NHƯ ĐI TRÊN CÁT (re-posted)
Lâm Du Yên 30.09.2019 10:11:23 (permalink)
NHƯ ĐI TRÊN CÁT
Truyện dài Lâm Du-Yên
 
 
CHƯƠNG MỘT/10
 
Tối hôm ấy chờ An đứng lên ra về Di mới dám thông báo sẽ ra đi. Dù biết điều nầy phải xãy ra nhưng khi nghe, An vẫn có cảm giác đau nhói như Di cho tay vào lồng ngực An mà bóp nát trái tim An vậy.

Sáng hôm sau An vẫn chở Di đi học như thường lệ. Mắt An sưng húp còn mắt Di thâm quầng như thoa mực. Con đường ngày thường đã không dài, hôm nay càng ngắn lạ. An không nói Di cũng lặng thinh, đến cổng trường An dừng xe cho Di xuống rồi đạp xe đi luôn. Di muốn kêu lại mà cổ bỗng nghẹn ngang không cất nên lời. Cả buổi học Di không nhớ đến một chữ, lo lắng ngập lòng. Ra về Di cố đi thật chậm chờ An đến rước vậy mà về gần đến nhà mới thấy An trờ tới, vừa ngồi lên xe là An nói liền:
- Chắc An sẽ bỏ học.
- Thôi mà! Di nói như rên.
Giong nói của Di làm An phải quay lại nhìn, thấy mắt Di buồn quá An ráng cười. Nhìn nụ cười của An, nước mắt của Di nãy giờ đang thập thò bỗng ứa ra liền.
Bấy lâu nay Di cố kềm chặt lòng mình không dám thương An. Di vẫn tin rằng mình làm được vậy. Giờ sao lòng Di đau, sao tim Di nhói như bị gai đâm.
Buổi chiều Di đi học thêm đã thấy An đứng đợi sẵn bên đường. An không chở Di đến lớp mà đi vào một con đường đất mới mở. Con đường nầy xuyên qua mấy thửa ruộng hai bên không có nhà mà chỉ có mấy đám rẫy, ruộng mạ còn non và hoa cỏ dại lưa thưa. Đến một rẫy bắp đã trổ cờ An tắp vào, hai đứa vẫn ngồi trên xe. Nhìn những mảng mồ hôi lan rộng trên lưng áo An, Di thấy thương thương. Gió đột ngột thổi bạt mái tóc Di. Một vài sợi bám vào má, vào cổ An làm An nổi da gà. Di gỡ ra, vén gọn về phía sau, kẹp lại làm An nghe tiếc tiếc làm sao! An lấy thuốc ra hút, buồn gần chết vậy mà cũng ráng thổi mấy vòng khói tròn để làm le với Di. Từ ngày thương Di, An cố tỏ ra mình là người lớn: tập hút thuốc, uống rượu và còn đánh lộn nữa..
- Hồi sáng An bỏ học đi đâu vậy? Di hỏi
- Chạy vòng vòng thôi.
- Vậy sao rước Di trễ quá trời!
- Đâu có trễ tại muốn đi sau nhìn Di thôi.
- Ác ghê chưa làm Di chờ và lo muốn chết!
An chợt phát hiện Di hay chấm câu bằng chữ "chết".
- Bộ tính đi Sài gòn thật à? An hỏi.
- Thì Di phải học tiếp mà.
- Thôi đừng học nữa ở lại xin đi dạy đi.
- Rủi dạy trúng lớp An chắc mắc cỡ chêt. Di đùa.
- Đừng lo An sẽ đi lính mà.
- Ai mà nhận, An có đủ tuổi đâu.
An lặng thinh một hồi lâu rồi vừa thở dài vừa nói:
- Trời ơi giá mà An có thể cướp được của ai vài tuổi.
- Thôi đừng cướp để Di cho An, cho hết tuổi Di cũng được.
Di cố nói bằng giọng thật vui để hai đứa cùng cười vậy mà không ai cười nổi mà càng buồn rười rượi. Thật lâu An mới hỏi:
- Chừng nào Di thi?
- Còn hơn một tháng.
- Vái trời cho Di rớt đi.
- Ác ghê chưa, nếu Di rớt Di sẽ giận An, giận tới chết luôn!
Mặt trời nãy giờ cố nhón chân nhìn lén hai đứa, chừng như quá mỏi mệt nên nằm mẹp xuống chết lịm đi. Vậy mà còn cố thở hắt lên bầu trời mấy tia sáng tím tím trông rất đẹp, rất buồn... Di lấy ngón tay chọc vào lưng An rồi nói:
- Về thôi An ơi! Tối rồi.
- Ở lại chút nữa đi mà!
An móc túi lấy ra gói thuốc. Di nhăn mặt:
- Thôi đừng hút thuốc nữa An.
Nghe giọng nói có vẻ dỗi của Di, An vội cất gói thuốc vào túi áo. Giọng Di bỗng trở nên trang trọng:
- An hứa với Di một điều nha?
- Hứa cái gì?
- Bỏ hút thuốc.
- Để làm gì? Di có ở đây đâu mà...
- Di sẽ về... sẽ về mà... Di nói thật nhẹ, không hiểu là nói cho riêng mình hay nói với An.
Hai đứa cứ ngồi lặng hồi lâu. Tiếng con nhóc nhen kêu ra rả báo hiệu trời dần dần tối, không đợi Di giục thêm lần nữa An chầm chậm quay xe ra về. Con đường hầu như biến mất, chỉ còn hai hàng bắp mờ mờ lay động. Thu hết can đảm An gọi:
- Di ơi!
- Hả?
- Ôm An một cái đi!
Trời ơi! nghe cái giọng van xin một cách tuyệt vọng của An sao Di muốn khóc quá! Linh cảm về một cuộc chia tay vĩnh viễn giúp Di thắng nỗi e dè. Rồi thật chậm, thật nhẹ nhàng Di vòng tay qua eo An. Di nghe bụng An thót lại và chiếc xe chao đi. Trong lòng Di một cơn chấn động chợt manh nha rồi lan rộng và tăng dần cường độ. Cảm xúc nầy quá đẹp quá sâu lắng để kéo dài mãi mãi. Vậy ra đây là tình yêu đó sao? Sao bầu trời chung quanh không bừng sáng với pháo hoa muôn màu rực rỡ? Sao lòng Di không rộn ràng cất khúc hoan ca? Sao chỉ có bóng tối vây quanh và những giọt nước mắt cố kềm mà không được? Nước mắt của Di cứ rơi hoài rơi mãi, tràn xuống má rồi rớt lên lưng áo của An, ngấm vào da làm An cứ liên tục rùng mình...

Sáng hôm sau, Di dậy thật sớm đi bộ một mình để tránh mặt An. Di đi len lỏi theo lối chợ, cố tránh những vũng nước và những rổ hàng đang bày ngổn ngang chưa sắp đặt thẳng lối. Đi ngang qua hàng bán bông, những bông hoa mới hái còn ngậm sương, gieo vào lòng Di một cảm giác yên bình làm sao! Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai, Di quay người lại, Y nhìn Di cười:
- Sao hôm nay đi đường nầy?
- Mình kiếm mua trái Trâm. Di nói dối.
- Mùa nầy chưa có trái Trâm đâu, ăn đỡ cóc ổi đi!
- Thôi, hổng có thèm mà mua chi cho uổng tiền. À! tuần rồi Y trả bài cho thầy Tùng chưa?
- Chưa, đang rầu thúi ruột nè. Hồi tối coi tivi khuya quá rồi ngủ luôn, tính sáng dậy sớm học mà rồi dậy trễ. Học ba chớp ba sáng chưa có thuộc gì hết. Lát nữa có gì nhắc giùm nhe!
- Không được đâu, tuần rồi mình nhắc cho nhỏ Nhàn bị thầy cảnh cáo rồi đó. Thầy nói mình mà tái phạm là thầy cho một cặp zero liền.
- Bồ đừng có lo, để tui lựa chỗ đứng áng tầm nhìn của thầy, chắc chắn thầy hổng có thấy bồ đâu.
Di thở dài, vái thầm ông thầy hôm nay nghỉ dạy, hay cho nghỉ trả bài một bữa.
Đến cổng trường, Di thấy An đứng chờ mắt nhìn Di đăm đăm. Di cúi đầu đi thẳng tránh tia mắt của An, choàng vai Y nói ríu rít cho An khỏi gọi.
Giờ thầy Tùng là nghẹt thở nhất. Vì là năm thi cho nên thầy bắt ôn bài ráo riết. Yêu cầu của thầy đối với học sinh rất cao, câu cửa miệng của thầy là:
- Các em phải hiểu, nhớ và trả lời nhanh như điện mới được.
Khổ nỗi ở cái tỉnh nhỏ sát biên giới nầy điện cứ cúp thường xuyên, cho nên đa số học trò, đầu óc như ngọn đèn dầu leo lét.
Vừa vào lớp là nghe tiếng ôn bài rì rào. Mấy đứa bạn của Di mặt mũi bơ phờ vì phải thức thâu đêm để học. Đứa thì dùng thuốc thức, đứa uống cà phê đặc để chế ngự cơn buồn ngủ. Di thủ sẵn một mớ bánh và trái cây. Thỉnh thoảng An mang đến cho Di một bịt chè đậu đỏ không có bánh lọt, mấy cái bánh gan, bánh bò nướng.
Thu nhìn Di, ngáp một cái thật dài rồi nói:
- Sao tui muốn đi lấy chồng quá!
- Chi vậy?
- Khỏi thi, khỏi học bài, khỏi trả bài .
- Nghe được đó, mai làm liền đi!
Thu cười hí hí, hai đứa còn định đùa tiếp thì nghe tiếng Hí Xuân hô to:
- Nghiêm!
Thầy Minh bước vô lớp. Cả bọn ngac nhiên. Thầy giải thích:
- Thầy Tùng nhờ tôi dạy giùm. Hôm nay chúng ta học bài mới, các em học tới đâu rồi? Di nghe một loạt tiếng thở ra nhẹ nhỏm của các bạn, trong đó có cả Di.
Thầy Minh mới ra trường nên thầy còn hiền lắm, đã vậy thầy còn hay đỏ mặt và cắn môi như con gái. Lớp 12A2 tụi nó cá nhau, hễ đứa nào chọc cho thầy khóc là được bao ăn chè suốt một năm liền.
Lớp của Di cũng đầy những tay chọc trời khuấy nước nhưng may cho thầy Minh, giờ sau phải làm bài kiểm của cô Ấn cho nên chẳng đứa nào còn lòng dạ mà chọc ghẹo thầy. Trước khi ra về thầy nói :
- Lớp tụi em ngoan hiền nhất trong các lớp thầy được dạy. Sao thầy Tùng cứ căn dặn thầy là phải dè chừng, phải cứng rắn, phải thẳng tay với các em vậy?
Nhỏ Vân giả giọng thật dịu dàng:
- Đó là vì tụi em sống trong sự bất công của ông trời. Thầy ơi, hay là thầy xin đổi qua lớp em dạy luôn đi thầy.
Nhỏ Ni nói nhỏ nhưng cũng đủ thầy nghe:
- Tới chừng đó đêm nào thầy cũng gặp ác mộng.
Thầy cười rất hiền, cả lớp đứng nghiêm rồi đưa tay chào thầy theo kiểu nhà binh làm thầy vừa đi vừa cười sặc sụa.
 
Di mang nụ cười của thầy về đến tận nhà, dù mới học thầy có một lần thôi mà sao Di cảm thấy hết sức là thân thiết. Đang nghĩ lan man bỗng thằng Thống, đứa em họ, chạy đến vừa giựt vạt áo Di, vừa nói:
-Chị! cho em xin một sợi tóc đi!
-Không.
-Cho đi mà!
-Chị đã nói không cho là không cho, đừng có năn nỉ.
-Chị cho em một sợi thôi rồi bắt em làm cái gì cũng được.
Nó vừa nói vừa nhìn Di bằng tia mắt van nài trông đến tội.
-Mà em xin tóc chị để làm cái giống gì?
Nó nhón chân nói rất nhỏ vào tai Di:
-Cậu An biểu em xin tóc của chị để ráy lỗ tai cho cẩu, rồi cẩu mới kể chuyện cho em.
À thì ra là vậy! Hèn chi thỉnh thoảng nó lại lén bứt tóc của Di. Di cứ tưởng là do cái tính nghịch ngợm. Di nghe vừa tức vừa mắc cười
-Được rồi chị cho em một lần nầy nữa thôi nhe ! Mà phải đưa cho cẩu cái nầy giùm chị.
Di xé vội một miếng giấy nháp viết mấy chữ: "Có ngứa tai thì để tóc dài mà ráy, đừng có bứt tóc người ta hoài, nhức đầu lắm!", rồi lấy lược chải cho đến khi có một sợi tóc bám vào. Di gở sợi tóc quấn quanh miếng giấy rồi đưa cho nó. Nó mừng húm chụp lẹ rồi chạy ào đi liền.
Buổi chiều ăn cơm xong, Di xin phép mợ đến nhà Thu cùng học. Ba của Thu có một trại mộc nổi tiếng nhất trong tỉnh chuyên đóng kệ cho các tiệm thuốc tây. Giờ đang thịnh hành cái kiểu gỗ ép formica, năm nào Thu cũng nhờ ba làm tặng Di một cây thước thật là đẹp đem vào lớp xài. Mấy đứa bạn cứ trầm trồ rồi theo năn nỉ xin Thu làm cho giống y như vậy .
Những buổi học chung với Thu được chia đều làm ba phần : Ăn, nói, học, nói chia đều vậy chớ có khi hai đứa cứ ăn và nói chuyện miết, tới chừng nhớ ra cái mục đích chính thì...Bởi vậy má Thu cứ thỉnh thoảng nhắc chừng:
-Năm thi đó nghe tụi bây!
Phòng của Thu rất đẹp, cửa sổ rộng nhìn ra con kinh và một góc cây cầu, gió từ kinh đưa lên rất mát. Những buổi chiều nước lớn mấy đứa con nít tụ lại trên cầu nhảy đùng đùng xuống kinh để tắm, làm Di nhớ quê quá đổi. Sát cửa sổ, mấy nhánh khế nhà bên với mấy chùm quả xanh xanh, vàng vàng cứ đong đưa như trêu ghẹo. Hai đứa làm sẵn một cái móc chờ đến tối chủ nhà ngủ rồi là lén thọc. Ôi! những trái khế hái trộm, mùi vị của nó sao mà ngon đến vậy!
Thu đón Di với gương mặt có nét buồn làm Di hơi chột dạ hỏi nhỏ:
-Bộ bồ bị rầy hả?
Thu lắc đầu mắt rơm rớm:
-Ba má mình mới gây lộn.
Ba Thu thích nhậu nhẹt, mỗi lần say hay đem chuyện nhà ra cằn nhằn, bởi vậy bầu không khí nhà Thu thỉnh thoảng lại nặng nề, đầy mùi thuốc súng. Thu rất thương gia đình, là mẫu con gái á đông truyền thống, vừa đẹp lại vừa hiền. Di hay nói đùa:
-Mình là con trai là bắt cóc bồ liền.
Hai đứa thân nhau từ ngày đầu tiên Di mới chuyển trường. Thu kể vừa trông thấy Di là Thu mến ngay, may làm sao hai đứa còn ở gần nhà nữa. Thế là từ đó cái gì cũng chung: đi học chung, đi chơi chung còn may đồ chung và giống nhau nữa chứ! Thu có tính hy sinh, nhường nhịn. Thu nhường cho Di ngồi đầu bàn, vào lớp cùng lúc nhưng lúc nào Thu cũng giành lau bàn chung cho cả hai đứa và lau rất sạch. Mấy đứa bạn ghẹo, cứ kêu hai đứa là " vợ chồng tụi nó ".
Hôm nay cả hai đều có tâm trạng không vui nên mở tập ra mà chẳng thấy chữ đâu hết. Trên trang giấy hiện lên đôi mắt của An lúc nãy nhìn theo Di thật buồn với một chút dổi hờn trong đó. Di lắc đầu thật mạnh làm Thu để ý. Thu hỏi:
- Nhớ cái gì mà lắc đầu dữ vậy?
Di cười cười:
-Tại thói quen thôi chứ có nhớ gì đâu!
Rồi đánh trống lãng:
- Thu thuộc hết bảng phân hạng tuần hoàn chưa?
-Chưa .
-Để mình chỉ cho Thu cách nầy. Mình vừa đặt nó thành một bài vọng cổ ca lên là dễ thuộc lắm.
Nói rồi Di ca liền cho Thu nghe. Thu cười thôi là cười, con ma buồn nghe tiếng cười là co giò chạy mất tiêu luôn.
Gần mười giờ Di mới đạp xe lủi thủi ra về. Thu đòi anh Lộc chở để đưa Di về. Ở tỉnh nhỏ của Di mọi người đi ngủ rất sớm nên đường vắng teo. Di từ chối, đòi giận Thu mới chịu cho Di đi về một mình. Đây là khoảnh khắc mà Di thích nhất. Một mình trong đêm Di có cảm giác mình thật giàu có. Ngay lúc nầy đây Di như đang sở hữu cả trái đất và bầu trời.
Về đến nhà một bóng người đứng chờ, nép sau xe tải, sát hàng rào làm Di xúc động. Di xuống xe rồi cho bánh xe cán lên chân An. Bánh xe nảy lên rất nhẹ ...tim Di cũng nảy lên rất nhẹ...
 
Cái cảm xúc êm đềm ấy đi theo Di vào tận trong giấc ngủ, mãi cho đến sáng hôm sau vẫn thấy lâng lâng. Di bỗng ngại gặp An nên đi lại con đường ngày hôm qua, vừa vào đến cửa lớp là bị một giọng ngổ ngáo gọi giật ngược:
-Trưởng lớp, trưởng lớp, trưởng lớp...
Mỗi lần nghe gọi bằng cái "chức vụ" của mình là Di rầu ghê lắm, vì biết sắp phải nghe những lời phàn nàn trêu chọc. Không thèm quay lại nhìn Hà, Di trầm giọng:
-Cái tên nào dám cả gan kêu réo bổn quan om sòm nơi công lộ vậy hả?
Hà vừa cười hì hì, vừa phát vào vai Di một cái đau điếng, vừa nói:
-Sao không nghe nói tới cái vụ liên hoan cuối niên học gì hết vậy? Còn có mấy tuần coi chừng làm không kịp đó!
Di nhăn mặt như ăn ớt:
-Có bàn sơ sơ với mấy trưởng nhóm rồi, tính có giờ trống là thông báo liền mà bồ thấy cả tháng nay có rảnh được một phút nào đâu? Thầy, cô nào cũng bắt chạy nước rút, thậm chí cả giờ ra chơi cũng bị bắt ngồi lại học thêm, thở còn không kịp nữa là...
-Năm nay phải làm cho thật hoành-tráng-lệ à nghe, năm cuối mà!
Năm cuối mà...màu sắc chia ly như nhuộm buồn cả bầu trời và cây cỏ. Mấy cánh phượng trên cành bỗng đẹp một cách não nùng. Cả đám mây cũng trĩu nặng, trôi là đà như muốn đậu lại trên mái trường rêu phủ. Di nhìn qua hành lang đối diện, đầu giờ học mọi người đang sắp hàng vào lớp, trai một bên, gái một bên. Cái hình ảnh quen thuộc nầy ngày thường trôi tuột qua mắt Di, vậy mà hôm nay sao Di thấy bùi ngùi quá đổi.
Hà thúc cùi chỏ vào eo Di:
-Sao tự nhiên buồn hiu vậy, năm nay Di ráng đặt một bản nhạc thật hay để lớp mình hát chung làm kỷ niệm để đời nhe!
-Chắc làm không nổi đâu bồ ơi , thôi xài lại bài năm ngoái đi
-Cái bài đó hát theo điệu "Lý chim Quyên" nghe buồn thủng ruột hà!
Rồi Hà hát liền:" A một đầy, con gái hay... giởn, giởn nhiều...giởn , giởn nhiều nhưng chăm học một cây ". Đơn sắc lắm! Bồ phải viết môt bài có cả hỉ, nộ, ái, ố trong đó mới được.
Di phì cười:
-Sức mình chỉ viết nổi tới " hỉ" với "ái" thôi còn " nộ "và "ố" xin nhường cho bồ vậy .
Phượng "A" đi xâm xâm tới dúi vào tay Di cuốn lưu bút:
-Bồ là người sau cùng rồi đó, viết đi!
Đầu năm Phượng đã lo làm lưu bút, đưa Di đầu tiên. Di giãy đành đạch:
-Mới đầu năm mà lưu bút, lưu biết cái gì! Có cảm hứng đâu mà viết. Bồ đưa mấy bạn trước đi tui viết sau cùng cho.
Phượng mở cuốn sổ rất đẹp, mỗi trang đều có in chìm hình hoa lá, chỉ cho Di mấy trang đầu còn để trống:
-Tui chừa cho bồ gần chục trang, phải viết kín hết cho tui.
Di rên rỉ:
-Thật là dã man, độc ác, không còn tính người... Thôi được rồi, tui sẽ trích thơ "Chinh phụ ngâm" vào.
-Sao không trích thơ bốn chữ của Phạm thiên Thư cho nó gọn -Hà gợi ý, rồi nói thêm- Hay là thơ Haiku đi!
-Tụi mình bộ không phải là chinh phụ trong tương lai sao? Di vừa hỏi vừa đáp.
Cả Di, Hà, Phượng đều lặng người mấy giây. Một nỗi buồn tiềm ẩn, triền miên lại lộ diện. Nỗi buồn chung của những người VIỆT NAM, của đất nước, của cả một thế hệ thiệt thòi. Thế hệ của Di, con trai chờ ra mặt trận, con gái chờ làm chinh phụ rồi góa phụ. Bởi vậy gánh nặng thi cử đè nặng trên vai con gái một thì ở con trai gấp nhiều lần hơn, trên đó có cả sinh mạng của họ nữa. Như anh của Thu, rớt tú tài đôi bị động viên, vừa ra trận lần đầu là bị bắn chết liền...
Nỗi buồn cứ nán lại trong lòng Di cho tới lúc ra về, An đón Di ở góc khuất như thường lệ, thấy dáng Di ủ rủ An lo lo bèn hỏi:
-Bộ bị phạt hả?
Di cười buồn:
-An có nghe Di bị phạt bao giờ chưa?
-Vậy sao buồn quá vậy?
-Đời buồn mà, bộ An vui lắm hả?
-Vui chớ, như lúc nầy đây, An muốn được chở Di chạy vòng vòng hoài tới hết đời luôn cũng được.
-An nói thì phải giữ lời đó nghe! Tới chừng đó đừng có than sao mỏi giò mà Di không cho dừng lại .
-Chỉ sợ Di chê ngồi xe đạp không êm, đòi xuống liền thôi.
 
Ngay hôm sau Di lại vào lớp với một tâm trạng nặng nề. Cuốn tập nháp, vật bất ly thân của Di không hiểu sao biến đi đâu mất.
Quyển tập nháp ấy giống như cái nhà kho, cất giữ bao nhiêu ý tưởng lộn xộn của Di: những câu thơ què cụt, dang dở. Những lời tâm sự với riêng mình. Những bức vẻ ngộ nghĩnh v...v...Hầu như chỉ để giải tỏa, để giúp Di cân bằng sau những phút tập trung vào bài vở. Nó có mặt âm thầm mà hữu ích biết bao. Vậy mà bấy lâu nay Di hờ hững không nhận ra tầm quan trọng của nó, để bây giờ khi mất đi Di mới thấy buồn nhớ quá và ...lo nữa. Bởi nếu lọt vào tay một người nào thì một góc trời riêng của Di sẽ bị xâm lấn. Những bí mật của Di sẽ bị "bật mí". Mọi người chắc sẽ ngỡ ngàng trước những tư tưởng nổi loạn của Di, rồi chế nhạo và răn đe đủ thứ, tới chừng đó thì làm sao mà Di sống nổi đây!
Trong đầu Di bận bịu với những lo âu đến độ đi qua nhà Thu mà không hay. Thu chờ sẵn bên đường nên gọi giật ngược:
-Di, Di... bộ tính bỏ tui đi một mình hả? Rồi Thu nói tiếp:
-Bộ hồi tối thức sáng đêm hay sao mà cái mặt bồ bơ phờ quá vậy? Giống như người đang mộng du...
-Hầu như là vậy! Bây giờ mà trong tay có cái ống chỉ thời gian là mình tháo một cái vèo cho tới ngày thi liền...
Thu lật đật cướp lời:
- Còn mình thì quay ngược trở lại. Quay tuốt về cái thời bốn năm tuổi chữ còn chưa biết tới mình, mình cũng chưa biết tới nó. Rồi Thu ca:" hoa xinh khi cây chưa mọc, đời vui khi chưa đi học..."
Hai đứa cười. Di tạm vứt cái mối lo vào đống rác bên đường.
Giờ tân toán học của thầy Duy vui đáo để. Thầy hơi bị cà lăm. Mỗi khi thầy tập trung hay căng thẳng là những tiếng trùng lấp cứ đẩy lưng nhau mà vọt ra làm thầy không thắng kịp. Học trò cười ồ ồ. Thầy quen rồi nên thôi không thèm giận nữa. Hôm nay kết thúc bài giảng thầy hỏi:
- Đã... hiểu...hiểu...hiểu chưa?
Nhỏ Thư, một cây" cù" trong lớp, đáp liền:
- Dạ thưa thầy, hiểu...hiểu...hiểu mà chưa có đã .
Cả lớp cười rần rần. Thầy cũng cười hùn vô, nụ cười rất nhẹ, rất hiền. Ôi, sao thấy thương thầy quá! Thầy vừa ra khỏi lớp là nhỏ Nga cự Thư liền:
- Sao bồ nở đem cái tật của thầy ra nhạo vậy? Ngay cả bạn bè mình cũng không nên hành xử như vậy huống chi là thầy. Bồ làm vậy thầy sẽ càng mất tự tin hơn, khó kềm chế tật nói lấp hơn khi đứng trước mặt học trò.
Tưởng được khen ai dè bị nhiếc Thư xụ mặt, trả lời bằng cái giọng chua như giấm:
-Tại tui là dân ngu, tầng lớp thấp nên ăn nói bừa bải, đường đột như vậy. Đâu có xuất thân từ gia đình quý tộc làm tiểu thư nhà lớn như ai kia!
Nga là con cháu nhà họ Lê dòng họ nổi tiếng nhất ở tỉnh nầy, sống trong cái phủ to lớn mà dân địa phương hay gọi là "nhà lớn". Làm con nhà giàu cũng khổ! Nga ít có bạn, đạp xe đi học một mình, ăn mặc chỉnh chu, nói năng từ tốn đâu ra đấy, làm cái gì cũng hay cũng đúng. Nga thường được thầy, cô nêu tên để làm gương cho cả lớp, có lẻ vì hoàn hảo quá nên ít ai dám gần. Di thấy áy náy cho Nga nhiều nhất, hình như trời cho Nga gần như là tất cả nên lấy bớt lại tiếng cười cho cân xứng.
Mặt Nga đỏ rần lên, Di chạy vội lại nói nhỏ:
- Thôi bỏ đi Nga! Bạn bè không hà, còn mấy ngày nữa là chia tay rồi. Giận bây giờ là không còn đủ thời gian để hòa giải đâu, phải mang theo suốt đời cực lắm đó!
Rồi lật đật cầm trái quít Thu mới lột đưa cho chạy đến bàn Thư. Cái mặt chù ụ của Thư trông dễ thương hết biết! Di tách một múi quít nhét vào miệng Thư rồi vừa cười vừa nói:
- Ăn một miếng cho hạ hỏa đi bồ, quít ngọt lắm đó! Nuốt cục giận xuống đi để nó nằm hoài ở cổ khó thở lắm!
 
Buổi trưa...Trời rất là nóng, những tia nắng chiếu thẳng đứng, y như mấy cọc sắt khổng lồ ghim xuyên qua trái đất, bắt nó chết dí một chỗ.
Trời không có gió, cái võng mà Di đang nằm đứng im phăng phắt. Mái tóc dài của Di được kéo qua một phía, chảy dài chấm đất. Từng sợi, từng sợi nằm im ru. An vói qua song cửa nhẹ tay đẩy võng cho đong đưa, mái tóc của Di cũng bay phơ phất. Ngọn tóc quét nhẹ trên mặt sàn gỗ để lại một vệt ẩm mờ. Di mới gội đầu nên An nghe mùi chanh và bồ kết thoang thoảng. Nét mặt Di hơi cau lại, chắc Di đã thức và phát hiện sự có mặt của An nên có vẽ không thoải mái. An đưa tay đẩy võng thêm một lần nữa rồi bước trở vô nhà. Đi ngang qua cửa sổ phòng Di. An móc từ lưng quần ra cuốn tập nháp của Di nhét vào cái khe nhỏ giữa bàn và bức vách, để Di không nghi ngờ là có người đã lấy và xem trộm.
Rồi khi không một nỗi buồn đổ bộ lên An. An nhớ lại bức tranh vẽ phác của Di. Di chỉ vẽ một đôi mắt mở rất hẹp, phía dưới Di ghi mấy câu thơ:
Tên ai, viết một chữ thôi!
Gọi ai, chỉ dám máy môi thì thầm
Niềm riêng, ghì chặt đáy lòng
Nghe như lệ nóng ngược dòng vào tim...
Di đã vẽ và viết về ai? An cứ hoang mang tự hỏi, có lẽ nào đó lại chính là An. Nếu thực sự là An thì An phải làm sao để Di chấp nhận tình cảm An một cách đường đường chính chính. Tại sao Di quá chú trọng về tuổi tác và những thứ râu ria khác mà bỏ qua tấm lòng chân thật của An? Có lần Di hỏi An một cách trống lổng:
-Hồi nào vậy?
-Lâu lắm rồi!
Di cười thoáng một chút chế nhạo. Chắc Di cho rằng một gả con trai non choẹt như An mà cũng bày đặt nhón chân, vói tay khều trái cấm.
Cũng có lần An tự hỏi : Tại sao? Lúc nào? Nhưng không thể trả lời chính xác được. Chỉ nhớ là có một lần Di ngồi giặt đồ, cây kẹp ba lá bị tuột làm tóc Di xổ ra tung tóe. An đi ngang bị Di kêu giật ngược:
-An, An kẹp tóc lại giùm Di đi!
An nghe trống ngực đập đùng đùng. Cái tay cầm cây kẹp run như thằn lằn đứt đuôi nên nó cứ rớt hoài không thể làm được. Di nổi nóng giựt cây kẹp lại, rũ cho bọt xà bông trên tay rớt bớt rồi vừa kẹp tóc lại vừa nhiếc An:
-Nhờ có một chút mà cũng không xong!
Từ đó mỗi đêm An thức thật khuya, rình chờ mọi người ngủ hết rồi ra chỗ Di phơi áo dài mà hôn trộm tay áo, tà áo của Di. Mấy lần An định bỏ nhà đi lính, nhưng An chưa thi, chưa có bằng cấp, làm lính trơn thì dễ gì má Di chịu gả. An thầm trách má của mình, phải má sanh mình ra đầu tiên thì hay biết mấy .
Bên nhà Di có tiếng lao xao, hình như mấy người bạn của Di lại đến. Bạn Di đông lắm cứ đến kiếm Di liên tục nên Di chẳng có thì giờ rảnh dành cho An. An ao ước mình thỉnh thoảng biến thành con gái, tha hồ ôm Di, nắm tay Di mà không sợ Di phản đối. Còn hai tháng nữa là Di thi. An có linh cảm Di sẽ thi đậu và rời xa An mãi mãi. Mỗi lần nghĩ đến điều nầy là An nghe lòng mình đau nhói. Một cái đau rất cụ thể, như có ai đó đang cầm hai tay kéo sấp An trên con đường gắn đầy những mảnh chai nhọn hoắt.
 
(Xem tiếp CHƯƠNG HAI/10)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:45:58 bởi Lâm Du Yên >
#1
    Lâm Du Yên 04.10.2019 18:59:06 (permalink)
    NHƯ ĐI TRÊN CÁT 
    Truyện dài Lâm Du-Yên 
      
      
    CHƯƠNG HAI/10  

    Bức ảnh chụp hai chị em nắm tay đi trên cây cầu khỉ gợi cho Di một cảm xúc êm đềm.
    Di nhắm mắt và gương mặt của người chị thân yêu hiện ra rất rõ: Cái miệng hô duyên, đôi mắt với tia nhìn rất dịu, sống mũi thẳng và một nốt ruồi nằm trên má trái.
    Rồi Di lần ghép lại những mảng ký ức đầu tiên của mình. Di nhớ căn nhà sàn ở CHÂU ĐỐC, căn nhà nằm ngay ngã ba của con đường đi ngang qua trường THỦ KHOA NGHĨA. Phiá trước nhà sát lề đường là một phông tên nước công cộng. Ở đó cả ngày đều có người chờ gánh nước. Ở đó mấy cái thùng thiếc cứ kiên nhẫn sắp hàng có khi đến cả nửa đêm.
    Cạnh nhà Di là sạp báo của bà Bảy. Di lân la ở đó suốt ngày phụ bà mấy việc lặt vặt nhưng chủ yếu là coi báo "cọp". Nhờ vậy mà chưa đi học Di đã đọc và viết được. Những câu chuyện thiếu nhi ngày ấy với các nhân vật trẻ em có tên Bườm, Bê, Bốp, cu trắng, cu Đen v...v... Một thời làm Di mê say và bị đòn vì nó không ít.
    Má Di thuê lại căn nhà nầy của người dì chị em chú bác với má. (Dì phải đi theo chồng, chồng dì làm trưởng ty bưu điện được đổi về Long Xuyên). Di bắt đầu ở đây từ lúc hai tuổi. Má nuôi ba chị em Di bằng nghề nấu cơm tháng và cho học trò ở trọ.
    Căn nhà đầu tiên trong ký ức lại là căn nhà Di nhớ rõ nhất. Di nhớ như in màu lá lợp nhà đã ngã sắc đen, mục vì quá cũ nên nước mưa thấm qua, chảy xuống, có màu vàng đậm như nước trà đặc. Nhớ cái đường mương nhỏ, cong cong chạy qua từng nhà mà vào ngày mưa, trong trí tưởng tượng của Di nó biến thành một dòng suối nhỏ. Di và hai chị hay xếp những chiếc thuyền bằng giấy tập học cũ, thả xuống rồi hồi hộp chờ xem thuyền của đứa nào chạy nhanh hơn. Có lần trên đường đi học Di nhặt được một chiếc thuyền bị ướt nằm ở mép mương. Nhận ra nét chữ và biết là thuyền của mình Di mừng húm vì không ngờ nó đi xa đến vậy.
    Nhà của Di có dãy hàng rào ọp ẹp nhất vùng, được làm bằng những cọc tre chằng dây kẽm gai. Mấy bụi riềng trồng men theo giúp nó giảm bớt vẻ khô khan, gai góc. Sát cổng là cây ngũ trảo lá như bàn tay xòe mà người trong vùng hay xin để nấu nồi xông trị cảm. Một cây ổi ốm nhom, cao nhồng, trái to mấy cũng bằng cỡ quả trứng gà là hết mức. Cây ổi nầy ruột đỏ, rất thơm, rù quến cả một bầy chim suốt ngày nhảy nhót lung tung, ríu rít inh ỏi trên cành. Cạnh cây ổi là cây mận da người rất ngọt, hoa trắng xóa như vầng hào quang thu nhỏ. Trong cùng là cây nhản, dù được cưng nhất vẫn không thèm ra trái!
    Ba chị em Di cùng học ở trường "Nữ tiểu học Châu Đốc", mỗi người cách nhau hai lớp. Chị Hai và chị Ba hể gây lộn với nhau là đem mấy cô giáo ra bêu. Cây kèo nhà của Di không biết bây giờ có còn hàng chữ "Năm Hiển Ác " [Năm Hiển là tên cô giáo của chị Hai] mà chị Ba bắt thang lên viết để ghẹo chị Hai. Trước chữ "ác" là chữ "l" viết lầm bị bôi không sạch nên đọc thành "Năm Hiển lác".
    Năm Di học lớp tư cả nhà phải chuyển về quê, ở chung với ngoại để trả nhà lại cho dì.
    Nhà ngoại rộng nhất, mát nhất, đẹp nhất đối với Di, gồm ba căn liên tiếp: Căn nhà lớn gồm phòng khách, phòng thờ, phòng ngủ, rồi đến nhà cầu và nhà bếp.
    Nhà cầu không có vách, chỗ nầy mát nhất có treo một cái võng do chính tay ngoại làm bằng vải vụn. Một bộ ngựa gõ rất nặng và bóng. Một cái bàn có đặt một bộ trà với cái bình tích được ủ trong vỏ trái dừa khô để giữ nóng. Đây là chỗ để cả nhà ngồi ăn cơm và ngoại uống trà vào mỗi sáng. Căn nhà nầy nối nhà lớn và nhà bếp nên được gọi là nhà cầu. Cạnh nhà cầu là giàn rau của ngoại. Ở quê Di mỗi năm nước thường dâng ngập không thấy đất. Ngoại phải kê giàn trồng rau vừa tránh gà bươi, vừa có rau ăn quanh năm. Nhiệm vụ chính của Di thời đó là đuổi gà cho ngoại. Di hay nằm võng vừa đọc sách vừa móc chân vào sợi dây ngoại giăng từ võng ra giàn rau. Sợi dây nầy có cột mấy lon chao mỗi lần kéo mạnh va vào nhau tạo thành tiếng lẻng xẻng làm mấy con gà, con chim đang đậu hết hồn vọt mất.
    Căn nhà bếp lớn gấp đôi nhà cầu, chia làm hai khu riêng biệt. Một bên là cái bồ lúa to đùng còn một bên là lò trấu đúc bằng xi măng. Một lò nấu củi nối vuông góc với nó thành hình chữ L. Một cái ống khói bằng gạch thẻ hình vuông chui ra khỏi mái nhà, vượt lên cao hơn cả ngọn dừa, để hút khói cho cả hai cái lò. Cái ống khói nầy hầu như lúc nào cũng nhả khói vì ngoại cứ lui cui trong bếp suốt, hết nấu cơm rồi lại nấu cháo heo ăn. Chiều chiều đi học về Di hay đưa mắt nhìn lên mái nhà để kiếm vệt khói bay lên từ nhà ngoại. Cái vệt khói nhẹ nhàng, lượn lờ theo gió ấy thường gieo vào lòng Di một cảm xúc hết sức ngọt ngào, ấm áp, êm đềm...
     
    Nhà ngoại nằm giữa khoảng vườn rộng mênh mông trồng gần đủ các loại cây ăn trái. Nhiều nhất là dừa và chuối rồi đến xoài, ổi, mãng cầu, vú sữa, lồng mức, mít, bưởi...v...v...Di nhớ nhất là hai cây ổi sát sau nhà. Ở đó ngoại có giăng một cái võng mà Di là người nằm nhiều nhất. Hai cây ổi nầy trái sai lắm kéo oằn cả nhánh, nên ngồi trên võng Di vẫn có thể vói tay hái được.
    Mùa gió bấc thổi cũng là mùa xoài có trái. Mỗi lần trời nổi gió đám con nít có cả Di bu quanh gốc xoài để tranh nhau lượm trái rụng. Mấy trái xoài còn non ăn chua lè, chát ngầm. Vậy mà cả đám giành giựt, gây gổ rồi giận hờn ...
    Quê Di vườn nhà nào cũng trồng một, hai cây me vì món canh chua mà ai cũng thích. Nhà ngoại, ngoài cây me cổ thụ giữa vườn, ngoại còn trồng một hàng me sát lộ. Từ trái và lá me non ngoại chế ra nhiều món canh: canh chua lá me non nấu thịt gà, canh chua me non nấu tép ...v...v...Ngày tết dì Bảy Xuyến của Di lựa mấy trái me thật đẹp đem ngâm muối rồi lột tách vỏ bỏ hột để làm mứt. Đây là món mứt mà Di thích nhất nên hay vái thầm cho nó bị gãy hay khét khi sên để bị dì loại bỏ. Dì rất khéo nên chưa bao giờ Di được ăn cho đã miệng. Rồi me chín, khô và rụng xuống ngoại kêu anh Lơ đến hái. Cả nhà ngồi xúm xít lột me. Ngoại cho me vào cái khạp da bò rắc muối vào để dành dùng suốt năm.Tụi nít nhỏ ngày xưa khi mưa xong hay leo lên cây me núp. Chờ có ai đi phía dưới là rung cây cho nước rơi ào ào ướt áo. Trò chơi nầy hay bị mắng vốn có khi bị bắt cúi đánh đòn, vậy mà không đứa nào bỏ được.
    Ngày ấy đối với Di khu vườn của ngoại là một nơi thâm u đầy bí hiểm. Di hay tưởng tượng có những con ma núp trong bụi chuối. Khi trời nổi gió tiếng những thanh tre cọ xát vào nhau chính là tiếng nó nghiến răng giận dữ. Mỗi khi nghe là Di nổi da gà, chân quíu lại đi không muốn nổi. Mấy con chó còn tha mấy ống xương heo, xương bò bỏ rải rác làm cho Di xém ngất xỉu mỗi khi vấp phải.
    Thuở ấy Di ghét nhất là quét vườn, cứ đẩy một nhát chổi là bụi bay mù mịt. Lắm khi vừa gom lá lại chưa kịp hốt là gió thổi bay tứ tán lại phải lui cui quét lại. Có phải bởi công việc nầy mà các cụ bà ở quê Di đa số đều bị còng lưng?
    Tháng năm, tháng sáu âm lịch mùa bãi trường cũng là mùa nước lũ. Dòng nước xanh trong đã đổi thành ngầu đục. Nó không còn rì rào khi ròng, khi lớn nữa mà ào ào từ phia tây tràn xuống. Có những năm nước lớn quá nhận chìm cả cù lao trong biển nước, chợ, trường, nhà và đồng lúa lênh đênh, lênh đênh... Người lớn lo âu còn tụi Di mừng thôi là mừng, tha hồ mà đi cầu khỉ, lội nước, tắm sông, câu cá... Và nhất là bơi xuồng hái bông điên điển!
    Mùa nước cũng là mùa mà Di bị đòn nhiều nhất, vì suốt ngày xăn quần lội bì bỏm trong nước, tay cầm vợt canh xúc mấy con cá Mang rổ. Loại cá nầy rất đẹp, mình dẹp màu trắng có những sọc màu đen, màu vàng nằm xen kẻ. Có con lại không có sọc mà chỉ có những đém tròn màu đen nằm rải rác. Nó cực kỳ tinh mắt cho nên đến bây giờ Di vẫn chưa bắt được một con. Cũng chưa câu dính một con cá nào khác, dù cố thực hành các bí quyết nghe lóm được của người lớn như là: phải tóm lưỡi câu trong lúc bụng đói, không được bước ngang qua cần câu...v...v...Nói về cách tóm câu thì Di cũng dở tệ, cái lưỡi câu lúc nào cũng nằm thẳng góc với sợi dây cho nên cá chê cũng phải. Mấy đứa bạn trông thấy là chộ miết. Chỉ có một lần Di đem cá về nhà, không phải do chính tay Di câu mà của con Thẹn. Nó thấy Di câu suốt ngày không được con cá nào nên tội nghiệp xớt cho phân nửa số cá của nó. Vậy mà lần đó Di lại bị đòn nhiều nhất, làm mấy chị cứ ghẹo là Di câu được cá "đít đỏ".

    Mùa nước lũ chưa hoàn toàn chia tay là đã đến ngày tựu trường. Ngôi trường đầu tiên Di học ở quê không biết tên chính thức là gì. Nó không có hàng rào bao quanh, không có cổng và không có cả tấm bảng đề tên trường.
    Đứng trên miếng đất sát bờ sông là một gian nhà lá gồm hai phòng học với nền đất, cột tre, mái và vách lợp bằng lá dừa nước chầm lại. Những lỗ trống nhỏ chi chít trên mái và những cái to đùng nằm sát chân vách được gọi là "lỗ chó". Học trò đi trễ thường vào lớp bằng cách chui qua đó nên áo quần thường lấm lem bụi đất.
    Giữa sân trường là một cây me gốc to phải hai, ba đứa giăng tay mới giáp. Nó là biểu tượng chính của trường cho nên tụi Di được gọi là " học trò trường cây me". Vào thời đó trường chưa có đồng phục, ai có gì mặc nấy, mỗi đứa nhiều lắm là được ba bộ đồ. Những cái áo mặc hoài quen mắt được dán nhản vào người luôn. Chẳng hạn Di được gọi là "lá bồ đề". Chị Đằng mặc cái áo có những ngôi sao nhỏ xíu màu xanh, đỏ nên được gọi là" cắc kè bông ". Nhỏ Xôi mặc cái áo quằn quịt những vệt xanh, đỏ, trắng, vàng trộn lẫn nên được gọi là "tranh sơn thủy ". Đồng phục duy nhất của học trò ở quê là cái túi nhỏ đeo tòn ten trước ngực để đựng bắp rang và viết, thước...Tập vở được bọc trong bẹ cau cho khỏi ướt, khi có mưa thì lấy che đầu vì lớp học bị dột tùm lum.
    Trường nằm sát bờ sông nên ra chơi là nhảy đùng xuống tắm. Mấy đứa chưa biết lội thì ôm cây chuối tập vũng sát bờ. Mấy đứa lội giỏi thì thách nhau bơi ra xa đến giữa dòng. Tụi con gái hay gom nhau lại chơi "chị em gần xa". Trò chơi nầy là dùng trái gòn khô hoặc các vật nhẹ nổi trên nước để ném gần hoặc xa rồi bơi ra chụp. Chơi "ma da kéo giò", thi lặn coi đứa nào nín thở lâu hơn hoặc búng tay dưới nước gọi là "tôm, tép ", hể búng nghe to thì gọi là" tôm", còn nhỏ thì gọi là" tép". Ngày đầu niên học nước còn đục lắm nên khi tắm xong những cọng lông tơ trên mép bám bùn trông như có ria. Tụi Di cứ nhìn nhau là cười ngặt nghẹo. Trước khi lên bờ đứa nào cũng ráng hụp xuống thật sâu, ngữa đầu ra sau để xước cái đuôi gà cho thật đẹp. Có khi mê tắm đến nỗi thầy phải xách roi xuống lùa mới chịu đi lên.
    Quê Di thuần nông nên những món ăn vặt mang theo vào lớp thường là khoai, bắp, đậu...Đến mùa bắp cái túi trước ngực tỏa mùi bắp rang thơm phức. Tụi Di không bỏ vào miệng ăn một cách bình thường mà phải thảy từng hạt lên cao rồi hả miệng thật to hứng mới sành điệu. Mùa khoai, những củ khoai vùi tro nóng được ăn luôn cả vỏ ngọt làm sao! Rồi đậu rang, hột bí rang, cả lớp vừa viết bài vừa nhai chóp chép. Ôi! cái túi với mùi vị từng mùa ấy, bây giờ tất cả đã về đâu?
    Quê Di chỉ có con đường đất trải đá duy nhất chạy dọc bờ sông nối liền các thôn làng tới thị trấn. Nhà cửa cất dọc theo hai bên lề đường. Nhà nào cũng đặt một lu nước trước hàng ba với cái gáo dừa cán dài gát ngang trên miệng. Người đi đường mà đa số là mấy nhóc học trò thường ghé uống. Mặt đường đầy những ổ gà, ổ trâu, đến mùa mưa quần áo đứa nào cũng bị dính bùn vì trợt té hay bị xe hơi chạy ngang qua mặt bắn bùn tung tóe. Tan học ra về tụi Di ít đi theo đường chính mà chui qua mấy miếng vườn để lượm trái cây. Không biết bao nhiêu lần bị chó rượt, không biết bao nhiêu cái thẹo trên lưng vì chui hàng rào bị gai quào chảy máu!
    Môn học thủ công ngày đó không dùng giấy màu mà chỉ xài đất sét và tre. Thầy dạy nặn trái bí rợ, trái ổi, con trâu...Dạy đan mấy vỉ tre theo kiểu long mốt, long hai...Con trai lấy đất sét vo tròn phơi khô để chơi bắn đạn, con gái vót tre làm đũa, dùng mấy trái cau, ổi để chơi chuyền chuyền. Những cây súng làm bằng cọng chuối tươi rọc bỏ lá. Bẹ chuối kết làm xuồng.
    Món đồ chơi cao cấp thuở đó là chiếc tàu làm bằng cây điên điển khoét bỏ ruột, có gắn mấy con Cam, con Quít phía sau. Cây điên điển nhẹ hỏm, mấy con Cam, Quít cứ vẫy cánh liên tục, đẩy chiếc tàu chạy băng băng như có gắn động cơ. Con nít ở quê Di tự làm lấy đồ chơi cho mình. Di thường bâng khuâng không biết con búp bê bằng rơm mà Di làm ngày xưa, đã ra sao dưới mấy tầng lá mục!


    Cái tết năm Di lên chín có lẽ là cái tết buồn nhất trong suốt cả cuộc đời Di. Trước đó nửa năm ông ngoại phát bịnh, sau nầy mới biết là ung thư bao tử. Ông không ăn được rồi dần dần nằm luôn một chỗ. Năm ấy bà và dì Bảy không làm bánh mức. Cái lò tráng bánh to đùng hàng năm đến mùa nầy là lối xóm đến xài ké, ngày nào cũng ì xèo tấp nập, năm nay im ắng làm sao! Cả cây mai cổ thụ trước bàn thông thiên mỗi năm đều trổ hoa kín nhánh, năm nay cũng le hoe, xơ xác.
    Gần tết, bà ngoại dắt Di ra vườn, mang theo cái dao phay chặt lá chuối đem về gói bánh tét để cúng. Nhiệm vụ của Di là gom lá lại đem phơi. Lá hơi héo Di gom lại cho ngoại lấy cây dao chẻ cau rọc, cắt thành từng miếng lớn. Di được phân công lau hai bên mặt lá cho sạch, tước cọng chuối thành những sợi nhỏ để làm dây nức bánh. Ông ngoại Di là con út nên nhà ngoại được dùng làm phủ thờ. Ngày tết con cháu cả họ mang hoa quả, bánh mức đến viếng bàn thờ cửu huyền. Ngoại phải gói bánh thật nhiều để "lại quả" cho họ.
    Năm đó, dì Bảy cũng ráng may cho Di một bộ đồ mới. Di mặc ra nhà nội có một lần rồi xếp lại. Không còn ham đi lượm pháo và khoe tiền lì xì với bạn. Di ngồi bên giường cạnh ông rồi suốt ngày cầm cây quạt lông gà quạt mãi cho ông. Cái chết quá xa lạ nên Di chưa bao giờ nghĩ đến, vậy mà không hiểu sao những ngày ấy Di cứ quanh quẩn bên ông miết. Ông không nói được chỉ nhìn Di bằng ánh mắt mờ mờ hơi nước. Mấy ông bạn già và bà con lối xóm đến thăm, lúc đầu còn cười nói để khích lệ ông. Tiếng cười cứ thưa dần và vào những ngày cuối thì ai cũng khóc
    Buổi tối rầm tháng giêng ấy mới hơn sáu giờ chiều mà không hiểu sao Di ngủ say như chết. Mọi lần giờ đó Di vẫn còn ngồi cạnh để quạt cho ông. Con Ghết con cậu Sáu vừa khóc vừa kêu Di vậy. Mở mắt ra nghe tiếng khóc là Di biết ngay. Tim Di đau nhói và có lẽ bị tổn thương luôn từ đó. Cả gia đình của Di đều không có mặt trong giờ phút lâm chung của ngoại. Má đi buôn bán xa, hai chị đi học ở tỉnh chỉ có Di ở gần sát bên ông mà lại ngủ quên. Nhiều khi Di tự hỏi có phải đây là ý của ông trời, muốn ông ra đi nhẹ nhàng thanh thản, nên không cho ông gặp những người ông thương nhất, và thương ông nhất trong giờ phút sau cùng. Ngay tối hôm đó Di nằm mơ. Di thấy ông nằm trong hòm nhưng rồi có một người nào đó đến quì lạy thế là ông sống lại liền. Di mừng đến nổi giật mình tỉnh giấc, nghe tim đập rầm rầm...
    Ngày đám ma của ông một nỗi buồn bao trùm cả xóm. Ông của Di được mọi người yêu quí, nể trọng. Ông hay đứng ra dàn xếp những cuộc tranh chấp của bà con. Các gia đình bất hòa hoặc có con ngổ nghịch thường đến nhờ ông khuyên bảo. Ngày đưa đám của ông, thầy của Di , cũng là hiệu trưởng trường, cho học trò các lớp nghỉ học để đi đưa. Dì Bảy sai Di đem bánh ra chia cho các bạn, mấy đứa bạn nhìn Di bằng ánh mắt thèm thuồng có đứa còn nói "mầy sướng quá!".
    Kể từ ấy, niềm vui trong Di đã vơi hơn một nửa. Không còn ông để chiều chiều chở Di đi hái bông Trang, bông Điệp về cúng phật. Không còn ông, người đi mượn sách về để Di say mê đọc ké. Không còn ông, người cứ đúng ngày rầm mỗi tháng lại bắt cái ghế đẩu ra sân đặt dưới bóng cây vú sữa cho Di ngồi, để cắt cho Di một kiểu tóc" bom bê" duy nhất, để làm cho cái mặt của Di đã tròn lại thêm tròn. Cũng từ hôm ấy trong lòng Di hình thành một khoảng trống. Di hay gọi ông lúc ăn cơm, lúc bị ăn hiếp và cả lúc được nhận bảng danh dự...

    Ngoại mất rồi cậu mợ Sáu về ở chung để phụng dưỡng bà ngoại. Má Di mua lại căn nhà kiêm luôn tiệm tạp hóa của cậu mợ. Di phải giã từ nhà ngoại. Giã từ cái võng ngoài hiên với những buổi trưa dổ giấc, nằm đưa kẽo kẹt. Giã từ cái phòng ngủ tối om làm Di sợ ma, tối ngủ cứ kéo mền trùm kín cả đầu. Giã từ mấy kẻ ván sàn hay nằm rình chờ xem heo đẻ. Giã từ cái nhà cầu với những bữa cơm gió thổi vào mát rượi, với giàn rau sát bên để khi đang ăn ngoại hay nghiêng mình vói tay ra hái ớt.
    Căn nhà của má Di nằm kề sông, cạnh lộ và kế bến đò. Má đặt một chỏng tre bên lề đường cho những người ngồi chờ đò nghỉ chân cùng bày bán mấy thứ rau quả cây nhà lá vườn. Sát bên nó là cái khạp da bò chứa được gần hai đôi nước có cái nắp bằng ván. Một cây cọc tre ốm nhom, có cái gáo dừa cặp kè một bên như hình với bóng. Cái chỏng nầy giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của Di. Ngày nào cũng có người ngồi ở đó chờ đò. Biết bao câu chuyện Di đã được nghe. Biết bao giấc mơ Di đã dệt về một miền xa xôi, do những người đi xa ghé qua kể lại.
    Di còn nhớ về một bà cụ đã già lắm, không biết bà đã bao nhiêu tuổi. Bà có hai hàm răng trống lổng, mái tóc bạc phơ và cái lưng còng gập, làm cho Di vô cùng thương cảm. Cách vài tháng bà lại đến ngồi ké trên chỏng để chờ đò. Di hay giành giả trầu trong cái ống ngoáy, đổi mớ tiền xu đựng trong cái túi vải ra tiền giấy giùm bà. Bà có cô con gái lấy chồng làng khác. Mỗi lần đến thăm cổ lại chẻ ống tre tặng bà số tiền xu bỏ ống để dành. Vừa kể Di nghe bà vừa cầm chéo khăn chậm hoài đôi mắt.
    Lên lớp nhì Di học ở ngôi trường cách nhà hơn ba cây số. Học cả hai buổi nên ngoài cặp sách còn kèm thêm cái gà mên đựng cơm trưa, không chỉ mình Di mà có hơn nửa lớp ở lại. Thỉnh thoảng đang giờ học, bỗng nghe mùi cá kho khô thơm phức là biết ngay có bạn đang ăn vụng. Thế là cả lớp lao xao. Nhiều lần thầy phải ra tay, bắt thủ phạm quì gối khoanh tay mồm ngậm viết.
    Ôi ! những buổi cơm trưa tại lớp sao mà ngon lạ ngon lùng! Thường chỉ là cơm với cá kho quẹt, khô nướng hay trứng vịt chiên, kho hoặc luộc giầm nước mắm thôi ! Trống vừa điểm, thầy còn chưa ra khỏi lớp là cả bọn lật đật mở nắp gà mên liền. Di có một cô bạn tên Thu Lan, học không giỏi nhưng có uy nhất lớp vì nhà bạn ấy bán thịt heo. Cái gà mên của bạn ấy là mục tiêu số một của tụi Di, đứa nào cũng tranh nhau đổi thức ăn cho bạn ấy. Cái gà mên của Di là mục tiêu số hai vì má Di kho cá rất ngon, tụi Di hay đổi thức ăn với nhau. Hôm nào có bạn nghĩ học vì nhà có đám là bọn Di mừng lắm! Biết chắc hôm sau sẽ được ăn ké món ngon, có khi còn được chia thêm bánh, trái nữa.
    Và Di cũng nhớ về một bạn trai ngồi bàn chót dãy bìa mà tụi Di đặt tên là "bàn cờ". Bạn ấy thường mặc cái áo có miếng vá rất to kẻ sọc như bàn cờ tướng chiếm gần hết lưng. Bạn nầy tuyệt đối không cho ai đụng hay nhìn vào gà mên cơm và luôn luôn ngồi ăn thui thủi một mình
    Đậu đệ thất vào trường công lập, cái cảm giác lần đầu mặc áo dài thật ngọt ngào làm sao! Di cứ nôn nao như mình sắp đến cái xứ sở diệu kỳ đầy hoa thơm trái ngọt. Má thưởng cho Di đôi giày xăng đan trắng, dặn dò phải giữ gìn cẩn thận. Lúc đầu mới mang đi ngang mấy vũng sình, Di lột giày cầm tay rồi kiếm vũng nước trong rửa chân mang lại. Sau bị chọc quê quá đành mang luôn, thế là bị má rầy là không biết giữ của. Những ngày đầu Di đi học bằng xe đò đến trường nhưng rồi cực quá phải ở nhà trọ. Lần đầu tiên Di thấm thía ý nghĩa của hai từ " nhớ nhà". Có những buổi chiều nhìn đám lục bình xuôi theo con nước về hướng nhà mình, Di chỉ muốn nằm lên trên đó cho nó đưa về. Mỗi chủ nhật về thăm nhà một lần, khi đi là khóc nên nhiều khi phải bị đòn .
     
    Có một kỷ niệm về ngôi trường trung học đầu tiên ấy mà mỗi khi nhớ lại Di cứ thấy bùi ngùi.
    Hôm đó là chiều thứ bảy. Di gói sẵn chiếc áo bà ba để khi tan học, thay áo ngắn đón xe về thăm nhà luôn và được ngủ với má thêm một đêm. Chờ các bạn ra hết Di mới gài cửa lại thay đồ. Khi đi ra, trường vắng lặng chẳng còn ai. Ở cổng trường có một chiếc xe kéo tay chở một cái thùng to có vẻ rất nặng. Nó được một cụ ông cong lưng kéo và một cụ bà còng lưng đẩy. Gương mặt và phần thân trên của hai cụ nằm song song với mặt đất. Di cố gắng nghiêng đầu để nhìn, bắt gặp trên hai gương mặt ấy hằn sâu nét khắc khổ với hai đôi mắt có tròng đen bạc thếch. Chạm mắt vào đấy Di có cảm giác như chạm tay vào cục nước đá. Nó thiếu vắng sinh khí, thiếu vắng niềm vui và cũng không có cả nỗi buồn. Nó trơ ra và trơn tuột mà không một cảm xúc nào có thể bám vào. Nó làm lòng Di trĩu nặng mà ngay cả niềm vui sắp gặp má cũng không giúp Di nguôi ngoai được. Lúc đó Di mới hiểu, tại sao năm xưa khi Di giả làm người mù chống gậy đi ăn xin đã bị má đánh nhiều đến vậy.
    Chủ nhật tuần sau Di đón xe qua tỉnh để thăm chị Ba. Má gửi chị ở nhà cậu để đi học. Chị mừng lắm moi tiền để dành ra đải Di món chuối bọc nếp nướng chan nước cốt dừa, món mà Di ưa nhất. Một ông lão gánh cái đòn dài đi ngang nhà, chị kêu lại. Di nghe tiếng mợ rầy chị:
    -Dao còn bén mới mài hôm kia mà Lệ.
    Chị không trả lời, len lén mang mấy cây dao còn sáng trưng ra đưa cho ông mài, rồi móc tiền túi của mình ra trả.
    Di có hai người chị tánh tình khác biệt. Người chị thứ nhất của Di đẹp, buồn và nghiêm nghị. Chị có một tính cách rất đặc biệt:trung thực một cách cực đoan, không nói dối, không tìm cách thân mật hay làm vui lòng mọi người, không thích bộc lộ tình cảm. Và hình như chị chỉ thương mỗi mình ông ngoại. Sau nầy khi lớn và biết suy tư. Di tự hỏi có phải má đã hoài thai chị trong một nỗi thất vọng và cô đơn trong hôn nhân, nên giọt máu trong người chị phảng phất mùi vị của nỗi buồn. Di ít được chị âu yếm và trong suốt thời gian chung sống ít bao giờ dám nhỏng nhẽo với chị. Còn người chị thứ hai ...Ôi ! người chị thứ hai của Di...
    Người chị thứ hai ấy đối với Di bao gồm cả bốn chức năng, vừa làm mẹ, làm chị, làm bạn và làm người rửa tội cho Di nữa!
    Còn điều gì mà Di không thể chia sẻ được với chị? Từ tội lỗi nhỏ xíu như ăn vụng, nói dóc... Cho đến những chuyện rất thầm kín về những rung động đầu tiên. Những bí mật động trời mà chỉ có nói với chị, Di mới cảm thấy yên lòng và nhẹ tội. Chị chứa hết những nỗi hoài nghi, bất mãn, ăn năn, ray rức ấy rồi tiêu hóa tất cả giùm cho Di. Có lẽ vì thế nên gương mặt chị phảng phất một nét buồn rất thánh thiện. Tâm hồn thì chị thật ngọt ngào, êm dịu để có thể dung hòa cái tính bốc đồng sôi nổi của Di. Và như thể má đã biết trước tính cách của chị, nên từ đầu đã đặt cho chị cái tên Lệ ấy.
    Chị của Di có một nét buồn rất thơ và tính cách trong veo như giọt nước mắt. Chị là người có một tấm lòng vô cùng nhân hậu. Trong ba chị em chị là người chịu thiệt thòi nhiều nhất. Lúc nhỏ, mỗi lần má cho bánh kẹo, Di lật đật ăn hết rồi xin thêm phần chị. Chưa bao giờ chị từ chối Di điều gì, đức hy sinh, vị tha, trung thực đã thể hiện nơi chị rất sớm. Ấy vậy mà đời chị lại vô cùng bất hạnh. Chị là người làm ra cái bánh hạnh phúc rồi mang đi tặng. Chị không đòi hỏi và chưa ai tặng lại chị món gì. Di thường hay ví von chị là bức tranh đẹp, bị treo lệch nên không được thưởng thức và đánh giá đúng mức. Chị của Di là một hạt giống ưu việt bị ông trời gieo một cách lơ đãng và hờ hững làm sao!
    Chị còn là một người rất tài hoa nữa. Năm học đệ ngũ chị có làm một bài thơ. Chị đọc cho Di nghe mà đến giờ Di chỉ nhớ được có mấy câu :

    Chiều nay đi hoang
    Nghe hồn dừng lại
    Chìm xuống thật sâu
    Nơi ấy có gì?
    Những gương mặt gỗ
    Những song sắt tù
    Và người với ta
    sống trong khuôn sáo
    sống trong cương tỏa
    Một ngày, một ngày
    Vẫn mãi cách xa...

    Ôi! hai bờ xa lộ song song dài
    A ha! vĩ tuyến mười bảy
    Chiều nay cầu đã gãy rồi...

    Khi hai chị em còn ở với má. Chị hay dựa theo những vở kịch, cải lương nghe trên radio rồi viết lời thoại . Chị rủ mấy đứa con nít trong xóm và Di nữa để làm thành một buổi diễn. Tụi Di lấy bột mì của má bán để làm phấn. Lấy giấy hồng đơn gói nhang ngậm vào miệng làm son. Lượm mấy cái bông mặc nưa, ô môi... nhỏ li ti xâu lại làm vòng đeo tay, đeo cổ. Di còn nhớ hai vở diễn thường xuyên nhất là " Lâm Sanh Xuân Nương " và "Phạm Công Cúc Hoa". Chị cho Di đóng vai chính, chị toàn làm dì ghẻ và má chồng vì hai vai đó không đứa nào chịu nhận. Sân khấu là cái bộ ngựa [đi văng] ở nhà trước. Chị giăng cái mùng để làm màn, đến lúc hát thì vắt mùng lên giả bộ như kéo màn. Chỉ là đám con nít quèn diễn thôi mà người lớn trong xóm Di cũng kéo đến xem chật nít !
     
    Giữa năm đệ lục Di quá giang anh Kiệp con bác Hai đi học. Ảnh học cùng lớp với Di, cũng không chịu ở nhà trọ nên được bác mua cho chiếc Honda đam để chạy đi, chạy về. Thế là mong ước của Di thành hiện thực, lại được ăn cơm má nấu mỗi ngày và chấm dứt "nỗi buồn gác trọ".
    Hồi thời đó giữa con trai và con gái hình thành một khoảng cách, ít đứa con gái nào dám ngồi sau lưng một đứa con trai vì sợ bị cho là thiếu nết na. Di với anh cùng họ, bà con gần xịt, trong lớp đứa nào cũng biết vậy mà Di cũng mắc cỡ quá trời! Hể anh chở là ngồi một bên rồi cứ tấn cái cặp to đùng ở giữa. Tội nghiệp ông anh, bị nóng cái lưng mà không dám nói, lâu lâu đang chạy lại nhỏm người lên cho mát một chút.
    Cuối năm đệ ngũ, một tai nạn xãy ra. Ảnh né chiếc xe phu lích, bay vèo xuống sông, Hai anh em té lăn cù. Thế là má quyết định cho Di chuyển trường, sang Châu đốc ở nhà cậu học tiếp. Lúc nầy chị Ba đã về Long Xuyên ở nhà Dì Sáu đi học cùng chị Hai.
    Tựu trường năm ấy mưa nhiều lắm! Ngày đầu tiên Di vừa đi đến cổng thì mưa đột ngột ào tới. Di lật đật chạy vào mấy túp liều bên ngoài ở lề đường sát trường để đụt. Những túp liều nầy được thương phế binh xây một cách vội vàng, tạm bợ bằng cây, lá, giấy cạc tông và mấy tấm vải bằng nhựa.
    Di ghé vào một căn để đụt mưa. Một người đàn ông còn trẻ bị cụt cả hai chân, ngồi trên giường ôm đứa con chưa đầy một tuổi cho người vợ chiên bánh tai yến bán. Gương mặt cả hai còn ủ dột hơn cả bầu trời. Những giọt nước từ mái hiên bắn vào trong chảo tạo ra tiếng lèo xèo, người phụ nữ vừa né vừa tiếp tục công việc, cái mâm bánh đầy dần lên mà chẳng ai ghé vào mua. Lòng Di trĩu nặng, nỗi nhớ trường, thầy cô và bạn cũ ùa đến, cộng với bối cảnh chung quanh làm Di không cầm được nước mắt. Di mua mấy cái cái bánh rồi không chờ mưa tạnh hẳn mà bỏ đi liền.
    Trường mới của Di lớn, đẹp nhờ có những hàng cây phượng và me tây tàng rất rộng. Hai dãy hành lang dài thăm thẳm, vào những giờ học im vắng đến chạnh lòng. Khi chuông reng lại vỡ òa ra như một đàn ong trắng, bị ném đá vào tổ nên xua nhau bay tán loạn.
    Ngày đầu trong ngôi trường mới Di được một cô bạn có cái răng khểnh rất dễ thương cho ngồi chung. Nụ cười của bạn dành cho đến bây giờ Di vẫn nhớ !"Thu ơi!". Cho dù vậy Di vẫn cảm thấy vô cùng lạc lỏng. Di nhớ thầy cô và bè bạn bỏ lại biết bao. Mang mặc cảm học trò trường quê nên Di trở nên thụ động. Từ một học sinh giỏi ở trường cũ Di bị tụt xuống học sinh trung bình. Hè năm ấy quyết tâm lấy lại thành tích. Di mua một bộ sách về nhà tự học. Năm lớp mười, Di làm một cú đột phá ngoạn mục, đứng nhất lớp luôn.
    Học sinh ở đây đa số đi học bằng "lô ca chân", Di cũng vậy dù nhà cách trường đến hơn ba cây số. Con đường từ nhà đến trường mới đẹp làm sao! Chạy dọc bờ sông với hai bên lề là những cây me cổ thụ hiền từ dang tay che nắng. Gió thổi lá me rơi như mưa. Những đám lá nằm im dưới đất thêm một lần hồi sinh, cuốn lên như sóng rồi chìm dần, chìm dần...Vào giờ tan học con đường như được mây trời đáp xuống, tràn ngập một màu trắng. Tội nghiệp mấy bác chạy xe lôi vừa đạp xe vừa quát "dô, dô" liên tục.

    Di yêu lắm căn nhà ngói xưa, nằm sát nhà thờ của mợ. Cái sân trước được hưởng bóng mát no nê từ cây vú sữa xum xê lá. Nó rất rộng, chứa đến ba, bốn chiếc xe lôi của bà Tư làm nghề cho thuê xe ở phía sau để nhờ, mà còn thừa ra một khoảng trống rất lớn.
    Hiên nhà với hàng lan can bằng gỗ thấp sơn màu xanh. Tấm bạt che nắng may bằng những cái bao cát nối lại với nhau. Cái võng ni lông máng chéo qua hai cây cột. Mái ngói bám rêu với nhiều miếng bị xô lệch, bởi mấy con mèo hàng đêm đuổi nhau chạy rào rào trên đó. Cái bàn rất to và dài kê sát cửa sổ, nơi mà mỗi tối Di đều ngồi học. Cái sàn nước phía sau với cái hồ nước to đùng, được đúc kín chỉ chừa một lỗ nhỏ vừa một người chui vào để súc hồ. Cái hồ nối với máng xối có rây lọc rác để hứng nước mưa, nên suốt mùa mưa, mợ không cần thuê chị Cống gánh nước
    Một cây cầu gỗ cặp sát bên hông nhà. Cây cầu nầy bề ngang vừa đủ cho một người chạy xe đạp qua. Nó dẫn vào nhà bà tư và nhà của An. Mấy cây đinh đóng bị long ra, nên mỗi lần có người đi là kêu lạch cạch. Di thường lắng tai nghe rồi thử đoán là tiếng bước chân ai.
    Tính hay mơ mộng nên cái võng ngoài hiên thân thiết với Di biết nhường nào. Những lúc buồn hay giận mợ Di hay ra đó nằm. Đóng cánh cửa sau lưng rồi bỏ tấm bạt xuống là có được chỗ trú cho riêng mình. Tha hồ mà đắm chìm vào tâm trạng được bi đát hóa lên rất nhiều lần, cho đến khi nước mắt chảy ràn rụa. Có khi đang khóc chợt có một giọng nói thật nhẹ cất lên "sao vậy?". Câu hỏi mang ý an ủi ấy, giúp Di cảm thấy nhẹ lòng rất nhiều!
    Cái tỉnh lỵ sát biên giới mà Di đang ở hầu như luôn nhuộm một vẻ biếng lười, uể ỏai. Buổi sáng nhìn ra đường, mấy bà nội trợ xách giỏ nhởn nhơ. Một vài chiếc xe lôi có khách hay không đều chạy thong dong. Người bán hàng ăn cất tiếng rao đều đều như còn ngái ngủ, có người kêu lại là rút cái ghế ngồi xề xuống liền rồi vừa bán vừa cà kê chuyện vãn. Cảnh nhộn nhịp chỉ có ở bến xe , bến đò mà chỉ khi đò, xe cập bến.
    Những tối trời mưa thì lại càng ủ dột. Con đường trơn ướt vắng tanh chỉ có đứa bé bán bánh mì trùm áo mưa, chừa mỗi đôi mắt cất tiếng rao như gào: "Ai bánh mì nóng giòn, bánh mì lò đầu đây". Cái tiếng rao như trách ấy làm Di mũi lòng làm sao, nên vừa mới ăn cơm cũng kêu lại mua giùm một ổ. Rồi nằm võng, ngắm mưa và gậm bánh mì. Một đôi khi An lén leo qua hàng rào rồi hù rất to làm Di giật mình chới với, đã vậy còn nài nỉ xin chực một miếng. Đó là những khoảnh khắc kỳ diệu: mưa khơi cảm xúc, mưa rì rào như nói thay những điều thầm kín. Mưa che bớt mắt nhìn và giúp cho một người dám xít lại gần hơn với một người.
    Cuối mùa mưa cây vú sữa bắt đầu có trái. Bông vú sữa nhỏ xíu, tim tím bay lã lướt trong gió đẹp ơi là đẹp. Cứ sáng ra nhìn hoa rụng đầy sân là Di đau lòng hết sức. Rồi bông kết trái, ban đầu là những trái bé li ti, tròn xoe xanh mướt như hột bông tai bằng cẩm thạch của má. Chúng lớn dần bằng trái banh ten nít rồi chuyển từ màu xanh sang tím thẫm. Đó là lúc Di trèo lên cây hái và ngồi ăn tại chỗ. Lại chuyền từ cành cây xuống mái nhà, lót tay sau đầu nằm nhìn lên bầu trời. Một cảm giác tự do, nhẹ nhàng, thanh thản tràn ngập. Di cố duỗi người ra tận hưởng cho đến khi nghe tiếng mợ gọi. Khi trèo xuống vào nhà mới phát hiện mủ vú sữa đã bám dính khắn, căng cả môi phải lấy dầu hôi chùi hoài mới hết.
    Tựu trường mỗi năm Di đều mang một chồng tập qua nhà An để nhờ trang trí vì chữ của An rất đẹp. An thì nhờ Di sửa lại cái áo mới hẹp hơn, vì thời đó con trai có cái mốt mặc áo bó sát người.
    Ngày đầu đi học bao giờ cũng có cảnh hổn chiến giành bàn. Tội nghiệp Thu chắc đã dậy từ rất sớm, khi Di vào lớp đã thấy Thu dành sẵn cho hai đứa bàn nhì dãy giữa.
    Năm lớp mười hai để tiết kiệm thì giờ thỉnh thoảng Di để cho An chở giùm. Ngồi sau lưng An mà trống ngực đập đùng đùng cứ sợ bạn bè bắt gặp. Mợ cho Di mượn chiếc xe đạp Bờ Rô mà mợ rất quí, vậy mà Di cũng làm mất. Đó cũng là lần đầu tiên Di cảm nhận một nỗi buồn, chán, thất vọng, căm phẩn...trổi dậy trong lòng mình một cách vô cùng mãnh liệt!
     
    (Xem tiếp CHƯƠNG BA/10)
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:46:51 bởi Lâm Du Yên >
    #2
      Lâm Du Yên 04.10.2019 19:02:23 (permalink)
      NHƯ ĐI TRÊN CÁT  
      Truyện dài Lâm Du-Yên  
         
         
      CHƯƠNG BA/10 

      -Di ơi! Ra mà xem cái nầy ngộ lắm nè!
      Thư vừa nói vừa chạy ào vào lớp, kéo tay Di lôi xềnh xệch. Di đang viết bài chưa kịp bỏ cây viết xuống là bị áp tải luôn. Thư một tay dắt, một tay đẩy lưng Di ra cây Phượng trước cửa lớp. Ở đó gần một chục đứa con gái lớp của Di và lớp A2 kế bên, đang chen nhau nhìn chăm chăm vào thân cây Phượng trước mặt. Thư vẹt đám bạn sang hai kên kéo Di ra hàng đầu. Bây giờ Di mới vỡ lẽ. Ngay dưới tấm bảng nền đen với hàng chữ màu trắng: "Cấm không được bẻ nhánh và khắc chữ vào thân cây", một chữ D hoa khắc như hình nốt nhạc. Nó được lồng trong cái khuôn hình vuông với bốn đường thẳng và bốn hoa thị, giống cái chuồng giăng dây kẽm gai. Không cần nhìn sang Di cũng cảm nhận được mắt Thư đang nhìn Di chăm chú, cố chụp hình phản ứng của Di. Da mặt Di hơi căng ra một chút rồi cố tạo vẻ tự nhiên nói:
      -Cái tên nào dám gải mũi thầy Hoàng vậy ta!
      Thầy Hoàng là tổng giám thị của trường, thầy rất khó, áp dụng kỹ luật không nương tay. Di rùng mình khi nghĩ hình phạt mà thầy dành cho thủ phạm, nhẹ lắm là cấm túc, còn nặng nhất là mời phụ huynh vào thông báo và tạm thời bị đuổi học. Cái phiền hà nhất là nỗi lòng thầm kín của đương sự sẽ bị lộ, bị đem ra chế giễu. Cái người con gái có phúc kia sẽ trở thành vô phúc hết chỗ nói. Bị phê phán, chê bai vì ở vào thời của Di chuyện bồ bịch được coi là hành vi thiếu đứng đắn.
      -Cái thằng cha Lương Sơn Bá nầy vậy mà gan cùng mình đó nghe! Thư không chịu nổi đánh thẳng vào trọng tâm luôn. Di giãy nảy :
      -Sao bồ biết là y ta? Bộ trường nầy chỉ có một người tên bằng chữ D đầu? Mà cho dù có như vậy đi nữa cũng chẳng mắc mớ gì để mà phô bày cả.
      Chẳng là Di và cái anh chàng ấy cùng học thêm toán lý với thầy Khương. Cả hai đều ngồi đầu bàn của hai cái bàn kê gần sát, đã vậy còn xài hai cây viết giống hệt nữa. Bởi vậy mà bạn bè chọc miết. Cái anh chàng nầy ốm nhom, cao nhồng, mặt mũi xanh xao. Y bị cho là có cái tướng chết yễu nên được gán biệt danh là Lương Sơn Bá. Di thì bị gọi là Chúc Anh Đài. Kể từ đó hai bên tránh nhau muốn chết, mỗi người nhìn mỗi hướng thế mà cứ bị trêu đủ trò. Có lần Di ngồi bỏ bép thu chân lên ghế, chừng ra về chiếc dép mất tiêu. Không hiểu làm cách nào mà chui vô cặp của anh chàng ấy. Thế mà y ta vẫn không hay biết, tới chừng cất tập mới thấy và mang ra trả lại cho Di. Tụi bạn theo dõi bắt được tại chỗ, liền hát ghẹo " thương nhau cởi dép cho nhau..." làm Di tức và quê muốn độn thổ luôn.
      Thư nghe Di trả lời như vậy liền làm ra vẻ đồng tình đáp:
      - Ừ hén ! chắc hổng phải ba cái chuyện tỏ tình, tỏ tiếc gì đâu! Chắc cái thằng cha nào bán ba cái thuốc di tinh, mộng tinh... gì gì đó, thấy trường nầy gái đẹp, trai đông nên tính kẽ bảng quảng cáo thuốc. Chắc bị phát hiện nên mới viết có chữ D là chạy mất mạng.
      Mấy đứa bạn đứng xung quanh cười rần rần. Di tức cành hông mà nghe Thư nói cũng phải bật cười.
      Ra về Di tìm cách né Thu đi một mình để gặp An. Di nhìn An bằng tia mắt soi mói, bộ dạng của An làm Di càng thêm quả quyết. Di tằng hắng rồi nói:
      - Hổng biết cái tên ba trợn nào khắc chữ D lên cây, làm tụi bạn đoán mò rồi chọc Di quá trời!
      - Đoán đúng tên người đó hông?
      -Có gì đâu mà đúng với không?
      -Vậy Di có vui hông?
      -Bực mình gần chết chớ vui cái gì?
      Nhưng rồi khuya hôm ấy, Di trằn trọc mãi mà không sao ngủ được. Hình ảnh một người con trai cặm cụi, lén lút đưa mũi dao nhọn gọt từng mãng vỏ cây để tỏ tình một cách thầm lặng ấy làm Di xao xuyến quá! Di thầm nghĩ đêm nay, tất cả những nữ sinh có cái tên bằng chữ D đứng đầu, chắc sẽ rêm hết cả trái tim và cũng thao thức như Di vậy.
       
      Sáng sớm hôm sau, Di vừa đặt chân đến cửa lớp chưa thấy mặt đã nghe tiếng Hà léo nhéo:
      -Cô mình trúng số Di ơi!
      Di mừng húm hỏi :
      -Trúng bao nhiêu?
      -Mười ngàn
      Cô Ấn ở trọ nhà dì của Hà, bởi vậy nhất cử nhất động nhất động của cô tụi Di đều biết. Tụi Di biết cô thích ăn canh chua và cá lóc kho tộ. Biết cô rất sợ chuột. Biết cô có một người yêu đã tử trận cho nên dù chưa có chồng, cô vẫn đeo chiếc nhẫn vàng mười tám nhỏ xíu ở ngón tay áp út.
      Tụi Di thương cô nhất. khác những ông thầy dạy toán rất đường bệ, hay la lối học trò. Cô của Di nhỏ bé, hiền khô, nói năng nhỏ nhẹ. Mái tóc cắt tém vẫn không làm giảm bớt vẻ mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính trên gương mặt cô. Cô ít khi cười. Có lần tụi Di hè nhau gắng sức ghẹo cô, lần đó cô cười nhiều lắm ! Tiếng cười cô rất trong, rất giòn bộc lộ một chút tinh nghịch mà cô vẫn còn giữ lại. Gia đình cô ở Sài Gòn, cô ra trường rồi về đây dạy và ở lại luôn từ đó đến giờ.
      -Bộ cô mình mua vé số dữ lắm hả? Di hỏi
      -Đâu mà có! Tuần rồi cô về thăm nhà, đi qua bắc Vàm Cống có bà già bán vé số mời cô mua giùm. Cô thấy tội nghiệp bả quá nên mua giúp thôi!
      -Vậy là chút nữa phải xin cô bao lớp mình một chầu mới được. Nhưng mà mấy bồ đừng có phổ biến nghe. Mấy lớp khác mà biết tụi nó đều đòi cô khao, chắc cô thâm thêm tiền túi quá!
      Cô vừa vào lớp là tụi Di đứng nghiêm chào rồi không chịu ngồi xuống, cô hỏi:
      -Muốn cái gì nữa đây?
      -Tụi em chúc mừng cô. Nghe tin cô trúng số tụi em reo hò đến khô cả cổ, cô cho tụi em ăn cà rem đi cô! Hà trả lời.
      -Chà tin tức bay nhanh thiệt, được thôi, nhưng mấy em phải học cho đàng hoàng thì cô mới đãi đó!
      -Hoan hô cô! cô là số một trong lòng tụi em đó cô ơi!
      Cả lớp lao nhao, rồi cái không khí rộn ràng ấy kéo dài suốt giờ học của cô.
      Chuông ra chơi vừa reng một cái là Hí Xuân lật đật bế cửa liền. Thư, Hà, Tâm cột áo dài leo qua cửa sổ. Lớp của Di nằm ở dãy sát đường nên ăn quà vặt rất dễ. Cạnh hàng rào có mấy xe cà rem , kẹo kéo... Đậu bên lề đến giờ chơi là cứ rung chuông miết. Cả lớp kết thân với thằng bé bán cà rem mà tụi Di đặt tên là Còi. Thằng bé nầy đèo đọt hết mức. Mười bốn tuổi mà nó chỉ mang tầm vóc của đứa lên mười. Nó đẩy chiếc xe cà rem cao đến ngực, mặc một cái áo cũ không thể cũ hơn được nữa. Giờ học nó đứng bám hàng rào ghé mắt nhìn vào lớp một cách thèm thuồng trông rất tội. Bởi vậy tụi Di hể có dịp được thầy cô bao là hay ăn cà rem giúp nó.
      - Cho bốn mươi lăm cây đi cưng ! Hà gọi một cách hâm hở. Thằng bé mừng muốn phát khùng, vừa rút mấy que kem dài sọc vừa gật đầu lia lịa. Cả bọn chuyền tay nhau. Hà đưa cho Thư, Thư chuyền cho Tâm, Di nhoài người ra cửa sổ tiếp nhận rồi đưa cho mấy đứa bạn chen đầy phía sau. Que đầu tiên thơm ngạt ngào mùi mít. Ni mang liền đến cho cô rồi mời:
      -Cô ăn liền đi cô! để lâu nó chảy dính áo đó!
      Tụi bạn bắt đầu lao xao:
      -Ê đổi cho tao đi tao thích ăn đậu đỏ.
      -Dẹp! Tao cũng vậy .
      -Con nhỏ nầy hên ghê ta ơi trúng được cây cà rem mít.
      -Tại nó mít ướt quá mà, bởi vậy người nào của nấy!
      Cả bọn vừa ăn vừa chọc nhau, mười lăm phút ra chơi bay vèo như tên bắn.
       
      Chuông reo ra về, đợi cô ra khỏi lớp là Di thông báo liền:
      -Mấy bạn ơi! ở lại một chút để tụi mình bàn chuyện tổ chức liên hoan.
      Thu kề tai Di nói nhỏ:
      -Bồ cho tui về trước nghe, bữa nay má tui nấu bún nước lèo.
      Di nghiêm mặt:
      -"Quân pháp bất vị thân", bồ mà hó hé là tui trảm trước làm gương liền, nói thiệt đó!
      Thu xìu xuống, mặt y như cái bánh bao chiều. Lớp trở nên náo động với bao nhiêu lời phản đối và góp ý xen lẫn:
      -Đói bụng gần chết mà bàn cái gì!
      -Thiệt bất nhơn hết chỗ nói giờ nầy mà còn bắt họp. Tui mà về trễ là bị đòn oan uổng biết bao nhiêu!
      -Di ơi! Ráng làm màn chót nầy thiệt đẹp để nhớ đời nghe!
      Di xách theo cây thước đập mạnh lên bảng cho các bạn im lặng rồi nói như hét:
      -Như mọi năm tụi mình chia ra ba nhóm, một lo ẩm thực, hai lo trang trí, ba lo mua quà và viết thiệp mời thầy cô. Các bạn năm ngoái ở nhóm nào thì năm nay giữ nguyên vị trí, các trưởng nhóm cũng y như năm cũ, chịu hông?
      -Chịu.
      Thư đưa tay:
      -Tui có ý kiến, năm nay danh sách thầy cô nên bổ sung thêm. Tui dề nghị mình mời tất cả các thầy cô đã dạy tụi mình từ trước đến giờ vì đây là dịp mình chia tay và nói lời tri ân với thầy cô. Các bạn có đồng ý hông?.
      -Đồng ý! Cả lớp hưởng ứng nhiệt liệt .
      -Không ngờ nhỏ Thư hôm nay ăn nói đàng hoàng ra phết nhỉ? Hà trêu
      -Trời ơi! nó thức cả đêm để soạn rồi đứng soi gương tập cả buổi mà, chỉ còn có dịp nầy thôi bỏ qua rất uổng! Phượng thêm vô.
      -Năm nay mình đải món gì Di? Ngân hỏi
      -Tui đề nghị mình nhờ má Thu nấu món gà nấu cam như năm ngoái đi, món đó ngon, năm rồi ai cũng khen. Kim Hồng góp ý.
      -Thôi mình làm món khác đi, thật là đặc biệt mà không ai có thể nghĩ và bắt chước được. Ni nói một cách hào hứng.
      -Xứ mình nổi tiếng về mắm hay là ta đải mắm bảy món?
      -Thôi mình làm thịt chó đi bảo đảm hổng ai dám bắt chước đâu.
      -Sao mình hổng xài thực đơn của Từ Hi Thái Hậu. Có món óc khỉ và chuột lắc ngâm thuốc bắc bổ hết biết, thầy cô xơi là giảng bài khỏe re.
      Mỗi người chêm một câu trào lộng, lớp của Di toàn là hậu duệ của" Cù Thị" nên mỗi lần họp là Di rầu lắm! Có cảm giác như mình là thằng bé chăn dê cứ lùa con nầy vô chuồng xong là con kia tốc chạy ra ngoài.
      Di nói to để át mấy cái mồm đang cười hí hí:
      -Đừng giỡn nữa mấy bạn ơi! Tui có bàn với mấy nhóm trưởng rồi. Thực đơn như sau: vịt nấu chao- món nầy nhờ má Thu đảm nhiệm- chả giò săn quít tôm, gỏi bò bóp thấu. Hai món sau tụi mình làm ở nhà Ánh như mọi năm, tráng miệng ăn quít cho gọn.
      -Tui có ý kiến, món tráng miệng mình nấu chè đậu khoai cao đi để tụi mình đứa nào cũng đậu cao hết trọi. Thư nói
      -Bồ mà có ăn hết cái rẩy khoai cao thì cũng leo lên cái hạng bình thứ là hết mức! Hà ghẹo
      -Sao bồ biết? Thư cự có mòi phật ý.
      -Thôi đừng giỡn nữa mà! Làm ơn cho ý kiến đàng hoàng giùm để không kịp giờ đó! Di lật đật ngắt ngang ngòi nổ.
      -Quà của thầy cô cũng sổ tay như mọi năm hả? Hí Xuân hỏi
      Di lắc đầu:
      -Năm nay tui định tụi mình hùn tiền nhiều hơn một chút. Tặng quí thầy cô mỗi người một cây viết Hê rô có khắc chữ "12 A1 Kính tặng". Mấy bồ thấy có được hông vậy?
      -Tui đề nghị tụi mình tặng cho mỗi thầy một đồng hồ OMEGA, còn mỗi cô một chiếc nhẩn hột xoàn. Thư lại nổi máu "Cù thị" lên.
      -Ừ, trước đó mấy ngày mình lại nhà nó đánh cướp tiệm vàng của ba nó là dễ thôi! Hà nói thế vì nhà Thư là tiệm kim hoàng.
      -Đánh cướp chi cho phiền phức. Tụi mình bắt cóc nó rồi bắt ba nó ôm một bao tiền lại chuộc có phải gọn hơn không? Tâm nói một cách rất nghiêm túc.
      Hà lắc đầu nguầy nguậy:
      -Coi chừng gậy ông đập lưng ông đó nghen! Hôm bữa tao đi ngang nhà nó, nghe ba nó la :"Trời ơi! tao cầu cho có ai rinh mầy đi giùm cho tao rãnh nợ". Đã vậy nó còn ăn hàng dữ lắm mầy ơi. Ba nó mà không thèm chuộc, tụi mình vét hết túi cũng không nuôi nổi nó một tuần đâu!

      Ngày chủ nhật, Di dậy trễ và gom đồ đi giặt. Lịch trình của Di, An nắm rất rõ cho nên sáng chủ nhật nào An cũng ở nhà canh sẵn.
      Khoảng tám giờ Di mang thau đồ ra sàn nước. Ngồi lên cái ghế thấp bằng gỗ được đặt lên tấm đan đậy trên miệng hồ chứa nước, vừa cầm cái ca múc nước đổ vào thau vừa bắt đầu ca. Trước khi ca còn tằng hắng máy cái cho trơn họng nữa chứ! Lúc nào Di cũng bắt đầu bằng bài "Ru em từng ngón xuân nồng", ca đi ca lại hoài cho đến chán rồi mới chuyển qua mấy bài khác. Những bản nhạc mà Di hay hát An đều thuộc và đàn được hết như: "Hương xưa", "Làng tôi", "Quê nghèo", "Chiến sĩ vô danh", "Con thuyền không bến"... và hầu hết các ca khúc phản chiến cùng trữ tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
      An hay ngồi trong góc khuất của cái bàn dài kê cạnh cửa trước rồi nghiêng đầu nhìn Di. Ở chỗ ngồi nầy An tha hồ quan sát mà chẳng lo bị Di phát hiện. An nhìn miết cái gương mặt cúi nghiêng trên thau đồ ấy! Tóc Di được kẹp gọn nhưng vẫn còn vài sợi ương bướng đong đưa bên ngoài, thỉnh thoảng lại quẹt vào gò má làm Di nhột nên cứ đưa cánh tay lên kéo xuống.
      Di giặt đồ thật chăm chú và hát cũng thật say sưa. Nhiều khi An tự hỏi không biết Di giặt đồ để hát hay hát để giặt đồ. Di không có hơi nhưng bù lại hát bằng cảm xúc nên có nhiều bài nghe rất thấm. Có lần Di hát bài "Chiến sĩ vô danh". An bắt gặp một giọt nước mắt của Di rơi xuống. Rồi đêm ấy An nằm mơ. An mơ thấy mình ôm đàn ngồi cạnh Di, đàn cho Di hát bài "Ru em từng ngón xuân nồng" ở trên mái nhà. Khi nghe An kể lại. Di cười thôi là cười, nói bằng một giọng thật nghiêm túc rằng Di rất thích điều đó, hẹn An khi có dịp hai đứa sẽ thực hiện. An biết Di đùa, bởi chỉ cái việc An chở Di đi học thôi mà Di còn nơm nớp sợ phát hiện, thì nói làm chi tới cái chuyện kinh thiên động địa ấy.
      Hôm nay hình như Di có tâm sự gì hay sao mà bị phân tâm nên ca rời rạc bài nầy vài câu rồi nhảy sang bài khác. Chủ đề cũng thay đổi toàn những bản nói về mùa hè mà trước giờ chưa hát. An nhẩm đếm trong đầu có gần đến hai mươi bài rồi ngứa miệng, nói vọng ra:
      - Sao mà bữa nay hát lộn xộn quá vậy. Hát hổng đầu hổng đuôi, mười tám bài rồi đó!
      Di giật mình nín bặt rồi nguýt An một cái dài thòn:
      - Nghe lén còn bày đặt có ý kiến hả?
      -Tóc rơi ra ngoài kìa có cần vén giùm hông?
      -Thôi khỏi cần!
      Khi Di múc nước rửa tay chuẩn bị bưng thau đồ xuống bến sông để xã, An lật đật chạy bay vào nhà thay quần sọt và áo thun đi tắm. An đi sau lưng Di rất êm ra đến bến sông mà Di vẫn chưa phát hiện. Di đặt thau đồ xuống nhìn mặt nước một cách ngán ngẩm, có chiếc tàu nào mới xả dầu hay sao mà màng màng nổi đầy.
      -Di đưa áo dài đây An bơi ra chỗ nước trong giặt giùm cho!
      Di giật mình quay lại, cau mày hỏi An:
      -An đi đâu vậy?
      -Thì đi tắm chớ đi đâu?
      -Mới sáng sớm mà tắm cái gì?
      -Tắm giờ nào mà hổng được, bộ có lịnh cấm hả?
      Di không trả lời cúi xuống xăn ống quần lên. Thường khi Di xăn quá gối nhưng hôm nay có An Di ngại quá nên hổng dám xăn cao, trong lòng rủa thầm: "Cái tên mắc dịch nầy tự nhiên nổi hứng tắm sớm chi hổng biết, kiểu nầy sóng đánh là quần ướt nhẹp đây."
      Nãy giờ An vẫn đứng cạnh Di, thấy Di vừa cầm cái áo dài lên là giựt lấy, ôm khư khư trước ngực rồi đi ra chỗ nước trong. Di đứng sượng trân da gà bỗng nổi khắp cả người. Ra đến chỗ nước ngập đến ngực, An trải áo dài thẳng ra, rồi đứng quay lưng lại với Di. An nhắm mắt đưa tay lướt dài theo thân áo. Một cảm xúc vừa như đau đớn vừa như hoan lạc chạy dọc theo sống lưng. Vậy là An đã thực hiện được điều hằng mong mỏi. An chỉ mong được một lần ôm Di. Một lần được xoa nhẹ lên cánh tay Di. Một lần được úp mặt vào tóc Di mà hít thật no thật đầy cái mái tóc còn thơm mùi chanh ấy! Rồi An cứ đứng như thế mãi cho đến khi Di gọi mới quay vào trả áo.
      Nhìn An hai tay nâng áo đưa cao quá đầu để không chạm vào nước mà lòng Di nghe đau nhói. Cảnh tượng nầy giống như người ta đang dâng con vật hiến tế lên bàn thờ, gương mặt An cũng mang vẻ sùng kính như vậy! Di biết rằng hình ảnh nầy sẽ bám theo Di suốt quãng đời còn lại. Sau lưng An, giòng sông với những tia nắng sớm mai lấp lánh trên mặt nước, Vậy mà không hiểu sao màu sắc hoàng hôn như đang thấm đẫm, nhuộm tím cả bầu trời rất xanh và mây rất trắng trên kia. Một câu hát trổi dậy trong lòng Di rồi ngân hoài: "Anh biết không ? Em vẫn mơ, về nơi chân trời tím. Em với anh, in bóng trên, lưng trời cao. Nhưng em biết, muôn đời, muôn kiếp sau. Ta sẽ không bao giờ đến gần nhau..."

      oOo

      Cơn mưa đầu mùa đến đột ngột như một cái hắt xì, làm mát dịu lại cái không khí nóng và khô của giờ toán. Ông trời năm nay thay đổi chiến thuật, ra tay như nén giận từ hồi nào bây giờ mới trút ra cho hả. Phô bày một lực lượng hùng hậu, vừa tập trung mây vào một chỗ, vừa cho gió và sấm sét phối âm y như một dàn hợp xướng vô cùng hoành tráng
      Mấy thầy trò không ai bảo ai đều đưa mắt nhìn ra ngoài. Qua màn mưa dãy hành lang bên kia trông càng vắng lạnh, thấp thoáng bóng một tà áo màu đứng bên cửa lớp. Gió đột ngột thổi mạnh, những giọt nước chạy song song từ mái ngói bất chợt giao nhau rồi quay liền về quỷ đạo cũ.
      Tiếng huýt sáo rất nhẹ bài "Em đến thăm anh một chiều mưa " vang lên làm không khí càng ngập tràn thi vị.
      -Không ngờ ông thầy mình cũng lãng mạn dữ hén!
      Thu kề tai Di nói nhỏ, từ bữa họp liên hoan đến nay Thu có vẻ giận Di, ít nói hẳn đi, cơn mưa nầy chắc đã làm lòng Thu mềm lại. Di không trả lời chỉ ngồi xích lại gần dựa vào vai Thu một tí.
      -Vợ chồng tụi nó lại" cơm lành canh ngọt" rồi kìa!
      Thuận vừa nói với Lệ vừa lấy ngón tay chọc vào lưng Di.
      Chờ thầy huýt sáo xong bản nhạc là cả lớp vổ tay rần rần, Thư van nài:
      -Thầy cho tụi em nghe thêm bài "Vết thù trên lưng ngựa hoang" đi thầy!
      Thế là cả lớp cùng xúm nhau ỉ ôi, thầy đành phải chìu.
      -Ước gì ngày nào cũng mưa. Thu nói.
      -Bồ có đem áo mưa hông? Chắc mưa đến ra về quá! Di kéo Thu trở về thực tế.
      -Hổng có đem, ai mà biết hôm nay mưa đâu! Sẵn dịp cuối tuần hay tụi mình dầm mưa một bữa đi.
      -Mặc áo dài mà dầm mưa sao được ?
      -Phải chi tụi mình nhỏ lại như hồi tiểu học hén! Mưa lớn như vầy vọc nước là khoái nhất!
      Di tưởng tượng nguyên đám bạn cùng rủ nhau bỏ học chạy ào ra tắm mưa chắc là vui đáo để, bèn buột miệng:
      -Ước gì cả trường cùng chạy ra tắm mưa thì thích biết mấy!
      -Thôi các em tập trung vào bài học đi! Giọng thầy Tùng vang lên.
      -Còn có mười lăm phút hà thầy. Thầy cho tụi em hát ít bản đi thầy, mưa như vầy học hổng nổi đâu thầy ơi!
      Thư rên rỉ, trong lớp nầy thầy Tùng chìu Thư nhất. Nó là đứa nghịch ngợm hàng đầu còn thầy thì nghiêm nghị số một, vậy mà thầy rất thương và chưa bao giờ phạt nó cả.
      - Không có ca hát gì hết, giải lao như vậy đủ rồi, thầy nghiêm giọng.
      Đúng như lời tiên đoán của Di, chuông reng ra về trời vẫn chưa ngớt hột. Thầy Cảnh, anh của Thu cho xe đến sát hàng hiên để chở Thu về, Thu rủ:
      - Bồ về với tui luôn đi, để tui nhờ ảnh chở cho.
      Di lắc đầu ngoầy ngoậy xua tay ra dấu cho Thu về trước. Số còn lại, vài đứa đứng ngoài hành lang, vài đứa ngồi trong lớp chống tay nhìn mưa chờ người nhà mang áo đến rước, từng đứa lục đục ra về chỉ còn lại vài người. Một chiếc xe đạp dừng lại. Di nhìn ra thấy An liền lật đật quay mặt đi, An thấy thế tiếp tục chạy thẳng.
      -Chắc hổng ai rước tụi mình đâu, về đại cho rồi. Lệ nói giọng buồn buồn
      -Ừ, tui cũng về luôn, đói bụng quá!
      Ni hưởng ứng, thế là cái nhóm còn lại kéo nhau về hết. Hình như trời thương nên mưa bắt đầu nhỏ lại. Thấy Di vẫn ngồi yên một chỗ, Hà hỏi:
      -Sao hổng về luôn?
      -Mấy bồ về trước đi, tui làm cái nầy một chút.
      -Làm thơ hả?
      -Thơ thẩn cái quái gì?
      -Vậy là có hẹn, chờ chàng nào đến rước phải hông?
      -Ừ ! Vậy nên về hết đi đừng có phá tui.
      Cả bọn vừa kéo nhau đi vừa cười khúc khích. Di nghe Hà nói:
      -Con nhỏ đó nó hơi "mát", bộ tụi bây hổng biết sao?
      Còn lại một mình Di ngồi thừ một lúc rồi mở tập toán ra, chưa đọc được chữ nào đã nghe tiếng gọi:
      -Di, Di.
      Nhìn ra thấy An đã trùm sẵn áo mưa, dừng xe đúng chỗ hồi nãy. Di cất tập, đảo mắt tua một vòng xem có còn ai. Hai dãy hành lang hoàn toàn vắng lặng. Di cảm thấy an tâm, ngồi lên xe. An mở hết núc của cái áo mưa cho nó trải rộng rồi nói:
      -Di trùm áo vô đi hông thôi ướt đó!
      Di hơi ngần ngại rồi cũng chui vào, hơi ấm từ cái áo bao trùm cả người bỗng làm Di run nhẹ...
       
      Rồi ngày quan trọng nhất cũng đến!
      Liên hoan năm nay nhuốm một vẻ trang trọng và phảng phất vị buồn. Để tạo một kỷ niệm thật đẹp cho buổi tiệc sau cùng, các nhóm cùng nổ lực. Đặc biệt nhóm trang trí và văn nghệ có phần vượt trội hơn. Bàn học được khiêng bớt ra ngoài chỉ chừa lại một dãy kê sát ba bức tường thành hình chữ U. Bàn tiệc của thầy cô kê đối diện và sát bục giảng, được trang hoàng công phu nhất. Khăn trải bàn, khăn ăn trắng toát cùng nguyên bộ đồ ăn bằng sứ rất đẹp mượn từ nhà Ánh. Một bình hoa do Thu mang đến với ba màu vàng, tím, trắng được đặt ở giữa bàn.
      Khoảng trống giữa lớp được dùng làm sân khấu, rất nổi bật nhờ cành phượng to, đỏ rực do Lâm bạn của Đây mang tặng cắm vào chậu. Mấy gói quà do các bạn mang đến có ghi số của từng người theo sổ điểm để trao đổi cho nhau theo lối bắt thăm, được treo lủng lẳng khắp cành. Quà của thầy cô được để riêng trong hộp. Công việc được sắp đặt đâu vào đấy mà sao trong lòng Di vẫn thấy lo lo.
      Đến mười giờ các thầy cô đã đến đông đủ. Có lẻ nhờ tấm thiệp rất đẹp, cùng lời mời tha thiết làm thầy cô cảm động nên không có ai vắng mặt. Thầy Lam dạy văn và là thầy hướng dẫn của lớp 12 A2, dù không được mời vẫn đến dự làm tụi Di vô cùng cảm động. Nhưng lại nảy sinh vấn đề là thiếu một phần quà dành cho thầy. Di đề nghị lấy quà các bạn tặng cho nhau để tặng thầy. Tâm can:
      -Coi chừng đó Di ơi! Lớp tụi mình toàn con gái lại khoái đùa nữa, bồ có nhớ năm ngoái hông? Mở quà ra toàn là bình sữa, núm vú cao su và kẹp tóc không hà. Sợ tặng thầy trúng ba cái thứ đó là kỳ dữ lắm!
      -Vậy thôi lấy gói quà của mình đi, có điều... Di hơi ngập ngừng
      -Có điều gì? Bộ bồ tặng đồ" tế nhị" hả? Thư hỏi một cách ưởm ờ .
      -Mình tặng cây viết nhưng lỡ khắc tên và hàng chữ "Forget me not" lên đó nên thấy kỳ kỳ.
      -Có sao đâu! Bất quá thầy nghĩ là bồ thương thầm nhớ trộm thầy là cùng chớ gì. Mà có khi đây là do ý trời... Không để cho Thư nói hết câu. Di lật đật thúc cùi chỏ thật mạnh vào hông Thư, làm Thư bị đau kêu chói lói!
      Buổi tiệc bắt đầu với bài cám ơn thầy cô mà Di viết bằng cả tấm lòng của mình, vừa đọc vừa rưng rưng làm mấy bạn cứ sục sà, sục sịt. Cô Ấn còn lấy khăn ra chậm mắt nữa. Rồi đến phần tặng quà cho thầy cô. Di lo ngay ngáy, không biết thầy Lam có nhận ra giấy gói quà của thầy khác với mọi người, rồi ngại và từ chối hay không ? Rất may điều đó không xãy ra. Tiếp theo là phần vừa ẩm, thực vừa xen văn nghệ. Thầy Lam xung phong trổ tài trước tiên, thầy mượn cây đàn Guitar từ tay Nguyệt rồi vừa đàn vừa hát bài " Hương Xưa" và" Hoài Cảm". Giọng Huế sâu lắng, cùng ngón đàn điêu luyện của thầy làm cả phòng lặng đi rồi vỗ tay vang dội. Từ đó thầy đàn cho mọi người hát cho đến cuối buổi tiệc.
      Lớp Di có Nhan nổi tiếng hát hay nhất trường, còn được gọi là "Nhan Ngày xưa hoàng thị". Đã vậy lại còn rất đẹp cho nên biết bao nhiêu người theo đuổi. Khi thầy Lam đàn cho Nhan hát Ni kề tai Di nói nhỏ:
      -Có khi nào Nhan là lý do để thầy chiếu cố lớp mình không hả Di?
      Kế đến là hợp ca, cả lớp đứng chen chúc vòng trong vòng ngoài để hát bài " Nếu hỏi rằng..."tặng các thầy cô. Cả lớp cùng hát:" Nếu hỏi rằng em yêu ai, thì em rằng yêu quê hương nè! Thì em rằng yêu mái trường nè! Yêu thầy yêu cô, yêu hết bạn bè", Hà cất giọng hỏi:" nhưng nhất là em yêu ai?". Các bạn đồng thanh trả lời tên của từng thầy cô theo thứ tự chỗ ngồi, nhưng bắt đầu bằng tên cô trước. Cái bài hát vui và được hát theo giọng của con nít ấy làm buổi tiệc rộn ràng hẳn lên. Đến màn cuối Di nhờ Tâm ngâm giùm bài thơ của mình để tặng thầy, cô cùng các bạn vì Tâm là người Trung nên ngâm thơ rất hay :

      Ơi! cô trò nhỏ thật thà
      Đem lòng yêu gốc Phượng già cuối sân
      Mỗi năm phượng nở một lần
      Mùa chia tay cũng sắp gần đến nơi
      "Thôi đừng buồn nữa bé ơi!
      Tựu trường gặp lại là vui thôi mà!"
      Năm nay sắc Phượng đậm đà
      Và cô gái ấy lệ nhòa ướt mi
      "Phượng ơi! ở lại tôi đi
      Lần này từ tạ mong gì gặp nhau"
      Phượng buồn hoa đỏ rơi mau
      Ai đưa tay nhặt ép vào tập thơ
      Ép luôn cả mối tình khờ
      Cả thời hoa mộng, hay mơ, hay cười
      Thầy, cô, bè bạn từng người
      Tiếng chân ai bước theo đuôi mỗi ngày...
      Ngậm ngùi thốt tiếng chia tay
      Chia tay hoa phượng, chia tay tình đầu!

      oOo

      Có một sinh vật mà Di ghét nhất, phải tìm cách đối phó và ngày nào cũng đánh xáp lá cà với chúng: Đó chính là con muỗi!
      Trước khi ngồi vào bàn học, Di phải nai nịch y như sắp lâm trận. Hai bàn chân trùm kín bởi đôi vớ nhà binh kéo cao đến nửa ống cẳng, với hai cái ống quần được nhét gọn bên trong cho muỗi khỏi chui vào. Bên cạnh để một cây quạt rất to để đập và xua muỗi. Vậy mà có được yên đâu, thỉnh thoảng cứ tát vào má, vào tay của mình thật mạnh y như tự trừng phạt vì một tội lỗi tày đình nào vậy.
      Chỉ còn hơn tuần nữa là đã đến ngày thi rồi. Năm nay hội đồng thi được tổ chức tại tỉnh nhà nên tụi Di không phải "lai kinh ứng thí". Thi theo kiểu trắc nghiệm do cái máy gọi là IBM chấm. Ngoài học bài thật thuộc còn phải tập tô viết chì, y như mấy bé mẫu giáo tập tô màu. Kiểu thi nầy được áp dụng lần đầu và tụi Di được làm thí nghiệm. Cái mẫu đơn dùng cho thí sinh năm nay cũng khác. Di cảm thấy một áp lực đè nặng lên người. Nỗi lo sợ thi rớt cầm tù cả mọi niềm vui, học ngày học đêm mà vẫn thấy như chưa đủ. Mọi năm giờ nầy là tụi Di rủ nhau đi núi. Xuống nhà Thu đổ bánh khọt. Sang nhà Triều ở Cồn Tiên ăn bắp nướng tại rẩy. Qua Châu Giang mua táo... còn bây giờ chỉ nghĩ đến thôi cũng không có thì giờ chứ nói gì.
      Tối nào Di cũng để đồng hồ reng lúc một giờ rồi ngồi dậy học luôn tới sáng. Mấy bữa nay ngoại qua thăm. Di thức giờ nào là ngoại thức giờ nấy. Di học được gần hai tiếng là đã thấy đói. Ngoại như biết trước, lui cui đi nấu gói mì, bưng ra tận bàn học cho Di rồi bảo:
      -Ăn đi con, cho có sức mà học.
      Trong khi Di ăn, ngoại lấy trầu ra têm. Trước đây Di hay quết trầu cho ngoại nhưng từ hôm tựu trường đến giờ, Di hầu như chưa làm việc đó. Di nuốt vội tô mì rồi giành lấy cái ống ngoái từ tay ngoại nói:
      -Để con quết thật nhuyễn cho ngoại nha!
      Ngoại cười rất hiền rồi cầm lấy cây quạt, vừa quạt cho Di ngoại vừa hỏi :
      -Con ăn hết mấy cái bánh chuối chưa, ngon hông?
      -Con ăn hết từ hôm qua rồi. Ngon lắm ngoại!
      Di rất thích ăn bánh tét nhưn chuối do ngoại gói, nên mỗi lần qua thăm ngoại hay làm đem theo. Mấy đòn bánh nho nhỏ được ép dẹp và cột nhập lại, hai cái thành một nên còn được gọi là bánh cặp. Ngoại Di có tiếng là gói bánh tét khéo nhất xóm. Ngoại xào nếp với nước cốt dừa rồi trộn đậu đen vào nên bánh thơm và béo lắm ! Chuối thì ngoại lựa nải chuối lá xiêm ngon nhất. Khi nấu chín, nhưn có màu đỏ au, rất ngọt.
      Vừa làm Di vừa suy nghĩ miên man. Nếu thi đậu chắc sau nầy ít có dịp quết trầu cho ngoại. Trước giờ Di chỉ mơ được đi dạy học, nhưng bây giờ Di chợt muốn làm nha sĩ để làm tặng ngoại một hàm răng giả. Không biết ngoại có ráng chờ đến ngày đó không? Nghĩ đến đây tự nhiên Di thấy bùi ngùi quá! Ngoại Di năm nay đã gần tám chục, lưng ngoại còng nhiều và mắt mờ lắm. Vậy mà lần nào đến cũng soạn tủ đồ của Di kiếm từng cái áo đứt núc, cái quần rách lai mà đơm mà vá lại. Ngoại thấy Di cứ cắm đầu giả miết nên nhắc:
      -Được rồi đó con, đưa đây cho ngoại rồi lo học đi!
       
      Từ hôm bải trường đến nay, Di tập trung ôn thi và có bà ngoại qua thăm, cánh cửa sổ trước bàn học mỗi tối đều đóng chặt. Hằng đêm An đi qua đi lại, miếng ván gỗ gõ nhịp theo từng bước chân. Chẳng biết Di có nghe không mà vẫn đọc bài bằng cái giọng đều đều. An viết sẵn một lá thư chỉ có mấy câu, cất hoài trong túi chờ gặp dịp để trao. An sợ Di thi xong rồi ra đi mà chưa kịp cho An một lời hứa. Cái lá thư có chưa tới mười dòng mà An cứ viết rồi xé, gần hết cuốn tập kẻ hàng đôi dày 32 trang:

      Di ơi!
      Có phải sợ An quấy rầy hay không mà cứ đóng cửa sổ hoài vậy? Có biết An và mây, gió, trăng, sao đứng ngoài nầy buồn lắm hông? Thôi Di cứ mở cửa ra để ngồi học cho mát. An hứa không làm phiền đâu.
      Chừng nào Di đi nhớ để lại cho An xin đôi dép. An mang rồi trùm mền lại ngủ không để cho ai thấy nên Di đừng ngại. Di nhét nó ở dưới mấy cái phuy chứa nước nhe, chỗ đó không ai mò tới được. An không có món gì quí giá, chỉ vét hết tấm lòng nầy đem tặng Di thôi! Di ơi xin cho An một lời hứa, một niềm hy vọng để vửng bước mà hướng tới tương lai. Xin đừng để niềm tin trong An phá sản.
      Mong thư hồi âm của Di nhiều lắm!
      An

      Tối nay An quyết tâm đưa Di cho bằng được, nên nép mình bên hàng rào rình chờ mãi. Rồi Di cũng bước ra sân. An vẫy tay ra hiệu cho Di bước đến rồi móc lá thư đầy hơi ấm trong túi ra. Di đưa tay vói lấy, vừa cầm là nghe tiếng mợ gọi nên rút lại liền. Cái tay rơi xuống chạm vào cọng gai trên dây kẽm kéo dài một đường rướm máu làm An điếng hồn. Thoáng thấy nét mặt Di nhăn lại cùng cái liếc mắt vội vàng, nửa như đau đớn, nửa như trách móc.
      Di cho vội lá thư vào túi rồi chạy vào nhà. Không dám bước vô phòng mợ mà chỉ đứng bên ngoài hỏi vọng vào:
      -Mợ kêu con hả mợ?
      -Ừ! làm cho em bình sữa giùm mợ.
      Di lật đật lấy cái áo tay dài tròng vô rồi chạy vào bếp lấy bình sữa. Trụn nước sôi, rót nước, cho bốn muỗng guigoz vào bình rồi múc thêm 1/4 muỗng cho vô miệng mình. Di ghiền cái loại bột sữa nầy nên mỗi lần pha cho mấy em hay ké một miếng. Có lẽ mợ cũng biết nên có lần nói:
      -Sao hộp sữa kỳ nầy mau hết quá!
      Mang vào cho mợ xong. Di chạy vô toa lét liền để đọc xem An viết cái gì ở trỏng. Một vị ngọt ngọt vẫn còn vương ở đầu lưỡi. Di nuốt chút sữa còn sót lại, nuốt luôn cái cục gì nghèn nghẹn đang bị mắc kẹt nơi cổ họng của mình.

      Sáng mai là đến ngày thi, tối hôm nay Di cho phép mình nghĩ xả hơi một bữa. Bài vở đã xào đi xào lại đến chín rục. Di có cảm giác bộ óc của mình như cái bong bóng đang căng hết cỡ, chỉ cần thổi thêm một hơi nữa thôi là nó" banh ta lông" liền. Cố chui vào mùng ngủ sớm mà cứ lăn qua lăn lại, gần mấy tiếng đồng hồ không sao chợp mắt.
      Di mở cửa lén bước ra sân. Đêm nay trăng non, cái lưỡi liềm rất mỏng giống chân mày của con gái nhiều hơn, thì ra người ta hay ví chân mày vòng nguyệt là mượn cái hình ảnh nầy đây! Một gói gì trăng trắng treo trên hàng rào. Di bước đến xem. Hai bịt chè đựng trong túi nilon, một bịt là chè đậu đỏ đang tươm mồ hôi lạnh, còn cái kia là chè nếp khoai cao sờ vào còn ấm. Di đảo mắt nhìn không thấy An đâu chỉ nghe miếng ván gỗ vọng lại tiếng lọc cọc rất nhẹ. Di lấy bịt chè đậu đỏ ăn trước, làm biếng trút ra ly nên cắn một góc để hút rồi vừa ngắm trăng vừa nhai từng hột đậu. Một áng mây bay chậm từ từ hướng về phía mặt trăng. Di nhủ thầm:" Nếu mình ăn hết bịt chè nầy mà trăng chưa bị che lấp thì sẽ thi đậu". Rồi ra sức nhai nghiến ngấu. Cái bịt rổng không, mây còn chưa tới kịp làm Di mừng quá!
      Tối hôm ấy Di nằm mơ, một giấc mơ đẹp. Di mơ thấy An chở Di chạy như bay lên núi, mây từng cuộn bay ngược chiều và cứ quét vào mặt Di rất lạnh. Khi tỉnh dậy, Di sờ mặt thấy tay mình bị ướt. Tại sao Di khóc trong mơ? Di cứ tự hỏi hoài mà không sao trả lời được.
      Trước buổi thi Di làm theo lời ngoại dặn, chấp tay thành khẩn xin ông ngoại và ba phù hộ. Môn Anh văn thi trước trúng ngay bài "Big city" là bài tủ nên Di làm xuôi rót. Tinh thần lên như diều nên mấy môn sau Di đều chui qua trót lọt.
      Thi vừa xong là Di đau một trận dữ dội, đầu nhức như búa bổ chịu không nổi mợ phải dẫn đi bác sĩ. Ông bác sĩ mở phòng mạch ở nhà bà Ba má của mợ có cái tên thật bình dị:" bác sĩ Út ". Ổng có gương mặt rất hiền. Mới vô khám là Di đã nói trước:" Cháu không có chịu tiêm thuốc đâu! ". Ổng cười, vừa khám vừa nói chuyện rất vui và thân mật. Xúi Di nếu có đậu thì ráng mà thi vô ngành y, nhát vi trùng cho nó tránh xa để khỏi bệnh, khỏi bị chích thuốc.
      Thế là bao kế hoạch định làm khi thi xong đều bị phá sản. Di phải nằm nhà uống thuốc. Mỗi buổi chiều Thu đều đến thăm, kể cho Di nghe đã cùng các bạn đi những đâu, ăn món gì, rồi còn mang về cho Di nào là bắp, là táo, là bánh xèo, bánh khọt... Làm cho Di vừa cảm động, vừa tức, vừa tủi thân...Chỉ tội cho An mỗi đêm cứ đi tới, đi lui trên cây cầu gỗ như muốn cho Di biết đang rất lo lắng cho Di. Có một đêm Di tỉnh dậy nửa chừng nghe tiếng guitar đang dạo bài "Đố ai", tiếng đàn quá ư da diết làm lòng Di tràn ngập một niềm thương cảm. Di hát trong lòng từng câu: "...đố ai nằm ngủ không mơ, biết em nằm ngủ hay mơ, nửa đêm trăng sáng, đứng chờ ngoài hiên...".
      Chứng nhức đầu của Di vẫn không thuyên giảm. Má đi chùa bà xin cho Di hết bịnh, đi coi bói, coi thầy rồi đem mấy lá bùa về đốt thành tro, hòa vô nước cho Di uống mà cũng chẳng thấy bớt. Cho đến một buổi trưa Di đang nằm trong nhà bỗng nghe tiếng la to từ ngoài cổng. Giọng của Mỹ Hạnh vang vang :" Tụi mình đậu rồi Di ơi, năm đứa mình đều đậu ưu hết cả ". Di tốc chạy ra sân như bị ma rượt, Thu, Mai Anh, Mỹ Hạnh đang đứng giữa sân, đầu trần dưới nắng chan chan. Cả bọn ôm nhau nhảy tưng tưng và kỳ diệu thay cơn bịnh rút lui luôn từ lúc đó!
       
       Còn chưa kịp đi chơi núi, coi bói, xin xăm...với các bạn thì má đã nhắn Di về nhà liền để theo cô Ba đi Sài Gòn. Di lật đật gói ghém đồ đạc vừa làm vừa lắng tai để ý, cứ mỗi lần nghe tiếng cây cầu khua là nhìn ra cửa sổ. Mọi hôm An cứ đi tới đi lui có trên chục bận vậy mà bữa nay càng chờ càng mất biệt. Gói đồ xong Di xin mợ đi chợ mua quà cho mọi người rồi ghé Thu cho hay tin. Thu giậm chân:
      -Trời đất ơi! Sao đi gấp quá vậy? Tụi mình còn chưa kịp làm gì hết, còn chưa đi thăm thầy cô nữa.
      Di buột miệng nói theo thói quen:
      -Thôi để dành lần sau vậy.
      -Biết có còn lần sau hông mà hứa?
      Câu hỏi của Thu cất lên cùng lúc với tiếng vọng trong lòng Di, ừ! Còn có lần sau nữa không hay là...Thấy mặt Di buồn quá Thu gợi ý:
      -Hay là xin má ở lại thêm mấy ngày rồi đi một lượt với tụi mình.
      -Không được đâu! Mấy bồ đâu có biết chỗ của chị mình ở.
      -Nhớ viết thơ cho mình biết địa chỉ, để mình kiếm bạn khi lên trển.
      -Chắc chắn rồi, bồ chào thầy cô và các bạn giùm mình nghe, tết mình về sẽ đi thăm sau.
      Chia tay Thu xong Di chạy ra chợ mua tặng An một món quà. Di suy tính mãi rồi mua một cây viết máy màu tím hoa cà, mang đi khắc hai chữ "Hè xa". Điều làm Di bận tâm nhất là viết thư trả lời cho An. An biểu Di hứa, Di còn chưa xác định được tình cảm của mình dành cho An thì hứa làm sao đây! Hổm rày Di tập trung cho việc thi cữ, xong rồi là lo trị bệnh đâu có ngó ngàng gì tới An, chắc An buồn tủi lắm. Cứ mỗi lần nghĩ đến An là Di cảm thấy buồn hết sức, vậy đó có phải là "yêu" như trong sách nói không? Hay Di chỉ thương An như thương ngoại, má, chị...Vì mỗi lần nghĩ đến những người thân của mình Di cũng buồn lắm!
      Rồi Di chạy vào trường. Giữa mùa hè cổng chỉ mở hé và sân trường rất vắng. Di đến gốc phượng to có khắc chữ D tên ai không biết, đưa tay rờ nhẹ lên từng nét. Chạm tay vào lớp vỏ xù xì của cây, một cảm giác xốn xang dâng lên như có lần Di chạm vào tay An. Mấy lần Di định hỏi An, có phải đây là tác phẩm của An không nhưng cứ sợ. Di sợ An lắc đầu và cũng sợ An gật đầu. Di sợ mình lại nợ An thêm một món nữa.
      Buổi cơm chiều hôm đó Di ăn không nỗi, vừa buông đũa là nghe tiếng gọi. Di chạy ra cổng, Thu, Hà, Tâm đang đứng chờ vừa thấy Di ra là hối liền:
      -Vô xin mợ đi ăn mì với tụi mình đi!
      Mợ cho liền. Di thay đồ nhanh như chớp rồi lấy xe đạp vù ra với đám bạn. Cả bọn chạy đến quán mì "vách tường" quen thuộc, đây là cái tên mà tụi Di đặt cho nó vì bán ngoài trời và kê sát vách tường. Mai Anh, Mỹ Hạnh, Kim Hồng, Hí Xuân, Phượng A, Ánh, Thư đang ngồi chờ sẵn, vừa ngồi xuống là Thư nói liền:
      -Con nhỏ nầy khôn ghê ta ơi! Đậu xong là vọt liền trốn nợ tụi mình.
      -Thì chầu nầy mình đải các bạn nè! Di đáp
      Cả chục cái miệng kêu lên cùng lúc:
      -Để tui!
      Thu nói thật to để át tiếng mọi người:
      -Chầu nầy của tui vì tui là người khởi xướng, còn các bạn xin để lần khác đi.
      -Biết có lần khác hông?
      Thư hỏi, rồi chưa ai kịp trả lời là nói luôn:
      -Hay tụi mình hẹn nhau cứ mỗi năm họp mặt cả lớp một lần đi!
      -Nói ra là biết cái tánh tham lam liền, cả nhóm nầy còn chưa chắc đủ chớ nói chi cả lớp! Hà kê liền.
      -Chưa tập trung lại sao biết là không đi đủ? Thư cãi.
      -Bộ bồ tưỡng như còn học chung vậy hả? Bây giờ muốn gặp nhau còn khó nói gì đến năm sau. Lúc đó là tứ tán hết rồi. Biết đâu còn có đứa "theo chồng bỏ cuộc chơi" nữa.
      Hà nói như gắt vậy mà không đứa nào giận mà lặng đi vì buồn. Di vội pha trò:
      -Ai chớ tui dám cam đoan là nhỏ Thư nầy lấy chồng liền tay thôi. Cái anh chàng "bốn mắt" chắc là nóng máy lắm rồi...
      Di mới vừa nói tới đó là Thư đã đưa tay bụm miêng Di thật chặt, nói thầm như nghiến từng tiếng:
      -Bồ mà nói nữa là tui vặn họng liền. Cái chuyện nầy tui chỉ có tâm sự với bồ thôi, ba tui mà biết là ổng cạo đầu tui đó!
      Cả bọn nhao nhao:
      -Ê! thằng cha "bốn mắt" nào vậy, kể nghe coi Thư!
      Thư lắc đầu:
      -Trời ơi! hết ai để tin rồi sao mà đi tin con nhỏ nầy. Nó bịnh tương tư đến đi không nổi. Bây giờ hồn phách xiêu lạc, nói ba xí ba tú mà nghe làm chi cho mệt.
      -Bồ mà không sớm khai ra để tụi tui điều tra ra được. Cái tên ác tặc đó bị tụi tui tùng xẻo thì đừng có trách sao hạ thủ chẳng lưu tình. Tâm ghẹo.
      -Đó còn chưa nói đến cái nguy cơ là cả bọn hùn lại thương có một tên, lúc đó phiền hà dữ lắm nghe! Thu phụ họa.
      -Tới lúc đó chắc tụi mình phải đổ xí ngầu giống như trong chuyện "Lộc đỉnh ký " quá!
      Hà vừa nói vừa cười hinh hích, cả bọn cũng cười theo vô cùng rôm rả. Thư liếc Di một cái bén ngót như dao, rồi kẹp hai ngón tay lại mà nhéo như rức thịt, làm Di đau đến nhảy dựng lên!
       
      Sáng hôm nay má nhờ An chở về nhà ngoại đi đám giỗ. An không dám cãi nhưng đi mà sao bụng cứ nóng hơ, cứ mong xong sớm rồi về liền mà má cứ ngồi nói chuyện mãi. Chịu hết nổi An đành giục:
      -Mình về đi má!
      Má nạt:
      -Bộ không thấy má đang nói chuyện sao mà hối!
      -Con còn có việc cần làm nữa.
      -Nghĩ hè rồi có cái gì mà làm. Má còn ở lại ghé thăm cậu Bảy nữa, chiều mới về.
      An nói, giọng quạu đeo:
      -Vậy con về trước à nghe, lát nữa má nhờ cậu Bảy chở má đi.
      -Không có nhờ ai hết, ở lại chờ má về một lượt.
      Thế là An kẹt cứng. Giận dổi bỏ ra cái võng ngoài vườn nằm. Gió mơn man thoảng một mùi ổi chín như muốn xua bớt nỗi bực bội trong lòng An. An nằm lót tay sau ót nhìn lên đám lá xanh lấp lánh trong ánh nắng. Một vạt mây trắng bay rất chậm trên nền trời xanh ngắt. Trên ngọn cây hai con chim đang cắm cúi mổ một quả ổi chín. An nghĩ thầm chắc đây là một cặp vợ chồng vì chúng có vẻ nhường nhịn chớ không đánh nhau chí chóe. Chợt nhớ Di khoái ăn ổi. An vội ngồi bật dậy bỏ dép rồi trèo thoăn thoắt. Cây ổi trái sai oằn. An lựa những trái thật ngon hái nhét đầy hai cái túi quần tây. Bỗng thấy một chùm có mấy trái rất đẹp đu đưa tận chót vót của cái nhánh rất mong manh. An mạo hiểm cố rướn người hết mức, xém trợt mấy lần. Cuối cùng cũng hái được cả chùm còn dính luôn cành lá, cầm trên tay rồi leo xuống. Con bé Mai đứng dưới gốc chờ sẵn, vừa thấy An chạm chân tới đất là xin liền:
      -Cho em chùm ổi nầy đi anh An.
      An nói dối:
      -Không được, chùm ổi nầy anh hái để cúng.
      Rồi móc trong túi quần ra mấy trái cho nó. Con bé trề môi không thèm rồi vùng vằng bỏ đi có vẻ giận. Cái gương mặt phụng phịu của nó có cái nét hao hao giống Di khi hờn mát. An nghe một nỗi nhớ tràn ngập khắp lòng .
      Vừa về đến nhà là An ghé mắt qua cửa sổ để tìm Di, thấy thằng Thống đang ngồi vừa xem ti vi vừa xước mía. An ngoắc. Thống bước đến, An hỏi:
      -Chị Di đâu rồi?
      -Chỉ đi ăn mì với bạn, nó nói thêm:
      -Ngày mai là chỉ về Phú Lâm luôn rồi! Giọng nó buồn hiu. An có cảm giác như vừa chạm tay vào mạch điện hở, đứng im như trời trồng một lúc rồi bỏ về nhà vào phòng nằm. Má kêu:
      -An, ra ăn cơm!
      -Con không ăn!
      -Sao hông ăn, tối rồi, ăn cho người ta dọn rửa!
      -Dọn hết đi đừng có chừa con. An nói như gắt. Má nạt:
      -Không có được nói cái kiểu dùi đục chấm nước mắm với má à nghe! Hổng ăn thì thôi, cho đói rả họng luôn!
      An kéo cái mền trùm đầu rồi không chịu nổi lại ngồi bật dậy, ra xách xe đạp một mạch. Chạy ngang qua quán mì nổi tiếng thấy Di và nhóm bạn đang nói cười vui vẻ. Một nỗi buồn đến uất nghẹn chặn lên tới cổ. An cong lưng đạp thẳng, chạy một đổi thấy tối dần mới hay mình đang đi ngược về hướng núi. An cứ đạp miết. Con đường vắng tanh. Những tia sáng hiếm hoi, từ mấy cái đèn trứng vịt, chong trên bàn thông thiên của những căn nhà sát mé đường, không đủ soi sáng mấy cái ổ gà. Chiếc xe cứ mấp mô dằn xóc. Gần đến núi con đường dốc dần. Cơn giận, nỗi buồn, con đường dốc như rút hết sinh lực của An. An vất xe rồi ngồi bệt xuống lề đường...
      Về đến nhà đã vào khoảng nửa đêm. Một chiếc áo bà ba trắng thấp thoáng bên hàng rào dây kẽm gai làm An xốn xang. Tội quá! Chắc Di chờ An lâu lắm! Chắc là giận lắm đây. An chuẩn bị sẵn lời biện hộ vậy mà chỉ nghe Di nói thật nhẹ:
      -Di tặng An cái nầy nè! Mai Di đi rồi.
      Di vừa nói vừa vói tay qua hàng rào, trao cho An cái hộp nhỏ hình chữ nhật gói giấy hoa.
      An đưa tay cầm, bàn tay đè lên tay Di. Di không rút lại liền như mọi lần mà cứ để yên rồi cả hai cứ đứng im hoài không nhúc nhích.


      An ơi!

      Di xin lỗi nếu bức thư nầy không đúng với lòng An mong đợi. Nếu nói Di không xúc động trước tình cảm của An thì thật là giả dối. Có điều Di không biết nó có khác với tình cảm mà Di dành cho những người thân của mình? Cho đến nay Di chỉ tiếp xúc với một người con trai là An mà thôi! Di nghĩ rất nhiều về An, hết lòng cầu mong cho An có được một tương lai tốt đẹp, hơn cả mong ước cho chính mình.
      Di còn nhớ cái lần má giao tiền cho Di đi chợ. Má cứ dặn tới, dặn lui là đừng có bộp chộp mua liền cái món mới thấy đầu tiên, mà hãy chịu khó đi khắp chợ, nhìn ngắm kỹ càng lựa cái nào ưng ý nhất rồi hãy mua. Bây giờ Di cũng đem lời khuyên của má ra mà khuyên An. An còn chưa đi đến chợ nữa mà. An có đủ điều kiện để chọn cho mình cái tốt nhất, đẹp nhất.
      Còn về phần Di, mục đích mà Di vươn tới không phải là một mái ấm gia đình. Di chỉ mong học xong rồi có một công việc vững vàng. Sống theo ý mà không cần lệ thuộc người khác. Muốn tạo cho mình một căn nhà nho nhỏ. Muốn có đủ tiền để mỗi ngày mua một quyển truyện hay, cuối tuần đi xem phim, ăn hàng thỏa thích và may cho mình thật nhiều áo đẹp.
      An ơi! xin đừng dành hết tình cảm cho Di, hãy giữ lại vì có ngày rất cần đến nó. Biết đâu sau nầy An sẽ gặp được người con gái khác. Biết đâu đó mới chính là đáp án thật sự cho bài toán đời của An. Còn nếu chúng ta vẫn không thay đổi, vẫn còn mơ thấy nhau và nghĩ về nhau mỗi ngày, vẫn dành một góc trong lòng để cất giữ hình ảnh của nhau thì đâu còn gì điều gì đẹp hơn, quí hơn, đáng mong đợi hơn!
      An hãy giữ gìn sức khỏe và học thật tốt. Còn về câu hỏi của An là Di thích An chọn ngành nào. Di cũng không biết phải trả lời sao nữa. Xưa nay Di rất ngưỡng mộ những người cống hiến cho đời những tư tưởng, công việc hữu ích mà không cần được nhiều người biết đến. Nói nghe lớn lối quá! Tóm gọn một điều là An cứ chọn theo ý thích, theo khuynh hướng của An thôi, miễn sống có ích và yên vui là tốt rồi.
      An ơi! Dù tương lai của An có Di hay không, Di vẫn mong nó vô cùng tươi sáng. Khi Di đi rồi An hãy lấp đầy những khoảng trống mà Di bỏ lại bằng cách học thật nhiều, thật chăm An nhé! An hãy nhớ những lần Di giận. An hay mang thành tích tốt ra khoe và thế là Di nguôi liền.
      Di muốn viết cho An nhiều hơn nữa mà sao lòng thấy nặng nề quá. Sợ càng viết càng làm An buồn theo. Tựu trường năm tới có thể An học lớp của Di rồi đó! Ráng mà vào thật sớm chọn ngồi ngay cái chỗ của Di nghe. Cái chỗ đó hên lắm ! Trong học bàn có lẻ còn một đống vỏ me và giấy nháp của Di bỏ lại. An hãy dọn giùm Di nhé ! .
      Còn bây giờ là đến cái điệp khúc mà An ghét nghe nhất đây: An ơi hãy hứa với Di là bỏ hẳn thuốc lá, uống rượu để tỏ ra mình đã lớn. Thực ra nó làm mọi người không nghĩ tốt về An. Đừng có bực bội với những lời la rầy của má và chị của An, rồi phản ứng thái quá. Nói thiệt nghe, có lúc Di thấy An hơi hổn đó!
      Sáng mai Di sẽ lên đường rất sớm. Di không muốn An xuất hiện vì sợ mợ biết. Hổm rày qua lời nói và cử chỉ của mợ, Di đoán là mợ đã nghi ngờ và rất không vui.
      Cám ơn tập thơ Đường, mấy bản nhạc và bức ảnh mà An tặng. Bức ảnh An chụp đứng dựa lưng vào núi đá trông buồn và cô đơn quá làm Di bùi ngùi khi nhìn đến. Di gửi lại mấy sợi tóc cho An để dành mà ráy lỗ tai. Hy vọng An xài đến sợi sau cùng thì tai cũng không còn ngứa nữa.
      Rồi An sẽ quên Di, như quên những sợi tóc rơi quá âm thầm.

      Di.
       


      An cứ đọc đi đọc lại bức thư của Di, càng đọc càng buồn. Di hầu như phủ nhận hết những gì đã có giữa hai người. Giống như Di gom góp hết mọi hoa cỏ trong vườn và bỏ lại lòng An một bãi đất trống. An nghĩ đến câu trả lời của Di cho câu hỏi mà có lần An nêu:
      -Di thích mẫu người đàn ông như thế nào?
      -Di thích một người cho Di cảm giác an toàn. Có óc khôi hài và hay tạo cho Di những bất ngờ thú vị!
      Ngay cái tiêu chuẩn cốt lỏi, đầu tiên là An biết mình đã không kham nổi rồi. Hai cái sau thì may ra. Thà là Di có những yêu cầu cụ thể để làm cái mốc cho An cố gắng, còn nói lan man như vậy An thấy chơi vơi quá!
      Bên nhà Di, đèn trong bếp bật sáng. An xem đồng hồ mới hai giờ sáng không lẻ Di đi sớm vậy sao? An nhón bước, ghé mắt nhìn vào khe vách. Di đang trụn bình pha sữa, múc sữa cho vào bình lắc đều, đậy hộp sữa lại, suy nghĩ hồi lâu rồi lại mở ra liếc nhìn qua lại rồi múc một muỗng sữa cho vào miệng. Gương mặt vừa có vẻ ray rức của một người phạm tội, vừa có vẻ thích thú của một người ăn vụng. Không hiểu sao cái hành động ấy của Di, lại gieo vào lòng An một niềm vui, một niềm tin, hơn bất cứ lời hứa hẹn nào!


      Chuông báo thức vừa reo là Di vói tay tắt liền sợ mấy em giật mình, rồi không mở đèn mà âm thầm thay đồ trong bóng tối.
      Mợ hỏi, giọng còn dính nhựa:
      -Sao đi sớm dữ vậy, ở lại đến trưa mợ nấu bún nước lèo cho ăn rồi hãy đi!
      -Dạ hổng được đâu mợ, hổm rày cô Ba con phải nán lại chờ, trễ nải công việc của cổ quá chừng. Con về sớm đi thăm bà con cho kịp để sáng mai là xuống Sài Gòn với cổ liền.
      -Lát nữa tụi nó dậy không thấy con chắc khóc om sòm quá!
      Di nghe lòng chớm lên nỗi nhớ, muốn vén mùng hun mỗi đứa một cái mà hổng dám. Tần ngần mấy phút rồi cũng xách va li đi ra mở cửa trước. Một luồng gió mát lạnh ùa vào nhà, cái võng trước hiên rung nhẹ như nén khóc. Thôi chào võng nhé! Hết rồi những buổi trưa ôm tập ra nằm vừa học bài vừa ngủ gục. Hết rồi những buổi tối trời mưa, vừa gậm bánh mì vừa ráng làm thơ. Giã từ cái hàng hiên vắng, nơi chứng kiến những cuộc gặp gỡ lén lút đầy hồi hộp lo âu. Giãtừ tấm bạt bao cát cũ mèm rất bao dung bấy lâu luôn che chở. Giã từ cây vú sữa đang vẫy tay chào từ biệt, từng nhánh vẫn còn dấu vết Di bỏ lại của những lần trèo cây, hái trái làm gãy và một lần té cây bị chộ cả năm liền. Giã từ tiếng lọc cọc của cây cầu ván cùng bước chân mà Di ngóng đợi từng đêm. Giã từ hàng rào dây kẽm gai, vết máu trầy tay của Di chắc vẫn còn nằm trên gai nhọn. Giã từ tiếng chuông nhà thờ lễ đầu mỗi sáng, mà mỗi lần nghe, Di cứ ray rức về một tội lỗi mơ hồ nào đó!
      Di nghiêng đầu nhìn vào con hẻm nhỏ, con hẻm hôm nay sao sâu và tối quá! Không thấy đóm lửa nhỏ lập lòe chắc An còn say ngủ. An có giận Di không khi đọc bức thư tạ tình ấy? An ơi! An có biết những lời Di viết cho An cũng giống những chiếc lá vú sữa úa vàng ít ỏi nằm lay lắt trên sân. Còn những lời Di giữ lại trong lòng là vô số chiếc lá mướt xanh đang rung rẩy trên cành. An buồn, giận, hay nghe theo lời Di mà không ra gặp Di lần cuối. Giá mà có An lúc nầy chắc Di sẽ cho An hôn lên đôi má, để hai làn da nhạy cảm nhất một lần được chạm vào nhau, để những cảm xúc bị dồn nén bấy lâu có dịp phun trào...
      Di đứng lặng hồi lâu cho đến khi một chiếc xe lôi dừng lại cùng tiếng hỏi của một bác trung niên:
      -Có đi xe hông cháu gái?
      -Dạ có, đi bến đò,bao nhiêu vậy bác?
      -Năm đồng.
      Bác trả lời rồi không chờ nghe tiếng dạ đồng ý của Di, xuống xe nhấc chiếc vali trên tay Di để lên cái băng ghế trước. Di dặn bác:
      -Bác chạy từ từ thôi nghe bác!
      -Đừng có lo bác chạy cẩn thận lắm.
      Chắc bác tưởng Di sợ té, thật ra Di chỉ muốn nhìn lần cuối những khung cảnh quen thuộc xung quanh, nhìn thật chậm để khắc sâu tất cả vào lòng:
      Đây là quán tạp hóa của bà Mèo. Có lần nửa đêm thức học đói bụng quá phải gọi cửa, bị bả cằn nhằn quá trời. Phải nói dóc là bị đau bụng, rồi mua mấy viên thuốc tiêu chảy kèm theo một gói mì tôm.
      Đây là bến bắc, nơi sáng chủ nhật nào Di cũng mang đồ xuống giặt. Vào mỗi buổi chiều những nam tu sinh trong chủng viện ào ạt kéo nhau ra sông tắm giặt, trên tay ai cũng cầm một cái thau nhỏ cùng màu .
      Rồi đến trại mộc nhà của Thu, người bạn thảo hiền ít có. Cây khế lá mỏng xanh, trái ngọt. Cây cầu sắt và sát một bên là cái quán cháo lòng nổi tiếng khắp thị xả, nằm nửa trên bờ nửa dưới sông như người bị phạt phải quì một gối suốt đời.
      Và đây, khúc đường mà Di yêu thích nhất. Dọc theo hai bên lề là hai hàng me cao to hơn trăm năm tuổi. Gió được gửi tới thường xuyên từ cánh đồng bên kia sông, nên những chiếc lá nhỏ li ti cứ rơi rơi đều đặn, giúp cho cái công viên sát bờ sông thêm phần thi vị. Vậy mà nó chỉ đông người vào những chiều chủ nhật, còn ngày thường thì dành cho những đôi hò hẹn. Phải nhìn kỹ mới thấy vì họ ngồi thụp trên những băng ghế khuất sau mấy lùm cây.
      Xe chạy đến tòa hành chánh, dáng ai đơn độc đi lầm lủi trên lề đường trông quen thuộc quá làm Di nhói tim. Trời ơi! An đó! Với hai tay thọc sâu vào túi quần và cái đầu hơi chúi xuống, hai vai rủ và cái lưng cong cong như bị khuất phục bởi một gánh nặng vô hình. Với cái quần học trò màu xanh ngắn trên mắt cá. Với cái áo sơ mi tay ngắn mỏng te cùng những nếp gấp trên lưng...Nước mắt như đã rình chờ từ lâu lắm, đến lúc nầy ồ ạt tuôn ra không sao kềm giữ được. Di muốn kêu mà không thể nào mở miệng. Ngọn đèn đường xô bóng An té nằm vắt ngang con lộ. Chiếc xe lôi chở Di, chạy chầm chậm rồi cán ngang qua nó...
       
      Xe tới bến đò, bác xe lôi rất tử tế, nhận tiền xong còn xách giùm Di cái vali xuống tận nhà đò. Di mua vé, cảm thấy buồn vì con đò đầy người đang chờ sẵn. Di do dự không biết có nên ở lại chờ chuyến sau để gặp An, còn đang phân vân thì chú lái đò nói như nạt:
      -Cái cô nhỏ kia đi lẹ lên, tui bỏ lại là ráng chịu nghe!
      Thế là dũng khí tiêu tan, xách vali riu ríu bước xuống đò liền.
      Ngồi trên xe Di cứ miên man nghĩ ngợi quên cả cái khổ hình ngồi xe trên đoạn đường dằn xóc. Tới Tân Châu Di ghé vào thăm dì Bảy. Dì mừng lắm cứ kềm Di ở lại ăn cơm. Di từ chối vì biết má đang trông. Dì chạy đi mua liền cho Di một gói xôi bắp còn nóng hổi. Dượng Bảy hỏi:
      -Con tính học nghành nào vậy?
      -Con tính thi vào sư phạm, môn văn.
      Dượng hỏi tuổi Di, bấm tay rồi nói:
      -Con có tay phục dược, đi nghành thuốc là hợp hơn đó!
      -Vậy thi vô nghành y đi con.
      Dì Bảy nói một cách nồng nhiệt, Di đành phải dạ một tiếng cho dì vui.
      Về đến nhà, má đang bận nấu ăn túi bụi, hôm nay má có mời bà con lối xóm cùng cô bác nội ngoại. Má làm mấy mâm cơm cúng tạ ơn cửu huyền thất tổ và đãi bà con đến chung vui. Chưa bao giờ Di thấy má rạng rở như lúc nầy, lòng Di như ấm lại. Tội cho má biết bao, dành giụm từng đồng nuôi Di ăn học, cực nhọc rất nhiều để đổi lại những khoảnh khắc như thế nầy đây. Di bước đến vòng tay ôm lấy má từ phía sau, má né ra rồi nói:
      -Người má mồ hôi không hà, con lên nhà ngoại thắp nhang cho ông bà với thăm bà ngoại đi .
      Không đợi má giục lần nữa Di vọt lẹ lên nhà ngoại liền. Ngoại đang ngồi xát bắp. Di đi rất nhẹ vòng ra phía sau lưng rồi đưa tay bịt mắt ngoại. Ngoại vừa cười vừa hỏi:
      - Con Di phải hông?
      Di buông tay tiu nghĩu:
      - Sao ngoại biết là con liền hay quá vậy?
      - Thì chỉ có mình ên con là giỡn với ngoại kiểu nầy thôi.
      Ngoại bỏ cái dao xuống vỗ nhẹ mấy cái lên đầu Di rồi hỏi:
      - Dứt bịnh chưa con?
      - Dạ hết hẳn rồi ngoại.
      Rồi Di vén áo ngoại lên để măn vú. Hai đầu vú của ngoại nhỏ như hai đầu ngón tay út hồng hồng rất đẹp nên tụi cháu rất khoái. Ngoại kể là đứa cháu nào lúc nhỏ cũng được bú vú da của ngoại khi vắng má. Ngoại mở khai trầu lấy cho Di một cục sô cô la gói trong giấy bạc trắng. Di mừng húm hỏi:
      - Ở đâu mà ngoại có cái nầy vậy ngoại?
      - Của dì Bảy con. Bà con bên chồng của nó ở bên tây gửi tặng, nó đem về cho ngoại. Con ăn liền đi để mấy đứa kia thấy, nó phân bì.
      Di bóc kẹo ăn, kẹo quá ngọt ngào làm Di muốn ứa nước mắt!
      Buổi tiệc thật vui, bà con ai cũng kéo Di lại gần vuốt tóc rồi khen:
      -Cháu tui giỏi quá đậu tới tú tài rồi!
      Má Di nói thêm vô bằng một giọng vô cùng hảnh diện:
      - Nó đậu hạng "u" đó chị!
      -Hạng "u" là hạng gì?
      -Là giỏi nhứt đó, hạng cao số một luôn. Điểm nó là cao đứng thứ nhì trong tỉnh, chỉ thua có một thằng đi ban B có nửa điểm thôi! Ông cậu của Di nói thêm, ra vẻ vô cùng am hiểu.
      - Thiệt vậy hả cháu ? Mợ năm Hơn hỏi.
      Di nghe hai má nóng bừng gật đầu "dạ" rất nhẹ rồi lủi xuống nhà sau luôn.
      Rửa chén xong Di xin má cho đi thăm thầy và bạn. Má cho rồi nói vói theo:
      -Nhớ về sớm nghỉ ngơi, mai còn ngồi xe cả ngày nữa đó!
      Thầy Di cũng là ba của Thiện, nhỏ bạn thân học chung từ năm lớp sáu cho đến khi Di đổi qua trường khác. Thầy mừng lắm! Thiện cũng đậu, thầy nói:
      -Cái gương mặt con có hậu lắm! Cái tướng của con là tướng "ích phu vượn tử ", tốt lắm đó!
      Rồi thầy nhắc những kỷ niệm về Di khi còn học với thầy, trong đó có một vụ mà thầy vui nhất. Đó là cái lần mà cả lớp đang chăm chú học thì thằng Quí đứng lên khoanh tay lại mét:
      -Thưa thầy thằng Na nó nói con muốn con Di!
      Thầy kể lại rồi cười thật lớn giống như lần đầu khi nghe thấy. Di cũng còn nhớ cái sự việc ấy và cũng nhớ là từ cái lần ấy, Di không dám dòm mặt cái tên Na đó nữa.
      Thiện rủ Di ra vườn tâm sự. Thiện đang vui vì vừa có người yêu và kể về người ấy rất hào hứng. Gương mặt tươi roi rói với nụ cười kéo dài hết cỡ. Di quan sát Thiện chăm chú, rồi tự hỏi lòng là tình cảm mình dành cho An là cái thứ tình gì vậy? chỉ có nỗi buồn, nước mắt và che đậy hết cỡ mà thôi! Trời chạng vạng Thiện mới chịu để cho Di ra về. Vừa về đến nhà là bị má rầy liền:
      -Biểu về sớm mà đi tới đỏ đèn mới về!
      Di chống chế:
      -Con thấy thầy đang vui nên không dám ngắt ngang.
      -Rửa mặt đi rồi ra ăn cơm.
      Thường thì nhà Di ăn cơm rất sớm, chắc mọi người đói bụng lắm đây. Di thấy mình có lỗi quá!
      Tối hôm đó má cho em bé ngủ xong thì vô nằm nói chuyện với Di. Má hỏi:
      - Con với thằng An có gì hông?
      Di nghe má hỏi mà giật mình chới với, lắp bắp hỏi lại:
      -Sao má hỏi kỳ vậy?
      -Hồi trưa con vừa đi là nó ghé nhà mình. Nghe nói con không có ở nhà cái mặt nó buồn hiu. Má có hỏi nó có chuyện gì mà qua tới đây kiếm con. Nó trả lời lí nhí má nghe chưa kịp là vọt mất, rồi ra bến đò ngồi cả buổi chắc để đợi con. Má thấy coi kỳ quá nên kêu nó vô nhà ngồi đợi. Chắc nó sợ má vặn hỏi nên từ chối rồi đi về liền.
      Di nghe má nói mà thương An đứt ruột. Má nói thêm:
      -Má nói trước à nghe, cái nhà đó má không có chịu đâu. Má nó nhìn thấy khó lắm, con không kham nổi đâu! Nó lại còn nhỏ tuổi hơn con nữa, con gái phải lấy chồng hơn mình năm bảy tuổi để trừ hao, chớ hông thôi có con rồi người ta tưởng mình là chị hai của chồng, bị chê rồi bỏ bê là khổ dữ lắm!
      -Không có gì đâu má đừng sợ !
      -Con có thương nó hông?
      -Dạ hông!
      -Vậy thì nói hẳn hoi ra cho nó biết, đừng có để nó đeo đuổi rồi sau nầy lỡ cỡ là thất đức lắm đó con! Mà má cấm tiệt, lo mà học chớ không có thơ từ qua lại gì hết, nghe hông?
      -Con biết rồi, má đừng có lo nữa mà.
      -Con tính học món gì vậy!
      - Con tính đi dạy như ba vậy, má thấy có được hông?
      Má thở dài chép miệng:
      - Sao đứa nào cũng đòi giống ba hết vậy? Ba con hồi xưa lương đâu có đủ sống, má phải bương chải quá trời. Đâu có bằng cậu tư Khá, làm y tá thôi mà năm nào cũng mua thêm đất. Má thấy con dì út Hên, hai đứa đều học làm bác sĩ má ham quá! Phải chi có một đứa biết thương má, học cái nghề thuốc để má nhờ cậy khi già yếu thì má mừng lắm, không còn cầu xin thứ gì hết!
      Giọng má nghèn nghẹn làm Di đau lòng quá nên hứa liều cho má yên tâm:
      -Thôi để con ráng học rồi thi vô nghành đó, không biết có chui lọt không đây vì họ lấy ít lắm má ơi!
      - Năm nầy hổng đậu thì năm sau, miễn ráng là được mà con!
       
      Gà vừa gáy tiếng đầu tiên, Di đã thức giấc và lồm cồm ngồi dậy. Một mùi thơm của cơm nếp với lá dứa quyện lấy nhau lan tỏa khắp nhà. Di bước nhanh vào bếp, má đang nhấc nồi xôi xuống rồi bắc cái chảo gang lên bếp lửa. Tia lửa hắt lên làm gương mặt má sáng rực, mái tóc ánh lên như tỏa hào quang. Trong một thoáng Di bỗng ngẩn ngơ phát hiện má mình sao đẹp quá! Nghe nói ngày xưa má nổi tiếng khắp vùng, má cũng có một thời mơ mộng. Một mối tình rất nồng nàn mà má vẫn còn ấp ủ và thỉnh thoảng hiện lên trong tia nhìn xa xăm của má. Di nghe thương má đến nao lòng, vòng tay ôm rồi áp mặt sát vào lưng má. Di hít thật sâu mùi dầu cù là má xức sau ót, lần nầy má không né mà đứng yên rồi cằn nhằn:
      -Thức làm chi sớm vậy, vô ngủ thêm chút nữa đi!
      -Giờ nầy khó ngủ lại lắm, để con phụ má một tay.
      Má cho mỡ vào chảo, chờ mỡ sôi rồi cho mấy miếng đùi và ức gà vào chiên. Một mùi thơm ngào ngạt bốc lên làm Di ứa nước miếng:
      -Má làm xôi gà hả má? Món nầy con khoái nhứt đó!
      -Má biết mà nên nấu nhiều lắm, con ăn trước ở nhà đi, còn dư đem theo cho mấy chị .
      Chắc hồi tối má ngủ ít, nên giờ nầy đã nấu nướng và chuẩn bị đồ đạc sẵn sàng cho Di mang theo. Di nhìn vào cái túi đệm đầy nhóc. Má chất vào đó hai chai nước mắm, hai gáo mắm, một gáo mắm cá linh và một gáo mắm cá lóc. Một bịt đu đủ mắm đã xắt nhỏ ướp sẵn đường, tỏi , ớt. Một hủ tép rang với thịt ba rọi. Nghĩ đến cảnh má ngồi cong lưng lặt từng con tép nhỏ xíu Di nghe xót ruột quá, nước mắt tràn xuống má, nhấc tay lên quẹt cho má không thấy rồi hỏi:
      -Má bắt gà hồi nào mà con không nghe tiếng nó kêu?
      -Hồi khuya, má bóp cái mỏ nó trước rồi mới tóm cái mình của nó.
      -Bộ má không ngủ hay sao mà con thấy má làm nhiều thứ quá!
      -Có chớ, má có ngủ một chút. Nghĩ tới tụi con ở xa má ăn uống hẩm hiu má buồn quá! Con phải nghe lời mấy chị nghe. Đừng có sanh nạnh với nhau. Đừng có ăn hàng bên ngoài. Đi học nhớ nấu nước xách theo, nghe nói người ta lấy nước không có sạch để làm nước đá cho nên đừng có uống, đau bụng chết!
      Má còn định dặn dò thêm thì nghe tiếng gậy lọc cọc và giọng nói của ngoại:
      -Con Di nó dậy chưa má con Cẩm?
      -Con dậy rồi nè ngoại, ủa mà ngoại xài gậy hồi nào vậy?
      -Mới mấy bữa nay thôi! Cái chưn khi không nó hành ngoại nhức chịu không thấu!
      -Ngoại có uống thuốc gì hông vậy ngoại?
      -Tư Khá có ghé chích mấy mũi mà sao hổng thấy bớt.
      Ngoại ngồi xuống bộ ngựa rồi vén cái áo bà ba bên ngoài, mở cây kim tây ghim miệng cái túi to đùng của cái áo mặc bên trong, lôi ra cái gói tiền bọc trong khăn mù xoa. Lớp tiền giấy được ngoại xếp thật thẳng theo thứ tự lớn nhất nằm tuốt phía dưới. Ngoại rút năm tờ giấy xăng dưới cùng dúi vào tay Di:
      -Ngoại cho con để dành mua sách học.
      Má can:
      -Con có cho nó rồi, má cất đi.
      -Con có nhiều rồi ngoại, con còn tính đưa bớt cho ngoại uống thuốc .
      -Lấy đi con, cho ngoại vui. Ngoại ở đây có má con lo đầy đủ hết rồi, chỉ sợ tụi con đau ốm bất tử hổng biết phải cậy nhờ ai!
      Nói tới đó mắt ngoại chớp chớp mấy cái, hai giọt nước hiếm hoi tràn lên khóe rồi dừng lại. Ngoại nhét thật sâu vào túi áo Di rồi nói:
      -Ráng mà học làm bác sĩ để trị cho tiệt nọc cái bịnh nhức mình của ngoại nhe con!
      -Dạ! ngoại ráng giữ sức khỏe, ráng ăn khá khá một chút. Cái chưn của ngoại đau ngoại đừng có đi nhiều, chờ con học ra trường, con làm một cái chân thiệt mạnh để ngoại chạy vù vù luôn .
      Di nói đùa để xua đi cái không khí u buồn đang chực chờ. Có tiếng xe lôi dừng ngoài cổng và tiếng anh hai Thám ba con Thẹn kêu :
      -Đi chưa cô tư?
      -Chờ một chút anh Hai ơi! Di trả lời rồi quay qua hỏi má:
      -Bộ má kêu anh hai chở con ra nhà cô Ba hả má?
      -Ừ! Vậy cho chắc ăn, thôi con ăn lẹ đi rồi thay đồ để cô Ba trông .
      Má lấy cái dĩa kiểu nhỏ bới xôi, xé miếng ức gà thật mềm mời ngoại trước, tống cho Di một dĩa bự chảng đầy nhóc với nguyên cái đùi gà chặt sẵn từng miếng. Di kêu lên:
      -Sao mà nhiều dữ vậy, con ăn sao hết?
      -Ráng ăn đi, chừng nào hết nổi thì bỏ lại cho má.
      Ngồi trên xe lôi, Di ngoái lại thấy má và ngoại còn đứng nhìn theo cho tới mất hút. Bây giờ Di mới khóc thành tiếng. Chờ Di hết khóc, anh hai hỏi:
      -Kỳ nầy đi chắc lâu lắm mới về hả cô tư?
      -Dạ!
      -Cô mà hổng gấp ở lại ăn đám cưới con Thẹn là vui dữ hén!
      -Ủa! con Thẹn đi lấy chồng sao? Chừng nào? Gả chi sớm quá vậy anh Hai?
      -Còn gần một tháng, sớm gì đâu cô! Nó cũng mười bảy, mười tám tuổi rồi. Có con gái như hủ mắm treo đầu giàn, lo thấy ông bà, ông vải. Gả nó được là tui nhẹ mình.
      -Con Thẹn nó học cũng giỏi, sao anh hổng cho nó đi học nữa vậy?
      -Con gái mà học làm chi cho nhiều? Nó đi học rồi ai lo giữ em, nấu cơm, nấu nước.
      Tới nhà cô Ba anh mang đồ vào tới cửa cho Di rồi nhứt định không lấy tiền, lên xe chạy đi luôn. Di nhìn theo, nghe lòng trĩu nặng.
       
      (Xem tiếp CHƯƠNG BỐN/10)
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:47:55 bởi Lâm Du Yên >
      #3
        Lâm Du Yên 04.10.2019 19:06:54 (permalink)
        NHƯ ĐI TRÊN CÁT   
        Truyện dài Lâm Du-Yên 
         
        CHƯƠNG BỐN/10

        Sài Gòn đón Di bằng một thái độ thờ ơ pha ít nhiều ngán ngẩm, như thể một người đã ăn quá no lại được mời thêm một món không hề ưa thích. Cái gương mặt vừa háo hức vừa e dè của Di thể hiện nét đặc trưng của người tỉnh lẻ.
        Còn Di, không hiểu sao khi đặt chân đến bến xe, Di bỗng nhớ lại cảm giác của mình khi lần đầu được nhìn bên trong cái radio mà cậu mở ra để sửa. Lúc đó Di chừng sáu, bảy tuổi. Một ngày kia cái radio của ngoại không hát nữa, nó cứ kêu rè rè rồi nín bặt như một người bị bóp cổ. Trước giờ Di cứ tưởng tượng có những người tí hon nhỏ bằng ngón tay út ở trong đó, nên khi chỉ thấy một mớ dây điện và mấy cái bóng đèn nhỏ xíu Di vô cùng ngạc nhiên và hụt hẩng, giống như cho tay vào một túi gấm thật đẹp mà móc ra chỉ có mấy viên đá xù xì.
        Ngày còn nhỏ Di rất khoái hóng chuyện, mỗi lần mấy ông bạn của ngoại đến Di hay mượn cớ bưng nước ra mời rồi đấm lưng cho ngoại để nghe lóm. Thường thì các cụ hay nhắc đến việc ông cha ngày xưa đã cơ cực khai khẩn miền đất hoang sơ nầy như thế nào. Di còn nhớ ngoại kể cánh đồng của quê Di ngày xưa có đầm sen rất rộng, một lần ngoại đi xuyên qua bị gai cào nát cái quần. Rồi kể đến những sản vật dồi dào mà thiên nhiên ban tặng: Mấy con rùa to cỡ hai bàn tay nối lại, khi đốt cỏ khai hoang phải chạy bỏ lại cả ổ trứng. Cá lội đầy sông, chỉ cần nhúng cái rỗ xuống là xúc lên cả một rỗ đầy không cần rải cám nhử. Ngoại tắm sông còn bị cá nóc cắn cụt ngón chân út. Trong đồng thì đỉa nhiều đến hút cạn máu của cả một con bò.
        Ai một lần đến Sài gòn đều đem về một câu chuyện. Di nghe một cách say sưa, để cho bộ óc tưởng tượng của mình hoạt động hết cỡ. Lúc đó Di cứ nghĩ Sài Gòn chắc là hoàn toàn trái ngược với quê Di, như thể một tòa lâu đài với cái nhà lá nhỏ, bên trong của nó rất tráng lệ, rất náo nhiệt rất...nguy hiểm! Sau nầy dù đã lớn nhưng ấn tượng về nó lần đầu trong Di vẫn còn đậm nét.
        Câu trả lời mà Di thường được nghe nhiều nhất về Sài Gòn là xe cộ rất nhiều và chạy rất ẩu, người bị xe cán chết ngày nào cũng có. Còn có nạn móc túi và giựt dây chuyền nữa, rồi không hiểu có phải để hù dọa Di hay không, mà họ hay nhấn mạnh rằng những đứa con gái như Di thường bị dụ rồi đem bán mất tiêu. Cho nên khi đến Sài Gòn, Di giống như con cá từ mương ra sông lớn cứ men theo bờ mà đi. Di không dám băng qua đường một mình, cứ đi tà tà chờ có người sắp qua đường thì tháp tùng theo. Còn trong giao tiếp thì hai từ "cám ơn" và"xin lỗi" có lẽ được Di dùng nhiều nhất.
        Căn nhà đầu tiên mà chị em Di ở trọ rất gần cái công viên, nằm trong xóm nhỏ với gát thấp, mái tôn nên vào buổi trưa rất nóng. Chiều chiều Di hay năn nỉ chị Ba dẫn Di ra công viên hóng mát, chị hơi ngần ngừ rồi cũng chìu Di. Có một lần hai chị em mãi mê nói chuyện trời tối hồi nào không hay, có hai người đàn ông xán tới gần rủ Di và chị đi uống nước thế là hai chị em sợ quá, từ đó không dám ra công viên nữa.
        Có hai điểm ở Sài Gòn thu hút Di nhất là nhà sách và sở thú. Sở thú thì phải tốn tiền mua vé nên lâu lâu Di mới vô một lần, còn nhà sách thì chủ nhật và ngày nghỉ, Di và chị Ba đóng đô suốt buổi. Ban đầu coi sách cọp Di mắc cỡ dữ lắm riết rồi cũng quen...
        Một điểm đặc biệt khác của Sài Gòn mà Di rất thích, là ở đây người ta sống đúng theo bản chất của mình không bị gò bó. Ai ăn gì? mặc gì? cũng chẳng bị phê phán mà có bị họ cũng cóc cần. Buổi sáng mấy bà nội trợ dậy muộn có khi không thèm thay bộ đồ mặc ngủ. Xách giỏ đi te te ra chợ hay ngồi chồm hổm bên gánh hàng ăn ghé vội giữa con hẻm, vừa nhai chóp chép vừa chuyện trò rôm rả. Mấy con đường trong xóm thường rất nhỏ nên gánh hàng và nhóm thực khách thường lấp kín lối đi. Lâu lâu một chiếc xe đạp hay Hon đa chạy tới phải dừng lại chờ họ nép, hay dọn tạm vào hiên của căn nhà nào đó. Mấy ông ấy chờ lâu nên quạu, buột miệng cằn nhằn: "Đàn bà, con gái gì mà ăn hàng giữa đường, giữa xá". Thế là bị mấy bà chửi té tát lại liền: "Thây kệ tụi tui, lo mà về dạy vợ, dạy con ông á!".


        Đêm hôm ấy Di và chị Ba nói chuyện rất khuya, chị Ba hỏi:
        -Em đã quyết định ghi danh vào trường nào chưa?
        Di kể cho chị hầu như nguyên văn những lời của má, ngoại và dì, dượng Bảy. Chị Ba thở dài rồi nói:
        -Chị thấy có lỗi với má và em quá! Hồi chị thi đậu má cũng muốn chị đi theo ngành y, khi biết chị học văn má buồn lắm, nếu được làm lại chắc chị chọn theo ý má cho má vui lòng.
        Vậy là Di quyết định ghi danh vào đại học khoa học lấy bằng dự bị SPCN để thi vào y, cánh cửa nầy mở rất hẹp cho nên muốn vào được bên trong chắc phải chen lấn đến trầy da tróc vảy.
        Sáng hôm sau chị Ba chở Di đến một ngôi trường rất to, rất đẹp, với những cây Liêm Xẹt vượt lên rất cao, hoa từng chùm nở rợp, vàng rực trên cây và rơi lót đầy mặt đất. Bao nhiêu bàn chân giẩm lên một cách vô tình làm Di nghe xon xót nhưng rồi cũng không thể nào tránh được. Hoa cứ rụng mặc dù trời không có gió, một mùi thơm rất dễ chịu thoang thoảng trong không khí, có mấy bông điệu đà bám nhẹ lên những mái tóc dài hoặc ngắn, nằm chưa lâu là bị rớt xuống liền. Hình như tóc Di cũng được bám vào và chị Ba đưa tay phủi ngay làm Di nghe tiêng tiếc.
        Các thầy cô không gọi sinh viên bằng em một cách thân mật mà bằng anh và chị, chắc muốn cho họ nhận thức được là mình đã lớn và từ nay phải có trách nhiệm trong việc học của mình. Không còn học để trả bài, làm bài và tìm cách đối phó với thầy cô như ở lớp dưới nữa. Đã quá quen với cung cách cũ nên giai đoạn đầu Di chưa thích ứng ngay được. Chỉ cái chuyện giành chỗ mỗi ngày cũng làm cho Di phiền lòng. Năm giờ sáng phải đi thực tập, đi thật sớm để có được một chỗ gần đèn, rồi nhanh chân chiếm chỗ trong thư viện ngồi học. Đến trưa, ăn vội một ổ bánh mì thịt xong là ba chân bốn cẳng chạy tới giảng đường để giành chỗ tiếp. May mà trường gần nhà nên học xong Di đi bộ về không phải chạy ra trạm xe buýt như các bạn nhà xa. Cái câu cách ngôn "đời là tranh đấu" được áp dụng triệt để bắt đầu từ lúc nầy.
        Đội ngũ xe ôm ở Sài gòn rất hùng hậu, đi một quảng là có người xán đến hỏi. ban đầu Di cứ ngỡ mình bị ghẹo nên mắc cỡ cắm đầu bước nhanh như chạy, sau nầy biết ra cứ cười thầm...
        Di kết thân với nhóm bạn và cùng phân công giành chỗ cho nhau. Phát hiện ra ở đây dân học trường tây và những trường có tên tuổi, kiêu hãnh hơn người khác. Trường Di con gái không ăn diện như bên văn của chị Ba và cũng ít người đẹp hơn. Cũng hiếm những đôi trai gái rù rì, tuy nhiên đám con trai nhất là trai Bắc cũng tán gái điệu nghệ lắm. Di nhớ có một tên hay tìm cách ngồi gần, làm quen và hỏi tên của Di. Di đáp một cách hóm hỉnh:
        -Tên tui bắt đầu bằng chữ D.
        Vậy mà hắn ta đoán trúng phóc, thấy Di ngạc nhiên quá cỡ, hắn bèn giải thích:
        -Bởi vì chỉ có cái tên đó đẹp nhất và tôi thích nhất.
        Cái tên tán chị Ba còn vui hơn nữa, chị tên Lệ, y ta nói với chị bằng một giọng rất dí dỏm:
        -Cả đời nầy tôi sẽ không bao giờ quên cô!
        -Sao vậy?
        -Tôi tên Lê bỏ dấu nặng nữa là thành Lệ.
        Chị kể cho Di nghe, hai chị em cười muốn đau bụng luôn.
        Ai ở Sài gòn lâu cũng đưa ra một kết luận là Sài gòn là nơi "dễ ăn, khó ở". Thật vậy, rất khó tìm ra một chỗ trọ hợp túi tiền và tiện nghi, dân tỉnh như Di đã quen với môi trường thông thoáng nên lúc đầu cứ thấy ngợp ngợp như thiếu không khí vậy. Đường xá bụi bặm nhiều nên hình như Di cũng thở ít khi ra ngoài, bởi vậy khi về đến nhà là nghe khô rát cổ.
        Hàng ăn và món ăn thì vô cùng phong phú đủ mọi thứ và đủ mọi giá, chỉ có cái là người Sài gòn thích cho màu đỏ vào thức ăn quá! Kể cả mắm cũng ướp màu đỏ, mấy nồi bún rêu, bún ốc, bánh canh cua thì khỏi phải nói. Người Sài gòn thích ăn bên ngoài vào mọi lúc mọi nơi, sáng, trưa, chiều và nhất là vào buổi tối. Mấy quán ăn ở khu vực chợ lớn vô cùng tấp nập, còn trong hẻm nhỏ thì vô số hàng rong gánh dập dìu. Mấy chị bán hàng nhớ tên từng người khách mỗi lần đi ngang là mời đích danh, như cái chị bán bánh ít trần đó! Di mua có mấy lần thôi mà hể đi ngang nhà là bị chị réo liền:
        -Mua bánh hông cô Di?
        Làm Di mắc cỡ muốn chết!
        Lần đầu nghe chị ba nói chở Di đi ăn bò bía cho biết Di háo hức lắm. Giờ tan học chiều gần trường Gia Long, mấy xe bò bía bị các nàng tiên áo trắng vây quanh y như mấy cục kẹo bị kiến bu kín vậy. Chị Ba vất vả lắm mới chui lọt vào trong. rồi bưng ra cho Di một dĩa có những cuốn nho nhỏ bằng ngón tay cái. Di ăn rồi nói:
        -Cái cuốn của em không có thịt bò.
        Chị Ba cười giải thích :
        -Người ta gọi tên nó theo âm tiếng Hoa đọc trại ra, chớ nó chỉ có lạp xưởng, trứng vịt chiên, đậu phọng rang, củ sắn và rau thôi!
        Thế là Di làm quen và kết thân với bò bía luôn kể từ hôm đó.
         
        Di yêu lắm Sài gòn khi rạng sáng! Những ngày thực tập phải ra đường trước năm giờ. Di bước khẽ khàng qua những dãy nhà hãy còn nhắm mắt. Những con đường duỗi dài thở rất nhẹ và êm. Những ngả tư vắng lặng đang chìm sâu trong giấc ngủ, mặc tình những ngọn đèn xanh, đỏ, vàng, cứ thay phiên nhau lay gọi. Không khí lúc nầy rất trong lành và hơi se lạnh. Như thể mặt đất vừa tắm xong và bầu trời giống chiếc khăn được giặt cẩn thận, đã gột sạch dấu vết của những ngôi sao và mặt trăng bỏ lại để chuẩn bị lau khô cho nó. Di cố căng hết lồng ngực ra để hít thật sâu, thật đầy, thật nhiều cái không khí trinh nguyên ấy hầu để dành dùng đủ cho cả ngày.
        Những chiếc xe đạp với cái giỏ tre rất to đựng đầy hoa từ phía sau chạy lướt qua, rải một mùi thơm dọc theo lối đi. Những gánh rau xanh mướt trên vai những người phụ nữ gầy gò, bước thoăn thoắt như chạy đua cùng tia nắng sớm.Những đứa bé bán báo chọc thủng không gian bằng tiếng rao lanh lảnh của nó. Đến lúc nầy Sài Gòn mới uể oải ngồi dậy, vừa ngáp vừa dụi mắt chuẩn bị một ngày mới. Những ngọn đèn đường cũng đồng loạt tắt ngấm, vội vã kéo nhau đi tìm một giấc ngủ muộn màng.
        Mất mấy tháng để thâm nhập, bây giờ Di đã không còn sợ băng ngang qua đường một mình nữa. Đã dám phóng xe đạp đi lang thang và uống nước mía mà không còn sợ đau bụng. Vậy là đủ để Di gia nhập vào đội ngủ của các sinh viên đi tìm việc làm thêm và dạy kèm. Một buổi sáng Di cắt một mảnh báo có ghi mấy cái địa chỉ cần gia sư, gói theo thẻ căn cước và mảnh bằng rồi trực chỉ lên đường, đi sưu tầm những tấm ảnh của đức Trần Hưng Đạo.
        Căn nhà mà Di tìm đến nằm trong cư xá Lử Gia, nó rất bề thế với ba tầng lầu cao nghệu. Một tấm bảng có ghi "Coi chừng chó dữ'" làm cho Di rất e dè khi bấm chuông. Như để dằn mặt, một con chó Bẹt giê to đùng vừa sủa vừa nhảy chồm như muốn xông vào Di mà cắn. Một người phụ nữ trung niên vội vã đi ra, nhìn Di rồi hỏi:
        -Cô kiếm ai?
        Di ấp úng hỏi:
        -Có phải đây là địa chỉ đăng báo cần gia sư hông cô?
        -Đúng rồi, cô chờ một chút để tui xích con chó lại rồi hãy vô nghen!
        Di rón rén bước vô, con chó nhìn Di tỏ vẻ nghi ngờ rồi le cái lưỡi đỏ lòm, dài thòn ra đe dọa. Di được mời ngồi ở sa lông chờ cổ lên lầu mời chủ. Cảm giác hồi họp, bất an cứ dấy lên từng đợt trong lòng Di. Chừng mười lăm phút sau một người đàn ông trạc bốn mươi mặc pyjama từ trên lầu đi xuống. Di đứng bật dậy :
        -Chào chú.
        -Ngồi đi em, xin lỗi nghe, chắc chờ lâu hơi sốt ruột phải không?
        -Dạ hổng sao.
        Ông chủ vừa hỏi tên tuổi, quê quán vừa xem giấy tờ Di trưng ra, thấy điểm toán của Di cao ổng lộ vẻ hài lòng, nói:
        -Anh nói trước để em đừng có nản. Thằng nhỏ con anh nó lười và dốt lắm, năm nào cũng bị đúp. Nó cũng hơi lì vì vậy em phải ráng kiên nhẫn, dỗ ngọt cho nó học. Anh sẽ trả tiền nhiều hơn người ta một chút, em không có bị thiệt thòi đâu!
        Di không ngờ mình gặp may dữ vậy! Nghe bè bạn và chị Ba than là đi mòn vỏ xe mà chưa kiếm nỗi một chỗ, còn Di mới đi một lần mà được nhận liền. Di mừng quá nói lấp bấp:
        -Dạ cháu cám ơn chú!
        -Có gì đâu mà cám ơn, mà đừng có gọi bằng chú nữa, gọi bằng anh thôi!
        -Dạ!
        Ngay ngày dạy đầu tiên là Di đã dội ngược. Thằng học trò cao hơn Di gần một tấc, mười bảy tuổi mà mới học lớp chín, mất căn bản đủ mọi môn. Cái mặt khinh khỉnh và con mắt ngổ ngáo của nó làm Di có cảm giác như vị trí thay đổi. Di là con bé học trò còn nó như thầy giáo vậy. Di ấp úng giới thiệu tên mình rồi hỏi tên của nó. Nó trả lời một tiếng một:
        -Bảo.
        Di nhủ thầm đúng là Di sắp bị "bão" thật rồi. Di hỏi mấy câu để xem trình độ của nó tới đâu, thật là nản lòng, cái gì nó cũng lắc đầu không biết. Tên mấy công thức, phương trình và hằng đẳng thức đã học từ lâu mà y như mới nghe qua lần đầu. Nó lắc đầu tới đâu là Di giảng lại tới đó, gần một tiếng đồng hồ nói khô cả cổ cuối cùng Di hỏi nó:
        -Nãy giờ chị giảng vậy em có hiểu hông? Nếu có gì chưa biết em cứ hỏi lại.
        Nó nhìn Di chăm chăm rồi hỏi, không cười:
        -Chị có bồ chưa?
        Di kêu thầm trong bụng: "Trời ơi! sao nỡ đọa đầy con", nuốt nước miếng cho trơn cái cổ rồi gật đầu:
        -Rồi .
        -Xạo.
        -Em đừng có hổn, đừng hỏi những câu như vậy nữa. Chị chỉ trả lời cho em những câu hỏi về bài học thôi!
        -Chị phải trả lời nếu không tui không học.
        Cái cách nó nói như ban ra mệnh lệnh làm Di bực mình hết chỗ nói, bèn gằn giọng:
        -Em nên nhớ là em học cho chính bản thân mình...
        Mới nói tới đó là nó bịt tai lắc đầu rú lên:
        -Biết rồi, câu nầy một ngày nghe đến mấy chục lần, chán lắm rồi !
        Chị giúp việc bưng ly nước lên cho Di, thấy thế để vội lên bàn rồi lủi nhanh liền. Vừa cầm ly nước uống Di vừa suy nghĩ, chẳng lẻ mới ra trận lần đầu mà cuốn cờ bỏ chạy hay sao? Ta đã từng làm lớp trưởng, đã điều khiển những đứa bạn cũng cứng đầu cứng cổ, không lẻ bây giờ lại thua cái thằng nhóc hổn hào nầy ? Như đoán được ý Di nó nói giọng có hơi dịu lại:
        -Chị đừng có mong giáo hóa tui, tui chỉ học khi nào thích và có hứng. Thấy chị hiền tui muốn thân thiện hơn nên hỏi vậy thôi, có gì đâu mà hổn. Chị cũng đâu có lớn tuổi hơn tui nhiều mà lên giọng như má tui vậy!
        Vậy là một ngày đầy sấm sét đã trôi qua. Đánh đổ cả nhiệt tình và những ảo tưởng của Di về một cô giáo nhu mì, tận tâm và cậu học trò thật dễ thương sẽ xem Di như thần tượng.
         
        Chính tính hiếu thắng, bướng bỉnh, tự phụ đã buộc Di phải tiếp tục cái công việc mà Di rất sợ. Di không muốn thừa nhận rằng, có một trở ngại duy nhất làm Di bị đánh gục. Đó là cái tính tàn nhẫn của con người, nhất là của thằng nhải ranh ngổ ngược ấy. Di nhất quyết phải thắng nó bằng mọi giá, chẳng phải vì lòng trắc ẩn cố sửa chửa, dạy dỗ nó . Di chỉ muốn khẳng định với chính mình rằng không gì có thể ngáng trở, thay đổi hướng đi mà Di đã vạch sẵn .
        Lần thứ nhì đến dạy. Nó đón Di bằng một nụ cười nửa như giảng hòa nửa như thách đố. Di phát hiện rằng nó rất thông minh, biết dừng lại đúng lúc khi sợi dây giao tiếp giữa nó và Di quá căng thẳng.
        Tuần lễ thứ hai nó không gọi Di bằng chị cộc lốc mà kèm thêm tên, rồi tiếng chị bị ăn gian chỉ còn một nửa. Nó hay tìm cách nhìn xoáy vào người Di, tia mắt như một tên trộm cố lách qua khe cửa, kẻ hở mành như sợi chỉ, nằm giữa hai cái núc áo thứ nhất và thứ nhì trên ngực. Từ đó Di không dám mặc áo sơ mi mà dùng mấy cái áo chui đầu, cố tránh không nhìn vào mắt nó.
        Rồi một ngày... Hôm ấy Di diện cái áo thun màu đỏ. Trong túi xách có sẵn một gói quà để khi dạy xong là đến dự tiệc sinh nhật của Phụng- cô bạn mới quen- không phải quay về nhà. Lúc Di đi về, nó ra mở cổng. Di dắt xe lách qua khoảng trống rất hẹp còn chừa lại, chưa kịp cám ơn là nó phóng tay ngay vào nơi mà đôi mắt gian manh thường xuyên lục lọi rồi nắm rất chặt làm Di đau nhói. Di đứng chết trân bàng hoàng không nói được tiếng nào. Cánh cổng phía sau đóng lại. Tiếng con chó sủa vang như xua đuổi. Một nổi căm hận dâng lên quá mãnh liệt làm Di muốn ngất xỉu...
        Không biết Di đã đạp xe qua bao nhiêu con đường mà không dừng lại. Gặp đèn đỏ là Di quẹo phải, nước mắt rơi hoài trên má...Trời ơi! Sài Gòn rộng lớn quá sao không cho Di một góc khuất để ngồi mà khóc cho hả? Sài gòn đông nghịt với người người chen chúc, sao Di như đang đi giữa hoang mạc khô cằn? Bao nhiêu ý tưởng độc ác xuất hiện trong đầu cùng một lúc. Di muốn chặt và bằm nát cái bàn tay thối tha. Di muốn tát cho vỡ cái mặt khinh khỉnh. Di muốn lòn ngón tay vào khóe miệng mà xé tan cái nụ cười điểu cáng. Di muốn móc hai con mắt với tia nhìn dâm ô đồi bại ghê người của nó.
        Trong lòng Di hừng hực như một biển lửa. Di nhớ lại câu chuyện viết về một cô gái bị cưởng bức, sau đó đi học võ và tìm cách trả thù. Cô ta chẳng những thiến hết những tên hại mình, còn ra tay với bọn bất lương ăn hiếp mấy cô gái khác, một cách rất dã man. Di không thích cái truyện ấy vì cho rằng hành động đó quá mù quáng, nhưng ngay lúc nầy, Di sẵn sàng tiếp tay cô ta, thiến hết phân nửa dân số trên trái đất mà chẳng chút ngại ngần.
        Gió liên tục quét vào mặt và làm khô đi những giọt nước mắt. Mối căm giận sục sôi dần biến thành nỗi buồn rất dầy rất nặng. Nó cứ chìm dần, chìm dần trong lòng và khi chạm tới đáy, nẩy bật lên tạo thành tiếng kêu mà Di thốt ra một cách vô thức:
        -An ơi!

        Cái tai nạn ấy đã để lại trong lòng Di một vết thương chí mạng. Mỗi lần nhớ đến là tim đau nhói, cổ thắt lại và hầu như không thở nổi. Có một lần Di đang ăn cơm bỗng nghẹn ngang, người cứng đờ. Chị ba phải vỗ vào lưng cả chục phát, cái cục nghẹn ấy mới từ từ trôi xuống, chị nói:
        -Ngoại hay bị như vầy lắm, cái chứng nầy thường xảy ra ở mấy người lớn tuổi, em còn nhỏ mà sao...?
        Di vẫn chưa kể cho hai chị nghe về chuyện ấy. Di không muốn cái tên khốn đó lại giành thêm thắng lợi, hai chị của Di, nhất là chị Ba sẽ đau lòng biết mấy. Chỉ riêng chuyện Di không học đúng ngành mình yêu thích đã làm chị ray rức lắm rồi, nay biết thêm chuyện nầy nữa chắc chị khổ tâm lắm. Thế nên khi chị nhắc Di đi dạy kẻo trễ, Di đành phải trả lời:
        -Em nghỉ dạy luôn rồi.
        -Sao vậy?
        Câu trả lời Di đã nhẩm trong lòng không biết bao nhiêu lần mà nói ra vẫn còn vấp váp:
        -Nó hổn láo...Còn gọi em bằng cưng nữa...Em tức quá chịu không nổi nên đấm nó sặc máu mũi.
        -Trời đất ơi ! Có chuyện đó nữa sao? Ba má nó có làm dữ hông?
        -Có, em năn nỉ và không nhận tiền lương coi như bồi thường phí tổn cho nó.
        Chị Ba nhìn Di bằng tia mắt đầy dấu chấm hỏi, rồi lắc đầu:
        -Thiệt là tin hổng nổi luôn, không ngờ em nhát như thỏ đế mà khi nóng lên dám ra tay đánh người như vậy. May mà nó cũng hiền nếu không nó xúi cả nhà ra đánh lại thì sao?
        Di nghe một vị chua dâng lên tận cổ. Chị ba thấy Di buồn nên trêu:
        -Vậy mà đòi làm tín đồ của thánh GANDHI, tuyệt đối ủng hộ chính sách bất bạo động và hết lời lên án chiến tranh!
        Di ráng nở một nụ cười đáp lại chị, bùi ngùi nhớ lại dự định của mình: số tiền kiếm được đầu tiên sẽ mua cho ngoại cái khăn rằn sọc đỏ để ngoại lau cổ trầu. Mua cho má một chai dầu con ó. Mua cho chị ba quyển "Cuốn theo chiều gió". Mua cho chị hai một đôi dép... thật đúng như câu ca dao:
        -Cái cò là cái cò con
        Chưa đi đến chợ đã toan ăn quà.
        Tội nghiệp chú cò bé nhỏ biết bao! Mang đôi cánh yếu ớt vậy mà đòi chu du khắp thế giới. Vừa có tí ti thành quả cứ ngỡ mình là siêu nhân. Mới chui ra khỏi tổ là bị gió vặt trụi lủi lông cánh, để từ giờ hể nghe tiếng lá xào xạc là giật mình thảng thốt!
        Đôi khi Di tự nghĩ, nếu người ta có thể giết nhau bằng ý tưởng chắc trái đất nầy không còn sót lại dù chỉ một người. Từ trước đến giờ, Di tin tưởng và làm theo lời dạy của gia đình và sách vở. Nào là "ở hiền gặp lành", "kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", "nhân chi sơ, tánh bổn thiện"...v...v... Tất cả những điều hầu như là chân lý được dùng làm nền tảng cho cách đối nhân xử thế biết bao đời. Giờ sao trở nên quá lỏng lẽo, cái "tánh bổn thiện " của con người, ngày càng một èo uột. Ngay trong lòng Di, nó cũng đã bị mẻ một miếng rồi!
         
        Đây là thời điểm bắt đầu cho những gảy đổ, của một chuỗi hệ thống tư tưởng mà Di xây dựng cho mình.
        Thế giới từ trước đến giờ, có gương mặt của một bà mẹ quê hiền hòa với những lời dạy bảo đơn sơ, một tình thương vô bờ bến. Nó mang những sắc màu bình dị của một vùng đồng bằng tràn ngập màu xanh: Màu xanh gần như đen của con sông lấp lánh ánh bạc trong những đêm trăng. Màu xanh lá của những mảnh vườn với những chòm cây luôn xao động, với mùi hoa mận, hoa ổi thoang thoảng ôm ấp những căn nhà lá nhỏ. Màu xanh mạ non của cánh đồng lúa trãi dài mút mắt, mềm mại như tấm chăn bông đắp lên mặt đất... Những con đường đất nhỏ vạch một lối ngoằn ngoèo. Những chiếc xe bò gập ghềnh với những chú bò cùng một lúc làm ba, bốn công việc: Vừa kéo xe, vừa nhai cỏ, vừa phe phẩy chiếc đuôi đuổi muỗi vừa suy tư như một triết gia. Thật xa là dãy núi mà màu sắc luôn thay đổi theo giờ giấc: Màu xanh đậm với một chút ánh hồng trên má vào sáng sớm. Buổi trưa, xanh nhạt hơn với đỉnh đầu bạc thếch vì nắng xối, nên những đám mây trắng trôi qua rất chậm, cố tình nấn ná để che mát cho nó càng lâu càng tốt. Vào buổi chiều nó mang vẻ u buồn, xa vắng với một màu xanh pha tím, như màu mắt của người chinh phụ. Bầu trời xanh dần thẩm lại, mang cùng màu với những chấm đen nhỏ dần, của bầy chim đang bay nhanh về tổ.
        Những con người trong thế giới của Di cũng hiền hòa và vô cùng thuần khiết: Đó là những cô gái có làn da màu đất. Gió gom màu sắc và hương thơm của những loài hoa dại trên đồng nội để trang điểm cho nàng. Nàng có một vẻ đẹp của thiên nhiên, không cầu kỳ nhưng thật hài hòa và dễ gần, dễ mến. Những chàng trai vững chải, thô sơ như đá tảng, rất kiệm lời. Bộc lộ tình cảm bằng những cử chỉ vụng về nhưng ẩn chứa một tình yêu sâu đậm.
        Trong thế giới mà Di được nuôi nấng, ngôn từ không dùng nhiều lắm. Những bài học về luân lý và đạo đức được diễn tả bằng hành động: Bằng những buổi chiều ông ngoại chở Di ngồi trên thanh ngang phía trước của chiếc xe đòn giông, chạy trên con đường đất nhỏ tìm hái những bông trang , bông điệp mang về cúng Phật. Thỉnh thoảng ông dừng xe lại, lượm một cục đá, mảnh chai hoặc bất cứ một vật chướng nào nằm giữa lối đi. Bằng những đồng tiền dành giụm của chị Ba mang trả công cho ông bác mài dao. Bằng những miếng cơm nguội còn lại mỗi ngày trong nồi, bà ngoại đã cố tình nấu dư để chờ sẵn một người lỡ bước.
        Di như một đứa bé lơ lửng trên không nhờ cầm một chùm bóng bay đầy màu sắc. Từ trên cao nhìn xuống, mọi vật trông bé nhỏ và hiền từ, rồi từng chiếc một nổ tung trả Di về với mặt đất cứng trơ, vô cảm.
        Di bắt đầu nhìn về mặt trái của mọi vấn đề. Đảo ngược thứ tự nhân quả của mọi việc. Chẳng hạn từ trước đến giờ Di cho rằng vì có chiến tranh nên người ta mới tạo ra vũ khí. Bây giờ thì Di lại nghĩ, phải chăng vì có vũ khí nên người ta phải tìm cho ra một đối tượng để tiêu dùng...

        Thời kỳ nầy bắt đầu một tật xấu mà Di không thể nào sửa được. Mỗi khi muốn thoát khỏi một ý nghĩ không vui, Di hay buột miệng thốt những từ vô nghĩa. Lúc đầu chỉ một mình chị Ba nhận ra về sau ai cũng biết, bị chọc rất dữ nên cố hết sức rũ bỏ mãi mà chẳng xong. Đầu óc Di không còn nhạy bén, không tập trung được nhiều như xưa. Di từng nổi tiếng trong nhóm thực tập, nhờ tỏ ra khéo tay khi mổ con ốc Ma lấy ra nguyên bộ ruột mành như sợi chỉ của nó. Thầy Dũng khen và đặt nhiều hy vọng ở Di, vậy mà...
        Chị Ba đã bắt đầu lo ngaị về Di. Mỗi buổi chiều chỉ hay chở Di đi dạo phố, chạy vòng vòng ngắm thiên hạ. Lúc nầy Sài gòn đang vào mùa áo đỏ. Không biết có phải do tâm trạng của mình hay không mà Di thấy màu đỏ thật tang tóc và buồn thảm vô cùng.
        Vật giá ngày một leo thang, tình hình đất nước đang xáo trộn. Việc làm ăn của má cũng không trôi chảy nên số tiền má cho mỗi tháng cứ ít dần. Ba chị em rán tiết kiệm tối đa, các bữa ăn thường là rau muống với trứng vịt luột dầm nước mắm, vậy mà cứ thiếu trước hụt sau. Chị Hai lảnh đồ về gia công như làm khuy áo và vắt lai, cứ bị chê tới chê lui đến phát nản. Một ngày kia không hiểu chị Ba lấy tiền ở đâu ra, mua cho Di một khoanh chả luạ rồi ép Di ăn một mình cho đến hết. Chị hứa với Di, giọng chắc nịt:
        -Mai mốt chị đi làm có tiền, mỗi ngày sẽ cho em ăn một đòn chả lụa tới chừng nào em ngán thì thôi!
        Bây giờ Di còn bị thêm cái bịnh mất ngủ nữa. Ngày trước Di ao ước được má cho ngủ thả giàn, cứ mong đến lúc được ở một mình để ngủ cho đã. Bây giờ phải ráng nằm im không cựa quậy sợ mấy chị biết lại lo. Có một đêm rất khuya, không thể chợp mắt Di lồm cồm ngồi dậy lấy tập ra học tiếp. Ban đầu đọc thầm trong miệng rồi không hiểu sao cứ lên giọng từ từ, thế là cái ông bác rất khó tính nhà kế bên đập mạnh tay vào vách hét:
        -Đọc nhỏ thôi, đồ khùng!
         
        OOo

        Chị em Di dọn về chỗ trọ mới cùng một lúc với Sài gòn đang rộn ràng chuẩn bị đón Noel. Để không phải mất tiền thuê xe chị Hai phân công: Chị gói đồ. Di vận chuyể. Chị Ba chờ sẵn ở nhà mới để xếp vào, đồ đạc cũng không nhiều đa số là sách vở. Di đi về hơn chục bận là xong.
        Sài gòn ngập tràn không khí náo nức của mùa lễ hội. Những quán cà phê phát liên tục những bản nhạc giáng sinh, và dù không có đạo Di vẫn thấy một nỗi nôn nao khó tả. Những bản nhạc viết về Noel đều nhuốm vị buồn mang mác. Đặc biệt là các bài diễn tả tâm trạng của những người lính đang gác nơi đồn xa, nhớ người yêu cùng kỷ niệm về một mùa giáng sinh xưa cũ. Mấy câu cuối trong một bản nhạc như nói lên niềm mong ước tha thiết của mọi người, cứ ngân mãi trong lòng Di : "Nguyện cầu cho thế giới, cho trăm họ hòa bình, cho đôi ta gặp lại, trong một mùa giáng sinh...".
        Cuộc chiến trên quê hương nhỏ bé của Di đang dần kết thúc. Nó giống như con thú bị thương đang giãy dụa hết sức dữ dội trước khi ngã gục. Giữa dòng người và xe cộ đông vui, háo hức ấy thỉnh thoảng một chiếc xe zeep hú còi phóng vội. Mọi người xô nhau dạt vào lề và chăm chú nhìn theo. Phía sau xe, những bàn chân đung đưa thò ra ngoài với những vết máu khô còn đọng lại. Giai điệu không lời của nỗi sầu tử biệt cất lên. Không khí chùng lại và lòng Di bỗng tràn ngập một nỗi buồn thấm đẵm. Cảm nhận nỗi bất hạnh của mình thật bé nhỏ biết bao so với thân phận chung của đất nước.
        Dân Sài gòn có lẻ là những người vô tư nhất, dù chiến sự đang dầu sôi lửa bỏng họ vẫn tưng bừng chào đón những dịp vui. Từng nhóm người ăn diện thật đẹp, nói cười rôm rả kéo nhau đi chật cả lề đường. Mấy quầy bán thiệp và quà giáng sinh bày lấn vĩa hè. Các cô cậu choai choai chụm đầu chăm chú lựa. Xe đạp, xe máy đậu chật cứng choáng hết lối đi. Người đi bộ bị lấn xuống lòng đường làm giao thông ách tắc, nhất là vào những buổi chiều và tối. Di có cảm giác như mọi người đều kéo nhau ra phố. Mấy con đường ở trung tâm và gần chợ Bến thành như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do...Được trang hoàng rực rở với vô số đèn màu, mắc từng tràng dài dọc theo khung cửa của những nhà hàng, khách sạn. Những quả chuông mạ vàng, mạ bạc với hàng trăm gói quà xinh xắn, cùng dây kim tuyến treo lủng lẳng trên những cây thông bằng nhựa, bằng gỗ. Chúng được đặt trong tiền sảnh của những cửa hàng sang trọng tạo một cảm giác an lành, no ấm. Lễ giáng sinh ở đây được chuẩn bị chu đáo và hoành tráng hơn quê Di nhiều lắm. Lễ hội là dịp cho những người thân gặp gỡ, ăn uống, trò chuyện để bồi đắp thêm tình cảm. Mấy năm trước vào ngày lễ nầy Di và hai chị cùng về thăm má. Má làm rất nhiều món ngon cho chị em Di nhấm nháp cả ngày, không chờ đến nửa đêm như những nhà có đạo.
        Mấy người bạn ở các tỉnh xa của Di đã rục rịch về thăm nhà. Những người còn lại cùng nhóm bạn ở Sài gòn rủ nhau hùn tiền mở " bạt ty", họ rủ mãi mà Di nhất quyết từ chối. Chi, một cô bạn cùng khối thực tập mời Di đến nhà dự "Rề vây dông" (Réveillon). Di không nhận lời vì biết ý định của cổ là giới thiệu Di cho ông anh ruột. Việc tiếp xúc với một người con trai lúc nầy, thật sự ngoài sức chịu đựng của Di.
         
        Trước Noel hai ngày, má gửi cô Ba mang đến cho chị em Di một túi thức ăn và tiền xài trong tháng. Chắc vội quá nên má không kịp viết thư, chỉ nhắn cô Ba lời dặn dò mấy chị em nhớ mặc ấm, đừng tắm ban đêm vì trời đang lạnh. Cái túi to đùng, Di lật đật mở ra, trong đó má lèn cứng: một nồi cá linh kho rục, khô, mắm và có thêm một bịt me sống. Di mở bịt me lấy một trái chùi vào vạt áo rồi nhấm nháp. Vị me chua và nỗi nhớ má làm Di rùng mình rơi nước mắt. Mùa này năm trước Di thường trèo lên cây me nhỏ sau vườn, hái những trái me già sắp dốt, để tách vỏ làm me dầm cam thảo. Ba chị em thi nhau xem ai khéo tay, tách vỏ, lấy hột mà không làm rách trái me.
        Một cái gói rất to má bọc nhiều lớp báo còn cho vào túi nilon, Di cầm lên thấy mềm và nhẹ thì ra đó là cái áo len bị bỏ lại. Chắc má sợ Di ra đường bị lạnh nên gởi theo luôn. Ôm cái áo trong tay một kỷ niệm vui hiện đến: Năm ngoái mùa đông, buổi sáng rất lạnh, hôm ấy Di dậy muộn sợ trễ học nên chỉ mặc áo dài rồi mặc thêm cái áo len bên ngoài mà thôi! Ở xứ Di, mùa đông chỉ ghé vội vàng vào sáng sớm. Khoảng chín, mười giờ là mặt trời lại khạc lửa bừng bừng. Cả lớp ai cũng bỏ áo ấm ra chỉ một mình Di là khư khư giữ chặt, mồ hôi chảy từng giọt, nực gần chết mà đâu dám cởi. Thu ngạc nhiên lắm cứ gặng hỏi hoài. Di kề tai Thu giải thích. Thu cười đến sặc, bay luôn miếng ổi đang ăn. Không biết Thu đang làm gì lúc nầy, có nhớ như Di đang nhớ?
        Chị em Di đón Noel bằng nồi cháo đậu đỏ nước dừa, món đặc sản của quê Di, ăn kèm với cá linh kho và dưa mắm. Mấy trái me dầm mới làm chưa thấm vậy mà Di vẫn ăn một cách ngon lành, quà dành cho nhau là những lời chúc. Chị Ba ôm Di nói nhỏ vào tai:" Chúc em có nhiều niềm vui, hơn bao niềm vui em đã mang cho người. Chúc em có một tình yêu, đẹp hơn bao tình yêu em đã nghe nói tới". Lời chúc của chị làm Di nhớ đến An, tự hỏi Di đã có hay chưa cái tình yêu ấy. Bây giờ những cảm xúc về An như những viên sỏi nằm sâu dưới lòng sông, như tia nắng của một buổi chiều buồn và đẹp. Hình ảnh sau cùng về An với hai tay thọc sâu trong túi quần cắm cúi đi, nhìn từ phía sau như dáng một ông già chợt hiện lên làm lòng Di se thắt. Di không nhớ An một cách quay quắt, chỉ nhẹ nhàng bàng bạc với một chút bùi ngùi. Như một niềm thương cảm. Như một nỗi ân hận. Giống như cái lần lở bỏ con Quít vào bao diêm, rồi quên mất và mấy ngày sau bàng hoàng, đau xót biết bao khi nhận ra là nó đã chết!
         
        Căn gác trọ mới của chị em Di tiện nghi hơn chỗ cũ, lại không tốn tiền vì chủ nhà là bạn của cô Ba. Căn nhà nầy ban ngày bỏ trống chỉ đến đêm chị Kim con gái của chủ mới về ngủ.
        Cô Năm Nam Vang, tên của bà chủ nhà, làm một nghề rất đặc biệt chắc chỉ có ở Sài Gòn. Đó là xem bói và làm bùa yêu cho mấy cô vũ nữ. Cái nghề không qua trường lớp đào tạo nầy mang lại cho cổ một nguồn lợi rất dồi dào và được giới "chị em" kính trọng. Mấy cô gái rất đẹp, ăn mặc sang trọng luôn tấp nập xun xoe quanh cổ. Miệng lúc nào cũng ngọt xớt" má Năm, má Năm". Có mấy cô là bồ của những vị tướng, tá đương thời. Họ đi trên những chiếc xe bóng lộn có tài xế và cả "gạt đờ co" theo bảo vệ. Họ kể cho nhau về tính cách kỳ dị của mấy ông bồ rồi cười nghiêng ngã. Cuộc sống của họ cũng rất gay go, cũng đầy những bất trắc. Những cô vũ nữ về chiều, nhan sắc úa tàn. Không có đến một mái nhà để tá túc, phải lang bạt từ nơi nầy sang nơi nọ, sống lay lắt với đồng tiền cát sê chỉ đủ ăn và mua son phấn. Xin đừng hỏi họ về tương lai mà làm họ đau lòng.
        Những ngày đầu, ban ngày chỉ có ba chị em nên rất thoải mái, mấy ngày sau chị Kim lại rủ thêm một số người khác. Chị Kim rất mê nhảy đầm nên mấy người bạn chị mời về toàn là dân đang học nhảy. Họ mở nhạc để tập luyện suốt ngày, họ ở một thế giới hoàn toàn khác biệt mà từ trước đến giờ Di chưa từng biết đến. Đó là những cậu công tử con nhà giàu, được cha mẹ lo cho một chỗ an toàn ở hậu phương. Họ là những tên lính" kiểng", chưa hề ngửi qua mùi khói súng, chẳng thèm quan tâm đến bất cứ vấn đề gì ngoài chuyện ăn chơi. Nghe những mẫu chuyện họ nói với nhau mà Di cảm thấy buồn cho tương lai của đất nước. Cái tuýp người hưởng lạc nầy, biết rất rõ Sài gòn nơi nào ăn ngon nhất, ban nhạc của vũ trường nào chơi hay nhất, tiệm may nào khéo nhất ...v...v... Có lẽ họ là cái nhóm người mà chiến tranh không thể nào chạm đến dù chỉ một sợi tóc. Mấy cô gái rất trẻ, rất xinh cũng kéo đến và có khi ngủ lại qua đêm, làm Di cứ thấy buồn cho ba má họ.
        Một hôm Di lau nhà, đang khom người đẩy miếng giẻ lau từ nhà sau ra nhà trước, bỗng xuất hiện một đôi giày tây mũi nhọn ngay trước mắt. Di ngạc nhiên nhìn lên. Một người con trai với mái tóc xoăn, đôi mắt to và hàng ria mép đang nhìn Di cười tươi bằng cả miệng và mắt. Di vội nhìn xuống bộ đồ mỏng đang mặc trong nhà của mình, mắc cỡ đến sinh ra ác cảm với hắn nên không đáp lại mà bỏ lên lầu. Mấy ngày sau chị Kim giới thiệu hắn với Di, hắn tên Phi và là thầy dạy nhảy cho chỉ, cũng là dân lính kiểng. Từ hôm đó trên bàn học của Di hay xuất hiện mấy món ăn lặt vặt như bò bía, chè, khô bò ...v...v...Mấy chị em Di hỏi chị Kim, chỉ bảo ăn đi đừng có thắc mắc. Nhớ lời má dặn đừng có xài cái gì không phải của mình mà mang tội nên chị em Di không dám đụng tới, mà bỏ thùng rác thì cũng uổng, thế là ngày nào cũng phải đấu tranh tư tưởng...
        Những người bạn và cả ông thầy dạy nhảy cho chị Kim dần dần ở hẳn lại luôn. Tối họ nằm chen chúc trên giường và ngay dưới đất để ngủ. Mỗi buổi sáng Di và chị Ba dậy sớm đi học, bước xuống nhà dưới là ngại quá chừng! Rồi không hiểu sao chiếc xe đạp còn mới của Di ngày nào cũng bị xẹp bánh. Cái ông thầy dạy nhảy ấy thủ sẵn cái ống bơm. Hắn nghe Di kêu "trời!", là xông ra tiếp cứu liền. Hắn lớn hơn Di nhiều mà cứ gọi Di bằng chị Tư ngọt xớt làm Di ngại muốn chết, còn Di thì cứ nói trổng chẳng bao giờ xài đến chủ từ. Có lần hắn mang cả một con vịt quay còn nóng hổi lên tặng. Hôm đó là sinh nhật của chị Ba, mấy chị em nấu một nồi chè đậu xanh nhỏ thôi để ăn mừng lén với nhau, không cho ai biết, không hiểu sao hắn mò ra được. Hắn mua chuộc chị Hai của Di hồi nào mà chỉ vui vẻ nhận, còn mời hắn ở lại ăn chung làm Di ngại quá. Di nói dối là có hẹn với bạn rồi xách xe đạp chạy vòng vòng đến tối mới về.
        Ngày xưa má Di hay nói câu: "Ghét của nào trời trao của đó", dù không dám cãi lại má nhưng Di tự khẳng định có những điều lệ mà Di nhất quyết không bao giờ vượt qua. Di không thể yêu một người mà Di không tôn trọng. Một người không xúc động trước cái đẹp và điều thiện. Một người thiếu trách nhiệm với cộng đồng, không biết quan tâm đến người khác. Nhất là một người không thể cùng Di chia sẻ tất cả những lãnh vực mà Di yêu thích. Khi hai chị ghẹo hỏi Di về điều kiện mà Di đặt ra cho một ứng cử viên. Lúc ấy Di đang bị một vết loét trên ngón tay trỏ trông rất ghê, xức hết cả lọ " cọt ti bi dông " cũng chưa khỏi. Di bèn đùa:" Em chỉ cần người dám ngậm cái ngón tay nầy cho nó lành là được". Đâu ngờ cái câu nói ấy lại làm hại cả đời Di sau nầy.
         
        (Xem tiếp CHƯƠNG NĂM/10)
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:48:42 bởi Lâm Du Yên >
        #4
          Lâm Du Yên 05.10.2019 08:33:43 (permalink)
          NHƯ ĐI TRÊN CÁT    
          Truyện dài Lâm Du-Yên  
            
          CHƯƠNG NĂM/10


          Từ nhà Di trở về An đạp xe rất chậm, đảo mắt liên tục sang hai bên đường để nhìn vào bậc cửa trước mỗi nhà. Cố tìm đôi dép kẹp quai đen mà Di đang mang. Cố lắng nghe những tiếng trò chuyện từ những căn nhà sát lộ, mong nhận ra tiếng cười, giọng nói của Di vọng ra.
          Ban nãy An rất muốn hỏi má Di tên thầy của Di mà không dám, mà có dám chưa chắc má Di chịu nói. Niềm hãnh diện về Di đang chói ngời trong mắt bác ấy, càng soi rõ hơn sự non nớt, thua kém của An. An đọc được trong đôi mắt đó một chút thương hại và thật nhiều lời cảnh báo.
          Những chiếc xe đò chạy ngược chiều tung từng đám bụi dầy đặc. Mặt trời đã ngã bóng nên những chiếc xe hầu như chỉ chạy từ hướng thị trấn về xã mà thôi. An đạp xe chậm hết mức có thể, linh tính báo cho An biết nếu không gặp được Di lần nầy thì nhịp cầu giữa hai người sẽ gãy và An sẽ mất Di vĩnh viễn. Một nỗi buồn trào dâng ép vào tim làm An tức thở. An quay đầu xe chạy trở lui rồi ghé vào cái quán bên lề, gọi một ly cà phê phin. Bà chủ quán nhìn An lắc đầu:
          -Hết cà phê rồi cháu.
          -Bác có món gì cũng được.
          Bà chủ mang ra cho An một ly trà nguội không có đá, giải thích:
          -Hết nước đá rồi cháu uống đỡ nghen!
          -Dạ.
          Cầm ly nước lên uống, An mới nhận ra là mình đang khát quá chừng vì từ sáng đến giờ chưa có cái gì trong bụng. Cái đói cũng lười thôi thúc nên An chẳng muốn ăn, chỉ móc túi lấy lá thư mới nhất của Di ra đọc lại. An vuốt dọc theo nếp gấp của tờ giấy, chắc khi xếp lại Di phải dùng hai ngón tay miết rất sát, chắc những vết ẩm trên bàn tay vẫn còn lưu hơi hướng... Bất giác An đưa lá thư lên mũi hít thật sâu, nhắm mắt hồi tưởng lại cái chạm tay sau cùng khi Di trao cho An gói quà. Một cảm giác xót xa chạm vào làm tim An đau nhói. Vị chủ quán tốt bụng thấy An ngồi một mình có vẻ buồn nên kéo ghế ngồi bắt chuyện:
          -Cháu đi thăm bà con ở đây hả?
          -Sao bác biết?
          -Mấy đứa nhỏ ở xóm nầy đứa nào mà bác không biết mặt. Cháu lạ hoắc chắc ở nơi khác tới, mà cháu kiếm ai vậy?
          An nói tên Di, bác hâm hở:
          -À! con cô năm Hân. Cổ giỏi lắm nghen, đàn bà giá mà một mình nuôi ba đứa con, cho đi ăn học hẳn hoi. Nghe đâu tụi nó đứa nào học cũng giỏi. Năm ngoái, năm kia gì đó con chị nó đậu tú tài rồi năm nay lại tới con em. Cháu chắc là bạn học chung với nó hả?
          -Dạ!
          Bác nhìn An có vẻ tò mò rồi nói trống không:
          -Cái nhà đó khó khăn lắm! Cháu biết chỗ chưa, nó ở kế bến đò cách đây chừng một cây số hà!
          -Dạ cháu có ghé rồi .
          Vị chủ quán cố nén nhưng rồi cầm lòng không đậu, buột miệng hỏi:
          -Vậy cháu có gặp nó chưa?
          -Cổ đi thăm ông thầy rồi
          Một tia sáng lóe lên trong đầu, An hỏi bác:
          -Gần đây có nhà ông thầy nào hông bác?
          -Có, nhiều lắm. Xóm dưới có thầy giáo Thuật, thầy giáo Dư, thầy giáo Tâm, cô giáo Đẹp. Xóm trên có thầy giáo Kiến, thầy giáo Quế, thầy giáo Thà, thầy giáo Nghĩa...
          Bác càng kể An càng ngao ngán. An hỏi ráng thêm một câu:
          -Thầy nào ở gần đây nhất hả bác?
          Bác chỉ tay ngay vào cái nhà sàn lợp lá, có mấy cánh cửa lá sách đánh vẹt ni, nằm khuất sau hàng cau xéo xéo về bên phải cái quán:
          -Nhà thầy giáo Tâm đó ! Mà ổng nghỉ dạy lâu lắm rồi!
          An đứng bật dậy:
          -Bác cho cháu gởi tiền ly nước.
          Vị chủ quán khoát tay:
          -Tiền bạc gì cháu ơi! cái ly nước trà nguội ngắt đó. Uống thêm hông bác rót cho ly nữa nghen?
          -Dạ thôi, cháu uống đủ rồi cám ơn bác nhiều lắm!
          An cúi chào rồi dắt xe qua đường đến ngay căn nhà ấy. Mấy con chó sủa rân. Một cụ bà chống gậy bước rất chậm xuống cầu thang, vừa đi vừa nạt hai con chó vừa hỏi:
          -Cháu kiếm ai?
          -Dạ thầy Tâm có ở nhà hông bà?
          -Đi núi Cấm mấy bữa nay rồi, cháu là học trò hả , ghé thăm hay có chuyện gì hông?
          -Dạ cháu chỉ ghé thăm thầy mà thôi. Chào bà cháu về.
          -Ừ, mà cháu tên gì để bà nói lại?
          -Dạ cháu tên An.
          -Tội nghiệp dữ hông! Có lòng tới thăm thầy mà hổng gặp, nhà cháu ở bên nầy hay bên kia sông?
          An đáp đại:
          -Dạ cháu ở bên kia sông.
          -Vậy thì về liền đi để tối đò không đưa là kẹt lắm đó!
          -Dạ!
          Nắng chiều chiếu ngay vào mặt xô cái bóng An ngã sấp về phía sau. Nó như cố vươn tay chồm dậy bám lấy An mà không được. Hai cái bánh xe nặng như làm bằng đá, người An như mọc rễ, hy vọng gặp Di cũng thoi thóp dần theo tia nắng. An bùi ngùi nhớ mấy câu thơ, không biết của ai mà như làm giùm An vậy:

          Cuộc tình như bóng theo người
          Thập thò như một trò chơi trốn tìm
          Tay nào chạm nhẹ vào tim
          Môi nào tìm vị môi mềm trong mơ...
           
          Trên đường về, An có cảm giác như đã bỏ lại một điều lớn lao nhất ở phía sau, nhưng lòng lại nặng nề như nhét đầy đá. Mặt trời bỗng trở nên tinh nghịch. Cố nhìn soi mói vào tận mặt An, rồi chán quá khép mắt lại từ từ. Còn chừng hai cây số là đến bến đò Châu Giang, trời bỗng nổi giông rồi mưa như trút. Con đường đất trải đá mấp mô, hiện mờ mờ nhờ những ngọn đèn dầu từ mấy căn nhà sát lộ hắt ra, bây giờ tối thui. An cố mò mẩm, một chiếc HonDa lóe đèn từ phía sau lướt qua. An đạp xe thật nhanh để đuổi kịp cái ánh sáng hiếm hoi ấy. Cả người ướt đẫm, đói và lạnh làm An cứ run lên từng chập. Đến bến đò, con đò chủ đã nghỉ chỉ còn mấy chiếc đò tư rất nhỏ, họ không dám qua sông vì gió lớn quá. An đi về hướng bến bắc, ráng hình dung con đường trong đầu rồi căng mắt ra trong bóng tối. An bỗng nhớ câu chuyện được má kể ngày xưa. Mấy anh em nhà nghèo bị mẹ bỏ lại trong rừng, đêm đến chúng vừa sợ vừa khóc tìm đường về nhà. Những mẩu bánh rải làm dấu khi đi đã bị bầy chim ăn mất. Lúc nghe An cứ tức sao mà ngu quá vậy? Ai biểu dùng bánh để làm dấu làm chi cho tìm hoài không được.
          Bến bắc cũng vắng teo, chỉ mình An và một người đàn ông đi xe máy, ngồi chờ trong cái quán duy nhất sát bờ sông. Ngọn đèn khí đá khè những tia lửa xanh, bị gió thổi bạt hoài mà không tắt. Bà chủ quán tốt bụng kéo chiếc khăn đang trùm đầu xuống đưa cho An lau mặt, rồi rót cho An một ly trà nóng hổi. An hỏi, giọng hơi run vì lạnh:
          -Bắc còn chạy hông bác?
          -Không biết nữa! Chừng nào có xe hơi họ mới đi.
          Thấy An xịu mặt, bác an ủi:
          -Cháu đừng có lo, ngày nào mà không có xe chở lính bị thương qua đây!
          Cái đói như bàn tay cào hoài trong bụng. An mua hai cái bánh ú trong một chùm ba cái còn lại treo tòn teng đang đung đưa trong gió. Vị bánh lạt và nghe đăng đắng, dù rất đói mà chẳng thấy ngon tí nào. Bác chủ quán bỏ vào trong, lát sau mang ra cho An một cái áo tay dài. Bác hối An:
          -Cháu cởi áo ra đi, lau mình cho khô rồi mặc cái nầy vô.
          Thấy An hơi do dự, bác nói:
          -Cháu đừng có ngại, chừng nào có dịp đi ngang thì ghé trả. Cái áo nầy của thằng con trai bác, nó đi lính rồi có mặc nữa đâu!
          An ngồi nhìn mặt sông đen thui với tiếng sóng vỗ ầm ầm, tia nước từ những con sóng lớn bắn tung lên bờ như muốn đuổi theo cơn gió. Bác chủ quán bảo An:
          -Ngồi xít vào trong để nước văng ướt mình đó cháu! Nhà cháu ở đâu? Qua sông rồi còn đi xa hông?
          -Nhà cháu gần bến bắc, qua sông là tới.
          -Về nhà nhớ cạo gió liền nghe, cái môi cháu tím ngắt hà chắc bị cảm lạnh rồi đó. Phải còn gói Chánh khí đơn, bác đưa cho cháu uống liền cho ấm bụng.
          -Cháu cảm ơn bác, cháu bị mắc mưa hoài nên quen rồi, chắc hổng sao đâu bác!
          Về đến nhà má ra mở cửa chưa kịp rầy là An đã lảo đảo muốn té rồi ói hết mấy thứ vừa ăn. Má lôi An vào phòng vừa hét gọi mấy chị vừa kêu trời luôn miệng...
          An đau cho đến tựu trường cũng chưa khỏi hẳn. Ban đầu là cảm lạnh rồi chuyển qua thương hàn, cứ ăn cháo lỏng và uống sữa miết vì bịnh nầy phải kiêng ăn đồ cứng sợ lủng ruột. Bởi thiếu dưỡng chất nên tóc An rụng dần. Mái tóc dầy giờ chỉ còn mấy cọng lưa thưa.
          Một hôm An ráng lết ra sân. Cái sân bây giờ như rộng gấp đôi, lá vú sữa khô héo nằm chồng lên nhau. Di đi rồi không ai quét nên lá cứ lấp dần che gần kín đất. An nhìn lên ngọn cây, lớp lá xanh vẫn còn đầy trên ấy. Bỗng nhớ cái lần Di ngồi trên cây ăn vú sữa rồi chọi vỏ xuống ghẹo. Lúc An đưa mắt nhìn lên. Di vói tay hái một trái rồi ném cho An, cánh tay dang ra làm bung tà áo rộng. Một làn da rất trắng và hai bờ ngực cong như hai cái chén úp nhô ra làm An bàng hoàng. Cảm xúc gần như thiêng liêng pha một chút tội lỗi, dâng lên cùng lúc làm An trơ người như bị điểm huyệt. Trái vú sữa rơi ngay trước mặt và vỡ nát dưới chân An. Giọng Di cất lên, nhạo báng:
          -Dở ẹc!
           
          An đi học sau tựu trường gần một tháng, với cái đầu được cạo trọc lốc nên bị bạn bè trêu dữ quá! Chỗ ngồi của Di đã bị người khác chiếm. An ngồi bàn chót, cái góc cuối cùng của dãy bìa gần cửa sổ, kế bên thằng bạn có cái lỗ trống giữa hai cái răng cửa trông giống như càng cua. Nó tên Công được ghép thêm chữ "càng" bên cạnh, có tật cà lăm nên ngại nói. Lúc đầu nó cũng gặng hỏi An vài câu, thấy An không muốn trả lời nên chẳng thèm hỏi nữa. Cái chỗ mới nầy rất hợp với An, không bị ai quấy rầy và cũng chẳng quấy rầy ai.
          Hai thằng bạn thân năm ngoái một đứa chuyển lên Sài Gòn học tiếp, một đứa qua lớp khác nên An chỉ còn lại một mình. Đơn độc như con thú xa bầy, niềm khát khao học tập đã xa vời lắm. Những quyển tập mấy năm trước được bao bìa dán nhãn một cách cẩn thận, bây giờ chỉ được trùm miếng bìa bằng nilon trong suốt. Chúng vẫn còn mới nguyên vì An chưa mở ra viết một chữ nào.
          Tan học, An chờ các bạn ra về hết rồi vào ngồi chỗ của Di, cho tay vào học tủ mò xem có còn sót lại chút gì trong đó. Cái hộc bàn được dọn sạch trơn chỉ còn tí bụi. Trên mặt bàn còn mấy đốm mực màu tím chắc của Di làm rớt. Di thích màu tím hoa cà lắm nên đồ dùng của Di toàn mang màu ấy, viết, mực tím, đôi hài cườm tím, cái áo điệu màu tím và cả cái nón lá cũng được viền một lớp vải tím quanh vành. An thấm nước bọt vào ngón tay trỏ rồi miết lên vết mực, đốm mực bị nhòe ra thấm vào tay. An ấn mạnh ngón tay đó vào trang cuối của cuốn tập. Dấu vân tay màu tím của An với những đường cong song song, hiện lên trên nền giấy trắng.
          An ngồi thừ rất lâu, cố vét cho sạch chút hơi hướng mà Di bỏ lại, cho đến khi tia nắng cuối cùng nhạt dần và mất hẳn. Từ những quán cà phê phía bên kia đường, nhạc bắt đầu trổi lên, bản "Love story" với tiếng guitar dạo đầu réo rắc như những giọt mưa bắn vào người làm An rùng mình. Bác Tư tạp vụ xuất hiện trước cửa nhìn An với vẻ tò mò. An uể oải đứng lên ra nhà xe. Chiếc xe đạp của An còn lại một mình, chắc nó cũng sốt ruột vì đợi An lâu quá. An móc túi tìm chìa mở cái vòng khóa rồi dắt xe ra cổng. Đưa tay mở chốt cái cổng to đã đóng kín gài nhưng chưa khóa. Phủi bụi cho cái yên xe rồi leo lên đạp từ từ. Chiếc xe như còn giận dỗi, ngúng ngẩy mấy cái rồi mới chịu chạy thẳng. An nhấc chân một cách nặng nề, bánh xe lăn thật chậm như cố lần theo những dấu vết ngày xưa còn để lại. Qua hàng me, cái quãng đường mà trước đây Di rất thích nên hay bảo An đạp từ từ khi đi ngang, lá me vẫn rơi hoài như từ muôn thuở. Di hay ví đám lá rơi như một bầy bướm nhỏ ngỡ mấy tờ giấy, rác nằm trên đường là những bông hoa, chừng đáp xuống thấy là không phải chúng thất vọng quá nên chết luôn không bay lên nổi. An thì cho rằng đó là hoa giấy người ta rãi tung hô trong ngày lễ cưới, hai đứa cứ cãi rồi cuối cùng An phải nhịn cho Di vui.
          Đôi khi An tự hỏi, chắc lúc có mang Di má Di buồn dữ lắm nên khi ra đời Di đã mang sẵn đôi kính màu tối trong mắt rồi. Cái buồn cũng hấp dẫn Di nhiều như cái đẹp. Di không thích những ban mai rực rở mà say mê những buổi chiều nắng tím thật buồn. Mỗi khi trời mưa Di hay lẽn ra hiên ngồi võng ngắm mưa rồi khóc. Cái tính ấy chắc hay bị má rầy và mọi người trêu chọc nên hiếm khi Di để lộ. Hết thãy bè bạn và thầy cô cứ cho Di là người vui tính vì luôn miệng cười đùa và trêu các bạn, chỉ những người rất thân mới bắt gặp cái nét buồn rất sâu khi Di ở một mình. Có một lần trời mưa An thấy Di ngồi như bất động trên võng. Cái dáng âm thầm ấy làm An đau lòng quá nên lén trèo qua rào để hù cho Di vui. Chừng đến gần mới phát hiện hai gò má Di ràn rụa nước mắt. An chỉ dám hỏi rất nhỏ:"sao vậy?", Di lắc đầu không trả lời rồi hai đứa cứ ngồi im như vậy mãi.
          Từ đáy lòng mình, An cảm nhận được tình cảm mà Di giành cho An. Nó phát ra từ tia mắt Di nhìn An rất dịu, dù Di cố ngụy trang bằng cái giọng sẳn lè. Trái tim Di kéo An lại gần còn lý trí thì cương quyết đẩy ra. Di bị cái lối suy nghĩ theo bầy đàn chi phối, dù đôi khi Di cho rằng mình có tư tưởng độc lập và cứng rắn. An cảm nhận ở Di một tính cách rất mâu thuẩn và vô cùng mềm yếu. Di rất sợ làm người khác tổn thương và hay chịu thiệt, hay chìu theo ý mọi người dù bản thân không muốn. Điều nầy làm Di vui nhưng thỉnh thoảng từ nơi sâu thẵm trong Di lại dấy lên những đợt sóng tủi buồn.
          An muốn nói với Di thật nhiều, muốn mở hết lòng mình ra để cho Di thấy cái tình của An nó sâu và rộng đến mức nào. Di không cho An cơ hội cứ tìm cách né tránh mãi nên An không thể chứng minh cho Di thấy cái quyết tâm của mình. Di cứ cho là An nông nổi, thấy An hút thuốc thì cho là tập tành bắt chước làm người lớn. An chỉ uống rượu có một lần để xem cảm giác khi say như thế nào và bị Di cho là An ăn chơi sa đọa. Con trai đánh lộn là chuyện không thể tránh mà Di cũng ghép An vô cái nhóm du côn. Hạ thấp hình ảnh và niềm tin về An. Nhầm lẫn cho rằng tình cảm mà Di giành cho An chỉ là lòng thương hại, còn tình cảm An giành cho Di là hời hợt, nhất thời.
          An thích sưu tầm những chuyện vui để kể cho Di nghe, để được thấy Di cười híp mắt. Cái nụ cười mà An rất thích vì nó bộc lộ cái nét tinh nghịch ẩn chứa bên trong, nó làm gương mặt Di thật rạng rở. An muốn nói với Di rằng Di rất đẹp khi cười và nhiệm vụ thiêng liêng nhất của An là phải làm cho Di cười hoài, cười mãi.
          Những lúc hiếm hoi ở cạnh nhau Di cứ như người đang đi trên dây, ráng giữ thăng bằng từng chút một. Gương mặt Di căng thẳng cố che giấu những cảm xúc tiềm ẩn bên trong. Nó như một trang giấy trắng với những dòng chữ được viết bằng một thứ mực vô hình. Di cứ ngỏanh nhìn về phía không có An, đôi khi An muốn hét lên:" Di ơi, hãy quay lại nhìn An đi, chúng ta đang ngồi khít bên nhau. Giữa hai đứa hầu như không còn khỏang cách. Tại sao cứ cố quay mặt sang hướng khác, để những tia mắt muốn giao nhau phải băng qua đến nửa vòng trái đất!".
           
          Noel đến, cái thị xã nằm ở tận biên giới nầy cũng rộn rịp chuẩn bị. Nhà thờ và chủng viện ở gần nhà nên An chẳng phải đi xa chỉ đứng trước ngõ mà nhìn thiên hạ đi qua đi lại.
          Giáng sinh năm ngoái. An rủ Di đi chơi mà Di từ chối, nói có hẹn đi xem hang đá với Thu rồi. An rình từ chiều, nghe tiếng Thu léo nhéo là thay đồ chờ sẵn. Lén đi theo cách một khỏang ngắn để có thể nghe được câu chuyện họ nói với nhau. Hôm ấy Di mặc cái áo điệu màu tím với những hoa văn vòng cung như nửa cây cầu vòng màu trắng, may theo kiểu thịnh hành thời bấy giờ, cổ và tay áo đều dún bèo.
          Năm ngoái Noel không lạnh và chiến sự cũng không ác liệt như hiện giờ. Năm nay, khói lửa từ miền Trung đuổi những cơn gió lạnh tràn về trốn ở miền biên thùy phía tây nầy của đất nước. Cái lạnh như được cộng dồn từ nhiều năm trước. An mặc cái áo ấm rất dầy mà vẫn còn thấy se se, đến trường đã lạnh mà không khí ở nhà lại càng lạnh hơn. Má và mấy chị của An không còn rầy An nhiều nữa, cái im lặng diễn tả rất hùng hồn những tiếng trách móc không lời. Má của An không nén được thỉnh thoảng lại buông một tiếng thở dài. An biết má rất thất vọng về An. Có một lần má gọi An lại gần nói chuyện, tính má rất cứng rắn vậy mà lần đó má khóc. Má nói má biết hết nỗi lòng của An, má biểu An phải quên Di đi. Má nói con gái khôn lắm, nhất là mấy đứa con gái có học thì lại còn khôn, còn có nhiều tham vọng hơn nữa. Con trai phải đặt sự nghiệp lên hàng đầu. Có sự nghiệp rồi con gái bu theo, chỉ cần đứng một chỗ mà lựa. Theo đuổi tình cảm quá sớm, sự nghiệp tiêu tan mà tình cảm cũng không thành, hậu quả rất là bi đát. An biết má nói rất đúng có điều An làm không nổi, cho nên An hay tránh mặt má. Tan học An cũng ngại về nhà, có khi để bụng đói chạy vô núi Sam một vòng rồi mới quay về. Cả nhà đã quen nên ăn cơm trước mà không đợi nữa. An lẻn vô bếp bới tô cơm nguội rồi chui vô buồng ngồi ăn một mình.
          Di đi đã gần sáu tháng mà vẫn chưa viết cho An một lá thư nào, dù Di không hứa nhưng sao An cứ mong. Chắc Di sợ thư không đến tay An được, hình như Di cũng chỉ gửi cho mợ một, hai lá mà thôi. An có hỏi Thống địa chỉ của Di. Nó nói chỉ đổi chỗ ở rồi, hình như đang ở gần cái chợ gì đó! Chỉ một chi tiết mơ hồ ấy mà An cũng nhen nhúm ý định đi Sài gòn tìm Di. Những đồng tiền má cho ít ỏi được An tích cóp từng chút một. An viết thư cho Lưu, thằng bạn thân học chung từ mấy năm trước vừa chuyển lên Sài gòn, hỏi thăm đường đi và hứa sẽ lên gặp nó.
          Thời kỳ nầy An rất thích chui vô nhà sách tìm đọc mấy bài thơ, đặc biệt là thơ của Du Tử Lê. An thích nhất là cái đoạn có hình ảnh của con chim bói cá trong một bài thơ. Nó làm An liên tưởng đến một con chim nhỏ, đứng bất động trên cành cây nhô ra từ bờ sông vắng. Đang chờ đợi, nhớ nhung và tương tư một ánh trăng mờ...

          Như con chim bói cá
          Trên cọc nhọn trăm năm
          Tôi tìm đời đánh mất
          Trong vũng nước cuộc đời...

          Như con chim bói cá
          Tôi thường dừng cánh bay
          Ngước nhìn lên huyệt lộ
          Bầy quạ rỉa xác người
          Của tươi đời nhượng lại
          Bữa ăn nào ngon hơn
          Làm sao tôi nói được...

          An như hóa thân vào con chim ấy, đang đứng trên đọt cây cao chót vót. Nghe cái lạnh từ giòng sông bốc lên và đắm đuối nhìn ánh trăng chìm sâu dưới đáy. An rúc sâu vào kỷ niệm, tìm cảm xúc nuôi sống mối tình của mình cũng giống như con quạ đói moi từng lóng xương, từng mẫu thịt còn thừa để cung cấp cho cơ thể nó. Con đường đời và đường tình An mới đi một quảng ngắn mà cứ phải quay nhìn trở lại. Phía trước mặt là đêm tối và chông gai mà trên tay của An đã rớt mất ngọn đuốc soi đường.
          Cây viết Di tặng, An cứ giắt hoài trên túi áo. Hai chữ "Hè xa" màu trắng đã hơi bị ố. Nó đã trở thành một vật bất ly thân, như một người bạn chia sẻ với An mọi chuyện, cũng là nguồn an ủi và tiếp thêm năng lượng cho An. Thỉnh thoảng An lại nhân cách hóa nó, hỏi nó có cảm giác như thế nào khi mới gặp Di, khi được Di chạm vào và chọn lấy...
           
          Những ngày Noel, Khanh, ông anh bà con làm lính quân y được nghỉ phép ghé thăm. Ảnh cứ lân la trò chuyện với An, không biết do có cảm tình đặc biệt hay do má nhờ. An vẫn không hé răng tâm sự, sợ ảnh lại cho tình cảm của An là bệnh hoạn, bất thường.
          Trước ngày về đơn vị ảnh rủ An vào núi chơi. Ảnh rất khỏe, đạp xe chở An chạy thẳng lên pháo đài tận trên đỉnh núi. Cái nhà tôn của quân đội đứng cheo leo một mình trên đó. Tiếng gió thổi lòn qua khe cửa y như ma hú, ban đêm nghe chắc nổi da gà. Những người lính khác đã về phép chỉ còn vài người ở lại trực, một người là bạn học cũ của anh Kha, gặp nhau họ mừng lắm nên đấm vào lưng nhau rất mạnh. An nghĩ thầm con trai thích bộc lộ tình cảm trái ngược với con gái, thích che giấu nó bằng cách nói cộc lốc và những câu đùa bỡn.
          Chiến tranh nhuộm một màu bi quan trong mắt và trong lòng mỗi người. Những người căm ghét chiến tranh lại phải đối mặt với nó. Họ phải hy sinh tính mạng của mình, cho các mục tiêu mờ ám, được mạ bằng những ngôn từ hết sức đẹp đẻ và thiêng liêng. Thật ra đâu có gì đẹp đẻ và thiêng liêng hơn tuổi xuân và mạng sống của chính họ.
          Từ trên đỉnh núi nhìn xuống mọi vật có vẻ nhỏ bé, yên bình, êm ả làm sao! Nắng chiều dát bạc lên mọi vật, lên những cánh đồng, lùm cây, mái nhà, con đường, cả dòng sông cũng trở nên lóng lánh. Giờ nầy những bà má, bà chị đi làm đồng về đang chuẩn bị cho buổi cơm chiều. Khói từ mấy nóc nhà bốc lên bay vặn vẹo. Như thể nó muốn đi đường nầy mà gió cứ ép sang đường khác. Chúng cứ đôi co mãi rồi cuối cùng nó cũng chiều theo lòng gió, để rồi bị bỏ lại và tan loãng vào hư không.
          Lâu lắm rồi An mới có cảm giác thanh thản như thế nầy. Câu nói "thiên nhiên chửa lành mọi vết thương", ngẫm lại thấy sao mà đúng quá!
          Trên đường về anh Khanh mới bắt đầu vào chủ đề chính. Ảnh kể cho An nghe về mối tình đầu của mình. Ảnh nói nó đẹp, nó rực rở vì những cảm xúc dồn chứa từ lâu mới được dịp tuôn ra ào ạt, và cái gì lần đầu cũng để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu đậm nhất. Hãy để nó đến rồi ra đi một cách êm đềm. Nó giống như một con bướm đẹp. Hãy để nó bay đi khi vẫn còn là bướm, để sau nầy khi nhớ đến vẫn thấy lòng bùi ngùi nuối tiếc. Nếu ta cố níu giữ thì cuối cùng trong tay chỉ còn lại xác của một con sâu gớm ghiếc mà thôi!
          Ảnh còn nói làm con trai khổ lắm, nhất là con trai thời chiến, gia đình và xã hội đặt lên vai họ rất nhiều bổn phận. Họ không được làm theo ý của mình, phải vừa tuân thủ lại phải vừa tỏ ra vượt trội, vừa hòa đồng vừa chứng minh tính độc lập. Họ có nhiều đặc quyền hơn phụ nữ nhưng phải trả giá cho đều đó rất đắc, so với con gái thì trách nhiệm của họ nặng nề hơn nhiều. Những cô gái chỉ cần ngoan là đủ, họ chỉ cần bước sau lưng những người đàn ông. Gieo trồng hoa trái trên những mảnh đất đã được khai hoang và cày vỡ. Nấu những bữa ăn và lau những giọt mồ hôi trên trán cho chồng là đủ rồi.
          Anh Khanh đi để lại trong lòng An một khỏang trống. An ước ao phải chi ba mình còn sống hay mình có được một anh trai thì hay biết mấy. Sống trong nhà toàn phụ nữ An không dám bộc lộ những cảm xúc của mình sợ bị chê là yếu đuối. Càng cô đơn càng tỏ ra không cần chia sẻ, một lần An nghe mấy bà chị nói với nhau: "Cái mặt của nó sao mà khó ưa quá!"

          Thời gian nầy An thường xuyên gặp Di trong giấc ngủ. Khi tỉnh dậy An phải mất một lúc mới nhớ ra là Di đã đi rồi, lòng An lại dấy lên một nỗi buồn thắt ruột, nó như con dao bén cứ cứa hoài vào vết thương há miệng. Có một lần An mơ thấy hai đứa nắm tay bay xuyên qua một đám mây rất trắng. Cả hai mặc những bộ áo quần như trang phục trong phim võ hiệp. An nắm lấy cổ chân của Di, mái tóc của Di dài lê thê liên tục quét lên mặt làm An rất nhột. An cố lướt lên cho bằng Di mà không được, chừng tỉnh dậy mới thấy mình đang áp má vào cây chổi lông gà. An nghĩ thầm có lẻ vì quá thích cuốn truyện "Thần Điêu Đại Hiệp", hay so sánh An và Di như Dương Qua và Tiểu Long Nữ nên bị ám ảnh cả trong giấc ngủ. An đi mướn bộ truyện ấy về xem lại, nghe nói ở Thất Sơn có những ngọn núi chưa người đặt chân đến. An bỗng mơ về một Chung Nam Sơn chỉ có riêng hai đứa. An sẽ trồng trọt, đốn củi để mang đi đổi gạo. Di trước giờ không thích đi chợ nên sẽ ở nhà nấu ăn, may vá, thêu thùa. Mỗi lần xuống núi An sẽ mua về cho Di một quyển sách vì Di rất mê tiểu thuyết...
          Có một lần An thoáng thấy một dáng người giống hệt Di ngồi trên xe lôi chạy tít phía trước. An đuổi theo, mừng muốn vỡ ngực vì ngỡ Di về, chạy gần tóe khói chừng đến nơi nhìn không phải. An vừa mệt vừa thất vọng đứng sửng lại giữa đường, chừng nghe tiếng quát: "Ép vô" mới tỉnh ra lủi vội vô lề. Bởi lý do đó mà mỗi lần đàn bài "Thà như giọt mưa" là lòng An thổn thức:

          Người từ trăm năm về khơi tình động,
          Người từ trăm năm về khơi tình động
          Ta chạy mòn đời, ta chạy mòn hơi
          Quỳ té trên đường dài
          Sợi tóc ôm chân người...

          Cái góc bàn sát hiên nhà, nơi ngày trước An ngồi rình nghe Di hát khi giặt áo, nay mỗi ngày An hay ra ngồi suốt. Ngắm cây mận với những chùm hoa rất trắng tỏa hào quang trong nắng, gió xô đẩy những phiến lá lao xao. Cây mận nầy của bà Tư trái rất ngọt, dạo đó Di thường thức khuya học bài nên hay ra hái trộm. Có một đêm An cũng thức gạo bài chợt nghe tiếng cây cầu ván long đinh gõ nhẹ. An ghé mắt qua khe cửa thấy Di đang vói tay, bộ đồ màu trắng lấp lánh dưới ánh trăng, mái tóc dài hơi rối trông như Di đang bước ra từ quyển truyện liêu trai. An chợt nhớ đến mấy câu thơ :

          Chẳng phải là sương, chẳng phải hoa
          Nửa khuya em đến, sáng em về
          Đến như giấc mộng xuân không đợi
          Đi tựa mây trời chẳng định nơi...

          "Bốn câu thơ nầy nói về cái gì?", Di có lần đã đố và An trả lời đó là một cô gái lén đến thăm người yêu trong đêm, như Thúy Kiều ngày xưa chui hàng rào qua thăm Kim Trọng. Di lắc đầu bảo rằng đó là nàng thơ đến thăm thi sĩ. Di nói nàng thơ tánh hay e thẹn, chỉ rình khi trời, đất và con người ngủ say mới dám hé cửa lách vào. Điều đó giải thích tại sao mấy nhà thơ mắc bệnh ho lao rồi chết sớm, bởi cả đời cứ thức thâu đêm để đợi chờ nàng.
           
          Gần đến tết mà mùa đông cố nấn ná mãi và trời cứ lạnh dần lên. Niềm hy vọng trong lòng An như những nụ Mai còn ẩn sâu trong cây đang cựa mình khe khẻ. An tự nhủ rằng tết Di sẽ về, sẽ cùng An đi lại trên con đường đất của ngày xuân năm cũ. An sẽ tìm hái cho Di đúng loài hoa dại mà Di thích. An sẽ chở Di lên núi Sam. Con đường hôm trước An đi cùng anh Khanh, hai bên lề có một loài hoa rất lạ chắc Di sẽ rất mê. An sẽ rủ Di đánh "cách tê" cùng An và mấy bà chị. An sẽ ngồi cạnh Di và cũng sẽ nớm bài cho Di ăn thật nhiều, y như năm ngoái. Di ăn sạch tiền lì xì của An và còn cho An thiếu chịu.
          Kỷ niệm của cái tết năm trước ào ạt kéo về. Năm đó Di phải trông nhà cho mợ và các em đi thăm ông cậu. Di nhờ An mướn giùm mấy cuốn truyện. Gần giao thừa An nhìn qua, ánh đèn nhà sau còn sáng dù cửa đóng kín. An nhẹ đưa tay đẩy cửa, may quá Di chưa gài chốt thế là An lẻn vào. Di đang nằm võng say sưa đọc. An đứng trên đầu võng tha hồ ngắm mái tóc rất dầy và dài của Di thả dài như thác đổ. Một chân Di thòng chạm đất, đọc say sưa đến độ cái võng đứng im mà cũng quên đưa. An cứ lặng thinh không dám gọi, đến chừng ngước lên thấy An. Di bỗng hét lên một tiếng rồi té nhào xuống đất, cái mặt xanh lè làm An hết hồn, thì ra Di đang đọc chuyện ma...
          Rồi Di cũng về, mang chút quà sang thăm má và mấy chị của An. Di vẫn mặc cái áo điệu cũ màu tím, trông Di có vẻ buồn và hơi gượng gạo. Có một cái gì cho An thấy Di không còn được như xưa. An ngồi bên má lắng nghe Di trả lời những câu hỏi dồn dập của mấy bà chị. Di pha trò rất nhộn, điều nầy chứng tỏ Di đang cố che đậy một chuyện không vui, chị Ba của An hỏi:
          -Có ai lọt vào mắt em chưa Di?
          Di nheo nheo mắt rồi cười:
          -Mắt em nhỏ quá nên chẳng ai lọt vừa hết!
          -Hổng lẽ một đống con trai học chung mà em không chọn được ai sao?
          -Họ không nộp đơn thì làm sao mà em chọn được. Dân Khoa Học khô khan lắm chị ơi, lại bị cái lệnh động viên kèm sát bên sườn, nên họ cứ cắm đầu học chớ không có liếc ngang liếc dọc gì hết!
          -Em có dạy kèm hông?
          Di đáp hơi ngập ngừng:
          -Dạ ...hông.
          Ngồi chưa nóng chỗ Di đã vội cáo từ nói còn phải đi thăm thầy cô và bè bạn. Di không dám nói với An một lời cũng không đáp lại tia nhìn của An đến một lần. An đi theo tiễn Di, may mà mấy bà chị không bám theo, còn lại hai người Di hỏi An:
          -An có thấy cái thơ hông?
          -Thơ nào?
          Di tái mặt, giọng đầy lo lắng:
          -Lúc mới vào nhà khi đi ngang qua mặt An. Di thả cái thơ lên chân bộ An không nhận ra sao?
          -Làm sao mà nhận được, có nghe Di nói gì đâu?
          -Ai mà dám nói. Di có nhìn An rồi nhìn xuống đất tưởng đâu An đoán được. Thôi An chạy vô kiếm liền đi. Vái trời phù hộ cho nó còn nguyên chỗ đó, chớ cái chuyện nầy đổ bể ra, má Di biết được là Di chết chắc!
          An lật đật quay vào, bao nhiêu câu sắp sẵn để nói với Di mà rồi không thốt được một lời .
          An cắm cúi tìm, cái nền ván trống trơn. An ghé mắt nhìn qua kẽ ván hy vọng nó lọt xuống đất nhưng nào đâu có thấy. Trong đời An đã đánh mất nhiều thứ nhưng chưa có lần nào An lo thắt ruột như thế nầy. Cái thơ như mang niềm hy vọng và cả mối tình của An đi theo. An rùng mình, linh cảm sự hối tiếc nầy, sẽ bám theo An đến cuối cuộc đời.

          Tìm không ra lá thư An chạy ra nhà mợ để trấn an Di. Di đã bỏ đi rồi chắc là đến nhà Thu. An xách xe đạp chạy vù theo hy vọng gặp Di trên đường, chẳng thấy bóng Di đâu hết. An đánh bạo ghé vào nhà Thu hỏi thăm. Thu đang ở trong bếp nghe người nhà nói có anh chàng nào tìm Di, lật đật chạy ra tay còn cầm đôi đủa thấy An, Thu ngớ ra hỏi dồn dập:
          -Ủa! An hả, có chuyện gì không vậy?
          -Chị Di có ghé đây không chị?
          Thu không trả lời mà hỏi lại
          -Bộ Di về rồi sao? Hồi nào?
          -Mới đây thôi.
          Nỗi thất vọng làm An muốn ngộp thở, giống như bị nhấn chìm sát đáy sông. An chào Thu rồi đạp xe chạy nhanh ra bến đò, cái bến đông nghịt người chỉ thiếu mỗi mình Di. An định xuống đò qua sông. cho tay vào túi lấy tiền ra mua vé, cái túi trống không.
          Bên kia sông Di cũng vừa lên xe về nhà, bức thư bị mất làm Di lo sợ quá! Di không còn tâm trí nào để gặp Thu hay một người nào khác, cũng không ghé thăm dì Bảy mà đi thẳng về nhà luôn. Má thấy Di về sớm thì ngạc nhiên quá, hỏi:
          -Sao nói ở chơi với mợ mấy ngày?
          -Con về sớm gom mùng, mền giặt cho má.
          -Mùng mền má giặt hết rồi chỉ còn màn cửa thôi hà!
          Má lộ vẻ vui làm Di cảm thấy mình có lỗi với má quá, lật đật đi tháo hết mấy cái màn cửa cho vô cái thau to tổ bố đổ nước và xà bông vào rồi xăn ống quần lên mà đạp. Cố tập trung vào công việc nhưng đầu óc cứ rối như tơ vò. Di giận mình rồi giận lây sang An. Tại An cứ quả quyết với Di rằng hai đứa có thần giao cách cảm, cho dù có ở xa mấy đi nữa mà Di nghĩ cái gì liên quan đến An là An biết liền, vậy mà...
          Di bưng thao đồ xuống bến sông để xả. Con sông mùa nầy nước cạn và trong veo, cây cầu dừa nằm phơi mình trên bùn. Di trút thau đồ lên cầu rồi xăn quần lên quá đầu gối, cầm từng cái màn lội ra chỗ nước trong. Nước chảy kéo tấm màn bập bềnh theo sóng, có tiếng gọi sau lưng:
          -Dìa hồi nào vậy cô Tư?
          Di quay đầu lại nhìn. Một cô gái nhỏ người da ngăm ngăm đang cười với Di, gương mặt rất lạ:
          -Cô mới về hai ngày, em là con ai vậy?
          Cô gái cười to hơn, rồi giải thích:
          -Tui là vợ thầy giáo Lộc.
          -Trời đất ơi! Vậy mà em hổng biết xin lỗi chị nghe.
          -Lỗi phải gì cô ơi! Tại vai vế nên tui mới làm lớn. Cô ở nhà được mấy ngày?
          -Mùng sáu là em đi rồi chị!
          -Sao hổng ở thêm? Lâu lâu mới dìa một lần.
          Chỉ vừa hỏi vừa bưng thúng giá đứng phía trên dòng chảy để đãi. Mấy cái vỏ đậu xanh nổi lềnh trên mặt nước.
          -Em mắc đi học.
          -Cô học chừng nào hết.
          -Cũng chưa biết nữa chị, hổng chừng bảy, tám năm nữa lận.
          -Chèng đéc ơi! Học chi mà lâu dữ vậy, bộ hổng tính lấy chồng sao?
          -Học xong mới lấy.
          -Tới chừng đó già khú đế rồi, đâu có ai chịu cưới mình nữa!
          -Hổng có đâu chị, bây giờ người ta lấy vợ lấy chồng trễ lắm.
          Chỉ đãi giá xong bưng cái thúng đi lên bờ, nước chảy ròng ròng ướt một phần vạt áo, ngoái đầu lại nói:
          -Thôi tui lên trước nghen.
          -Dạ.
          Một cô gái khác xuống bến gánh nước, da trắng trẻo rất xinh chào Di
          -Mới dìa hả cô Tư?
          -Dạ em mới về chị.
          -Ý cô đừng có gọi con bằng chị tội chết. Con là dâu của ba Bình, con gọi cô bằng cô lớn.
          -Vậy hả? Xin lỗi nghen, bị xa nhà hoài nên hổng nhớ rõ bà con.
          -Con cũng ở xóm mình mà, con còn nhớ cô kỹ lắm. Hồi đó cô hay ghé nhà rũ chị hai con đi học.
          -Chị hai em tên gì?
          -Chỉ tên Thảnh đó cô!
          -Vậy em là con Thơi đó hả? Sao lớn lên đẹp quá vậy? Nhìn hông ra.
          Cô gái mắc cỡ cúi mặt, đi xâm xâm ra tới chỗ sâu đến ngực lấy tay khỏa nước cho sạch nhấn hai cái thùng thiếc cho ngập nước rồi gánh lên bờ, không quên mời:
          -Có rảnh ghé nhà con chơi nghe cô!
          -Ừa!
          Nỗi lo trĩu nặng trong lòng cũng đã trôi dần theo giòng nước chảy. Những câu chuyện bâng quơ làm Di vui lên một chút. Nước đang lên từ từ gần mấp mé cây cầu. Di bưng thau đồ lên nhà, má quở:
          -Làm cái giống gì mà lâu lơ lâu lắc vậy? Sao không lấy nón đội, phơi cái đầu dưới nắng chang chang. Có cái bịnh nhức đầu mà hổng chịu lo, dữ ngươi quá!
           
          Xóm nhỏ của Di rộn ràng đón tết. Nhà nhà tất bật, đường xá, chợ búa tấp nập. Ngay cả không khí dường như cũng đậm đặc hơn mọi ngày.
          Những chiếc xe đẩy, tiệm tạp hóa lưu động, gia tăng số lượng và chất lượng. Những tiếng rao cất lên từ sáng đến chiều, hàng hóa trên xe cũng nhiều gấp đôi gấp ba. Mấy chiếc xe lôi chở nguyên tấm ván to chất đầy thịt heo trên đó chạy khắp xóm bán đến tối, đặc biệt là vào 29 tết thì hầu như bán thâu đêm luôn. Những đứa con nít trong xóm không còn đánh đu sau xe và bị đuổi lên đuổi xuống như tụi Di ngày xưa nữa.
          Xóm trên có mấy nhà làm nghề mổ heo, mấy ngày nầy họ mua heo về nhốt sẵn hể bán hết đến đâu làm đến đó.Tiếng heo kêu khi bị thọc huyết chốc chốc lại vang lên làm mấy đứa con trai nhỏ cắm đầu chạy đi xem. Những ngày nầy tụi nó ở ngoài đường suốt, khi thì xem thọc huyết heo, khi thì chạy đi lượm pháo, hể kiếm được viên nào bị lép hay chưa nổ kịp thì thảy vô mấy cái đống un rồi căng lỗ tai đứng chờ. Có những viên nổ rất mạnh làm mớ lá đang cháy xém bị tung lên bay túi bụi. Người lớn xách chổi chạy ra dọa đánh chúng rồi gom lá lại đốt tiếp.
          Năm nay Di để ý thấy má ăn tết nhỏ hơn mọi năm và ngoại cũng không còn tự tay gói bánh nữa. Ngoại ngồi xem, trên vai vắt cái khăn mới hể có ai hỏi là ngoại lại khoe: "Con Di mua cho tui đó!". Trưa 29 má và mợ sáu bắt đầu gói bánh đến chiều thì xong. Má bắt ba cục gạch to để kê lò, cẩn thận rinh cái nồi đất bự bằng cái thúng giạ ra đặt lên đó. Má lấy lá chuối lót dưới đít nồi rồi sắp bánh vào. Mấy đòn nhưn trắng [đậu xanh và thịt mỡ], để ở dưới cùng còn những đòn nhưn ngọt [đậu xanh nấu chín tán nhuyễn trộn đường] và nhưn chuối để phía trên vì chín nhanh hơn. Dì tám Dư và cậu hai Đủ gởi luộc ké mỗi người một chùm nhỏ có cột vải màu vào làm dấu. Mấy khúc củi to và gốc tre còn nguyên rễ để dành từ đầu năm được mang ra chụm. Nấu bánh đòi hỏi người có nhiều kinh nghiệm, phải biết giữ lửa cháy làm sao cho bánh chín đều nên má phải trực tiếp theo dõi chẳng dám nhờ ai.
          Má Di ăn chay một tháng bốn ngày. Hai ngày cuối năm má bắt cả nhà ăn cùng. Mấy chị em Di chờ cúng giao thừa xong là múc thịt kho ăn với bánh tét liền. Má Di kho thịt ngon và khéo lắm. Miếng thịt vàng óng, mỡ trong vắt, đẫm mùi nước dừa và nước mắm hòa quyện, thơm lừng ăn hoài không chán. Mấy trái dừa rám vỏ hái từ trên cây xuống được lấy nước để kho thịt, phần cơm còn lại chị em Di xắt lát thật mỏng để làm mứt dừa. Món mứt nầy ngày tết trong xóm Di nhà nào cũng có.
          Năm nay má mua cho ba chị em mấy xấp tơ màu để may áo dài. Tội nghiệp dì Bảy phải gác công việc để may cho tụi Di vì cận tết thợ may không nhận nữa. Ngày mùng một Di mặc chiếc áo dài màu đầu tiên, cảm xúc trang trọng làm Di đâm ra chửng chạc. Ba chị em mặc áo dài mới ra mừng tuổi má. Đầu năm kỵ khóc, sao má nhìn bầy con mà mắt cứ rưng rưng ?
          Mùng ba Thu sang thăm Di. Di mừng quá ôm thật chặt làm Thu không thở nổi. Thu đòi Di dẫn ra thăm vườn. Di kéo Thu cùng ngồi lên cái võng cột qua hai cây ổi, cái võng trĩu xuống gần chạm đất. Thu có vẻ ngần ngại lắm, hỏi Di một câu y chang như hôm nào má Di đã hỏi:
          -Bồ với An là thế nào với nhau vậy?
          Bị hỏi bất ngờ Di nghẹn họng không đáp được. Thu chờ hồi lâu rồi nói tiếp:
          -Hôm trước y ta có ghé nhà mình để tìm bồ, sau đó chị Na có gặp mình. Chỉ nhờ mình nói với bồ là đừng có liên lạc với An nữa, để yên cho An lo học. Hai người mà còn lộn xộn thì chuyện nầy sẽ tới tai người lớn đó!
          Rồi Thu móc túi đưa cho Di một lá thơ. Di bóc ra xem, thơ một người con trai gởi cho Di nhưng không phải của An, cuối thơ ký tên Trọng làm Di nhìn Thu sửng sốt. Anh Trọng bạn với anh Lộc của Thu. Di cứ nghe Thu kể về ảnh suốt. Nào là ảnh dám bơi qua sông một mình. Nào là ảnh rất thông minh, đàn rất giỏi và có mấy bài thơ đăng báo...Di nhìn Thu, mắt Thu buồn như tên của mình. Di bỗng ôm Thu rồi òa khóc.
          Ngày hôm sau, sáng sớm An đã đến nhà Di. Má ra tiếp rồi nói với An là Di đã đi ra nhà nội. An hỏi thăm nhà nội ở đâu. Má nói xa lắm rồi biểu An về đi vì Di đi đến tối mới về. Má hỏi An có cần má nhắn lại cái gì không. An ấp úng mấy tiếng nhỏ xíu nên nằm trong phòng Di nghe không rõ, im lặng hồi lâu rồi An thưa má ra về. Di vừa bước ra má đã nạt:
          -Vô buồng nằm im đi, coi chừng nó quay lại đó!
           
          Di trở vô phòng nằm úp mặt xuống gối, ghìm chặt những tiếng thổn thức sâu tận đáy lòng. Cái gối rất mềm ôm trọn gương mặt Di và kiên nhẫn thấm khô từng giọt nước mắt. Những câu nói của chị Na được Thu kể lại như những mũi kim một lần nữa ghim vào và làm Di đau nhói. Chắc lúc nầy An cũng như Di. Di đã quyết định không gặp lại An, sẽ xóa hẳn hình bóng và cả cái tên "An" trong ký ức, nhưng sao nghe cái giọng van lơn đầy lo ngại của An khi nói chuyện với má lòng Di lại ngập tràn thương cảm. Di nhớ ánh mắt sau cùng An nhìn Di trước khi trở vô nhà. Nó diễn tả một lời cầu khẩn vô cùng tha thiết. Nó làm Di liên tưởng đến những đứa trẻ bị mẹ đem bỏ vào cô nhi viện. Chắc ánh mắt của chúng, cũng u buồn đến thế mà thôi!
          Ngày hôm ấy Di giống như viên thuốc bọc đường, mùi vị bên trong và cái lớp phủ bên ngoài hoàn toàn khác biệt. Mỗi lần bà con lối xóm đến thăm và chúc tết má lại gọi Di mang bánh trái ra mời để có dịp khoe con gái. Di ra chào hỏi, cười thật tươi và trả lời thật lễ phép. Di rủ hai chị chơi lô tô, cờ cá ngựa và đánh bài. Di cứ thắng và gom tiền miết làm chị Hai phải ghẹo:
          -Con nhỏ nầy bộ có ông thần bài độ mạng hay sao mà ăn hoài ăn quỷ. Thôi học làm chi cho cực đi làm nghề cờ bạc cho mau giàu.
          Câu nói của chị Hai, có một người đã nói với Di tương tự. Lòng Di lại nhói buốt, niềm vui đang cố thổi bùng, xẹp dần như bong bóng thủng. Má thấy Di đang vui bỗng khựng lại im ru không trả lời, tưởng Di giận nên rầy chị:
          -Đầu năm, đầu tháng đừng có ăn nói buông tuồng!
          Buổi chiều Di xách chổi ra quét sân cho ngoại, mấy ngày tết kiêng quét, đổ rác nên lá rụng ngập sân. Di bưng thau nước vẫy cho lớp bụi nằm im, quét từ đầu đến cuối sân còn dọn sạch luôn mấy sợi rơm bò ăn tha đầy đường cộ. Gom lại thành một đống bự bành ky, lấy mớ lá dừa khô mồi lửa từ bếp lò ra đốt. Di lót dép ngồi bệt xuống đất nhìn ngọn lửa cháy phừng phừng đuổi đám khói bay tán loạn. Gió cũng hùa vào dồn khói về một phía, rồi khi không lại đổi ý lùa chúng sang hướng khác. Bất giác Di so sánh những sợi khói mỏng manh kia y như thân phận con người, có mấy khi được yên vui và đi theo đúng con đường mà mình hoạch định.
          Mấy đứa con nít trong xóm bắt đầu tụ tập quanh đống lửa, giống hệt như tụi Di hồi xưa. Di vào nhà lấy mấy cái bánh phồng và hai cái gấp tre ra nướng để chia cho chúng. Có một đứa bé mặc chiếc áo quá cũ. Di bỗng buột miệng hỏi:
          -Sao em không mặc áo mới?
          -Em hổng có!
          Một đứa giải thích:
          -Nhà nó nghèo lắm, má nó mới bị rắn cắn chết!
          Di cho con bé cả một chiếc bánh vừa nướng xong, nó cầm lấy rồi vừa đi vừa ăn chắc sợ ở lại bị mấy đứa kia cắn bớt. Di bỗng thấy mình sao quá ư ích kỷ, cứ xin thêm ông trời thứ nầy thứ nọ, để ổng không có thời gian mà chăm nom cho những người khác, đang cần ổng hơn Di nhiều lắm!
          Hôm sau Di và chị Ba xin phép má đi chùa, má cho tiền rồi biểu hai chị em mặc áo dài như hôm mừng tuổi má. Di mặc lại cái áo dài màu hoa cà còn chị Ba mặc màu vàng hoa cúc.
          Ngôi chùa gần nhất nằm phía bên kia sông phải đi đò ngang mới đến được. Bến đò nằm sát hông nhà. Chị Ba mang đôi guốc gót hơi cao, chị Cà chèo đò phải nắm tay dắt chỉ bước xuống đò. Nước sông trong vắt, mặt nước gờn gợn lăn tăn giống mặt trên của thau bông cỏ bị cái muỗng hớt để dấu lại. Di bỗng rất nhớ cái vị mát ngọt, mùi dầu chuối thanh thanh của cái món mà mình ưa thích nhứt hồi xưa.
          Cái chùa mà hai chị em Di đến viếng có một cái tên bằng chữ Hán, bà con không thèm xài tới, cứ goị là chùa Lá. Nó ở cách xa con lộ và nằm giữa ruộng lúa, nền đất mái lá trông vô cùng thân thiện. Hôm nay mùng năm nên chùa vắng lắm. Chỉ có hai chị em Di, một bác phật tử già đến chùa làm công quả và sư ông trụ trì mà thôi! Đốt nhang xong sư ông cho Di và chị mỗi người một cái bánh ú đang chưng trên bàn phật để lấy lộc. Hai chị em chấp tay xá cảm ơn sư rồi đưa nhau ra sân ngồi. Sân chùa rất rộng trồng toàn cây ăn trái mà nhiều nhất là xoài. Mấy cái băng ghế đóng bằng tre già, lên nước bóng ngời đặt rải rác dưới bóng cây. Di lựa một chiếc hơi khuất ở cuối sân rồi kéo chị Ba ngồi xuống, vừa an vị xong chị hỏi Di:
          -Hôm bữa Thu qua chị thấy em khóc, bộ có chuyện gì không vui hả?
          Đôi mắt chị nhìn Di đầy vẻ quan tâm và quá ấm áp làm Di không kềm lòng được nữa. Di kể cho chị nghe mọi việc. Chị vừa nghe vừa bóp nhẹ tay Di, rồi chị nắm chặt nó trong đôi tay và nói:
          -Theo chị nhận thấy thì tình cảm em dành cho An không phải là tình yêu đơn thuần mà pha trộn rất nhiều lòng thương hại. Lòng thương hại là cái thứ dễ bị ăn mòn nhất, làm người nhận tổn thương nhiều nhất và người cho cũng chóng mệt mỏi. Em nên quên đi, đừng tìm cách gặp An làm gì. Hãy để An có thì giờ mà quên em, hai đứa còn quá nhỏ nên vết thương sẽ mau lành. Chuyện nầy sẽ là một kỷ niệm đẹp nhưng nếu kéo dài sẽ trở thành tai họa đó em!
           
          (Xem tiếp CHƯƠNG SÁU/10)
           
           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:49:24 bởi Lâm Du Yên >
          #5
            Lâm Du Yên 05.10.2019 08:35:55 (permalink)
            NHƯ ĐI TRÊN CÁT     
            Truyện dài Lâm Du-Yên   
               
            CHƯƠNG SÁU/10

            Từ hôm gặp Di đến nay Thu cảm thấy lòng nặng nề hết sức. Từ trước tới giờ Thu rất khâm phục trước bản lĩnh và nghị lực của Di. Thu cứ ngỡ Di là người có nhiều tham vọng và đòi hỏi rất cao về đối tượng của mình, nào ngờ Di quá yếu đuối và rất thiếu thực tế.
            Ngày trước Thu thường đến nhà Di và đôi khi bắt gặp ánh mắt của An nhìn Di là lạ. Có lần Thu ghẹo nhưng thấy Di trả lời rất nghiêm, biết Di không thích nên không dám chọc nữa. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến Di. Thu cố nén cái cảm giác thất vọng, cố dìm một lời trách cứ âm thầm. Như thể Di đã phụ lòng tin của Thu, như thể Di đã đem đổi một món trang sức quí báu để lấy một thứ quá tầm thường.
            Thu biết Di ấp ủ một mơ ước rất mãnh liệt là muốn sống với nghề viết lách. Thu chưa hề nghe Di thố lộ về chuyện tình cảm, vẽ vời về người trong mộng như các bạn khác. Di chỉ nói với Thu về ngôi nhà trong tương lai của mình. Một căn nhà lá rất, rất nhỏ có giàn mướp leo lên tận mái. Mảnh vườn rộng trồng cây ăn trái mỗi thứ một cây. Một hàng rào dâm bụt cao cao bao quanh và một khoảng sân chừa lại cho muôn loài cỏ dại.
            Thu thì đơn giản hơn Di nhiều lắm. Thu hài lòng với cuộc sống của mình và gắn kết chặt chẻ với mọi thứ chung quanh, Thu đã lên Sài Gòn học nhưng rồi nhớ nhà chịu không nổi phải trở về, xin đi dạy để sống với gia đình.
            Hàng ngày nhìn mấy đứa học trò bày những trò tinh nghịch, tìm cách qua mặt thầy cô trong những lần thi cử Thu cứ cười thầm trong bụng. Đôi khi chúng quá quắt Thu muốn phạt nhưng rồi không nở ra tay vì nhớ đến tâm trạng của mình thuở trước. Trong lớp Thu dạy có một đứa rất giống Di. Nó cũng hay trêu đùa và rất lém lĩnh. Nó biết Thu thương nên hay vòi vĩnh, và đáp lại bằng cách bày tỏ tình cảm một cách rất riêng, rất bất ngờ làm Thu vô cùng xúc động cũng giống như Di vậy.
            Buổi học đầu năm không khí có phần uể oải, vài chỗ ngồi còn bỏ trống, tụi học trò nghe giảng chỉ bằng một lỗ tai. Thu dạy môn văn, ráng nói hết sức để đưa bài giảng lên đầu, nếu may mắn sẽ chui vào tim của chúng một ít. Hôm nay Thu giảng về bài thơ HƯƠNG CAU của KIÊN GIANG HÀ HUY HÀ, một nhà thơ chân chính đã cống hiến cuộc đời của mình cho văn chương, sống thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần mà Thu vô cùng cảm mến:

            Hương cau thơm nức ngôi sao mẹ
            Thơm ngát mái nhà, thơm áo cơm
            Con thở trong mùi hương bát ngát
            Thịt da mái tóc quyện mùi thơm...

            Bài thơ nói về hình ảnh một người mẹ quê tảo tần nuôi con ăn học, hy sinh mọi thứ cho con của mình:

            Bán đôi bông cưới mua thang thuốc
            Mua bánh tai heo vở học trò...

            Thu giảng bằng một cảm xúc sâu lắng vậy mà tụi nó đáp lại một cách vô cùng hời hợt làm Thu hụt hẩng quá. Chuông reo ra về. Thu dẫn chiếc xe PC ra cổng chưa kịp nổ máy bỗng nghe tiếng gọi từ sau lưng:
            -Chị Thu.
            Thu quay lại nhìn, gương mặt tiều tụy của An làm Thu hết hồn, chưa kịp hỏi An đã lên tiếng trước:
            -Nghe nói chị có qua nhà chị Di, chị có gặp chỉ hông vậy?
            Thu muốn trả lời là mình không gặp Di nhưng nhìn tia mắt quá khẩn thiết của An. Thu lại gật đầu, An hỏi tiếp:
            -Chị có địa chỉ của chị Di hông? Cho em xin!
            Lần nầy thì Thu lắc đầu:
            -Lo nói chuyện nên chị quên xin, với lại hôm ấy chị sợ về trễ kẹt xe nên ở chơi có một chút hà!
            Có lẽ An biết Thu nói dối nên cứ trù trừ mãi không chịu đi. Mấy đứa học trò đi ngang qua có đứa quay lại nhìn chăm chú. Thu bỗng đâm bực nên buột miêng nói với An:
            -Chị Na có nhờ chị nhắn với Di là đừng có liên lạc với An nữa, nếu không nghe là chỉ mét má Di đó!
            Mặt An bỗng trắng bệt như tờ giấy, hỏi dồn:
            -Chị có nói lại với chị Di hông vậy?
            Thu gật đầu rồi cố tránh ánh mắt An, nổ máy cho xe chạy trước.
            An vẫn còn đứng lại giữa đường bất động, một đứa học trò đi ngang vấp vào rồi cự nự:
            -Cha nội nầy, làm cái gì mà đứng án giữa đường!
            Nỗi buồn trộn lẫn sự bực tức đang dâng lên cuồn cuộn trong lòng An. An biết tính Di rất dễ bị tổn thương, nghe những lời nói đó Di sẽ chẳng bao giờ cho An gặp mặt. Có lẽ suốt cuộc đời nầy, cho tới lúc chết An vẫn giữ mãi trong lòng những điều muốn nói mà chưa nói được với Di.
            Tối hôm đó An hầu như thức trắng. An đã thảo cho mình một kế hoạch, quyết định sẽ lên Sài Gòn tìm Di. An cứ trông cho trời mau sáng để đi đánh điện cho Lưu, báo cho biết An sẽ lên thăm và nhờ ra bến xe đón An giùm.
             
            Đã hai hôm nay An đứng chờ Di trước cổng trường Khoa Học. Mỗi sáng An đều đến thật sớm lúc những ngọn đèn đường chưa tắt, ra về khi những con lộ đều sáng trưng ánh điện, vậy mà vẫn không thấy Di xuất hiện. Cứ mỗi lần có mái tóc dài thấp thoáng từ xa là tim An lại đập dồn dập. An đứng phía bên kia đường tập trung nhìn vào hai cái cổng chính và phụ của trường với vô số sinh viên ra vào. Phải đảo mắt liên tục nên bị chóng mặt, vậy mà không dám nhắm mắt lại lâu vì sợ Di đi huốt.
            Ngày kế tiếp rơi vào chủ nhật. An mượn Lưu chiếc xe đạp rồi mua một cái bản đồ để đi tìm Di. Nhớ lời Thống nói nhà Di trọ ở trong hẻm gần chợ. An len lỏi vào những con hẻm và chui vào mấy cái chợ chồm hổm, vừa đạp xe thật chậm vừa ngước mắt nhìn lên sợi dây phơi đồ trên ban công để tìm những chiếc áo của Di. An nhớ rất rõ áo Di từng chiếc một. Từ những bộ đồ bình thường Di mặc ở nhà cho đến những chiếc áo điệu Di mặc khi ra đường. An chuyển tầm nhìn xuống thềm nhà, kiếm đôi dép quai đen quen thuộc. Trực giác nhạy bén của An liên tục đưa ra những tín hiệu sai lạc. An cứ hy vọng rồi lại thất vọng, tim cứ đùng đùng nảy lên rồi chùn xuống và hơi thở thì co giản như một cái lò xo. Đến tối mịt khi An quay về nhà Lưu thì người đã mệt phờ đến không thể mở miệng nổi. Lưu nhìn An lắc đầu ngao ngán, trong mắt Lưu lúc nầy An không khác gì người mất trí.
            Lưu lén đi đánh điện tín báo cho gia đình An biết tin, dù An không nói nhưng Lưu biết đời nào má An cho phép An nghĩ học lên Sài gòn để thăm Lưu. Từ lúc gặp An đến giờ, An chẳng nói gì với Lưu hết, chỉ khi Lưu hỏi thì mới trả lời cụt ngủn và tâm trí để tận đâu đâu. Trông An ốm và phờ phạc đến độ Lưu sợ An gục tại nhà Lưu thì khổ lắm.
            Cả nhà An đang lo cuống cuồng đến độ má An bị bệnh. An là con trai duy nhất trong năm người con nên bà thương và đặt hy vọng vào An nhiều nhất. Ba An mất khi An vừa hai tuổi. Bà phải xoay sở đủ cách để năm đứa con được học hành đến nơi, đến chốn. Trước đây bà rất thương Di vì Di cũng mồ côi cha và hiếu học. Nhưng từ khi Di ra đi và An học hành sa sút thì những gì Di để lại trong bà chỉ là lòng oán trách. Dù vẫn biết rằng trong chuyện nầy An chính là người khởi xướng, Di chỉ bị cuốn theo mà thôi. Bà trách Di không hướng An về mặc tích cực, nếu Di khéo léo thì chắc An sẽ dốc sức học, không phải mắc bệnh và không còn ham học nữa.
            Ngày hôm sau An lại đến trường Di. Ông già bán sách trên lề đường đã quen mặt nên cho An tờ báo cũ lót xuống đất ngồi cho đỡ mỏi. An ngồi nhìn lên hàng cây liêm xẹt nở hoa vàng ối, nhớ đến cái biệt danh mà An đặt cho Di,"Liêm xẹt cô nương", để đáp trả vì Di gọi An là "Công tử đạo chích" khi phát hiện An lấy trộm kẹp tóc của mình. An không nhớ tại sao lại gọi Di như vậy, vì ở chỗ An cây Liêm xẹt rất ít và An cũng không yêu thích nó. Bây giờ An bỗng ước ao hóa thành cái cây to với cả trăm cánh tay xòe rộng ấy! An sẽ đứng mãi đó chờ Di mà không bị ai xoi mói, cho đến khi nào Di xuất hiện thì An sẽ trở lại là mình.
            Ông già bán sách chắc đã có kinh nghiệm trên tình trường, chẳng hỏi han chi, thể hiện sự thông cảm của mình bằng cách bẻ nửa ổ bánh mì thịt dúi vào tay An và giục "ăn đi". Thỉnh thoảng ông lại đưa ca nước cho An uống mà không nói một lời. Đến chiều An trả ơn bằng cách xếp những quyển sách vào hai cái bao bố cho ông rồi bưng một bao đặt lên sườn xe phía trước, cái còn lại thì lấy thun ràng vào cái bọc ba ga phía sau. An đứng nhìn theo cái lưng gò lên vì chở nặng mà cảm thương cho cả ổng và mình.
            Về đến nhà Lưu, An quá đổi ngạc nhiên khi thấy chị ba của mình trong phòng khách, vừa thấy An là chỉ ôm chầm lấy, vừa khóc nức nở, vừa nói:
            -Em về nhà liền đi, má bịnh nặng lắm!


            Từ hôm trở về nhà đến nay, tối nào An cũng mang tập ra bàn ngồi học đến khuya cho má vui. An cố nhét từng con chữ vào đầu, cũng giống như má đang nhăn mặt nuốt từng ngụm nước đắng nghét trong chén thuốc. Ngày xưa còn Di An học rất hăng, một phần sợ quê với Di, một phần có cớ để mượn Di chỉ bài, để được ngồi sát bên Di hít mùi chanh tỏa ra từ mái tóc của Di mới gội. Đôi khi An cố tình chạm má vào mái tóc của Di. Di né ra xa rồi trêu:
            -Coi chừng lây chí cho Di đó!
            Nhờ vậy mà năm nào An cũng được cùng Di đi lảnh thưởng. Năm ngoái, lảnh thưởng xong An không chở Di về nhà liền mà chạy ngược về hướng núi, vòng qua con lộ đất băng qua đám ruộng để về nhà. An đạp rất chậm và Di cũng không thúc giục, hai đứa nói rất ít. An huýt sáo khe khẻ bài "Con đường tình ta đi". Di lẩm bẩm hát theo, nhớ đến đấy An bỗng buột miệng huýt sáo làm mấy bà chị cứ nhìn mãi miết.
            Chủ nhật, An lấy cái túi to cho vào mấy cuốn tập, thơ, truyện, một chai nước, hai gói mì tôm và nhét thêm cái võng nhà binh rồi đạp xe vô núi. An tìm được một chỗ ở lưng chừng núi, xa con lộ và ít người qua lại rồi máng cái võng qua hai cây me, nằm ngữa mặt nhìn trời.
            Mặt trời bị đám mây che bớt, rót ánh nắng rất dịu chiếu qua những chùm lá nhỏ lao xao, những đốm trắng rung rinh rớt xuống người An như bầy bướm chập chờn thoắt bay, thoắt đậu. An lấy tập ra cố học được chữ nào hay chữ nấy, những con chữ bỗng cứng đầu một cách lạ lùng. An xếp lại, nằm nhắm mắt tưởng tượng giá mà có Di ngồi bên lúc nầy, không biết giờ nầy Di đang làm gì? Có vừa giặt đồ vừa hát như những chủ nhật ngày xưa. Nỗi buồn từ đâu bay tới đậu xuống chân rồi trườn dài lên ngực, mi mắt nằng nặng. An mở vội ra rồi ngước lên trời như kiếm tìm một lời an ủi.Trời cao xa và vô tình quá chẳng hề động lòng trước nỗi thống khổ của An. An rút cây viết gài trên miệng túi ra, miết tay lên hai chữ "Hè xa" vàng ố, tự hỏi lòng sao thế giới chỉ thiếu có một người mà trở nên hoang vắng và điêu tàn quá đỗi!
            Đến trưa An lấy gói mì ra bẻ từng mẩu nhỏ cho vào miệng nhai. Mấy con kiến bò quanh quẩn bên chân. An bóp vụn rồi cho chúng môt ít vậy mà bị chúng chê, chẳng những không thèm ăn mà còn kéo nhau đi chỗ khác.
            An mở tập ra cố học rồi lại xếp vào, moi trong túi ra cuốn tạp chí "Thời nay", mở đại một trang trúng ngay môt bài thơ có cái tựa rất dài "Thơ cứ mọc như râu như tóc":

            Thôi em chớ kêu căng như vậy!
            Được tôi yêu là quí vô cùng
            Thơ không đọc làm sao ngó thấy
            Cái đam mê vời vợi, điên khùng
            .......


            Thôi em chớ là em tôi nữa
            Đâu có buồn, đâu có nói ngông
            Thơ cứ mọc như râu, như tóc
            Tôi cứ già trong nỗi nhớ mong

            Thôi em chớ là em tôi nữa
            Tôi thất tình, phải vậy hay không?

            An đọc mà khâm phục cái khí phách của nhà thơ ấy quá. Chắc ông ta lớn tuổi hơn cô gái nhiều lắm nên mới có cái giọng la rầy, mắng mỏ như vậy! Chẳng bù với An, nói với Di cứ chọn lọc từ lời, chỉ toàn nói ngọt thôi mà còn bị giận lên, giận xuống.
            Buổi trưa mây kéo nhau đi trốn hết bỏ lại cả một bầu trời trơ trọi. Những tia nắng không bị ngăn cản, xuyên thẳng xuống trái đất như vô số thanh kiếm bén ngót vừa nung hừng hực nóng. Gió khi cần lại bỏ đi mất biệt. An thòng chân xuống đất đẩy chiếc võng đu đưa ước gì An ngủ được và nơi kia Di cũng ngủ để cả hai cùng bay đến và gặp nhau trong mộng. Ýnghĩ vẩn vơ ấy càng làm An xao xuyến càng đẩy giấc ngủ ra xa tít.
            Quá bận bịu với mối tình của mình, An có lẻ là một trong số rất ít những người không quan tâm đến thời cuộc. Lệnh tổng động viên ban ra và tiếp đến tất cả các ngôi trường đều đóng cửa, rồi đến ngày ba mươi tháng tư, chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc. Những ngày nầy má An luôn bồn chồn lo lắng, số tiền bà gửi ngân hàng bị mất trắng. Những người được bà cho mượn vốn làm ăn cũng nhân cơ hội nầy xù luôn không trả. Không khí trong gia đình tối đi còn lòng An lại le lói một tia hy vọng, nghe đâu việc làm ăn của má Di đang gặp khó khăn. Bà không còn khả năng chu cấp và cho con học tiếp, có lẻ Di sẽ nghỉ học về quê. An mong đợi từng ngày, từng ngày, chờ hoài chờ mãi mà chẳng nghe tin gì của Di hết cả .
            Một buổi chiều khi An đang ngồi chép lại tập thơ "Đoạn trường vô thanh" của Phạm Thiên Thư, bỗng nghe mợ của Di nói với má An là Di đã đi lấy chồng rồi. Bao nhiêu cái chuông trên thế giới như cùng lúc gióng lên, tạo thành cơn lốc âm thanh làm nổ tung mặt đất. An như bị xé ra thành trăm ngàn mảnh nhỏ. Cây viết chết cứng trong những ngón tay đã chết. Cả trái tim, cả hơi thở của An cũng cùng rời bỏ thân xác mà đi!
             
            An như người sắp chết đuối vừa ngoi lên mặt nước lại bị nhận chìm sát đáy, chút hi vọng mong manh đã rời bỏ An mà ra đi mãi. An thấy mình vô cùng trơ trọi, cảm giác như cả thế nhân đều dồn về một phía, An một mình ở phía bên kia.
            Hàng ngày An ra khỏi nhà rất sớm, đạp xe đi loanh quoanh mà chẳng biết ghé vào đâu. Một lần An vô tình đi trở lại con đường đất ngày xưa. Cái rẫy bắp ấy năm nay cũng đã trổ cờ, lay lay như tấm thảm thật dầy màu tím bập bềnh trong gió. Năm trước cũng vào mùa nầy An chở Di đến đây, cũng ghé vào cái rẫy bắp nầy...
            An cho xe chạy chậm sát lề, những tàu lá nhám cứa vào mặt nghe ran rát. Trong đầu An cái dáng cúi nghiêng và những sợi tóc nổi loạn của Di tái hiện. Cái vòng ôm rất nhẹ hôm ấy hồi sinh và lại làm An thót bụng. Từ hôm đó nó vẫn còn để lại trên eo An một vết phỏng mơ hồ, không phát tác ra ngoài mà cứ chìm dần vào bên trong, co lại thành hạt mầm rất nhỏ chờ điều kiện thuận lợi là nhoi lên. Cảm giác nuối tiếc quá mãnh liệt làm An gần như tê dại. An dừng xe, ngồi dựa lưng vào cây ô môi rất già bên cạnh đường, ngước mắt nhìn những trái đen thui dài như cây gậy lòng thòng đu đưa. Mấy cái tổ chim hình chiếc giày, nhà của bầy chim se sẻ, cũng lắc lư nhè nhẹ. Cuộc sống của An bây giờ cũng giống như những cái tổ chim kia, liên tục đương đầu với mưa gió, ráng bám víu để rồi một ngày cũng phải rời bỏ cành cây...
            Trời dần sụp tối, chút nắng chiều chìm dần rồi biến mất. An uể oải đứng dậy ra về, giá không bị bầy muỗi đói bao vây chắc An sẽ ngồi lại mãi. Con đường đất đầy những ổ gà do dấu chân bò từ những mùa mưa trước để lại làm chiếc xe cứ xóc nẩy liên tục làm An nhớ đến cái lần chở Di. Hôm ấy Di ngồi phía sau cứ kềm chặt cái yên sợ té. Một lần bánh xe sụp vào lỗ sâu cả người Di ngã về phía trước áp chặt vào lưng An, hai khối mềm mềm tựa vào lưng êm ái quá, vậy mà làm An ê buốt tận chân răng.
            Cái quán nhỏ nằm sát đường vắng teo làm An cảm động. An sờ túi rồi ghé vào kêu một xị rượu ngồi uống khan, rượu cay làm nước mắt cũng cay. An ngữa cổ cho ngụm rượu cuối cùng chảy vào tận đáy, lớp cặn buồn tích lũy bên dưới trổi dậy. An cứ ngữa mặt hoài như cố tìm kiếm ông trời, để hỏi ổng coi làm việc cái kiểu gì mà để cho thế gian buồn bả thê lương và con người ta điêu linh đến vậy!
            Về đến nhà chắc đã khuya lắm, An đưa tay gõ cửa, thật lâu, rất lâu má mới đi ra. Má nhìn An, tia mắt là hợp chất của những nỗi thất vọng, u buồn và chán nản. Bà hỏi An, giọng nhỏ hết mức và gay gắt hết mức:
            -Sao không đi luôn đi?
            An chạy ra cái đường mương phía sau nhà tắm, cúi mình ói ra cái thứ nước vừa cay vừa đắng. Má không thèm đi theo mà bỏ vào vườn nằm, sức chịu đựng của bà đã cạn. An chui vào phòng nằm vật xuống giường không thèm giăng mùng. Bầy muỗi đói báo tin cho nhau, vội vàng kéo đến, hối hả như sắp dự một bữa tiệc sau cùng.
            Quá nửa đêm An choàng tỉnh, cổ họng khô rát bò ra nhà sau uống nước, chợt lập lại một thói quen đưa tay sờ lên miệng túi móc cây viết ra, cây viết chỉ còn cái nắp mà thôi. Một đợt chấn động dấy lên, An buông người rơi xuống ghế. Cảm giác tuyệt vọng như lấp hết các khoảng trống bên trong An và cả bên ngoài...Sao ông trời đối với An quá bất công, cho An những khoảnh khắc vui tươi ngắn ngủi rồi bòn rút sinh lực An, bắt An đóng thuế suốt quảng đời còn lại. Thôi đến đây là quá đủ, An thật sự không còn sức để vay mượn và chi trả nữa. An sẽ ra đi, Di hãy sống giùm An cái quảng đời sau cùng Di nhé! Kiếp sau của tụi mình An chắc chắn không còn đến trễ hơn Di nữa đâu!
            An mở tủ, lấy lọ thuốc sốt rét anh Khanh để lại trút ra tay ba viên rồi rót thật đầy ly nước, thuốc quá đắng nên An nuốt vội. An trở vào phòng nằm im, ly nước đầy thấm đẵm cả người An rồi tràn ra ngoài làm ướt hết hai gò má.
             
            (Xem tiếp CHƯƠNG BẢY/10)
            [[<font]  
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:50:08 bởi Lâm Du Yên >
            #6
              Lâm Du Yên 05.10.2019 08:38:18 (permalink)
              NHƯ ĐI TRÊN CÁT      
              Truyện dài Lâm Du-Yên    
                  
              CHƯƠNG BẢY/10

              Di sinh con trai thứ nhì vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa hè, vì sinh mổ nên hai mẹ con phải cách ly mỗi người một nơi. Từ ngày lấy chồng đến nay đây là lần đầu tiên Di được hoàn toàn rảnh rổi. Chiều chiều Di ra cái băng gỗ kê ngoài hành lang nhìn xuống khoảng sân nhỏ. Năm nay mùa hè rất nóng, nhựa cây như cô đặc hơn mọi năm nên nhuộm lên hoa một màu còn hơn màu đỏ.
              Ba đứa bé gái, có lẻ cha mẹ là nhân viên bệnh viện, đang bình thản chơi đùa. Chúng lượm những bông phượng rơi nằm dưới đất, ngắt mấy cái lá đài thổi phồng lên như những bong bóng nhỏ xiú, đập mạnh lên trán cho nó vỡ ra rồi cười với nhau. Những cô y tá đang luyện môn cầu lông để chuẩn bị cho cuộc thi sắp đến. Tiếng trái cầu chạm vợt làm nền cho những tiếng kêu ré vì thích thú hoặc thất vọng của họ không hiểu sao lại khuấy đảo lòng Di. Một niềm tiếc nuối nằm sâu dưới đáy bỗng trào lên, len vào tận cùng những góc xa xôi nhỏ bé nhất, ép những giọt nước trào ra khóe mắt. Từ ngày lấy chồng Di cứ khóc suốt nên người chồng có lần quá bực bội đã quát:
              -Bộ cô hối hận lắm hả?
              Lần nầy Di khóc nhiều nhất, nước mắt cứ tuôn hoài không sao kềm lại được. Tại sao nhìn những đứa bé chơi đùa với mấy cánh phượng, màu áo trắng và tiếng cười vui ấy lại làm Di đau lòng đến vậy? Nỗi tuyệt vọng làm tim trĩu nặng, như thể một điều gì rất đẹp đã rời bỏ Di và trôi xa mãi. Cảm giác nầy cũng giống như ngày xưa, khi vuột tay làm bay mất cái bong bóng rất đẹp, rất yêu thích rồi cứ khóc và nhìn theo cho đến khi mất hút.
              Tuần lễ sau Di xuất viện và bồng con về nhà. Tối đó cô em chồng mang vào cho Di một lá thơ, cổ nói:
              -Ở quê gữi lên cho chị nè!
              Di lật đật mở ra xem, thơ của chị Ba, Di hỏi:
              -Ai mang đến vậy, đàn ông hay đàn bà?
              -Đàn ông.
              Di chạy vội ra, người mang thư nầy chắc chắn là bà con, bạn bè hoặc lối xóm, sao đến tận đây mà không vào thăm Di? Di rất khao khát, rất muốn nghe tin tức của quê nhà, cô em chồng nói vói theo:
              -Tui có mời mà y hổng chịu vô nhà, đi liền hà!
              Di vẫn cắm đầu chạy miết ra đường, nhìn dáo dác chẳng thấy bóng ai quen thuộc.
              Sau thời gian nghỉ hộ sản Di đem con về quê gửi má. Đây là lần đầu tiên Di về nhà sau gần ba năm lấy chồng đi biệt, xe chạy ngang qua nhà mợ để xuống bắc qua sông. Di liếc mắt nhìn vào con hẻm cũ, không còn người áo trắng đứng tựa hàng rào, cây vú sữa vẫn ở đó giữa mảnh sân ngập lá. Chiếc võng ngoài hiên nằm im ru vì trời không gió, còn lòng Di thì tan tác như một cơn bão vừa mới đi qua!
              Một tuần sau khi Di đang ở chỗ làm thì nhận được điện tín má gửi lên, bảo về gấp vì con bệnh rất nặng. Sờ túi còn đủ tiền xe, Di nhờ người bạn làm chung ghé nhà chồng báo tin rồi tức tốc về quê liền. Ra đến bến xe, chiếc sau cùng về tận nhà Di đã rời bến. Vậy là phải đi xe chuyền từng chặng một, mất thì giờ và tốn tiền gấp đôi. Đến chặng cuối còn cách nhà hai mươi ba cây số thì trời đã sập tối, bến xe vắng ngắt và trong túi cũng cạn tiền Di đành cuốc bộ. Nóng ruột vì con Di chẳng hề thấy mệt, cũng không còn sợ mấy con chó vừa đuổi theo vừa sủa ào ào. Di đi suốt bốn tiếng đồng hồ không nghỉ chân cũng không dám dừng lại uống nước thì đến nhà nội, vậy là còn cách nhà Di hơn hai cây số. Di ghé vào nhà bác Tư ở gần sát lộ, nhà bác đã tắt đèn đi ngủ. Di gọi cửa hồi lâu, người anh con của bác ra mở, bộ dạng của Di làm anh sửng sốt, anh hỏi:
              -Trời đất ơi ! Cô tư đó hả, đi đâu mà ghé giờ nầy?
              -Em từ Sài gòn về, con em bệnh nên phải về đón nó liền. Em đi xe chuyền nên về tới bắc Năng gù là hết xe phải đi bộ từ đó về đây .
              Thấy ánh đèn và nghe tiếng nói chuyện mấy ông anh con cô Ba và bác Sáu kéo đến. Bây giờ Di mới cảm thấy đuối sức vô cùng, bèn nói:
              -Em ghé mượn chiếc xe đạp đi về nhà cho nhanh, với lại em mệt quá đi hết nổi rồi!
              Mấy ông anh không nói một tiếng chỉ lắc đầu từ chối. Trong đời Di đã có những lúc bị chết đuối bởi lòng người, nhưng lần nầy thì niềm tin nhỏ nhoi trong lòng Di đã hoàn toàn phá sản. Di thất thểu bước đi, chân đau và lòng nhói buốt!
               
              Vừa chạm cổng rào Di cất tiếng gọi liền:
              -Má ơi !má
              Như đã chực sẵn từ bên cửa, giọng má vọng ra cùng lúc với tiếng mở chốt lách cách:
              -Sao về trễ dữ vậy con?
              -Hết xe suốt, con phải đi từng chặng nên mới lâu như vậy.
              -Con đi bằng gì về mà má không nghe tiếng xe?
              -Con đi bộ từ bắc Năng gù về đây đó má!
              Giọng má thảng thốt:
              -Trời đất ơi! Tội nghiệp con tui quá!
              Di nói tiếp, giọng đầy uất nghẹn:
              -Con ghé nhà mấy bác mượn chiếc xe đạp chạy về mà hổng ai cho hết!
              Má lại kêu trời mà chẳng nói tiếng nào. Di chạy ào vào phòng, chị ba đang bồng bé Phúc, con của Di, trên tay. Di nhìn con, chới với trước gương mặt gầy đến bày cả xương gò má, hai cánh tay có ngấn hôm trước bây giờ khẳng khiu và đôi mắt của con nhìn Di như đong đầy lời trách móc. Di đưa tay ôm lấy con, chị Ba né ra rồi hối:
              -Em đi tắm, thay đồ liền đi rồi hãy bồng con.
              Má trút nước từ bình thủy ra cái xô nhựa rồi bảo Di:
              -Pha nước ấm ấm tắm cái mình thôi, còn cái đầu khoan có gội.
              Di đang tắm thì nghe mùi cá kho vọng vào thơm phức mới nhớ từ sáng đến giờ chưa có cái gì trong bụng, má hối:
              -Lẹ đi rồi ra ăn ba hột cơm để có sữa, thằng nhỏ nó nhớ sữa mẹ chớ hổng có chịu bú sữa bò.
              -Má nói chị ba cho con mượn bộ đồ, con đi mình không hổng có đem món gì theo hết.
              Má lòn tay qua cửa đưa cho Di bộ đồ của chị. Di lau mình chưa kịp khô, mặc đồ nhanh như chớp rồi chạy vội ra bồng con liền. Con ốm và nhẹ quá, nỗi ân hận như cái bàn bào gọt lòng Di từng lát. Di ôm con, nước mắt rơi đầy trên mặt, rớt cả lên miệng con, hai bờ môi nhỏ xíu hé ra hớp lấy. Di trật áo cho con bú đứa bé vùi đầu vào ngực mẹ nút rất mạnh rồi nhả ra khóc. Di cũng khóc ngất như con rồi buột miệng nói :
              -Mẹ xin lỗi con, mẹ xin lỗi con, mẹ không còn sữa cho con nữa rồi!
              Má bưng mâm cơm chạy vô lật đật, hỏi bằng giọng thảng thốt:
              -Cái gì vậy, thằng nhỏ có sao hông?
              -Con hết sữa rồi má ơi! Mấy ngày trước sữa căng làm con nóng lạnh, con phải vắt đem bỏ, còn bây giờ con con đói mà con không còn đến một giọt...
              Má vội đặt mâm xuống giường ôm chặt hai cái vai run và cái lưng cúi gập của Di, giọng má nghẹn ngào:
              -Tội nghiệp con gái của tui!
              Chị Ba quay mặt sang bên để che hai cái gò má ướt đẫm, chị bảo Di:
              -Đưa bé Phúc cho chị, em ăn cơm đi để một chút xe tới đi không kịp đó!
              Di cứ ôm con miết, chị Ba phải lấy muổng xúc từ miếng cơm đút cho Di. Miếng cơm đẩy những lời ăn năn mà Di muốn nói với con chìm vào nơi sâu thẵm : "Con ơi! mẹ của con dại khờ đến ác độc, mẹ nở bỏ con ở lại mà ra đi một mình, để mỗi lần sữa căng là mẹ lại nhớ con đứt ruột vì biết rằng con của mẹ đang đói lắm! Cả đời nầy mẹ sẽ không tha thứ cho mình, cái lỗi nầy mẹ trả cho con đến suốt đời cũng chưa hết!"
              Chị Ba ép Di ăn cho đến miếng cuối cùng. Chị dẹp cái mâm rồi lấy lược chải tóc cho Di, giọng chị ngậm ngùi:
              -Sao tóc em thưa quá vậy?
              -Em bị rụng tóc, mỗi lần chải đầu tóc dính đầy lược luôn.
              -Hồi trước tóc em đẹp lắm em có biết không ?
              Di không trả lời chị, bây giờ Di rất sợ những câu bắt đầu bằng từ "hồi trước".
              Má bắt chị Ba đưa Di lên Sài gòn. Chị Ba đang học sư phạm ở Long Xuyên, chị đưa Di đến nơi xong là phải quay về trường liền để hôm sau kịp vào lớp.
              Ba giờ sáng chuyến xe đầu tiên bắt đầu chạy, họ phải đi rất sớm để trốn mấy cái trạm gác. Lúc nầy dọc theo đường trạm gác mọc lên như nấm, bắt đồ lậu từ biên giới tuồn sang và ngay cả gạo, thịt heo cũng bị coi là hàng quốc cấm. Cứ mỗi lần đến trạm gác là hàng hóa trên xe bị lôi xuống, mọi ngóc ngách bị xới tung. Chị lái buôn nào quen thân với lơ và tài xế thì được giấu hàng ở nơi kín đáo không bị phát hiện. Do vậy mà nghề tài xế được vọt lên hàng đầu. Cho nên mới có một câu chuyện vui có thật rằng một vị kia, có bằng cữ nhân hẳn hoi nhưng muốn cưới được vợ phải nói dối rằng mình làm tài xế!!!
              Xe bị kẹt ở bắc Mỹ Thuận. Di xuống xe đi mua nước sôi để pha sữa cho con. Trụn bình khuấy sữa xong Di dốc ngược bình sữa, nhểu mấy giọt lên tay để kiểm tra độ nóng, không một giọt nào chảy ra dù Di cố lắc. Một cái rùng mình chạy dọc sống lưng, thì ra không phải bé chê sữa bò mà vì sữa không thoát ra được. Di mở cây kim tây đang gài miệng túi, nhúng vào nước sôi rồi khoét cho cái lỗ rộng ra mang lên xe cho con bú liền. Bé nút một hơi cạn hết bình làm chị Ba sững sờ kinh ngạc. Di giải thích cho chị hiểu rồi hai chị em lại khóc với nhau, tên lơ xe chẳng biết ất, giáp gì nạt té tát:
              -Lên xe là không được khóc nghe mấy bà nội!

              Vừa về Sài gòn, ngày hôm sau Di đưa con vào bệnh viện, bé bị viêm phổi và được điều trị ngoại trú. Di phải nghỉ việc để chăm sóc con, bé bú được nhiều nên mau hết bệnh, sau một tháng gương mặt bé đã hồng hào trở lại. Nụ cười đầu tiên của bé như bóng đèn 100 watt mới được thay, chiếu sáng xua tan nỗi lo âu, ân hận trong lòng Di.
              Di trở về cuộc sống của những ngày mới về nhà chồng, túi bụi với việc nhà và hai con. Thậm chí ban đêm Di cũng không ngủ được trọn giấc. Người chồng, một phần vì ham vui, một phần cố tránh tia mắt trách móc của vợ cùng những lời cằn nhằn của mẹ và mấy chị nên cứ đi miết cả ngày, có khi suốt cả đêm. hôm nào ngoan lắm là gọi cửa lúc một, hai giờ sáng, rồi ngủ một giấc đến trưa mới dậy. Cái thói sa đà ấy bị má chồng ghi vào sổ nợ của Di. Di bị chê là không biết chìu, để chồng chán sinh ăn chơi, bồ bịch...
              Bây giờ Di mới thắm thía cái nỗi bất công mà ông trời dành cho phụ nữ trong hôn nhân. Những bổn phận chồng chất lên vai, nghĩa vụ tỷ lệ nghịch với quyền lợi, càng ngoan ngỏan lại càng bị áp đặt. Có khi Di trách má, tại má ngày xưa cứ dạy Di chiụ thua, chịu thiệt. Má cứ nói hoài cái câu:"một điều nhịn chín điều lành" nên Di không dám chống đối. Di quá nhút nhát không dám nổi loạn, cũng không dám ôm con về quê sợ làm gánh nặng cho má, sợ má đau lòng và xấu hổ với bà con lối xóm.
              Cái niềm vui mà ái tình mang đến cho Di cũng quá ư ngắn ngủi, không tươi đẹp, rực rở như Di tưởng tượng. Thần tình yêu với đôi cánh dang rộng đưa người ta lên chín tầng mây mà Di đọc, thấy từ phim và sách, xuất hiện trước mặt Di sao tàn tạ quá! Chẳng những không có nét hùng tráng oai nghiêm của một vị thần mà còn thiếu hẳn vẻ trong sáng, lãng mạn của một chàng trai rất đổi bình thường. Khi thì y bạo ngược như một tên cướp. Khi thì như một kẻ đòi nợ vô cùng riết róng. Khi lại mang lại dáng dấp của một người ăn xin bám dai như đĩa. Hiếm hoi lắm ông ta mới tử tế ban tặng cho Di những gói quà nho nhỏ. Những lúc ấy Di lại nghi ngại, e dè không dám chạm tay vào. Như thể đó là tờ giấy bạc, con chim bồ câu hay bông hồng trong tay mấy nhà ảo thuật. Ngày xưa Di đã kỳ vọng ở ông rất nhiều còn bây giờ người mà Di tri ân nhất chính là những nhà bào chế đã tạo ra mấy viên thuốc trắng tinh, nhỏ xíu mà Di uống đều đặn vào mỗi buổi sáng.
              Thời kỳ nầy Di có hai người bạn nhỏ: Đó là con chó Phốc bị chủ vượt biên bỏ lại và một con vịt xiêm lai nhỏ.
              Một sáng Di mở cửa thấy con chó nằm mẹp trước thềm nhà, bộ lông rụng gần hết, đói đến kêu không nổi. Di lấy cái lon sữa bò còn sót chút cặn sắp bỏ, rót nước nóng vào tráng lớp sữa dưới đáy lon, rót ra tô cho nó uống. Nó cúi đầu nốc một hơi, liếm cái tô sạch bách rồi ngước mắt nhìn Di. Di đi bới thêm cho nó một tô cơm nguội, chan một muổng mỡ rồi rưới thêm mấy giọt nước mắm. Nó xực hết rồi lấy lưỡi lau cái tô rất kỹ.
              Từ hôm ấy nó cứ quanh quẩn trước nhà. Má chồng Di sợ nó lây ghẻ cho con chó bẹt giê đang nuôi, cứ cầm cây xua hoài mà nó chẵng chịu đi. Cậu con út vốn tính nhân hậu năn nỉ mãi. Thế là nó được đem tắm thật sạch, được cho nhập hộ khẩu và được khai sanh với cái tên mới là "Xà mâu". Chừng hai tháng sau, bà Tám cô ruột của má chồng Di đến chơi rồi xin nó. Ban đầu chẳng ai chịu cho, bà ta đánh vào chỗ yếu của má chồng Di, bả nói:
              -Nhà cháu bị liệt vào hàng giàu có, bị để ý dữ lắm mà còn nuôi thêm chó, lại là chó tây nữa chớ! Coi chừng bị đánh tư sản đó!
              Vậy là con chó bị đem đi, tội nghiệp chú em chồng vừa cho nó vào bao vừa rơi nước mắt. Di chạy thật lẹ lên lầu cố né tia mắt và tiếng kêu của nó, đang như những cái gai cố ghim sâu vào tim Di vậy!
              Người bạn còn lại, con vịt xiêm lai, xuất thân từ đám trứng vịt lộn để quên. Một bầy sáu con nở một lượt rồi chết dần chỉ còn mình nó. Nó có một khẩu vị khác thường, rất thích ăn nước đá và bao giấy kiếng bọc bên ngoài mấy gói thuốc lá. Nó là tên bụi đời thứ thiệt, cứ sáng ra là chẳng bao giờ gặp, tối mịt mới mò về nhà, đến sát bên chân Di rồi nằm mẹp xuống. Di bỏ dép đặt cái chân trần lên mình nó rồi nhẹ nhàng chà tới chà lui. Nó cứ nằm im ru, tận hưởng sự ve vuốt một cách lười biếng, cho đến khi Di mỏi chân hoặc bận công việc phải dừng lại mới chịu đứng lên đi ngủ. Tết năm ấy là cái tết đầu tiên và sau cùng của nó, mà nó cũng không được hưởng đủ ba ngày, mới mùng hai đã bị một chiếc xe Hon đa cán dẹp nát đầu ngay trước mắt Di. Kể từ đó Di cương quyết không nuôi hay thương bất cứ một con vật nào nữa cả!

              Niềm vui lớn nhất của Di ngoài hai đứa con là những bức thư của chị Ba. Cứ đều đặn mỗi tuần chị gửi cho Di một lá. Ông phát thư lần nào trao cũng cười đáp lại Di. Di mua giúp ông một đòn bánh tét nhưn chuối, rồi cả ông và Di đều nói cám ơn cùng một lúc.
              Cái thư kỳ nầy có vẻ nặng hơn mọi lần. Di giặt đồ thật nhanh rồi vào phòng đóng chặt cửa lại và mở thư ra đọc. Cái thư nào của chị ba cũng bị lem vì Di cứ vừa đọc vừa khóc, bởi lý do đó mà Di phải đọc một mình để không bị ai bắt gặp. Di hấp tấp mở thư, ba tờ giấy đôi đầy kín chữ. Chị báo cho Di biết chị đang đi thực tập trong một ngôi trường rất nghèo ở một vùng nghèo nhất nước. Chị tả cho Di về những đứa học trò thuộc dân tộc thiểu số. Chúng mặc những cái áo có ít nhất là ba miếng vá. Chúng cười đùa thật hồn nhiên và hay mang vào lớp tặng cô giáo bất cứ thứ trái cây gì chúng hái được trên đường. Có một đoạn Di vừa đọc vừa cười sặc sụa khi chỉ kể là được học trò thương cũng khổ. Có một lần chỉ đau bụng quá mà tụi học trò cứ tò tò bám theo làm không thể nào chui vào lùm cây giải quyết được. Phải vận nội công hết mức để kềm lại, đau tới đổ mồ hôi hột đến tụi nó phải kêu lên:
              -Cô ơi, sao mặt cô xanh lè vậy?
              Có một đoạn chỉ tả cảnh buổi chiều làm Di vô cùng xúc động:
              "...Chị rất mê những tia nắng cuối ngày thật hào nhoáng nầy. Em có biết không ? Chị tưởng tượng là ở trên kia, có những con sông, cánh đồng và làng mạc làm bằng bông gòn. Gió rải đều những cụm mây thành những hình thù gần như đồng dạng, cong cong giống như một đàn cừu trắng đang cúi đầu gậm cỏ. Có những đám mây như cánh đồng trồng đầy bông cải đang mùa thu hoạch. Những đám mây ở gần mặt trời mang màu đỏ chói chang, cuồn cuộn như dung nham trào ra từ núi lửa. Như thể thiên nhiên đang cố vét hết nhiên liệu của mình để thấp sáng cả bầu trời và mặt đất trong một lần sau cuối, phối thành một màu gam màu vô cùng rực rở. Chị nín thở, không thể diễn tả được cái điều đang làm mắt chị rưng rưng, cảm xúc của chị đang bay rất cao còn ngôn từ thì ì ạch đuổi theo và không thể nào bắt kịp. Nếu có em ở đây chị chắc rằng em sẽ làm được một bài thơ thật hay, mà em còn làm thơ không vậy?...", Di đã trả lời cho chị như thế nầy:

              "Chị rất thương!
              Đọc thư chị lần nào em cũng vừa cười vừa khóc. Cảm giác nuối tiếc dâng lên từng đợt trong lòng như sóng, chị hỏi em có còn làm thơ hay không hả? Cây viết, ngoài lúc viết thư cho chị ra em rất ít khi cầm đến, tâm hồn em bây giờ nặng nề và cùng mằn lắm! Âm nhạc, thơ văn và sách báo đối với em là một mặt hàng xa xí, hay như một người tình đã rời bỏ em hoặc bị em rời bỏ, thậm chí khi em ru con thì những câu ầu ơ cũng làm lòng em se thắt. Em, kẻ đào ngũ, kẻ phản bội nên suốt đời phải đi trong bóng tối và né tránh đồng loại.
              Thỉnh thoảng em lại nằm mơ thấy mình còn đi học, để rồi khi tỉnh vậy cứ ngơ ngác và khi nhận ra thực trạng thì phải cắn chặt môi mà ghìm tiếng khóc. Rồi cứ nói một mình:"Di ơi! Mầy đã có chồng rồi, có đến hai đứa con rồi, đi xa quá rồi không còn quay lại được nữa đâu!".
              Mỗi lần nhìn hai đứa con Di cảm thấy mình vô cùng có lỗi với chúng. Những lời yêu thương Di dành cho con thường xen lẫn những lời tạ lỗi, bởi hơn một lần Di ước ao được trở về đời sống cũ. Có lần đi ngang qua một ngôi nhà trong con hẻm nhỏ, tiếng nhạc hòa tấu bài " Yesterday once more" như níu giữ đôi chân và cột lòng Di bằng những sợi kẽm gai. Một cái đau vô cùng cụ thể có vị trí rõ ràng ở giữa ngực, rất mạnh, kéo dài rất lâu. Suốt ngày hôm ấy Di như bị rút cạn sinh lực và ủ rũ như kẻ mất hồn.
              Ở trong ngôi nhà to lớn, ồn ào nầy Di thấy ngộp thở và cô đơn quá đỗi. Không khí ngày càng một nặng nề hơn. Má chồng lúc đầu có vẻ thương Di nhưng rồi trước những lời đơm đặt của mấy bà chị và mấy cô em chồng, bà dần dần xa Di từng bước. Ba chồng thì từ khi Di về làm dâu đến giờ ông chưa hề nhìn thẳng vào mặt hay nói với Di một tiếng. Cả con chó bẹt giê cũng về hùa với chủ, nó không thèm ăn cái tô cơm mà Di trộn cho, và không hề vẫy đuôi khi Di bước vô nhà. Di đâm ra mất niềm tin nơi bản thân, tự hỏi phải chăng mình đáng bị ghét bỏ và xem thường như vậy!
              Những lời nói bóng gió làm Di vô cùng căm phẩn. Di ghét những người dựa vào tiền của, tự cho là mình cao sang rồi rẻ rúng người khác. Má chồng Di vì sợ bị kiểm kê hay đem tư trang giấu mỗi nơi một ít, khi thất lạc mọi người lại nghi ngờ lẫn nhau và người bị nghi ngờ nhiều nhất chính là Di.
              Di viết thư tâm sự với chị Ba, bày tỏ mong muốn thiết tha của mình là có một căn nhà riêng. Chị Ba nói với má, số đất hương hỏa bên nội cho ba chị em, chị Ba cho luôn phần chỉ cho Di. Má điều đình với người đang mướn đất, bán hết cho chú ấy. Mặc dù hiện giờ nhà nước giao cho chú quyền canh tác nhưng chú vẫn trả tiền để làm chủ hẳn hoi. Đây là tính cách cao thượng của người nông dân mộc mạc, chơn chất quê Di.
              Sài gòn vào thời điểm nầy nhà rẻ như bèo. Một số người bán để đi vượt biên, số khác bán để đi kinh tế mới. Với số tiền má đem lên cho, Di mua đươc căn nhà ở trong hẻm rộng khá khang trang. Từ hôm ấy, cứ giật mình thức giấc nửa đêm, nhìn lên cái trần nhà lạ lẫm, nhớ ra đây là căn nhà cuả mình Di lại nghe một niềm vui tràn ngập khắp người. Lòng tri ân má và chị Ba lại dạt dào làm Di rơi nước mắt!


              Hôm dọn nhà lòng Di nhẹ cái túi còn nhẹ hơn. Má chồng đưa cho Di một cái bọc trong đó có một bịt gạo. Một nồi cơm điện National một lít hai, một bàn ủi, cả hai đều đã cũ. Cô em chồng thứ mười chạy theo đòi lại cái bàn ủi. Di chán quá lại viết thư kể cho chị ba, vài tuần sau má gửi lên cho Di cái bàn ủi mà ba chị em dùng lúc trước. Gặp lại nó Di mừng như gặp lại người bạn cũ, biết chắc chắn rằng người bạn nầy sẽ không bao giờ rời bỏ Di như con chó xà mâu và con vịt bụi đời.
              Thời kỳ nầy Di phải tự lực cánh sinh, may mà ông chồng chỉ uống được nước đá nên hùn vô một cái tủ lạnh. Đêm nào Di cũng thức canh lấy đá đã đông cứng ra khỏi mấy cái ly nhôm, cho vô bịt ny lông để trữ lại bán cho bà con lối xóm. Nhờ vậy mà có tiền mua cá thịt cho con, còn Di thì ăn trường kỳ mắm và dưa mắm do má tự tay làm và gửi lên cho mà thôi!
              Thời bao cấp cũng có cái vui của nó, có đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng hô lanh lảnh:
              -Bà con ơi! Nộp sổ đen.(Sổ đen là hàng mậu dịch, sổ đỏ là hàng phân phối theo tiêu chuẩn).
              Thế là cả xóm trở nên náo nhiệt hẳn lên. Tiếng chân chạy rần rần, tiếng người hỏi nhau inh ỏi:
              -Bán món gì? Có lời nhiều hông?
              Di chộp lẹ cuốn sổ trong cái chồng sổ để sẵn trên bàn, chạy như bay không kịp chải đầu. Ra đến nơi đã thấy mọi người xếp hàng đông nghịt, rồi thì cũng chen vô mà giành một chỗ. Chẳng cần biết họ bán thứ gì, thường là thực phẩm và hàng gia dụng như cá, khoai, mùng, mền, đồ nhựa...v...v... Cứ có cái gì là mua cái nấy, nếu không xài đem bán lại cũng có lời. Nhờ vậy mà Di cũng có chút tiền dằn túi.
              Mỗi một gia đình có ít nhất là năm cuốn sổ: sổ hộ khẩu, sổ gạo(lương thực), sổ chất đốt, sổ khám bịnh, sổ mua sữa, sổ mua hàng hợp tác xã, sổ đen, sổ đỏ ...Tội nghiệp mấy bác già không biết chữ cứ gọi tên theo màu bìa sổ nên lẩn lộn lung tung, bị nhân viên bán hàng xài xể. Người đi mua hàng thường bị cự te tua còn lâu mới được làm thượng đế. Nhất là vào những đợt bán gạo, người mua ai cũng ăn nói nhẹ nhàng, du dương và vẻ mặt thì rầu rầu cho người bán thương tình mà không nỡ làm khó. Cuộc sống gắn chặt với mấy cuốn sổ ấy, cho nên để diễn tả một tình huống vô cùng bi đát, người ta hay so sánh nó ngang với việc bị mất sổ gạo. Các nhân viên bán hàng trở nên cao giá, tha hồ mà kén chồng kén vợ.
              Cái giới khổ như làm dâu là giới giáo, nghĩa vụ thì nhiều mà quyền lợi quá hẩm hiu, cho nên mới có câu:"giáo chức vứt cháo, thầy giáo tháo giầy". Cô giáo đi dạy phải tranh thủ bán thêm bánh kẹo, sinh tố cho học trò. Thầy cũng phải làm thêm một số nghề tay trái, bức tranh giáo dục cứ liên tục bị bôi xoá, phục chế mà hầu như không bao giờ hoàn thiện.
              Di vừa mua nhà được một tháng thì đổi tiền đợt hai, mỗi gia đình chỉ đổi được một số tiền hạn chế như nhau. Má chồng mấy hôm trước viện cớ kẹt tiền không thể giúp cho Di, nay mang qua cả đống nhờ Di tìm người đổi mướn, còn riêng Di thì phải đổi giùm miễn phí. Nhà nước qui định chỉ đổi tiền lớn còn tiền lẻ từ mười đồng trở xuống vẫn xài như cũ, cho nên có những hàng quán chỉ nhận tiền lẻ mà thôi. Dịp nầy họ bán đắt như tôm tươi, hàng hóa lại tăng giá làm người nghèo càng thêm cực. Lâu lâu lại nổi lên những lời đồn như hết muối, hết đường thế là người ta ùn ùn kéo nhau đi mua gom. Cái hầm tránh đạn má chồng Di làm trong nhà từ thời chiến chứa đầy nhóc muối, đường, dầu ăn, xà bông, nước mắm v...v...
              Người chồng vẫn không thay đổi cách sống, vẫn đi đến khuya lơ, khuya lắc và có khi cả tuần chẳng ghé về nhà. Lối xóm xầm xì rồi đồn thổi nói Di là vợ bé. Khi mua nhà lòng Di cũng nhen nhúm một chút hi vọng, mong khi ra ở riêng y sẽ có trách nhiệm với gia đình và tình cảm giữa hai người sẽ dần cải thiện. Bây giờ Di không còn mong đợi nữa, lòng trở nên thờ ơ. Mỗi khi bị ép buột phải chung đụng thì một nỗi u buồn, một niềm căm phẩn cứ dấy lên làm cho Di cắn môi đến rướm máu. Một đêm Di nhìn y trong giấc ngủ thật lâu, tự hỏi ở người nầy có cái gì mà làm Di phải đánh đổi hoài bảo của cả đời mình và chịu quá nhiều buồn tủi. Một nỗi căm ghét bản thân cuồn cuộn dâng lên. Di thấy thương hại cho mình và cho cả người đang nằm bên cạnh, tự hỏi người ấy dùng mọi thủ đoạn chiếm cho được Di để làm cái gì? Nếu chỉ chuốc lấy lòng oán giận của Di thì có ích gì đâu? Một lần Di đề nghị chia tay, y ta nhìn Di rồi hỏi:
              -Tại sao, anh chưa bao giờ đánh em hết mà?
              Câu nói ấy làm Di thất vọng vô cùng, nhận ra hai người ở hai thế giới khác biệt hoàn toàn và hầu như không có cùng ngôn ngữ. Như hai đường thẳng chỉ cắt nhau ở một điểm rồi tách xa, tiến về vô cực với hai hướng ngược chiều trong vũ trụ.
              Di khám phá rằng y chẳng hề tôn tọng Di, chưa và sẽ không bao giờ hiểu Di, cũng không đủ cao thượng để trả tự do cho Di và giúp Di nuôi con. Từ đó Di thu mình lại và cố ít trò chuyện với y càng nhiều càng tốt, để tránh cho mình khỏi hụt hẩng hơn. Di cho rằng cuộc hôn nhân nầy là một trò chơi khăm mà số phận dành cho Di, hay nghiệp báo của Di từ kiếp trước. Tại sao Di ưng một người hội đủ những thói tật mà Di tối kỵ? Di như người cố phù phép để biến thành chim tung bay trên bầu trời cao rộng, nhưng rồi vì niệm sai thần chú mà phải làm kiếp côn trùng, suốt đời phải chui sâu vào lòng đất.

              Cái tết đầu tiên của Di trong căn nhà mới, là một cái tết đơn sơ nhất mà Di hưởng từ trước đến giờ. Dù má và chị Ba cứ giục Di mang con về quê ăn tết, nhưng ngày thường mua vé xe còn phải chen lấn ì xèo thì vào ngày tết làm sao ba mẹ con có thể len chân. Mua vé chợ đen thì Di đâu kham nổi, vả lại Di cũng muốn tự tay mình lo một cái tết từ A đến Z coi nó ra thế nào!
              Trước tết mười ngày Di đem cả mùng mền ra giặt, dịp nầy Di phải trút hầu bao mua một cái thau thật to ở cửa hàng hợp tác xã. Di bắt chước má, nấu nước sôi cho xà bông vào hòa tan rồi mới cho mền mùng và mấy cái áo gối vào. Con gái lớn của Di chưa được ba tuổi đã biết giúp mẹ, nhảy vào thau cùng giặt. Hai mẹ con vừa nắm hai tay nhau, vừa giậm chân sao cho cùng một nhịp, vừa hát một bài rất thịnh hành vào thời đó:
              Cùng vui múa chung quanh vòng! Nào vui múa cùng vui.
              Cùng vui múa chung quanh vòng! vui cùng vui múa đều
              Nắm tay nhau, bắt tay nhau , vui cùng vui múa ca
              Nắm tay nhau, bắt tay nhau ,vui cùng vui múa đều.
              Khoảng ngày 28-29 âm lịch nhà nước bắt đầu phân phối thịt heo. Từ sáng sớm Di đã tay bồng tay dắt hai đứa con đứng sắp hàng chờ mua thịt. Di đứng cạnh một bà đã già yếu lắm, ráng ghìm tiếng cười khi nghe cụ lâm râm cầu khấn:
              -Nam mô a di đà phật, vái cho con bắt trúng một cục thịt đùi thiệt là ngon.
              Di nghe thương cho cụ và thương cho ông trời hết sức, chắc mấy ngày nầy ổng mệt phờ râu...
              Không hiểu ông trời có nhìn lộn chỗ hay không mà Di bắt trúng ngay một miếng thịt ba rọi. Di dắt hai con vô chợ mua thêm một trái dừa để về lấy nước kho thịt còn cơm thì làm mứt, thời nầy đường cát rất hiếm và mắc. Di mua một ký đường Móng trâu để sên. Cái chảo mứt dừa của Di y như cái trách cá trạch kho khô của má ngày xưa. Vậy mà ba mẹ con vẫn ăn ngon lành, chưa đến tết mà nó đã sạch bách.
              Trước tết chị Ba đã may gửi lên cho ba mẹ con mỗi người một bộ quần áo mới. Lúc nầy vải Thái Lan được ưa chuộng lắm, nó được đưa qua từ đường biên giới phía tây nam, nên ở quê Di giá chỉ bằng 2/3 ở Sài gòn. Dân buôn vải lậu quấn cả chục mét vào người từ chân đến ngực chỉ chừa có cái đầu. Mấy người phụ nữ thì độn bụng thật to y như có bầu sắp đẻ. Chị Ba phải may rồi mới gửi chớ không dám để nguyên khúc vải sợ bị tịch thu. Chị may trừ hao nên mấy mẹ con mặc rộng rinh, trông ngộ hết biết!
              Ngày mùng một tết Di thay đồ mới cho con rồi bắt hai đứa khoanh tay mừng tuổi. Bé Duyên, con gái lớn rất thông minh và dễ bảo, lập lại đúng y những lời mẹ dạy. Di xúc động đến nghẹn ngào ôm hun rồi chúc con mau lớn, xinh đẹp, học giỏi...Bé Phúc bây giờ được gọi là cu Tèo cũng bập bẹ từng từ ngộ nghĩnh, bắt chước chị nó y khuôn, hể chị nói cái gì và làm động tác thế nào thì nó cũng ráng làm theo như vậy. Đây là cái tết ấm áp nhất của Di kể từ khi lấy chồng.
              Từ nhà Di sang nhà má chồng không xa lắm nếu đi lối qua sông. Di dắt hai con xuống bến đò. Tết nên chiếc đò thưa vắng ngày thường, chở đầy nhóc khách. Ai cũng ăn mặc đẹp kể cả cô lái đò, nước ròng sát nên đò đậu cách xa cây cầu ván. Di xăn quần cõng con gái lớn xuống trước nhờ cô lái đò trông hộ, rồi lật đật chạy lên cõng đứa sau. Di ôm con thật chặt trong tay ngồi xổm trong lòng đò. Một dì bới tóc cỡ tuổi má Di, hỏi:
              -Ba tụi nó đâu mà mấy mẹ con bồng chống một mình vậy?
              Nghe cách nói biết ngay là dân miền tây làm Di thấy mến, nên vừa cười vừa trả lời theo kiểu nói đùa:
              -Ảnh đi theo vợ bé rồi dì ơi!
              Dì ấy tưởng thật nên an ủi Di bằng một giọng rất chân tình:
              -Tội nghiệp dữ hông! còn nhỏ thế nầy mà một nách hai con. Thôi ráng cầu xin trời phật phù hộ cho được mạnh khỏe mà nuôi con. Hai đứa nhỏ mặt mày sáng láng quá chắc sau nầy được nhờ, mà đừng có bước thêm bước nào nữa nghe! Cái số mình nó khổ nên gặp ai rồi cũng khổ, như dì đây...
              Dì bỏ dở câu nói nửa chừng vì đò cập bến, rồi lật đật móc túi lì xì cho hai đứa con Di mỗi đứa một tờ giấy một đồng mới tinh.
               
              (Xem tiếp CHƯƠNG TÁM/10)
              [<font]

              <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:50:40 bởi Lâm Du Yên >
              #7
                Lâm Du Yên 05.10.2019 08:40:21 (permalink)
                NHƯ ĐI TRÊN CÁT       
                Truyện dài Lâm Du-Yên     
                     
                CHƯƠNG TÁM/10 

                Đưa Di về đến nhà chồng xong chị Ba vội vã quay về trường. Nỗi buồn như những giọt acid rơi trên da, thấm sâu và nóng rát. Đứa em gái mà chị thương yêu và đặt thật nhiều niềm tin sẽ thay mình trả hiếu nay trở về nhà phờ phạc, vội vàng như một tên trốn nợ. Đâu rồi Di ngày xưa với nụ cười dâng ngập mắt, với sự tự tin và giấc mơ cao vút. Chị nghe từ đáy lòng dâng lên một lời xót xa gần như trách móc:
                -" Sao em chỉ đi lấy chồng thôi mà cả em và gia đình như thể đang rơi vào một hố sâu, mất dần ánh sáng và không khí hả Di?"
                Trong đầu chị Ba những kỷ niệm êm đềm của hai chị em trổi dậy, nó làm chị đau như thể xé lòng chị mà chui ra. Hãy bắt đầu từ khi chị biết nhớ: Đó là những buổi tối ba chị em chồng gối lên thật cao để chị Hai ngồi làm hoàng hậu còn chị và Di đóng vai tì nữ. Mượn cái khăn voan của má làm đôi cánh rồi múa những điệu múa trong phim Ấn Độ. Chị Hai cầm trên tay một thứ gì đó có thể là tờ giấy màu dùng trong bài làm thủ công, hay viên phấn để làm phần thưởng cho người giỏi nhất. Hầu như bao giờ Di cũng là người được nhận. Di cười rất tươi và chị cũng cười tươi với Di.
                Rồi khi chuyển về quê, hai chị em cùng đi học chung bằng xe đạp, đường quê gập ghềnh nên té lên té xuống. Mỗi lần té là Di cứ khóc và chị dỗ mãi. Có khi Di đau thật có khi giả vờ để yêu sách một điều gì đó, chị biết nhưng vẫn chìu.
                Chị nhớ một lần Di lượm được tiền của má rồi rủ chị đi ăn hàng, khi về bị má phát hiện Di sợ run, biết lần nầy sẽ bị một trận đòn thich đáng. Chị lấy tấm bảng giấy lót vào mông cho Di đỡ đau. Má quất roi vào nghe một tiếng" bộp", bèn kéo cái lưng quần lôi ra tấm bảng. Má cố nén mà không nhịn được, cười phá lên rồi tha luôn cho cả hai chị em.
                Cái cô bé Di của ngày xưa ấy, hiếu động, mê chơi hay phạm nhiều tội và không ít lần làm cho chị bị vạ lây. Thế nhưng chị cứ cảm ơn trời đã cho mình một người em, tuy nông nổi nhưng mang rất nhiều nụ cười đến với chị.
                Khi Di trở thành thiếu nữ, đôi mắt lém lĩnh ngày xưa với tia nhìn chọc xoáy nay trở nên nhẹ nhàng, mơ màng như đang ấp ủ một giấc mơ cao xa lắm. Di đã biết giữ riêng cho mình những điều sâu kín, không khoe tất cả các bài thơ cho chị như ngày xưa. Di cũng biết làm điệu, soi gương và chọn mua những cây kẹp màu mè chớ không còn để tóc rối rồi cột bằng dây thun như lúc trước. Tất cả những món đồ dùng do Di tự chọn đều mang màu tím nhạt, có một lần chị hỏi Di:
                - Sao em thích màu tím quá vậy?
                Di không trả lời mà hỏi lại chị:
                - Vậy tại sao chị không thích màu tím?
                -Bởi vì mấy cô gái hay thích nó, như thể nó là cái màu đặc trưng thể hiện sự dịu dàng, âu yếm và chung thủy nữa. Nó như một tín hiệu bật lên để đáp ứng những điều kiện dành cho giống đực vậy?
                Di vừa cười vừa trêu chị:
                - Như vậy có nghĩa là chị không muốn chớ không phải là không thich nó. Còn em hả, đơn giản lắm! Cái màu ấy nó cho em một cảm giác rất bình yên, rất êm đềm, rất chia sẻ. Như thể em đang gối đầu trong lòng chị và được chị mân mê mái tóc vậy!
                Kể từ đó chị dần chịu ảnh hưởng nơi Di và cũng yêu dần màu tím.
                 
                Thời kỳ đẹp nhất của hai chị em, với chị, có lẻ là khoảng thời gian ở Châu đốc. Ngôi nhà sàn với cái nền đất phía dưới được quét thật sạch dùng làm nơi để chơi cất nhà chòi, chuyền chuyền, bún dây thun...Những trò chơi mà hầu hết đứa bé gái nào cũng biết.
                Di và chị hay đeo những cái vòng nhỏ xíu bằng cao su màu xanh, vàng, đỏ đầy kín lên cổ tay như thể bây giờ người ta đeo bộ semain bằng vàng vậy! Mấy sợi dây thun ấy thích chặt và để lại vết hằn nhạt màu nên bị má cho là nó biết hút máu. Má cấm nhưng hai chị em cứ quên cho nên ngày nào cũng bị rầy. Thỉnh thoảng lại lén má, lấy một sợi ngâm vào bụng của cây đèn ống khói lớn dùng để đốt học bài mỗi đêm, thích thú khi thấy nó ngày một nở to ra như trong thần thoại vậy
                Trò chơi cùng được ưa thích là cất nhà chòi và giả làm người lớn. Chị lấy gạo cho vào cái nồi nhôm đồ chơi nhỏ xíu, đặt lên ba cục gạch rồi đốt giấy và lá khô để nấu. Cho ra một thứ cơm hổn hợp ba lớp, từ trên xuống là: sống, nhảo, khét. Vậy mà hai chị em giành nhau ăn và cho là ngon còn hơn cơm má nấu!
                Chiều tối học bài xong cả hai xin má đi Bồ Đề Đạo Tràng lạy phật, gì chứ xin đi chùa là má không bao giờ từ chối. Ngôi chùa nầy nằm ngay trước mặt nhà lồng chợ, có cây Bồ Đề được đem từ Ấn Độ về, nghe đâu là cháu nội của cái cây mà đức phật Thích Ca tọa thiền và nhập niết bàn. Gốc cây to như ông khổng lồ trong chuyện cổ tích, dưới gốc có vô số trái chín tím đen nằm lang thang trên mặt đất. Hai chi em hay lượm mấy trái nằm gọn trong lòng những chiếc lá vàng, cho vào miệng nhai một cách ngon lành. Nó có vị ngòn ngọt, nhàn nhạt, một mùi rất đặc trưng của những loài hoa cỏ dại, một mùi của kỷ niệm...Một đôi khi bắt gặp những chiếc lá có hình dáng đẹp, hai chị em vô cùng mừng rỡ, mang về vùi vào cái đường mương bên hông nhà cho tới khi phiến lá rả mục chỉ còn giữ lại lớp gân mỏng như lưới nhện mới được lấy lên. Chúng được nhuộm đủ các màu từ những bình mực tím, đen, xanh, đỏ...
                Hai chị em vừa lạy phật vừa ngắm một cách sùng kính gương mặt hiền từ, trang nghiêm với đôi mắt khép hờ như hạ tia nhìn xuống để soi tận đáy lòng nhân thế. Ngài như cố lắng nghe, thấu hiểu và sẵn sàng đáp ứng những lời van vái. Một cách vô cùng thành tâm cả hai chấp tay lên trán khấn cầu, xin phật phò hộ cho sau nầy đều được làm cô giáo. Có một lần Di nói với chị bằng một giọng đầy lo âu:
                -Chị ơi! Em lỡ hứa với phật là chừng nào làm cô giáo sẽ cúng phật một dĩa trái cây, rủi tới chừng đó em quên chắc bị ông phủ cắt lưỡi quá!
                Thế là từ hôm đó hể má cho bất cứ một thứ trái cây gì như: xoài, cóc ổi kể cả trái bồ quân nhỏ xíu, chị và Di cũng đều giữ lại cho tới tối để đem đến chùa, nhón chân len lén đặt lên bàn thờ dâng cúng xong rồi mới lấy xuống ăn.
                Trước khi về nhà, hai chị em thường ghé qua Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ ở gần bên. Nơi đó gồm một khối hình thang thật cao và to được đúc bằng bê tông dùng làm bia, cả bốn mặt đều có ghi chữ "TỔ QUỐC GHI ƠN" màu đỏ. Những cái cột bằng sắt cao ngang cổ Di có đường kính gần một tấc được đặt cách nhau chừng hai mét. Những cái cột nầy được sơn từng đoạn màu trắng, đỏ xen kẻ, bao quanh làm hàng rào. Những sợi dây lòi tói to cỡ cườm tay của chị lúc đó, được móc vào mấy cây cột sắt trông giống một nhóm trẻ đang đứng thành vòng tròn và nắm tay nhau trong một trò chơi. Chúng chùng gần sát đất nên được những đứa trạc bằng chị và Di dùng làm võng. Di và chị mỗi người nằm lên một sợi dây quen thuộc rồi đu đưa. Hai tay dang rộng, mắt đăm đăm nhìn lên trời để tìm cho mình một vì sao sáng nhất. Cái thú vui đó tạo nên cảm giác lâng lâng không có gì so sánh được và bây giờ nhớ lại chị bỗng thấy lòng bùi ngùi quá đổi!
                 
                Khi chuyển về quê, kỷ niệm mang hình ảnh của những con đường đất nhỏ và màu sắc của muôn loài hoa cỏ dại. Những buổi trưa chị cùng Di trốn ngủ, vác cù móc đi ra sau hè đến hàng me nước trồng trên mô đất đấp cao được gọi là "ấp chiến lược", chọc mấy chùm quả xoắn cong như ruột gà có những mắc nhỏ nằm tiếp nối nhau. Vị của nó rất chát nếu còn xanh, ngọt nếu chín đỏ. Cái hột đen tuyền của nó được giữ lại dùng trong trò chơi "bún lỗ" mà mấy bé gái ở quê ưa thích. Tụi con nít lấy cái vỏ ốc bu khoét xuống đất một lỗ, to và sâu khoảng một nắm tay rồi khum bàn tay trái che trên miệng, dùng ngón cái của bàn tay phải bún từng cái hột ấy vào lỗ. Trò chơi nầy thường dùng hột Ô môi nhiều hơn. Ôi! những hột Ô môi bằng móng tay, hình trái tim, màu hồng hồng. Chúng được trang trí bằng những cái vân màu đỏ rất nét như sợi tóc đã mê hoặc chị biết bao. Chị ngồi hàng giờ để so sánh chúng và tìm những hạt giống nhau y hệt, chỉ hoài công thôi! Chúng cũng như người, mang những hình dạng, màu sắc và hình như cả một tâm hồn khác biệt.
                Những năm nước ngập mênh mông, hai chị em thích nhất là được đi cầu khỉ và lội dưới sàn nhà ngoại, tay cầm rổ xúc mấy con cá mình dẹp lép, màu trắng bạc có những sọc ngang màu vàng có tên Mang Rổ. Con cá nầy hay lội tà tà trên mặt nước. Nó mang tính cách của một thi nhân, bơi một cách vô cùng lơ đảng, như thể vừa đi vừa làm thơ vậy! Ấy thế mà khi chị nhúng cái rổ từ phía sau, đẩy rất nhẹ và khi cái rổ đã nằm ngay dưới bụng nó, chưa kịp nhấc lên nó đã quẩy đuôi thoát ra một cách thật lẹ làng. Rồi lại bơi tà tà nhởn nhơ, còn chớp mắt chọc quê chị nữa chứ!
                Mùa nầy Di bị đòn nhiều nhất vì cứ suốt ngày lội nước, câu cá, đi cầu khỉ và hái bông Điên điển. Một lần Di lén lấy xuồng một mình ra đồng dù trước giờ chưa từng học và biết bơi. Đến giờ ăn cơm má gọi hoài không thấy, mọi người tá hỏa tưởng Di chết chìm. Chừng phát hiện mất chiếc xuồng thế là cả xóm bơi xuồng ra đồng tìm. Di đang ôm mấy bụi cây bông Điên điển để gió không thổi bạt xuồng, vừa khóc vừa kêu má vô cùng thảm thiết. Lần đó Di bị má đánh nhiều lắm! Di thường nói đùa là cho tới bây giờ, mỗi lần thấy bông điên điển là cái mông Di nhói đau và Di lại khóc!
                Chị lại nhớ cái lần đầu có kinh, má bắt phải giặt thật khuya khi mọi người đi ngủ để không ai còn sử dụng nước nữa. Chị sợ ma nên thường rủ Di đi theo. Di bị đánh thức rồi ngoan ngỏan cầm cái đèn trứng vịt đi cùng chị xuống bến sông. Để trả công cho Di, chị vừa giặt đồ vừa kể cho Di một câu chuyện mà chị cho là rất hay, đúng đề tài mà Di ưa thích.
                Những buổi sáng đi học bao giờ Di cũng hay dậy trễ, chị dậy sớm bới cơm vào hai cái gà mên, dắt xe ra cổng xong xuôi rồi vào đánh thức Di. Gọi năm hồi mười chập mà Di cứ nằm nướng mãi, chị phải gải vào lòng bàn chân, cho tới khi nhột chịu không nỗi cô bé mới chịu ngồi dậy.
                Ngày chủ nhật nghỉ học Di ngủ còn trễ hơn. Hồi đó má nuôi heo, má đốn mấy cây chuối đã bị cắt buồng đem về xắt lát thật mỏng bằng cây dao bảng to, cán dài gọi là "dao dâu". Những lát chuối nầy có cái nhân như miếng bánh phồng tôm chưa chiên nằm ngay ở giữa.Di và chị hay moi lấy làm tiền, hay giả làm bánh bò, bánh khọt. Nhiệm vụ của hai chị em vào những buổi sáng nghỉ học là quết chuối cho thật nhuyễn để má trộn với cám mà cho heo ăn. Chị lớn hơn đã đủ sức cầm cái chày to, nặng nên giữ việc" quyết". Di thì xòe hai tay vun chuối lấp đầy cái lỗ trống gọi là" vùa". Hai chị em phải làm thật ăn khớp để chày không đập trúng tay Di. Có lẽ đây là công việc mà Di ghét nhất, nên chị gọi rất lâu, bị gải nhột chân mà cũng không thèm dậy. Chị thường vỗ vào mông Di rồi hát một khúc nhạc tự chế như thế nầy:

                Đít diu, đít diu thức dậy
                Để mà làm việc với chị Ba
                Chị quyết chuối, em vùa chuối
                Chị mỏi tay, ta đổi ngay
                Em quyết chuối chị vùa chuối...

                Di hay đòi quyết chuối dù cầm chày chưa nổi. Có một lần được chị chìu, Di lật đật cầm chày rồi làm rớt liền trúng ngay vào tay chị. Chị đau lắm mà không khóc. Di thì vừa sợ vừa thương chị nên khóc hu hu làm chị phải dỗ mãi.
                 
                Thuở đó má có chiếc ghe bầu rất lớn, buổi tối ba chị em cùng mấy đứa con cậu Sáu xin má cho ngủ giữ ghe, trên mui ghe có cái chòi nhỏ gọi là " nhà đùm". Cả bọn hay nằm trong ấy vừa ngắm sao, vừa thách nhau đọc sao cho không vấp các bài đồng dao:

                Một ông sao sáng
                Hai ông sáng sao
                Ba ông sao sáng...

                Hoặc:

                Một cây xụ đọt
                Hai cây đọt xụ
                Ba cây xụ đọt...

                hay là:

                Một cái nút thắt
                Hai cái thắt nút
                Ba cái nút thắt...

                Bài đầu đứa nào cũng đọc trôi chảy, còn hai bài sau thì có chút áp lực bởi đọc trật nghe rất tục. Tụi chị còn rất nhỏ hiểu lờ mờ thôi, chỉ biết khi đọc lộn là người lớn cười rần rần nên cũng bắt chước cười theo!
                Nói là ngủ giữ ghe cho oai, thật ra mục đích chính là nối tiếp những trò chơi mà ban ngày còn chưa thỏa. Cả bọn hay nằm ép chặt nhau để nghe chị Hai kể chuyên ma thật rùng rợn như : "Ma vú dài", " ma cây Gáo", "ma Lai rút ruột"...Đặt biệt là chuyện " ma Lai rút ruột" được chị Hai diễn tả một cách quá cường điệu, quá sống động, nên nghe xong là ôm nhau chặt cứng không đứa nào dám nhúc nhích. Cho nên có những buổi sáng ngủ dậy quần đứa nào cũng ướt, thế là hai đứa nhỏ nhất bọn là Di và Tíu bị qui cho tội đái dầm. Hai đứa cứ đổ thừa cho nhau, không thể kết luận ai là thủ phạm vì quần đứa nào cũng ướt nhẹp như nhau.
                Nhưng cái hấp dẫn chị và Di nhất là những đêm trăng...Đẹp làm sao ánh trăng của những ngày gần giữa tháng. Vào những ngày ấy cả bọn không nằm trong nhà đùm mà nằm ngoài mui để tầm mắt không bị cản trở. Ai cũng xí những ngôi sao sáng nhất cho mình. Những câu chuyện xoay quanh mặt trăng lại được chị Hai kể cho nghe và đứa nào cũng khoái một lần làm chú cuội.
                Chị hơi nhắm mắt, cảm nhận lại hình ảnh xa xưa của những đêm trăng trên sông ấy: Từ mặt sông hơi nước bốc lên rất nhẹ, kéo theo cái lạnh se se nên trăng cũng vội chui vào mây cho ấm. Nó như bị ngột nên thỉnh thoảng lại chui ra, hít một hơi rất sâu, nhìn chòng chọc bọn chị đến thỏa thuê, rồi lại lạnh và chui vào mây tiếp. Những đêm ấy chị cùng Di đều thức thật lâu. Trăng như một người bạn rất thân, hẹn hò từ muôn kiếp trước, tình cảm đã dành cho nhau vô cùng sâu đậm, nên hể trăng còn thức thì ai nở đi ngủ mà bỏ trăng lại một mình!
                Cái ánh trăng của những đêm trên sông ấy đã in sâu tong tiềm thức chị, nên bây giờ mỗi khi nhìn trăng chị có cảm giác như thấy cả hai mặt trăng: một trong mắt với cái vòng tròn vành vạnh trên trời và một cái bóng phản chiếu của nó, chập chờn, lung linh ở trong lòng.
                Một trong những bài thơ đầu tiên của chị là bài thơ nói về trăng. Chị đọc lại bài thơ còn " thơm mùi sữa" ngày ấy với một chút nao nao:

                Trăng tròn như một chữ O
                Như hai con mắt thật to thật tròn
                Bị mây ăn bớt nên mòn
                Biến thành miệng méo không còn cái răng...

                Có một bài ca cũng có trăng mà chị và Di cùng thích:

                ...Otròn như ô đi mưa, O tròn như ô đi mưa, dầm mưa giải nắng che ô O tròn.
                O tròn như hai viên bi, O tròn như hai viên bi, và đôi con mắt trông nhau O tròn.
                O tròn như ông trăng thu, O tròn như ông trăng thu, mẹ ơi mua bánh trung thu O tròn...

                Nhắc đến đây chị lại nhớ đến những chiếc đèn trung thu mà hai chị em tự chế hồi đó. Nó được làm bằng những tờ giấy màu gấp lại thành từng nếp nhún rất nhỏ. Chị và Di còn moi ruột hai trái dưa hấu con con, khoét hình ngôi sao và mặt trăng lưỡi liềm ở bên hông, xỏ dây ngang miệng rồi xách đi y như cầm lồng đèn vậy.
                Ngày đó chị lớn hơn Di và cũng khéo tay hơn nên bất cứ món nào khi làm xong Di cũng năn nỉ đổi, chị đều đổi mà không hề cự nự. Lòng chị bỗng xót xa liên tưởng đến cuộc sống hiện tại của Di. Một nỗi buồn như sóng cuồn cuộn trong lòng, dâng lên tận môi rồi nhảy bật ra ngoài:

                -''Di ơi! ước gì bây giờ chị có thể đổi cho em cả cuộc đời của mình".
                 
                Rồi Di lớn dần để trở thành thiếu nữ, mái tóc le hoe xác xơ vì nắng trước giờ ít được chăm sóc đã dài, đen và dầy hơn. Cơ thể đang trên đường khẳng định giới tính. Những cái áo cũ chị cho Di không còn mặc vừa được nữa. Những trò vui cũng mang màu sắc mới. Di không còn tha thiết với mấy món cò cò, tạt lon, năm mười...Không còn hài lòng với những câu chuyện bắt đầu bằng hai từ "ngày xưa" của chị nữa.
                Những trận đòn cũng thưa dần và xuất xứ của nó cũng từ từ thay đổi. Không do những cái tội như :"ham chơi", "ăn vụng","nói dóc"... Mà lớn lao hơn, hầu hết đều bắt đầu bằng những câu mắng mỏ như " tâm hơ tâm hất", " vô duyên", "không nên nết". Má và ngoại đã bắt đầu rèn giũa, đẽo gọt sao cho tính cách của chị em Di phù hợp với khuôn mẫu để lại từ xưa. Chuẩn bị sao cho các cô gái có thể trở thành mẹ hiền, vợ ngoan, dâu thảo.
                Những lời dạy bảo không còn thô sơ mà được bôi trơn, phết màu để dể tiếp thu hơn. Các câu ca dao được mang ra minh họa cho từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như có lần chị quét nhà mà không khom lưng xuống để moi từng ngóc ngách, thế là bị ngoại xán cho một câu:"Quét nhà long mốt, long hai. Cặp mắt trợn trợn ngó trai ngoài đường". Còn cái câu :"Vô duyên chưa nói mà cười. Chưa đi mà chạy là người vô duyên", thì nghe thường xuyên, có khi một ngày đến hai, ba lần.
                Mấy đứa bạn cũng không còn cãi chí chóe, gọi om sòm để rủ nhau chạy rong khắp xóm mà đứng lấp ló bên cửa sổ, thì thầm những câu chuyện không đầu không đuôi. Người lớn đến gần là nín bặt ngay y như đang bàn quốc sự, cũng chưa biết đổi đề tài để không bị nghi ngờ.
                Những dấu chân chị để lại được Di giẫm lên từng bước, cho nên má hay nói là Di bắt chước chị rặp khuôn. Điều đó trở thành một trong những động cơ giúp chị học giỏi hơn, cố hoàn thiện hơn để làm gương tốt cho em.
                Thời kỳ nầy chị và Di mê đọc sách lắm. Má cấm vì theo quan niệm từ xưa cho rằng, con gái mà đọc nhiều tiểu thuyết, có ngày sẽ bỏ nhà theo trai mất. Hai chị em thường lén má bưng đèn chui vô mùng đọc, có lần xém bị cháy mùng. Lúc đó tâm hồn hai đứa như nền cát xốp, rất dễ thấm và đôi khi chảy tràn ra ngoài nên thỉnh thoảng vừa xem vừa cười sằng sặc, hoặc khóc thúc thít. Có một lần cười lớn quá, má nghe nên lật đật chạy vào, thấy hai chị em đang đọc sách má vừa thở ra một hơi dài, vừa nói:
                - Trời phật ơi! Má tưởng tụi bây bị ma nhập.
                Hai chị em ghiền sách đến độ, mỗi lần xin má đi cầu cá ngoài hè, mỗi đứa độn một cuốn trong bụng rồi làm một công hai việc. Chúi đầu vô sách cho đến khi nghe tiếng rầy:
                -Làm cái gì mà lâu quá vậy mấy cô nương. Tui đứng chờ nảy giờ, ém gần chết, sắp phọt ra ngoài "gồi" nè!
                Những quyển sách nào mà chị ưa là được Di thích liền, sở thích của hai chị em rập khuôn nhau không chỉ riêng về lãnh vực văn chương mà còn những thứ khác nữa. Cùng thích ngắm hoàng hôn nên hay lén trốn ra đồng khi ăn cơm chiều và rửa chén xong. Lúc nầy cô bác làm đồng đã lủ lượt từng đàn trên con đường đất, trên tay là những xâu ếch, nhái hay rau củ tìm được. Gương mặt họ trông thật nhẹ nhỏm, vừa nói vừa cười rôm rả. Thiên nhiên hào phóng lắm, liên tục tiếp thêm năng lượng cho họ bằng không khí trong lành và màu xanh của bạt ngàn cây lá. Tất cả đều là họ hàng và cô bác trong xóm nên thấy hai chị em đi ngược chiều là nạt liền:
                -Hai cái con khùng! Giờ nầy mà ra đồng làm chi? Vô nhà liền đi coi chừng bị quở đó!
                Mọi người đều cho rằng buổi tối thuộc về thời điểm của những người khuất mặt và chạng vạng là lúc mà họ bắt đầu chui ra từ lòng đất, lòng sông. Hai đối tượng mà họ thích bắt nạt là đàn bà và con nít, cho nên buổi tối hai nhóm nầy không được ra đồng, hoặc tắm sông vì rất ư nguy hiểm! Trong xóm Di có một chị hay ngồi quay mặt vô vách mà nói lầm bầm một mình, người ta đồn rằng chị bị " mắc đàng dưới" do một tối tắm sông nên bị một người con trai cỏi âm thương và đeo bám.
                Hồi đó chị và Di đều tin sái cổ. Sau nầy đã biết suy luận, chị cho rằng ông cha ta ngày xưa dệt nên chuyện đó để hạn chế việc con gái lén ra khỏi nhà vào buổi tối để hen hò. Nghe má kể vào thời của má con gái còn không được đi học vì sợ biết chữ rồi viết thư cho trai
                Xem ra cho đến ngày nay, phụ nữ thường là nạn nhân của nam giới.


                Khi bắt đầu học trung học đệ nhất cấp chị phải xa Di. Thỉnh thoảng hai chị em gặp nhau vào những dịp nghĩ hè, giỗ ba và tết. Mỗi lần về thăm nhà, chị lại ngạc nhiên khi thấy Di thay đổi nhanh quá.
                Hình ảnh đẹp nhất của Di mà chị còn giữ mãi trong lòng, là cái gương mặt vừa nghiêm trang vừa bẻn lẻn của em, khi lần đầu tiên mặc áo dài màu đứng khoanh tay chúc tết cho má. Năm ấy má chọn cho ba chị em mỗi đứa một xấp lụa tơ tầm. Má của chị rất tinh tế, cho dù chưa một lần hỏi má vẫn biết sở thích của từng đứa một. Má lựa cho chị Hai màu mỡ gà, chị màu vàng hoa cúc, còn của Di là màu tím hoa cà.
                Mùng năm tết chị rủ Di đi chùa. Di lại mặc áo dài màu và mang đôi hài tím có kết những bông hoa nhỏ xíu bằng cườm, cả má và chị đều nhìn em âu yếm. Di đã là một thiếu nữ rồi, con vịt xấu xí ngày nào đã bỏ dần bộ lông cánh cũ.
                Đó cũng là lần đầu Di kể cho chị bí mật của mình. Hèn gì mấy lúc sau nầy chị thấy Di thay đổi nhiều lắm! Trên gương mặt em hay có những cái cau mày, giống như mặt sông phẳng lì, trong vắt, đã xuất hiện những vòng xoáy do hình thành những vực sâu dưới đáy.
                Có những đêm chị ôm Di, cảm nhận sự căng cứng của từng thớ thịt trên người em. Như thể Di đang cố kìm nén một điều gì đang hoành hành trong lòng, chắc chắn là một điều không vui nên Di chẳng kể vì không muốn chị buồn.
                Có những đêm nửa khuya chị giật mình choàng tỉnh bởi tiếng học bài rất nhanh rất lớn của Di. Điều nầy khác hẳn cái kiểu học của Di từ trước, như thể Di đang cởi một con ngựa và cố thúc nó chạy bạt mạng để vượt qua một chướng ngại vô cùng lớn lao và nguy hiểm.
                Khi Di kể với chị về An, chị đã ứa nước mắt khi nghe xong và kêu thầm trong lòng :
                - Trời ơi sao đến cái chuyện tình cảm chị với em cũng đều giống nhau nữa vậy!
                Chị không dám nói cho Di nghe về cuộc tình không may của chị. Chị cũng bị một người nhỏ tuổi hơn theo đuổi. Một nhân cách và nhân dáng lỏng lẽo vô cùng khi mang đặt vào cái khuôn mà chị đã đúc sẵn cho mình. Chính sự thiếu sót ấy làm chị chạnh lòng hết sức. Nó dần ám ảnh và gắn dính vào chị như hai đầu khác nhau của một thanh nam châm vậy.
                Qua mối tình của mình chị đã hiểu rằng. Không có gì nguy hiểm cho một cô gái bằng việc, lọt vào tầm ngắm của một chàng trai mới lớn, ngốc nghếch, si mê và liều mạng. Đó là cơn bão dữ, như thể bầu trời đã thai nghén nó từ trăm ngàn năm trước. Phải tích tũy và dồn hết năng lượng để phóng thích một con thú đang đói cồn cào, cố chui ra từ bụng của mình, và cái gì càng mãnh liệt thì càng nhanh chóng lụi tàn...
                Chị sợ Di sẽ yếu lòng, sẽ bị bản năng làm mẹ chi phối để rồi xãy ra cái điều mà một nhạc sĩ đã kể lại:
                -"Dù một lần em lỡ,
                Mềm lòng như chiếc lá
                Là một lần, xóa dấu thương đau..."
                Bây giờ chị lại nghĩ phải chăng chị đã sai lầm, đã đắp bờ ngăn một dòng nước xiết để nó vỡ ra và tàn phá mùa màng. Nỗi ray rức trổi dậy, biến thành tiếng rên đột ngột thoát ra từ miêng chị :
                -Chị xin lỗi em, Di ơi!
                 
                Chị nhớ lại cái lần An đến trường tìm chị. Trước đó chị đã nghe chuyện An tự tử không thành nên trông thấy An chị vô cùng thương cảm. An như một trái cây chín háp, mới ở độ tuổi hai mươi mà gương mặt đã có nét mỏi mệt, cộng thêm cái lưng cong cong như chịu một gánh nặng trên vai. Chị ngạc nhiên hỏi:
                -Sao An biết chị học ở đây?
                -Hôm qua em tình cờ thấy chị trên đường, em đi theo nên biết.
                -Em làm gì ở đây?
                -Em đi học.
                Chị rất muốn hỏi An học ngành gì nhưng ngại, những người bạn đi ngang qua nheo mắt ghẹo. An thấy chị không thoải mái nên nói:
                -Em mời chị đi uống cà phê nhe! Em có vài điều muốn nói với chị.
                Chị muốn từ chối mà không hiểu sao lại buột miệng:
                -Em cho chị biết chỗ đi, lát nữa học xong chị tự đến.
                Cái quán ấy nằm cạnh bờ sông, buổi trưa nên vắng khách. Chị vừa ngồi xuống vừa nói:
                -Chị chỉ rảnh khoảng hai tiếng thôi, chiều nay em không có giờ học hả?
                -Em nghỉ một buổi cũng không sao.
                An gọi nước cho chị rồi đột ngột nói :
                -Chị cho em xin địa chỉ của chị Di nhe!
                Chị không trả lời mà nói môt câu lạc đề:
                -Nó vừa sanh đứa con trai thứ nhì, sanh mổ, thằng bé có hai ký sáu hà!
                An nói tiếp những điều đang nghĩ trong lòng:
                -Em phải gặp chỉ một lần mới được.
                -Bên chồng nó khó lắm, rủi xãy ra chuyện không hay nó càng khổ thêm.
                -Em sẽ không để điều đó xãy ra đâu! Em đã biết che đậy cảm xúc của mình giỏi lắm.
                -Nó bây giờ xấu xí và tiều tụy lắm An ơi! Em gặp mà làm gì ? Hãy giữ lại hình ảnh cuối cùng của nó trong đầu em, có lẻ đó là điều nó muốn. Gặp lại em trong tình cảnh hiện giờ chắc nó xấu hổ và buồn tủi lắm.
                -Em muốn gặp chỉ một lần, em hứa với chị sẽ không ảnh hưởng gì đến danh dự của chỉ và cũng không làm chỉ buồn.
                -Tại em không biết đó thôi! Những người ấy, họ không có lòng trắc ẩn.
                -Chị nói vậy em càng muốn gặp chỉ hơn.
                An bắt đầu kể cho chị nghe cái quá trình đi tìm Di như thế nào. Chị nghe mà lòng ngập tràn đau xót, cố nén mà sao mắt cứ rưng rưng. Chị ráng khuyên An một lần nữa:
                -Em chịu khổ như vậy còn chưa đủ hay sao mà còn đòi chuốc thêm nữa! Thôi bỏ đi em, củng cố lại tinh thần mà học cho tốt để má em vui. Tin chị đi, chuyện nầy vài năm nữa sẽ không còn quan trọng đối với em. Có khi nghĩ lại em còn không tin có lúc mình lại dại khờ và nông nổi như vậy. Mối tình của em nó không đẹp, thi vị như em tưởng đâu. Nó là một vũng lầy kéo em chìm sâu tới đáy, em đã đặt được một chân lên bờ rồi, hãy rút cái chân còn lại lên luôn rồi bỏ chạy càng xa càng tốt.
                -Chừng nào chưa gặp chỉ em còn chưa yên tâm mà dốc sức cho việc học, em muốn nhổ bật cái gai nầy ra khỏi người mình.
                Những thớ thịt trên gương mặt của An căng ra, gương mặt thể hiện cái quết tâm rất cao ấy thoáng nét dữ dằn. Chị biết An sẽ không để chị yên chừng nào chị còn chưa đáp ứng yêu cầu. Chị suy nghĩ một lát rồi nói:
                -Thôi được rồi, để chị viết cho nó cái thư, em mang đến cho có vẻ tự nhiên. Em nói là bà con đến đưa thư giùm. Chị xin em ráng kềm chế, đừng nói gì nhiều, cũng đừng có nhìn chăm chăm...
                An ngắt ngang:
                -Em lớn rồi mà, bộ chị không thấy em đã trưởng thành sao?
                Hôm sau An đón chị ở cổng trường, chị đưa cái thư cho An có ghi địa chỉ, chị nói:
                -Chị có dán tem sẵn trên đó, nếu em đổi ý thì bỏ vào thùng thơ giùm chị.
                -Em cám ơn chị, em sẽ không đổi ý đâu.
                Chị nhận thư trả lời của Di khoảng hai tuần sau, bình thường như những cái thư trước. Như mặt biển đã qua cơn bão, hay khi bão chưa kéo qua vậy! Chị viết liền cho Di một lá thư hỏi một cách như không chủ ý : "sao không nhờ người đưa thư mang về luôn cho chị mà phải gửi bưu điện cho mắc công". Di viết trả lời rằng cái người đó đưa thư cho cô em chồng rồi đi luôn. Chắc vội lắm nên không vào gặp Di được, rồi hỏi thêm chị đó là ai. Chị không trả lời và Di cũng quên không nhắc lại, điều nầy cho chị có cảm giác đang mang nợ An. Một cái nợ sẽ không bao giờ trả nổi!


                Những ngày sống cùng nhau giữa hai chị em lại hình thành một khỏang cách. Di không còn dốc cạn lòng mình với chị. Chị cũng đang bị cuốn vào một mối tình nghiệt ngã nên không có nhiều thì giờ cho Di như ngày xưa nữa. Dù vậy trong lòng chị vẫn có cái linh tính là Di đang chống chọi với một nỗi đau nào đó. Chị cố không gặng hỏi kiên nhẫn chờ Di tự bộc lộ. Di vẫn im ru nên chị nghĩ chắc chẳng có gì trầm trọng đâu, chắc em chưa thích ứng được cách sống ở đây, chắc em chỉ nhớ nhà, nhớ má...
                Mỗi buổi chiều chị chở Di đi vòng vòng giúp em khuây khỏa cái nỗi buồn ấy. Có một lần chị hỏi Di:
                -Chị thấy em không còn cười nhiều như trước nữa, có chuyện gì vậy?
                Di trả lời rất nhanh như đưa tay lấp cát đầy lỗ trống:
                -Không có gì đâu chị tại em nhớ...
                Rồi Di nín thinh luôn, chị cứ căng tai chờ hoài không được đành phải hỏi:
                -Em có bỏ lại ai ở quê mình hông?
                -Em có bỏ lại một cây Phượng rất to trước cửa lớp, em nhớ nó lắm có đêm còn nằm mơ thấy nó nữa!
                -Vậy để chị hát bài "Phượng yêu" cho em nghe để đỡ nhớ nha!
                Chị đạp xe vào con đường hơi vắng mang tên một nàng công chúa, vừa đạp xe thật chậm vừa hát:

                "Yêu người như lá đổ chiều đông, như con tàu say sóng, như con giun ngước lên trời, yêu trăng sao vời vợi, làm sao nói được tình tôi..."
                 
                Di úp mặt vào lưng áo chị hồi lâu mới lấy ra, bỏ lại vài giọt nước mắt trên đó, Di hỏi chị:
                -Chị Ba ơi ! chị thương ai nhất vậy?
                -Em, má. Còn em?
                -Chị, má!
                Buổi chiều ấy vẫn để lại dư vị ngọt ngào trong lòng chị cho đến tận bây giờ!
                Rồi bà mẹ VIỆT NAM oằn mình trong cơn đau trở dạ. Những ngày ấy xãy ra vào cuối tháng, cộng với các nỗi lo sợ lớn lao là nỗi lo bị đói. Người Sài gòn đổ xô đi mua lương thực về trữ. Ba chị em vét hết tiền đi mua gạo. Không còn chỗ nào bán gạo nữa, thế là chị hai mua một ký đậu xanh và mấy tán đường thẻ về nấu chè ăn trừ cơm, coi như ăn mừng hết nghe tiếng súng.
                Sài gòn vào những ngày ấy vô cùng hổn loạn. Trong xóm của chị ở người ta kéo nhau đi phá mấy kho lương thực ở Khánh Hội, mấy đứa nhỏ còn biết đi gom dép về xài nữa. Những nhà giàu có bỏ lại toàn bộ gia sản mà đi, một đám cháy không có khói lan rộng...
                Trường học đã đóng cửa, ba chị em không muốn ra đường cứ ở miết trong nhà với nhau. Di chạy qua nhà cô giáo kế bên mượn mấy quyển tạp chí về phụ nữ như: Phụ nữ ngày mai, Phụ nữ mới, Phụ nữ thời báo...về xem.
                Khi món chè đậu xanh đã hết thì cái ông thầy dạy nhảy xuất hiện, chở đến cho chị em Di một bao hai chục ký gạo cùng mấy thứ khác. Chị Hai dẹp lòng tự trọng, cầm lấy tiền anh ta đưa cho rồi ra chợ mua về một bó rau muống và mấy cái trứng vịt. Bữa cơm hôm ấy với rau muống, trứng vịt luộc cùng tô nước rau thiếu chanh và bột ngọt đã đi vào ký ức của chị và ngủ luôn trong ấy!
                Và có lẽ từ hôm đó Di đã dần có cảm tình với anh ta. Chị tiếc là mình không kịp thời ngăn cản. Lúc ấy chị như một người cố bám vào bờ rìa của con tàu đang chao đảo dữ dội. Bao nhiêu tai biến cùng một lúc xãy đến, như sóng gió bao vây và rồi một con sóng úp chụp cuốn bật chị ra khỏi con tàu ấy.
                Khi chị tỉnh dậy trong bệnh viện, một cảnh tượng làm chị bàng hoàng đến không thở nổi: Cái ông thầy dạy nhảy ấy đang nâng bàn tay của Di lên miệng rồi mút cái ngón tay đau của Di. Di như người bị điểm huyệt đứng chết trân một chỗ. Chị vội nhắm kín mắt lại như cố xua đi một điềm dữ. Nỗi lo sợ bao trùm lấy chị, chị rùng mình như thể vừa nghe Di bị tuyên án khổ sai chung thân.
                 
                (Xem tiếp CHƯƠNG CHÍN/10)
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:51:19 bởi Lâm Du Yên >
                #8
                  Lâm Du Yên 05.10.2019 08:42:21 (permalink)
                  NHƯ ĐI TRÊN CÁT        
                  Truyện dài Lâm Du-Yên      
                        
                  CHƯƠNG CHÍN/10
                  [Nửa đêm trời bổng nổi giông rồi một cơn mưa tuôn ào ào như thể ông trời đang trút ào ào ra cho hả giận! Di vội ngồi bật dậy đóng kín các cửa sổ và đắp mền cho hai đứa con. Cái bóng đèn Cà na để trên đầu giường đột nhiên tắt ngắm. Cứ mỗi lần mưa lớn là điện bị cúp. Di đốt ngọn đèn trứng vịt rồi ngồi nhìn cái bóng mình in trên tường. Gió lòn cả vào bên trong ống khói nên ngọn lửa cứ chập chờn hắt hiu làm cái bóng lung linh chao đảo, giống như một âm hồn bị nhốt trong vách. Như một người nào đó ở thế giới bên kia đang ngó Di đăm đắm.
                  Nỗi buồn cũng theo cái lạnh bao trùm khắp người. Di thèm một hơi thở, một bàn tay để xua nó tan đi. Bỗng nhớ đến một người hay âm thầm xuất hiện cạnh Di trong những cơn mưa ngày cũ. Gió thổi mạnh như bạt cả lòng Di, cuốn sạch lớp tro bên trên và đóm lửa nhỏ nhoi vùi sâu tận đáy, đột nhiên cháy bùng lên một cách dữ dội. Di nghe nhớ An đến quặn ruột. Di nói thầm:
                  -An ơi! Cơn mưa nầy có ghé thăm An không vậy? Nếu có chắc An cũng bị nó đánh thức. An sẽ ngồi dậy đốt một điếu thuốc và lấy đàn ra gãy. Ước gì lúc nầy có An bên cạnh, nhìn Di một cách xót xa như ngày xưa và chỉ hỏi hai tiếng " sao vậy" mà thôi! Bây giờ Di nghèo lắm An ơi! Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vốn liếng thu nhặt của một thời chỉ còn lại là những kỷ niệm mà Di chắt chiu, không dám lấy ra xài. Di đã vung tay hoang phí cạn cả đời mình, để bây giờ cứ cào vét đến te tua. An ơi! Tiểu Long Nữ ngày xưa từ nay sẽ vùi thân trong U hồn cốc. An hãy ráng luyện võ cho thật cao cường để cứu Di An nhé!
                  Di cắn chặt môi cố ngăn tiếng khóc, âm thanh bị dồn nén biến thành chất lỏng chảy ràn rụa khắp mặt Di rồi rớt xuống áo. Cả đêm Di cứ ngồi nói thầm với An cho đến sáng.
                  Kể từ hôm ấy, bất cứ cái gì cũng gợi lên nỗi nhớ. Di nhớ đến cả những vòng tròn khói thuốc mà An hay chúm môi để thổi về phía Di như trao một nụ hôn. Di nhớ cái vệt tóc mai mà An cố tình nuôi dài để làm điệu một cách vụng về. Di nhớ tia mắt thu nhỏ hết mức, hẹp như lưỡi dao mỏng để khi chạm phải Di nghe lòng nhoi nhói. Người Di như bị tách làm đôi một dùng cho công việc hàng ngày và một đang lần theo những vết xe trên con đường cũ.
                  Ngày bé Duyên đủ tuổi, Di dắt con vào trường Mẫu giáo. Ngôi trường nầy thời trước thuộc về nhà thờ Công giáo nay thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nó được cất từ rất lâu nên những cây Phượng trong sân to chẳng kém cây Phượng mà Di bỏ lại, có điều trên thân cây không có cái tên nào được khắc. Di đưa tay vuốt nhẹ lên thân cây, ngước mắt nhìn những bông hoa cuối cùng đang đong đưa trong gió, từng phiến lá như những bàn tay vẫy gọi. Một khối gì tận đáy lòng Di đang dâng lên rồi dừng ngang cổ.
                  Tối hôm ấy Di trằn trọc hoài mà không sao ngủ được, rồi Di ngồi vậy làm thơ. Kỷ niệm như từng hạt nhỏ, kết dính vào nhau tạo thành xâu chuỗi ngọc trai lóng lánh, những chi tiết mờ nhạt ngày nào bỗng trở nên sáng chói. Những câu thơ như một lời tâm sự, một lời tạ lỗi dành cho một người, không biết có còn nhớ đến Di hay không nữa:

                  Từ đó em ra đi
                  Từ đó anh ở lại
                  Đã mấy mùa hè qua
                  Mấy mùa rồi anh nhỉ?
                  Hoa phượng đỏ ngày xưa
                  Vẫn còn tươi màu lửa
                  Biết lòng anh bây giờ
                  Có còn thương em nữa?
                  ......
                  Ôi mùa thu năm nào
                  Tập vở và áo mới
                  Hai đứa còn khoe nhau
                  Còn trao anh quyển tập
                  Bắt anh ghi thật đẹp
                  Tên em trên trang đầu
                  Bây giờ trang giấy cũ
                  Còn hoài nét chữ anh
                  Ghi tên em nắn nót
                  Giờ tay anh ngày xưa
                  Viết thêm tên ai nữa...

                  Đây có lẻ là thời kỳ "vỡ mộng" trong đời Di. Những sự kiện trái ngược hẳn với những điều mong mỏi liên tục xãy ra. Như thể trái đất đã hình thành một hố sâu và kéo theo một chuổi những sụp đổ chung quanh nó. Di mới có hai mươi lăm tuổi mà đã mang tâm trạng của một người già cỗi lắm. Đã bắt đầu sống với nỗi buồn, đau, luyến tiếc và ân hận. Nhìn những mơ ước, hoài bảo một thời của mình xa dần mà xót xa như tiễn chân những người thương đi vào lòng đất.
                  Mỗi đêm, sau khi kể chuyện cho hai con để ru chúng ngủ thì cái buồn trong Di lại trổi dậy. Nằm ôm gối, quay mặt vào vách mùng, Di bỗng cảm nhận rằng khoảng cách của hai người nằm sát và đâu lưng với nhau là cái khoảng cách xa nhất trên mặt đất. Nỗi cô đơn quá cụ thể làm cho Di đột nhiên đưa tay ra như muốn xô đổ nó, như thể nó đang ngồi chểm chệ trên ngực, thít chặt lấy cổ và cố làm cho Di ngột thở vậy.
                  Ngày trước Di rất tự tin vào khả năng, cho rằng mình sẽ, chẳng những sống rất độc lập không cần phải dựa vào ai mà còn có thể lo cho má, ngoại và những người thân nữa. Người chồng trong trí tưởng tượng của Di, là một người có thể chia sẻ với Di, từ những việc lớn lao cho đến những điều nhỏ nhặt nhất. Y có trách nhiệm, tìm thấy niềm vui trong gia đình, có mặt đều đặn trong mỗi bữa cơm và ghiền những món ăn do chính tay Di nấu.
                  Dù hay mơ mộng nhưng bản chất Di là một phụ nữ á đông truyền thống. Cái đức hy sinh, tận tụy, chung thủy của người phụ nữ cho Di thấy ở họ một tính cách rất cao cả, rất đáng khâm phục và quyết noi theo. Di cho rằng đa số phụ nữ đều sẵn sàng đem lại niềm vui cho gia đình mà dẹp bỏ những lợi ích bản thân. Má, ngoại và dì của Di đều ăn cơm sau chót và nhường thức ăn ngon cho chồng, con và cháu. Hồi đó Di đâu có biết cứ cằn nhằn sao má không chịu ăn cơm một lượt. Bây giờ khi làm vợ, làm mẹ Di mới hiểu ra và càng thương má nhiều hơn.
                  Theo Di, thất vọng lớn nhất của người phụ nữ, chính là cái thất vọng về tình yêu và nhận ra sự khác biệt quá lớn lao giữa hai nhân vật cấu thành nó. Mục đích của người đàn bà lại là phương tiện của người đàn ông. Người đàn bà hướng đến tình yêu còn người đàn ông chỉ chăm chăm vào tình dục. Điều nầy lý giải tại sao trong xã hội nghề mãi dâm chỉ dành cho nữ giới. Trước đây Di cho rằng những người phụ nữ đó làm xã hội dơ đi, họ là người xấu. Nhưng bây giờ Di nhận ra rằng họ chỉ là nạn nhân, là những người bất hạnh nhất bởi vì đối với Di mãi dâm là thực hiện hành vi tình dục mà không có tình yêu. Đó là một sự hy sinh quá lớn lao, hay một hình phạt quá ác độc dành cho người phụ nữ. Họ cảm thấy thể xác của mình đang bị dày xéo và tâm hồn tan nát. Theo Di bất cứ một người vợ nào, cũng bị làm gái mãi dâm ít nhất là một lần trong đời.
                  Thời kỳ nầy Di mang tâm trạng của một người nổi loạn. Những điều lệ đã hình thành, được áp đặt cho biết bao thế hệ. Trước đây được Di tuân theo răm rắp, nay bỗng nhiên bị nghi ngờ về giá trị, lợi ích thực sự của nó. Những luật lệ ấy được đặt ra từ tầng lớp thống trị, hầu như chỉ nhầm mục đích bảo vệ quyền lợi của họ. Nó đặt biệt đúng trong các tập tục, trong các nếp nghĩ, nếp làm từ rất lâu xưa được truyền miệng lại.
                  Di cho rằng cái chế độ ưu việt nhất, hợp lý nhất đó chính là chế độ mẫu hệ. Bởi người phụ nữ có nhiều lòng yêu thương, đức hy sinh và tận tụy hơn nam giới rất nhiều.
                   
                  Cái mơ ước được đi làm hoặc đi học lại như đốm lửa nhỏ nhoi cứ leo lét mãi trong lòng Di. Mỗi lần đạp xe ngang qua trường cũ, bây giờ được đổi tên thành "Đại học tổng hợp", Di lại nghe một niềm tiếc nhớ cao và nhọn như đỉnh núi chọc thủng cõi lòng mình.
                  Khung cảnh chung quanh vẫn vậy, vẫn hàng cây liêm xẹt chăm chỉ rắc hoa trải thảm khắp sân. Sinh viên lác đác ra vào, khu vực để xe ngày xưa đầy kín xe máy, giờ chỉ còn mấy hàng xe đạp lưa thưa. Những người bạn của Di không biết còn lại bao nhiêu? Ngọn gió giao thời đã làm chuyển hướng và thổi bạt đi vô vàn chiếc lá, có chiếc bay xa rất xa và có chiếc bị vùi lấp ở một nơi ẩn khuất như Di.
                  Có lần Di đi trên đường Duy Tân, một con đường nổi tiếng nhờ những hàng me già che mát. Hàng me vẫn còn đẹp, vẫn còn vói tay mơn trớn lấy nhau và những chiếc lá nhỏ xíu như hạt mưa rất nhẹ vẫn bay bay... Di bỗng nhớ một bài thơ có nhiều câu đố nghe đâu phát sinh từ trường luật:

                  Anh đố em mưa gì không ướt áo?
                  Trời ban trưa lại sáng quá một đôi sao?
                  Mây thương ai? Nhà gió ở phương nào?
                  Đêm anh ngủ chiêm bao về ai vậy?
                  ......
                  Trường Luật bây giờ không còn nữa, nên Di không biết tìm ai để hỏi về những câu thơ còn lại.
                  Di đã mua không biết bao nhiêu tờ sơ yếu lý lịch, đem sao y cái bằng cấp tú tài của mình để sẵn, hể nghe chỗ nào cần người là nộp vô liền, rồi chờ dài cổ và ghé hỏi thăm miết. Lúc nầy tiêu chuẩn được chọn không phải trình độ mà là lý lịch tốt, nhất là có người đương chức giới thiệu thì chắc ăn. Lòng nghi kỵ đã làm thui chột biết bao nhiêu cái tài, cái tâm...
                  Tiền thu được từ việc bán bớt các phần lương thực, nhu yếu phẩm không còn dùng đủ. Có ngày Di phải ngửa tay nhận từng đồng của chồng đưa đi chợ mà nghe buồn tủi hết sức, người chồng hể thấy cơm nhà không ngon là bỏ qua nhà má chồng ăn ké, mâm cơm thường chỉ có ba mẹ con.
                  Rồi cơ hội kiếm tiền cũng đến, khi cô em chồng bỏ đi vượt biên má chồng kêu Di về phụ và cho Di tiếp thu công việc của cổ. Di bắt đầu tập buôn bán. Cái ly cà phê phin lần đầu khách gọi, Di mang ra trên hai bàn tay run lẩy bẩy, nó kêu lộc cộc làm ai cũng cười.
                  Số tiền kiếm được lần đầu trong đời ấy Di mua cho con mỗi đứa một bộ đồ, mua cho chị Ba một cây viết, gửi về cho ngoại và má hai cây bánh bía...
                  Lại đối mặt với những nghi ngờ, soi bói của mấy người chị và cô em chồng. Những câu chọc ghẹo quá thô thiển của mấy ông khách làm Di cảm thấy bị xúc phạm và đau lòng hết sức. Có một ông khách hỏi Di trước khi lấy chồng làm việc gì, Di trả lời:
                  -Sinh viên.
                  -Xạo, cái mặt bà mà sinh viên, sinh viếc gì!
                  Cũng có những người tốt, nhưng những câu hỏi xoay quanh về thu nhập, lời, lỗ ...làm Di phát chán. Cái tật hóng chuyện ngày xưa lại trỗi dậy. Di hay lắng tai nghe coi họ nói cái gì. Quán cà phê là nơi gặp gỡ của cái giới mánh mun, nên những câu chuyện của họ càng làm Di ngao ngán, càng làm Di nhớ về thời vàng son của mình:

                  Đâu rồi gốc Phượng ngày xưa
                  Bóng cây, che bớt nắng trưa trên đầu
                  Áo bay phất phới qua cầu
                  Đường chiều có bước chân nào đón đưa
                  Ai đàn trong những đêm thưa
                  Ai chung chiếc áo đội mưa đi, về...

                  Cái quán cà phê của Di chỉ có khách vào sáng sớm, đến trưa thì hầu như vắng ngắt, khoảng mười hai giờ là Di dẹp.
                  Một tháng đôi lần, một đôi tình nhân lấy chỗ nầy làm điểm hẹn, họ chỉ đến khi Di sắp về. Không phải vì muốn bán thêm hai ly cà phê, một đen, một sữa đá nên Di nán lại, mà chỉ vì mối thiện cảm Di dành cho họ mà thôi! Cho dù mối tình ấy bị xã hội lên án rất dữ vì cả hai đều là con gái.
                  Cả hai đều trên ba mươi.
                  Người đóng vai con trai luôn mặc áo sơ mi tay dài vạt áo bỏ vào trong, bao giờ cũng ôm theo cái bìa đựng hồ sơ to đùng, bên trong chứa mấy bức tranh nên Di đoán y làm trong ngành hội họa. Cô gái có mái tóc rất dài để xỏa, luôn mặc cái áo cổ chữ V khoét rộng và sâu. Cô ta là giáo viên, vì có lần Di nghe cổ mét với người yêu là có một đứa học trò rất hổn hay làm cho cổ khóc.
                  Qua cách họ trò chuyện và nhìn nhau Di biết họ yêu nhau vô cùng sâu đậm. Hồi trước bạn bè hay gọi Di và Thu là hai vợ chồng. Di băn khoăn, không biết tình bạn của hai đứa có vượt qua mức bình thường không, lấy làm xấu hổ và đôi khi muốn xí Thu ra. Vào thời đó, những người thuộc giới tính thứ ba được coi như bệnh hoạn, bị xem thường và trêu chọc rất dữ. Lúc đó Di không bận tâm về họ lắm, nhưng bây giờ khi trực diện Di mới cảm thấy một sự bất công liên đới, cố nhấn họ chìm sâu trong mặc cảm. Suy cho cùng họ là nạn nhân do sự hớ hênh của ông trời, con người chẳng những không cảm thông mà còn a dua theo để làm cho cuộc sống của họ thêm khốn khổ. Từ đó Di suy rộng ra, những người không may mắn có thân phận và hoàn cảnh hẩm hiu, bị mọi người xa lánh thay vì giúp đỡ. Có khi họ còn bị lợi dụng, bị đem ra làm vật hy sinh.
                  Hôm ấy Di đang chuẩn bị nghỉ trưa thì cái đôi ấy lại xuất hiện. Biết Di sắp về nên họ nhìn Di một cách van lơn rồi cười lấy lòng và nói :
                  -Cô chủ quán xinh đẹp ơi! Làm ơn cho hai ly cà phê một đen một sữa đá.
                  Di cũng cười thật tươi đáp lại để họ không cảm thấy ái ngại. Họ lại ngồi y nơi cũ, ở cái bàn cuối trong góc khuất, chỗ ít ai bước tới. Di mang cà phê xong là ra cái bàn ngoài cùng ngồi cho họ được tự nhiên mặc dù vẫn để tai xem họ nói chuyện gì với nhau. Những câu chuyện trên trời dưới đất được họ kể và nghe một cách say sưa, cô gái nói:
                  -Hôm qua em đi ngang qua cái nhà sơn màu xanh đầu hẻm, hổng biết ai ở trên lầu liệng cái vỏ chuối rớt trúng đầu làm em hết hồn.
                  -Em có đứng lại xem ai làm rồi chửi cho nó một trận hông?
                  -Hông, em đi luôn đã vậy còn bị mấy đứa con nít nó cười nữa chớ!
                  -Cái tụi mất dạy, anh mà có ở đó là cho tụi nó biết tay!
                  Họ gọi nhau bằng anh em rất ngọt, rất tự nhiên. Lúc đầu Di nghe cứ thấy gai gai trên da nhưng riết rồi cũng quen. Im lặng hồi lâu rồi người làm anh dựng đứng tấm bìa cứng lên và nói với cô gái:
                  -Để anh cho em xem bức tranh nầy đẹp lắm!
                  Di nghe tiếng kéo ghế chắc cô gái ngồi sát hơn để xem cho rõ. Di thôi không thèm chú ý đến họ mà móc tiền trong túi ra đếm và xếp lại cho có thứ tự. Một người đàn ông lao vút vào quán. Di chưa kịp chào ông ta đã đi nhanh đến cái bàn cuối, hất tấm bìa cứng rớt xuống đất. Một cảnh tượng làm Di sửng sốt: Cô gái đang ngồi trong lòng, đầu ngửa ra phía sau tựa vào cổ của người yêu, ngực ưởn cao để đón nhận bàn tay của y đang thọc sâu xuống từ cổ áo .
                  Cô gái kêu, giọng thảng thốt:
                  -Ba!
                  Người cha đứng chết trân. Ba cặp mắt họ giao nhau, căm lặng nhưng lại diễn tả nỗi thống khổ một cách vô cùng hùng biện... Di nhìn cả ba. khi không mà trở thành khán giả trong một vở kịch buồn.
                  Từ hôm đó họ không còn ghé quán nữa. Di hay nghĩ nhiều về họ, tự hỏi không biết họ có tìm được một chỗ an toàn hơn, hay phải chia tay vì áp lực gia đình.


                  Một hôm tình cờ khám phá một chỗ cho thuê sách. Di mừng như gặp lại người bạn cũ. Lướt tay lên hàng dãy sách xếp trên giá, tim Di bỗng xốn xang và lòng bùi ngùi thổn thức. Từ ngày lấy chồng đến nay Di chưa đọc lại một quyển truyện nào. Những tờ báo hàng ngày quá khô khan, quá nặng về phần tuyên truyền nên Di không có hứng thú. Tiền thuê không mắc lắm thế là Di lựa cho mình một bộ "Anna Karênina" mang về.
                  Ngày hôm đó Di vui vô cùng vừa làm việc vừa hát, cũng đã lâu rồi Di không ca lại những bản nhạc ngày xưa. Mấy đứa con của Di ngạc nhiên lắm. Thay vì kể chuyện và hát mấy bài đồng dao để ru con ngủ Di cho chúng nghe những bản nhạc mà Di từng yêu thích. Nước mắt rơi trên má và giọng Di nghèn nghẹn, chúng ngạc nhiên lắm hỏi:
                  -Sao mẹ khóc vậy mẹ?
                  -Tại mẹ cảm động quá!
                  -Cảm động là sao vậy mẹ?
                  -Là vui, là buồn...
                  -Vui sao cũng khóc vậy mẹ?
                  -Có nhiều chuyện vui mình cũng khóc nữa, mà tụi con có thích mẹ hát mấy bản nhạc nầy hông? Có thấy mẹ hát hay hông?
                  -Có, con thích lắm, mẹ hát hay lắm.
                  -Con cũng thích, mẹ hát thêm đi mẹ.
                  Chờ các con ngủ Di mở sách ra đọc liền, lần đầu tiên cảm thấy hài lòng với cuộc sống của mình, cuộc đời của Di bỗng trở nên ấm áp, bình yên. Di mang ơn người viết, người dịch, người in...Tất cả những người bỏ công ra để hoàn thành một quyển sách cho Di thưởng thức. Họ chắc phải đắn đo sắp xếp từng ý tưởng, đẻo gọt từng câu chữ, phân vân trước mỗi dấu chấm, dấu phẩy để cố tạo ra một sản phẩm hoàn thiện nhất trong khả năng của mình.
                  Vừa gấp cuốn sách lại là Di tìm bút viết ngay cho chị Ba một bức thư:

                  Chị rất thương!
                  Em vùa đọc xong quyễn" AnNa Ka Rê Ni Na", nó hay đến nỗi mà em không sao ngủ được. Thói quen ngày xưa lại trỗi dậy. Cái nhu cầu muốn chia sẻ, muốn tâm sự với chị khi lòng ngập tràn cảm xúc bắt em phải ngồi dậy viết thơ liền cho chị đây!
                  Chị còn nhớ ngày xưa, một lần chị từ Long Xuyên, tức tốc về thăm để mang cho em một quyển truyện mà chị vô cùng yêu thích hông? Em còn nhớ nó mang tên "Những bàn tay bẩn". Và cứ mỗi dịp chị em mình gặp nhau là tụi mình đều bị má rầy vì cứ thức sáng đêm mà bàn luận về những quyển sách đã cùng đọc. Hầu như lúc nào hai chị em mình cũng có cùng một cảm nhận, cuốn gì chị thích là em thích và ngược lại.
                  Bây giờ em ước chi có chị bên cạnh, để chia sẻ với em cái điều đang làm lòng em thổn thức. Em thương An Na quá chị ơi! Cái chết của cổ ám ảnh em đến độ mà em như trông thấy trước mắt cái thân hình nằm vắt ngang trên dường rây, với những vết máu từ từ thấm qua lớp áo. Sao tác giả chọn cho cổ một cái chết thảm thương vậy chị? Sao không để cho cổ mặc cái áo đầm bằng sa ten trắng, nằm trên giường với vô số hoa hồng xếp chung quanh. Sao ổng nỡ làm cho lòng em nhói buốt như thế nầy!
                  Ở quê mình chị có mượn hoặc mướn được sách mà xem hông? Nếu không hè nầy chị nhất định phải lên thăm em đó! Em vừa tìm ra một chỗ có nhiều sách cũ lắm. Người chủ rất dễ thương, khi em chọn bộ sách nầy ổng nhìn em với đôi mắt thích thú hỏi:
                  -Cô cũng thích loại sách nầy sao?
                  Tiền thuê không mắc lắm nhưng tiền thuế chân thì vượt quá khả năng của em, nếu không em đã cuổm luôn mà gửi về cho chị rồi.
                  Em muốn kể cho chị về An Na nhiều lắm! Nhưng thôi, hãy để chị tìm đọc để tự khám phá, rồi kể cho em nghe những chi tiết mà chị ưa thích nhất, để xem tụi mình còn giống hệt nhau như ngày xưa hông!
                  ....
                  Ở chỗ mướn sách Di quen được một cô bạn mới, chỉ nghe cái tên "Xuân An" thôi, Di đã dành sẵn cho cổ một mối cảm tình vượt mức bình thường, huống chi cổ còn rất dễ thương và có một cuộc sống bấp bênh, vất vả.
                  Cổ là người Đà Lạt, hơn Di một tuổi nhưng trông rất trẻ và gọi Di bằng chị, đang học luật thì trường bị bải bỏ. Cổ ở lại Sài Gòn bán chợ trời để kiếm sống, tìm cơ hội để vượt biên vì người yêu của cổ đã đi sang Mỹ. Nghe chuyện cổ mà Di khâm phục cho cái ý chí kiên cường của cổ. Cổ bán đủ thứ hết từ quần áo cũ rồi chuyễn sang sách và cuối cùng là bán thuốc tây. Thuê chung một căn gác với mấy cô gái khác cũng cùng hoàn cảnh. Cổ kể có lần bị công an bắt khi kiễm tra nhân khẩu. Họ nghi bọn cổ làm gái mãi dâm, cứ gặng hỏi mãi làm cổ nhục quá khóc suốt...Di hỏi sao cổ không về ở với má, cổ nó cổ có ba ghẻ tính tình không tốt nên cổ không muốn về nhà. Di gợi ý cho ở nhờ nhưng cổ cương quyết từ chối, chỉ thỉnh thoảng đến chơi và ở lại ăn cơm. Cổ rất thích cái món mắm kho của Di, cứ khen và đòi ăn thêm lần nữa.
                  Vậy là Di đã có sách, có bạn để cùng trò chuyện, bếp nhà Di, mấy món ăn tinh thần đang tỏa mùi thơm phức!


                  Đã sáu tháng trôi qua từ ngày Di kết bạn với Xuân An. Một buỗi chiều khi rước hai con ở trường về nhà, Di thấy Xuân An đang đợi sẵn. Cô đứng dựa vào hàng rào phủ đầy dây lá Sâm được Di trồng từ ngày mới về, dưới chân là một cái giỏ đệm to đựng đầy sách. Di mừng lắm ngỡ Xuân An dọn đến ở nên hỏi:
                  -Đồ đạc có bây nhiêu thôi hả?
                  -Em mang tặng chị hết sách của em đó, hy vọng chị thích.
                  -Chớ hổng phải dọn đến đây ở luôn sao? Còn cái túi gì trên tay vậy?
                  -Em đi chợ mua đồ về cho chị kho mắm, bữa nay phải ăn no cành hông mới được.
                  -Xời ơi! Làm người ta mừng hụt.
                  Di mở khóa dắt hai con vào. Xuân An rinh cái túi đệm vào theo. Di mở cái túi thức ăn kiểm tra xem thấy có một con cá lóc cỡ 300 gr, một miếng thịt ba rọi, cà tím, đậu đũa, khổ qua và một bịch rau ghém gồm mấy thứ rau ăn mắm trộn chung như: chuối cây, rau muống, rau sống v...v.. Di hỏi:
                  -Bộ em hổng mua xả hả?
                  -Chết cha, em quên mất tiêu, không có xả được hông chị?
                  -Không được đâu, nó với ớt là gia vị bắt buộc, thôi để chị chạy đi mua.
                  Di chạy một cái vèo ra chợ chồm hổm nằm trong cái hẻm phía bên kia đường. Mua thêm xả, ớt và một nhúm ngò gai, ăn mắm phải có ngò gai mới ngon. Về đến nhà thấy Xuân An đang tắm cho hai đứa nhỏ rồi lấy mấy bộ đồ mới tinh ra mặc cho chúng, thấy Di ngạc nhiên cổ giải thích:
                  -Cái nầy em mới mua cho hai cháu.
                  Hai đứa nhỏ được mặc đồ mới, sung sướng quá cười toe.
                  Bữa cơm được dọn trên mấy tờ giấy báo trải xuống đất, cả bốn người ngồi xúm xít. Xuân An có vẻ ít nói cắm cúi ăn, Di hỏi:
                  -Có ngon hông em?
                  -Ngon quá trời quá đất luôn, mắm nầy do má chị làm hả?
                  -Ừ, ngoại chị làm mắm ngon nổi tiếng trong xóm, ngoại truyền cho má.
                  -Chị có biết cách làm không?
                  -Không, bởi vậy chị sợ nó bị thất truyền luôn. Chị cũng muốn học lắm chớ nhưng mà làm mắm khó lắm, qua rất nhiều công đoạn. Nầy nhé cá làm xong phải bưng xuống sông rửa mới đủ nước cho nó sạch. Trộn muối cho ngấm, đúng thời điểm lấy ra, thắng đường, trộn thính vô gọi là " chao mắm ". Có loại mắm phải cho thêm cơm rượu. Xong xuôi mới nhận vô từng cái gáo dừa. Lấy lá chuối khô dậy trên mặt rồi gài vĩ tre lên, ém cho thật chặt, cuối cùng là sắp vô cái lu. Mắm sẽ từ từ rỉ nước ra, cái nước nầy gọi là nước mắm đồng có màu đậm hơn nước mắm mình mua ngoài chợ độ đạm rất cao.
                  -Nước mắm đó có ngon không?
                  -Ăn quen mới thấy ngon. Bà con quê chị tới mùa nước hay kho mắm lắm, vì mùa nầy có đủ thứ rau như điên điển, bông súng, rau dừa...Tính ra nội cái món rau không là cả chục thứ. Ăn mắm mỗi người phải có hai cái chén. Một chén đựng cơm còn một chén cho rau vào, rồi chan mắm vô mà lùa chớ hổng có gắp nhúng vô tô như mình đâu!
                  Ăn cơm xong hai chị em giành nhau rửa chén, rồi cả hai cùng rửa. Di rửa xà bông còn Xuân An tráng lại bằng nước sạch. Hai đứa con xin đi chơi với mấy đứa bạn trong xóm để khoe áo mới. Di kéo Xuân An lên gác, nhường cái võng cho cổ nằm rồi ngồi sát một bên đưa tay đẩy, đột nhiên cổ kề sát tai Di nó nhỏ:
                  -Ngày mai em đi rồi!
                  -Đi đâu?
                  -Vượt biên!
                  Di thở hụt một nhịp rồi hỏi:
                  -Sao hôm trước em nói chưa đủ tiền?
                  -Chỗ nầy quen với bồ em, họ liên lạc với ảnh rồi, qua tới đó ảnh trả đủ cho họ.
                  -Bao nhiêu vậy?
                  -Ba cây.
                  Một nỗi lo và buồn tràn ngập lòng Di, chắc nó lộ ra nét mặt nên cổ an ủi:
                  -Chị đừng có lo, em có đi coi bói rồi. Bà thầy nói chuyến nầy đi trót lọt. Em qua tới bển kiếm việc làm rồi sẽ gởi tiền về giúp chị mua sách về cho mướn tại nhà, khỏi đi bán nũa.
                  -Đừng có lo cho chị, chỉ cần em đi đến nơi rồi báo tin cho chị biết là được rồi. Có cho má em biết chưa?
                  -Em không dám! Sợ má em can ngăn rồi khóc lóc làm bể chuyện.
                  Di nghe cổ nói vậy bèn ráng kềm hai giọt nước mắt sắp trào ra. Cổ ngồi bật dậy ôm lấy Di thật chặt rồi nói:
                  -Em nói cái nầy chị đừng buồn nha! Chị với chồng chị tính không hợp đâu, chị còn trẻ, sống như vầy phí đời lắm!
                  Di đưa cổ ra tận ngoài đường, nhìn theo cho tới khi mất hút. Nước mắt bây giờ được dịp tuôn ra như bể bờ bao, cảm thương cho phận số của mình, hể thương ai một cái là chia tay liền. Chiều hôm sau đi bán về Di ghé qua ngôi chùa gần nhất, bỏ tờ giấy một đồng vào thùng công đức, rồi quỳ xuống chân phật cầu xin phù hộ cho người tên Trương thị Xuân An hai muơi bảy tuổi ở Đà Lạt, đi đường được bình an vô sự. Bỗng nhớ tới một người nữa cũng tên An, Di lại khấn tiếp;
                  -Xin Phật nhân tiện che chở luôn cho một người tên Nguyễn An, hai mươi bốn tuổi quê ở Châu Đốc được công thành danh toại, mạnh khỏe và hạnh phúc.
                  Cầu nguyện xong Di cảm thấy xấu hổ, vì chỉ cúng có một đồng mà xin đủ thứ nên bỏ thêm vào thùng một tờ giấy năm đồng nữa.


                  Từ hôm Xuân An đi, ngày nào Di cũng thấp thỏm không yên. Di mong ông phát thơ quá chừng nhưng càng mong ổng càng đi biền biệt. Di gữi cho chị Hai nhà bên cạnh hai đồng, để khi nào chị nhận được thơ từ nước ngoài gữi về cho Di thì biếu ông phát thư giùm. Di không ngờ khỏang trống mà Xuân An để lại trong lòng Di lại rộng lớn đến vậy. Di cảm thấy có lỗi với chị Ba rất nhiều, vì nỗi thất vọng khi nhận ra cái thư trên tay không phải của Xuân An mà là của chỉ!
                  Xuân An để lại cho Di rất nhiều sách, đa số là những tác phẩm của các văn hào Nga như: Chiến tranh và hoà bình, tuyển tập thơ và truyện của Put kin, Sê khốp, Tội ác và hình phạt, Sông đông êm đềm...v...v...Mỗi lần đọc là Di nghe một nỗi nhớ nhung tràn ngập. Di nhớ đôi mắt nhỏ, dài bộc lộ đức tính của một người hiền thục mà ông bà ta ưa chuộng và gọi tên là "mắt lá Răm". Di nhớ đôi gò má da rất mịn, hồng như da con nít. Cái miệng nhỏ, gọn với viền môi rất rõ, cả cái răng chó nhọn mọc hơi so le trông rất tinh ranh của cổ.
                  Tin tức được truyền miệng về những chiếc tàu bị bão, bị cướp, bị chìm...v...v...liên tục đến tai Di. Có chiếc trôi giạt lênh đênh hàng tháng trên biển. Những thuyền viên đói đến nổi phải ăn cả giày, dép. Có người phát điên vì thất vọng, làm Di vô cùng lo lắng. Mỗi đêm Di cầu xin thật thiết tha mong cho cổ sớm đến bên người yêu một cách an lành.
                  Rồi một đêm cách ngày Xuân An đi gần một tháng, Di mơ một giấc mơ mà khi tỉnh dậy Di khóc đến độ chồng và con Di phát hoảng. Di thấy Xuân An nằm trên võng như lần gặp cuối, tóc và quần áo của cổ sủng nước. Những giọt nước từ mái tóc của cổ chảy ròng ròng tạo thành một vũng to dưới võng, nó cứ lan dần và rộng mênh mông như một cái hồ. Cái võng như chiếc thuyền chở cổ trôi về bờ bên kia, còn Di thì đứng chôn chân phía bên nầy cố vói tay mà không thể nào chạm đến. Đôi mắt cổ nhìn về một chỗ nào đó ở thật xa phía sau lưng Di, tia mắt mờ đục như mắt con cá Lóc chết, môi cổ mấp máy. Di cố gọi mà cuống họng như nuốt cục xôi to mắc nghẹn không thốt nỗi một từ.
                  Di tỉnh giấc nhờ bàn tay chồng lay mạnh rồi nhớ lại giấc mơ liền, linh tính báo cho Di biết đây là một điềm dữ. Ngày Xuân An từ giã Di đã có cảm giác nầy, rất muốn ngăn mà không dám. Thôi chắc Xuân An về báo cho biết để Di thôi không chờ thư nữa. Xuân An đã nằm dưới đáy nước rồi!
                  Rồi Di khóc. Khóc cho một người bạn đã mang đi một phần hồn của Di. Khóc cho những đau thương mà bạn phải chịu đựng trong cái giây phút sau cùng ấy. Khóc cho cuộc trùng phùng không bao giờ có được, để lại một nỗi ăn năn, ray rức cho người còn sống. Khóc cho một bà mẹ và hai đứa em sẽ cứ mong đợi và trách móc hoài một người con, một người chị vì không về cho dù là ngày giỗ, tết...
                  Hôm sau Di nấu một mâm cơm để cúng Xuân An, vẫn là cái món mắm kho mà cổ thích, mua thêm mấy bộ đồ bằng giấy và một xấp giấy tiền vàng bạc. Di bưng cái mâm ra ngã ba đường để cúng vì nghe người ta nói những người chết dưới sông không được vô nhà. Di vừa đốt nhang vừa nói thầm với cổ: " Xuân An ơi! Chừng nào em đói và lạnh hay thèm ăn mắm kho thì nhớ báo cho chị biết nhé, chị sẽ gửi cho em".
                  Kể từ hôm ấy Di không còn mơ gặp cổ nữa, một tia hy vọng bắt đầu leo lét trong Di, biết đâu Xuân An còn sống, biết đâu...

                  Hè năm ấy, chị Ba đã hy sinh chuyến tham quan ĐÀ LẠT, do nhà trường thưởng để lên thăm Di.
                  Chị khuân mấy cái giỏ to đùng chứa nào là bánh tét, bánh ú, xôi vị của má làm gửi lên cho. Vì gạo, nếp bị cấm chuyên chở nên má làm đủ thứ bánh. Má cho thêm một túi bột gạo để Di làm bánh khọt, bánh xèo... Rồi nào là khô, mắm, đậu xanh, đậu nành...Tóm lại nhà có cái gì là má cho cái nấy. Má còn kho thịt kho tàu chứa trong mấy cái lon guizgo, luộc sẵn một chục hột vịt đem theo cho khỏi bể. Chị Ba thì may cho Di một cái áo Mút sơ lin màu tím, bé Duyên và cu Tèo mỗi bé được ba bộ đồ mới. Nhìn chị tay xách, nách mang nào bao, nào túi lủ khủ mà Di thương làm sao! Chị nói :"Mình chỉ mang theo đồ để dùng thôi mà mỗi lần tới mấy cái trạm là bụng đánh lô tô, run như thằn lằn đứt đuôi. Nghĩ mà thương cho những người đi buôn, chắc ai cũng đau tim hết trọi. Mà nhà nước cấm mấy thứ nầy chi vậy ta? Đã gọi là nhu yếu phẩm thì ai cũng cần mà cấm làm chi".
                  Mẹ con Di chiêu đải lại chị bằng cách mời chị đi coi xi nê. Trời đất ơi! xuất chiếu sáu giờ mà ba giờ chiều mẹ, con, dì, cháu đã kéo nhau đứng xếp hàng trước cửa rạp. Vậy mà nào có được yên. Phòng vé vừa mở cửa bán là từ đâu không biết, cả đám đông ùa đến chen ngang vào. Hai đứa con của Di bị ép sợ quá khóc ré lên, chị Ba lật đật kêu to :"Đi ra thôi Di ơi! coi chừng hai đứa nhỏ bị ép lòi bong bóng đó!". Thế là không xem phim được, bèn kéo nhau đi ăn chè Huế cho đỡ buồn.
                  Tối hôm ấy Di vừa khóc vừa kể cho chị Ba nghe về Xuân An. Chị Ba rút cái gối dưới đầu của Di ra rồi luồn tay vào và ôm Di thật chật, chị nói:
                  -Có thể Xuân An đã lạc mất địa chỉ của em nên không gửi thư được. Giấc mơ là do em bị ám ảnh mà sinh ra đó thôi! Đừng có suy diễn theo lối bi quan mà khổ, sống là phải ăn mót niềm vui, em cứ nghĩ ngợi lung tung, bởi vậy kỳ nầy lên chị thấy em bơ phờ quá!
                  Di đem sách của Xuân An ra cho chị xem. Chị rất thích bộ "Chiến tranh và hòa bình". Chị bỏ ra cả một tuần để xem liền một mạch. Có chị Ba Di nghĩ bán mấy ngày để ở nhà chơi với chị. Hai chị em sống lại không khí ngày xưa, cứ ăn xong là đọc sách.
                  Di ao ước phải chi có Xuân An, chắc cổ sẽ khoái mấy món bánh má làm và thích chị Ba lắm! Khi Di mở những quyễn sách của Xuân An để đọc, mỗi lần lật sang trang, ngón tay trỏ của Di đặt vào mép giấy. Di lại tưởng tượng là mình đặt tay lên đúng ngay chỗ ngón trỏ của Xuân An từng đặt vào để lật sách. Cảm giác như đã được chạm vào Xuân An một cách gián tiếp làm Di thấy ấm lòng.
                  Chị Ba ở chơi được nửa tháng thì về vì còn phải học bồi dưỡng chánh trị. Chỉ than đi dạy cả năm không ngán, mà nói tới học chính trị thì ai cũng rầu thúi ruột. Vậy mà chẳng có ai dám phản đối, thật là vừa tốn công vừa tốn của, cái bệnh hình thức ngày càng phổ biến. Di ghẹo:
                  -Chị được đi dạy sướng thấy mồ, còn được học trò thương nữa. Nghe má nói chị được phụ huynh mời ăn đám giỗ liền xì, em nghe mà bắt ham. Hay là chị đổi cho em đi!
                  -Đừng có tưởng bở! Bộ đi đám giỗ xách hai bàn tay không hả? Cũng phải mua bánh, mua trái cây tới chớ. Đã vậy có lần chị nghe con nhỏ học trò nó khoe với đứa bạn:"Hôm qua cô Ba Lệ tới nhà tao ăn đám giỗ". Từ đó chị cương quyết từ chối không đi cái đám nào nữa hết, nhờ vậy mới dư chút đỉnh tiền.
                  Hôm chị soạn đồ về Di buồn hết sức, có cảm giác như chị đi xa lắm! Lâu lắm mới được gặp lại, thấy mắt Di cứ rưng rưng chị nói nửa đùa, nửa thật:
                  -Hay là em với hai đứa nhỏ về quê ở luôn đi! Rồi xin đi dạy cho biết mùi với người ta!
                  -Em muốn lắm mà tiếc cái hộ khẩu. Bao nhiêu người họ chạy chọt để ở Sài Gòn mà không được, còn mình thì bỏ về quê thấy cũng uổng.
                  -Đó gọi là tính a dua, tính bầy đàn đó em. Nói vậy chớ ráng ở đây cho hai đứa nhỏ có điều kiện học tốt. Sau nầy tụi nó thành tài rồi thì về quê ở với chị, tới chừng đó chị cất cái nhà nhỏ ở sau hè...
                  Di ngắt lời chị:
                  -Bộ chị hổng tính có chồng sao?
                  -Chị thấy lấy chồng sao giống mua vé số quá. Chị lại tham lam chỉ muốn trúng độc đắt thôi nên chắc khó lắm!
                  -Em xúi chị vậy chớ giá cho em trở lại làm con gái rồi giảm nửa số tuổi của mình em cũng chiụ, với điều kiện là còn hai đứa nhỏ.
                  -Em có nghĩ đến chuyện li dị hông?
                  -Thời buổi nầy li dị cũng khó lắm chị ơi! Ở xóm nầy có một cô bị chồng đánh hoài, cổ chịu hổng thấu bèn làm đơn xin ly dị. Thế là họp tổ dân phố được đem ra thảo luận, rồi hội phụ nữ, ban hòa giải...Cứ mời họp miết, cuối cùng cổ chán quá rút đơn lại luôn.
                  -Ngẫm lại trong hôn nhân phụ nữ thua thiệt nhất!
                  -Vậy mà ai cũng khoái đâm đầu vào chỗ chết! Ba mươi tuổi mà chưa lấy được chồng là lo sốt vó!
                  Chị Ba vừa cười vừa rũ cái túi xách. Một cái thư rơi ra chị cầm lên rồi kêu:
                  -Thôi chết rồi hổm rày chị quên mất, may mà soạn cái túi không thôi là mang tiếng làm hiểm rồi!
                  -Cái gì vậy chị!
                  -Thơ của chị Đơn dạy chung trường với chị, chỉ nhờ đưa cho đứa em đang đi học trên nầy.
                  -Em chỉ ở đâu? Để em đưa cho.
                  -Có ghi địa chỉ đây nè, em xem có tiện thì đưa giùm, còn không thì mua tem dán vô rồi gửi giùm chị.
                  Di cầm lấy thư lẩm nhẩm đọc rồi nói:
                  -Cái chỗ nầy gần nhà má chồng em lắm, để mai em đưa tận tay cho, chị đừng lo.
                  Khuya hôm ấy hai chị em nằm nói chuyện với nhau cả đêm, đến lúc sắp đi chị hỏi:
                  -Em định sống như thế nầy hoài sao? Phải cố tìm một việc làm cho ổn định để uổng công học hành biết bao năm. Mỗi lần bà con hỏi em đang làm gì chị thấy má buồn lắm, má cứ nói:
                  -Chồng nó không cho đi làm, ở nhà giữ con thôi.
                  -Em cũng đi xin đủ chỗ rồi mà không được, đành phải chịu!
                  -Chồng em cũng còn đi chơi, ăn nhậu thâu đêm vậy sao?
                  -Công chuyện của ảnh phải giao tiếp nhiều, bắt buộc như vậy mà chị.
                  -Chị nói hổng phải trách, chớ chị thấy nó thay đổi nhiều lắm. Hồi chưa cưới em cứ xun xoe lấy lòng chị miết. Còn bây giờ...Chị ở chơi nửa tháng mà chưa có nói được với nó hai câu.
                  -Thì em giành hết rồi còn chỗ đâu mà ảnh nói nữa.
                  -Em ráng giữ mình. Nó quen biết tùm lum coi chừng đổ bệnh cho em là khổ lắm đó!
                  Rồi chị ôm lấy Di thật chặt, nhắc thêm lần nữa:
                  -Em còn có chị, biết hông?
                  Di gật đầu, mím môi rồi cố dồn hết sức mạnh vào đôi tay mà ôm lại chị.
                   
                  Hôm sau, đưa hai con đi học xong Di đi giao thư liền.
                  Đó là một toà nhà cao mười hai tầng nằm trên đường Trần Hưng Đạo, ngày trước có tên là hotel President nay đổi thành nhà hát Trần Hữu trang. Đây là chung cư dành cho giới nghệ sĩ, nó còn có cả các trường đào tạo những lãnh vực về nghệ thuật, chắc cô em của chị Đơn học về nghành sân khấu hoặc điện ảnh.
                  Di nhìn tên ghi trên bao thư rồi phì cười. Em của chị Đơn tên Trần thị Chiếc làm Di nhớ đến cái kiểu đặt tên con rất đặc biệt của quê mình.
                  Ở quê Di bà con suy nghĩ rất đơn giản và có óc hài hước, cho nên có những cái tên thoạt nghe người ta không hiểu cha, mẹ đương sự mong mỏi điều gì cho con mình. Phải kết hợp với tên anh, chị, em hoặc tên cha, mẹ mới hiểu nổi. Có những cái tên thật dị hợm vì cha mẹ không dám đặt tên đẹp cho con sợ bị quở, khó nuôi, nhất là khi đã để xẩy một hoặc hai đứa đầu.
                  Xóm Di có anh năm Thít có hai đứa con trai sanh đôi. Ảnh cho một đứa tên Đúi còn đứa kia tên Đụi. Tội nghiệp hai đứa nhỏ đi học bị bạn bè trêu chọc dữ quá, cứ bị ghép chung với tên cha rồi láy lại mà kêu. Tụi nó đi học về là mình mẩy xây xát vì mỗi ngày đều đánh lộn, cho nên chữ chưa đầy lá Mít là nhất định nghỉ luôn không thèm đi học nữa!
                  Di gửi xe rồi leo lên cái cầu thang bộ tối hù. Phía trước có hai cô gái khiêng cái thùng đầy nước, nước rớt theo mỗi bước đi nên cầu thang rất trơn. Cái địa chỉ ghi ở lầu chín. Di vừa leo vừa thở dốc tự hỏi sao họ không cho xài thang máy, đúng là phung phí sức người quá đỗi!
                  Đến nơi Di gõ cửa, trong phòng đang có tiếng ồn ào chợt ngưng bặt, hai cô gái xuất hiện một lượt. Di vừa thở vừa hỏi:
                  -Ở đây có ai tên Trần thị Chiếc hông? Có thư của chị cổ gửi nè !
                  Một cô gái ốm nhom như chiếc đũa chạy đến chìa tay:
                  -Em nè, bộ chị dạy chung với chị Đơn của em hả?
                  -Chị là em cô giáo Lệ, bạn của chị em. Xin lỗi nghe, chị của chị quên nên đưa hơi trễ.
                  -Em cám ơn chị hổng hết chớ ở đó mà lỗi, phải gì. Chị vô ngồi nghỉ uống miếng nước cho khoẻ nghen. Em thấy chị thở coi bộ mệt dữ.
                  Di định từ chối, nhưng một phần đuối sức, lại muốn nhân cơ hội tìm hiểu xem nơi ăn chốn ở của mấy cô nàng nầy như thế nào, bèn bỏ dép bước vào. Căn phòng chừng ba chục mét vuông bao gồm cả nhà vệ sinh. Nó trống trơn không kê bàn, ghế, giường, tủ gì hết. Cả chục cái thùng cạc tông xếp chồng lên nhau. Gối mền mùng xếp vào một góc, chiếm một phần diện tích không nhỏ, Di hỏi:
                  -Tụi em có mấy người mà mùng mền nhiều quá vậy?
                  -Đâu chị đoán thử coi. Chiếc vừa cười vừa nói.
                  Di đếm mấy cái gối rồi nói:
                  -Sáu người hả?
                  -Trật rồi, tám người lận!
                  -Trời đất! Hèn gì em bị ép gầy nhom!
                  Mấy cô gái cười ồ.
                  Di ngồi nghỉ chừng mười phút, rồi từ giã ra về để đi chợ mua đồ chuẩn bị cho ngày mai bán lại. Chiếc có vẻ áy náy :
                  -Làm phiền chị quá! Mai mốt chị bỏ vào thùng thơ phía dưới được rồi, có người phát cho tụi em, đừng có leo lên đây mệt lắm. Chị đi xuống nhớ cẩn thận nghe, cầu thang trơn lắm đó!
                  -Chị biết rồi em đừng lo, mà ở đây bộ không có thang máy sao em?
                  -Có chớ nhưng nghe nói hư rồi nên đã khoá không dùng được nữa.
                  -Uổng ghê phải còn cho tụi em đỡ cực, mà tụi em có phải xách nước lên xài hông vậy?
                  -Có chớ sao không!
                  Di bước xuống thang một cách thật cẩn thận, lại đi sau một người con trai hai tay cầm hai cái xô nhựa lớn. Xuống tới chỗ để xe Di mò trong túi kiếm cái giấy gửi xe, cái túi trống trơn. Di nhìn vô giỏ đệm cũng không thấy. Trời đất ơi! Không lẻ rớt ở chỗ ngồi hồi nãy. Nghĩ tới việc phải leo lên chín tầng lầu là Di nghe hai ống chân mõi rệu. Di nghĩ thầm thôi cứ lại năn nỉ người giữ xe trước coi có được không, anh ta trông có vẻ hiền lành chắc không làm khó đâu. Di vừa đi vừa lâm râm cầu khấn. Người giữ xe ban nảy không còn ở đó, thay vào đấy là một người mà thoạt trông Di đã lấy làm ngờ ngợ. Anh ta đang đọc báo, gương mặt cúi nghiêng để lộ một bên tai với cái cục thịt dư sát mép trông quen lắm! Di tiến tới gần hơn rồi đứng chết trân. Người con trai linh cảm có người nhìn nên quay mặt lại. Y vừa ngước lên, vừa gọi một cách thảng thốt:
                  -Di!
                  -An!
                   
                  (Xem tiếp CHƯƠNG MƯỜI)
                  [<font]

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:51:56 bởi Lâm Du Yên >
                  #9
                    Lâm Du Yên 05.10.2019 08:44:42 (permalink)
                    NHƯ ĐI TRÊN CÁT         
                    Truyện dài Lâm Du-Yên       
                           
                    CHƯƠNG MƯỜI/10 

                    Ngồi sau lưng An trên chiếc xe đạp mini lùn tịt, chiếc xe từ thời còn đi học được Di giữ lại, sơn đã tróc nhiều trơ khung sắt. Di chỉ thay cái sàn nước phía sau, bằng cái yên bọc nệm rất dài để chở hai đứa con. Cái yên thụp xuống rất thấp nên lưng An như bức tường che kín phía trước. Di ngồi một bên vặn ngang cái eo để quay mặt nhìn vào đó. Kéo cái nón lá che kín gương mặt vậy mà cứ run. Phải nhắm mắt lại tự đánh lừa rằng, nếu mình không trông thấy ai, thì cũng chẳng ai trông thấy mình. Một lát sau nghe tiếng An hỏi:
                    -Di thấy con đường nầy có giống đường Lê lợi của tụi mình không?
                    Mở mắt ra. Di thấy mình đang đi trên con đường mát rượi giữa hai hàng me:
                    -Cũng giống nhưng không đẹp bằng vì thiếu một dòng sông bên cạnh.
                    -Di ơi! Di có nhớ Châu Đốc nhiều không?
                    Di nói một cách ví von để giảm bớt tầm quan trọng của nó:
                    -Di chỉ nhớ Châu Đốc mỗi năm có hai lần thôi và mỗi lần kéo dài sáu tháng.
                    Di không kể cho An mỗi lần trời mưa, Di như thấy lại con đường nhựa trong đêm vắng tanh và loang loáng nước, như nghe lại tiếng rao thôi thúc cuả đứa bé bán bánh mì. Cũng không kể cho An nghe cái lần Di khóc dù đang đi ngoài đường khi nghe lại bài "Đố Ai". Cũng không nói về nỗi buồn đến nhói tim, khi đi qua ngôi trường có cây phượng to vào mùa hoa nở.
                    An nói bằng một giọng trầm trầm:
                    -Còn An thì nhớ Phú Lâm gần như là mỗi ngày.
                    -An có giận, có trách Phú Lâm nhiều lắm không?
                    -Đau và hụt hẩng nhiều hơn. Thỉnh thoảng An lại mơ thấy mình đạp xe trong đêm mưa, tối thui như lần đầu qua nhà Di vậy.
                    Rồi An hỏi thêm sau mấy phút ngập ngừng:
                    -Di có vui khi ở Sài Gòn không?
                    Di suy nghĩ hồi lâu, cố tìm những từ thích hợp để diễn tả tâm trạng của mình:
                    -Di cảm thấy lạc lỏng, lo lắng nhiều hơn. Như thể một người đi xe không có vé, cứ sợ bị trục xuất. Hay như một vật lạ thâm nhập vào một bộ phận nào đấy, liên tục bị đào thải, không muốn ở lại mà cũng không thể bỏ đi.
                    -Cái gì làm Di vui nhất.
                    -Con.
                    -Bây giờ Di mong mỏi điều gì nhất?
                    Phải mất năm phút sau Di mới trả lời:
                    -Di mong một lần ngồi sau lưng An, mà không phải lo và hồi họp như thế nầy!
                    Di nghe tiếng An thở nhẹ và dài. Rồi An hỏi:
                    -Di còn sợ ngồi quán như ngày xưa không?
                    -Cũng giảm nhiều, không gắt gao như trước nữa.
                    -Vậy mình ghé vô đây nghe?
                    Di lại mở mắt ra. Một cái quán cà phê khuất sau giàn bông giấy, chỉ có hai người khách mà thôi.
                    -An mỏi chân rồi phải không? Di cũng mỏi lưng rồi đó!
                    An dựng xe trước quán rồi bảo Di đưa chìa khoá để khoá xe lại. Di cười:
                    -Cái ổ khoá đó mất chìa từ lâu rồi. An cứ bỏ đại đi, xe cũ xì chẳng ai thèm lấy đâu!
                    An kéo ghế cho Di ngồi, cử chỉ ấy làm Di cảm động, gọi cho mình một ly cà phê đen rồi không hỏi mà gọi cho Di một ly đá chanh. Vừa cầm muỗng khuấy ly cà phê An vừa nói:
                    -Mấy lần An định ghé quán Di, uống thử cà phê của Di pha mà không dám.
                    Di ngớ ra, hỏi dồn:
                    -Bộ An biết chỗ Di bán sao?
                    -Biết chớ! An còn biết Di dọn hàng rất trễ, biết Di có cái áo mưa Ba đờ suy màu vàng, biết có lần Di té xe phải đi cà nhắc mấy ngày.
                    Di nghe hai dòng nước mắt dâng lên, cố hết sức kềm chúng lại, rồi hỏi An bằng giọng nghẹn ngào:
                    -Lâu chưa, ai cho An địa chỉ vậy?
                    -Cũng lâu rồi, nhờ đưa thơ giùm chị Ba nên biết.
                    -Sao lúc đó An không vào thăm Di?
                    -An cũng rất muốn mà không kềm được cơn run. Chỉ đưa cái thơ thôi mà bàn tay cứ run lẩy bẩy, cô em chồng của Di cứ nhìn chầm chập.
                    -Làm Di cứ thắc mắc từ đó đến nay.
                    -An có thấy Di chạy ra nhìn dáo dác.
                    -Lúc đó An ở đâu mà Di không thấy?
                    -An núp sau chiếc xe mì. Di vô nhà rồi An vẫn còn đứng mãi, đến chừng ông bán mì với bà vợ nghi ngờ. Họ nhìn An rồi nói tiếng Hoa với nhau, thế là An ngại quá, bỏ đi luôn.
                    -An có nhận ra Di liền hông?
                    -Có, dù Di ốm hơn lúc trước nhưng gương mặt vẫn không thay đổi. Di có bệnh gì không mà ốm quá vậy?
                    -Bây giờ là đỡ lắm đó, chớ có lúc Di còn chưa tới bốn chục ký!
                    Rồi Di kể cho An nghe cái lần Di sinh con gái đầu vừa được bốn tháng, cứ đến mười hai giờ trưa là Di sốt mê man. Ai cũng cho là Di bị bệnh Lao, đi chụp hình phổi, thử đàm, thử máu đều không phải. Di sụt gần cả chục ký lô, đến chừng đi y tế phường mới phát hiện viêm Amidal phải mổ.
                    Di lại kể cho An nghe cái điều mà bấy lâu nay Di giấu kín, không nói cho ai biết cho dù với chị Ba hay má:
                    -Di còn nhớ cái lần Di một mình đi mổ. Cái hạch sưng to quá nên phải chụp thuốc mê. Người ta kê cái lon inox cho máu chảy vào. Những người có thân nhân theo nuôi, người nhà phải cầm cái lon sát miệng bệnh nhân để máu trào ra đầy thì đem đổ liền. Di nằm mê man máu chảy ướt cả áo. Hôm ấy Di mặc cái áo bà ba màu trắng, khi xuất viện Di đón xích lô về không ai chịu chở vì tưởng Di điên. Bởi cái bệnh viện Di nằm sát bên nhà thương điên chợ Quán. Di phải đi bộ về, cũng may là nhà ở gần.
                    An nhíu mày nên Di phát hiện có mấy nếp nhăn giữa hai chân mày:
                    -Mấy người trong nhà không ai theo nuôi Di sao?
                    Di lắc đầu, An hỏi tiếp:
                    -Di có thân, có nói chuyện với ai không?
                    -Có cậu em trai út là có thiện cảm với Di thôi ! Cẩu còn nhỏ xíu hà, tánh hay mắc cỡ chỉ quanh quẩn bên Di chớ không có nói gì nhiều.
                    -Còn người kia, có quan tâm đến Di không?
                    -Cũng có, nhưng mê bạn nhiều hơn.
                    -Vậy Di còn sinh con nữa làm chi?
                    Di không trả lời cái câu hỏi gần như là trách móc đó.
                    Hai người khách ngồi trước đã ra về. An đứng lên đến gần người chủ quán nỏi nho nhỏ. Di thấy ông ta gật đầu rồi thay cái băng nhạc hòa tấu vào, không gian ngày xưa cũng theo tiếng nhạc ùa về. Di như đang ngồi trong lớp học vào những buổi chiều của năm lớp mười một. Thuở ấy, cứ vào khoảng ba, bốn giờ là quán cà phê đối diện trường lại cho nghe mấy bản nhạc Pháp thịnh hành. Di như thấy lại ánh nắng chiếu hắt lên hàng cây ven đường làm mấy đọt cây như được thấp sáng. Con đường vắng ngắt với một vài chiếc xe lôi không có khách uể oải lướt qua rất chậm, tiếng thước gõ lên bảng và tiếng đọc Anh văn rời rạc của cái lớp bên cạnh. Sân trường rộng vắng tanh trong giờ học, gió liên tục xô những chiếc lá chòng chành làm những đốm nắng trên lưng chúng rơi xuống, nằm run run trên mặt đất.
                    -Nhớ trường quá An ơi!
                    An không trả lời, móc túi lấy thuốc ra hút. Di hỏi:
                    -An cũng còn hút thuốc hả?
                    An nói như xin lỗi:
                    -Ráng nhịn sợ Di buồn mà chịu hết nổi.
                    -An cứ hút đi, Di bây giờ không còn cầu toàn như trước nữa. Có phải khi mình buồn hút thuốc thấy ngon lắm hả?
                    -Nó cũng cho mình sự phấn chấn và tự tin nữa. Nhờ nó mà An sắp nói với Di một điều mà An ấp ủ từ lâu lắm.
                    -Điều gì ?
                    -An thèm một lần được nắm tay Di, một lần được hôn Di, được ôm Di...
                    Giọng nói của An như kéo Di trở lại con đường đất gập ghềnh giữa hai rẫy Bắp trong cái buổi chiều của bảy năm về trước, lòng Di lại rưng rưng. An cắn môi, rồi đưa điếu thuốc lên rít một hơi dài. Di chià bàn tay trái của mình ra phía trước, nhìn sâu vào mắt An mà không nói một lời nào cả. An chụm ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa lại, chỉ cầm một ngón giữa trên bàn tay của Di mà mơn man rất nhẹ.
                     
                    Ngày xưa Di hay suy nghĩ những điều vô cùng vớ vẩn. Di tự hỏi ông thần tình yêu ăn cái thứ gì để có sức vác cái cung to đùng đi khắp thế giới và bắn lung tung. Bây giờ Di đã có câu trả lời cho riêng mình rồi: đó chính là thời gian. Trước sự hiện diện cuả ổng thời gian như bị nuốt chửng, khi Di nhìn lên cái đồng hồ treo sau lưng mình thì đã bốn giờ kém năm phút rồi. Di kêu bằng giọng hốt hoảng :
                    -Chết rồi An ơi, Di trễ giờ đón con rồi!
                    -Di phải đón lúc mấy giờ vậy?
                    -Bốn giờ.
                    -Con Di học ở trường nào?
                    Di nói tên trường và cả tên đường nơi nó toạ lạc. An trấn an Di.
                    -Từ đây đến đó chừng mười phút thôi, Di đừng có lo!
                    Rồi An nói tiếp:
                    -Để mai An mang theo đồng hồ.
                    -Không phải ngày mai An về An Giang nhận nhiệm sở sao?
                    -Trễ một ngày chắc cũng không sao? Chắc không ai nỡ trả lại trường. An còn nhiều điều chưa nói hết, còn chưa đưa cái lá thư mà An viết sẵn cho Di.
                    -Thư nào? An viết lâu chưa?
                    -Lâu rồi! Từ hơn ba năm trước, đáng lẽ An đưa chung với cái thư của chị Ba nhưng không dám. An vẫn còn cất chung với mấy lá thư Di gửi cho An hồi đó, Di có muốn xem lại không?
                    -Có! Di cũng muốn cho An xem bài thơ Di làm có An ở trỏng. Đây là bài thơ đầu tiên của Di sau bảy năm không dụng tới sách vở, thơ văn...
                    -Di có đọc thơ của Du tử Lê chưa, hay lắm! An có một tập thơ chép tay, để An tặng cho Di.
                    -Từ ngày lên Sài gòn đến giờ Di không có đọc bài thơ nào cả, nên những nhà thơ mới hầu hết Di đều không biết.
                    -Vậy thú vui của Di bây giờ là gì?
                    Di không trả lời An, Di không muốn cho An thấy sự cùn mòn trong cuộc sống của mình. Ngoài những nụ cười mang cho con và do con mang lại, Di hầu như chỉ có mấy lá thư của chị Ba để làm niềm an ủi. Lúc sau nầy chị Ba cũng thưa viết cho Di, có khi cả tháng trời Di mới nhận được một lá. Mấy lá thư ấy được Di cho chung vào cái túi tiền, mỗi ngày đi bán đều mang theo, đọc đến nỗi thuộc lòng từng lá một.
                    Đôi khi Di có cảm giác như mình đang sống trong một ngôi nhà không có cái cửa sổ nào hết. Không phải Di không có thời gian, Di chỉ không dám đối mặt với những điều gợi Di nhớ về những ngày tháng cũ. Di như đứa bé cuả ngày xưa vì vụng về đã làm vỡ một món đồ rất quí, phải chịu trừng phạt bằng cách ngồi trong góc tối và nhịn ăn cho tới chết.
                    Nắng chiều chiếu từ phía sau xô cái bóng của Di che hết lưng An. Di có cảm giác như An đang cõng Di trên lưng và bước rất nặng nhọc:
                    -An có mệt hông, sao đạp chậm quá vậy?
                    -Chắc tại đói bụng. Di có đói không?
                    Di lại kêu lên thảng thốt:
                    -Thôi chết rồi Di chưa đi chợ, không biết cho hai đứa nhỏ ăn gì đây?
                    An không trả lời và có vẻ hơi buồn. Gần đến trường Di kêu An dừng xe lại. An xuống xe rồi đột ngột cầm tay Di rất chặt và nói:
                    -Sáng mai An đợi Di ở đây, Di nhất định phải đến đó!
                    Rồi không đợi Di trả lời An quày quả bỏ đi liền.
                    Di đón con mà lòng đầy ray rức, hai đứa bé chắc sốt ruột lắm nên vừa thấy mẹ là chạy ùa lại liền, Di ôm cả hai đứa cùng một lúc, nói thầm trong lòng lời xin lỗi, rồi hỏi hai con:
                    -Tuị con muốn ăn bánh bao hay bánh mì thịt?
                    Bé Duyên đòi ăn bánh mì thịt còn cu Tèo thì đòi bánh bao. Di mua cho chúng cả hai thứ, vẫn còn thấy quá nặng lòng. Di mua thêm cho mỗi đứa môt bịt nước Mía nữa!
                     
                    Tối hôm đó ba mẹ con Di chơi với nhau rất vui. Di nằm co chân xích đu lơ cho từng đứa một, cu Tèo thích cảm giác mạnh nên cứ luôn miệng đòi:
                    -Cao nữa đi mẹ, mẹ hất con bay thật cao đi mẹ!
                    Bé Duyên thì ngoan lắm ít đòi hỏi, vừa ngồi lên chân mẹ mà thấy em đòi là nhường liền, tính giống hệt như chị Ba. Tèo thì giống Di hơn, hay tưởng tượng đủ thứ, còn nhỏ mà cái máu hài đã bộc lộ rồi.
                    Di ráng chìu con như để chuộc lỗi, đến chừng mệt quá mới bảo chúng:
                    -Ngủ thôi tụi con, mẹ đuối lắm rồi.
                    Cu Tèo phụng phịu rồi nói:
                    -Ngày mai mình chơi nữa nghe mẹ.
                    Di phải hứa và nghoéo tay cam kết cu cậu mới chịu nằm im.
                    Di nằm giữa hai con cứ luôn tay vỗ mông đứa nầy mấy cái rồi quay sang đứa kia. Hôm nay Di không nghĩ ra được câu chuyện mới nên kể lại một câu chuyện cũ, vậy mà cũng không tập trung nên chúng nó cứ ngắt lời:
                    -Không phải như vậy, hôm trước mẹ kể như thế nầy nè...
                    Dỗ con ngủ xong Di cứ nằm trằn trọc, những điều đè nén từ nãy, giờ mới bùng lên: Gương mặt An với tia nhìn thu hẹp như tia lửa từ cái mỏ hàn. cố tập trung tất cả sức nóng vào một điểm. Lòng Di như nồi súp đang sôi sùng sục trên bếp lửa, mọi cái bên trong đều đảo lộn. Có những thứ bị vuì sâu dưới đáy bây giờ mới vùng lên một cách mạnh mẽ đòi lại quyền sống cho mình. Trái tim lại lên tiếng nhắc cho Di nhớ đến sự hiện diện của nó, Di đặt tay lên ngực, nói thầm :
                    -Xin lỗi nghe, đúng là sống với tôi không dễ dàng gì. Hãy thông cảm bởi trong lúc nầy tôi không khống chế nổi những cảm xúc của mình. Rồi nó cũng sẽ qua nhanh thôi, cố mà chịu đựng giùm tôi nghe bạn!
                    Sáng hôm sau Di đưa con đến trường, còn đang phân vân đã thấy An đạp xe trờ tới. An mượn từ người bạn một chiếc xe đòn giông rồi biểu Di tìm chỗ gửi xe. Hôm nay An ăn mặc rất chỉnh tề, cái quần tây đen được ủi thật thẳng li cùng cái áo sơ mi tay dài màu xanh đậm, trông An khá lịch lãm làm Di đâm ra tự ti. Chợt tiếc sao mình không mặc cái áo Mút sơ lin màu tím mà chị Ba mới cho, mà mặc một bộ đồ đen thui trông buồn thảm quá!
                    An giục:
                    -Di nghĩ gì vậy? lên xe đi!
                    -An bây giờ trông lạ quá An ơi!
                    -Là tốt hay là xấu?
                    -Tốt.
                    An khoe:
                    -Có thấy An cao hơn Di gần một cái đầu hông!
                    -Đâu có nhiều dữ vậy, hơn nửa cái chút xíu hà.
                    -Bữa nay Di muốn đi những đâu?
                    -Tùy An đó, nhưng phải về sớm hơn hôm qua.
                    -Đừng lo hôm nay An có đeo đồng hồ nè!
                    An vừa nói vừa chìa cái đồng hồ màu đen đeo ở cổ tay trái ra cho Di xem, rồi hỏi:
                    -Hồi tối Di có ngủ được không?
                    -Cũng tàm tạm, còn An?
                    -An cũng vậy, chỗ Di đêm rồi có mưa không?
                    -Có, khoảng hai giờ có mưa lâm râm, đâu chừng nửa giờ là tạnh hà!
                    -Lúc đó Di làm cái gì ?
                    -Không có làm gì hết, chỉ cố mà ngủ thôi, còn An?
                    -An lấy cây đàn ra, đàn lại mấy bản ngày xưa mà Di hay ca đó! Rồi An ước chi mướn được cái nhà sát bên nhà Di...
                    Di vội ngắt lời:
                    -An tính chở Di đi đâu vậy?
                    -Di muốn đi đâu?
                    -Đâu cũng được càng ít gặp người ta càng tốt.
                    Rồi Di nói tiếp:
                    -Lúc Di còn nhỏ, ông ngoại cũng hay chở Di trên cái xe giống vầy, chạy trên mấy con đường cộ nhỏ vào những buổi chiều.
                    -Chi vậy?
                    -Con đường ấy có mấy cây bông Trang, bông Điệp mọc hai bên lề, ông hái bông để cúng.
                    An không nói gì, đạp xe nhanh hơn. Di lại nhắm mắt và bỗng nhận ra một mùi thơm nhè nhẹ từ lưng áo cùa An. Một niềm xúc động lại xâm chiếm lòng Di, ước chi An yêu cầu Di tựa đầu vào lưng An, quàng tay quanh eo An như ngày xưa ấy!
                    -Di đang nghĩ gì vậy? An hỏi
                    -Di đang nhớ con đường đất đỏ mà mình đi hồi đó!
                    -An đang chở Di đến đó nè, bộ Di hổng thấy sao?
                    Di mở choàng mắt, nhận ra một khung cảnh quen thuộc, hay xuất hiện trong trí của mình. Di kêu một cách vui sướng:
                    -Trời ơi! Ở Sài Gòn cũng có những con đường như thế nầy sao An?
                    -Có chứ, bộ Di chưa từng đi tới đây hả?
                    -Chưa! Nếu biết có chỗ này...Nếu biết có chỗ nầy...
                    Di nghẹn ngào không nói trọn câu, lẳng lặng ngắm căn nhà lá nằm giữa vườn cây ăn trái giống hệt như ở quê nhà. Một bầy gà con chừng mười ngày tuổi đang đi sau lưng mẹ, thỉnh thoảng chúng dừng lại mổ xuống đất rồi nghe tiếng mẹ gọi lại nháo nhào chạy tới cất tiếng chíp chíp như xin lỗi. Một cái võng treo giữa cây mận và cây sung, đang bỏ trống hơi đong đưa trong gió làm Di chợt thèm nằm lên hết sức. Mấy dây bầu, mướp leo chung trên một cái giàn rất thấp thả những cái trái dài thòn, lòng thòng gần sát đất.
                    -Sao ở đây người ta làm giàn thấp quá vậy An?
                    -Chắc họ sợ bị hái trộm, làm thấp như vậy chui vào khó hơn.
                    -Hổng phải đâu, chắc họ không có cây cao, to đó thôi!
                    Hai bên đường cũng có những cái thúng đặt trên ghế đẩu bày bán mấy bó rau muống, rau lang, cà tím...An dừng xe lại bên một thúng bắp còn toả khói mua bốn trái, lột vỏ một trái đưa Di, một trái cho mình rồi chạy xe một tay còn tay kia đưa bắp lên miệng cạp, được phân nửa An quay lại đưa cho Di nói:
                    -Đổi!
                    Di phì cười, đưa trái bắp của mình mới cạp được giáp một vòng cho An rồi nói:
                    -Vậy là Di chịu lỗ đó nghen!
                    Rồi hai đứa cùng nói một câu giống hệt:
                    -Nhớ mấy trái bắp ăn chung ngày xưa quá!
                     
                    Một nỗi buồn từ thinh không rơi xuống đậu trên vai Di, những vòng quay của bánh xe cũng dần chậm lại. Ăn hết mấy trái bắp Di lấy khăn tay ra lau rồi chuyền cho An, lau xong An không trả cho Di mà cho vào túi áo luôn, Di ghẹo:
                    -Cái tật cũ không bỏ sao ta? Trả khăn lại cho tui đi " Công tử Đạo chích"!
                    -Còn lâu! Hởi "Liêm xẹt cô nương".Ta sẽ giữ chiếc khăn nầy để làm tín vật!
                    -Trả cho Di đi, chiếc khăn đó cũ rồi. Để Di thêu cho An cái khăn mới.
                    -Chừng nào có cái mới, An sẽ trả cái khăn nầy lại cho Di.
                    Xem ra bây giờ An "chì" hơn ngày xưa nhiều quá, Di nhìn An, lắc đầu rồi hỏi:
                    -An có đem mấy bức thơ theo hông?
                    -Có.
                    -Để đâu, sao Di hổng thấy?
                    An đưa tay vỗ vào bụng:
                    -Trong nầy nè! Có tập thơ nữa.
                    -Sao không cầm ra ngoài mà nhét ở trỏng?
                    -Để tránh mấy thằng bạn, tụi nó đang nghi ngờ, bắt gặp cái nầy tụi nó chắc không để An yên đâu!
                    Dừng lại một chút An hỏi:
                    -Người đó có hỏi gì Di không?
                    -Hổm rày y đi vắng?
                    -Đi đâu vậy?
                    -Di không biết, Di không có hỏi.
                    -Chừng nào về?
                    -Di không biết?
                    -Di có hạnh phúc hông?
                    -Di không biết?
                    -Sao cái gì Di cũng không biết hết vậy?
                    -Di cũng không biết nữa ... Mà Di cũng có đem cho An bài thơ của Di nè!
                    -Đâu đưa An xem.
                    -Đang chạy xe mà coi cái gì, té sặc máu bây giờ, để kiếm chỗ dừng lại rồi hãy xem.
                    -Vậy mình ghé vô chỗ nầy được không?
                    Một cái quán sát lề đường bán tạp hoá, có kê mấy cái bàn thấp, có mấy đứa con nít bưng mấy cái tô nhựa nho nhỏ ngồi ăn. Di lắc đầu:
                    -Kiếm cái quán nào thật là ế đi, như cái hôm qua vậy đó!
                    -Vậy mình trở lại đó nghe?
                    -Có xa lắm hông?
                    -Cũng hơi xa, nhưng mà đâu có sao!
                    Rồi An vòng xe quay trở lại, bánh xe cán lên một hòn đá to, nẩy bật lên. Di vội chụp cứng cái eo của An rồi rút tay lại liền. An vói tay ra phía sau cầm tay Di đặt lại vào chỗ cũ, rồi cứ giữ yên như vậy mãi cho đến khi ra đường lộ lớn mới chịu buông ra.
                    Cái quán hôm qua đang đông khách, xem chừng hôm nay Di không may mắn lắm. An hỏi:
                    -Quán đông quá, hay mình đi tiếp nhe!
                    -Tuỳ An đó!
                    An chạy luôn gần tới cuối đường, một quán cà phê hơi vắng nhưng lại gần ngã tư nên xe hay dừng khi đèn đỏ. An rẽ tay phải rồi tiếp tục chạy nữa, bỗng đột ngột thắng xe lại rồi vừa cười vừa nói:
                    -Đúng là ý trời rồi!
                    Di nhìn thấy một ngôi nhà ngói cũ, phía trước có cái sân rất rộng, bảng tên bằng gỗ rất đẹp gắn trên thân cây Sao trước nhà trùng với tên mình. Dưới những tàng cây có mấy cái bàn trải khăn trắng và những bình hoa trang trí trên đó, nó đang không có khách. Di hơi ngại:
                    -Chỗ nầy có mắc hông An?
                    An vỗ tay vào túi nói:
                    -Đừng lo An mới lãnh lương.
                    -Đi học mà cũng có lương sao ?
                    -Có chớ!
                    An khóa xe rồi xâm xâm đi vào. Di ngại hết sức nhưng cũng lủi thủi đi theo, giá cả chỉ là cái cớ, điều Di sợ là ở những chỗ như vầy ngày xưa chồng của Di hay đưa Di đến. Di không dám nói vì sợ An tủi thân.
                    An đi đến cái bàn cuối cùng, sát hàng rào dưới gốc một cây cao cao có những chùm hoa cánh dài màu xanh nhạt toả hương thoang thoảng, Di kêu lên thích thú:
                    -A! Bông Công chúa!
                    -Di biết cái bông nầy hả?
                    -Biết chớ! Vườn ngoại Di hồi đó có trồng mà.
                    Một người con trai ăn mặc rất lịch sự mang cái menu đến. An vẫn gọi cà phê đen rồi chuyền cái thực đơn qua cho Di. Di không nhìn vào mà gọi cho mình một ly trà đá.
                    -Cái vườn nầy làm Di nhớ ngôi vườn nhà ngoại quá!
                    -Di có về thăm quê thường không?
                    -Sáu năm, ba lần.
                    -Có đi ngang qua Châu Đốc không?
                    -Một lần, chưa tới nhà mợ là tim Di đã đập túi bụi rồi. Di có nhìn vào con hẻm nhỏ, nó vẫn vắng teo như hồi trước.
                    -Sao không vô thăm An?
                    Di chỉ lắc đầu mà không trả lời. Rồi Di lấy trong túi xách ra một cuốn tập đưa cho An. An cũng rút từ thắt lưng một cái bì thư lớn đưa cho Di, cái bì thư nóng và ẩm. Di kẹp nó giữa hai bàn tay một lúc rồi mới mở ra, bên trong là một quyễn tập và mấy lá thư được cột dính lại bằng một sợi dây thun. Di đọc cái thư của An trước. Cái thư nầy An viết sau khi lên Sài gòn tìm Di không gặp, nước mắt cứ rơi lộp độp lên trang giấy. An móc cái khăn đưa lại cho Di. Di cầm lấy rồi vừa lau nước mắt vừa nói, cái câu xin lỗi muộn màng ấy, bị những tiếng nấc của Di ngắt thành từng từ một:
                    -Di...xin...lỗi...An!
                     
                    An bắt đầu kể cho Di nghe về cuộc sống của An từ ngày không có Di. An kể cho Di nghe về chùm ổi An hái từ nhà ngoại để dành cho Di mà không kịp đưa, rồi trùm mền lại mà cất trên giường ngủ. Mang qua Phú Lâm cũng không gặp mặt, không dám gửi cho má Di nên lại phải mang về.
                    An giải thích cho Di biết tại sao mình chụp hụt trái vú sữa, để rồi đêm đó mơ thấy nằm chung với Di trên võng.
                    An lật tập thơ có dấu vân tay màu tím ở trang cuối, nói cho Di biết đó là vết mực dính trên bàn học của Di. An thấm vào tay rồi in vô để làm kỷ niệm.
                    An cũng cho Di biết cái tên" Đường tình hoa đỏ" mà An đặt cho con đường đất ngày xưa và từ ngày Di đi, mỗi chiều An đều đạp xe qua đó. Và về một lần An nhói tim khi đang ngồi trong cái quán cà phê bên kia đường, thấy Di nhìn đăm đăm như thể đã nhận ra An...
                    Di cũng nói với An về cái tai nạn mà Di gặp phải khi đi dạy kèm, đó cũng là lần đầu tiên Di đã gọi tên An trong vô thức. Về cảm giác của Di khi nằm trong phòng nghe An nói chuyện với má. Về những giấc mơ thấy mình còn đang đi học cứ đánh thức Di vào lúc nửa đêm. Về cơn khóc vào buổi chiều trong bệnh viện khi nhìn những đứa bé chơi đùa, màu áo trắng và những bông hoa phượng đỏ. Về cái thói quen mới có sau nầy là hay đột ngột gọi tên An...
                    Di trao cái khăn tay lại cho An rồi nói:
                    -An còn chưa hôn Di phải không? An có muốn...
                    Đôi môi An đáp lên môi Di. Nó êm và rung nhẹ như đôi cánh bướm. Một cái hôn trong trẻo không dục tính, sao làm Di nghe nhoi nhói ở một nơi rất sâu trong cơ thể. Di hỏi khi vẻ mặt An cho thấy An còn đang váng vất:
                    -An có biết đàn bà chưa vậy?
                    An lắc đầu:
                    -Nghe mấy người bạn kể về chuyện ấy An thấy ghê ghê làm sao!
                    -Nhưng chắc An có đọc sách hoặc xem qua phim rồi phải hông?
                    -Không nhiều như Di nghĩ đâu!
                    An định nói tiếp một điều gì đó, Di lật đật đổi đề tài:
                    -Ngày mai giờ nầy chắc An đã ở Long Xuyên rồi há?
                    An không trả lời, cả hai nhìn nhau một lát rồi lại cúi đầu đọc thơ. An ngẩng đầu lên trước và nói:
                    -Sao Di viết ngắn quá vậy, sao không viết cho kín cuốn tập luôn, bỏ giấy trống uổng quá!
                    -An thích câu nào nhất? Di hỏi
                    -Câu nào An cũng thích hết, còn Di?
                    -An hỏi về cái gì? về bức thư của An hay về tập thơ?
                    -Tập thơ.
                    -Chắc An thích Du Tử Lê lắm hả ? Di thích Phạm Thiên Thư hơn, nhất là bài nầy, rồi Di đọc:

                    Đêm nghe mưa đổ
                    Động mái liều thơ
                    Dưng nhớ người xưa
                    Áo vàng thuở nọ

                    Người tình nho nhỏ
                    Nhỏ mãi trong ta
                    Như chùm hạ hoa
                    Buồn ơi đốt thuốc...

                    Lần trang sách nhòa
                    Nầy những đóa hoa!
                    Ép từ hạ cũ
                    Tưỡng em tóc rũ
                    Trong dòng mưa sa.

                    Rồi hai đứa lại cãi nhau để bảo vệ lập trường của mình, cho đến khi nghe tiếng chuông đồng hồ từ trong nhà vang ra gõ mười lăm tiếng. Di đứng lên:
                    -Mình về thôi An
                    -Ngồi thêm chút xíu nữa đi Di!
                    An nói bằng cái giọng của ngày xưa, ở những giây cuối cùng trong những lần hẹn hò ngày ấy.
                    -Hôm nay Di phải về sớm!
                    An hỏi như một lời van lơn:
                    -Mình còn gặp nữa không Di?
                    -Di không biết, Di sợ lắm!
                    Rồi Di đứng bật lên. An cũng đứng lên theo, vói hai tay nắm chặt hai bàn tay của Di, mắt An buồn còn hơn lời từ giã. An nói:
                    -Cười đi Di. Cười bằng cả đôi mắt, bằng cả khuôn mặt đi. Cười giống như ngày xưa ấy!
                    Di cố cười thật tươi, hai giọt nước lăn qua môi, vị mằn mặn trôi từ từ vào cổ họng.
                     
                    Thời kỳ nầy Di trở nên vô cùng đa cảm. Những sự việc ngày trước trôi tuột qua mắt, bây giờ bỗng gieo vào lòng Di biết bao cảm xúc. Một chiếc lá rơi trên vạt áo cũng làm Di lâng lâng, như thể đây là món quà mà cây cố tình gửi tặng. Một làn gió vờn trên má cũng làm Di rung động khi tưởng tượng cái làn gió kia từ nơi ấy đến, mang theo hơi thở và mùi hương của ai đó. Chỉ cần thấy một đôi chở nhau là Di lại nghĩ đến An, hình ảnh An cứ bàng bạc khắp nơi. Hơn một lần Di đạp xe muốn hụt hơi chạy theo một người phía trước vì họ có một mái tóc, một bờ vai, một màu áo nhớ.
                    Hình như năm nay mưa nhiều hơn và kéo dài hơn các năm trước. Di đã mua được một cái máy caset cũ và một số băng nhạc mà mình yêu thích. Mỗi khi giật mình tỉnh giấc trong đêm là Di lại mở nhạc lên nghe. Những bài hát như một lời an ủi, như từ nơi xa xôi ấy An đang bật tay lên phím đàn để gửi đến Di những giai điệu mượt mà. Sau những phút giây đắm mình trong nỗi nhớ ấy lòng Di lại ăn năn ray rức. Di lại cố đền bù cho con. Như thể tình thương của Di là chiếc bánh, hể lỡ chia cho An phần lớn rồi, thì phải cắt cho con một phần còn lớn hơn nữa.
                    Thỉnh thoảng Di cho con đi sở thú hoặc làm những món mà con ưa thích, hình như con nít đứa nào cũng khoái ăn sườn nướng. Di hay làm món cơm tấm cho con ăn và lần nào cũng trộn thêm một tô dưa mắm ăn theo kiểu quê nhà, chồng của Di cứ cằn nhằn:
                    -Ăn cái kiểu gì lạ vậy?
                    Nhất là khi thấy Di ăn bắp với mắm sống là y cứ rùng mình như thể Di là người man rợ vậy.
                    Di vẫn chưa dám kể cho chị Ba nghe về việc Di gặp lại An, Di sợ chị lo và buồn cho Di. Di sợ sẽ nghe cái câu mà nhất định chỉ sẽ hỏi là Di tính làm sao? Nó sẽ nhắc cho Di nhớ hoàn cảnh hiện tại của mình và tước mất niềm vui mà Di đang vay mượn.
                    Di mua vải may áo cho con, mua dư ra để làm cho An một chiếc khăn tay như đã hứa. Cái khăn màu xanh da trời rất nhạt. Di thêu lên ấy một hàng chữ "CTĐC-LXCN", khăn làm xong đã lâu mà không có dịp đưa cho An.
                    Rồi một ngày trên đường đi bán về Di nghe một tiếng gọi vô cùng thân thuộc "Di". Di quay ngang khi xe còn đang chạy. Chiếc xe An trờ tới vậy là Di té, đâu có phải tại té đau mà Di chảy nước mắt ào ào...An vội nhảy xuống xe đỡ Di đứng dậy, cái bánh xe trước cong vòng phải đem chỉnh. Lại có cơ hội cho An chở Di vào một cái quán ở gần đó. Vui và sợ làm người Di cứ "đánh bò cạp", hai hàm răng cứ chạm vào nhau. An nhìn Di rồi nói:
                    -Di đừng sợ nữa, thấy Di như thế nầy An đau lòng lắm!
                    Di lắc đầu cố nói:
                    -Không...phải...sợ...đâu...Di...vui...mà.
                    An đưa tay ra muốn cầm tay Di để trấn an rồi không dám. Di cố hít một hơi thật sâu rồi thở ra từ từ, làm được vài lần thì Di tim đã đập bình thường trở lại, An hỏi:
                    -Đỡ chưa Di?
                    Di gật đầu, An khuấy ly nước chanh cho tan đường rồi đưa cho Di và nói:
                    -Uống từ từ thôi.
                    Chờ Di uống xong ly nước An nói:
                    -Hồi nãy cái mặt của Di xanh lè hà, An cứ sợ Di xỉu.
                    Di cười cho An yên tâm rồi lấy trong túi xách cái khăn đưa cho An. Giọng An đầy ngạc nhiên và vui thích:
                    -Sao biết gặp An mà đem theo vậy?
                    -Di để sẵn trong túi.
                    An áp cái khăn lên mũi hít một hơi dài rồi nói:
                    -Thơm quá!
                    -Xạo! có xức cái gì đâu mà thơm.
                    -Có mùi hai bàn tay của Di.
                    An mở khăn ra xem, đưa tay sờ lên hàng chữ rồi nhìn Di, cái nhìn làm Di quá xốn xang nên vội cụp mắt xuống. Di tằng hắng một cái rồi hỏi:
                    -An về được mấy ngày?
                    -Một ngày thôi, chút nữa là An phải đi liền, tưởng không kịp gặp rồi, mà Di té có đau không?
                    -Cái xe của Di thấp chũm hà! Nhờ vậy nên té hổng có đau.
                    -Di có nhớ An không?
                    Di gật đầu để thay lời đáp.
                    -Di có thường ăn bắp không?
                    Di lại gật đầu.
                    -Ngày nào An cũng ăn một trái
                    -Bắp ở quê mình ngon lắm mà rẻ nữa.
                    -Di có biết mấy câu thơ nầy không :"Hạt ngô thơm mùi sữa, nở đều như răng em, anh ghé môi cắn vỡ, ăn mãi chưa đã thèm..."
                    Di lại gật đầu thêm lần nữa. An nói:
                    -Thôi đừng gật đầu nữa Di ơi! Nói đi, nói nhiều nhiều để khi về An ôn lại.
                    Di suy nghĩ một chút rồi hỏi:
                    -Ai nấu cơm cho An ăn vậy?
                    -An ở nhà tập thể, bốn năm thằng chung một phòng thay nhau nấu ăn.
                    -Có ngon không?
                    -Cũng tạm được, không có ngon bằng cơm của Di đâu!
                    -Lại xạo nữa, An có ăn đâu mà biết!
                    -An biết chắc như đinh đóng cột. Ước gì hôm nào Di ghé thăm rồi nấu cho An một bữa.
                    Di ngắt lời:
                    -An thích món gì?
                    -Canh khoai ngọt ăn với dưa mắm và cá muối chiên.
                    -Di cũng khoái mấy cái món đó nữa.
                    An nói bằng một giọng ưởm ờ:
                    -Mai mốt Di cho An ăn cái món đó hoài cũng được.
                    Câu nói đùa của An, như một làn gió làm làn da của Di se lại. An móc trong túi ra một lá thư để trần trao cho Di rồi nói:
                    -Di cất đi để về nhà hãy đọc.
                    Rồi An móc từ túi áo bên kia một cây son đưa Di. An cười và nói hơi ngường ngượng:
                    -Tặng cho Di nè! Tháng lương đầu của An đó!
                    Di mở cây son ra xem, nó có màu cam đỏ. An giục:
                    -Di thoa đi, cho An xem có hợp với Di không.
                    -Không có cái mặt kiếng làm sao thấy đường mà thoa?
                    -Kệ nó, lem một chút cũng đâu có sao, chìu An một chút đi mà !
                    Di tô một lượt thật nhẹ rồi hỏi:
                    -Được chưa, vừa lòng An chưa?
                    An nhìn Di hồi lâu, đưa lại cái khăn tay rồi nói:
                    -Di chậm môi vào đây cho An đi.
                    Di áp môi lên phía trên hàng chữ rồi trao nó lại, An cầm lấy rồi áp môi mình lên cái dấu son mờ mờ trên đó !
                    Về đến nhà Di không thay đồ mà lấy cái thư ra đọc liền, nó là một bài thơ của An làm và không có tựa:

                    Chia tay nhau, ba giờ, buồn tái tê
                    Đêm, một mình với ly cà phê
                    Sáng, đi lang thang...
                    Rồi lén đến rình em dọn bán
                    Nhìn em nhấc cái bàn
                    Anh nước mắt hai hàng
                    Ước gì... Em nhỉ
                    Em dẹp quán...anh đi...

                    Trong đầu mãi nghĩ
                    Giật mình nhìn kỹ
                    Lại thấy cầu chữ Y

                    Chân bước phân vân, lòng hỏi lòng
                    Qua mấy dãy phố đông
                    Anh ghé vào quán nhỏ
                    Gọi ly rượu
                    Màu rượu đỏ...sóng sánh... lung linh
                    Ngồi một mình, kỳ cục
                    Đốt điếu thuốc, khói thuốc đục ánh đèn
                    Nhớ em quay quắt

                    Di!
                    Sáu năm rồi không gặp
                    Hai đứa cùng xanh xao
                    Hai đứa cùng hư hao
                    Cùng thở dài như nhau

                    Sáu năm, mình gặp lại
                    Hai đứa vẫn hư thân
                    Đứa dối chồng, con
                    Đứa cãi cha, cãi mẹ
                    Tội lỗi ngập đầu

                    Thôi thì nguyện cầu
                    Mai mốt chết
                    Thà xuống địa ngục, để được ở chung hang
                    Còn hơn lên thiên đàng, mà không cùng một chỗ
                    Bớ nầy ông Phật tổ, Thích Ca Như Lai!
                    Nghe đồn ngài
                    Phép thần thông nhét đầy một túi
                    Mà sao
                    Có mắt cũng như đui
                    Tụi tôi, thương nhau vậy đó!
                    Sao chẳng thấy chẳng hay
                    Chẳng chịu xòe bàn tay, hóa thành năm trái núi
                    Nhốt hai đứa tôi vào hang tối muôn đời
                    Để sáu năm rồi, mỗi đứa vẫn một nơi
                    Giờ gặp lại mà cũng như chưa gặp
                    Dẩu nói muôn nghìn lời, cũng vẫn nhà ai nấy ở
                    Cho nên...
                    Buồn ! Trăm ngàn phút kéo dài
                    Chẳng biết mai nầy, phải làm sao?
                    Đau, cùng khắp
                    Thấy trái bắp, nhớ mùa ngô
                    Đọc bài thơ, buồn da diết
                    Nuối tiếc, biết làm sao!?
                     
                    oOo

                    -An sắp đi nghĩa vụ rồi Di ơi!
                    Di đứng chết điếng rồi lắp bắp:
                    -Chừng nào?
                    -Khoảng hơn tuần nữa.
                    -Sao mà đi gấp quá vậy An? Sao cho Di biết trể quá vậy?
                    -Biết sớm Di càng buồn nhiều hơn chớ có ích gì.
                    Thấy Di cứ đứng lặng người, An kéo tay Di rồi nói:
                    -Di ngồi xuống đi, đừng có buồn An đi xong rồi sẽ về mà!
                    -Chừng nào mới xong?
                    -Ba năm nữa.
                    -Lâu quá An ơi! Sao nước mình hết chiến tranh rồi mà còn đánh giặc giùm thiên hạ chi vậy trời!
                    An làm thinh, rồi cố nói đùa cho Di cười:
                    -Di ở nhà đừng có uống sữa nhiều quá mà dư chất vôi rồi biến thành hòn vọng phu đó nghe!
                    Di không cười nổi mà trách:
                    -Rầu thúi ruột mà còn giỡn, rồi Di sống làm sao đây?
                    Ấn vai cho Di ngồi đàng hoàng trên ghế. An ngồi lên cái ghế đối diện, nhìn Di hồi lâu rồi nói bằng một giọng bùi ngùi:
                    -Phải chi mình đừng có gặp lại nhau thì Di đâu có buồn há!
                    -Bộ An hối hận vì gặp lại Di hả?
                    -Di không hiểu An sao mà còn hỏi như vậy! Di có biết điều an ủi An lúc nầy nhất là đã được gặp lại Di, chớ nếu không chắc An chết cũng không nhắm mắt nổi.
                    Di ngắt lời bằng một giọng hốt hoảng:
                    -Đừng có nói chuyện không hay An ơi, mà An có phải đi qua biên giới hông?
                    -An cũng chưa biết nữa.
                    -Di thấy má chồng bỏ tiền ra lo cho mấy người con trai nên không có ai đi lính hết, sao An không thử...
                    -Trễ rồi Di ơi!
                    An không ngồi đối diện nữa mà kéo ghế ngồi sát bên Di rồi cầm bàn tay Di mà bóp nhè nhẹ. Cái quạt máy xoay từ từ thổi bạt mái tóc của Di phủ khắp mặt của An, An đưa tay vén, giữ lại rồi nói bằng một giọng ngậm ngùi:
                    -Tóc Di đẹp lắm Di có biết không?
                    -Đó là ngày xưa, bây giờ tóc Di thưa và mảnh lắm!
                    -Tóc của Di gọi là tóc mây đó, "tóc mây sợi vắn sợi dài...", Di ơi ! Di có thích mình chẳng lấy được nhau để thương nhau đến ngàn năm không hả Di?
                    -Như vậy thì đẹp nhưng mà buồn lắm, An có thích như vậy không?
                    -An thích mình lấy được nhau mà vẫn thương nhau.
                    Nước mắt Di đã diễu hành khắp mặt. An thở dài rồi nói:
                    -Sao lần nào gặp nhau An cũng làm cho Di khóc hết, mà An thì chỉ muốn làm cho Di cười. An thật là vô tài, bất lực.
                    -Đừng nói vậy, Di mới chính là người có lỗi. Di đã không tin An, nghi ngờ cả tình cảm của mình nên cả hai mới khổ. Mà đâu chỉ có hai đứa mình khổ đâu, đây rồi cả gia đình cũng khổ lây nữa, rồi hai đứa con của Di..
                    Nói đến đây Di lại nghẹn ngào, An bóp tay Di mạnh hơn rồi nói:
                    -Di biết không, ông bà mình có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai". Tụi mình đã quá bỉ cực rồi nên ngày thới lai chắc chắn sắp đến gần. Di hãy ráng đợi An nha ! Ba năm nữa An về mình sẽ gặp nhau đúng cái nơi nầy. Di có nhớ ngày đầu tiên mà mình gặp lại nhau là ngày mấy không? Mười tây tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi mốt, vậy là gần một năm rồi đó.
                    -Ba năm nữa liệu An có kịp về không?
                    -An nhất định sẽ có mặt tại đây đúng ngày hôm đó. Di hãy tin An, từ hôm nay đến ngày ấy nếu Di không ngại thì An sẽ viết thư đều đặn cho Di.
                    -Đừng An, rủi bị bắt gặp chắc Di chết quá. An đừng lo, ở nhà mỗi ngày Di sẽ cầu xin ơn trên phù hộ cho An được yên lành. Biết đâu khi An về Di cũng đã được tự do, đến ngày mười tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi lăm, Di sẽ ngồi đúng ngay chỗ nầy để đợi An.
                    Lần nầy không chờ Di giục, đúng bốn giờ An đứng lên liền, cái quán mấy lần trước ế nhệ mà hôm nay khách vô sao đông quá ! An vừa đi vừa trách thầm ông trời quái ác, không cho An được hôn Di một cái hôn thật sự trước khi đi, thật đậm đà đúng như lòng An mong muốn. Có lẽ biết nỗi ẩn ức của An nên vừa ra khỏi đường một lát là trời mưa xối xả. Sợ Di rước con trễ An không dám dừng lại để đụt, chỉ ghé cái cửa hàng hợp tác xã bên đường mua một cái áo mưa. Hai đứa vừa trùm áo mưa xong, An chưa kịp yêu cầu Di đã vòng tay ôm lấy eo và úp mặt vào lưng An. Nước mưa chảy từ cổ xuống và cả nước mắt của Di nữa cứ ngấm dần làm cái áo ướt đẩm, dính sát vào lưng
                    Hai tháng sau Di bị bệnh nặng phải nằm một chỗ, cũng may là đúng mùa hè, bé Duyên và cu Tèo được gửi về cho chị Ba và má trông giùm.
                    Chị Ba lại viết thơ điều đặn cho Di, chị khen Duyên ngoan, hiền còn Tèo thì thông minh và rất ư lém lĩnh.
                    Nghỉ hè chị Ba mở lớp vừa dạy kèm vừa bán bánh kẹo, tập vở... cho học trò, học phí không phải đóng hàng tháng mà là hàng ngày.
                    Chị Ba kể mấy đứa học trò quê mình hiền và chân thật lắm! Bữa nào không có tiền là tụi nó thiếu chịu, mấy hôm sau mới trả. Có đứa thiếu nhiều quá chị nhớ không xuể vậy mà tụi nó không quên cho dù chỉ một ngày, có tiền là trả hết cho chị liền. Có đứa nghỉ học luôn vậy mà khi có tiền cũng mang trả đủ.
                    Mỗi ngày Duyên có nhiệm vụ cầm cái hộp đi gom tiền từng đứa, ra giờ chơi thì bán bánh kẹo cho chị. Chị nói chắc Duyên có tay buôn bán, từ ngày có Duyên hàng bán đắt quá chừng!
                    Duyên được học lóm nên đã biết sơ sơ các mặt chữ, rồi nhìn theo bức thư chị Ba viết sẵn mà viết thư cho mẹ. Lần đầu nhìn nét chữ của con Di sung sướng quá, chưa đi học mà viết như thế nầy là hay lắm rồi.
                    Tèo thì kết bạn rất đông, dám rủ nhau xuống sông để tập bơi, bị miễng chai cứa chảy máu mà không khóc.Trò chơi nào cũng tham gia, khoái trèo cây, tắm mưa, đu xe lôi y như Di ngày xưa.
                    Di nằm trên giường đúng ba tháng, không đi đứng được nên cơ chân teo lại, hai ống cẳng ốm nhom, nhỏ như hai cái que. Di thấy cơ thể mình giống hệt củ khoai lang được hai chiếc đủa cắm vào. Đêm đêm Di lại mơ thấy mình chạy trên đồng hoặc bơi trên sông. Một lần Di mơ thấy mình nhảy cò cò trên những bậc thang nhà ngoại. Di cứ co chân nhảy lên từng nấc một và ông ngoại thì đứng ở bậc thang trên cùng đang dang tay đợi sẵn để ôm Di. Vậy mà không hiểu sao khi Di càng cò lên cao thì ngoại càng xa dần...
                    Cơn bịnh hiểm nghèo như một dòng sông chia cuộc đời của Di thành hai bờ riêng biệt. Cái bến bỏ lại sau lưng, lỡ làng và cam go nhiều quá nên Di cố không ngoái lại. Chào từ biệt nỗi buồn, Di quyết không để cho mình rơi nước mắt nữa. Vẫn nhớ An nhưng lòng Di đã thưa dần niềm khoắc khoải. Di biết mình không có dũng khí để vượt qua vô vàn trở ngại. Di đã khao khát tình cha nên không muốn con mình cũng thế. Mối tình của Di như những cánh Phượng của mùa hè, nó được nuôi dưỡng bằng những giọt sương tinh khôi, bằng ngọn gió hiu hiu và màu sắc được lấy từ từng tia nắng. Thức ăn vô hình nên nó cũng không có thực thể, đâu thể nào nắm được trong tay! Và mùa hè rồi cũng qua đi...
                    Di tin rằng luật bù trừ được áp dụng trong mọi tình huống, mình còn sống được với con là may mắn lắm, nên phải đánh đổi bằng một điều quí giá tương tự. An là cái vé trúng độc đắc mà Di đã có trong tay. Di đã quá hờ hửng mà quên đi mất, chừng phát hiện thì đã hết thời gian nhận giải. Thôi! hãy cho nó thành khói mà bay đi, để không phải mỗi lần nhìn là một lần tiếc nuối.
                    Dù đã nhủ lòng như thế nhưng sao khi trời mưa Di lại nghe lòng mình sũng nước. Dù đang ở trong bệnh viện Di vẫn như ngửi lại được cái mùi nước mưa, nước mắt hoà cùng mồ hôi trên lưng áo An ngày ấy! Chúng phảng phất quanh Di. Tiếng huýt sáo bài "Đưa em về dưới mưa" của An lại vang lên khuấy động cả lòng Di:

                    Đưa em về dưới mưa
                    Nói năng chi cũng thừa
                    Như mưa đời phất phơ
                    Chắc ta gần nhau chưa?
                    ....

                    Rất nhiều lần Di tự hỏi không biết bây giờ An đang ở đâu? làm gì? Tận đáy lòng Di cầu mong cho An được bình yên và thôi đừng thương Di nữa.
                    Ngày mười tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi lăm ấy, Di trở lại cái quán năm xưa, ngỡ ngàng làm sao cái quán ấy nay đã dẹp. Người ta thay món cà phê bằng vật liệu xây dựng.
                    Di ngồi trên yên của chiếc xe đạp mini, chống một chân xuống, đến chừng mỏi quá thì lót dép ngồi bệt trên vĩa hè. Chiếc xe đạp của Di y như một người bạn vô cùng tận tụy. Nó bây giờ đã cũ thêm một chút, nước sơn đã tróc hết, vành xe và những cây căm đã sét sẹt. Di vẫn không sơn và thay thứ mới, đã có một lần tay An chạm vào nó, nên đôi khi sờ vào Di có cảm giác như hơi ấm từ bàn tay An vẫn còn nguyên trên đó, đang từ từ chuyền qua tay Di.
                    Ngày hôm ấy đưa con đi học xong là Di đến liền chỗ hẹn, lòng Di lại nôn nao đến độ Di cũng cảm thấy bất ngờ. Di đứng quay mặt ra đường, kéo thấp vành nón xuống để che bớt một phần hai gương mặt, cố không bỏ sót từng cái lưng, cái mặt của những người qua đường. Di nhìn chòng chọc đến nỗi có người lấy làm lạ chạy qua rồi còn nhìn lui trở lại. Chẳng có ai dừng xe và đến bên Di, chỉ có những chiếc lá cứ rơi rơi đều đặn, có chiếc bám vào nón, vào áo của Di như trao một lời an ủi...

                    Di đã giữ đúng lời hứa, coi như Di đã không phụ lòng An lần nầy. An không đến vậy là vết thương trong An đã thành sẹo, cảm giác thanh thản và nỗi buồn cùng lúc xâm chiếm lòng Di. Đến bốn giờ chiều Di bỏ ra về, trùng hợp làm sao, trời nổi giông rồi mưa bắt đầu rơi nặng hạt. Di ngước mặt lên trời, gào vỡ ngực bằng những lời vô thanh:
                    -Mưa ơi! hãy tuôn hết nước xuống đây! Hãy rửa sạch giùm đời tôi đi !

                    0O0 HẾT 0O0
                     
                     
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2019 08:52:41 bởi Lâm Du Yên >
                    #10
                      Ct.Ly 21.10.2019 21:18:57 (permalink)
                      #11
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9