu rõ nội tình.
Tử Khuê cẩn thận lột lớp hóa trang, để lộ chân diện mục. Chàng tưởng Thanh Chân sẽ sửng sốt, thất vọng, nào ngờ nàng lại hớn hở tán dương:
- Ôi chao! Không ngờ khi cạo râu, tỉa lông mày, Hối ca lại trẻ trung và anh tuấn đến dường này. Thiếp vô cùng sung sướng khi có được bậc trượng phu tài mạo như chàng.
Tử Khuê rầu thúi ruột, bắt đầu tin con nha đầu kia khùng điên thứ thiệt. Bàng Nguyên Hối hơn chàng gần hai chục tuổi, thế mà ả cũng không phân biệt được. Tử Khuê chán nản bảo:
- Nhưng ta là Quách Tử Khuê chứ nào phải Bàng Nguyên Hối.
Thanh Chân thản nhiên cười đáp:
- Té ra Bàng Nguyên Hối chỉ là tên giả! Thảo nào năm xưa Hà nhũ mẫu kể rằng các hiệp khách thường cải trang và đổi tên khi trừ gian diệt bạo, để tránh tai họa cho gia quyến. Từ nay thiếp sẽ gọi chàng là Khuê ca.
Tử Khuê tức như bị bò đá, khổ sở rên rỉ:
- Hoàng thiên ơi! Ta chưa hề đến Lôi Đình thần cung bao giờ, sao có thể là Bàng Nguyên Hối được chứ? Nàng làm ơn tỉnh táo lại dùm ta!
Thanh Chân tái mặt, nhìn chàng trân trối, nước mắt tuôn như ra suối. Nàng nghẹn ngào:
- Khuê ca! Thiếp biết chàng đã có hai vợ nên sợ hãi mà chối bỏ tình xưa. Nhưng thiếp là người rộng lượng, hiểu câu “Trai anh hùng năm thê bảy thiếp”, tất sẽ chẳng ghen hờn. Lòng thiếp như thế mà chàng còn không dung nạp thì Thanh Chân cũng chẳng còn sống làm gì nữa.
Dứt lời nàng lao vút về phía giường ngủ, chụp thanh bảo kiếm của Tử Khuê, rút ra khỏi vỏ và kề vào cổ mình. Tử Khuê hồn phi phách tán, đứng dậy thét lên:
- Chân muội chớ làm càn!
Thanh Chân dừng tay, nức nở hỏi:
- Vậy tướng công có chịu nhận Trác Thanh Chân này làm thê thiếp hay không?
Tử Khuê bí quá, thở dài đáp:
- Ta đồng ý!
Thanh Chân lập tức nhoẻn miệng cười, quăng kiếm lên giường rồi lướt đến ôm và áp má vào ngực chàng. Tử Khuê bâng khuâng đứng im như tượng gỗ. Chợt chàng phát hiện ra điều quái dị bèn hỏi nhỏ:
- Chân muội! Vì sao nàng biết ta đã có hai vợ? Vì sao nàng nhận ra dù ta mang mặt nạ?
Thanh Chân cười khúc khích, ngửa mặt sôi nổi đáp:
- Có lẽ tấm chân tình của thiếp đã động đến lòng trời nên đêm qua Nguyệt lão giáng mộng chỉ giáo. Người nói rõ ràng chiều nay chàng sẽ có mặt ở chân núi Ngũ Nhũ và cải trang thành một hán tử mũi ưng, gò má trái có nốt ruồi đen. Nguyệt lão còn báo trước rằng chàng vì sợ hai mụ vợ ở nhà mà chối bỏ thân phận.
Tử Khuê sực nhớ ngay đến lão Phán Quan họ Lỗ, nên gặng hỏi:
- Này Chân muội! Thế chẳng hay dung mạo Nguyệt lão ra sao?
Thanh Chân hí hửng đáp:
- Ông ta cực kỳ đẹp lão, râu năm chòm trắng như bông, mặt mũi hiền lành phúc hậu.
Nghe vậy Tử Khuê nửa tin nửa ngờ, không dám khẳng định là Lỗ phán quan đã nhúng tay vào vụ này.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Đến nửa đêm thì Tử Khuê đã nghe hết cuộc hành trình giang khổ của Trác Thanh Chân từ Thiểm Tây đến đây. Nàng không một xu dính túi, chẳng chút hành trang, trên đường thiên lý sống bằng quả rừng hoặc thực phẩm cướp giật được. Và khổ thay, Thanh Chân lại là cung nữ của Lôi Đình Đế Trác Ngạn Chi. Ai dính dáng đến nàng là dính họa vào thân, chết thảm y như Bàng Nguyên Hối vậy. Nhưng Tử Khuê không làm sao thoát ra cảnh éo le này được. Đấy là chưa kể đến rắc rối trong gia sự khi chàng dắt ả ngốc của nợ này về Hứa Xương.
Còn một vấn đề khá tế nhị là Tử Khuê chẳng thể mạo danh mà lấy người tình của kẻ đã chết. Chàng không biết hai năm trước giữa Thanh Chân và Bàng Nguyên Hối đã xảy ra chuyện gì song không tiện hỏi han. Tử Khuê đánh liều, phó mặc dòng đời đưa đẩy, chờ hạ hồi phân giải. Trước mắt, chàng cố giữ khoảng cách với Thanh Chân để tránh hậu họa đáng tiếc về sau. May mà Thanh Chân rất mực ngây thơ, trong trắng, biết câu “nam nữ hữu biệt”, tuy đồng sàng cùng chàng nhưng nằm xa thản nhiên an giấc.
Sáng hôm sau, Tử Khuê thức giấc khá trễ, phát hiện Thanh Chân đã dậy trước mình, đang loay hoay xếp bộ võ phục để chàng thay, có cả đôi bao tay “Ngư giáp miệt”. Nàng cầm một chiếc lên xăm soi và vui vẻ khen:
- Tướng công quả là khéo tay! Chàng sơn phết tinh vi thế này thì người ngoài làm sao nhận ra “Ngư giáp miệt”!
Quả thực là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quang San đã cặm cụi mấy ngày trời, dùng một loại sơn đặc biệt phủ lên bên ngoài đôi bao tay quý giá khiến chúng trông như da thật, có cả móng lẫn những nết nhăn ở đốt ngón tay. Tử Khuê ậm ừ cho qua chuyện rồi rủ nàng rời khách điếm, sang tửu quán đối diện dùng điểm tâm. Thực khách khá đông và trong số ấy có không ít người đã từng hiện diện hôm qua, nhưng chẳng có ai nhận ra đôi trai gái phong tư mỹ mạo chính là cặp phu thê quái gở chiều qua. Tử Khuê đã mang chiếc mặt nạ khác, trở thành một hán tử tam tuần để râu mép, mặt mũi vuông vức, cương nghị. Phần Trác Thanh Chân thì quá xinh đẹp, khác xa mụ điên bẩn thỉu mà người ta từng gặp. Nhưng nếu Thiết Đảm Hồng Nhan xuất hiện nơi đây tất sẽ nhận ra y phục mình.
Lát sau, Tống Thụy bước vào, có Thiếu Lâm Thần Côn đồng hành. Tử Khuê thoáng nghe lòng mình mừng rỡ và thức ngộ rằng mình đã ghen với Lã Hoa Dương. Tống Thụy sững người khi nhìn thấy Trác Thanh Chân. Nàng không thể lầm được vì bộ võ phục máu gan gà mà nữ lang lạ mặt kia đang mặc cực kỳ quen thuộc. Và ngược lại, Thanh Chân cũng nhận ra ân nhân, hớn hở đứng lên vẫy gọi:
- Tống hiền muội!
Vẻ rạng rỡ chân thành của Thanh Chân đã khiến Tống Thụy cảm động, song nàng không nhận lời đồng bàn mà nhã nhặn từ chối:
- Cảm tạ nhị vị! Tiếc rằng hiền muội đã hẹn ăn sáng với Lã huyng đài.
Nói xong, nàng ngồi xuống một bàn trống gần cửa quán, Thanh Chân lộ vẻ bực bội, lầm bầm:
- Té ra cô ả chưa dứt bỏ được gã lừa trọc mắc toi kia!
Tử Khuê chau mày hỏi:
- Lã Hoa Dương nghi biểu đường chính, nổi danh là bậc anh hùng hiệp nghĩa, sao Chân muội lại có ác cảm với gã như thế!
Thanh Chân tư lự đáp:
- Tiểu muội đến Lạc Dương cách nay ba hôm. Đêm ấy tiểu muội ngủ trên chạng ba một cây cổ thụ trong hoa viên của Lạc Hà đại khách điếm. Khoảng gần cuối canh ba, có một bóng đen vượt tường rào và nhảy lên lầu, đột nhập vào một phòng có ánh đèn. Tiểu muội tưởng là đạo tặc liền bám theo, rình ngoài lan can. Khi nhìn qua khe cửa thì tiểu muội thấy gã họ Lã tay cố lột xiêm y của một mỹ nhân rất đẹp. Nàng ta chống cự yếu ớt và cười bảo: “Chưa lấy được “Dịch Cân Kinh” sao Lã đại ca lại đòi thưởng công sớm như vậy?”. Nhưng gã trọc ấy đã cởi được áo ngủ của nàng ta và vung chưởng quạt tắt đèn dầu. Tiểu muội vì xấu hổ mà quay về chỗ ngủ trên cây, không dám nghe ngóng nữa.
Tử Khuê bàng hoàng, kinh hãi, không ngờ Lã Hoa Dương lại vì nữ sắc mà bán mình, sẵn sàng trộm cả báu vật trấn sơn của phái Thiếu Lâm. Chàng bâng khuâng nhớ đến Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, một nạn nhân tương tự. Tử Khuê quyết định sẽ tìm cơ hội thuận lợi, dùng thân phận thật mà cảnh báo sư muội của mình và chùa Thiếu Lâm.
Hơn khắc sau, Lã Hoa Dương vẫn chưa đến và ngoài cửa quán vang lên tiếng ồn ào, náo nhiệt. Người ta kháo nhau rằng đã tìm thấy tung tích của Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn, tại ngọn Độc Nha Sơn cách núi Ngũ Nhũ chừng ít dặm về hướng bắc. Thế là thực khách vội vã gọi tiểu nhị tính tiền, hoặc quăng đại bạc lên bàn rồi rời tửu quán. Tống Thụy cũng vậy.
Tử Khuê đến đây để tìm Quân Sơn chân nhân chứ chẳng phải vì “Diêm Vương quỷ kỳ” nên không vội, điềm nhiên ăn nốt bữa sáng. Thanh Chân nhìn theo bóng Thiết Đảm Hồng Nhan và nhận xét:
- Tội nghiệp Tống Thụy hiền muội! Chắc nàng ta rất buồn khi gã trọc kia đã hẹn mà không đến!
Tử Khuê đã giới thiệu tên họ của Tống Thụy cho Thanh Chân biết nhưng không tiết lộ quan hệ sư huynh, sư muội. Nghe thấy Thanh Chân cứ đòi làm chị, chàng bật cười bảo:
- Thiết Đảm Hồng Nhan năm nay đã hăm sáu, hăm bảy tuổi. Chân muội niên kỷ bao nhiêu mà sao cứ gọi nàng ta là em!
Trác Thanh Chân bối rối đáp:
- Chết thật! Thế mà tiểu muội tưởng Tống Thụy mới tuổi đôi mươi!
Nói xong, nàng ta bưng chén trà lên uống, ánh mắt rất kỳ lạ, và rốt cuộc Tử Khuê cũng không biết tuổi của Thanh Chân. Ăn xong, Tử Khuê nghiêm nghị bảo:
- Ta đến đây với mục đích tầm thù, cuộc chiến nguy hiểm khó lường, Chân muội hãy ở khách điếm mà chờ đợi!
Thanh Chân lắc đầu, phụng phịu nói:
- Phu thê sống thác có nhau. Vả lại Thanh Chân thừa sức tự bảo vệ, chẳng để chàng phải vướng bận.
Tử Khuê hổ thẹn với vong linh Bàng Nguyên Hối nên đã dạy Thanh Chân cách xưng hô đại ca, tiểu muội, không cho nàng gọi mình là tướng công và xưng thiếp nữa. Chàng cũng căn dặn Thanh Chân không tiết lộ cái danh tính Quách Tử Khuê của mình. May thay, Thanh Chân rất ngoan ngoãn, nhất nhất vâng lời. Nhớ đến tài khinh công quỷ khốc thần sầu của nàng, Tử Khuê tạm yên lòng đồng ý cho nàng tháp tùng. Nhưng chàng cẩn thận dặn dò:
- Chân muội cứ đứng ngoài quan chiến, khi thấy ta đào tẩu thì lập tức chạy theo!
Thanh Chân tủm tỉm cười:
- Té ra đại ca thông đạt hơn người, không thí mạng vô ích như phần lớn bọn đại hiệp trong thiên hạ.
Tử Khuê nhếch mép cười buồn:
- Ta vì an nguy, hạnh phúc của người thân mà phải suốt đời giấu mặt và chạy trốn, lúc cũng tủi phận, nào dám xem mình là hiệp khách.
Thanh Chân che miệng cười khúch khích:
- Vô danh thì đã sao! Bọn nữ nhân tiểu muội cần một trượng phu còn sống chớ không mong phải thờ phụng một vị đại hiệp chết non.
Câu nói mộc mạc giản dị ấy chứa đầy chân lý khiến Tử Khuê được an ủi, gật đầu khen phải. Thanh Chân cẩn thận mua vài chục cái bánh bao không nhân và một bầu nước nhỏ. Nàng vui vẻ phân bua:
- Lỡ chúng ta có phải đào tẩu vào rừng thì cũng có cái mà ăn.
Hai người rời quán, đuổi theo đám quần hào. Thật ra, họ không đơn độc vì hàng ngàn người khác cũng đang rời khu liều vải mà tiến về hướng Độc Nha sơn. Qua câu chuyện của mọi người, Tử Khuê hiểu đại khái rằng sáng nay khá nhiều kẻ dậy sớm đã phát hiện một cánh chim ưng thật lớn bay vần vũ trên bầu trời. Họ lập tức cắt rừng vượt núi tiến đến vị trí ấy, bắt gặp con linh điểu tại Độc Nha sơn.
Chim không chết thì Phi Điểu Thần Ma cũng phải còn sống. Hoặc giả gã họ Lục có qua đời rồi thì bên xác vẫn còn “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nhưng khổ thay, địa hình Độc Nha sơn cực kỳ cổ quái và hiểm ác, khiến những kẻ đến trước phải chùn chân.
Độc Nha sơn là một ngọn núi nhỏ chỉ cao độ năm sáu chục trượng tựa như chiếc răng sói nhọn hoắt dựng ngược, cây cối ít ỏi, trơ màu đá xám xịt. Hình dáng núi chẳng dọa được ai nhưng vùng đất xung quanh núi lại sụt xuống thành một chiếc hào thiên nhiên sâu hun hút, sương mù mờ mịt.
Con đường duy nhất để vào Độc Nha sơn là phần đất còn lại chưa sập xuống thành vực thẳm. Tuy nhiên, do nước mưa xói mòn nhiều năm mà đỉnh của dải đất dài mười mấy trượng ấy mỏng lét, chẳng khác đường sống lưng trâu. Tất nhiên là con đường rất ghập ghềnh, có đoạn chỉ đặt vừa lòng bàn chân. Và kẻ nào sơ xuất sẽ rơi xuống khe núi mà về với ông bà ông vải.
Đó là lý do Độc Nha sơn vắng dấu chân người, và giờ đây khiến lòng kẻ học võ mấy chục năm phải ngao ngán.
Cuối giờ Thình thì quần hùng đã tề tựu đông đủ, kẻ dưới đất người trên cây, ngắm cảnh Độc Nha sơn mà lắc đầu. Đứng gần bờ vực là con đường duy nhất có năm phái Bạch đạo và những bang hội hùng mạnh như Chiết Mai bang, Bích Huyết bang, Xoa Lạp cốc, Thần Đao bảo. Bảo chủ Tần Minh Viên đứng cạnh Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, công khai bộc lộ mối liên minh giữa hai người. Lực lượng Xoa Lạp cốc do Thiếu cốc chủ Nhạc Cuồng Loạn thống lĩnh, ở vị trí sát với Thần Đao bảo tựa như cùng một phe. Họ Nhạc còn bàn bạc với Tần Minh Viên và Âu Dương Mẫn. Trong hàng Chiết Mai bang và Bích Huyết bang không thấy có Nam - Bắc Thiên Tôn nên xem ra họ khá kém thế. Nhưng chẳng phải vì hùng mạnh hơn mà phe Âu Dương Mẫn dám nhanh nhẩu tiến vào Độc Nha sơn. Vào thì được nhưng lúc ra sẽ khó toàn thây khi kẻ địch trấn giữ đầu đường độc đạo mà tấn công. Dẫu võ nghệ siêu phàm cách mấy thì cũng toi mạng khi mảnh đất dưới chân quá hẹp và sẵn sàng sụp lở bất cứ lúc nào. Nghĩa là trước khi tiến bước thì phải chiếm được khoảnh đất đầu đường sống trâu kia. Nhưng lúc ấy, phe mạo hiểm sẽ trở thành kẻ địch của mấy ngàn người còn lại, và ở thế quay lưng vào vực thẩm. Do đó, chưa lực lượng nào dám liều mạng cả.
Tử Khuê và Thanh Chân đã nhảy tót lên một ngọn cây du cao vút. Nhận ra Nhạc Cuồng Loạn, Tử Khuê lo ngại chỉ cho nàng thấy:
- Chân muội! Gã công tử áo xanh, búi tóc cài ngân quang kia là Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc, tên Nhạc Cuồng Loạn. Gã ta đã từng học võ ở Lôi Đình thần cung nhiều năm, tất sẽ nhớ mặt nàng. Chân muội hãy tránh đừng cho gã gặp mặt!
Thanh Chân mỉm cười đắc ý:
- Đại ca yên tâm! Trước đây gã mắc toi ấy chưa nhìn thấy tiểu muội lần nào.
Tử Khuê yên tâm và thầm ngạc nhiên, song không muốn hỏi cho rõ. Chàng chú mục quan sát Độc Nha sơn, phát hiện trên vách đá đoạn gần chân núi có rất nhiều hang động. Cái sát mặt đất, cái ở cao năm, sáu trượng. Có lẽ không phải chỉ ở mạn nam này mà chung quanh núi đều lỗ chỗ hang hốc như thế. Hiện nay, con chim ưng đã sà xuống và biệt tăm, chẳng rõ chui vào xó nào. Nghĩa là, khi sang được bên ấy, người ta cũng khó mà biết đích xác Phi Điểu Thần Ma ở đâu trong hàng trăm hang động tối tăm kia.
Bỗng quần hùng ồn ào hẳn lên, xôn xao bảo nhau rằng Nam Thiên Tôn và Bắc Thiên Tôn đã giá lâm. Tử Khuê hiếu kỳ nhìn xuống, thấy thấp thoáng một toán bảy, tám người đang tiến vào rất nhanh. Cuối cùng họ đã đến mảnh đất quang đãng không cây cối, gần mép vực, Tử Khuê mới nhìn rõ hơn.
Không khó để nhận biết lai lịch của hai vị đại kỳ nhân vì phong thái bất phàm cũng như vũ khí thành danh của họ. Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan mặc áo bào trắng, áo cừu cũng trắng, đội chiếc mũ đạo sĩ có đính hai viên bảo ngọc, một đỏ một xanh. Bộ râu năm chòm của lão cũng trắng muốt, tô điểm cho gương mặt phương phi, đỏ hồng thêm phần tiên khí.
Theo sau Bắc Thiên Tôn là một đạo sĩ bạch y tuổi quá bốn mươi, mặt không râu, gân guốc, cương nghị, thân thể lực lưỡng. Hắn ta tên gọi là Lã Bất Thành, chính thị đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn.Thực ra, Phùng lão vốn sở trường nghề đánh trường kích, vũ khí thành danh của Lữ Bố thời Tam Quốc. Trường kích dài và nặng nề, chẳng phải thứ mà ai cũng múa nổi, nhất là đàn bà. Cho nên, Lã Bất Thành sức lực hơn người, học được chân truyền pho “Bạch Vân kích pháp”. Còn Dương Tố Vy, Bang chủ Chiết Mai bang, thì chỉ được học nghề đánh kiếm, sở đoản của Bắc Thiên Tôn. Tuy Lã Bất Thành không xuất đạo, chỉ quanh quẩn nơi đất Sơn Tây, song võ lâm đều biết bản lĩnh của gã chỉ kém Bắc Thiên Tôn vài bậc. Ba mươi mấy năm ròng, Bất Thành tận tụy hầu hạ sư phụ, khổ công rèn luyện, chả biết mùi tửu sắc, còn đáng mặt tiên ông hơn cả Phùng Thịnh Đoan. Cho nên, thành tựu của họ Lã rất cao. Nếu ngày nào đó gã đánh bại sư phụ của mình thì cũng là điều dễ hiểu. Nhưng giờ đây, con người hiếu võ thành tật ấy đang lặng lẽ vác cây “Bạch Vân kích” dài sáu xích, nặng ba mươi cân, theo hầu Bắc Thiên Tôn. Lã Bất Thành cũng có một cây dài kích nặng y như thế, do sư đệ của gã vác hầu. May mà gã ấy gầy gò, học kiếm pháp, không thì lại có thêm một gã khác ôm kích theo sau.
Phần Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến thì ngược lại. Gã này chuộng màu đen cả da dẻ cũng đen đen. Chỗ trắng trẻo trên người lão là mớ tóc bạc và bộ râu ngắn ngủn, lưa thưa. Hàm răng thì không tính vì đã vàng ố và rơ mất vài chiếc. Tuyệt học khí công Trung Hoa có thể giúp người ta khỏe mạnh, sống lâu song bất lực trước sự tồn vong của những chiếc răng. Chúng thản nhiên tàn tạ mục nát, hoặc lung lay rồi rơi rụng bất kể vị chủ nhân già có đến hàng trăm năm công lực. Ngay Trương Tam Phong cũng còn móm xọm chứ đừng nói ai. Răng bền chắc hay không là tùy thuộc vào những yếu tố khác. Ví dụ như dân Giao Chỉ chẳng hạn. Họ có tập quán nhuộm răng đen và ăn trầu nên hàm răng cực kỳ tốt, dẫu đến tuổi tám mươi mà vẫn chưa hề lay chuyển chiếc nào. Tóm lại, đại đa số các cao thủ lão thành của võ lâm Trung Hoa đều thiếu vài chiếc răng khi đến tuổi bảy mươi, thậm chí năm sáu mươi, không chỉ riêng mình Nam Thiên Tôn. Chẳng qua lão xui xẻo rụng nhầm răng cửa trông không được đẹp mắt đấy thôi! Vác vũ khí theo hầu Từ lão là một đạo sĩ trung niên, thân hình phốp pháp, to béo, mặt tròn nung núc thịt, thần sắc thật thà, kém oai phong hơn Lã Bất Thành. Gã ta tuổi mới bốn hai, tên gọi Khổng Đam, biệt hiệu Hồ Đồ Thần Thương. Một người mang họ của Khổng Từ và tên của Lão Tử thì tại sao lại có thể không sáng suốt nhỉ ? Thế mà Khổng Đam lại ngốc không thể tưởng được. Học võ từ năm mười bốn tuổi, đến tam thập thì Khổng Đam hạ sơn, tự xưng là Giang Nam Thần Thương. Gã tự cho mình là hiệp sĩ nên can thiệp vào đủ mọi chuyện trên đường rong ruổi, gây những chuyện cười ra nước mắt. Có lần, Khổng Đam gặp cảnh năm đánh một liền hớn hở xông vào giúp kẻ thế cô. Nào ngờ, đấy là năm vị bộ đầu mặc thường phục truy bắt hung thủ cướp của giết người. Rốt cuộc tên đạo tặc trốn thoát, còn Khổng Đam bị bắt giải về phủ Trường Sa. May mà Nam Thiên Tôn rất được quan lại Hồ Nam nể trọng nên cứu được đứa học trò đại ngốc khỏi cảnh tù tội. Từ đó giới giang hồ gọi Khổng Đam là Hồ Đồ Thần Thương. Và gã cũng bị sư phụ bắt về núi, không cho đi rong nữa. Tuy tư chất kém cỏi nhưng Khổng Đam có thần lực kinh nhân, đường thương nặng như núi Thái. Cho nên dẫu Trịnh Bá Nghiêm được Từ lão ưu ái, hết dạ tài bồi mà vẫn không hơn được họ Khổng. Nghĩa là, sau này Lã Bất Thành cùng Khổng Đam sẽ đại diện cho Bắc Thiên Tôn, Nam Thiên Tôn để đấu với Quách Tử Khuê, trong cuộc phó ước Tam Tôn.
Văn tự thì dài dòng song Tử Khuê nhận biết bốn nhân vật kể trên đã từ lâu, qua lời tường thuật của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn. Chàng đặc biệt chú ý đến lão đạo sĩ áo xanh, lưng đeo trường kiếm đang đi giữa Nam - Bắc Thiên Tôn. Tử Khuê bồi hồi, linh cảm rằng đây có thể là Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn, kẻ đã hại chết Tam sư thúc của mình. Lão ta hơi bị gù lưng, trán hói cao, rất giống lời mô tả của Lỗ phán quan. Và lời phỏng đoán ấy đã được xác nhận khi Song Tôn đến vị trí của phe Bạch đạo. Sáu vị Chưởng môn nhân đều bước ra thi lễ vì Song Tôn là bằng hữu của sư phụ họ. Bắc Thiên Tôn vui vẻ giới thiệu bạn đồng hành:
- Này lục vị! Đây là Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn ở Trường Sa, sư đệ của bần đạo.
Tử Khuê thoáng giật mình, không ngờ lão quỷ này là đồng môn với Bắc Thiên Tôn. Việc này sẽ khiến việc trả thù của chàng thêm phần khó khăn.
Lục vị Chưởng môn cũng cùng tâm trạng như Tử Khuê. Họ căm giận Đường Mai Giãn đã ám hại vị ân nhân là Cửu Hoa Thánh Y, song không có bằng cớ nên đành cố nhịn. Tuy cả thiên hạ đều tin rằng có Âm ty, có ma quỷ, nhưng họ chẳng thể đưa Lỗ phán quan ra làm chứng được. Nay Quân Sơn chân nhân lại dựa hơi Bắc Thiên Tôn thì càng khó bắt tội lão ta. Sáu vị long đầu cắn răng gật đầu thủ lễ, nhìn Đường Mai Giãn với ánh mắt lạnh tanh. Bắc Thiên Tôn không hiểu ẩn tình, phật ý bởi cho rằng đáng lẽ đối phương phải “vị thần nể cả cây đa”, vì lão mà tôn trọng sư đệ của lão.
Quân Sơn chân nhân thì chột dạ tự nhủ:
- Chẳng lẽ họ biết ta giết Cỗ Sĩ Hoành? Không thể được, chẳng ai chứng kiến việc ấy cả!
Lúc này Bắc Thiên Tôn đã đổi sắc, nghiêm nghị nói sang sảng:
- Kính cáo Hội đồng Võ lâm cùng toàn thể chư vị anh hùng. Bần đạo nay đã 86 tuổi, gần đất xa trời, nhưng quyết đem sức tàn phù trì xã tắc, giữ vững cơ đồ Đại Minh. Bởi vậy, bần đạo mới cần đến cây “Diêm Vương quỷ kỳ” làm phương tiện để phá tan những đạo quân Mông Cổ đang uy hiếp biên thùy phía Bắc.
Lão chắp tay, cúi đầu rồi nói tiếp:
- Thánh thượng anh minh tất hiểu tấm lòng trung nghĩa của bần đạo nên đã hạ Thánh chỉ truyền bần đạo thu dụng linh kỳ. Phiền chư vị cùng quỳ xuống để nghe khâm sai đại nhân Đổng Phúc của Đông Xưởng tuyên đọc Thánh chỉ!
Nói xong, lão lùi lại vài bước, kính cẩn mời một hán tử áo gấm, mang đao, thần thái kiêu ngạo. Gã này nãy giờ đứng cạnh Lã Bất Thành phía sau Song Tôn. Nghe nhắc đến Thánh Thượng và Đông Xưởng thì ai cũng chột dạ, hiểu rằng linh kỳ khó thoát khỏi tay lão mắc dịch họ Phùng. Và tất nhiên sẽ chẳng có đánh đấm gì cả! Tiếc công lặn lội đường xa và dầm sương gội gió bấy lâu nay, một gã cứng đầu bực bội buột miệng chửi thề:
- Mẹ kiếp! Cả lũ đang bám trên cây như khỉ thế này thì quỳ thế quái nào được!
Quả thật vậy, trừ những lực lượng mưu đồ tranh đường đi tiên phong vào Độc Nha sơn, kỳ dư đều tìm vị trí tốt để quan sát, và không ít người đã chọn ngọn cây. Khách gian hồ quen thói phóng túng, ngang ngược và chẳng ưa gì triều đình. Bởi họ đã chứng kiến qua nhiều cảnh lầm than khổ ải của lê dân. sưu cao, thuế nặng và sự nhũng nhiễu tham tàn của bọn quan lại địa phương đã khiến dòng máu hiệp sĩ sục sôi. Từ đó, trong lý tưởng “Trừ bạo an dân” bao hàm cả việc giết quách vài gã quan tham cho dân dễ thở. Với tâm lý ấy, quần hào chán ghét khi nghe nhắc đến Thánh chỉ. Họ ồ lên tán thành ý kiến của cái gã đang đánh đu trên cây. Và khổ thay, một gã dốt kinh khủng nào đó đã oang oang hỏi lớn với giọng thơ ngây:
- Lạ thật! Thánh thượng là cái lão quái nào thế nhỉ? Lão ta đã chết chưa mà cứ bắt chúng ta quỳ lạy mãi thế?
Gần nửa vạn người phá lên cười muốn lộn ruột, làm chấn động cả vùng núi Tung Sơn. Thậm chí có kẻ còn cười đến nỗi rơi từ trên cây xuống. Họ không thể không cười vì kẻ phát ngôn chính là Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam, đại đệ tử của Nam Thiên Tôn. Từ lão tái mặt nạt học trò:
- Câm ngay! Ngươi muốn bị tru di tam tộc hay sao mà dám phạm tội khi quân. Mau quỳ xuống nhận tội!
Rồi lão quay sang van nài phân bua với vị khâm sai đại nhân họ Đổng ở Đông Xưởng. Nam Thiên Tôn còn nháy nhó lia lịa, ra hiệu rằng sẽ chuộc lỗi cho đồ đệ bằng vàng ròng chứ chẳng phải nói suông. Đổng Phúc hiểu ý, xuề xòa phán rằng:
- Khổng Đam ngu muội, hồ đồ khét tiếng võ lâm, ai ai cũng biết, nên bổn nhân chẳng chấp nhất làm gì. Nếu là kẻ khác thì không khỏi tội chém ba họ.
Khổng Đam đang quỳ dưới đất, run như cầy sấy, nghe vậy thì mừng rỡ, dập đầu lạy Đổng Phúc như tế sao. Họ Đổng xua tay bảo gã đứng dậy rồi nghiêm nghị nói với toàn trường. Người của Đông Xưởng đều là tay võ nghệ khá nên giọng của Đổng Phúc vang rền, hùng mạnh:
- Đúng là địa thế này không thích hợp để giữ đúng triều nghi nên chư vị hảo háo có thể đứng yên mà nghe Thánh chỉ cũng được!
Nói xong, Đổng Phúc cầm luôn thánh chỉ bằng hai tay hướng về phương bắc mà vái ba vái. Nào ngờ từ trên ngọn cây của một cây tùng cao ngất nào đó, phía sau quần hào có một bóng xám lao vút xuống như tên bắn. Thành ngữ “Nhanh như cắt” thường được dùng để miêu tả tung xưng tốc độ bay của loài chim ưng nhỏ của vùng thảo nguyên, sa mạc. Chim cắt khá giống diều hâu nhưng nhanh nhẹn hơn nhiều. Và khổ thay, mục tiêu của con chim hung hãn ấy là cuộn Thánh chỉ trong tay Đổng Phúc. Họ Đổng vừa đưa lên vái cái thứ ba thì bị giật mất.
Sự cố này xảy ra trong chớp mắt khiến chẳng ai kịp phản ứng. Ngay cả hai vị đại kỳ nhân Nam - Bắc Thiên Tôn cũng ngơ ngác. Khi họ định thần thì con chim mạt cắt đã bay lên cao mười mấy trượng. Toàn trường xôn xao, ớ lên vì kinh ngạc, trố mắt nhìn cánh chim đang lã lướt trên không trung. Nó không bay thẳng về hướng nào mà lại lượn lờ theo hình xoắn ốc trên đầu quần hùng và bốc dần lên cao. Con chim quái ác đã sai lầm vì đã quên rằng nơi đây có sự hiện diện của Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết. Phan lão đã đủ thì giờ tra tên, giương cung trổ tài thiện xạ. Mũi trường tiễn xá không gian, đón lấy chim cắt ngay trên quỹ đạo bay của nó.
Do quá vội vã, không kịp tính toán đến sức gió thổi, nên Phan Nguyên Kết, chỉ thành công một nửa. Mũi tên của ông ta không cắm trúng mục tiêu và chỉ làm rụng vài chiếc lông cánh của con chim. Nhưng như thế cũng đủ khiến cho chú chim phạm thượng kia sợ hãi, buông rơi Thánh chỉ, bay về hướng Độc Nha sơn.
Cuộn lụa vàng bung ra, như chiếc diều đứt dây, lão đảo rơi xuống khu rừng cạnh bờ vực, nơi quần hào đang nhốn nháo. Tuy Thánh chỉ chẳng phải là cứt chim nhưng nó vẫn thản nhiên đáp xuống cái đầu xui xẻo của Quách Tử Khuê. Chàng đưa tay chụp lấy, bâng khuâng chẳng biết phải xử trí thế nào. Cây cổ thụ mà Tử Khuê và Trác Thanh Chân đang đứng nằm ngay sau lực lượng Chiết Mai bang, Bích Huyết bang. Bởi vậy, bang chúng của hai bang ấy lập tức vây chặt lấy gốc cây và Trịnh Bá Nghiêm đã lên tiếng bảo Tử Khuê:
- Phiền các hạ mang Thánh chỉ xuống giao lại cho Trịnh mỗ!
Nhớ đến lời dạy của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn, Tử Khuê chẳng muốn “Diêm Vương quỷ kỳ” lọt vào tay kẻ xấu. Nhưng việc cướp đoạt Thánh chỉ là một việc mà chàng không hề nghĩ đến.
Chợt cô ả Trác Thanh Chân thỏ thẻ:
- Quách đại ca! Năm trước, tiểu muội từng được nghe Lôi Đình Đế Quân tiết lộ rằng Bắc Thiên Tôn đã bí mật gả con gái út cho một vị vương tử Mông Cổ. Do đó tiểu muội không tin rằng Phùng lão quỷ lại muốn đánh nhau với con rể của mình. Ngược lại, có thể lão ta sẽ dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” để giúp quân Mông vượt Vạn Lý Trường Thành, xâm chiếm Trung Hoa lần nữa kìa!
Nghe được, Tử Khuê toát mồ hôi hột, hiểu rằng không thể để Phùng Thịnh Đoan chiếm được cờ báu. Và muốn ngăn cản lão ta thì trước tiên chàng phải đoạt lấy đạo Thánh chỉ này. Khi Song Tôn không còn hậu thuẫn của triều đình, các lực lượng khác sẽ chẳng để hai lão tự tung tự tác. Tử Khuê nhìn vòng vây đen kịt dưới gốc cây mà ngao ngán, biết mình khó toàn mạng khi đem Thánh chỉ đào tẩu. Nhưng nghĩ đến cảnh Bắc Thiên Tôn vũ lộng Quỷ kỳ, dẫn quân Mông Cổ vào giày xéo giang sơn, gieo rắc tang tóc cho lê thứ, thì Tử Khuê vô cùng phẫn hận. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân:
- Chân muội! Có thể Song Tôn là tay sai của rợ Mông. Bởi vậy, ta quyết liều thân, không để họ đoạt được “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nàng hãy ở yên trên này, chờ ta xuống gây rối hàng ngũ đối phương rồi hãy thoát đi.
Chàng vừa nói đến đây thì Nam Thiên Tôn nóng nảy thúc giục:
- Này tiểu tử kia! Ngươi không sợ chết hay sao mà cứ kiên trì mãi vậy? Mau mang Thánh chỉ xuống đây nạp!
Tử Khuê hoãn binh bằng một câu:
- Tại hạ muốn xin ít tiền thưởng. Từ lão tiền bối nghĩ sao?
Trong lúc Nam Thiên Tôn hội ý với đồng đảng thì Thanh Chân mỉm cười bảo Tử Khuê:
- “Uyên ương đồng mệnh”, thiếp quyết chẳng rời chàng một bước. Nhưng thật ra, sự tình nào đến nỗi bi đát như thế. Đại ca cứ giả vờ đem Thánh chỉ xuống giao cho gã khâm sai, rồi bất ngờ chúng ta chạy thẳng vào Độc Nha sơn. Nếu tìm được “Diêm Vương quỷ kỳ” thì lo gì không giết được Song Tôn? Bằng không, với địa hình đầy hang động kia thì lo gì họ tìm ra đôi ta!
Dẫu đây không phải là thượng sách còn hơn đâm đầu vào chỗ chết, Tử Khuê cao hứng khen ngợi và vui vẻ sửa sai:
- Chân muội giỏi lắm! Nhưng muội quên một điều là chúng ta không hề biết câu thần chú điều khiển linh kỳ. Nếu tìm được cờ thì cũng chẳng làm gì nổi đối phương.
Ánh mắt Thanh Chân rực sáng, mặt rạng rỡ vẻ hí hửng trẻ thơ. Nàng đắc ý đáp:
- Sao đại cao lại nghĩ rằng tiểu muội không biết câu thần chú ấy?
Cùng lúc, tiếng Nam Thiên Tôn vọng đến:
- Lão phu đồng ý thưởng cho ngươi hai chục lượng vàng. Xem ra số ngươi cũng may mắn lắm đấy!
Tử Khuê nhếch mép cười đau khổ khi có kẻ khen mình số đỏ. Chàng cao giọng phúc đáp:
- Cảm tạ Từ tiền bối! Tại hạ sẽ tận tay dâng nạp Thánh chỉ để nhận phần thưởng.
Nói xong, chàng cùng Trác Thanh Chân chậm rãi chuyền xuống gốc cây, cố tỏ ra rằng võ công mình thấp kém. Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng bọn bang chúng trố mắt nhìn gương mặt kiều diễm và thánh thiện của Trác Thanh Chân. Nàng ta không rực rỡ như Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Thái Vân, không quyến rũ một cách kín đáo như Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy, mà mang vẻ đẹp ngây thơ, trong trắng của một cô bé mười bốn, mười lăm tuổi.
Tử Khuê và Thanh Chân đủng đỉnh đi xuyên qua vòng vây, tiến về hướng bờ vực. Lúc này các lực lượng Hắc - Bạch đang đứng thành hình cánh cung trước đầu hiểm đạo dẫn vào Độc Nha sơn. Khi lọt đến khoảng đất trống trước mặt họ, thay vì rẽ phải vài trượng để gặp Song Tôn, hai người bất ngờ lướt nhanh như gió thoảng. Khoảng cách bảy tám trượng chẳng là gì đối với kẻ có tài nghệ khinh công cao cường như Tử Khuê. Thi triển “Thao Quang thân pháp”, chàng hóa thành chiếc bóng mờ lao vút đi, đặt chân lên con đường rồi thì kẻ địch mới kịp có phản ứng. Thanh Chân bám sát chàng như bóng với hình, môi nở nụ cười tươi chẳng chút sợ hãi. Tử Khuê không hề lo lắng cho ả vợ hờ vì biết khinh công của Thanh Chân còn cao hơn mình.
Nam - Bắc Thiên Tôn cùng những người chứng kiến diễn biến này hốt hoảng ồ lên và nhất tề tung mình đuổi theo hai kẻ liều mạng kia. Tùy theo bản lĩnh và khoảng cách xa gần mà thứ tự những người truy đuổi được phân biệt. Đi đầu là Bắc Thiên Tôn, kế đến là Nam Thiên Tôn, rồi Quân Sơn chân nhân, Thiếu chủ Cáp Lộc Xoa Nhạc Cuồng Loạn, Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn...
Như đã nói ở trên, con đường xuyên vực này cực kỳ hiểm trở, nhỏ hẹp và không vững chắc. Đất đá trên mặt đường có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Do vậy, Tử Khuê phải sử dụng đến phép “Đăng bình độ thủy” (Đạp bèo qua sông). Yếu quyết của phép khinh công thượng thừa này chính là sức phóng đi cực mạnh lúc ban đầu. Lực quán tính sẽ được bổ sung bằng hàng ngàn phản lực nhỏ bé do mũi giày của Tử Khuê chạm vào mặt đất. Nghĩa là, bước chân của chàng rất ngắn, chỉ độ hai gang và liên tục điểm trên đất đá. Dẫu chúng có sập lở thì thân hình chàng cũng lướt qua rồi. Bèo thì quá nhẹ nhưng với công phu này người ta có thể hoàn toàn chạy một đoạn trên mặt nước, khi dưới chân có những khúc gỗ hoặc phên tre nổi lềnh bềnh.
Giờ đây theo từng bước chân của Tử Khuê, những viên đá, những mảnh đất lỏng chỏng, hờ hững bám trên mặt đường bị long lỡ, rơi xuống vực thẳm như mưa rào. Điều này sẽ gây khó khăn cho người đuổi theo chàng, nhất là Trác Thanh Chân. Nhưng Tử Khuê và nàng đã liên kết thành một khối. Thanh Chân nắm chặt lấy chốt bao của thanh kiếm mà tay phải Tử Khuê đưa về sau, thản nhiên tiếp bước. Thân hình nàng nhẹ nhàng như đám mây không trọng lượng bồng bềnh bám lấy Tử Khuê. Dù đôi lúc chân nàng chẳng chạm vào điểm tựa nào, vì chúng đã bị Tử Khuê đạp rơi mất, thì sức nâng của trường kiếm cũng giúp nàng không lỡ bộ. Nhưng ngược lại, Bắc Thiên Tôn và những người đang ở phía sau lão phải luôn giữ một khoảng cách an toàn để tránh cảnh hụt chân rớt xuống tan xương nát thị dưới vực sâu. Do vậy mà họ đã chậm chân, để đôi trai gái cổ quái nọ thoát được sang bờ bên kia.
Khi vừa đặt chân lên mặt đất vững chắc, hai người thở mạnh đổi hơi rồi dùng toàn lực vào song cước lao đi tới phía trước. Họ không nhắm đến động khẩu gần nhất ở trước mặt cách gần chục trượng, mà lướt về hướng trái, chạy vòng ra sau núi, nơi con đại ưng của Phi Điểu Thần Ma đã đáp xuống. Vả lại, họ muốn đối phương bị khuất tầm mắt, không nhận ra họ đã chui vào cửa nào trong gần trăm cái hang quanh sườn núi.
Thực ra, Tử Khuê cũng chẳng thể biết Thần Ưng và Thần Ma đang ở chỗ nào. May thay, khi đến gần mạn sau của Độc Nha sơn, chàng tình cờ thấy vài cọng lông chim rơi trên mặt cỏ vàng úa. Tử Khuê mừng rỡ kéo Thanh Chân đình bộ. Hai người cúi xuống nhặt nhanh mấy cọng lông ấy rồi đề khí tung mình lên cao hai trượng, chui vào một động khẩu nhỏ hẹp trên vách đá. Có thể đây chưa chắc là nơi Phi Điểu Thần Ma ẩn mình song ít nhất cũng đánh lạc hướng được bọn cường địch. Quả thế, chỉ lát sau truy binh đã lướt qua bên dưới, không biết con mồi đã trụ lại.
Trong lúc Tử Khuê và Thanh Chân ngồi thở dốc, nhìn nhau cười cợt, thì số người tiến vào Độc Nha sơn mỗi lúc một đông. Tất nhiên, họ là những cao thủ thượng thừa, đủ dũng khí và tài khinh công để vượt qua độc đạo ghê hồn kia. Nhưng rồi những kẻ kém cũng sẽ qua được bằng cách căng dây sang bên tìm chỗ mà bám víu. Họ không muốn đứng nhìn nữa bởi vì Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn đã vận công tuyên bố vang rền khắp Độc Nha:
- Minh chủ võ lâm sẽ tặng năm ngàn lượng vàng cho bất kỳ ai may mắn tìm được “Diêm Vương quỷ kỳ” và mang đến đây nạp!
Bắc Thiên Tôn giận dữ ứng tiếng:
- Âu Dương Mẫn chớ loạn ngôn! Lão phu đã được Thánh Thượng ban cho cờ báu, sao ngươi lại dám tranh giành?
Âu Dương Mẫn cười khanh khách:
- Thánh chỉ chưa được tuyên đọc thì sao ta biết Thánh ý thế nào?
Dẫu tức đến thở ra khói mà Phùng Thịnh Đoan vẫn phải cố nén giận vì lực lượng đối phương rất hùng hậu. Hơn nữa, đánh nhau trong lúc chưa tìm thấy linh kỳ thì quả là bất trí. Bắc Thiên Tôn hờ hững bảo:
- Dẫu ngươi có mang được Quỷ kỳ về Tổng đàn Võ lâm thì sau này cũng phải ngoan ngoãn dâng nạp khi lão phu có đạo Thánh chỉ trong tay. Chỉ sợ lúc ấy ngươi lại tiếc rẻ năm ngàn lượng vàng đấy thôi.
Câu hăm dọa rất có uy lực khi Bắc Thiên Tôn tìm thấy cái gã đã đoạt Thánh chỉ trong tuyệt địa này. Nhược bằng thất bại, lão vẫn có khả năng xin một đạo Thánh chỉ khác. Khi đó, Âu Dương Mẫn mà cố giữ bảo vật thì sẽ mang tội khi quân, chết ba họ chứ chẳn chơi. Nhưng dường như Âu Dương Mẫn đã có chủ ý nên chẳng hề sợ hãi chỉ cười khẩy.
Hào kiệt tứ hải cùng bang chúng các tà bang đã vào đầy những hang động ở mạn sườn núi phía bắc Độc Nha sơn. Nhưng bọn thủ lĩnh, long đầu thì cứ đứng cả ở bên ngoài chờ đợi tin tức chứ không dại gì “Mò kim đáy biển”. Từng phe bàn bạc kế sách hành động khi có người tìm ra cờ báu. Sắc diện ai nấy đều trầm trọng nghiêm trang vì cuộc chiến trước mắt sẽ cực kỳ tàn khốc.
Khổ tâm nhất chính là Hội đồng Võ lâm, đại diện cho chính khí giang hồ. Là những kẻ tu hành, trừ Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường, các Chưởng môn nhân đều không hề muốn đưa đệ tử vào cảnh máu chảy đầu rơi. Nhưng họ lại không thể đứng nhìn bảo vật rơi vào tay kẻ dữ, di hại đến võ lâm và xã tắc. Trong lúc do dự bất quyết này, họ tiếc nuối biết bao bậc tài trí là Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sỹ Hoành. Giờ đây, sáu phái chỉ còn cách dùng kế “Án binh bất động”, chờ xem sự thể diễn biến thế nào. Đệ tử của họ đều ở cả bên ngoài chân núi, không vào hang tìm linh kỳ.
Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng tìm Thiếu Lâm Thần Côn trò chuyện. Nàng thơ thẩn dạo quanh, lơ đãng quang sát những người tìm cách vượt sườn núi, trèo lên những hang động trên cao. Ánh mắt nàng tràn ngập lo âu và pha chút đắng cay, hờn giận. Tống Thụy cho rằng đối phương sẽ tìm thấy hán tử đoạt thánh chỉ, vì nàng đã nhận ra đấy chính là Tử Khuê, người mà nàng thương nhớ bấy lâu nay. Nàng cũng buồn phiền vì mỗi lần gặp nhau là bên cạnh Tử Khuê lại có thêm một nữ nhân khác. Trong đám người của Kỹ Lưu Tiên, Thiết Đảm Hồng Nhan cũng đã phát hiện Trình Thiên Kim, Dịch Tái Vân đồng bàn cùng với Tử Khuê. Với linh cảm của nữ nhân, nàng hiểu rằng hai ả nọ chẳng phải chỉ là khách của nhà họ Kỹ. Tống Thụy vô cùng ân hận khi đã đồng hành cùng Lã Hoa Dương khiến Tử Khuê không dám đến hỏi han lúc gặp nhau trong tửu quán. Chàng vào quán ấy vì đã nhìn thấy nàng.
Đang miên man suy nghĩ, Thiết Đảm Hồng Nhan bỗng giật mình bởi phía sau có tiếng người gọi:
- Tống nữ thí chủ! Lục vị Chưởng môn nhân mời thí chủ đến đàm đạo!
Tống Thụy quay lại bắt gặp nụ cười tinh quái và gương mặt dễ mến của Linh Tuệ, đệ tử Võ Đương. Nàng gật đầu, đi theo Linh Tuệ đến vị trí mà Hội đồng Võ lâm đang ngồi. Sáu tảng đá đã được sắp xếp dưới bóng cây bách để các thủ lĩnh già nua đỡ mỏi chân. Tiết trời mùa Đông lạnh giá, chẳng cần người quạt và trà cũng thiếu nên không ai khác lảng vảng gần nơi ấy. Quy củ của võ lâm là thế, bọn vãn bối không được phép ngồi nghe câu chuyện của các bậc trưởng thượng! Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đã mau mắn vác đến cho Tống Thụy một tảng đá để ngồi rồi rút lui. Thiết Đảm Hồng Nhan ôm quyền thi lễ với Hội đồng Võ lâm:
- Chẳng hay lục vị có điều chi dạy bảo?
Thất Bổng Cái nóng nảy xua tay:
- Dạy bảo cái cốc khô gì! Ngươi cứ ngồi xuống cho bọn lão phu hỏi vài câu!
Đại Giác thiền sư, Phương trượng của chùa Thiếu Lâm cũng hiền hòa bảo:
- Nữ thí chủ cứ việc an tọa! Đây không phải là chốn để thủ lễ!
Tống Thụy vái tạ rồi khép nép ngồi xuống. Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường nhăn mặt hỏi ngay:
- Này Tống Thụy nha đầu! Phải chăng cái gã áo xanh đã đoạt Thánh chỉ là sư huynh của ngươi?
Tống Thụy ngượng ngùng gật đầu:
- Bẩm phải! Nhưng tiểu nữ chỉ nhận ra khi Hàn sư huynh thi triển khinh công.
Thất Bổng Cái đắc ý vỗ đùi bảo năm người kia:
- Ngũ vị thấy chưa, lão phu đoán việc nào có sai! Chỉ mình y mới dám vì võ lâm mà chuyện động trời như thế.
Các Chưởng môn nhân gật gù khen ngợi, tán dương dũng khí và công lao của chàng trai trẻ. Nếu chàng không liều lĩnh cướp Thánh chỉ chẳng ai dám tiến vào Độc Nha sơn, để mặc cho Nam - Bắc Thiên Tôn thu nhặt linh kỳ. Vân Thiên Tử luôn áy náy vì để mất “Diêm Vương quỷ kỳ” nên càng tri ân Tử Khuê. Ông nghiêm nghị nói:
- Không biết Vu Diệp hiền diệt con cái nhà ai mà hành vi lại chính nghĩa thế nhỉ? Sau này Hội đồng Võ lâm phải tuyên dương công trạng của y trước giang hồ để song thân của y được vui lòng.
Thiên Sư giáo chủ vừa mấp môi định khai ra thì bị Thất Bổng Cái cướp lời. Lão ăn mày già hỏi Tống Thụy:
- Tống diệt nữ! Con chim mạt cắt đã cướp Thánh chỉ lúc nãy có phải là của Trung Thiên Tôn hay không?
Suy đoán này của Thạch Kính Tường chẳng phải là vô căn cứ. Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh vốn có thói quen nuôi chim ưng. Đã lâu không quay lại Tung Sơn nên Tống Thụy chẳng thể khẳng định được. Nàng bâng khuâng đáp:
- Bẩm Thạch bang chủ! Lúc tiểu nữ rời núi thì gia sư vẫn chưa tìm ra con chim ưng nào khác để thay cho con đã chết.
Thất Lâm Tử, Chưởng môn phái Hoa Sơn, thất vọng thở dài:
- Phải chi Trần lão thí chủ di giá đến đây thì mới mong vãn hồi được cục diện này.
Thất Bổng Cái gật gù tán thành rồi hỏi tiếp Tống Thụy về việc Thiếu cốc chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn uy hiếp Tống gia ra sao. Câu chuyện của họ khá dài dòng nên chúng ta sẽ quay lại với Quách Tử Khuê xem thế nào.
Nhắc lại, Tử Khuê cùng Thanh Chân nhảy lên cửa động nhỏ ở mạn Tây Bắc Độc Nha sơn để tránh sự truy đuổi của Song Tôn. Chẳng riêng Nam - Bắc Thiên Tôn mà tất cả mọi người đều không nghĩ đến việc do thám cái hang ấy. Lý do là vì nó quá nhỏ hẹp, bề ngang chưa đầy một sải tay, trong khi sải cánh của đại ưng rộng gần đến hai trượng. Hơn nữa, cửa hang lại có vài dây leo buông mành và một bụi cỏ rám héo úa nên trông càng nhỏ hẹp.
Sau nửa khắc nghỉ ngơi, Tử Khuê và Thanh Chân thận trọng tiến vào trong hang. Nhưng chỉ được bốn năm trượng thì trước mặt họ hiện ra một cái giếng sâu hun hút, đường kính độ gần trượng. Và đấy cũng là chỗ tận cùng của thạch động. Tử Khuê mỉm cười ngao ngán vì cái vận mệnh đen đủi dai dẳng theo bám mình. Chàng nghĩ đến chuyện nào thì y như rằng nó sẽ xảy ra. Tử Khuê quăng một cục đá to bằng nắm tay xuống giếng và lắng tai nghe ngóng. Thật lâu sau, những tiếng va chạm lọc cọc của viên đá mới im bặt. Điều ấy có nghĩa là cái lỗ đen ngòm này có độ dốc song lại sâu khủng khiếp. Dưới ánh lửa chập chờn của hỏa tập, Thanh Chân nhận ra vẻ thất vọng của Tử Khuê liền vui vẻ bảo:
- Đây đâu phải lỗi của đại ca. Tại con chim mắc dịch làm rơi mấy sợi lông nên chúng ta mới bị mắc lừa.
Tử Khuê nghe lòng được an ủi, thôi không ngượng ngùng chua chát nữa. Sực nhớ đến đạo Thánh chỉ trong ngực áo, chàng liền lấy ra ném ngay xuống giếng sâu. Hai người lần ra ngoài, ngồi cạnh xuống cửa hang mà ăn uống, thỉnh thoảng vạch bụi cỏ xác xơ, ngó xuống dưới đất. Họ chờ cơ hội vắng người là nhảy xuống đào tẩu ngay.
Khổ thay, quần hào cứ lần lượt kéo vào, nói cười vui vẻ như là đi xem hội vậy. Qua câu chuyện của họ, Tử Khuê biết rằng đường độc đạo đã được gia cố bằng cách cắm hàng loạt những cành cây theo dọc hai bên, đồng thời còn có một sợi dây chão lớn căng song song nữa. Do đó, ngay cả những kẻ kém khinh công nhất cũng có thể qua được. Nhưng đầu đường bên trong đã bị hai bang Bích Huyết bang, Chiết Mai bang trấn giữ. Họ không cấm vào nhưng lại tra xét gắt gao những kẻ đi ra để lục tìm ở những người ra cây “Diêm Vương quỷ kỳ”. Nhân số ở chốt ấy đông đến hàng trăm. Nghe vậy, Tử Khuê biết rằng không thể nào đào tẩu ngay lúc này. Chàng suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo Thanh Chân:
- Chắc Chân muội cũng đã hiểu được hoàn cảnh hiện nay của chúng ta! Mối thù với Quân Sơn chân nhân ta có thể tạm gác lại, chờ lúc lão ra khỏi Độc Nha sơn. Nhưng ta phải có trách nhiệm phải báo cho Đại Giác thiền sư biết dã tâm của gã phản đồ Lã Hoa Dương. Vì vậy, Chân muội cứ ngồi yên trên này, để một mình ta xuống dưới. Khi cục diện náo loạn, xảy ra hỗn chiến, ta sẽ quay lại rồi cùng nàng thoát đi.
Sắc diện của Trác Thanh Chân u ám hẳn đi. Nàng trầm ngâm đáp:
- Đại ca tính thế cũng phải, tiểu muội xin tuân mệnh. Tiểu muội cũng hiểu rằng chúng ta cùng đồng hành sẽ rất nguy hiểm, dễ bị phe đối phương nhận ra, ngay cả trong lúc hỗn loạn hoặc đã ra đến chân núi Ngũ Nhũ. Cho nên, nếu có biến cố gì thì tiểu muội sẽ về thẳng Quách gia trang ở Hứa Xương mà đợi chàng.
Tử Khuê ngạc nhiên hỏi:
- Sao nàng biết nhà ta ở Hứa Xương?
Thanh Chân mỉm cười tinh quái:
- Nguyệt lão đã chỉ thiếp việc ấy. Con dâu lẽ nào lại không biết nhà mẹ chồng ở đâu.
Tử Khuê vô cùng hoang mang, nhưng lại bực bội. Chàng nghiêm nghị hỏi:
- Thanh Chân! Phải chăng nàng biết trước ta không phải là Bàng Nguyên Hối?
Thanh Chân đỏ mặt gật đầu khiến Tử Khuê càng thêm tức tối vì bị lừa dối. Chàng chua chát bảo:
- Nàng đã là tình nhân của Bàng Nguyên Hối thì đâu thể làm vợ ta được.
Thanh Chân lườm chàng và cười khúch khích đáp:
- Làm gì có việc ấy! Gã họ Bàng mò vào Lôi Đình thần cung để ăn cắp “Hắc Ngọc tiên đào”, kỳ trân của võ lâm, bị lạc vào “Mê Hồn trận” nằm chờ chết. May mà thiếp tình cờ đến đấy, cứu y ra khỏi trận đồ. Sau này, Thần cung phát hiện mất bảo vật, liền cho điều tra quanh vùng, biết được sự hiện diện của Thiết Thủ Thần Tiêu. Họ truy sát và đánh trọng thương Nguyên Hối nhưng không bắt được. Một năm sau, thiếp quay lại hái quả thứ hai thì bị lộ. Lúc ấy họ mới biết Bàng Nguyên Hối vô tội. Tóm lại, thiếp và gã ta chẳng có ân tình gì cả.
Tử Khuê tỉnh ngộ song vẫn còn thắc mắc, chàng cau mày hỏi:
- Vậy sao nàng lại đi tìm ta?
Thanh Chân thẹn thùng kể:
- Do tội ăn trộm tiên đào mà thiếp bị giam cầm trong thạch lao của Lôi Đình thần cung suốt hơn một năm. Đêm rằng tháng bảy vừa rồi, Nguyệt lão giáng mộng, bảo rằng thiếp có duyên tiền định với tướng công. Ông ta kể rõ lai lịch chàng, chỉ vẽ đường đi nước bước để tìm kiếm. Thiếp giật mình tỉnh dậy thì thấy cửa ngục đã mở toang nên tin thật và làm theo lời Nguyệt lão.
Đôi mắt huyền trong vắt của Thanh Chân không hề có chút gì giả dối khiến Tử Khuê phải nghi ngờ. Chàng rầu rĩ tự nhủ:
- Phải chăng do số ta xui xẻo tận mạng nên trong tình duyên cũng gặp cảnh éo le? Kẻ đa thê nào có sung sướng gì cho cam. Nhưng số phận đã thế thì ta còn phiền muộn làm chi nữa.
Tử Khuê ăn nốt cái bánh bao, uống ngụm nước rồi chia cho nàng một sấp ngân phiếu để phòng thân. Thanh Chân cầm lấy song ánh mắt lộ vẻ ngượng ngùng. Hai người đều mang theo tay nải nên giờ đây Tử Khuê có thể thay một bộ võ phục khác. Chàng chọn màu đen để thân hình trông có vẻ gầy hơn cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Chàng còn cẩn thận xoa ít bụi bẩn lên mặt, cố che bớt chân diện mục. Lộ mặt thật là điều rất nguy hiểm, song lúc này chàng chẳng còn cách nào khác. Cả hai chiếc mặt nạ đã được sử dụng, phải phá hủy để xóa mọi dấu vết liên quan đến việc cướp Thánh chỉ.
Chờ Tử Khuê thay y phục xong, Thanh Chân bùi ngùi nói:
- Tướng công! Thiếp về làm vợ chàng mà không có đến nửa phân bạc làm của hồi môn, lòng vô cùng hổ thẹn...
Tử Khuê nghe lòng bất nhẫn khi thấy gương mặt thiên thần kia u ám, héo úa tựa chiều Đông, liền đưa tay bịt miệng nàng rồi kéo vào lòng an ủi:
- Chân muội đừng nghĩ quẩn! Nhan sắc tiên nga và tấm lòng chân tình của nàng chính là của hồi môn quý nhất thế gian.
Thanh Chân sung sướng áp mặt vào lồng ngực của chàng một lúc lâu. Sau đó, nàng rời khỏi vòng tay chàng và vui vẻ bảo:
- Tuy lòng dạ tướng công rộng rãi khoáng đạt thế nhưng thiếp vẫn muốn tặng chàng một vật.
Thanh Chân mở túi hành lý nhỏ, lấy ra một quyển sách mỏng, bìa da dê đưa cho Tử Khuê. Bốn chữ “Lôi Đình Bí Lục” bên ngoài đã khiến Tử Khuê choáng váng, bồi hồi. Từ ngày nhận lời khiêu chiến của Nhạc Cuồng Loạn, lòng Tử Khuê canh cánh không yên. Chàng đã khổ công rèn luyện kiếm pháp để dành phần thắng. Nhưng Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh nghe được tin ấy, đã gởi thư khuyên chàng không nên đi phó ước. Ông đã từng giao đấu với Cung chủ Lôi Đình thần cung, biết rằng “Lôi Đình kiếm pháp” quỷ dị và oai mãnh tuyệt luân, đáng gọi là tuyệt học đứng đầu tà phái. Nay, Nhạc Cuồng Loạn lại sở hữu đến sáu mươi năm công lực, cao hơn cả Trác Ngạn Chi thuở trước, thì Tử Khuê sẽ khó mà địch lại. Dẫu chàng có muốn dùng “Oán Thiên kiếm pháp” mà đổi mạng thì cũng thiệt thòi vì lớp cương khí hộ thân của đối phương rất dày. Tử Khuê đã hứa với nghĩa phụ và những người thân rằng sẽ bội ước, khai tử Hàn Thiếu Lăng, nhưng trong thâm tâm, chàng vô cùng đau đớn, hổ thẹn. Hơn nữa, chắc gì gã họ Nhạc chịu để yên. Một là gã tưới máu giang hồ, buộc chàng phải xuất hiện. Hai là tìm đến La Sơn quấy nhiễu Trung Thiên Tôn.
Giờ đây, khi có quyển bí kíp này, hiểu được sở học của đối phương thì chàng chẳng còn phải sợ hãi nữa. Tử Khuê không háo danh song cũng không chịu được cảnh làm rùa thụt cổ, để mặc người khác vì mình mà mang họa. Gánh nặng ngàn cân trong lòng được trút bỏ, Tử Khuê hoan hỉ phi thường, bất giác phải biết tri ân người vợ bất đắc dĩ kia. Chàng xúc động, ôm lấy Thanh Chân mà thủ thỉ:
- Cảm tạ Châm muội! Tặng vật này của nàng quý giá hơn tất cả châu báu trên thế gian.
Thanh Chân mỉm cười sung sướng, ánh mắt long lanh, dào dạt ân tình, trông cực kỳ đáng yêu và xinh đẹp. Tử Khuê bồi hồi cúi xuống hôn lên gò má mịn màng với cả tấm lòng thương mến. Hai chữ ân tình thường đi đôi với nhau. Do bản năng mà con người luôn yêu mến người đã giúp đỡ mình. Nay, nhờ Thanh Chân nên Tử Khuê có thể ngẩng cao đầu sống trọn kiếp đại trượng phu thì bảo sao chàng không thương nàng cho được. Hơn nữa, nàng lại rất kiều diễm và chân thật.
Lát sau, chờ khi phía dưới không người, Tử Khuê nhanh nhẹn nhảy xuống đất, ung dung đi về hướng mạn Bắc Độc Nha sơn. Chàng đã để mũ và áo lông cừu lại động khẩu nên chàng không giống cái gã đã đoạt Thánh chỉ. Thật ra, Tử Khuê đã gầy hơn trước vì mẫu thân chàng muốn thế. Sau khi nhận được thư của Trung Thiên Tôn, Kỹ nương vô cùng lo sợ, liền bắt con trai ăn uống kiêng khem, chẳng chút dầu mỡ, ngày ngày uống thuốc đắng nghét. Bà mong Tử Khuê gầy đi thật nhanh, để chẳng có gì giống gã Hàn Thiếu Lăng to béo kia nữa. Sức mạnh của tình mẫu tử quả là mãnh liệt, rốt cuộc, chàng đã sụt đi hơn chục cân. Tất nhiên, phải kể đến công lao của Dịch Tái Vân, những đêm ái ân say đắm cuồng nhiệt đã khiến Tử Khuê chẳng thể nào không giảm trọng.
Đi được vài bước thì Tử Khuê chợt nhìn thấy chiếc nón rộng vành cũ kỹ nằm lây lất. Chàng mừng rỡ nhặt lên, đội lên đầu sau khi nối lại dây quai bị đứt. Có lẽ, trong lúc vội vã tiến vào hậu sơn, kẻ nào đó đã quẳng chiếc nón chết tiệt, đứt quai không đúng lúc. Tuy bị bắt buộc phải lộ mặt thật, song Tử Khuê vẫn nom nớp lo sợ. Chiếc nón này sẽ giúp chàng che khuất nửa trên dung mạo. Bang chúng hai bang Chiết Mai và Bích Huyết vẫn ráo riết truy lùng hai kẻ cướp Thánh chỉ, song song với việc truy tìm linh kỳ.
Trên đường đi, Tử Khuê đã gặp vài tên đệ tử của phe đối phương. Nhưng chúng đã không hề nhận ra cái gã áo đen mép không râu kia là kẻ mình đang săn đuổi. Tử Khuê vào đến nơi hội tụ của hai phe chính tà, chưa kịp gặp hồi đồng võ lâm thì xảy ra quái sự.
Phía Bắc Độc Nha sơn, bên kia bờ vực thẳm là ngọn núi Kính Sơn cao vút, đầy tùng bách rậm rạp. Nhưng lúc này, mọi người đều quay lưng về hướng ấy, chỉ chú ý đến những hang động trên núi Độc Nha sơn. Do đó chẳng ai phát hiện ra một cánh chim to lớn đang từ trên núi Kính Sơn lao thẳng xuống. Người ta chỉ nhận ra khi Trung Nguyên Thần Tiễn Phan Nguyên Kết ré lên đau đớn vì người bị cắm ngập mũi tiễn đao. Sau đó, con thần ưng bốc lên cao, lượn lờ trên đầu quần hùng. Toàn trường nhốn nháo, ngẩng cao đầu, cố nhìn cho rõ con người nhỏ bé đang chiễm chệ trên lưng chim ưng. Té ra Phi Điểu Thần Ma Lục Doãn Ngôn chưa chết. Lão khỉ già ấy còn cười khanh khách, nói vọng xuống:
- Lão phu đã tận số đâu mà chư vị đồng đạo võ lâm đến điếu sớm thế?
Rồi lão đổi giọng, chửi rủa Trung Nguyên Thần Tiễn um sùm:
- Này lão họ Phan khốn khiếp kia. Lão phu nào phải kẻ thù cướp vợ, giết cha mà ngươi nỡ giương cung bắn ta suýt chết 2 lần ? Đã thế thì lão phu sẽ bay đến Hàm Dương bắt vợ con ngươi, lột quần áo mang ra giữa chợ mà phơi. Ai đến ngắm con gái ngươi thì lão phu thu hai lượng bạc, còn ai dám ngắm nhìn mụ vợ già của ngươi thì được thưởng một lượng. Vị chi lão phu cũng còn lời một nửa.
Cách báo thù ngộ nghĩnh của Phi Điểu Thần Ma đã khiến quần hùng phì cười. Nhất là khi Hồ Đồ Thần Thương hý hửng lên tiếng:
- Lão đại thúc sai rồi! Tiểu diệt sẵn sàng nhìn Phan phu nhân năm lần, sau đó ngắm tiểu thư hai lần, là vẫn còn dư một lượng để uống rượu.
Hàng ngàn gã ma men nghe nhắc đến uống rượu thì hai mắt sáng lên, ngoác miệng cười hô hố, khen ngợi tài làm toán của Khổng Đam. Trung Nguyên Thần Tiễn vô cùng nhục nhã, quên cả nỗi đau đớn của vết thương, thét lên thóa mạ:
- Tổ cha lão họ Lục. Lão có giỏi thì xuống đây.
Lục Doãn Ngôn cười khanh khách:
- Cảm tạ lời mời mọc của ngươi. Tiếc rằng lão phu phải nhanh chân đến Hàm Dương kẻo trời tối mất.
Phan Nguyên Kết vừa lo vừa sợ, định nói gì đấy thì bị Võ lâm Minh chủ Âu Dương Mẫn cướp lời:
- Lục lão huynh! Tiểu đệ xin mua “Diêm Vương quỷ kỳ” với giá ngàn lượng vàng.
Nam - Bắc Thiên Tôn không hề xen vào, định bụng sẽ cướp lấy linh kỳ từ tay Âu Dương Mẫn nếu Lục Doãn Ngôn chịu bán cho hắn ta. Nào ngờ, Phi Điểu Thần Ma chẳng tham vàng bạc, cười đáp:
- Lão phu sắp xuống lỗ, cần quái gì nhiều vàng đến thế. Lão phu cướp linh kỳ vì muốn đùa giỡn với lão mũi trâu Vân Thiên Tử. Nay, cây cờ chết tiệt chỉ mang lại phiền phức, lão phu sẽ hoàn lại cho Hội đồng Võ lâm.
Dứt lời, Lục Doãn Ngôn phóng thẳng “Diêm Vương quỷ kỳ” vào vị trí của sáu vị Chưởng môn phái Bạch đạo. Vân Thiên Tử vui mừng khôn xiết, tung mình chụp lấy. Phần Phi Điểu Thần Ma thì cười dài và thúc đại ưng bay đi mất dạng. Lão ta vừa khuất bóng sau ngọn Kính Sơn thì ở đây lục phái đã bị bọn tà ma vây chặt.
Quân số phe Bạch đạo hiện diện ở Độc Nha sơn chỉ độ hai trăm, chưa bằng một nửa đối phương. Tuy nhiên, Thiếu Lâm không xa chốn này và trong chốc lát Đại Giác thiền sư có thể gọi hàng trăm tăng lữ đến tiếp viện. Vấn đề ở chỗ ai là người đủ sức phá vây, vượt qua được lực lượng đang trấn giữ đầu trong đường độc đạo. Nhưng hiện tại, sáu phái chưa cần đến viện binh vì đang có trong tay một vũ khí rất lợi hai là sự toàn vẹn của “Diêm Vương quỷ kỳ”. Chính vì thế mà Vân Thiên Tử khẳng khái nói với Bắc Thiên Tôn:
- Hội đồng Võ lâm sẽ tạm thời bảo quản linh kỳ. Phùng tiền bối cứ việc thượng kinh xin một đạo Thánh chỉ khác. Lúc ấy, bần đạo sẽ cung kính dâng cờ.
Phùng Thịnh Đoan cười nhạt gằn giọng:
- Vân Thiên Tử! Năm xưa ngươi vẫn thường gọi bần đạo là sư thúc, sao giờ lại làm khó nhau như vậy? Ngươi cũng biết rõ bần đạo đã được ban Thánh chỉ rồi cơ mà? Chẳng qua tại con chim cắt và cái gã điên chết toi kia mà thôi.
Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường cười khanh khách đỡ lời Vân Thiên Tử:
- Nếu Phùng tiên trưởng ngại đường xa mỏi gối thì cứ tập trung bắt cho được cái gã điên ấy mà thu hồi Thánh chỉ. Gã ta đâu có cánh để bay khỏi chốn này.
Nào phải Bắc Thiên Tôn không muốn thế, nãy giờ lão đã lệnh cho mấy trăm đệ tử ráo riết truy lùng mà chẳng thấy đôi trai gái quái dị ấy ở đâu cả. Họ Phùng bực bội nói:
- Bần đạo chẳng hiểu vì sao bọn tiểu bối các người chẳng nể mặt tiền nhân, một mực cản đường bần đạo. Đã thế thì bần đạo cũng chẳng nể nang gì nữa, quyết dùng võ lực để đoạt linh kỳ. Nếu ngươi hủy cờ, bần đạo sẽ thượng kinh tâu với thiên tử rằng sáu phái khi quân kháng chỉ. Lúc ấy thì hậu quả thế nào chắc các ngươi đã rõ.
Lời hăm dọa kia rất có uy lực vì đương kim thánh thượng là người nhu nhược, u mê, dễ dàng bị tác động bởi những lời xàm tấu. Đấy là chưa kể đến việc sáu phái sẽ chết như rạ trong cuộc chiến này. Chẳng lẽ họ phải hy sinh quá sớm bởi một chút nghi vấn của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh? Vân Thiên Tử do dự bất quyết, quay sang bàn bạc với năm vị Chưởng môn nhân kia. Những người ấy cũng cùng tâm trạng như Vân Thiên Tử nên Hội đồng Võ lâm sắp sửa đi đến quyết định nhượng bộ. Bất ngờ Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy bước đến nghiêm trang bảo:
- Nay Hội đồng Võ lâm đã không có ý bảo vệ “Diêm Vương quỷ kỳ” thì xin hãy trả lại cho tiểu nữ.
Nàng có quyền nói như thế vì là người đã trao cờ báu lại cho họ. Lục vị Chưởng môn nhân hổ thẹn đến mức chẳng nói nên lời. Vân Thiên Tử thở dài nhẫn nhục, run rẫy trả linh kỳ lại cho Tống Thụy. Ông chưa kịp nói vài câu tạ lỗi thì Thiết Đảm Hồng Nhan đã rút gươm chém rách bươm lá cờ lụa.
Toàn trường kinh hãi ồ lên tiếc rẻ. Nhưng Nam Thiên Tôn lại ngửa cổ cười dài:
- Tống nha đầu quả chẳng hổ danh Thiết Đảm. Song ngươi hành động vô ích khi phá hủy Quỷ kỳ. Uy lực của cờ báu nằm trong cán cờ chứ không phải là vuông lụa kia. Và cán cờ lại được làm huyền thiết pha đồng không có vũ khí nào chém gãy nổi.
Tống Thụy không tin vung kiếm chặt thử cái khúc ống thép đen trùi trũi. Quả nhiên, lưỡi kiếm của nàng dội ra và cán cờ chẳng hề suy xuyển. Nàng chột dạ nhủ thầm:
- Vực thẩm quá xa và dẫu ta có ném cán cờ xuống đấy thì trước sau Song Tôn cũng lấy được. Ta phải tìm cách khác mới xong.
Tống Thụy cười khẩy, cao giọng:
- Ít nhất thì ta cũng tạm thời ngăn cản được việc ai đó sẽ dùng linh kỳ khống chế những người đang hiện diện chốn này.
Quả đúng là Song Tôn và Âu Dương Mẫn cùng có âm mưu ấy. Cả hai đều biết câu thần chú điều khiển “Diêm Vương quỷ kỳ” và sẽ không bỏ qua cơ hội sử dụng ngay, để toàn thành bá nghiệp trong phút chốc. Nay lá cờ lụa tan nát, chưa thay lá mới thì Quỷ kỳ bị vô hiệu hóa, không đem lại ưu thế tất thời cho người đoạt được. Tống Thụy có thể an ủi rằng mình đã làm hết sức, vì dẫu cho cờ báu có lọt vào tay tà ma thì đó cũng là kiếp vận của võ lâm. Nàng là Thiết Đảm Hồng Nhan chứ không phải “Thiết Đảm Hoàng Ngưu”, nên hiểu rằng không đủ sức mang Quỷ kỳ đào thoát khỏi nơi “thiên la địa võng” này. Tống Thụy quyết dùng bảo vật để gầy cuộc tương sát giữa hai phe địch. Song nàng còn phân vân, không hiểu nên trao Quỷ kỳ cho phe nào để có hậu quả thiệt hại nhỏ nhất? Cuối cùng, Thiết Đảm Hồng Nhan nghiêng về phía Nam - Bắc Thiên Tôn. Nguyên nhân vì họ đã quá già, có tác quai tác quái cũng chẳng được bao năm. Hơn nữa, Âu Dương Mẫn là hóa thân của tên ác ma Huyết Mai hội chủ, nàng khó mà lường hết hậu quả.
Trong lúc nàng suy nghĩ, Song Tôn và Âu Dương Mẫn đều lên tiếng phủ dụ, mong nàng trao cán cờ Quỷ kỳ cho mình. Kẻ thì nhắc đến mối quan hệ giữa Võ lâm Tam tôn, kẻ dùng vàng bạc. Tống Thụy đang đứng gần sáu vị Chưởng môn nhân Bạch đạo nên chẳng ai dám đường đột tấn công nàng mà cướp báu vật. Không người nào để ý đến việc Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đang chậm rãi tiến đến gần Thiết Đảm Hồng Nhan. Gã là bạn đồng hành với nàng mấy hôm nay nên đến để tương trợ là phải đạo. Nhưng khi họ Lã sắp tiếp cận Tống Thụy thì từ trên ngọn cây du núi cổ thụ cách hiện trường mười trượng, phía sau lực lượng Bạch đạo, có tiếng người cấp bách vọng xuống:
- Tống sư muội hãy tĩnh tâm, gã Lã Hoa Dương là nội gián của phe địch. Gã đã vì nữ sắc mà nhận lời trộm Dịch Cân Kinh.
Toàn trường chấn động trước lời tố cáo ấy, nhất là Lã Hoa Dương, và các tăng lữ Thiếu Lâm tự. Họ Lã chết điếng người, chưa kịp chửi rủa hay biện bạch kẻ đã lật tẩy mình thì Đại Giác thiền sư đã nghiêm trang ra lệnh:
- Thập Bát La Hán! Mau bắt gã phản đồ!
Ông đã nhận ra giọng nói của Vu Diệp chân nhân, hay Hàn Thiếu Lăng, kẻ vừa là sư diệt của Cửu Hoa Thánh Y, vừa là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn. Hơn nữa, chàng trai ấy đã từng liều mình vì chính nghĩa thì không có lý do gì để vu khống Lã Hoa Dương. Việc Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ bị Âu Dương Mẫn dùng nữ sắc mê hoặc đã là cái gương trước mắt. Mua chuộc đám nhân tài Bạch đạo trẻ tuổi là thủ đoạn mà phe Hắc đạo vẫn thường sử dụng trong suốt ngàn năm của võ lâm Trung Nguyên. Lã Hoa Dương không ngờ sư bá mình lại tin vào lời tố cáo của kẻ lạ mặt và có thái độ rất quyết liệt. Muốn chạy cũng không được, gã liền quỳ xuống khóc lóc kêu oan.
Đại Nghiêm thiền sư, thủ tọa của La Hán đường chính là sư phụ của Lã Hoa Dương. Ông đau lòng và tủi nhục khôn xiết, lạnh lùng điểm huyệt đồ đệ, phong tỏa chân khí rồi cho trói lại. Trong hai mươi năm dạy dỗ Lã Hoa Dương, thiền sư phát hiện rằng gã là kẻ rất háo sắc nên đã nhiều lần nhắc nhở, giáo huấn. Ông không cấm gã vào kỹ viện và chỉ yêu cầu gã đừng đụng đến bọn con gái nhà lành, gây tai tiếng cho chùa Thiếu Lâm. Nào ngờ, giờ đây gã lại vì nữ sắc mà cam tâm phản lại sư môn, làm ô nhục tông môn.
Kể lể thì lâu nhưng thật ra việc bắt trói tên phản đồ xảy ra rất chóng vánh. Và ngay sau đó, sự cố ấy bị lãng quên vì câu nói thứ hai của gã hắc y bịt mặt trên ngọn cây. Người ta đã đoán ra gã là Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng, kẻ duy nhất gọi Thiết Đảm Hồng Nhan là sư muội.
- Tống sư muội hãy bán “Diêm Vương quỷ kỳ” cho Âu Dương Minh chủ lấy vạn lượng vàng. Bắc Thiên Tôn đã gả con gái cho một vương tử Mông Cổ nên không thể để báu vật lọt vào tay lão ta được.
Phùng Thịnh Đoan tái xanh mặt mũi khi bí mật chết người của lão bị vạch trần trước mặt thiên hạ. Bắc Thiên Tôn cố định thần quát mắng:
- Phế ngôn! Bần đạo quyết không tha cho kẻ ngậm máu phun người!
Nhưng lão ta chẳng có thời gian làm việc ấy vì Tống Thụy đã bất ngờ phóng mạnh đoạn cán cờ về phía Âu Dương Mẫn ở hướng Tây và miệng nói lớn:
- Giao hàng trước, lấy tiền sau!
Âu Dương Mẫn vui mừng khôn xiết, thò tay chụp lấy bảo vật. Sắc diện lão cực kỳ nghiêm trọng vì lão hiểu rằng Nam - Bắc Thiên Tôn sẽ không để yên. Quả nhiên, Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến ngửa cổ hú vang, báo hiệu cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy chặn đường rút lui của Âu Dương Mẫn. Sau đó, Song Tôn cùng Quân Sơn chân nhân lao đến tấn công.
Ở sa trường thì quân đi trước, tướng theo sau, nhưng chốn giang hồ thì ngược lại, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chọn Âu Dương Mẫn, Nam Thiên Tôn đối đầu với Thiếu chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loan, còn Quân Sơn chân nhân so tài với một lão nhân tóc bạc, mặt vàng, có lẽ là hộ pháp của Xoa Lạp cốc. Phần Thần Đao bảo chủ Tần Minh Viên lãnh nhiệm vụ phá vây, mở đường cho toàn quân thoát ra. Lão và đám đệ tử tinh nhuệ dưới trướng phóng tay chém giết, nhanh chóng đẩy lùi phe đối phương. Những thanh đao Nhật Bản dài nặng và sắc bén đã chiếm ưu thế hoàn toàn trước đám đao kiếm tầm thường. Hơn nữa, đệ tử hai bang Chiết Mai, Bích Huyết rất ô hợp, được tuyển mộ vội vã nên không thể sánh với những gia đinh Thần Đao bảo, kẻ đã nhiều năm khổ luyện đao pháp thượng thừa.
Thực ra, Bích Huyết bang cũng có một số nhân thủ xuất xứ từ Thần Đao đường, là bọn đệ tử của Thất Hoàn Đao Hướng Vụ Quan. Tuy nhiên, đám ấy đang cùng Hướng lão trấn giữ đầu đường độc đạo, tạm thời không tham chiến. Tần Minh Viên lại thần dũng tuyệt luân, một mình đương cự với hai Bang chủ Chiết Mai, Bích Huyết mà vẫn chiếm thượng phong. Cây kim thương của Trịnh Bá Nghiêm thì còn kha khá chứ trường kiếm của Dương Tố Vy thì không chịu nổi đường đao vũ bão của họ Tần. Hộ khẩu tay hữu của nàng đã rướm máu sau những lần vũ khí chạm nhau.
Tiếng thép rền rĩ, tiếng kêu rên đau đớn vang vọng khắp nơi khiến lòng kẻ tu hành phải xót xa. Nhưng cũng như lần trước ở Kỹ gia trang, sáu phái Bạch đạo lại khoanh tay đứng nhìn cảnh máu chảy đầu rơi. Người tự xưng là chính phái thường thụ động trước việc tiêu diệt cái ác. Đấy là nguyên nhân sâu sa khiến giang hồ luôn nổi sóng, thanh bình chẳng được mấy năm.
Thấy phe địch tiến nhanh như sóng dữ, Lã Bất Thành và Hồ Đồ Thần Thương vội đi vòng ra hướng tây, hỗ trợ phe nhà. Kích pháp và thương pháp của hai gã này đều rất lợi hại nên đã cầm chân được Thần Đao bảo chủ. Tần Minh Viên giận dữ múa tít bảo đao, tả xung hữu đột giữa vòng vây của bốn kẻ hậu sinh, song không sao tiến thêm được bước nào nữa.
Tiền phương là vậy, giờ chúng ta quay lại hậu phương để xem cục diện ra sao. Tất nhiên tình thế ở đây gây cấn và khốc liệt hơn tiền trận bội phần vì tập trung toàn cao thủ lẫy lừng.
Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan căm hận Âu Dương Mẫn phỗng tay trên bảo vật, nên quyết giết chết cho được đối phương mà đoạt lại Quỷ kỳ. Lão tự tin có thể đắc thủ trong vòng trăm chiêu bằng lối đánh vũ bão, cả vú lấp miệng em. Sau hơn chục chiêu thăm dò, Phùng lão đã dồn tám phần công lực vào cây “Bạch Vân ngân kích” xuất chiêu “Vân Vụ Cuồng Phi”. Lão khổ luyện kích pháp hơn bảy mươi năm, đạt mức đại thành, nên cây sắt mạ bạc nặng 30 cân trở thành nhẹ như làm bằng gỗ tùng vậy. Đường kích vun vút xé gió, kích ảnh mịt mờ tựa mây mù, ào ạt thổi về phía kẻ địch.
Nhưng Âu Dương Mẫn là truyền nhân tình cờ của Tam Tuyệt Thần Quân Đồng Nhật Tú, kiếm pháp và công phu “Thiết Sa chưởng” đều lão luyện, nên chẳng thể dễ bị khuất phục. Lão vung gươm đánh chiêu “Vạn Hại Vô Xâm”, kiếm ảnh loang loang dưới ánh dương quang mùa Đông nhàn nhạt.
Đường kiếm của Âu Dương Mẫn vẫn nhanh hơn đường kích của Bắc Thiên Tôn một chút. Lý do là kiếm vốn nhẹ hơn, ngắn hơn kích, và Âu Dương Mẫn lại có đến gần hoa giáp chân khí, nhờ thụ dụng kỳ trân dưới vực sâu. Những nhát gươm của lão nhanh lẹ phi thường, đón đỡ được hầu hết đòn thế của Bắc Thiên Tôn. Đồng thời, bàn tay tả rắn như thép cũng góp phần không nhỏ trong việc phòng thủ. Nó ung dung đánh bạt mũi kích sắc bén mà chẳng hề hấn gì. Hai mươi năm rèn luyện “Thiết Sa chưởng” đã tạo nên kỳ tích ấy. Đương nhiên là Âu Dương Mẫn phải thoái lùi vài bước trước đòn tấn công mãnh liệt của kẻ có công lực thâm hậu hơn. Nhưng lão đang muốn rút ra ngoài nên việc này hoàn toàn có lợi. Bắc Thiên Tôn hậm hực dồn thêm chân khí xuất chiêu “Thiên Xà Khát Huyết”, ngân kích hóa thành ngàn bóng ảnh độc xà lay động mềm dịu khác thường của nửa trên ngân kích. Nếu cán kích bằng gỗ như của đám Sơn Đông mãi võ thì chẳng có gì đáng nói. Song ngân kích của Bắc Thiên Tôn bằng thép ròng mà mềm mại đến mức ấy thì mới đáng gọi là chuyện kinh hãi thế tục. Âu Dương Mẫn thầm chột dạ trước chiêu kích kỳ tuyệt của đối phương, hiểu rằng nếu trực diện đối phó sẽ thiệt thân. Lão nghiến răng đề khí bốc lên cao hai trượng để tránh né rồi gian xảo sa xuống để tấn công.
Kết quả của đòn thế ấy thế nào chúng ta cứ tạm gác lại và quay sang trận đấu giữa Nam Thiên Tôn với Nhạc Cuồng Loạn.
Từ Tôn Chiến cũng là tổ sư trong nghề đánh thương, một loại trường binh. Võ lâm thường dùng câu “Nam thương Bắc kích” để xưng tụng Song Tôn. Do đó dù Nhạc Cuồng Loạn có tròn hoa giáp công lực cũng chưa phải là đối thủ của lão bất tử họ Từ tu vi thâm hậu hơn một bậc. Tuy nhiên, vị Thiếu chủ của Xoa Lạp cốc hơn Nam Thiên Tôn ở công phu “Lôi Đình chưởng pháp”, tuyệt kỹ khắc tinh của mọi loại vũ khí dài. Tầm đả thương của “Phách Không chưởng” là trên dưới một trượng, xa hơn chiều dài của trường thương cộng với cánh tay. Cho nên, Nhạc Cuồng Loạn không bị hạ phong như Âu Dương Mẫn, và có thể ngang nhiên cầm cự với Nam Thiên Tôn.
Riêng bản thân pho “Lôi Đình kiếm pháp” cũng là một tuyệt học hãn thế, hùng mạnh tuyệt luân, song không kém phần hiểm ác. Kiếm kình vù vù như sấm vọng, kiếm ảnh mịt mờ, trùng điệp, thấp thoáng những sợi tơ ngoằn ngoèo, mảnh mai nhưng bội phần đáng sợ. Trong thiên hạ, chỉ mình Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh là phá giải được loại kiếm pháp kỳ lạ ấy. Tuy nhiên, khi so tài với bậc cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn thì “Lôi Đình kiếm pháp” chưa đủ để hóa thành con rồng vàng nhe nanh múa vuốt, chực chờ vồ lấy chú dê. Nhạc Cuồng Loạn cắn răng đối phó, đường gươm nhanh tự sao sa, thép chạm thép vang rền chát chúa. Nghe hộ khẩu đau rát, Nhạc Cuồng Loạn tự hiểu sức mình còn kém kẻ địch, và nếu cứ ở ngoài thì sẽ bị thiệt thòi.
Gã mím môi, vỗ liền ba chưởng “Lôi Đình”, đồng thời múa kiếm che thân, xông vào nhập nội. Đánh xa là sở trường của vũ khí dài nên Nam Thiên Tôn chẳng dại gì để đối thủ tiếp cận mình. Lão giảo hoạt đảo bộ lùi chếch sang mé tả để tránh chưởng và giữ khoảng cách cần thiết. Sau đó, Nam Thiên Tôn tràn đến như thác lũ, thương ảnh cuồn cuộn, thương kình xé gió, khí thế cực kỳ hung hãn. Nhạc Cuồng Loạn chưa giác ngộ kiếm đạo nên khó có thể đối phó với những đòn ngàn cân của cây kim thương nặng trịch. Yếu quyết “tứ lượng bát thiên cân” chẳng phải ai cũng nắm được. Vả lại, yếu quyết ấy sử dụng trong quyền thuật thì dễ, nhưng khó khăn trong khi sử dụng vũ khí.
Dù là kẻ kiêu ngạo song Nhạc Cuồng Loạn chẳng dám liều mạng đương đầu với con bão khủng khiếp ấy. Gã lập tức thi triển một loại bộ pháp ảo diệu, trong chớp mắt đã hoán vị sang tả, thoát khỏi hiểm nguy. Và từ vị trí mới, Nhạc Cuồng Loạn ập vào phản kích, kiếm kình chấn động không gian, sát khí lạnh hơn gió bấc. Gã tinh thông tuyệt học hai nhà Lôi Đình, Xoa Lạp nên chiêu thức bác tạp, biến hóa vô song, khiến Nam Thiên Tôn phải chột dạ, không dám hấp tấp nữa.
Trận chiến giữa Quân Sơn chân nhân và lão mặt vàng của Xoa Lạp cốc cũng ở thế quân bình. Có thể võ công Đường Mai Giản hơn đối phương một bậc, song phép đánh kiếm thuẫn của vị đại hộ pháp Xoa Lạp cốc rất điêu luyện, công thủ vẹn toàn nên họ Đường khó mà thủ thắng ngay được.
Tuy nhiên, số thương vong của đám đệ tử Song Tôn ngày một tăng, chúng chết như rạ trước hai lực lượng kiêu dũng của Thần Đao bảo và Xoa Lạp cốc. Trận địa đã chuyển dần ra ngoài, vì nhờ sự hỗ trợ của Thập Đại Hộ Vệ Tổng đàn Võ lâm mà Thần Đao bảo chủ đã đẩy lùi được Trịnh Bá Nghiêm.
Mười gã hộ vệ thân tính của Âu Dương Mẫn được đào tạo chu đáo, bản lĩnh rất cao cường. Chúng lại có được sự phối hợp nhịp nhàng, ăn ý nên càng bội phần lợi hại. Do đó, chỉ bốn tên cũng đủ để vây khốn Lã Bất Thành hoặc Hồ Đồ Thần Thương. Hai gã còn lại liên thủ với Tần Minh Viên đánh cho Trịnh Bá Nghiêm và Dương Tố Vy phải lùi dài.
Đau lòng trước sự tổn thất nhân mạng của phe nhà, Nam Thiên Tôn liền quát vang, ra lệnh cho Thất Hoàn Đao đưa quân vào tiếp viện. Hướng Vụ Quan chỉ để lại hai chục tay đao trấn giữ lối ra, còn bao nhiêu đưa vào tham chiến. Nhờ vậy mà thế trận tạm cân bằng.
Phần phía Nam - Bắc Thiên Tôn thì ra sức quyết thắng, cố đắc thủ càng sớm càng tốt, phần vì cục diện, phần vì tự ái của kẻ già nua. Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn đều có hoa giáp công lực, võ nghệ siêu phàm, chẳng dễ gì bị khuất phục. Dù thủ nhiều hơn công, song họ vẫn bảo toàn được tính mạng lui dần ra ngoài theo đúng kế hoạch.
Hội đồng Võ lâm cùng hai trăm đệ tử đứng nhìn cuộc chiến khốc liệt mà ngao ngán. Họ bị chấn động bởi bản lĩnh của bọn ma đầu, cũng như đám thủ hạ của Thần Đao và Xoa Lạp. Người tu hành luyện võ công chính phái thượng thừa nhưng thiếu thủ đoạn và kinh nghiệm, chẳng thể địch lại những kẻ quen chém giết. Lục vị Chưởng môn nhân hổ thẹn vì thái độ nhu nhược của mình nên chẳng dám thắc mắc khi Hàn Thiếu Lăng không đến vấn an. Chàng trai thần dũng ấy đã cùng Thiết Đảm Hồng Nhan ẩn vào chỗ nào chẳng rõ.
Cuộc hỗn chiến kéo dài đến giữa giờ Tỵ thì trận địa di chuyển đến Tiêu Sơn. Số tử vong của hai bên đã gần hơn trăm. Xác người rải rác khắp nơi, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc. Minh chủ Âu Dương Mẫn và Nhạc Cuồng Loạn chỉ bị thương nhẹ, song họ vẫn kiên cường chống cự. Do bị thiệt hại ít hơn nên số cao thủ Xoa Lạp cốc cùng Thần Đao bảo đã xông vào hỗ trợ chủ tướng, khiến Nam - Bắc Thiên Tôn và Quân Sơn chân nhân phải phân tâm không ít.
Câu “gừng càng già càng cay” chỉ đúng trong giới hạn nào đó. Người ở trên tuổi tám mươi thì gân cốt lão hóa, không còn cường kiện như kẻ trẻ trung hơn. Nam - Bắc Thiên Tôn trong thời gian gần đây lại miệt mài với những thân xác nóng bỏng, mỹ miều, tặng vật của Mông Cổ, sức lực có phần giảm sút. Ngược lại, Nhạc Cuồng Loạn đang tuổi thanh xuân, còn Âu Dương Mẫn mới trên sáu chục mà đã kiêng tửu sắc. Nếu vị Huyết Mai hội chủ mà hiếu sắc thì ả con nuôi Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân khó mà yên thân. Lão chỉ đam mê có hai thứ là danh vọng và tiền bạc. Âu Dương Mẫn khấp khởi mừng thầm vì chỉ còn cách đường thoát thân mười mấy trượng. Lão và Nhạc Cuồng Loạn sẽ sử dụng đến vũ khí bí mật tối lợi hại của mình để phá vây đào tẩu. Nam - Bắc Thiên Tôn sẽ không dám đuổi theo nên số phận của hai lực lượng Thần Đao và Xoa Lạp cốc sẽ an toàn do họ mạnh hơn phe đối phương rất nhiều. Với sự hỗ trợ của vài đệ tử kiêu dũng, Âu Dương Mẫn ngang nhiên cầm cự với Bắc Thiên Tôn và lùi dần theo bước tiến của tiền quân. Thất Hoàn Đao và 80 học trò đã không cầm chân được Thần Đao bảo và Thập Đại Hộ Vệ. Lát sau, Âu Dương Mẫn bất ngờ thốt lên:
- Đi thôi!
Rồi lão tung mình nhảy ngược về phía sau, quay mình đào tẩu. Nhạc Cuồng Loạn cũng giáng mạnh một chưởng “Lôi Đình” thần tốc, đẩy lùi Nam Thiên Tôn rồi chạy theo đồng đảng. Nam - Bắc Thiên Tôn không ngờ đối phương lại bỏ mặc thuộc hạ mà thoát thân, trái với lẽ thường tình. Họ đuổi theo sát rạt, hy vọng hai con mồi bị ngăn lại tại con đường độc đạo. Vị trí này cực kỳ hiểm yếu, lại đang dày đặc cao thủ của Hướng Vụ Quan. Lực lượng phía bên ngoài của Song Tôn đã bị ép đến tận mép vực, chủ yếu là phong tỏa đường ra. Nào ngờ khi sắp chạm phòng tuyến cuối cùng, Âu Dương Mẫn tung một quả cầu đen kịt, cỡ lớn bằng nắm tay trẻ nhỏ vào giữa hàng ngũ địch. Cái vật tròn tròn ấy phát ra một tiếng nổ kinh thiên động địa và tỏa khói mịt mù.
“Bạt Sơn cầu” của Liệt Hỏa Thần Quân lừng danh thiên hạ đã lâu, là thứ hung khí mà ai nghe nhắc tới cũng phải rùng mình. Nó có thể làm lở núi hoặc giết hàng trăm người một lúc. Sau khi Liệt Hỏa Thần Quân tạ thế thì “Bạt Sơn cầu” cũng biệt tăm. Không hiểu sao Âu Dương Mẫn lại tìm ra được. Nếu lão có chừng chục trái thì làm bá chủ võ lâm dễ như trở bàn tay. Lần tái xuất này của “Bạt Sơn cầu” đã khiến mọi người phải kinh tâm táng đởm. Thi thể của những kẻ gần nhất bị xé rách, thịt xương văng tứ tán, kẻ ở xa hơn một chút thì bị gục ngã bởi sức ép hoặc những mảnh vụn thép chứa trong quả cầu. Trong bán kính hai trượng, không một ai toàn vẹn cả.
Tiếng nổ kinh hoàng ấy đã khiến toàn trường bắn mình ngơ ngác, hoặc sợ hãi chẳng thiết đánh nhau nữa, nhất tề đình thủ trong một lát. Ngay Nam - Bắc Thiên Tôn cũng phải chậm chân, không hăng hái truy đuổi như trước. Đường thoát ra rộng mở, Âu Dương Mẫn lao vút đi, xông qua đám khói mây, hướng về phía đầu đường xuyên vực. Năm sáu trượng chẳng là bao đối với kẻ có khinh công như lão. Âu Dương Mẫn chợt nghe phía sau có tiếng y phục lất phất đinh ninh rằng Nhạc Cuồng Loạn đang bám sát. Nào ngờ họ Nhạc lại lên tiếng:
- Minh chủ hãy coi chừng!
Âu Dương Mẫn chưa kịp phản ứng hai huyệt Tâm Du và Thần Đường trên mé lưng trái bị điểm trúng. Hai huyệt ấy thuộc Kinh túc Thái Dương Bàng quang, nằm ngay sau tim. May mà Âu Dương Mẫn khổ luyện “Thiết Sa thần công” đã hai chục năm nay nên da dày thịt chắc, không chết bởi đòn ám toán hiểm độc kia. Tuy nhiên, toàn thân lão bị tê tái, chân khí gián đoạn và tứ chi bủn rủn. Âu Dương Mẫn lảo đảo song vẫn tỉnh táo nhận ra đối phương đã đoạt mất khúc cán cờ “Diêm Vương quỷ kỳ” mà lão đang giắt ở thắt lưng. Và cái gã mặc áo lông cừu trắng ấy là kẻ đã đoạt mất Thánh chỉ của Bắc Thiên Tôn.
Âu Dương Mẫn bàng hoàng tuyệt vọng khi thấy đối phương nhảy môt bước xa đến gần ba trượng, một thành tựu khó mà tin nổi. Nghĩa là Nhạc Cuồng Loạn chẳng có hy vọng đuổi kịp gã ta. Sự tình đúng như dự đoán của Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn đã dừng lại bên bờ vực, không thèm làm chuyện vô ích, toi công. Chân khí đã thông suốt sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, Âu Dương Mẫn lướt đến cạnh đồng đảng trẻ tuổi mà quan sát. Lúc này, gã có áo lông cừu đã mang Quỷ kỳ chạy xa mất tăm. Là người sáng suốt và quyết đoán, Âu Dương Mẫn quay phắt lại, tay trái giơ cao “Bạt Sơn cầu” thứ hai, lạnh lùng bảo Nam - Bắc Thiên Tôn:
- Nhị vị có muốn nếm thử mùi vị của “Bạt Sơn cầu” hay không?
Song Tôn đã chứng kiến cảnh Âu Dương Mẫn bị đoạt mất bảo vật, lòng vô cùng chán nản và tức giận. Bắc Thiên Tôn hậm hực trách móc:
- Nếu ngươi không cố tâm tranh đoạt với bọn ta thì đâu đến nỗi cờ báu bị kẻ khác phỗng tay trên. Nay chẳng ai rõ lai lịch gã cẩu tặc ấy thì vô phương tìm lại được.
Âu Dương Mẫn đưa tay vuốt chòm râu dài và đẹp, nhếch mồm cười nhạt đáp:
- Lão phu có cách. Quý hồ chư vị đồng lòng hợp tác, lão phu hứa rằng trong vòng ba tháng sẽ giao nộp linh kỳ.
Bắc Thiên Tôn không hiểu ý đối phương, nghi hoặc hỏi lại:
- Mong Âu Dương thí chủ nói rõ ra xem nào?
Âu Dương Mẫn gật gù, bước đến hạ giọng bảo:
- Gã ấy chính là Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng, nghĩa tử của Trung Thiên Tôn, lúc này mặc hắc y và bịt mặt đứng trên ngọn cây du. Chỉ mình gã mới đủ bản lĩnh và đởm lược để cướp Thánh chỉ cũng như cờ báu. Tuy gã đã chạy thoát nhưng sẽ sớm dâng nạp linh kỳ khi nghe Hội đồng Võ lâm và sư muội bị bắt. Phùng tiền bối cứ mượn cớ lục phái kháng chỉ, cùng lão phu bắt sống họ mang về Tổng đàn Võ lâm quản thúc.
Nam Thiên Tôn đã hiểu ra, ngắt lời Âu Dương Mẫn:
- Đấy đúng là diệu kế. Nhưng bần đạo chưa hiểu ra thí chủ sẽ được lợi gì trong việc này?
Âu Dương Mẫn ung dung đáp:
- Lão phu muốn đem “Diêm Vương quỷ kỳ” đổi lấy một đạo Thánh chỉ khác, chẳng những khôi phục mà còn tăng thêm quyền lực của Minh chủ võ lâm.
Bắc Thiên Tôn lên tiếng:
- Bần đạo đồng ý. Nhưng chúng ta sẽ loan báo cho gã họ Hàn biết rằng phài mang cờ đến phủ đường Trịnh Châu mà giao nạp. Hai phe chúng ta sẽ cho người túc trực ở đấy. Bần đạo sẽ thượng kinh ngay để xin Thánh chỉ, còn Từ lão huynh sẽ đi Trịnh Châu với thí chủ.
Cách thức này rất chu toàn, chẳng ai có thể lừa ai, nên song phương bắt tay nhau thắm thiết. Sau đó, bọn ma đầu điều động thủ hạ ào ào đến vây kín lục vị Chưởng môn nhân cùng đệ tử.
Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường kinh ngạc quát hỏi:
- Này, này... bọn ngươi âm mưu quỷ quái gì thế? Bọn ta nào ai giữ Quỷ kỳ?
Bắc Thiên Tôn cười nhạt:
- Do lục phái kháng chỉ, không chịu dâng nạp bảo vật nên cuối cùng Hàn Thiếu Lăng đã cướp mất. Và có thể chính Hội đồng Võ lâm đã chủ sự cho gã hành động như vậy. Do đó, thừa lệnh khâm sai đại nhân, bọn bần đạo đành phải mời lục vị về Tổng đàn Võ lâm, chờ gã họ Hàn mang Quỷ kỳ đến chuộc mạng.
Nghe giọng cười bá đạo của đối phương, Vân Thiên Tử ấm ức gầm lên:
- Bọn ta vì đức hiếu sinh mà tránh cảnh máu xương, nhiều phen nhẫn nhịn, không ngờ bọn tà ma các ngươi vì thế mà lộng hành. Hôm nay lục phái sẽ vì chính khí võ lâm mà rưới máu chốn này.
Lời nói của ông đã khiến dòng máu hiệp sĩ của hai trăm đệ tử chính phái sôi sục. Họ nhất tề giơ cao vũ khí thét vang:
- Sát ma vệ đạo!
Không phải ai khác mà chính là Đại Giác thiền sư xuất thủ trước, khai mào cuộc chiến. Ông xách thiền trượng nhảy vào tấn công Bắc Thiên Tôn. Tuy đạo hạnh thâm sâu nhưng Đại Giác còn là người nhiệt tình với sự tồn vong của giang sơn xã tắc. Nãy giờ ông thầm chán ghét lão phản tặc Phùng Thịnh Đoan mà chẳng nói ra. Thiếu Lâm tự đứng đầu võ lâm nhờ những công phu võ học thượng thừa, ảo diệu cả về tâm pháp nội công lẫn pháp sử dụng khí giới. Và do thiền trượng là vật thiết thân của các nhà sư nên pho “Thiếu Lâm Giáng Ma trượng pháp” được xem trọng nhất. Sau khi Đạt Ma Tổ Sư nhập diệt, các đời đệ tử Thiếu Lâm đều khổ công rèn luyện và bổ khuyết thêm ngày càng uyên ảo, diệu kỳ. Tuyệt học này không truyền ra ngoài thế tục và chỉ truyền riêng cho Phương trượng và những cao tăng cùng bối phận.
Tuy Đại Giác thiền sư được thừa kế y bát nhờ làu thông kinh luật, và thiền hạnh cao siêu, nhưng ông cũng là cao thủ số một trong chùa. Đại Giác có thân hình cao lớn, tráng kiện, và rất thích hợp với lọai binh khí dài và nặng như thiền trượng. Yếu tố bẩm sinh cũng rất quan trọng đối với người học võ. Đại Giác thiền sư khẽ niệm danh hiệu Phật tổ Như Lai rồi múa trượng xuất chiêu “Thiên Long Tảo Vân”. Thanh thiền trượng nặng hai mươi bảy cân lao vun vút, hóa thành những chiếc móng rồng chụp lấy đối phương.
Sau trận đấu với Âu Dương Mẫn, Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan chẳng còn dám khinh thường đám hậu bối nữa. Lâu nay, lão sống trong hào quang quá khứ, quên mất câu “Trường Giang sóng hậu lãng thôi tiền lãng”. Lão đã hao tổn khá nhiều sức lực mà chỉ rạch được một đường trên bắp tay họ Âu Dương, một kết quả rất nghèo nàn. Giờ đây, Bắc Thiên Tôn thận trọng dồn sức đón chiêu trượng hùng mạnh của Phương trượng Thiếu Lâm. Ngân kích và thiền trượng đều là loại trường binh dài nặng khi chạm nhau phát ra những âm thanh chát chúa, rền rĩ, cùng những tia lửa nhỏ. Qua sự chấn động ở đôi bàn tay, Bắc Thiên Tôn biết rằng đối thủ có công lực rất thâm hậu. Và Đại Giác thừa dẻo dai để cầm cự đến cùng, chẳng khác gì Âu Dương Mẫn. Bắc Thiên Tôn bỗng sinh lòng chán ghét sự già nua của mình, bực bội vũ lộng cây ngân kích tấn công đối thủ tới tấp. Nhưng vị Phương trượng chùa Thiếu Lâm chẳng hề lúng túng, vẫn giữ sắc mặt trang nghiêm, hòa ái, ung dung phá giải những thế kích của Phùng Thịnh Đoan. Là tuyệt học Phật môn nên pho “Giáng ma trượng pháp” chủ yếu về phòng thủ. Nhưng khi công, khí thế của thanh thiền trượng cực kỳ hùng mạnh, thấm nhuần tinh thần đại dũng, vô úy của nhà Phật. Chiêu thức thì có vẻ giản dị song bao hàm cả đạo biến hóa, uyên ảo tuyệt luân, khiến địch thủ phải vất vả lắm mới phá giải được, Bắc Thiên Tôn rầu rĩ nhủ thầm:
- Không ngờ tên trọc Đại Giác này lại giỏi võ hơn sư phụ gã năm xưa.
Quả đúng như vậy, tiền nhiệm Phương trượng Thiếu Lâm tự, Nhất Kính thiền sư là người thấp lùn, nhỏ bé nên khó mà phát huy hết tinh hoa của phép đánh trượng.
Trong lúc Bắc Thiên Tôn bị Đại Giác cầm chân thì Nam Thiên Tôn cũng chới với bởi Vân Thiên Tử. Lý do là vì Chưởng môn nhân phái Võ Đương sử sụng thanh “Trạm Lư bảo kiếm”, thần vật thời Xuân Thu. Té ra, Vân Thiên Tử một lòng hỗ trợ Thiếu Lâm tự nên đã mang theo bảo vật trấn sơn mà giáng ma. Ngay chiêu đầu tiên, Vân Thiên Tử đã chặt phăng mũi nhọn của cây kim thương khiến Nam Thiên Tôn rầu thúi ruột. Và sau mỗi lần va chạm, cây thương của lão lại hằn sâu một vết chém. Từ Tôn Chiến nổi giận, vũ lộng trường thương tấn công như vũ bão, hy vọng đè bẹp đối phương trước khi binh khí mình bị chặt gãy. Nhưng Vân Thiên Tử là cao thủ số một của phái Võ Đương hiện tại. Hơn nữa, từ sau hôn lễ của Tây Nhạc kiếm khách Lư Công Đán, ông vì thanh danh của môn phái mà bế quan luyện kiếm, chuẩn bị cho việc tranh giành danh hiệu Võ Lâm Đệ Nhất cao thủ. Bản thân Vân Thiên Tử không háo danh song truyền thống trăm năm của phái Võ Đương bắt ông phải chấp nhận hy sinh. Danh hiệu cao quý ấy vốn thuộc về Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đương. Vân Thiên Tử không chắc đạt được mục tiêu nhưng sẽ tận lực để không tủi hổ với anh linh của Trương tổ sư. Mấy tháng nay, Vân Thiên Tử giao hết sự vụ của phái Võ Đương cho sư đệ Vân Hư Tử, tập trung nghiên cứu pho “Thuần Dương kiếm pháp”, tuyệt học cuối cùng của Trương chân nhân. Sau khi đệ tử thứ tám của Trương tổ sư, Á Hiệp Thuần Vu Kỳ tạ thế thì không một ai luyện thành pho kiếm kỳ diệu ấy.Nhưng việc thâm cứu kiếm phổ cũng giúp cho Vân Thiên Tử ngày càng gần với Kiếm Đạo hơn. Kiếm Đạo cũng như Thiền Đạo, kẻ có căn cơ sáng láng tuyệt trần thì đốn ngộ, kẻ bẩm sinh bình thường mà siêng năng, cần mẫn thì chầm chậm đi đến đích sau vài chục năm, gọi là tiệm ngộ. Vân Thiên Tử thuộc trường hợp thứ hai. Ông luyện kiếm đã sáu mươi năm vì xuất gia từ lúc còn để chỏm. Ít khi xuất thủ với người ngoài nên chính ông cũng không ước lượng được bản lĩnh của mình. Huynh đệ trong môn phái luyện kiếm với nhau thì không có giá trị so sánh. Nay phải đương đầu với cao thủ lão thành như Nam Thiên Tôn, Vân Thiên Tử lại rất thận trọng. Nhưng càng đánh lâu, ông thức ngộ rằng thần tượng già nua kia chẳng đáng sợ lắm. Ông không thắng được họ song dẫu có thua thì cũng sau vài trăm chiêu. Nhất là khi ông có “Trạm Lư thần kiếm” trong tay thì chưa chắc “mèo nào cắn miu nào”.
Vân Thiên Tử cao hứng phi thường, mang hết sở học Võ Đương ra đối phó với đường thương dũng mãnh, độc địa của Nam Thiên Tôn. Tuy pho “Thái Cực Tuệ kiếm” không cao siêu thâm thúy bằng “Thuần Dương kiếm pháp” song cũng là tuyệt học do Trương tổ sư để lại. Huyền môn chủ trương “tử nhiên nhi nhiên”, “nan không cương, nhược thắng cường”, nên kiếm pháp Võ Đương mềm mại, nhẹ nhàng, phóng khoáng. Nhờ vậy mà đường kiếm nhanh như gió thoảng. Trường kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí vì có rất nhiều ưu điểm. Một trong những ưu điểm ấy là trọng lượng. Kiếm chỉ nặng độ sáu, bảy cân nên người kiếm thủ không bị trở ngại khi thi triển khinh công. Do đó, Vân Thiên Tử nhẹ nhàng, khinh khoái như mây nổi, tiến thoái nhanh tựa ngọn phong thu phong. Ông lùi để tránh những đòn quét ngàn cân và xông vào ngay phản kích. Mục tiêu của ông không chỉ là xác thân còm cõi của Nam Thiên Tôn mà còn là cây kim thương nữa. Ông rình rập chờ cơ hội chặt gãy thêm khí giới của kẻ địch. Từ Tôn Chiến biết điều ấy nên hết sức cảnh giác, ra đòn như chớp giật không để đối phương tiếp cận. Đánh nhau mà phải úy kỵ đủ điều như thế thì quả thật khổ sở, vất vả. Lão bực bội rủa thầm cái gã câm chết tiệt đã tặng “Trạm Lư thần kiếm” cho Võ Đương. Khi tình cờ tìm thấy thanh Trạm Lư, Thuần Vu Kỳ đã không sử dụng mà mang lên núi, đặt trên đùi pho tượng ân sư. Chàng cho rằng Trương Tam Phong là Vạn Thế Kiếm Vương phải có một thanh thần kiếm như Trạm Lư theo hầu. Nhưng chàng cũng không cấm những đệ tử đời sau dùng thần kiếm giáng ma vệ đạo. Bởi vậy, Vân Thiên Tử có quyền sử dụng Trạm Lư. Còn một yếu tố quan trọng khác khiến Song Tôn bối rối, họ không dám giết sáu vị Chưởng môn nhân.
Tóm lại, Nam - Bắc Thiên Tôn đều đã có địch thủ xứng tay. Còn những tay cao thủ như Âu Dương Mẫn, Nhạc Cuồng Loạn, Quân Sơn chân nhân, Thất Hoàn Đao, Thần Đao bảo chủ, đại hộ pháp Xoa Lạp cốc cũng bị bốn vị Chưởng môn nhân cùng các sư đệ đón đánh.
Kẻ phản đồ Lã Hoa Dương biết đây là cơ hội chuộc lỗi nên đã van xin Đại Nghiêm cởi trói, giải huyệt để y tham chiến. Vì nghĩa sư đồ mà thiền sư đã chấp thuận. Vả lại, trong hoàn cảnh khó khăn này, sự đóng góp thêm của một cao thủ như Thiếu Lâm Thần Côn là rất quý giá. Thủ tọa La Hán đường quyết định rất sáng suốt, Lã Hoa Dương dũng mãnh như hổ dữ sút chuồng, cây côn thép lồng lộn chống trả rất hữu hiệu trước những thanh đao Nhật Bản dài và nặng. Tuy phẩm cách thấp kém nhưng họ Lã vẫn xứng danh nhân tài trẻ tuổi của Thiếu Lâm tự. Lã Hoa Dương tinh thông cả trường côn lẫn đoản côn, nhưng khi bôn tẩu giang hồ thì thường mang côn ngắn cho đỡ bất tiện. Côn của gã được rèn bằng loại thép tốt nhất, nước thép xanh rờn và nặng gần hai chục cân. Tuy phép đánh đoản côn chú trọng những đòn giáng xuống, quét ngang nhưng thế điểm cũng có thức làm gãy xương kẻ địch nhờ sức nặng. Cánh tay khỏe mạnh, thân hình đầy những bắp thịt rắn chắc, Lã Hoa Dương vũ lộng đoản côn liên tiếp đâm những đòn trời giáng khiến đao kiếm của kẻ địch phải ngân lời oán than rền rĩ. Và trong chớp mắt, mũi côn thọc vào đâu đó trên cơ thể đối phương. Cửa Phật từ bi nên vũ khí của Thiếu Lâm không hề có mũi nhọn hay cạnh sắc. Thiền trượng, trường côn, đoản côn đều có đầu bằng. Nghĩa là, tuyệt học chính thống của Đạt Ma Tổ Sư sáng tạo ra chỉ gồm có phép luyện nội công, phép đánh trượng, phép đánh côn và quyền thuật. Còn tất cả các phép sử dụng lợi khí như đao, kiếm, thương, giáo... đều do những đệ tử người Trung Hoa thêm thắt vào. Người đời cho rằng Thiếu Lâm tự có đến bảy mươi hai tuyệt kỹ là do mượn ý trong Tây Du Ký, bởi Tôn Ngộ Không học được “Thất thập nhị huyền công”. Ngài Đạt Ma từ Thiên Trúc sang Tàu để hoằng dương Phật pháp và tu hành, thời gian đâu mà nghĩ đến lắm thứ võ công đến thế?
Nhắc lại, Lã Hoa Dương thần dũng như thiên tướng, trong nửa khắc đã đả thương được bốn, năm kẻ địch. Nhưng cuối cùng, gã cũng gặp được đối thủ xứng tay là Lã Bất Thành, đại đệ tử của Bắc Thiên Tôn. Hai gã ấy cùng họ Lã nhưng kẻ Bắc người Nam nên chắc chẳng có quan hệ bà con. Lã Bất Thành phát hiện Thiếu Lâm Thần Côn quá ư lợi hại liền lướt đến ngăn chận. Lã Bất Thành cũng có ý muốn so tài với một trong “Võ Lâm Ngũ Tú”. Lã Bất Thành chẳng nói chẳng rằng, dồn đủ mười thành công lực, đánh chiêu “Phụng Tiên Khai Lộ”, khí thế mãnh liệt như chẻ núi. Phụng Tiên chính thị Lã Bố có võ nghệ siêu quần bạt tụy, từng một mình đại chiến với Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi mà chẳng hề trầy da tróc vẩy. Lã Phụng Tiên được xem là một trong những ông Tổ nghề đánh trường kích, cho nên đời sau thường dùng chữ “Bố” đặt tên cho chiêu thức. Có lẽ, Lã Bất Thành đúng là dòng dõi mấy mươi đời của Lã Bố nên kích pháp cực kỳ tinh xảo. Đường kích của gã vừa hùng mạnh vừa ảo diệu, khiến Lã Hoa Dương nhất thời phải lép vế.
Thiếu Lâm Thần Côn tận lực chống đỡ, tuy không thọ thương nhưng phải thoái hậu nhiều bước. Gã chột dạ than thầm vì hiểu rằng tu vi của Lã Bất Thành hơn mình đến hai bậc. Gã cắn răng xông lên phản kích bởi chẳng còn cách nào khác. Lã Hoa Dương chạm phải cường địch thì Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ cũng chẳng may mắn hơn. Đối thủ của chàng đẹp trai chính thị Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam. Tuy mang tiếng hồ đồ song sức lực và bản lãnh múa thương của Khổng Đam rất cao. Đôi cánh tay béo mập, to như cột đình múa cây kim thương ba chục cân, đánh cho trường kiếm của Mộ Duy Lộ run bần bật. Nếu không nhờ sự cần mẫn luyện công và giới sắc suốt một thời gian dài, Mộ Duy Lộ không chịu nổi mười chiêu thương sấm sét của họ Đổng.
Võ Đương Thần Kiếm chịu khó khép mình khổ hạnh, siêng năng luyện võ công cũng là vì muốn thoát khỏi cái bệnh liệt dương quái ác. Ngày ngày, gã được sư phụ cho uống thuốc và châm cứu nên thấy khá hơn. Có đêm, gã phát hiện đoản thương của mình lại hiên ngang, ngạo nghễ vươn cứng như xưa, lòng vô cùng hoan hỉ. Nhưng chẳng hiểu sao kỳ tích ấy không lập lại? Gã than thở với ân sư thì được Vân Thiên Tử an ủi rằng chưa đủ ba năm. Mộ Duy Lộ không biết rằng Vân Thiên Tử cố tình kéo dài việc chữa trị, ngõ hầu đưa học trò mình về với chính đạo. Lã Hoa Dương và Mộ Duy Lộ mà còn bị hạ phong thì đám đệ tử Bạch đạo lại càng khốn đốn trước quân số đông đảo của tà ma. Hai đánh một không chột cũng què nên bọn tăng nhân, đạo sĩ thọ thương khá nhiều. Nếu không nhờ những thanh trường côn mạnh mẽ của một trăm linh tám nhà sư La Hán đường thì thế trận đã vỡ từ lâu. Nhưng dần dà, chính những tay côn thần dũng cũng phải la oai oải, hoặc niệm Phật hiệu, bởi trúng đòn rách da, xé thịt. Lý do thứ nhất vì chênh lệch quân số, lý do thứ hai bởi ăn chay mau đói hơn ăn mặn. Vài chén cơm với xì dầu, rau cải, đậu hủ chỉ cung cấp số năng lượng bằng một nửa thịt thà, cá mú. Đã cuối giờ Tỵ, ai nấy đều đói meo, sức đâu mà đòi chiến đấu! Tình thế phe Bạch đạo rất nguy ngập, chỉ còn cách đầu hàng hoặc chờ chết.
Bắc Thiên Tôn ra sức đẩy lùi Đại Giác rồi phủ dụ:
- Chẳng lẽ hòa thượng ngươi không tiếc xương máu của đệ tử Thiếu Lâm hay sao? Hãy thức thời mà buông vũ khí quy hàng.
Đại Giác bình thản đáp:
- Cửa thiền không phân biệt sinh tử, bọn bần tăng thà chết chứ không chịu để thí chủ rước quân Mông vào tàn phá xã tắc, bức hại chúng sinh.
Vừa dứt lời, ông thi triển công phu “Sư Tử Hống” gầm vang:
- Tuẫn... pháp … !
Đấy là hiệu lệnh cho toàn thể đệ tử Thiếu Lâm đang hiện diện phải xã thân. Nếu Trung Hoa bị Mông rợ cai trị một lần nữa thì Phật giáo sẽ suy tàn, chẳng khác gì bị pháp nạn. Người Mông theo đạo Lạt Ma, một phái Phật giáo ở Tây Tạng, họ chẳng ưa gì Phật giáo Trung Hoa. Hai tiếng « tuẫn pháp » linh thiêng ấy ban thêm sức mạnh cho những đệ tử hiền lành suốt đời trai giới. Tuy nhiên, lực bất đồng tâm nên lát sau cục diện lại càng bi đát. Các vị chưởng môn và các sư đệ đều bị thương nhẹ, trừ Vân Thiên Tử. Ông vẫn an toàn và còn chặt đứt một đoạn dài cỡ gang tay ở đầu cây kim thương của Nam Thiên Tôn.
Khi viễn ảnh sắp đại bại của lục phái sắp đến gần thì phát sinh kỳ tích.
Một toán cao thủ Thiếu Lâm đông độ 400 đã đến cứu viện, tiến vào tấn công những kẻ đang trấn giữ đầu đường độc đạo. Cửa ải quan yếu này do Trịnh Bá Nghiêm, Dương Tố Vy cùng 60 kiếm thủ đảm đương. Nhiệm vụ của họ là ngăn không cho bất cứ ai thoát ra, chạy về Thiếu Lâm cầu viện. Và nếu như có ai đó ở ngoài đã làm việc đó thì viện binh cũng khó mà qua quan, trước khi cuộc chiến trong Độc Nha sơn kết thúc. Kẻ đứng chênh vênh trên đường hẹp thất thế rất nhiều, dễ bị kim thương của Bá Nghiêm đẩy rơi xuống vực. Đấy là chưa kể đến tác dụng của ám khí.
Sáu mươi gã thủ hạ Chiết Mai bang vốn là người của Phi Kiếm hội đất Thăng Trì nằm trên đường trục Đông Tây nối liền Trường An và Lạc Dương. Muốn tồn tại, Phi Kiếm hội phải liên minh với Chiết Mai bang bằng cách cử 60 thủ hạ sang phò tá Dương Tố Vy. Kiếm thuật của bọn này không cao song thuật phóng tiêu bội phần linh diệu. Tiễn kiếm hoặc tiểu đao là loại ám khí nặng, tầm sát thương trên dưới ba trượng, dùng để ám toán từ xa rất hữu hiệu. Trong việc mai phục hoặc đánh phủ đầu thì chúng vô cùng lợi hại.
Nhắc lại, chẳng hiểu kẻ lắm mồm nào đã chạy đến chùa Thiếu Lâm báo hung tin nên Thủ tòa Đạt Ma viện là Đại Tuệ thiền sư mau chóng đưa bọn đệ tử đến tiếp viện lục phái. Người đông thì cũng tốt nhưng vấn đề là ở chỗ làm sao tiến vào được trận địa khi đối phương đã phòng thủ chặt chẽ? Tất nhiên, kẻ có bản lĩnh cao cường nhất là Đại Tuệ thiền sư phải đi tiên phong. Ông xách thiền trượng lướt như bay trên con đường xuyên vực chi chít những cành cây cắm chênh vênh để gia cố.
Đáng lẽ, song song mặt đường, ngang tầm tay vẫn có sợi dây chảo lớn, nhưng chúng đã bị Trịnh Bá Nghiêm chặt đứt. Gã còn sai nhổ sạch cây gỗ hai bên đường ở một đoạn gần cuối dài bốn trượng. Nghĩa là, lúc kẻ địch lọt vào đến khúc ấy thì hoàn toàn bất lợi, bởi dưới chân không vững. Trong khi chỗ gã đứng rất an toàn, vững chắc. Trịnh Bá Nghiêm tính toán đúng, Đại Tuệ thiền sư đã lộ nhiều sơ hở vì thiền trượng nặng mà tấn chẳng vững. Ông lúng túng đỡ nhiều chiêu thương của Trịnh Bá Nghiêm và những ám khí hiểm ác không sao tiến lên được dù võ công rất cao siêu.
Trong cảnh ngộ khó khăn ấy, Đại Tuệ trúng liền hai mũi tiễn vào đùi, đành phải thối lui băng bó và đổi vũ khí. Trường côn của đám đệ tử nặng chỉ bằng nửa thiền trượng sẽ giúp ông chống đỡ ám khí hữu hiệu hơn. May mà những mũi tiễn kiếm ấy không tẩm độc, Đại Tuệ nhanh chóng trở lại với Bá Nghiêm. Ông dùng toàn lực múa tít cây trường côn bằng gỗ, ngoài bọc thép mỏng, đánh văng ám khí và cố sức đẩy lùi Bang chủ Bích Huyết bang.
Nhưng Trịnh Bá Nghiêm cũng là tay kiệt xuất, kiên cường chống cự bằng pho “Hoàng Long thương pháp” mà gã đã khổ luyện hai mươi năm. Gã được ưu thế là có thể đảo bộ, chuyển tấn rất ung dung, trong lúc Đại Tuệ thì chết dí trong một chỗ và lòng thấp thỏm lo đất ở dưới chân lở bất ngờ. Chẳng phải bậc cao tăng này sợ chết, ông chỉ lo không cứu được Phương trượng sư huynh và mấy trăm người khác nữa. Do đó, Đại Tuệ hoàn toàn bị cầm chân và số phận những kẻ bị vây hãm trong kia khó mà thay đổi. Đại Tuệ đau lòng khôn xiết, phẫn uất đánh mấy đòn lôi giáng, đẩy lùi Bá Nghiêm vài bước. Nhưng phe địch nhất tề phóng liền mấy chục ngọn tiễn kiếm, khiến ông phải bỏ ý định tràn lên, múa trường côn chống đỡ. Và Bá Nghiêm đã kịp quay về vị trí cũ. Đại Giác thiền sư lại trúng thêm một mũi tiễn kiếm vào bắp chân tả, khó mà địch lại Trịnh Bá Nghiêm. Trong lúc ông sắp tuyệt vọng thì cứu tinh xuất hiện, đánh vào sau lưng kẻ địch.
Lực lượng ấy đông độ bốn mươi, võ phục đủ màu song đều bằng gấm lục tốt, áo cừu ngắn cũng thuộc loại đắt tiền. Trong võ lâm làm gì có bang hội nào chơi sang đến thế! Họ nhất tề rút kiếm, lột nón tre ở tay tả xông vào tấn công. Dương Tố Vy ngờ ngợ đoán ra đối phương là người của Xoa Lạp cốc. Nàng ta lại còn điên đầu hơn vì bọn tơi nón kia lại được chỉ huy bởi Thiết Đảm Hồng Nhan và gã hắc y bịt mặt. Làm sao Dương Tố Vy có thể ngờ đến việc những đệ tử Xoa Lạp cốc trở thành gia đinh của Quách gia trang và đến đây để bảo vệ Tử Khuê.
Kiếm là sở đoản của Bắc Thiên Tôn song lại là sở trường của lão đạo sĩ núi La Sơn. Do đó, kiếm thuật của Tống Thụy hơn Tố Vy một bậc. Thép chạm thép gay gắt và ả họ Dương khẽ rú lên, chân lùi mau bốn bước. Chiêu “Vương Mẫu Khai Liêm” của Tống Thụy đã rọc một đường từ ngực đến thắt lưng của kẻ địch. Tuy vết cắt không sâu nhưng lại khiến tấm võ y diêm dúa màu hồng phấn và yếm đào của Tố Vy bị rách tan hoang, ngọc nhũ phơi bày lồ lộ.
Tuy chẳng phải gái tơ, động đào phong kín nhưng Dương Tố Vy cũng không quen với việc thoát y trước mặt đám đông. Ả vừa giận vừa thẹn, theo bản năng của nữ nhân mà bối rối đưa tay trái lên cố khép hai mảnh vải rách để che ngực. Khổ thay, Thiết Đảm Hồng Nhan cứ xông tới ra đòn như vũ bão, nên Tố Vy đành phải để mặt cặp tuyết lê đong đưa, nhún nhẩy, chú tâm đối phó chống kẻ địch. Cảnh tượng hấp dẫn ấy đã như thỏi nam châm thu hút những cặp mắt yếu đuối của bọn đàn ông. Và ngay lập tực có hai gã kiếm thuẫn nhanh nhẩu đến hỗ trợ cho Thiết Đảm Hồng Nhan, dẫu nàng ta đang thắng thế. Ánh mắt họ dán chặt vào cặp đào tơ trắng trẻo, mơn mởn, mặt đần ra qua nụ cười ngớ ngẩn đầy thèm khát. Tất nhiên, họ chẳng muốn sát hạt Dương Tố Vy, chỉ mong cuộc chiến kéo dài để nhìn no mắt. Là dân tộc Thổ, tính tình mộc mạc, kém đường xảo trá nên không đạo đức giả như người Hán. Khi thích thú, họ nhìn ngay chứ không thèm liếc trộm hoặc nhìn lén. Chỉ lát sau, đã có hai gã hám gái nữa nhập cuộc, chúng nuốt nước bọt ừng ực vang lên cốt để Thiết Đảm Hồng Nhan phì cười, nhường trận địa cho bọn đàn ông cô đơn, thiếu thốn kia. Nàng biết rằng, Quách gia trang chẳng đủ tỳ nữ mà gả cho 40 gã hàng binh Xoa Lạp cốc này.
Chính Tử Khuê cũng không biết đám thủ hạ hiện diện ở Độc Nha sơn. Quách trang chủ lo cho ái tử nên đã sai Dịch Quan San dẫn bọn kiếm thủ đuổi theo. Sau khi dùng “Diêm Vương quỷ kỳ” để gây cuộc tàn sát giữa hai phe tà ma. Tử Khuê đã đưa Thiết Đảm Hồng Nhan về động đá, nơi Trác Thanh Chân đang chờ đợi. Họ cùng nhau bàn bạc kế hoạch đoạt lại cờ báu, Tử Khuê định sẽ đích thân ra tay, song Trác Thanh Chân đã giành lấy nhiệm vụ ấy. Nàng ta vui vẻ bảo:
- Tiểu muội đánh nhau không giỏi bằng, nhưng nghề khinh công móc túi thì dám xưng sư tỷ của đại ca. Hơn nữa, việc tiểu muội đoạt cờ rồi đào tẩu dưới bộ dạng của kẻ cướp thánh chỉ, sẽ khiến đối phương bị rối trí. Dẫu sau này họ khám phá ra Hàn Thiếu Lăng là ai thì Quách gia trang cũng không hề bị liên lụy.
Thiết Đảm Hồng Nhan rất khâm phục đầu óc nhìn xa trông rộng, tính toán chu toàn của Trác Thanh Chân. Nàng buột miệng khen:
- Trác đại thư quả là sáng suốt, tiểu muội vô cùng khâm phục.
Thanh Chân nhanh nhẩu tự giới thiệu mình là đệ tam phu nhân của Tử Khuê nên Tống Thụy bắt buộc phải gọi nàng ta là chị. Nàng hơi buồn khi biết Tử Khuê đã có ba vợ, song không chán ghét Thanh Chân. Nhờ cô ả họ Trác quái dị này mà Thiết Đảm Hồng Nhan ngộ thức ra rằng mình phải chủ động dành lấy duyên nợ. Tử Khuê là một nam nhân đôn hậu, ngốc nghếch và nhút nhát. Chờ gã mở miệng cầu hôn thì e rằng đầu cả hai đã bạc.
Khi Thanh Chân thành công rời khỏi Độc Nha sơn, Tử Khuê và Tống Thụy dự định sẽ ám sát Quân Sơn chân nhân rồi đào tẩu. Nào ngờ, lòng dạ Âu Dương Mẫn lại thâm độc phi thường, nghĩ ra kế liên thủ với Nam - Bắc Thiên Tôn để bắt sống Hội đồng Võ lâm mà đổi lấy cờ. Dẫu Tử Khuê có xuất đầu lộ diện, tự nhận mình là Hàn Thiếu Lăng thì bọn tà ma cũng không bỏ cuộc vì đã leo lên lưng cọp, gây hấn cùng sáu phái. Chàng đang định liều chết một phen thì gã anh vợ Dịch Quan San xuất hiện. Đồng thời viện binh của Thiếu Lâm tự cũng đến nơi. Thế là Vô Tướng Quỷ Hồ có ngay một kế sách lưỡng toàn.
Giờ đây, trong lúc Thiết Đảm Hồng Nhan hý lộng Dương Tố Vy ở vòng ngoài thì Tử Khuê đánh thốc vào phòng tuyến địch, cố tìm đến chỗ của Trịnh Bá Nghiêm. Chàng cố loại trừ được gã chiếm lấy vị trí hiểm yếu này thì quân tiếp viện mới vào được Độc Nha sơn mà cứu người.Lòng nóng như lửa đốt, Tử Khuê xuất thủ vô cùng quyết liệt, tàn nhẫn. Kiếm quang chớp lên loang loáng và bọn đệ tử Phi Kiếm hội thi nhau từ trần một cách mau lẹ, không kèn không trống. Bản lĩnh kém cõi nên chúng không thể chống đỡ đường gươm thần tốc vả ảo diệu vô song của một kẻ đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo. Bản năng sinh tồn đã giúp những tên khác ngửi thấy mùi chết chóc tỏa ra từ cái gã hắc y bịt mặt kia. Chúng khôn ngoan dạt ra, lịch sự nhường bước. Thậm chí có gã sợ hãi đến nỗi đã cố mỉm cười thân thiện với vị hung thần. Đứng trước cái chết, đôi khi người ta có những hành vi khó hiểu. Nhưng chính những nụ cười ngớ ngẩn trên khuôn mặt đầy vẻ khiếp sợ ấy lại khiến lòng Tử Khuê chùng xuống. Té ra, đằng sau cái vỏ võ sĩ, kiếm thủ là một con người chân thực, luôn thiết tha được sống còn. Họ chỉ là những người tầm thường nghèo khổ, không tham vọng lớn, chỉ vì cơm áo của thê nhi mà dấn thân vào chốn giang hồ sát máu và chết bởi dã tâm của kẻ phát lương. Niềm bất nhẫn trong lòng hóa thành phẫn hận, Tử Khuê lướt mau qua trận địa và không giết ai nữa. Có mấy tên ngốc dại dộ cử kiếm ngăn chận thì chàng chỉ chống đỡ qua loa. Cuối cùng, mục tiêu cũng đã xuất hiện trước mắt. Tử Khuê gằn giọng báo tử như trong tuồng tích :
- Bớ Bá Nghiêm! Hàn mỗ đến lấy mạng ngươi đây!
Dứt lời chàng nhảy xổ đến xuất chiêu “Phù Sinh Nhược Mộng”, kiếm ảnh mênh mang mở rộng, chụp lấy thân hình gã họ Trịnh. Trịnh Bá Nghiêm cảm nhận được ngay luồng sát khí lạnh lẽo, kinh hoàng múa kim thương, thân hình xoay tít cố bảo vệ mạng sống trong cảnh lưỡng đầu thọ địch. Gã đang phải đối phó với Đại Tuệ thiền sư, nay có thêm gã chết tiệt Hàn Thiếu Lăng thì khó mà thoát chết.
Bá Nghiêm đặt hết hy vọng vào chiêu “Luân Thương Kháng Vũ” này. Nam Thiên Tôn đã từng khẳng định đây là chiêu thức kỳ tuyệt nhất thiên hạ, dẫu mưa to cũng không làm ướt áo thì đao kiếm chẳng thể xâm nhập. Cây thương thép nặng ba chục cân quay vù vù, thương ảnh trùng điệp, dệt lưới kín như bưng. Và kình lực của nó cực kỳ mãnh liệt, khả dĩ đẩy lùi mọi đòn công kích. Nhưng Trịnh Bá Nghiêm chẳng phải là Nam Thiên Tôn, có công lực hoa giáp, trong khi Đại Tuệ thiền sư lại muốn trút hết sân si lên đầu kẻ đã cầm chân mình từ nãy giờ. Vị Thủ tòa Đạt Ma viện dồn hết mười thành hỏa hầu ra đôi cánh tay rắn chắc, múa côn đánh chiêu “Di Sơn Khai Lộ”. Nghe tên cũng biết chiêu này cương mãnh phi thường, khí thế dời non lấp biển. Cây trường côn của thiền sư liên tiếp chạm phải màn thương dày đặc quanh thân Trịnh Bá Nghiêm. Tuy không phá thủng được song cũng khiến họ Trịnh đổ máu hổ khẩu tay vì đường côn này. Tử Khuê thừa thế xuất kiếm chập chờn vài lượt là khóa được mũi kim thương. Và trông chớp mắt chàng ập vào, kiếm đâm thủng ngực họ Trịnh. Bá Nghiêm rên lên thảm khốc vì trúng thêm một côn như trời giáng của Đại Tuệ thiền sư. Thân thể của gã văng xa hơn trượng, rơi thẳng xuống vực sâu. Dường như lòng trời thương tiếc cho bậc anh tài đoản mệnh nên bỗng nhiên tuyết đầu Đông rơi lất phất và mỗi lúc một dày, mù mịt không gian.
Lúc này, toán quân Phi Kiếm hội cũng đã tan tác, nhường vai trò trấn ải cho bọn thủ hạ của Tử Khuê. Nghe nói Bang chủ Chiết Mai bang thoát chết, bỏ chạy bởi chẳng người đàn ông chân chính nào lại nỡ giết một nữ nhân đang phơi bày bộ ngực mỹ miều, gợi cảm.
Chỉ trong khoảnh khắc, 400 tăng lữ Thiếu Lâm đã vào hết Độc Nha sơn, theo Đại Tuệ thiền sư đi cứu viện Phương trượng Chưởng môn. Bọn Tử Khuê cũng tham gia vì ở lại giữ cửa ra là một hành động dại dột vô ích, khi Âu Dương Mẫn vẫn còn một trái “Bạt Sơn cầu”. Vì thứ hung khí đáng sợ ấy mà Tử Khuê phải dặn dò Đại Tuệ phân tán mỏng quần tăng chứ không đi thành đội ngũ đông người.
Sự xuất hiện của đám viện binh đông đảo võ nghệ cao cường đã sớm thay đổi cục diện. Song Tôn cùng Âu Dương Mẫn càng hoang mang hơn khi nghe Dương Tố Vy chạy đến báo cáo rằng gã hán tử Hàn Thiếu Lăng chưa hề rời khỏi Độc Nha sơn và có mặt hạ sát Trịnh Bá Nghiêm. Âu Dương Mẫn thấy rõ diện mục kẻ cướp cờ, đúng là cái gã đoạt Thánh chỉ. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng vô can? Lão không biết rằng Trác Thanh Chân đã cẩn thận mang chiếc mặt nạ mà Tử Khuê dùng lúc tiến vào Độc Nha sơn. Nàng đã chẳng hủy đi hai vật tinh xảo ấy theo lời dặn của Tử Khuê. Tuy nhiên, bọn tà ma chỉ tạm thời bị lừa vì kế hoạch của Tử Khuê có một sơ hở rất lớn. Đó là vì sao Hàn Thiếu Lăng lại phải bịt mặt? Chàng là người trung hậu, kém phần lão luyện nên không thể chu đáo hơn được nữa. May thay, Dịch Quan San đã kịp thời sửa chữa sai sót chết người ấy. Gã đã mau chóng biến Tử Khuê thành Cầu Nhiêm đại hiệp, với bộ râu rậm lừng danh.
Giờ đây, Tử Khuê lột khăn, chường bộ mặt ấy ra xông vào tấn công Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn. Lão họ Đường đang là đối thủ của Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái. Thạch Kính Tường rất căm hận kẻ đã hại bạn mình là Cửu Hoa Thánh Y nên chiến đấu như hổ dữ. Bản lĩnh của ông kém họ Đường một bậc nên bị hạ phong, trúng vài mũi kiếm máu loang đỏ áo. Nhưng thương tích không nặng vì lão ăn mày vẫn kiên cường cầm cự, chờ cơ hội báo thù cho bạn. Cái bang vốn là một bang hội chứ không phải môn phái. Cho nên pho võ học truyền tông “Đả cẩu bổng pháp” chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không xuất sắc lắm. Bổng là gậy dài trên dưới ba xích, vật thiết thân của bọn khất cái. Ăn mày mà không chống gậy thì ra thể thống gì nữa.
Tục ngữ có câu “chó cắn rách áo” nghĩa là lũ cẩu chẳng ưa gì những người nghèo khổ. Nhưng tại sao lại có được tính chó má để cắn loài người cơ chứ? Cho nên, công dụng đầu tiên của gậy ăn mày là để đối phó với loài chó, thành danh “Đả cẩu bổng”. Trong Cái bang, Bang chủ và các trưởng lão, chức sắc không phải đi xin ăn. Gậy của họ chẳng đánh chó mà đánh người, bảo vệ quyền lợi của đệ tử, nên làm bằng thép. Riêng cây “Đả cẩu bổng” của Thạch bang chủ thì được trạm trổ rất công phu và có đầu nhọn hoắt. Trước khi gia nhập Cái bang, ở tuổi 30, Thạch Kính Tường đã là một kiếm thủ. Và ông đem những đặc tính ưu việt của kiếm pháp bổ sung cho pho “Đả cẩu bổng pháp”. Nhờ vậy, tổ học thêm phần lợi hại, củng cố địa vị Cái bang trên chốn giang hồ. Trừ “Địa Đường đao pháp”, hầu hết võ công Trung Nguyên đều nhắm vào thượng bàn là chủ yếu. Nhưng vì chó thấp hơn người nên “Đả cẩu bổng pháp” có rất nhiều đòn tấn công hạ bàn, từ rốn trở xuống, lối đánh này rất khó chịu.
Do đó, dù bản lĩnh cao cường hơn mà Quân Sơn chân nhân không thể kết liễu được Thạch bang chủ. Nếu lão giết được họ Thạch thì hạ thể cũng khó vẹn toàn trước những thức đâm hiểm ác, quái dị. Hơn nữa, kế hoạch của phe lão là bắt sống Hội đồng Võ lâm chứ không sát hại. Quân Sơn chân nhân kiên nhẫn chờ đợi Thất Bổng Cái sơ suất vì kiệt sức, vì mất máu. Lão vẫn vẹn toàn trong khi Thạch bang chủ đã trúng ba vết thương nhẹ. Tuy là sư đệ của Bắc Thiên Tôn song Đường Mai Giãn lại sở trường kiếm thuật chứ không phải kích pháp. Lão hơi nhỏ con nên không thích hợp với loại vũ khí dài và nặng ấy. Niên kỷ gần 80, Chân nhân có nhiều chục năm tu vi. Đường gươm của lão trầm ổn, nhanh nhẹn và kín đáo phi thường, cho nên y phục vẫn khô ráo dù tuyết rơi như mưa.
Nhưng tình trạng ung dung thư thái không còn nữa khi gã rậm rậu Hàn Thiếu Lăng xuất hiện. Họ Hàn chẳng nói chẳng rằng vung kiếm hợp lực cùng Thất Bổng Cái. Đã nghe danh Cầu Nhiêm đại hiệp, kẻ từng đả thương Minh chủ Âu Dương Mẫn, Đường Mai Giãn đành thoái hậu, tránh cảnh bị giáp công. Thất Bổng Cái không đuổi theo nhưng Hàn Thiếu Lăng tiếp tục bước tới, quyết không tha cho kẻ địch. Họ Hà, tức Tử Khuê nóng lòng báo phục cho sư thúc nên đã xuất chiêu “Hồng Thủy Thao Thiên” trong “Oán Thiên kiếm pháp”. Hàng ngàn thức kiếm thần tốc tạo thành những đợt sóng dữ, cuồn cuộn xô về phía đối phương, kiếm kình quyện lấy ngàn vạn hoa tuyết nên kiếm ảnh có màu trắng lạnh lùng, tang tóc. Khí thế của chiêu kiếm oai mãnh chẳng khác gì trận Đại Hồng Thủy đang tràn dậy, tràn ngập cả đất trời. Tuy nhiên, Quân Sơn chân nhân công lực thông thần, hơn gã tuổi trẻ vài bậc nên không hề sợ hãi, dùng chiêu thức “Động Đình thu vũ” mà đối phó. Tuyệt chiêu này ảo diệu vô song, công thủ vẹn toàn, kết tinh của mấy chục năm nghiên cứu, rèn luyện. Quả nhiên, Đường Mai Giãn chống đỡ, hóa giải được gần hết đòn công của đối thủ. Và sau hơn trăm tiếng thép tinh tang, lão còn phát hiện sơ hở chết người, mừng rỡ thọc một kiếm nhanh như chớp vào ngực trái Thiếu Lăng. Đòn này tuyệt đối không né tránh được, trừ phi nạn nhân đã biết trước. Khổ thay, bản chất của “Oán Thiên kiếm pháp” là như thế. Nó xảo trá và hiểm độc chẳng khác gì lão trời già. Lão ban cho con người hạnh phúc rồi đột nhiên lấy đi hết tất cả.
Năm xưa, Trương Mỹ Thành võ công xuất chúng, tài sản cự vạn, suốt đời làm việc thiện, được giới giang hồ tưng xung là Tứ Xuyên Kiếm Phật, thanh danh lẫy lừng thiên hạ. Nhưng hỡi ôi, đến tuổi lục tuần thì vị đại thiện nhân mất sạch phụ mẫu, huynh đệ, thê nhi, cháu chắt, tổng cộng mười tám người vì bệnh đậu mùa. Trương lão sống sót mà như đã chết. Ông đau lòng phát điên lên được và vô cùng căm hận trời xanh. Ông bỏ nhà lên ngọn núi cao nhất của Vũ Lăng Sơn mà ẩn cư. Ngày ngày ngửa mặt chửi rủa Hoàng Thiên và sáng tạo pho “Oán Thiên kiếm pháp”.
Giờ đây, Đường Mai Giãn trở thành nạn nhân kế tiếp của lòng thù hận ấy. Lão tưởng mình đã có được cơ hội ngàn vàng, nào ngờ chỉ là bẫy rập. Hàn Thiếu Lăng khẽ lách ra mé phải để tránh đòn và lặng lẽ đâm vào huyệt Cự Khuyết trên bụng kẻ địch. Cự Khuyết thuộc mạch Nhâm, thẳng trên rốn bảy thốn, là huyệt mộ của tâm, nên khi bị tổn thương nạn nhân khó tránh tử vong. Nhưng sự đời biến ảo vô thường, tựa phong vân bất trắc, mũi kiếm của Tử Khuê đã chạm phải một vật gì đó rất cứng rắn, lệch sang bên trái, đâm thủng người đối phương, nên vết thương không sâu đến nội tạng vì chạm phải xương sườn. Cảm giác đau đớn bởi gãy xương vô cùng khó chịu nên Quân Sơn chân nhân chẳng còn chút dũng khí nào nữa, tung mình chuồn thẳng. Lão vừa chạy vừa thầm cảm ơn cái mảnh kính chiếu yêu bằng đồng xanh đang nằm trước ngực, không thì mạng lão đã ra ma.
Chưa năm nào lại có nhiều tuyết đầu mùa như năm nay. Mọi năm tuyết đầu Đông rơi nhè nhẹ, điểm lác đác trên cây cỏ, là cảnh đẹp mà tao nhân mặc khách ưa thích. Nhưng hôm nay cứ như một trận bão tuyết tháng chạp đi ngang rặng Tung Sơn vậy. Quân Sơn chân nhân lao đi giữa làn mưa tuyết mịt mùng, hy vọng gã chết tiệt họ Lăng sẽ lạc dấu. Nhưng Tử Khuê sở hữu tuyệt học “Thao Quang thân pháp”, lại đang tuổi thanh xuân, cơ bắp cuồn cuộn, chạy nhanh như vó ngựa. Chàng đã bắt kịp Đường Mai Giãn khi lão vượt được nữa con đường xuyên vực. Gió bấc ào ào thổi, che giấu tiếng chân người, tiếng y phục lất phất nên Đường Mai Giãn không phát hiện kẻ thù cách mình chỉ hai trượng. Và Tử Khuê chẳng bỏ lỡ cơ hội tốt, thi triển tuyệt kỹ “Long tu xạ nguyệt”. Thanh trường kiếm rời tay chàng, bay đi với tốc độ của mũi tên rời dây cung. Thủ pháp này tương tự pháp phóng ám khí nhưng cao siêu, phức tạp hơn nhiều. Lý do là vì trường kiếm nặng nề, và phải bay theo đường thẳng băng tựa đường tên chứ không lộn nhiều vòng như tiễn kiếm, tiểu đao. Nếu không, tiếng động nó tạo ra sẽ rất lớn, mất yếu tố bất ngờ, ám muội. Thực ra, tuyệt kỹ này ít hiệu quả khi song phương đối diện. Trường kiếm quá cồng kềnh, chẳng phải thứ dùng làm ám khí. Và nếu đánh lén sau lưng thì cũng không bằng tiểu đao. Như Vu Mộc chân nhân vẫn bắt Tử Khuê phải luyện thủ pháp “Long tu xạ nguyệt”. Vì nó chính là bậc thượng thừa của mọi phép phóng ám khí trên đời.
Tử Khuê đã quyết định đúng đắn khi phóng kiếm, gió rít vù vù đã làm mờ thính lực của đối phương và mũi kiếm xuyên thủng lưng Đường lão quỷ. Tuy chân khí bế tắc, tứ chi bủn rủn vì đòn trí mạng, song do đà phóng tới mà Quân Sơn chân nhân vẫn lảo đảo thêm một ít bước mới gục xuống. Đường rất hẹp nên suýt nữa xác lão rơi xuống vực, nếu không vướng vào những đoạn cành cây cắm dính trên đường. Lão nằm ngửa, vắt vẻo, chênh vênh, mắt trợn trừng bất động.
Tử Khuê sợ mất bảo vật của sư môn, vội bước đến giữ chân và thò tay vào ngực áo lão mò tìm mảnh kính chiếu yêu “Bát Quái Đồng Kính”. Chàng vẫn chỉ là gã trai non nớt, thiếu kinh nghiệm giang hồ, nên đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Đối với một cao thủ có mấy chục năm tu vị thì chỉ chết ngay khi vỡ tim hay đầu lìa khỏi cổ. Nay Quân Sơn chân nhân bị trường kiếm đâm xuyên qua phổi nhưng tim vẫn nguyên vẹn. Tuy sắp chết nhưng trong phút hồi dương lão vẫn huy động chút sức lực tàn vỗ vào ngực Tử Khuê, đẩy chàng văng ngược về sau, rơi xuống phần vực thẳm bên kia đường. Lực phản chấn cũng làm trốc gốc mấy đoạn cành cây mà xác Quân Sơn chân nhân đang nương tựa, nên lão cũng rơi xuống, cùng số phận với Tử Khuê. Bão tuyết đã che mờ cảnh vật, chẳng ai chứng kiến cảnh “đồng ư quy tận” này.
Đường lão quỷ chết là cái chắc vì vết kiếm thương nghiêm trọng, dù có rơi xuống vực hay không. Nhưng Tử Khuê thì còn đầy đủ chân khí và hoàn toàn tỉnh táo. Do bản năng sinh tồn, Tử Khuê cào cấu lớp đất đá để làm giảm đà rơi. May thay, hai bàn tay chàng mang “Ngư giáp miệt” bền chắc phi thường, nên các ngón tay có thể cắm sâu vào đất và không bị tróc thịt, gãy xương. Hai là, con đường xuyên vực Độc Nha sơn chẳng phải là một bức tường dựng đứng mà là một phay đất dạng lưỡi dao, trên mỏng dưới dày, có độ dốc. Nếu chân đế không rộng thì con đường đã sụp đổ từ lâu rồi. Đà rơi quá mạnh nên Tử Khuê không sao trụ lại được. Bàn tay chàng chỉ làm cho sỏi đá, bùn đất bị bóc ra từng mảnh và thân hình chàng lại tiếp tục lăn lông lốc. Tuy nhiên, những nỗ lực ấy cũng sẽ giúp chàng toàn mạng, thoát cảnh thịt nát xương tan.
Song Tử Khuê lại sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu, luôn gặp xui xẻo. Lúc xuống đến chân dốc, đầu va mạnh vào một tảng đá lớn và chàng lập tức hôn mê.
Mãi trưa hôm sau Tử Khuê mới hồi tỉnh. Tuyết vẫn lất phất rơi xuống vực, phủ đầy trên cơ thể chàng. Nằm bất động trong tuyết quá lâu, cơ thể Tử Khuê hầu như đông cứng lại. Chàng cố vận khí và cử động tứ chi song chỉ hoài công, cái lạnh thấu xương đã xâm chiếm hoàn toàn làm kinh mạch bế tắc, máu huyết sắp ngừng chảy. Biết mình khó thoát chết, Tử Khuê vô cùng sợ hãi, buồn rầu. Nghĩ đến người thân, chàng đau lòng bật khóc. Chết từ từ là cái chết đáng sợ nhất. Người ta có quá nhiều thời gian để tiếc nuối quá khứ. “Vạn cổ tử vi nan” dẫu là bậc anh hùng cái thế cũng chỉ có thể gượng cười chứ lòng thì buồn vô hạn. Họa chăng là những bậc thiền sư giác ngộ, những chân nhân đắc đạo, tin vào thế giới bên kia, lằn ranh sống chết mới không buồn rầu.
Nhưng Tử Khuê không phải là kẻ tu hành, chàng còn rất trẻ nên khát sống và yêu, biết mất cuộc sống trần tục này, nơi có những người chàng dấu ái. Hình ảnh của họ hiện ra với bao trìu mến khiến Tử Khuê đau đớn khôn xiết. Chàng cố mấp máy đôi môi băng giá gọi tên từng người yêu dấu. Và người cuối cùng chàng nhớ đến là vị nghĩa ca họ Lỗ, một hồn ma bóng quế. Song chính Lỗ phán quan lại làm bừng lên hy vọng sống sót trong lòng Tử Khuê. Chỉ mình lão có đủ khả năng giúp đỡ chàng trong cảnh tuyệt vọng này. Tử Khuê phấn khởi, tập trung tàn lực, thều thào thành tiếng:
- Lỗ đại ca... Lỗ đại ca... !
Chàng gọi mãi những tiếng kêu cứu rời rạc, thê lương ấy và chết lịm dần.
Khi đã đặt một chân qua ngưỡng cửa “Quỷ Môn Quan”, Tử Khuê mơ màng nghe tiếng ai đó than thở.
 
BẠCH HỔ TINH QUÂN
Ưu Đàm Hoa
đả tự : Trần Da Trâu 2018
 
 
Mùa Đông năm ấy khắc nghiệt hơn bao giờ hết. Tuyết phủ trắng vạn vật và cái lạnh cắt da đã giết chết không ít kẻ cơ hàn. Tuy nhiên tình hình võ lâm lại nóng bóng như dầu sôi, chiến tranh giữa hai phe chính tà có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Sau trận Độc Nha sơn, sáu phái Bạch đạo đã hiểu rõ dã tâm của Nam - Bắc Thiên Tôn và Âu Dương Mẫn nên không còn thụ động nữa. Họ âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày giáng ma. Nhưng hiện tại đối phương chưa có động tĩnh gì, có lẽ đang củng cố lực lượng. Rừng không hai cọp, Song Tôn và Âu Dương Mẫn đều muốn tiêu diệt nhau.
Sang Xuân, Hội đồng Võ lâm đã thắng một nước cờ khi Giáo chủ Thiên Sư giáo Huyền Thiên chân nhân Trương Sách dùng uy tín của mình làm cho Minh Đế nghi ngờ Bắc Thiên Tôn. Thế là từ nay triều đình đứng ngoài cuộc phong ba, chẳng hậu thuẫn cho bất cứ ai nữa.
Song Tôn không hề nản chí, nhập hai bang Chiết Mai, Bích Huyết thành Nam Bắc bang, hùng cứ núi Linh Sơn, trọng địa của Chiết Mai bang. Linh Sơn thuộc huyện Dương Bình, nằm ở cực tây Hà Nam, gần ranh giới Thiểm Tây và cũng không xa Sơn Tây. Quả là một vị trí vô cùng thuận lợi. Nam Bắc bang có hai lãnh tụ đồng bang là nhị vị Thiên Tôn. Dương Tố Vy, Lã Bất Thành giữ chức hộ bang Tả, Hữu Sứ. Ngoài ra, Song Tôn còn mời thêm vài đại cao thủ đến làm Khách khanh hộ pháp. Phần Âu Dương Mẫn thì được sự đỡ đầu của Xoa Lạp cốc nên không thiếu nhân thủ và lại toàn là những tay thiện chiến, giỏi nghề kiếm thuẫn.
Đại khái, cục diện võ lâm hiện là như thế. Song điều mà giới giang hồ quan tâm nhất lại là cuộc so tài giữa Cầu Nhiêm đại hiệp Hàn Thiếu Lăng với Thiếu chủ Xoa Lạp cốc Nhạc Cuồng Loạn vào sáng ngày rằm tháng hai tới. Sau khi giải cứu Hội đồng Võ lâm và mấy trăm cao thủ võ lâm thoát khỏi Độc Nha sơn, trước sự hiện diện của nửa vạn hào kiệt tứ hải, thanh danh Hàn Thiếu Lăng rực rỡ như mặt trời chính ngọ. Nhờ chàng ta phá ải, đưa viện binh vào mà bọn tà ma phải tháo chạy. Rồi chàng ta biến mất ! Nhưng đến đầu tháng giêng, khi tuyết đã tan hết, một cuộc thăm dò quanh vực thẳm Độc Nha sơn được Thiếu Lâm và Cái bang tiến hành một cách âm thầm. Tuy thế, tin tức về việc ấy cũng bị rò rỉ ra ngoài, khiến võ lâm bàng hoàng, thương xót. Té ra, Cầu Nhiêm đại hiệp đã thất tung khi đuổi theo Quân Sơn chân nhân Đường Mai Giãn. Trước đó Hội đồng Võ lâm đã do thám núi Quân Sơn trong Động Đình hồ nhưng không thấy Đường lão. Họ phỏng đoán rằng hai người ấy có thể đã giao đấu trên con đường xuyên vực và cùng rơi xuống đấy. Nhưng lạ thay, dưới vực chỉ có thi thể của Đường Mai Giãn và Trịnh Bá Nghiêm, Bang chủ Bích Huyết bang. Vậy là vẫn còn hy vọng Hàn Thiếu Lăng còn sống. Mấy chục vạn đệ tử Cái bang ở địa phương lập tức nhận được lệnh truy tìm tung tích của Cầu Nhiêm đại hiệp. Song sau đó, vào đầu tháng hai, phái Thiếu Lâm vẫn tiến hành xây dựng lôi đài dưới chân núi, chuẩn bị cho cuộc phó ước của Hàn Thiếu Lăng và Nhạc Cuồng Loạn. Nếu họ Hàn còn sống tất đến phó hội. Bằng như chàng không xuất hiện tức là đã chết và tang lễ sẽ được cử hành long trọng nhất lịch sử võ lâm.
Tại sao Hội đồng Võ lâm lại vội vã như thế mà không chờ thêm một thời gian nữa? Lý do chính vì nghĩa phụ của chàng, Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh đã bùi ngùi khẳng định rằng tướng tinh của Tử Khuê đã tắt. Ông là bậc kỳ nhân cái thế tinh thông thiên văn địa lý và bói toán, chẳng thể sai được. Không chỉ riêng mình Trần lão mà bất cứ ai biết một chút về môn Chiêm Tinh thì cũng có thể nhận ra sao Khuê đã mờ trên bầu trời đêm. Cũng có những người không tin vào lời Trung Thiên Tôn, đó là đám nữ nhân thân quyến của Quách Tử Khuê. Đàn bà vốn ngoan cố và khó dạy. Họ cho rằng Tử Khuê là bằng hữu với Lỗ phán quan, một chức sắc cao cấp chốn Âm ty, thì không thể chết non được.
Sau khi nghe Thiết Đảm Hồng Nhan kể về sự xuất hiện bất ngờ, éo le của ả Trác Thanh Chân khỉ gió nào đó, Kỹ nương cùng hai con dâu cũng đoán rằng Tử Khuê đã tìm ả nọ để lấy lại “Diêm Vương quỷ kỳ”. Do ả ta không đến gặp vợ chồng Quách trang chủ như đã hẹn, Quách gia trang lập đàn cúng tế, mời gọi Lỗ phán quan hiển linh để họ hỏi han tin tức của Tử Khuê. Song chẳng hiểu sao cái lão chết tiệt ấy chẳng hề xuất hiện. Các bà liền ngấm ngầm nguyền rủa thóa mạ Lỗ Trực, kẻ đã xúi giục Tử Khuê đi Lạc Dương để rồi mất tích. Tuy nhiên, chẳng ai dám chửi thành tiếng.
Giờ đây chúng ta quay lại với chàng trai đen đủi Quách Tử Khuê, xem diễn biến thế nào? Đàn bà bao giờ cũng hữu lý, khi một kẻ có ô dù là quan to chốn Âm ty thì chẳng thể chết non được. Trần gian như thế tất Địa phủ cũng chẳng khác. Nhưng nếu như thoát chết một cách dễ dàng, đơn giản thì Tử Khuê nào phải kẻ mang phần số đen đủi, hắc ám. Bởi vậy, khi tỉnh lại, chàng ta phát hiện mình đang bị giam cầm ở trong một nhà lao kỳ quái.
Tử Khuê nằm ngửa trên sàn đá lạnh, ngơ ngác nhìn quanh, tưởng đã đến ngục A Tỳ, chờ Diêm Vương phán xử những việc mình làm trên trần thế. Nhưng ánh dương quang nhàn nhạt và vài bông tuyết nhỏ đang len lỏi qua những ô cửa trên đầu tường thạch thất đã khiến chàng ngờ ngợ ra đây chẳng phải là cõi Âm. Tử Khuê ngồi bật dậy, đưa tay lên ngực trái, lòng vui mừng khôn xiết khi nghe trái tim vẫn còn thổn thức những nhịp đập đều đặn. Đồng thời chàng cũng ngộ thức mình hoàn toàn lõa thể, thân không mảnh vải. Song điều ấy chẳng có nghĩa lý gì trước niềm hạnh phúc của kẻ vừa trở về từ “Quỷ Môn Quan”. Tử Khuê hân hoan xếp bằng vận khí điều tức. Gương mặt chàng mất dần vẻ rạng rỡ vì chân khí đã hoàn toàn thất tán, kinh mạch bế tắc nhiều chỗ.
Sau vài khắc hoài công, Tử Khuê thở dài chấp nhận hoàn cảnh. Chàng tự nhủ rằng chỉ cần sống sót về nhà là có cách chữa trị. Quyển “Huyền Hư Y Cảo” của sư thúc chàng, có kê đủ những dược phương thần diệu để phục hồi chân nguyên cho kẻ vừa bị trọng thương. Sau đó, Tử Khuê bình tâm quan sát cái nhà tù kỳ dị này và tự hỏi ai đã đưa mình đến đây? Nếu là Lỗ phán quan thì sao không đưa chàng về thẳng nơi dưỡng thương gần nhất là Thiếu Lâm tự. Vậy phải chăng người xuống vực thẳm cứu chàng thuộc phe địch? Phe nhà sẽ không để bệnh nhân trần truồng trong một tòa nhà bằng đá lạnh tanh như thế này ! Dòng suy tưởng mênh mang đã bị cắt đứt khi ánh mắt Tử Khuê thâu tóm toàn bộ cảnh vật. Chàng đã ngờ ngợ ra lối kiến trúc kỳ lạ này.
Năm xưa, ân sư chàng, Vu Mộc chân nhân đã từng nói về những nỗ lực của nền y học Trung Hoa trong việc điều trị bệnh điên. Bệnh điên tức thị bệnh phong, đứng đầu trong nan y tứ chứng: phong, lao, cổ, lại. Người đời sau dễ nhầm lẫn khi dùng chữ “phong” để chỉ bệnh cùi hủi. Thật ra, “lại” mới chính là tên chính xác của bệnh cùi. Trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh tiên sinh không hề có chữ “phong” nào mang ý nghĩa chỉ thị là bệnh cùi cả. Và ở mục chữ “lại”, tiên sinh giải thích rõ từ này chỉ bệnh phong cùi, bệnh hủi. Vì vậy, phải chăng người Giao Châu đã đọc trại chữ “phung” thành “phong” và chữ này hoàn toàn thuần Việt?
Chúng ta hãy trở lại căn thạch thất hình bát giác đang giam hãm Quách Tử Khuê. Nó rất giống với những lời mô tả của Vu Mộc chân nhân về một căn phòng trị bệnh điên. Trước mỗi vách của tòa nhà tám cạnh này đều có những tảng đá hình khối chữ nhật chôn dựng đứng. Dựa vào màu sắc, Tử Khuê có thể nhận ra chúng là đá nam châm. Hấp lực với sắt thép của từ thạch là điều thần bí, kỳ diệu mà người Trung Hoa cổ tôn sùng. Ngoài việc dùng từ thạch để chế tạo ra kim chỉ Nam, họ còn hy vọng đặc tính kỳ lạ của đá nam châm sẽ chữa trị được bệnh điên cuồng. Các thầy lang đã thiết lập những căn phòng có vách chất đầy những thanh từ thạch và nhốt bệnh nhân vào trong ấy. Họ mong rằng những hấp lực của đá nam châm sẽ điều chỉnh những lệch lạc trong cơ thể kẻ điên. Và là cháu chắt của Phục Hy, Văn Vương các thầy thuốc Trung Hoa đã phối hợp với nguyên lý Bát Quái. Cho nên các phòng có từ thạch đều mang hình bát giác tám cạnh.
Có thể phương pháp trị bệnh điên độc đáo ấy đã du nhập vào Trung Hoa từ Ba Tư theo con đường tơ lụa. Người ta nói người Ba Tư và người Địa Trung Hải cũng sử dụng cách điều trị này từ thời rất xa xưa. Để khẳng định điều mình phỏng đoán, Tử Khuê đến xem xét một tảng đá ở gần nhất. Chàng mỉm cười méo mó khi tìm thấy một chiếc đinh rỉ sét đang bám chặt trên đấy.
Tử Khuê chán nản lẩm bẩm:
- Mình có điên đâu mà họ nhốt vào đây cơ chứ?
Chàng thẫn thờ nhìn lên nóc tòa thạch thất, nhận ra mái nhà làm bằng lớp lá dầy cộm, gắn chặt với tám thanh vì kèo vững chắc. Trên mỗi bức tường, cách mặt đất chừng độ hai trượng, người ta trổ những hàng ô thông ánh sáng vuông vức, cạnh chỉ độ gang tay. Nghĩa là Tử Khuê có phục hồi đầy đủ sức lực, nhảy lên tới chỗ ấy thì cũng vô phương thoát được. Tử Khuê thở dài, lững thững dạo quanh căn phòng có đường kính ba trượng nọ. Chàng vui mừng vì lần lượt phát hiện ra những tiện nghi tối thiểu. Ở một cạnh hơi tối tăm bởi không nhằm hướng ánh nắng chiếu đến, Tử Khuê tìm thấy một bể nước nhỏ và một hồ xí. Bể nước thông với bên ngoài bằng một lỗ hẹp nhỏ ở đấy, tất nhiên chàng không thể chui lọt. Hồ xí thì khỏi bàn tới. Cảm thấy khát, Tử Khuê cầm chiếc gáo gỗ trên thành bể múc nước mà uống vài ngụm. Nước lạnh đến ê răng vì đang là mùa Đông và có tuyết rơi.
Đi thêm vài bước, Tử Khuê phát hiện những mảnh vải rách nằm lây lất, có lẽ chúng là của cái gã bệnh nhân ở đây trước chàng? Tử Khuê trố mắt kinh ngạc khi nhìn thấy quyển “Lôi Đình bí phổ” đang nằm trong mớ giẻ rách kia. Chàng hoan hỉ nhặt lên, thắc mắc hỏi vì sao kẻ thù không tịch thu bảo vật liên thành này? Chợt nhớ đến “Tỵ Lôi thần châu”, chàng liền xem xét bắp đùi mình thì thấy nó vẫn còn. Đang lúc tâm tư rối tự to vò, Tử Khuê chợt nghe tiếng người gọi văng vẳng:
- Nhị công tử! Tiểu tỳ đã mang cơm chiều đến.
Chàng ngỡ ngàng tiến về phía ấy, nhận ra rằng phía sau tảng từ thạch tối tăm nhất có cửa thông ra ngoài. Nếu giờ là buổi hoàng hôn thì hướng này thuộc hướng nam. Các tảng từ thạch đều cao hơn đầu người, dầy độ hai gang và rộng gần sải tay. Chúng được chôn trước các bức vách đá và không sát lắm, cách ba bước chân. Do khung cửa nhỏ hơn một chút, lại ở nơi thiếu ánh sáng nên nếu không đến gần, Tử Khuê sẽ khó nhận ra. Lúc này, chàng thấp thỏm bước qua khung cửa, đi hết đoạn đường hầm chật hẹp dài độ gần mười trượng, gặp một cánh cửa gỗ dày, đai thép cực kỳ rắn chắc. Cửa vẫn đóng kín mít và mâm cơm được đưa qua một khe chữ nhật trổ phần dưới cánh cửa. Tử Khuê còn nghe được tiếng dặn dò vọng lại, trong lúc ả tiểu tỳ quay gót:
- Nếu công tử không chịu uống thuốc giống như hôm qua, thì đừng mong thoát khỏi cảnh giam cầm.
Tử Khuê nhìn mâm cơm, thấy có một bát sứ Giang Tây rất đẹp, miệng hình lục giác. Mùi thơm và hơi nước nóng hổi phát ra từ khe nắp đậy. Chàng ngồi xuống, tò mò mở nắp bát thuốc và nếm thử.
Sau khi tiếp nhận quyển “Huyền Hư Y Cảo” của Cửu Hoa chân nhân, mẫu thân chàng trở nên say mê nghề thuốc. Bà đã lập ra cả một dược phòng trong trang với đầy đủ dược vị. Tử Khuê thường giúp mẹ trong việc bào chế nên thông thuộc nhiều loại thảo dược. Giờ đây, chàng không khó khăn nhận ra mùi của những loại thuốc quý như: Sâm, hà thủ ô, tam thất, đỗ trọng, bá kinh thiên... Chúng rất tốt cho việc khôi phục nguyên khí, nên Tử Khuê khoan khoái uống cạn ngay.
Bỗng chàng sững sờ vì một ý niệm hãi hùng. Đó là việc ngày hôm qua vẫn còn « một gã nhị công tử điên khùng chết tiệt nào đó » đã hiện diện chốn này. Và chàng sẽ phải trả lời thế nào với gia chủ về việc gã ta thì biến mất, còn mình thì có mặt? Lúc uống nước, Tử Khuê đã soi mặt vào gáo gỗ, biết rằng khuôn mặt mình không hề thay đổi. Nghĩa là chẳng có việc Lỗ phán quan đưa hồn chàng nhập vào xác khác. Càng nghĩ càng bế tắc. Tử Khuê thở dài phó mặc, bưng cơm vào trong và chén sạch sẽ. Chàng đang đói đến rã ruột.
Đêm xuống, ngoài trời gió Đông rít vù vù, tuyết lọt qua những hàng lỗ thông hơi phía bắc. Nhưng lạ thay, Tử Khuê lại thấy ấm hơn lúc chiều, có lẽ nhờ bát thuốc quý kia. Chàng thao thức mãi không ngủ được vì hoang mang và thương nhớ người thân. Bỗng Tử Khuê nghe ở hướng nam có tiếng người trò chuyện nho nhỏ. Dường như gã gác cửa đang tâm sự với tình nhân, là ả nữ tỳ mang cơm đến lúc chiều. Tử Khuê muốn biết thêm thông tin về hoàn cảnh hiện tại của mình, nên nhẹ nhàng lần theo đường hầm đến đấy, ngồi nghe ngóng. Quả nhiên, câu chuyện của đôi tình nhân nọ có đề cập đến chàng, tức gã nhị công tử điên loạn.
Sau vài đêm, Tử Khuê đã loáng thoáng biết được nạn nhân đã phát điên năm mười hai tuổi, được đưa vào Từ thạch đã tám năm. Và may sao, sau nhiều năm dài hoài công chờ đợi, cách đây ít ngày, nhị công tử không còn múa may, đập phá hay chửi rủa, la hét nữa. Gã bắt đầu ăn uống đều đặn và còn thò tay cho phụ thân mình chẩn mạch. Tiêu trang chủ cũng là thầy thuốc của con mình. Ông nhận ra quý tử Tiêu Mẫn Hiên sắp khỏi bệnh. Nhưng ông không dám thả gã ra ngay vì Mẫn Hiên có thể bất ngờ chạy trốn. Gã khùng ấy thông minh tuyệt thế, căn cơ võ học thuộc hàng thượng phẩm. Năm mười hai tuổi, gã học hết nghề của cha và chạy nhanh như sóc. Kiếm quyền có thể quên nhưng khinh công thì không. Hơn nữa, trong suốt mấy năm qua, Tiêu trang chủ đã bồi bổ cho con trai bằng trăm thứ thuốc quý nên sức lực Mẫn Hiên rất dồi dào. Thỉnh thoảng Trang chủ cho y nhịn đói vài bữa rồi mới đưa cơm canh bỏ thuốc vào, thế là y nuốt sạch. Trong đợt cuối năm nay, Tiêu trang chủ đã sử dụng đến thảo dược ngàn năm và những vị thuốc bổ, cho uống trong vòng một tháng. Đến rằm tháng mười một tới, nếu bệnh của Mẫn Hiên khả quan hơn thì được cho ra ngoài điều trị tiếp.
Những thông tin nọ đã giúp Tử Khuê bình tâm. Sau 8 năm không gặp mặt, chắc hẳn họ Tiêu chẳng thể nhận ra sự khác biệt giữa chàng và Mẫn Hiên. Vả lại, trong Từ Thạch ốc nào có ai khác ngoài chàng ! Họ bắt buộc phải tin chàng là con trai họ. Sau khi được tự do, Tử Khuê sẽ tìm cách trốn về Hứa Xương. Để đề phòng bất trắc, Tử Khuê đã học thuộc lòng “Lôi Đình bí phổ” rồi xé vụn, mỗi ngày một ít, thả vào hồ xí.
Những chén thuốc quý của Tiêu trang chủ đã giúp Tử Khuê dần dần tụ tập được chân khí, đả thông vài kinh mạch bị bế tắc. Vì rảnh rỗi và cũng vì cuộc phó ước với Nhạc Cuồng Loạn vào ngày rằm tháng hai sắp tới, Tử Khuê đã tham luyện võ công của Lôi Đình thần cung. Chẳng cần tinh thông, chàng chỉ cần nắm vững từng chiêu thức để dễ dàng đối phó. Vu Mộc chân nhân là tôn sư trong nghề phá giải võ học người khác, nên Tử Khuê không hề gặp khó khăn khi tìm cách khắc chế võ học Lôi Đình. Lạ thay, phần khinh công trong bí phổ lại có đến hai pho gồm “Lôi Đình thân pháp” và “Tiên Nữ Tùy Phong”. Tử Khuê theo khẩu quyết của pho thứ hai mà luyện thử thì phát hiện nó cực kỳ thần diệu và cũng chính là tuyệt kỹ mà Trác Thanh Chân đã thi thố. Chàng phỏng đoán đấy là sở học Hoành Sơn Tiên Nữ, vợ bé Lôi Đình Đế Quân. Hoành Sơn là một ngọn núi nhỏ vùng Tây Bắc Thiểm Tây, gần ranh giới Nội Mông. Tử Khuê ngẩn người tự hỏi:
- Phải chăng Trác Thanh Chân chính là di nữ của Lôi Đình Đế Quân và Hoành Sơn Tiên Nữ nên mới sở hữu thủ lục võ công của cả hai? Một cung nữ bình thường thì làm sao có được quyển bí kíp trị giá liên thành này?
Khi hồi tưởng lại câu nói của ả họ Trác, chàng càng tin chắc vào giả thiết của mình. Thanh Chân vốn ở Hoành Sơn với mẹ, chỉ đến Thần cung để trộm “Hắc Ngọc tiên đào”. Nàng không cư trú tại đấy nên Nhạc Cuồng Loạn không biết mặt. Khi người ta chết đi sống lại thì luôn tỏ ra bao dung, rộng lượng hơn trước. Do vậy, Tử Khuê chẳng hề trách Thanh Chân đã lừa dối mình. Chàng còn cảm thấy nhớ nhung người vợ bất đắc dĩ, một nàng tiên bé bỏng, ngây thơ.
Gần giữa tháng mười một, Tử Khuê đã khôi phục được năm phần nội lực và thông hiểu “Lôi Đình bí phổ”. Chàng cũng luyện thành pho “Tiên Nữ Tùy Phong”, khinh công tăng tiến vượt bậc. Tuy nhiên, khi thi triển nó, chàng không giống ai, dáng bộ ẻo lả như là Thanh Chân. Chiều mười bốn, Tử Khuê đoán rằng đã đến lúc nhận thuốc nên ra cửa nam chờ sẵn. Lát sau, chàng nghe có tiếng chân quen thuộc của ả tỳ nữ Tiểu Sương. Khi ả còn cách cửa gỗ chừng hơn trượng, thì Tử Khuê phát hiện thêm tiếng chân nhẹ nhàng cùa người thứ hai và người này lên tiếng:
- Tiểu Sương! Hôm nay nhà bếp cho nhị đệ ta ăn những món gì vậy?
Tiểu Sương đình bộ quay lại, vui vẻ nói:
- Bẩm đại tiểu thư! Cũng chỉ là những món thường lệ. Có điều gần đây nhị công tử ăn nhiều quá, món nào cũng chẳng chê.
Sau gần một tháng lắng nghe, Tử Khuê đã khá thông thạo tình hình của Tiêu gia trang. Chàng biết rằng nàng đại tiểu thư kia tên là Tiêu Dị An, tuổi 24, tuy xinh xắn nhưng ế chồng vì tính tình lạnh lùng, khắc nghiệt. Dị An là con của đại phu nhân đã quá cố, còn Mẫn Hiên là con của người kế thất. Thính giác của Tử Khuê cực kỳ linh mẫn, nghe được những âm thanh do Dị An gây ra khi mở lồng đậy cơm. Và ả ế chồng kia hít hà khen thơm rồi vui vẻ bảo:
- Trông ngon lành lắm. Ta rất hài lòng.
Tiêu Dị An quay gót bỏ đi, còn Tiểu Sương tiếp tục mang mâm cơm đến cửa Từ Thạch ốc. Khi ả chuẩn bị đưa mâm cơm đút qua khe, chợt lẩm bẩm mấy câu:
- Lạ thật! Sao đại tiểu thư đột nhiên quan tâm đến nhị thiếu gia thế nhỉ? Thiếu gia mà khỏi bệnh thì tiểu thư mất quyền thừa kế chứ có lợi lộc gì?
Lúc đầu, Tử Khuê không hề bận tâm đến lời nói ấy. Song khi bưng chén thuốc lên uống, chàng nhận ra ngay có mùi lạ. Sau gần ba chục chén thuốc bổ, Tử Khuê đã quá quen thuộc hương thơm của thuốc và chàng chợt nhớ đến thái độ lạ lùng của Tiêu Dị An qua nhận xét của Tử Sương. Hồi tưởng lại hành vi của anh rể Nhậm Đức Tín, chàng ngần ngại không dám uống chén thuốc. Họ Nhâm có thể vì số tài sản thừa kế mà dám bán đứng chàng thì biết đâu Dị An cũng sẵn sàng đầu độc Mẫn Hiên để giành lấy cơ nghiệp? Để kiểm chứng, Tử Khuê đưa mâm cơm vào trong đặt xuống sàn. Sau đó, chàng tìm bắt một con thằn lằn trên vách. 8 năm không quét dọn, nơi đây cực kỳ dơ bẩn và đầy bụi bậm. Trước khi phát điên, nhị công tử đã có hai mươi năm công lực dù tuổi mới mười hai. Tiêu trang chủ đã hết dạ tài bồi cho nhị công tử, dùng kỳ trân dị dược để biến Mẫn Hiên thành cao thủ. Có thể gã đã lâm bệnh vì sự ưu ái đó của cha già. Cho nên khi phát cuồng, gã thừa sức đập chết bất cứ ai vào quét dọn. Khi tiếp quản cơ ngơi ô uế này, Tử Khuê cũng không dám cải thiện môi trường vì sợ lộ. Chàng chỉ phủi sạch chỗ mình nằm ngủ. Loài thằn lằn thì chẳng quản sạch dơ, vui vẻ sinh sôi nảy nở rất nhiều, bám đầy trên tường thạch ốc. Tử Khuê vươn mình thi triển phép “tụ khí thành ti”, búng rơi một con khá lớn. Tử Khuê vận công có chừng mực nó không chết, còn cựa quậy nhưng bị ngón tay của chàng khống chế không cho nhúc nhích. Tử Khuê dùng miệng thổi một ít nước thuốc vào miệng con vật đáng thương. Khi được thả ra, nó bò loạn xạ như điên cuồng, nhưng chỉ lát sau là bất động. Tử Khuê xem xét lại, biết nó đã chết hẳn, liền buông tiếng thở dài, ngán ngẩm cho thói đời.
Nửa đêm, Tử Khuê chợt phát hiện tiếng động rất nhẹ ở hàng ô cửa nhỏ thông gió trên vách hướng đông. Chàng liếc nhanh về hướng ấy và thấy thấp thoáng ánh mắt ai đó. Biết Dị An quay lại thăm dò kết quả, Tử Khuê giả vờ ngáy đều. Dị An nghe được, thất vọng lẩm bẩm thành lời:
- Lạ thật! Chẳng lẽ Hà thủ ô ngàn năm đã phá giải được độc tính của “Cuồng Tâm tán”?
Ả bực bội buông mình xuống đất, bỏ đi mất. Tử Khuê suy nghĩ miên man đến cục diện éo le ngày mai khi phải đóng vai Tiêu Mẫn Hiên. Chàng đã tính chuyện bỏ chạy ngay khi vừa ra khỏi cửa Từ Thạch ốc. Nhưng hiện giờ công lực của chàng chỉ còn một nửa, và Kinh Túc Dương Minh Vị vẫn bị bế tắc ở huyệt Lương Khâu, phía trên đầu gối chân phải, không chạy nhanh được. Nghĩa là Tử Khuê phải ở lại thêm một thời gian, chờ hoàn toàn bình phục rồi mới ra đi. Sáng hôm sau, Tử Khuê giật mình tỉnh giấc vì tiếng ai kêu réo:
- Mẫn nhi! Con mau ra cho phụ thân xem bệnh trạng trong người thế nào?
Tử Khuê choàng dậy và súc miệng rồi mới chạy ra, chàng hồi hộp đưa tay qua khe hở trên cánh cửa. Tiêu trang chủ xem mạch rất lâu, cuối cùng nghiêm nghị nói với ai đó:
- Phu nhân! Lão phu đoán chắc rằng bệnh tình của Hiên nhi đã thuyên giảm được sáu bảy phần. Cứ uống thuốc thêm một tháng nữa là có thể đưa ra ngoài.
Thì ra Trang chủ phu nhân cũng hiện diện. Nghe trượng phu nói xong, bà bật khóc trách móc:
- Sao tướng công bảo rằng hôm nay Hiên nhi sẽ được chấm dứt cảnh giam cầm đầy đọa, mẫu tử trùng phùng? Thiếp đã quá mỏi mòn vì chờ đợi, vì thương xót con thơ, chắc không sống nổi cho đến lúc con thơ bình phục.
Tiêu trang chủ rầu rĩ biện bạch:
- Tuy thể trạng rất tốt song không hiểu sao Hiên nhi cứ lặng thinh, khiến lão phu chẳng yên tâm. Nếu thả ra ngay bây giờ, lỡ nửa đêm nó phát cuồng chạy trốn thì ai mà đuổi kịp? Lão phu phát hiện trong người Hiên nhi có đến hơn ba chục năm công lực. Xiềng xích con thơ thì lão phu chẳng nỡ, bằng như điểm huyệt thì vô ích vì năm xưa Hiên nhi đã học phép “Đạo chân xung huyệt”, tự động hóa giải chỉ sau nửa khắc.
Trang chủ phu nhân tuyệt vọng, quỳ xuống, nắm chặt tay Tử Khuê, vuốt ve và khóc lóc:
- Hiên nhi ơi! Tám năm nay lòng mẫu thân đau đớn như ai cào ai xé, lúc nào cũng mong nhớ đến con thơ, mong có ngày con tỉnh trí. Sao Hiên nhi không thương xót mẹ hiền mà thoát khỏi cảnh u mê?
Rồi bà gục mặt vào hai bàn tay Tử Khuê mà khóc ngất. Giọng bà khá giống Kỹ nương và vô cùng tha thiết khiến lòng chàng xúc động. Bất giác, Tử Khuê bật miệng, bùi ngùi nói nhỏ:
- Xin mẫu thân đừng khóc nữa!
Nghe câu nói ấy, Trang chủ phu nhân hoan hỉ phi thường, quay sang bảo chồng:
- Tướng công có nghe gì không? Hiên nhi đã nhận ra thiếp!
Tiêu trang chủ hân hoan tiếp lời:
- Lão phu cũng đã nghe rồi, để ta hỏi Hiên nhi vài câu cho rõ đã.
Ông nghiêm nghị hỏi:
- Hiên nhi! Con còn nhớ phụ mẫu danh tính là gì không?
Tử Khuê không biết vì bọn gia đinh, nô tỳ chỉ gọi là Trang chủ và phu nhân chứ đâu dám gọi tên của họ. Tử Khuê bí quá đáp lại:
- Hài nhi nhờ tiếng khóc bi ai của mẫu thân mà hồi tỉnh lại, nhất thời chẳng thể nhớ ra danh tính của song thân.
Cây nói gãy gọn hợp đạo lý này của chàng đã quá đủ để người mẹ đáng thương kia tin rằng con mình đã khỏi bệnh. Bà mếu máo hỏi chồng:
- Tướng công còn chờ gì nữa mà không mở khóa cửa?
Tiêu trang chủ cẩn thận như vậy là vì sợ bất trắc sau này. Mẫn Hiên mà thoát ra, chạy loạn xa khắp nơi thì cà thiên hạ biết ông có người con điên loạn, tổn hại thanh danh cao quý của một dòng họ mà mấy đời tập Tước Hầu. Tám năm nay, Tiêu trang chủ luôn phải nói dối người ngoài rằng Mẫn Hiên được gởi đi học võ phương xa. Dù lòng còn lo sợ phấp phỏng nhưng ông vẫn phải chiều ý người vợ trẻ đẹp, hiền thục. Nhị phu nhân Từ Lan nhan sắc phi phàm và trẻ hơn chồng đến hai mươi tuổi. Bà còn hạ sinh một nam tử là Mẫn Hiên khiến tông tự họ Tiêu không đứt đoạn. Do vậy, Tiêu trang chủ yêu thương bà tha thiết. Biết cửa sắp được mở, Tử Khuê vội nói:
- Mẫu thân à, hài nhi cần một bộ y phục.
Từ nương bật cười:
- Mẫu thân có mang theo sẵn, nhưng vì quá vui mừng mà quên mất.
Nói xong, bà đút qua khe một bọc vải có tấm trường bào gấm xanh, áo trong, đồ lót và đôi giày vải. Lạ thay, chúng khá vừa vặn dù Từ nương chưa bao giờ nhìn thấy vóc dáng Tử Khuê. Khi cửa mở toang, Tử Khuê mới hiểu ra nguyên nhân. Thân hình chàng và Tiêu trang chủ có kích thước tương tự. Chàng chưa kịp quan sát kỹ gương mặt của lão già quắc thước, râu ba chòm oai vệ kia thì bị một phu nhân áo đen ôm chầm lấy. Chàng thoáng nhận ra rằng Tiêu phu nhân khá giống mẹ mình.
Những ngày sau đó, Tử Khuê không hề gặp phải khó khăn gì. Ai cũng tin tưởng và vui mừng khi thấy nhị công tử đã bình phục, trở thành thanh niên tráng kiện, tuấn tú. Chỉ mình đại tiểu thư Tiêu Dị An là gượng cười, buồn nhiều hơn vui. Nhưng nàng không còn cơ hội để ám hại đứa em cùng cha khác mẹ nữa. Lúc nào cũng có bốn người lẩn quẩn cùng nhị công tử, bất kể ngày đêm. Họ có trách nhiệm khống chế Mẫn Hiên khi gã có dấu hiệu phát cuồng trở lại. Và Tử Khuê phát hiện ra rằng Tiêu gia trang đầy dẫy cao thủ. Từ vị Tổng quản già nua đến gã gia đinh gác cổng. Chàng không thắc mắc mà chỉ dặn lòng thêm cẩn thận.
Lòng thương con trời biển của Từ nương đã khiến Tử Khuê gọi bà là mẹ mà không hề ngượng miệng. Từ nương chăm sóc chàng như đứa trẻ thơ, luôn kề cận kể lể mọi việc trong trang, cố giúp ái tử sớm hồi phục ký ức một cách trọn vẹn. Trí nhớ của Tử Khuê thì mẫn tiệp phi thường nên chẳng hề quên cái gì cả. Chỉ sau nửa tháng, chàng đã thông thuộc tên tuổi từng người. Tất nhiên, giờ thì chàng biết Tiêu trang chủ tên gọi là Tiêu Lạp Dân, tuổi chẵn 60. Ông ta còn là Ngân Diện Hầu đời thứ tư của Minh Triều. Khi Tử Khuê giả vờ không nhớ, thắc mắc về cái tước hiệu kỳ quái ấy thì được Từ nương giải thích:
- Cao tằng tổ Tiêu Phương là một kiếm khách. Ông ta thường mang một chiếc mặt nạ che đến mũi mà hành hiệp, nên được người võ lâm xưng tụng là Ngân Diện Kỳ Hiệp. Khi Thái Tổ hoàng đế Chu Nguyên Chương tiến đánh Sơn Tây, trúng mai phục của quân Mông Cổ ở gần Tỉnh Châu, sắp mất mạng thì được Tiên Phương cứu giá. Sau đó, họ Tiêu theo phò Minh Thái Tổ cho đến khi giang sơn được thu hồi trọn vẹn. Lúc luận công ban thưởng, được phong Hầu, Tiêu cao tằng tổ đã xin cái danh hiệu Ngân Diện Hầu. Minh Thái Tổ chuẩn tấu, sai bộ công đúc một chiếc mặt nạ bằng bạc, pha thêm vàng và đồng cho cứng cáp, trên khắc dấu Ngọc Tỷ, rồi tặng cho họ Tiêu.
Bà mỉm cười kết luận:
- Hiên nhi biết không? Họ Tiêu chúng ta đã chuốc lấy khổ, vì lúc nào muốn đeo Kim bài, xưng tước Hầu, thì phải mang luôn cái mặt nạ nặng trịch, lạnh lẽo ấy. May cho ta là Hầu Tước phu nhân thì không phải mang mặt nạ.
Quen thói thân mật vui vẻ với mẹ hiền, Tử Khuê buột miệng nói đùa:
- Quả là may thật! Nếu không thì thiên hạ đã chẳng được chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt thế của mẫu thân.
Từ nương rất cao hứng vì được ái tử tán dương, song giả vờ trừng mắt mắng yêu:
- Hiên nhi chớ bẻm mép! Ta đã già nua còn đẹp đẽ cái nỗi gì nữa.
Chợt bà phát hiện mặt mình đang nóng bừng lên vì hãnh diện, vội đứng dậy mở tủ, lấy ra môt quyển sách mỏng, trao cho con rồi nói:
- Hiên nhi! Đây là bí lục võ công nhà ta, con hãy ôn luyện lại cho thuần phục để phụ thân vui lòng.
Ngoài bìa ghi bốn chữ “Tiêu gia bí kíp” song khẩu quyết bên trong giống hệt “Lôi Đình bí phổ”, chỉ khác ở chỗ không có pho “Tiên Nữ Tùy Phong”, và hai pho kiếm chưởng thì thiếu sáu, bảy chiêu lợi hại nhất. Tử Khuê kinh ngạc khôn cùng nhưng không dám để lộ ra. Vẻ mặt thẫn thờ của chàng đã khiến Từ nương ngộ nhận. Bà nở nụ cười hiền hòa và an ủi:
- Năm xưa, con đã từng thuộc lòng bí kíp này, cứ từ từ nghiên cứu sẽ nhớ lại thôi. Phần đường lối của chiêu thức, ta sẽ nhắc nhở, hướng dẫn cho.
Té ra Từ nương là bậc kỳ nữ xuất chúng, nắm vững tinh túy tuyệt học của Lôi Đình. Do bẩm sinh bất túc nên nội công chỉ có thành tựu giới hạn. Nếu không, bà đã là một cao thủ thượng thừa. Trong suốt gần một tháng trời, bà cẫn mẫn dạy cho Tử Khuê từng thức kiếm, từng đường quyền. Nhờ vậy mà chàng tiếp thu rất nhanh. Kỳ công này chẳng làm ai tán thưởng vì họ cho rằng nhị công tử chỉ nhớ lại những gì học thuở niên thiếu. Song họ sẽ kinh ngạc nếu biết chàng thông thạo võ học Lôi Đình hơn cả Tiêu trang chủ. Chàng chỉ thiếu tuyệt kỹ “Phách Không chưởng lực” vì kém hỏa hầu.
Bề ngoài, vẫn sử xự như mình chưa hồi phục trọn vẹn, ít nói và thỉnh thoảng lại mỉm cười vô cớ. Thật ra, trong lòng chàng rối như tơ vò chẳng biết giải quyết hoàn cảnh éo le này thế nào. Chàng thật tâm yêu thương Từ nương, không muốn bà phải khổ tâm thêm nữa. Và dẫu có trình bày sự thật thì cũng chẳng có ai tin, họ sẽ cho rằng bệnh chàng tái phát. Giả sử họ tin thì càng bội phần tai hại, vì chàng sẽ lấy đâu ra một gã Mẫn Hiên mà trả họ.
Cuối cùng, Tử Khuê quyết định đào tẩu trong dịp Tết Nguyên đán. Và chàng sẽ để lại một phong thư, trấn an vợ chồng Tiêu trang chủ rằng mình đi du ngoạn, mở rộng kiến văn. Về đến nhà, chàng sẽ thỉnh cho được Lỗ phán quan, hỏi cho rõ nội tình và hạ lạc của Tiêu Mẫn Hiên. Nếu gã còn sống thì chàng bắt họ Lỗ mang gã trả về Từ Thạch ốc. Tử Khuê đã nhiều lần khấn vái, gọi tên nghĩa ca mà không thấy hiện ra. Chàng thầm trách lão đem con bỏ chợ, đưa chàng vào cảnh ngộ oái ăm này.
Do từ đầu đã nuôi ý định đào tẩu nên Tử Khuê dành nhiều thời gian lang thang khắp Tiêu gia trang, tức Hầu Phủ. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương xuất thân từ chốn bần hàn, thảo mãng nên cũng có chút máu khôi hài. Khi Tiêu Phương chê tước Trung Dũng Hầu và đòi đổi thành Ngân Diện Hầu thì Minh Thái Tổ hơi phật ý. Ông ta chuẩn tấu song chơi lại bằng cách bắt họ Tiêu chỉ được xưng Hầu khi mang mặt nạ. Đeo ngân diện cả ngày thì bất tiện, nhất là lúc đông về, bạc sẽ lạnh tanh, da mặt khó chịu vô cùng. Thế nên con cháu họ Tiêu đành phải cho gia nhân, tỳ nữ gọi mình là Trang chủ.
Cố sự trên giải thích việc vì sao chủ nhân Hầu phủ lại không được bọn người nhà xưng hô là Hầu Tước Đại Nhân.
Hầu phủ của dòng họ Tiêu không nguy nga tráng lệ, song diện tích rất lớn, tường xây cao đến hai trượng, án ngữ mọi sự dòm ngó của người bên ngoài. Phía sau phủ là đại hoa viên rộng đến vài mẫu, trồng gần trăm cây Thủy Sam cổ thụ tuổi đến gần hoa giáp. Thủy Sam là loại cây thân gỗ lớn, rụng lá, thuộc họ Sam, có thể cao đến mười hai trượng. Thân chính cao thẳng, cành nhánh vươn ngay về hướng nam bắc, đông tây xen kẽ nhau giống tháp nhọn. Lá Thủy Sam có dạng dày, dẹt, mọc hai bên, nhánh nhỏ, màu lá thay đổi theo mùa. Mùa Xuân lá màu nõn chuối non tơ mềm mại. Mùa Hè lá trở nên xanh biếc mượt mà đáng yêu. Mùa Thu lá chuyển vàng, mùa Đông chuyển sang màu hồng rồi rụng dần. Thủy Sam là loại cây có sức sống mãnh liệt, tính thích ứng rộng rãi, sinh trưởng nhanh, mỗi năm cao thêm từ gang rưỡi đến bốn gang tay. Bởi vậy, Thủy Sam là báu vật trong ngành rồng rừng lấy gỗ. Thủy Sam là loại cây đặc hữu của Trung Hoa, có ở miền Đông Bắc từ nhiều ngàn năm trước. Gần năm trăm năm sau, thời nhà Minh, người ta tưởng rằng Thủy Sam đã tuyệt chủng thì lại thấy hơn một ngàn cây ở huyện Lợi Xuyên, Hồ Bắc. Tất nhiên là Tử Khuê không cần biết những điều ấy về Thủy Sam. Giờ đã là tháng chạp, nên cây chẳng còn chiếc lá nào. Chàng ngắm nhìn những cành cây trơ trụi, tưởng nhớ đến Quách gia trang, nơi cũng có vài cây như thế và chàng thầm tính toán việc trèo lên cây mà nhảy ra ngoài. Hàng Thủy Sam cuối đại hoa viên cách tường bốn trượng bằng một con đường trải sỏi phẳng phiu. Trên đường ấy, lúc nào cũng có bọn gia nhân dắt chó đi tuần cả ngày lẫn đêm. Ngoài ra còn có cả những chốt canh cố định, nhãn tuyến bao quát suốt con đường. Nếu Tử Khuê băng qua đường mà vượt tường thì sẽ bị phát hiện ngay. Và khi nhà họ Tiêu dùng chó đánh hơi mà truy đuổi thì chàng khó thoát nổi. Chàng cần vài khắc thời gian và không để đối phương biết mình ra bằng lối nào. Tử Khuê gật gù hài lòng tin rằng từ ngọn cây cao mười trượng kia chàng có thể vượt qua khoảng cách bốn trượng ra ngoài tường một cách êm thắm.
Thời điểm thích hợp sẽ là những ngày Xuân, khi người ta vui say mừng Năm Mới.
Tiếng chân người phía sau nhắc nhở Tử Khuê nhớ trở ngại cuối cùng, đó là sự giám sát của hai gã cận vệ. Sau này, Tiêu trang chủ đã yên tâm hơn nên giảm số người canh chừng xuống còn hai. Nhưng hai gã này có võ công khá nhất, cơ trí cũng tinh minh, già dặn, hành vi cẩn trọng, chu đáo.
Họ là anh em ruột, mang họ Từ do phụ thân nhị phu nhân nuôi dưỡng. Vì mồ côi còn bé, không biết cha mẹ là ai, nên hai gã này mang họ ân nhân. Từ lão gia nuôi trẻ mồ côi vì lòng nhân, chứ không phải với ý định nhận nghĩa tử, nên hai gã vẫn chỉ là nô bộc. Người giàu có rất thận trọng trong việc nhận con nuôi, để phòng hậu họa giành gia sản sau này, nhất là khi họ đã có con ruột. Lúc Từ Lan xuất giá về làm dâu nhà họ Tiêu thì hai gã cũng đi theo vì trước giờ quen hộ vệ nàng. Tuy đã chính thức là gia đinh của Hầu phủ song họ luôn giành lấy trách nhiệm bảo vệ nhị phu nhân. Về sau, Từ nương đã sai họ bảo vệ Mẫn Hiên trước khi Tử Khuê đến.
Từ Phong 39, Từ Vũ 38 tuổi, cao trung bình nhưng cơ thể rắn chắc, lực lưỡng. Tên thì hiền lành, song sắc diện lạnh như tiền, mắt loang loáng, thần sắc rất đáng sợ dù ngũ quan đoan chính, chẳng có chút dị dạng. Và dường như họ chỉ tươi cười khi tiếp cận Từ nương và Mẫn Hiên. Tử Khuê đủ trình độ để biết hai gã ấy là đại cao thủ, cả kiếm thuật lẫn khinh công. Cảm động trước lòng trung thành của họ đối với Từ nương mà chàng yêu mến hai gã. Ngược lại, phong thái đôn hâu, điềm nhiên và dễ thân cận của Tử Khuê đã chinh phục được hai anh em họ.
Trang chủ phu nhân thấy vậy hài lòng khen:
- Không ngờ khi trưởng thành, Hiên nhi lại có được tính tình dễ mến như vậy. Năm xưa ta cứ lo khi lớn lên, ngươi sẽ cao ngạo, lạnh lùng như Dị An.
Nhưng đến tối hai mươi bốn tháng chạp thì xảy ra một biến cố đã làm đảo lộn hoàn toàn những mưu tính của Tử Khuê.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, chàng đã có thể khẳng định rằng 8 năm trước, chính đại tiểu thư Tiêu Dị An đã hạ độc Mẫn Hiên bằng “Cuồng Tâm tán”. Và sau này, nếu Từ nương còn sinh nở được lần nữa thì đứa bé ấy cũng sẽ bị Dị An ám hại. Trước khi ra đi, Tử Khuê muốn đền đáp ân tình của Từ nương nên định sẽ bày cho bà cái phương pháp khôn khéo mà mẫu thân chàng đã sử dụng. Cuối canh hai, Tử Khuê đi sang phòng của Trang chủ phu nhân ở sát vách, cùng chung dãy bắc sương. Tiêu trang chủ vắng nhà đã hơn nửa tháng. Từ nương hớn hở hỏi:
- Trời lạnh căm căm sao Hiên nhi không đi nghỉ sớm, còn sang đây làm gì?
Tử Khuê ngồi xuống đôn gỗ hòa nhã đáp:
- Hài nhi buồn về thái độ lạnh nhạt của đại thư nên khó ngủ. Hài nhi mong mẫu thân lên tiếng, chia cho nàng ta một nửa gia sản để tránh cảnh nồi da xáo thịt.
Từ nương mỉm cười chua chát:
- Hiên nhi lầm rồi! Từ nhiều năm nay phần thừa kế đã được chia đôi. Dị An ghét ngươi vì muốn tranh giành chức Hội chủ Hoạch Đầu hội đấy thôi.
Tử Khuê bàng hoàng như bị sét đánh ngang tai, chết điếng cả người. Ai lại có thể ngờ đến việc Ngân Diện Hầu phủ lại là sào huyệt của tổ chức giết thuê lừng danh Trung Thổ cơ chứ? Song Tử Khuê phải mau mau trấn tĩnh, cố không để lộ sự sợ hãi và kinh ngạc tột độ của mình. Chàng đang là Mẫn Hiên, mới tỉnh táo sau 8 năm mê muội, không biết gì cả. Tử Khuê đứng lên, giả vờ đi khép cánh cửa sổ, tranh thủ chút thời gian cho sắc diện bình thường trở lại. Chàng quay lại rồi từ tốn nói:
- Mẫu thân chưa từng nhắc nhở nên hài nhi không nhớ nổi việc này.
Từ nương nhìn chàng bằng ánh mắt xót xa và bảo:
- Thật tâm ta cũng muốn Hiên nhi quên hẳn vì không nên dính dáng gì đến cái tổ chức nhơ nhớp ấy. Nhưng số trời đã định, ta không sao cưỡng lại được. Ngày mai phụ thân ngươi sẽ hồi phủ và tổ chức đại hội thường niên. Ngươi sẽ được giới thiệu với tư cách Thiếu hội chủ và tham gia điều hành sự vụ để vài năm nữa kế vị ngôi Hội chủ.
Tử Khuê nghe gáy lạnh toát, rầu rĩ khoái thác:
- Hài nhi mới khỏi bệnh, chỉ muốn được đi du ngoạn đó đây cho bõ 8 năm tù đày, chẳng muốn làm gì cho mệt trí. Mong mẫu thân nói giúp vài câu với phụ thân.
Từ nương buồn bã lắc đầu:
- Dẫu mẹ có thương con thì cũng đành bất lực vì tính nết cha ngươi vô cùng độc đoán. Tốt nhất là Hiên nhi cứ giả đò vui vẻ tham dự. Sang Xuân, ta sẽ mượn cớ về chơi quê ngoại, đưa Hiên nhi đi thăm thú những thắng cảnh Trung Nguyên.
Bà dừng lời, nhấp hớp trà thơm rồi nói tiếp:
- Còn một lý do bắt con phải làm vui lòng phụ thân, đó là tính mạng của Từ Phong và Từ Vũ. Hồi tháng chín, họ được cử đi ám sát một nhân vật ở An Dương nhưng đã không hoàn thành nhiệm vụ. Hai gã ấy chẳng nỡ ra tay vì đối tượng có đến bảy đứa con thơ nhao nhác. Dị An là người khắc nghiệt, tàn ác, lại đang chấp chưởng Hình đường, tất sẽ không tha cho họ. Chỉ có Hiên nhi là đủ tư cách cứu họ khỏi án tử.
Bà nhìn chàng với vẻ khẩn cầu:
- Từ Phong, Từ Vũ tuy là nô bộc nhưng đã lớn lên với mẹ, tình nghĩa thâm sâu. Mong Hiên nhi hãy vì ta mà cứu họ.
Tử Khuê thấy hai gã sát thủ còn giữ được lòng nhân ái vô cùng cảm phục và thương mến. Chàng khẳng khái trấn an Từ nương:
- Mẫu thân yên tâm, hài nhi đoan chắc sẽ gỡ tội được cho hai người ấy.
Từ nương hài lòng, cùng Tử Khuê trò chuyện mãi đến gần sáng mới đuổi chàng về phòng. Tử Khuê lấy cớ hỏi han nội tình rất cặn kẻ, hiểu được nhiều bí ẩn trọng đại. Thì ra, Tiêu Lập Dân là sư đệ, đồng thời là em rể Lôi Đình cung chủ Trác Ngạn Chi. Đôi lúc ông cũng muốn nghe lời Từ nương, giải tán Hoạch Đầu hội, song bị trưởng nữ Dị An phản đối. Nàng ta có hậu thuẫn là cậu ruột, tức Lôi Đình Đế Quân, nên không sợ cha mình. Càng hiểu rõ hoàn cảnh hiện tại, Tử Khuê càng thêm hoang mang, lo sợ, dù biết có trốn vế Quách gia trang cũng khó mà yên thân. Chẳng lẽ chàng cứ phải trốn tránh suốt đời, không dám lộ mặt? Nỗi buồn phiền cùng cực đã biến thành sự bi phẫn, Tử Khuê nghiến răng thề rằng sẽ ở lại, tìm cách tiêu diệt xong cái tà hội ác độc này. Đây cũng là nghĩa vụ của võ sĩ đối với giang hồ và bách tính. Chủ ý ấy đã khiến Tử Khuê bình tâm lại, thiếp đi lúc canh tư.
Quả nhiên trưa hôm sau, Tiêu Lạp Dân về đến phủ và ra lệnh triệu tập toàn bộ thủ hạ, trong tòa đại sảnh rộng thênh thang lúc đầu giờ Tuất, tối mai. Ông đã trò chuyện với Mẫn Hiên, tức Tử Khuê về đại hội này. Chàng mỉm cười đáp ngây ngô:
- Phụ thân cứ yên tâm. Hài nhi đã được mẫu thân chỉ giáo qua. Được làm thiếu chủ thì sung sướng biết bao, tha hồ ra oai với thiên hạ.
Tiêu Lạp Dân thở dài ngán ngẩm, thương cho ái tử chưa hoàn toàn bình phục, ngây thơ cứ y như trẻ con vậy. Nhưng tin vào tài y thuật của mình, Lạp Dân không lo lắng lắm. Ông hỏi han, dặn dò con trai một lúc rồi mới dời gót. Ông ta đi rồi, Tử Khuê ngồi nhìn qua song cửa hướng tây, ngắm cảnh tuyết rơi mà thương nhớ người thân nơi cố quận. Chàng hiểu rằng còn rất lâu mới được cùng họ đoàn viên.Là kẻ thuần phác, ít mưu mẹo, Tử Khuê không tài nào tìm được cách thoát khỏi mớ bòng bong này, kể cả việc làm sao mà phá tan Hoạch Đầu hội mà không khiến cho Lôi Đình Đế Quân nghi ngờ. Sực nhớ đến gã anh vợ xảo quyệt, đa mưu túc trí là Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San, Tử Khuê tạm yên lòng. Sang Xuân, chàng sẽ tìm cách rời khỏi Hầu phủ, lẻn về Hứa Xương cùng gã bàn bạc kế sách.
Tiếng tằng hắng của Từ Vũ ở bên ngoài khiến Tử Khuê chạnh lòng. Sau cuộc đàm đạo vừa rồi với Tiêu trang chủ, chàng không còn tự tin nữa. Ông đã nghiêm nghị dặn dò chàng không được can thiệp vào việc trừng phạt hai gã họ Từ. Dường như Tiêu Lạp Dân đã đoán trước được rằng Từ nương sẽ nhờ chàng gỡ tội cho họ. Phần vì lời hứa với người đàn bà bất hạnh kia, phần vì thương anh em họ Từ, Tử Khuê bóp trán tính toán, cố tìm ra phương sách. Phải chăng “đương cục giả mê, bàng quang giả tỉnh”. Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối? Cuối cùng Tử Khuê cũng có được kế lưỡng toàn, vừa cứu được họ, vừa loại trừ được kình địch. Chàng mở cửa, khoác áo cừu ra ngoài rủ Từ Phong và Từ Vũ đi dạo bằng một câu ngớ ngẩn đến mức họ phải mỉm cười:
- Này nhị vị! Ta chợt nhớ đến lũ thằn lằn trong Từ Thạch ốc, muốn đi xem chúng có mạnh khỏe không?
Tuy đang chờ án tử hình mà thần thái hai gã này vẫn thản nhiên. Có thể do họ cam tâm chấp nhận, vì không còn đường nào khác, đào tẩu thì ba tháng sau cũng chết vì kỳ độc mãn tính. Tất cả thủ hạ Hoạch Đầu hội đều bị khống chế bởi độc dược. Hoặc họ tin tưởng rằng nhị công tử sẽ vì mẫu thân mà cứu họ. Hôm nay là ngày đẹp trời hiếm hoi trong cái mùa Đông chết dẫm này. Trời vẫn lạnh, nhưng gió thổi nhẹ và tuyết rơi lất phất. Đang lúc giữa giờ Mùi, trừ những kẻ trong phiên canh gác, phần lớn người trong phủ đều ngủ cả. Cảnh vật khá tĩnh lặng, nhất là vườn Thủy Sam phía sau. Từ Thạch ốc tọa lạc ở giữa khu rừng này. Đến nơi, Tử Khuê nghiêm nghị bảo hai cận vệ:
- Nhị vị cứ ở ngoài này, cứ để ta vào một mình được rồi. Có người lạ, bọn thằn lằn sẽ không dám gặp ta.
Hai gã nhìn nhau ngao ngán, gật đầu và cố nén nụ cười. Họ vào trong chỗ bẩn thỉu, hôi hám ấy làm gì cơ chứ? Chẳng còn nhốt ai nên cửa Từ Thạch ốc không hề khóa, dù ổ khóa vẫn còn treo lủng lẳng nơi khoen. Bọn gia nhân cũng không hề có ý quét dọn cơ ngơi kỳ dị này. Nó sẽ được phá bỏ khi Tiêu trang chủ xác định rằng nhị công tử đã hoàn toàn bình phục. Tử Khuê rất hài lòng khi thấy bên trong còn giữ được nguyên trạng.
Chàng bước mau đến tảng từ thạch ở hướng Đông Nam, nơi mình tạt chén thuốc nước đã bị Dị An hạ độc. Tử Khuê không sợ bẩn vì thứ nước thuốc sắc đặc sánh, bám chặt và làm loang lỗ mặt đá. Giờ đây, những chỗ ấy cũng phủ thêm một lớp bụi mỏng. Trên sàn gạch có khá nhiều mảnh vụn của bát dĩa, muỗng đũa... những thứ ấy bị Mẫn Hiên hủy hoại. Chúng được làm bằng gỗ, khi gã hơi hồi tỉnh, không còn phá phách nữa mới được dùng đồ sứ.
Tử Khuê nhặt một mảnh bát có mép khá sắc, cạo lớp thuốc đã khô cứng trên mặt đá, tất nhiên có cả bụi bặm. Chàng hứng lấy thứ cặn bã ấy bằng một mảnh giấy đã mang theo sẵn trước khi rời phòng.
Được một nhúm nhỏ, vò chặt lại chừng hạt nhãn, Tử Khuê cho rằng đã đủ. Chàng sẽ hạ độc Dị An bằng đường hô hấp nên không thể dùng nhiều được. Số còn lại chàng để dành phòng khi hữu sự.
Tử Khuê đã hồi ức lại nội dung quyển “Huyền Hư Y Cảo” biết “Cuồng Tâm tán” lợi hại vô song, không hề để lại dấu vết và cũng không có thuốc giải. Chất độc này theo máu, công phá phần não bộ khiến nạn nhân phát cuồng, vô phương chữa trị. “Cuồng Tâm tán” là độc kỹ lừng danh của Thủy Thần Độc Vương Cao Mộng Đắc. Thần Thủy là một địa phương ở vùng cực Bắc tỉnh Thiểm Tây. Họ Cao chết đã bốn mươi năm, không người nối dõi nên võ học thất truyền. Giờ đây cái thứ vũ khí độc địa ấy trong tay Tiêu Dị An, khiến một kẻ thiện dụng độc như Tiêu Lạp Dân cũng không ngờ đến. Tử Khuê hiểu rằng độc tố đã phân tán đều trong chén thuốc, nên với một ít bụi phấn thế này thì khó mà làm cho Dị An phát điên. Song chàng hy vọng rằng ả sẽ tạm thời bị choáng váng, tâm thần hỗn loạn, không giữ được chủ ý sát hại anh em họ Từ. Để đảm bảo phần thắng, Tử Khuê dự đinh rằng sẽ ra tay nhiều lần, vì sẽ ngồi chung bàn với Dị An.
Đầu giờ Tuất ngày hai mươi sáu tháng chạp, đại hội thường niên của Hoạch Đầu hội được tiến hành, trong tòa đại sảnh phía sau quần thể Tứ hợp viện, cơ ngơi chính của Hầu phủ. Tòa nhà này mới được xây dựng chừng hai mươi năm, khi nhân số của Hoạch Đầu hội quá đông.
Từ sáng đến giờ đã có hàng trăm người lần lượt tìm đến Hầu phủ. Họ chính là thủ lĩnh của những phân hội địa phương, thường là chốn phồn vinh, sầm uất. Nơi hoang dã nghèo khó thì làm quái gì có ai đủ tiền mướn sát thủ. Thân chủ của Hoạch Đầu hội không chỉ có giới võ lâm mà phần lớn là đám thương lái, đám nhà giàu và bọn quan lại. Chỗ nào có lợi lộc thì nơi ấy có tranh giành.
Những phát minh thành tựu trong lịch sử đã chứng tỏ dân tộc Trung Hoa cực kỳ thông tuệ, cần cù và đầy sáng tạo. Đồng thời họ cũng rất thâm hiểm nên mới nổi tiếng thế giới về binh pháp và thuật quyền mưu. Người Trung Hoa đã áp dụng “Tam thập lục kế” vào cả lĩnh vực buôn bán, quan trường. Họ thích nhất là kế “Tá đao sát nhân”, mượn tay kẻ khác để loại trử kẻ địch, thù nhân. Cho nên, nghề giết mướn rất ư phát đạt ngay từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc.
Trong lịch sử Trung Hoa, Kinh Kha là hình tượng của một tráng sĩ anh hùng, bất khuất. Nhưng xét cho cùng, Kinh Kha cũng là một kẻ đâm thuê chém mướn. Người đời sau vì chán ghét Tần Thủy Hoàng mà tôn sùng Kinh Kha. Nhưng nếu họ Kinh thành công thì Trung Hoa chẳng thể sớm thống nhất, và nền văn minh không phát triển một cách nhanh chóng, rực rỡ đến thế. Tử Khuê phải cố nín cười khi thấy bên trên chiếc hương án đặt trước cạnh tường hướng bắc có bức họa tường rất lớn, vẽ một chàng tráng sĩ hiên ngang đang đứng cạnh một bờ sông.
Tử Khuê có thể đoán chắc đấy là Kinh Kha vì mé tả có bài thơ cổ bi tráng:
Phong phiêu phiêu hề Dịch thủy hàn!
Tráng sĩ nhất khứ hề Bất phục phản!

Thì ra Hoạch Đầu hội đã tôn Kinh Kha làm tổ sư, phủ hào quang lên cái nghề giết thuê đầy tội lỗi của mình.
Chẳng hiểu hằng trăm tên giết mướn kia có thật lòng tin vào sự cao quý của nghề nghiệp mình đang làm hay không? Giờ đây họ đều hướng về hương án thờ Kinh Kha với vẻ thành kính rất mực. Trông họ chẳng khác gì những thiện nam, tín nữ đang chiêm bái tượng Phật trong chùa vậy. Thích khách chứ chẳng phải đệ tử danh môn chính phái nên không có đồng phục. Họ cũng không ai đeo mặt nạ vì ai cũng mang trên vai vài ba cái án sát nhân, theo kiểu Danh Đầu Trạng của Lương Sơn Bạc. Hơn nữa, họ đều bị khống chế bằng độc dược mãn tính, có phản bội, cáo giác đồng đảng thì cũng không thể sống sót sau đó.
Sau diễn từ khai mạc và nghi lễ thượng hương bái tổ, đại hội tiến hành việc tổng kết vụ sự. Một chiếc bàn dài và ba ghế dựa đã được mang ra đặt trước hương án. Khoảng nền vách bắc cao hơn phần diện tích còn lại độ gần sải tay, giúp cử tọa có thể nhìn rõ bàn chủ tịch. Bọn môn nhân cũng được ngồi trên đôn gỗ vì hội nghị sẽ kéo dài hàng canh giờ. Nhưng trước khi cho phép thủ hạ an tọa, Tiêu Lạp Dân đã tuyên cáo việc nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên chính thức trở thành Thiếu hội chủ, sau này sẽ kế vị lão. Dĩ nhiên, ai nấy đều vỗ tay tán thành bởi “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Nhưng trong lòng họ đầy ắp e ngại vì biết chàng trai mặt mày ngơ ngáo kia đã từng điên loạn suốt mấy năm qua. Được Tiêu Lạp Dân dặn dò từ trước, Tử Khuê bước ra vái chào cử tọa và chỉ cười tươi chứ không phát biểu. Lạp Dân sợ Mẫn Hiên nói quàng nói xiên thì mất mặt họ Tiêu. Tử Khuê mang bản chất hiền lành đôn hậu nên nụ cười rất dễ mến, khiến bọn sát thủ lão luyện kia nhận ra tính nết và lập tức có tình cảm. Sau này, chàng làm Hội chủ thì bọn thuộc hạ sẽ dễ sống hơn cô ả La Sát Tiêu Dị An kia. Đại tiểu thư nhà họ Tiêu không hề xấu xí, đôi mắt lá răm và bờ môi anh đào chín mọng kia còn có vẻ đa tình nữa. Thân hình nàng cũng thon thả, khêu gợi chứ không gầy đét. Thế mà chẳng hiểu sao một ả rất mực đàn bà như thế lại có tính tình khắc nghiệt, tàn nhẫn phi thường?
Thấy ái tử được nhìn với ánh mắt tán thưởng, Tiêu Lạp Dân, tức Hội chủ Hoạch Đầu hội, cao hứng mời toàn trường an tọa. Phần ông dẫn con gái, con trai mình đến ngồi ở bàn chủ tịch. Lòng Tử Khuê vô cùng hồi hộp, quyết định ra tay sớm vì lát nữa sẽ không còn cơ hội. Chàng và Dị An sẽ ngồi hai ghế tả hữu, chính giữa là Tiêu Lạp Dân. Cho nên, khi Tiêu hội chủ vừa an vị và Dị An đang lay hoay kéo ghế, Tử Khuê búng ngay một nhúm bột đất chứa “Cuồng Tâm tán” vào mũi ả chị hờ. Tử Khuê đã dùng muỗng sứ nghiền nát số bột đất kia trở nên nhuyễn nhỏ như bụi bặm, mắt thường khó mà phát hiện. Đã quen với phép điểm huyệt bằng tia cương khí nên thủ pháp của chàng cực kỳ chuẩn xác. Chàng lại dựa vào nhịp phập phồng của bộ ngực nở nang kia mà chọn đúng lúc Dị An hít vào. Nàng ta khoác áo lông cừu ngắn song không khép vạt.
Dị An lãnh trọn số bụi tai hại ấy và lập tức hắt hơi lia lịa, khiến Tử Khuê lo ngay ngáy sợ bụi thuốc văng ra hết. Chàng thầm van vái cả Phật Tổ lẫn Tam Thanh cho mình đừng thất bại, nguy hại đến tính mạng của anh em họ Từ. Trong quá khứ, Tử Khuê đã gặp quá nhiều xui xẻo nên không còn tự tin khi làm bất cứ việc gì. Dẫu biết rằng chất độc đi vào đường hô hấp sẽ tác dụng nhanh và mạnh hơn đi vào dạ dày, song Tử Khuê lại không nắm vững được lượng độc tố cần thiết. Trà nóng đã được mang ra nhưng chén nào cũng có nắp đậy. Khi uống, người ta sẽ dùng cạnh nắp để chặn xác trà. Nhấp xong một, hai hớp thì đậy nắp cho nóng. Do vậy, Tử Khuê không hy vọng hạ thủ thêm lần nữa vào chén trà. Vả lại, việc dùng chân khí búng mạnh thuốc qua mặt một đại cao thủ như Tiêu Lạp Dân là một hành động dại dột.
Tuy luôn rén rình rập sắc diện, thần thái của Dị An, Tử Khuê vẫn theo dõi được diễn tiến của hội nghị. Lúc này, Phân hội chủ các địa phương đang trình bày với Tiêu Lạp Dân về những khó khăn, những hợp đồng chưa hoàn thành của khu vực mình đang phụ trách. Chàng sợ đến toát mồ hôi khi một lão già gầy, đầu hói, đứng lên phát biểu:
- Thưa Hội chủ! Phân hội Hứa Xương vừa phát hiện Đông Nhạc Tiên Hồ Tái Dịch Vân trong nhà lão đại phú họ Quách. Thuộc hạ đã thử đột nhập vào dọ thám thì phát hiện việc canh phòng của Quách gia trang cực kỳ nghiêm mật. Và dường như bản lãnh của bọn gia đinh rất cao cường, không thua gì những sát thủ kiêu dũng của bổn hội. Thuộc hạ cho rằng phân hội Hứa Xương không đủ sức bắt cóc ả họ Dịch, xin Hội chủ cử thêm người đến hỗ trợ.
Tiêu Lạp Dân trầm ngâm vuốt chòm râu dài và đẹp một lúc rồi mới nói:
- Lão phu rất tin tưởng vào nhãn quan sắc bén của Hồ các hạ nên lòng rất nghi hoặc. Thường thì các nhà đại phú không thể có được lực lượng gia nhân lợi hại đến mức ấy. Phải chăng Quách trang chủ là một cao thủ đã phong kiếm quy ẩn? Nếu không thì Quách gia đâu có quan hệ với một nhân vật danh tiếng giang hồ như Dịch Tái Vân? À! Thế Đông Nhạc Tiên Hồ đến ở Quách gia trang với tư cách gì?
Lão Phân hội chủ họ Hồ tên Kiệt kia lộ vẻ đắc ý:
- Bẩm Hội chủ! Tám ngày trước, thuộc hạ giả làm người cơ nhỡ đến Quách gia trang. Tuy bị chặn tại cổng để nhận bố thí, song thuộc hạ đã may mắn nhìn thấy Đông Nhạc Tiên Hồ cùng một nữ nhân nữa, hai nàng ấy đang thơ thẩn trước phía trước cửa thùy hoa. Và nếu thuộc hạ không nghe lầm thì bọn tỳ nữ gọi Dịch Tái Vân là Nhị Thiếu, còn nàng thứ hai là Đại Thiếu. Xem ra, gã Quách công tử chết tiệt nào đó quả tốt phúc. Vợ lớn của gã cũng đẹp tuyệt trần, chỉ kém Dịch Tái Vân chút đỉnh.
Nghe xong, Tiêu hội chủ tư lự bảo:
- Xem ra lai lịch Quách gia trang có điều bí ẩn, chúng ta không thể hành động hồ đồ được. Lão phu sẽ cho người đến Thần Đao bảo thương lượng lại, đòi giá gấp đôi, tức sáu ngàn lượng hoàng kim. Trong lúc này, Hồ các hạ cứ huy động anh em giám sát Quách gia trang và điều nghiên kỹ địa hình. Nếu Tần Minh Viên chấp nhận giá mới, lão phu sẽ đưa quân xuống Hứa Xương và sử dụng “Tam nhật mê hồn câu” mà tấn công Quách gia trang.
Tử Khuê chết điếng cõi lòng, thập phần lo lắng cho ái thê và người thân. Chàng bỗng có cảm giác chán ghét cả Tiêu Lạp Dân. Qua ánh mắt và chất giọng của lão khi bày mưu tính kế. Tử Khuê không tin rằng Lạp Dân có ý hướng thiện như lời Từ nương đã kể. Nghĩa là cho dù Tiêu Dị An không ngăn cản thì lão ta cũng không bao giờ chịu từ bỏ quyền lực và những món lợi khổng lồ của nghề giết mướn.
Dẫu sau này có kẻ thủ hạ không sợ chết, đứng ra cáo giác cũng chẳng đáng lo. Hầu Phủ có Minh Thư Thiết Khoán của minh Thái Tổ, bộ đầu công khai, các cấp không được vào tra xét, trừ phi xin được Thánh chỉ. Tiêu Lạp Dân có thừa thời gian để phi tang hoặc tạm lánh mặt. Chỉ vài tháng sau là kẻ phản bội sẽ chết rất êm ái, không còn nhân chứng nữa. Lão đã sử dụng hai loại độc khác nhau. Loại dành cho các Phân hội chủ có kỳ hạn nửa năm. Loại dành cho sát thủ, do thám cấp thấp thì chỉ tròn ba tháng.
Những thông tin ấy do Từ nương tiết lộ với Tử Khuê. Chính bà là người đang cất giữ hàng ngàn viên giải dược cũng như toa điều chế. Tuy gian hùng cái thế, song Tiêu Lạp Dân lại tin tưởng tuyệt đối vào người vợ trẻ đẹp, hiền lành. Tử Khuê hiểu rằng phải ngăn chặn ngay bàn tay tội lỗi của Tiêu Lạp Dân, không phải chỉ vì an nguy của Quách gia trang mà còn nhiều nạn nhân khác nữa. Nhưng dẫu sao Tiêu Lạp Dân cũng có ân đối với chàng. Nếu không nhờ ba chục chén thuốc quý có “Thiên niên Hà thủ ô” thì những đoạn kinh mạch bị bế tắc, bị đông cứng trong cơ thể chàng sẽ không bao giờ được khai giải. Mất võ công đối với người võ sĩ còn đau khổ hơn là cái chết. Hơn nữa, ám hại một người mà hơn gần tháng nay chàng gọi là phụ thân thì đáng xấu hổ làm sao! Nhưng nghĩ câu “đại nghĩa diệt thân”, vì họ Tiêu không thể chết vì lượng độc ít ỏi. Tử Khuê quyết định hành động. Chàng đã vo tròn, nén chặt độc phấn thành những viên nhỏ cỡ hạt đậu xanh. Khi sử dụng, Tử Khuê vận công nghiền nát rồi búng đi. Chàng ngồi sát mé tả Tiêu Lạp Dân nên có thể hạ thủ rất dễ dàng, bằng một lực đạo tương đối nhỏ, không hề làm xao động không gian. Tiêu Lạp Dân đang chăm chú nhìn xuống dưới, lắng nghe phân hội Phúc Kiến báo cáo. Lão chẳng thể phát hiện những động tác nhanh như chớp của bàn tay phải Tử Khuê đang đặt ngửa trên đùi.
Cũng như Tiêu Dị An, Tiêu Lạp Dân cũng hít phải phần lớn bụi phấn, ngứa mũi hắt hơi vài cái, song không hề nghi ngờ gì cả. Dẫu là người luyện võ, khi trời Đông giá lạnh, thì thỉnh thoảng vẫn bị cảm mạo, việc ấy rất bình thường.
Tử Khuê lại tiếp tục ở trong tâm trạng hồi hộp, chờ đợi kết quả. Nãy giờ, Tiêu Dị An vẫn chẳng có biểu hiện gì khác thường khiến Tử Khuê lo lắng vì bụi thuốc chứa quá ít “Cuồng Tâm tán” nên vô tác dụng hay không ? Nhưng lát sau, khi đến mục luận tội, kết án những thuộc hạ mắc lỗi, Tử Khuê đã nhận ra giọng nói của Dị An hơi run, không đanh thép như thường ngày và nhịp thở chẳng đều. Chàng mừng rỡ quan sát thật kỹ và thấy mặt ả đỏ bừng, sống mũi lấm tấm mồ hôi. Tổng cộng có đến 26 môn nhân Hoạch Đầu hội phạm phải lỗi lầm. Hai gã Từ Phong, Từ Vũ đứng đầu danh sách vì tội kháng lệnh. Số còn lại mang tội danh hèn nhát, bất lực và không hoàn thành nhiệm vụ.
Dị An đọc đến tên ai thì người ấy đứng lên, gương mặt lo âu, ủ rũ. Họ thừa biết mình nhận sự trừng phạt hà khắc đến mức nào. Nhẹ nhất cũng bị đòn trăm hèo, nằm liệt giường hai tháng. Lúc đọc được gần nửa danh sách kia thì Dị An đã dừng lại, cởi áo lông cừu. Hành động này khá bất thường vì thời tiết rất lạnh, dù cửa nẻo đóng kín và trong sảnh có hơn chục lò sưởi ấm bằng đồng và hàng tá đèn đuốc. Đọc xong, thay vì luận tội ngay thì ả lại ôm quyền cáo lỗi với cử tọa rồi lui vào nhà sau, cứ như bàng quang sắp vỡ đến nơi vậy. Lạ thay, Tiêu hội chủ cũng bắt đầu xuất hạn, đứng lên cởi bỏ áo lông cừu, trao cho ả tỳ nữ hầu trà. Sau đó, Lạp Dân ngồi xuống nghiên cứu bản danh sách bọn thủ hạ phạm quy, cân nhắc hình phạt cho từng người để lát nữa góp ý cùng trưởng nữ.
Hai mươi sáu gã bất hạnh ấy đứng trơ như phỗng, cao hơn những kẻ còn lại đang ngồi trên ghế nên phát hiện quái sự đầu tiên. Chúng không nén nổi sự kinh ngạc tột cùng, đồng thanh “ồ” lên. Kế đó, toàn trường xôn xao như vỡ chợ. Thì ra, đại tiểu thư Dị An đã ra đến, đầu tóc ướt đẫm và toàn thân không mảnh vải. Thế mà nàng ta còn tươi cười, vòng tay phân bua:
- Xin chư vị lượng thứ cho. Bổn nhân nghe người nóng nực vào tắm cho mát.
Diễn biến tiếp theo còn khủng khiếp hơn nữa, Tiêu Lạp Dân quay sang nhìn ái nữ, thay vì hốt hoảng thì lại xô ghế, bước đến ôm chầm lấy. Lão mê muội hôn hít, vuốt ve tấm thân nõn nà của Dị An với những động tác khát khao và dâm đãng. Khổ thay, Tiêu Dị An không hề phản kháng mà còn cười khanh khách đầy thích thú. Cảnh tượng loạn luân quái dị kia đã khiến toàn trường hoàn toàn chết lặng. Tử Khuê cũng bối rối đến mức chẳng biết phải làm sao. Chàng đâu ngờ thứ bột thuốc kia lại có tác dụng quái gở, khó coi đến thế? Khi Tiêu Lạp Dân thoát y, người ta mới hiểu rõ lão điên loạn đến mức định giao phối với Dị An ngay tại chốn này. Ai đó thảng thốt thét lên:
- Họ đã phát cuồng rồi!
Và từ hàng ghế đầu tiên gần nạn nhân nhất, có hai người nhảy xổ đến, khống chế huyệt đạo của hai cha con Tiêu hội chủ. Họ chính là Đường chủ Nội đường, tức lão Tổng quản Du Vinh và Đường chủ Ngoại đường Tuân Khánh. Cương vị của hai người ấy trong hội chỉ kém ba cha con nhà họ Tiêu.
Từ lâu, Tử Khuê đã biết hai lão này có võ công rất cao siêu, được Tiêu Lạp Dân xem trọng. Và hôm kia, chàng lại được Từ nương tiết lộ rằng họ là người của Lôi Đình thần cung, đến hỗ trợ cho Lạp Dân đã nhiều năm nay. Sau khi lệnh cho bọn tỳ nữ khiêng hai kẻ đã phát cuồng vào trong hậu viện. Du Tổng quản nghiêm nghị bảo cử tọa:
- Sự nghiệp của bổn hội liên quan đến rất nhiều người, không thể vì chút bệnh tình của cha con Tiêu hội chủ mà phế bỏ. Thời gian điều trị chắc sẽ khá lâu nên lão phu đề nghị đại hội tạm trao quyền Hội chủ cho Thiếu hội chủ Tiêu Mẫn Hiên.
Cơ nghiệp này vốn là của dòng họ Tiêu, toàn thể môn hạ trong đại hội đều tán thành. Tử Khuê nào muốn vướng vào vũng bùn nhơ nhớp, bèn giẫy nẫy như đĩa phải vôi, ấp úng nói:
- Kính cáo chư vị. Tại hạ trẻ người non dạ, lại vừa thoát cảnh mê cuồng chẳng bao lâu, sao có thể đảm đương vụ sự của bổn hội. Hay là Du lão cứ tạm nắm quyền Hội chủ một thời gian, chờ gia phụ bình phục?
Nghe chàng nói thế cử tọa phía dưới lập tức im lặng một cách khó hiểu. Họ chờ đợi câu trả lời của Du Vinh với ánh mắt đầy nghi hoặc. Họ Du có gương mặt tròn trịa, hồng hào trông khá phúc hậu. Nhưng tục ngữ có câu “họa hổ họa bì nan họa cốt” nên mọi người vẫn có quyền nghi ngờ Du Tổng quản thừa nước đục thả câu, nắm lấy ngôi vị Hội chủ. Việc cả hai cha con họ Tiêu phát cuồng cùng một lúc chẳng phải đáng ngờ lắm sao? Du Vinh bối rối, thở dài bảo Tử Khuê:
- Lão phu mà chấp chưởng thì lòng người không phục mà còn bị đàm tiếu nữa. Nhị công tử cứ yên tâm đảm nhận một thời gian, lão phu và Tuân lão ca sẽ hết lòng phò tá, hướng dẫn cho.
Đường chủ Ngoại đường Tuân Khánh đang xem xét những chén trà uống dở dang trên mặt bàn. Nghe họ Du nói vậy, lão bước lại và lên tiếng trình bày:
- Này anh em. Dẫu cho nhà họ Tiêu có tiền sử bệnh điên thì cũng khó xảy ra việc Hội chủ và Dị An đột nhiên loạn trí cùng một lượt. Lão phu ngờ rằng họ đã bị hạ độc bởi một thứ xuân dược cực kỳ mãnh liệt. Nhưng khi kiểm tra những chén trà, lão phu không hề phát hiện quái sự. Hơn nữa, thiếu chủ cũng cùng uống những thứ trà ấy mà không sao. Tuy nhiên, ba tách trà vẫn được giữ lại để nhờ bậc cao minh xem xét thêm. Vài ngày nữa, nếu bệnh tình Hội chủ và Dị An không thuyên giảm, lão phu sẽ đưa họ về Lôi Đình thần cung chữa trị. Còn việc điều hành bổn hội thì lão phu khẳng định rằng chỉ mình nhị công tử Tiêu Mẫn Hiên đủ tư cách. Xin chư vị chớ nên phân tâm, nghi hoặc mà ảnh hưởng đến hoạt động của bổn hội.
Tuân Khánh có dung mạo đoan chính, trang nghiêm, tính tình trầm tĩnh, ôn hòa, xử sự thì cương quyết và chu đáo. Trước giờ, họ Tuân vẫn được anh em trong hội kính trọng, nể sợ. Nay nghe Tuân Khánh phân tích sự vật một cách khách quan, rạch ròi như thế, mọi hoài nghi tan biến cả. Và có kẻ thẳng thắn nêu ý kiến, đó là chủ phân hội Thiểm Tây:
- Bẩm Tuân đường chủ! Thuộc hạ cứ thắc mắc mãi, không hiểu Hội chủ và tiểu thư bị hạ độc bằng cách nào. Trà không có độc và cơm tối thì dùng chung với chúng ta. Hơn nữa, chẳng ai có động cơ để ám hại họ cả.
Tuân Khánh đưa tay gãi sống mũi rồi nói tiếp:
- Lão phu cũng đã suy nghĩ như Hà lão đệ. Quả đúng là không có ai có động cơ và điều kiện để hạ độc. Lúc này, lão phu chưa thể khẳng định nguyên nhân, phải chờ xem diễn tiến bệnh tình của nạn nhân như thế nào.
Và lão vòng tay nói với Tử Khuê:
- Nay công tử là quyền Hội chủ, xin hãy tiếp tục chủ trì đại hội. Lão phu xin phép được ra ngoài chăm sóc Hội chủ và tiểu thư.
Nãy giờ Tử Khuê ở trong tâm trạng hồi hộp lo âu, hối tiếc vì đã hạ thủ cả Tiêu hội chủ, gây ra sự nghi ngờ to lớn. Chàng thầm trách mình là kẻ ấu trĩ, không nhìn xa trông rộng. Một mình Dị An phát cuồng thì còn được. Nay cả hai cha con đều nhất loạt loạn tâm, bảo sao Tuân Khánh không ngờ vực? Chất độc “Cuồng Tâm tán” trong máu hai nạn nhân có thể bị Lôi Đình Đế Quân phát hiện ra và lão sẽ nghĩ đến chàng. Nhưng cảm giác sợ hãi đôi lúc lại khiến người ta hổ thẹn và phẫn nộ, nhất là đối với một chàng trai mang bản chất anh hùng hiệp sĩ như Tử Khuê. Chàng liền nghĩ rằng lão Trác Ngạn Chi chết giẫm kia có gì đáng sợ, khi chàng đã tỏ tường võ công của lão.
Chủ ý ấy đã nâng đỡ tinh thần của Tử Khuê. Chàng bình tâm dấn thân chơi tiếp canh bạc dở dang. Tuấn Khanh đi rồi, Tử Khuê liền ngồi vào ghế Hội chủ và vui vẻ mời Tổng quản Du Vinh cùng mình điều khiển đại hội. Họ Du khoan khoái nhận lời, nhắc nhở tân Hội chủ xử lý cho xong việc 26 gã môn nhân phạm lỗi. Tử Khuê cầm bảng danh sách, đọc qua loa rồi đứng lên, điềm đạm tuyên bố:
- Bổn nhân trộm nghĩ rằng khi chúng ta tôn thờ Kinh Kha làm tổ sư thì cũng nên hành sự cho giống họ Kinh. Một bậc anh hùng cái thế như Kinh tổ sư chắc cũng không nỡ giết một người cha để bảy đứa con thơ phải mồ côi, không nơi nương tựa. Vậy thì xét cho cùng, Từ Phong và Từ Vũ đã hành động đúng. Còn hai mươi bốn vị kia cũng không có lỗi khi thất bại. Năm xưa, Kinh Kha cũng đâu có giết được Tần Thủy Hoàng. Tóm lại, bổn nhân quyết định tha bổng tất cả.
Không phải chỉ riêng 26 gã sát thủ phạm lỗi, hầu như tất cả mọi người hiện diện đều vỗ tay hoan hô cách ứng xử nhân từ của tân Hội chủ. Bao năm qua, Tiêu Lạp Dân đã ỷ vào thuốc độc mà bắt bọn môn nhân phải chịu đựng những quy củ cực kỳ khắt khe, tàn nhẫn. Con sâu cái kiến còn ham sống nên khi gặp mục tiêu quá khó khăn, người ta phải tháo lui để bảo toàn tính mạng. Hành vi ấy hoàn toàn hợp lý, song Lạp Dân không chấp nhận, khép tội họ và xử phạt rất nặng.
 

#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9