Một thời tranh đấu - Hồi ký lịch sử
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
frank 14.05.2022 03:08:00 (permalink)
Một Thời Tranh Đấu

Hồi ký lịch sử 1942-1954


Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư


Mục Lục


1-Phát Diệm, quê hương tôi, một địa linh, nhân kiệt và kỳ quan

2-Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc

3-Trận đói kinh khủng năm Ất Dậu

4-Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lập chiến khu

5-Mặt trận VNCGCQ chống Pháp chống Nhật

6-Việt Minh cướp chính quyền

7-Lễ trao kiếm tượng trưng thần quyền

8-Tranh luận với Phạm Văn Đồng về lý thuyết xã hội Công Giáo và học thuyết cộng sản vô thần

9-VNCGCQ và Mặt Trận Việt Minh sau cách mạng mùa thu 1945

10-Tổ chức và võ trang các đoàn thể CGCQ

11 Việt Minh chủ trương Giáo Hội Việt Nam tự trị

12-Chiến tranh tuyên truyền giữa CGCQ và Việt Minh

13-Giám Mục Lê Hữu Từ, thày dòng khổ tu

14-Giám Mục Lê Hữu Từ, cố vấn chính phủ

15-Phát Diệm, Bùi Chu chống tiêu thổ vá tản cư

16-Các đảng phái quốc gia tranh đấu sát cánh với Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm

17-Những cuộc xô xát đẫm máu xảy ra tại Phát Diệm

18-Việt Nam Quốc Dân Đảng và Phát Diệm

19-Thuyền nhân đầu tiên trong lịch sử tị nạn cộng sản

20-Thoát khỏi tay xích quỷ, sa vào quỹ đạo đau khổ của bạch quỷ

21-Hãnh diện về cảnh vào tù ra khám dưới thời thực dân Pháp

22-Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

23-Mấy ai là kẻ không thầy. Thế gian thường nói đố mày làm nên

24-Tinh thần chống cộng mạnh hơn bao giờ hết

25-Cha Tổng Hoàng Quỳnh, một linh mục, một đồng chí cách mạng

26-Quân Pháp đổ bộ chiếm đóng Phát Diệm

27-Phát Diệm – Bùi Chu trở thành khu tự trị

28-Tổng Bộ Tự Vệ hoàn tất nhiệm vụ

29-Mấy lời tâm tình của tác giả
#1
    frank 14.05.2022 03:12:22 (permalink)
    Chương 1


    Phát Diệm, Quê Hương Tôi, Một Địa Linh, Nhân Kiệt và Kỳ Quan


    Trong ký ức của người dân Phát Diệm phải rời bỏ quê hương ra đi lánh nạn cộng sản đây hơn nửa thế kỷ, Phát Diệm với đồng ruộng bao la đầy những giẽ lúa vàng nặng chĩu, với phố xá nguy nga sầm uất trên bến dưới thuyền, với những làng xóm hiền hòa trải dài trên những con sông đào thẳng tắp, với muôn giáo đường đình chùa, với những truyền thống tôn giáo lâu đời, với những truyền thống cách mạng biểu lộ lòng ái quốc của dân Phát Diệm qua các thời đại,

    Phát Diệm được tẩm mồ hôi của vô số bậc tiền nhân đã biến biển Đông thành đồng ruộng phù sa phì nhiêu mầu mỡ, những đồng trồng cói bao la bát ngát, đã biến Phát Diệm thành một thắng cảnh tuyệt đẹp với những kiến trúc phẩm thuộc những hạng kỳ quan góp mặt cùng thế giới.

    Phát Diệm nói riêng và Kim Sơn nói chung được khẩn hoang và trở nên trù phú nhờ công ơn cao dầy của cụ Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ, một nhân kiệt đã có sáng kiến và đổ công sức đôn đốc khai khẩn biến biển Đông thành những ruộng lúa phì nhiêu từ năm 1829 tức năm Minh Mạng thứ mười; nhân dân Phát Diệm, nhất là thanh niên Phát Diệm được thừa hưởng tinh thần của cụ Nguyễn Công Trứ mà văn sử học Việt Nam tặng cụ canh hiệu ‘Nhà thơ của Chí Nam Nhi’ vì cụ đã để lại cho hậu thế tinh thần ‘Chí làm trai’ với những lời kêu gọi hào hùng:

    Vòng Trời Đất dọc ngang, ngang dọc.
    Nợ tang bồng vay trả trả vay
    Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
    Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển

    Linh mục tiến sĩ Thanh Lãng trong Bản Lược Đồ Văn Học Việt Nam đã trình bày về động cơ thúc đẩy ‘Chí Làm Trai’ của cụ Nguyễn Công Trứ như sau: ‘So với Lão và Nho, có lẽ ở thế hệ này (Thế hệ Nguyễn Công Trứ) Phật Giáo ít ảnh hưởng hơn cả. Cảm ứng ở Phật Giáo chưa mất hẳn trong văn thơ, nhưng tương đối không có bao nhiêu so với văn học thời giác loạn hay văn học thế hệ Nguyễn Du… Ngược lại, tư tưởng Nho Giáo bộc phát đến cực độ. Quan niệm về người quân tử, về người anh hùng, về kẻ làm trai ở đời đã vươn đến tột đỉnh. Một sức sống hào hùng lý tưởng say sưa như tràn ngập tâm hồn,’. Và thanh niên Phát Diệm trong nhiều thế hệ đã được thấm nhuần trong quan niệm này của cụ Tiên Điền Nguyễn Công Trứ.

    Ngoài ra, dân Phát Diệm cũng rất tự hào về một thắng cảnh tuyệt đẹp nhở ở sức lao động khủng khiếp của các bậc tiền nhân và óc thẩm mỹ cao độ tạo ra những kiến trúc phẩm hùng vĩ nguy nga với quần thể 6 giáo đường bằng đá và gỗ được quan niệm là kỳ quan thứ 8 sau 7 kỳ quan của thế giới được công nhận trong lịch sử kiến trúc của nhân loại.

    Làm sao chúng tôi, dân Phát Diệm quên được công ơn của một nhân kiệt Phát Diệm là cha Trần Lục tục xưng là Cụ Sáu, linh mục chính xứ Phát Diệm, từ năm 1864 được vua Tự Đức, tuy ghét đạo nhưng không thể không phục Cụ Sáu, nên phong cho Cụ tước Chấp An (cầm giữ bình an) với Kim Khánh và Kim Tiền. Vua Đồng Khánh cũng sắc phong cho Cụ Sáu chức Tham Tri Bộ Lễ và Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ, vì thế dân Phát Diệm thường gọi Cụ Sáu là Cụ Lớn Khâm. Vua Thành Thái cũng trao tặng chức Lễ Bộ Thượng Thư và năm 1925, vua Khải Định nhớ công ơn Cụ Sáu, truy tặng chức Phát Diệm Nam Tước.

    Trong chức vụ linh mục chính xứ Phát Diệm, Cụ Sáu đã kiến tạo những công trình kiến trúc vĩ đại bất hủ là Quần Thế 6 giáo đường theo kiến trúc mỹ thuật Việt Nam để tôn vinh Thiên Chúa, để phục vụ khát vọng tín ngưỡng, nhu cầu cầu nguyện và nhu cầu phục vụ tha nhân.

    Công trình xây cất vĩ đại này để làm vẻ vang cho Tổ Quốc Việt Nam và cho nhân dân Phát Diệm, hơn thế nữa Cụ Sáu cũng là một nhà kiến trúc siêu đẳng về mặt giáo dục nhân bản và đạo lý với những bài văn giáo huấn và một tập thi ca nhan đề Hiếu Tự Ca, mà dân Phát Diệm thường gọi là Vè Cụ Sáu. Tập Hiếu Tự Ca này gồm 1088 câu thơ Lục Bát, thỉnh thoảng có chen vào hai vế Song Thất.

    Theo lời Bà Nội tôi kể lại là khi bắt đầu đổ nền xây móng nhà thờ Phát Diệm, mỗi buổi chiều, dân Phát Diệm già trẻ lớn bé đều kéo nhau tới góp công xây dựng nhà thờ, đồng thời để được Cụ Sáu dạy học Hiếu Tự Ca với những lời mở đầu bằng 4 câu khai bút khuyến cáo:

    Mấy lời hiểu tự nói qua
    Để cho ai nấy trẻ già nhớ ơn
    Làm người sống ở thế gian
    Ai không đội đức cao san nặng dầy

    Dân Phát Diệm được Cụ Sáu dạy dỗ sống với niềm tin vào Thiên Chúa và biết công ơn mẹ cha đã sinh dưỡng phù trì:

    Phần hồn thì Chúa sinh ra,
    Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành
    Phụ tình mẫu huyết đúc hình
    Cho ta toàn vẹn mà sinh làm người.

    Phát Diệm lại hân hoan được tiếp nhận một nhân kiệt khác nữa là Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, vị Giám Mục Công Giáo tiên khởi Việt Nam được Tòa Thánh Vatican cử về cai quản địa phận. Đây là địa phận công giáo đầu tiên ở Việt Nam có giám mục là người Việt Nam nổi danh là một nhà hùng biện đã giảng thuyết bằng tiếng Pháp trên tòa giảng của những nhà hùng biện nổi danh nhất nước Pháp như Bossuet, Bourdaloue và Lacordaire tại nhà thờ Notre Dame ở Paris bên Pháp Quốc.

    Phát Diệm là một địa linh được đánh dấu bởi những nhân kiệt như các cụ Tiên Điền Nguyễn Công Trứ, cụ Lớn Khâm, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng và đặc biệt những nhân kiệt của thời đại gần đây nhất là Đức Cha Lê Hữu Từ, Đức Cha Phạm Ngọc Chi, cha Tổng Hoàng Quỳnh và Đức Cha Bùi Chu Tạo, nguyên Giám Mục, địa phận Phát Diệm cùng với những bậc chân tài đạc đức khác.

    Phát Diệm là một địa linh theo ý nghĩa giáo phận Phát Diệm thấm nhuần Chân Lý Phúc Âm từ thế kỷ thứ 16 với nhân kiệt đã đặt ‘viên đá đầu tiên’ của nền văn minh Kitô giáo là giáo sĩ Đắc Lộ, một linh mục thừa sai người Bồ Đào Nha, người đã được vinh danh là cha đẻ của chữ quốc ngữ mà chúng ta đang dùng ngày nay. Trong cuốn lịch sử cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài (Bắc Việt Nam) từ năm 1627 đến năm 1646, cha Đắc Lộ cho biết là trên đường tiến ra kinh đô Thăng Long, ngài đã đi qua cửa Thần Phù, đã giảng đạo tại Văn Nho nay được gọi là xứ HIếu Thuận, những nơi này đều thuộc địa phận Phát Diệm.

    Là con cháu của những bậc tiền nhân đã góp mồ hôi và xương máu vào công cuộc khẩn hoang Phát Diệm cùng xây dựng những kiến trúc phẩm vĩ đại được coi là một kỳ quan của thế giới, tôi rất tự hào là đã đóng góp được phần nào vào công cuộc tranh đấu cho Phát Diệm, cho quê hương thân yêu của tôi mà nhà thờ Đinh Bảng đã gợi hứng thơ mộng:

    Quê nhà ta ở phương nào mẹ nhỉ?
    Có phải Cúc Phương,rừng nguyên thuỷ âm u
    Hay núi đá Tam Điệp và động Hoa Lư
    Ra cửa bể Kim Đài nghe Ninh Cơ sóng dậy
    Về phủ Nho Quan, Kiến Thái, Cồn Thoi
    Mẹ cong lưỡi chữ R… Phát Diệm
    Mỗi lần dậy con dâng hạt dâng hoa
    Lần chuỗi Mân Côi kính nhớ Đức Bà
    Vâng con vẫn nhớ lời khuyên của mẹ



    Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư
    tự
    Nguyễn Đình Minh
    #2
      frank 14.05.2022 03:14:37 (permalink)
      Chương 2


      Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc


      Năm 1940, sau khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã chiếm đóng ở bên trời Âu thì tại Đông Dương, Đô Đốc Decoux thời bấy giờ là toàn quyền Pháp bị áp lực của Nhật Bản, một đồng minh của Đức Quốc Xã, đòi đem quân đội Thiên Hoàng vào Bắc Việt để đánh tập hậu và chặn đường tiếp tế của quân đội Tưởng Giới Thạch ở miền Nam Trung Hoa, thực dân Pháp đã thỏa thuận cho quân đội Phù Tang mượn hải cảng Hải Phòng làm trạm dừng quân, mượn các căn cứ quân sự Gia Lâm, Lào Kay, Phủ Lạng Thương và Lạng Sơn để hành quân kiểm soát con đường tiếp tế cho Trung Hoa.

      Khi quân đội Nhật Bản tới chiếm đóng Lạng Sơn thì người dân Việt nào cũng đều nghĩ tời Kỷ Ngoại Hầu Cường Để, một lãnh tụ của Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội, rể của Hoàng Tộc Phù Tang, hy vọng quân đội Thiên Hoàng giải phóng Việt Nam dành độc lập cho đất nước và một cuộc họp được triệu tập tại nhà xuất bản Á Châu, ở dốc Hàng Than gần đê Yên Phụ ở Hà Nội giữa nhà thơ Hồ Dzếnh và ba thanh niên Phát Diệm: Nguyễn Đình Minh tức Nguyễn Đình Thư, Trần Ngân tức Trần Bằng Phong và Nguyễn Duy Diễn.

      Đây là bộ bốn người bạn nối khố, con chấy cắn đôi làm gì cũng có nhau, cuộc họp này có mục đích nhận định tình hình chung của đất nước và chúng tôi tỏ ra xúc động với hy vọng có thể hợp tác được với Nhật Bản trong cuộc chống thực dân Pháp dành độc lập cho Việt Nam, nhưng Hồ Dzếnh tỏ ra tình bơ kể lại cho anh em nghe câu chuyện:

      Sau vụ xung đột quân sự ở Lư Cầu Kiều ở bên Tàu năm 1937 và Nhật Bản bắt đầu xâm chiếm Trung Hoa, tôi là một thanh niên lai, bố Tầu mẹ Việt, đã hăng say trở về Tầu, gia nhập đoàn quân của Thống chế Tưởng Giới Thạch, xung phonh kháng Nhật cứu quốc và khi chiến đấu ở bên Tàu, tôi được biết những chuyện hiếp dâm và tàn sát tập thể của quân đội Nhật Bản ở thủ đô Nam Kinh….

      Câu chuyện Hồ Dzếnh kể lại làm cho mọi người có cảm tưởng là quân đội Nhật Bản tàn ác và sau này sự thực đã xẩy ra đúng như vậy, vì sợ quân lực Đồng Minh đổ bộ, Nhật Bản bắt đầu tích trữ lương thực và bắt thực dân Pháp nộp lúa gạo, gây ra trận đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn 2 triệu dân bị chết đói.

      Tuy nhiên các vụ nổi dậy và bạo động của dân Việt nổi lên chống thực dân Pháp ở Sài Gòn, Cần Thơ, Rạch Giá, Bặc Liêu, Đồng Tháp Mười vào năm 1940, tại Đò Lương, Nghệ An năm 1941, quân Pháp đã phải dùng đến bom, đạn để triệt hạ, làm cho lòng ái quốc của dân Việt tăng lên rất nhiều và cũng nhờ quân đội Nhật Bản kích thích rất mạnh với mục đích đẩy thực dân Pháp đến chỗ cùng đường.

      Sau ngày căn cứ hải quân Hoa Kỳ Pearl Harbor bị không quân Nhật Hoàng tấn công ngày 7 tháng 12 năm 1941 và Hoa Kỳ khai chiến với Nhật Bản, quân đội Nhật Bản chiếm đóng hoàn toàn bán đảo Đông Dương và từ đó chiếm đóng khắp vùng Đông Nam Á Châu và Khối Thịnh Vượng Chung được Nhật Bản phát động. Đúng vào thời điểm này, bộ ba Minh, Ngân và Diễn được tăng cường thêm cha Hoàng Quỳnh, tuyên úy của phong trào Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm và ‘nhà tôi’ Tuyết Minh nhập bọn, sau lễ kết hôn của chúng tôi ngày 22 tháng 1 năm 1942.

      Tình hình đối với Giáo Hội Công Giáo, nhất là sau vụ dân chúng ở Nghệ An và Đò Lương nổi dậy và bạo động chống thực dân Pháp, được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, chúng tôi nhận thấy có một phong trào chống Công Giáo giống như Văn Thân ngày trước, bắt đầu được dấy lên tại Thanh Hóa, nhiều tin phao đồn được tung ra nói các bà mụ (nữ tu dòng Mến Thánh Giá) và người công giáo đi bỏ thuốc độc ở các giếng nước ở huyện Thạch Thành và Nông Cống, do đó dân được cử ra canh giữ và người công giáo ở vùng này bị nghi ngờ và bị theo rõi.

      Một nhận định được nêu ra là nếu Phát Diệm không có hoạt động thích hợp thì chắc chắn dân công giáo sẽ bị mang tiếng là không đóng góp gì trong công cuộc giải phóng quốc gia, do đó Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được thành lập, tuy mang tên Cứu Quốc nhưng không có liên hệ gì trong giai đoạn đầu với phong trào Việt Nam Đồng Minh Hội tức Việt Minh mới được thành lập ở Thái Nguyên cuối năm 1941.

      Một điểm khác cũng được nhận định thêm là đường lối tốt nhất để gây được ảnh hưởng đi sâu vào quần chúng là làm việc xã hội và việc thành lập Truyền Bá Quốc Ngữ được nhận định là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí của dân nghèo mù chữ.

      Được cử lên Hà Nội để xúc tiến thực hiện các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ ở Phát Diệm, tôi và anh Trần Ngân đã tiếp xúc với cụ Nguyễn Văn Tố ở trường của phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ và anh Nguyễn Hữu Đang là tổng thư ký. Được biết phong trào Truyền Bá Quốc Ngũ được chính quyền thực dân Pháp dưới thời toàn quyền Đông Dương Đô đốc Jean Decoux chính thức cho phép thành lập năm 1940, gọi là để bù đắp vào những lỗ hổng của quá khứ với chính sách ngu dân của chế độ thực dân và mở đường cho việc nâng cao chương trình Việt Ngữ ở các trường tiểu học ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam.

      (còn tiếp)
      #3
        frank 14.05.2022 23:07:11 (permalink)

        Chương 2 (Tiếp theo)



        Một lớp huấn luyện cho các giáo viên của lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ được tổ chức ở Phát Diệm do anh Nguyễn Hữu Đang hướng dẫn, với số giáo viên thụ huấn trên 30 người, làm sao chúng tôi quên được những bài học đầu tiên, dạy cho người nghèo mù chữ:

        I tờ giống móc cả hai, i ngắn có chấm, tờ (t) dài có ngang.
        O tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu.
        U, Ư hai chữ khác nhau vì Ư có cái móc câu bên mình.

        10 lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ được tổ chức tại Phát Diệm với 25 học viên mỗi lớp, chương trình này được kéo dài cho tới ngày Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945. Những lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ là cơ sở tốt nhất để truyền bá tinh thần yêu nước bằng những bài học lịch sử nói tới những công cuộc khởi nghĩa đánh quân Tầu của cha ông chúng ta ngày xưa, nhằm cổ võ tinh thần quật khởi của con dân đất Việt nổi lên chống thực dân Pháp, đồng thời hầu hết giáo viên các lớp học Truyền Bá Quốc Ngữ đều được học hỏi về chính trị để trở thành những cán bộ rất đắc lực của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc sau này.

        Song song với việc tổ chức các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ để hoạt động mạnh trong giới nông dân mù chữ. Mặt trận Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm cũng sửa soạn sẵn sàng cho giai đoạn sắp tới là quân đội Đồng Minh có thể đổ bộ lên bờ biển Việt Nam để tiêu diệt quân Nhật, Nên một cuộc hội thảo đã được tổ chức tại nhà các sư huynh La San trong khuôn viên nhà thờ Phát Diệm với một số tham dự viên rất hạn chế.

        Ngoài cha Hoàng Quỳnh, sư huynh Jourdain và mấy anh em đầu não của Mặt Trận như tôi, Trần Ngân và Nguyễn Duy Diễn, còn có một số bạn trẻ cùng lứa tuổi, trong số đó có các anh Đinh Văn Khanh, Trần Huấn, Nguyễn Duy Liên, Lê Bá Kông, Vũ Ngọc Ánh. Tình hình thế giới đã được đem ra phân tích, chú trọng tới tình hình chiến sự giữa quân lực Đồng Minh và Nhật Bản ở vùng Đông Á Châu và Thái Binh Dương và nhiều kế hoạch hoạt động.

        Trong đó có việc mở những lớp học Anh Ngữ do anh Kông phụ trách, vì Anh ngữ được xử dụng trong trường hợp quân lực Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Việt, chắc chắn phải qua cửa biển Kim Đài, nơi sông Đáy đổ ra biển Nam Hải, chỉ cách Phát Diệm có 7 cây số. Các tham dự viên cuộc hội thảo đều được yêu cầu giữ kín những kế hoạch được thảo luận vì sợ cả mật thám Pháp, lẫn cơ quan tình báo Kempetai của Nhật Bản gây khó dễ hay bắt giữ.

        Nhưng hỡi ôi! Chỉ ngày hôm sau cuộc họp, nhiều tin đã lọt ra ngoài khốn khó hơn nữa là người anh rể của một tham dự viên lại làm cho cơ quan tình báo Kempetai của quân đội Nhật Bản, nên sau đó ít lâu, tôi và Trần Ngân đã phải chạy một chuyến chối chết mới thoát khỏi tay bọn hung thần Kempetai nổi tiếng với những loại tra tấn kiểu tầu bay (treo người), tầu ngầm (ngâm nước) và xin âm dương (đánh chết lên chết xuống).

        Nhờ phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ mà chúng tôi quen thân với anh Nguyễn Hữu Đang và cũng do đó chung tôi biết rất rõ về mặt trận Việt Minh là chữ tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Vì biết rõ Mặt trận Việt Minh được lãnh đạo bởi đảng Cộng Sản Đông Dương, một chi thể của Đệ Tam Quốc tế chủ trương vô thần, nên Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc không thể hợp tác với Cộng Sản vô thần được. Vì theo luật lệ của Giáo Hội Công Giáo, những người hợp tác với Cộng sản có thể bị rút phép thông công; nên trên danh sách chính thức của các đảng phái và đoàn thể trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh không có Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mà chỉ có ghi tổ chức Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc do một đảng viên đảng Cộng sản tên Nguyễn Công Chính lãnh đạo.

        Ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính Pháp, nền đô hộ của thực dân Pháp xây dựng trên 80 năm bị xụp đổ, tư lệnh quân đội Nhật Bản tuyên bố: ‘Người Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng Khối Đại Đông Á’. Vua Bảo Đại tuyên bố ngày 11/3/1945 hủy bỏ tất cả những hiệp ước ký với Pháp từ xưa và nền độc lập của nước Việt Nam bắt đầu từ đây.

        Các đảng phái thân Nhật công khai xuất hiện: Việt Nam Phục Quốc, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, Thanh Niên Ái Quốc Đoàn v.v..
        Tiềm lực giải phóng quốc gia của con dân đất Việt liên tục chuyển mình và trong tinh thần ấy thanh niên Phát Diệm bắt đầu tham gia vào công cuộc làm lại lịch sử một cách hăng say hơn nữa.

        Trong thời gian đô đốc Decoux là toàn quyền Đông Dương và thống chế Pétain là quốc trưởng bù nhìn của Pháp ở thủ đô tạm thời Vichy, thực dân tung ra phong trào ‘khỏe’, dưới quyền lãnh đạo của Ducouroy, nhằm ru ngủ thanh niên Việt Nam, các cuộc đấu bóng tròn và thi điền kinh được tổ chức rầm rộ trên khắp lãnh Việt Nam, suốt ngày thanh niên Việt Nam kéo ‘gân cổ’ lên hát bài Quốc Ca Pháp và nhất là bài ‘Marechal, Nous voilà devant toi le Sauveur de la France (Thưa Thống Chế, chúng tôi có mặt đây trước vị Cứu tinh của nước Pháp), nhiều thanh niên đi tham dự các cuộc tập họp này về bắt đầu bàn tán rất nhiều về tinh thần quốc gia của dân Việt và từ đây lòng dân bị trị bắt đầu thức tỉnh dưới sự thúc đẩy của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc.

        Tinh thần ái quốc của thanh niên được bắt đầu khích động bằng việc liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu mà tôi là liên đoàn trưởng, thường xuyên tổ chức trình diễn văn nghệ với những tấn kịch có tính cách dân tộc nói lên những cực hình dưới thời đô hộ của giặc Tầu kéo dài hàng ngàn năm, mà mọi người đều có thể hình dung ra được những cảnh tù đầy và đàn áp của thực dân Pháp hay của Phát Xít Nhật đối với dân Việt.

        Thêm vào đó lòng căm thù thực dân Pháp và Phát Xít Nhật cũng được khởi động lên khi dân Phát Diệm cùng với liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu tham gia vào chương trình cứu dân nghèo trong vụ đói năm Ất Dậu (1945) làm cho 2 triệu người Việt chết.

        Một trong những lý do gây ra cuộc đói năm Ất Dậu là vì Nhật Bản bắt thực dân Pháp bắt dân Việt Nam phá ruộng lúa để trồng cây đay dùng làm bao tải, bán cho Nhật, hơn nữa trong vụ thu mua lúa gạo để cho quân đội Nhật Bản tích trữ, Nhật đòi 1, thực dân bắt dân Việt nộp 10, gây ra nạn đói vì Pháp chủ trương chính sách chính trị ‘dạ dầy’ tức là một khi đói thì không ai nghĩ tới đánh Pháp cả.

        Tới mùa thu năm nắm 1945, sau khi Nhật Bản đầu hàng, nhiều kho gạo chứa hàng trăm ngàn tấn bị phát giác ở vùng núi Chinê ở miền Nho Quan phía Bắc tỉnh lỵ Ninh Bình do quân đội Nhật Bản và thực dân Pháp tích trữ, trong khi đó 2 triệu người Việt miền đồng bằng bị chết đói vì thiếu gạo ăn.

        Một lý do nữa gây ra vụ đói năm Ất Dậu là hải quân Hoa Kỳ phong tỏa dọc suốt bờ biển Việt Nam và không quân Hoa Kỳ ném bom và bắn phá các cầu cống dọc trên quốc lộ số 1 làm cho nền giao thông Nam Bắc Việt Nam bị tắc nghẽn, gây ra cảnh tượng hết sức trái ngược: miền Bắc thiếu gạo ăn, dân chết đói nhưng thừa than đá, trong khi miền Nam thừa gạo ăn nhưng thiếu than đá nên nhà máy điện Chợ Quán ở Chợ Lớn phải dùng lúa gạo thay than đá đốt nồi ‘súp de’ để sản xuất điện lực.

        Hỏi còn mối thù nào thâm sâu hơn mối thù này đối với thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản làm cho hơn 2 triệu con dân nước Việt bị chết đói.

        (còn tiếp)
        #4
          frank 15.05.2022 22:11:42 (permalink)


          Chương 3


          Trận đói kinh khủng năm Ất Dậu
          (1945)


          Sau trận cuồng phong tàn phá mùa màng ở miền đồng bằng Bắc Việt hồi tháng 9 âm lịch năm Giáp Thân (1944), và bên trời Âu quân đội Đức Quốc Xả đã đầu hàng đồng minh, thực dân Pháp tăng cường việc thu thóc gạo để nộp cho quân đội Nhật Bản ở Bắc Việt, đây là ác tâm của thực dân Pháp muốn áp dụng chính sách chính trị ‘dạ dầy’ đối với nhân dân Việt Nam ở miền Bắc và Bắc Trung Phần, vì rằng hễ dân đói bụng thì họ chỉ nghỉ làm sao tìm ra gạo để nuôi gia đình và không ai nghĩ tới việc chống lại chính quyền thực dân Pháp cả.

          Sau vụ gặt tháng 10 năm 1944, hoa lợi đáng lẽ 3 phần thu về không được 1, trong khi đó chính quyền Pháp ở Bắc Kỳ dưới thời thống sứ Paul Chauvert đi kinh lý ở các tỉnh đốc thúc các quan lại và tổng lý cấp tỉnh, phủ, huyện, tổng và xã phải tận thu lúa thóc, nếu không nộp đủ số lúa thóc đã được ấn định các quan chức và tổng lý sẽ bị thải hồi. Đến đây là giai đoạn khổ não nhất cho giới nông dân, nếu ai không nộp đủ thóc lúa, nhà cửa sẽ bị tịch thu và phá bình địa.

          Một tai họa khác xẩy ra ở miền Bắc là ngày Tết Nguyên Đán năm Ất Dậu, ngày 13 tháng 2 năm 1945, trời chưa bao giờ rét như thế ở Hà Nội, giữa trưa hàn thử biểu xuống 4 độ bách phân tức 40 độ Farenheit, ở bên Hoa Kỳ này thì mức rét này đâu đáng kể, nhưng ở Việt Nam khi không có gạo để ăn thì làm gì có áo ấm để mặc, có củi lửa để sưởi, nên mức cơ cực của người nghèo lên đến cực độ.

          Ngày mồng 1 tháng 3 năm 1945, tức ngày 17 tháng giêng Ất Dậu, các báo ở Hà Nội đăng tin – Nhiều người chết đói quá rồi. Theo nhiều tin ở các địa phương, dân chết hàng vạn. Tại miền duyên hải Bắc Kỳ, ở nhiều nơi, chết cả nhà, cả xóm, hay gần hết cả làng. Nhiều dân quê thiếu ăn, kéo về các thành phố, mong kiếm được cơm ăn. Xác chết nằm lăn ở nhiều ngả đường ngay ở Hà Nội.

          Ngày 4 tháng 3 năm 1945, báo chí ở Hà Nội đăng tin: Nhiều đoàn thể từ thiện quyên tiền, quyên gạo giúp đồng bào đói: từ Tết, riêng tại bãi Phúc Xá, bờ sông Hà Nội, đã cấp 2,500 xuất cơm, 850 áo chẽn bằng bông gạo, 850 nắm xôi.

          Các đoàn Hướng Đạo ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các tỉnh đã phát động chương trình ‘khất thực’, xin cơm để phát cho người nghèo đói. Tình hình đói kém mỗi ngày một thêm bi đát và ban ngày, người ta đi lại nói năng ồn ào làm át tiếng kêu xin, khóc lóc thảm thiết của những người già, trẻ thơ vô tội, về chiều, người đi lại càng ít, tiếng ồn ào giảm dần, chỉ còn lại tiếng kêu đói, tiếng khóc của trẻ thơ nhay vú mẹ không còn sữa, lại ré lên từng hồi nho nhỏ vì còn sức đâu mà khóc.

          Ôi! Những con mắt đau khổ của người chị, anh, mẹ, bế em bế con, chỉ còn trông chờ người hảo tâm đi qua bố thí cho nắm cơm mới cứu được em, được con khỏi chết vì chính người mẹ, người chị cũng đang lả dần vì đói rét, cái rét cóng chết người của mùa đông năm Ất Dậu, chưa từng bao giờ rét như vậy.

          Về khuya, không còn nghe tiếng khóc, rên ở ngoài đường nữa. Có ai biết đâu sự im lặng ấy đã đưa bao người về bên kia thế giới. Khi mặt trời vừa mọc, rải rác trước cửa nhà là những tử thi của người lớn, trẻ con, nhắm mắt không kín, đang được các anh em hướng đạo sinh liên đoàn Cụ Sáu và mấy thanh niên thiện chí thu góp, ‘thẩy’ lên chiếc xe bò do anh em kéo, chở về bãi chợ Năm Dân, Phát Diệm để đem đi chôn. Làm gì có áo quan hay quách, may lắm, mỗi xác chết được bọc trong mảnh chiếu cũ mà thôi.

          Một chương trình ‘khất thực’ được liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu tổ chức, các anh em hướng đạo sinh kể cả sói con và các trưởng chia nhau đi xin các nhà khá giả ở trong thị xã, để dành ra mỗi bữa một chén cơm, nắm thành từng nắm cơm nhỏ, thêm vừng, mè hoặc chỉ có ít muối, mỗi buổi tối anh em hướng đạo đi từng nhà, thu góp các nắm cơm lại, chia nhau đi phát cơm từng khu vực một. Một người đi phát cơm thì phải có 3 người hộ vệ, và những nắm cơm phải giấu kín trong người, nếu không cơm sẽ bị cướp giật ngay. Sau khi phát cơm, anh em lại còn phải hộ vệ cho tới khi người đói ăn xong, lúc đó mới đi chỗ khác.

          Tận mắt thấy cảnh đói khát ở phố thị, tôi và nhà tôi bế con về thăm quê ngoại ở Hòa Lạc cách xa 4 cây số xem có khác gì chăng? Dọc đường đi, cách đây mấy tháng, nhà cửa cây cối còn tươi tốt, mà giờ đây từ đường lớn vào thôn xóm, mọi sự đều xơ xác, nhiều nền nhà nối tiếp bị trơ trụi, cả đến cây cối cũng bị chặt, giậu cây dâm bụt dùng làm ranh giới giữa các nhà chỉ còn trơ gốc và cành lá bị hái hết để làm thức ăn cho đầy bụng mà vẫn không khỏi chết đói. Nhiều người phải rỡ dần nhà đi bán đổi lấy mấy nắm cơm, nhưng cũng chỉ ăn được vài ngày là hết, trở thành vô gia cư đành kéo tới các thị xã, kiếm cơm ăn để rồi lại chết ở dọc đường, chết ở xó chợ.

          Về đến nhà, trông thấy rất đông người tụ tập trước cổng, đang xì xụp húp tô cháo nóng, lách mãi lọt được qua cổng, vào tới sân, thì ông cụ ngoại hạ lệnh cho nhà tôi đưa con cho bà ngoại bế, để giúp đun nồi cháo, cỡ nồi 30 đặt trên 4 cục gạch. Mỗi buổi sáng các cụ đều cho nấu nồi cháo lớn, để phát cho những người trong làng bị lâm vào cảnh thiếu gạo. Công cuộc phát cháo tiếp tục cho tới gần mùa gặt mới chấm dứt, nên rất ít người trong làng bị chết đói.

          Nếu những làng khác, những người giầu có xung phong nấu cháo cho dân đói, như công cuộc phát cháo ở làng Hòa Lạc, số người chết đói có phần nào giảm đi, nhưng vì chiến dịch thu mua lúa gạo của thực dân Pháp, và nhất là lòng tham vô đáy của các hương chức cường hào ác bá, nên số nhà giầu còn trữ được nhiều thóc gạo, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi.

          Số người chết đói rải rác trên khoảng đường phố chính ở thị xã Phát Diệm dài có 2 cây số rưỡi, có ngày đã lên tới 70 người. Việc chôn người chết đói cộng thêm việc khất thực mỗi buổi tối, bắt đầu vượt sức của anh em hướng đạo sinh, nên tôi nhân danh liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu cùng với cha tuyên úy Hoàng Quỳnh lên trình mọi việc cứu đói với Đức Giám Mục Nguyễn Bá Tòng, giám quản giáo phận Phát Diệm và cha chính Mai Học Lý và đề nghị thành lập Ủy Ban Cứu Tế có tính cách liên tôn giáo và rộng lớn hơn để cứu dân đói một ngày một đông.

          Tháng 3 năm 1945, Ủy Ban Cứu Tế Kim Sơn được thành lập, với ban cố vấn gồm Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, cha chính Lý, cha chánh xứ Mai Đức Thạch, cha Hoàng Quỳnh và Sa Môn Trí Đức, sau này là Thượng Tọa Thích Trí Dũng, trụ trỉ ở chùa nghĩa trang Bắc Việt ở Tân Sơn Nhất, Sài Gòn; tri phủ phủ Kim Sơn Ngô Gia Lễ và các thân hào nhân sĩ như Hàn Quế, cụ Hàn Thành là thân phụ của tôi và cụ Hội Ngọc Ban hoạt động gồm các ông Nguyễn Đức HIệp, Trần Ngọc Ban, Trần Văn Triêm, Phan Như Kim, Trần Ngân (Bằng Phong), Nguyễn Đình Minh (Thư), Nguyễn Duy Chỉ, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Đức Tuy.

          Ủy Ban Cứu Tế đã tích cực hoạt động với sự hợp tác và hỗ trợ của các đoàn thể và đoàn thể nòng cốt trong công cuộc cứu đói vẫn là liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu.
          Ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản đảo chánh Pháp, ngày 10-3-1945 chính phủ Nhật Bản tuyên bố: ‘Nhật Bản giúp Việt Nam thực hiện độc lập’, ngày 11-3-1945, Viện Cơ Mật Triều Đình Huế tuyên bố: ‘Hiệp Ước Bảo Hộ ký năm 1884 bị bãi bỏ, Việt Nam khôi phục chủ quyền’, ngày 18-3-1945 vua Bảo Đại tuyên bố: ‘Từ nay đích thân cầm quyền theo nguyên tắc ‘Dân Vi Quý’ và sẽ chỉnh đốn quốc gia’.

          Chiến dịch thu mua thóc gạo của thực dân Pháp đến đây chấm dứt, một cuộc họp của Ủy Ban Cứu Tế được triệu tập khẩn cấp. Một đề nghị được đưa ra: số thóc gạo mà các hương chức đã thu mua của dân chúng để nộp cho chính quyền Pháp, hiện còn một số được tích trữ tại mỗi làng, kể cả số thóc các hương chức ăn chận, cần được kiểm tra cấp tốc, để hoặc trả lại cho dân hoặc dùng số lúa gạo đó để cứu đói.

          Ông Tri phủ Ngô Gia Lễ, cố vấn của Ủy Ban Cứu tế, lúc này có đủ quyền hành để hành động, liền ra chỉ thị cho hương chức các làng, xã trong kho và một ban Kiểm Tra được thành lập và liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu được ủy nhiệm điều hành công tác kiểm tra này.

          Các huynh trưởng và các tráng sinh của liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu cấp tốc tuyển mộ thêm thanh niên có thiện chí ở mỗi làng xã, và những lớp huấn luyện được mở ra để các kiểm tra viên học hỏi phương cách kiểm tra, chiếu theo tài liệu và lời khai báo của các hương chức do phủ Kim Sơn chuyển giao. Do đó một số lớn lúa gạo được trả về cho dân chúng và số gạo do hương chức ăn chặn hoặc số lúa không trả về cho dân được vì cả nhà họ đã bị chết đói, đều được xử dụng trong việc cứu đói ngay trong làng đó.

          Tuy nhiên, tình trạng đói kém mỗi ngày một thêm nguy kịch hơn, giá gạo chợ đen ở Hà Nội đã lên 600 đồng 1 tạ gạo xấu, 800 đồng 1 tạ gạo tốt, trong khi gạo bán ‘bông’ của chính phủ không tới 100 đồng 1 tạ. Đồng bào Nam Bộ đã gửi giúp đồng bào đói ở Bắc Bộ: tiền quyên 165.150$10xu; 11 ghe gạo cộng 133 tấn gạo tính đến ngày 5-5-1945.

          Lúa vụ chiêm ở miền đồng bằng Bắc Bộ đã cấy xong, nhưng mọi người đều lo sợ rằng cứ mức chết đói của thanh niên trai tráng gia tăng, vì đàn ông khỏe mạnh bao giờ cũng chết đói trước đàn bà và trẻ em, như vậy đến mùa gặt thì lấy ai gặt lúa đây. Điều nhận xét này đã được tôi trình bày trong phiên họp hàng tuần của Ủy Ban Cứu tế, nhưng chưa biết giải quyết ra sao thì may thay có tin 3 ghe chở hơn 30 tấn gạo và thóc, do đồng bào trong Nam Bộ quyên góp giúp nạn đói, đã cặp bến Kim Đài, cách Phát Diệm 7 cây số.

          Tôi liền ‘vọt’ ngay lên gặp Tri phủ Ngô Gia Lễ, ‘vât lộn’ với ông này, thiếu điều rút giao ‘găm’ để sống chết lấy bằng được 3 ghe gạo này. Sau cùng ông Phủ họ Ngô nhượng bộ ký giấy ra lệnh áp giải 3 ghe gạo vào Phát Diệm và trao số gạo thóc đó cho Ủy Ban Cứu Tế, với điều kiện gạo, thóc phải được tồn trữ tại Nhà Gạo của giáo xứ Phát Diệm.

          Trong một phiên họp của Ủy Ban Cứu Tế, vấn đề xử dụng số gạo cứu đói được đưa ra bàn luận. Tôi đưa ra hai kế hoạch cứu đói:

          1)-Dùng cả số gạo để phát chẩn, chia về từng làng tùy theo dân số, trao cho các hương chức phân phát.

          2)-Nếu dùng số 30 tấn để phát chẩn đồng đều cho toàn dân, thì dân chỉ ăn được 5 hay 10 ngày là hết, và người đói tiếp tục chết đói. Vì còn tới gần 3 tháng nữa mới tới mùa gặt, nên tôi đề nghị là mùa lúa gặt có triển vọng được mùa, nhưng nếu các đàn ông trai tráng không sống được đến ngày đó thì sẽ thiếu người gặt, do đó cần phải chọn lấy 1000 người trai tráng còn khỏe mạnh, tập trung về nuôi cho ‘sống hẳn hoi’ tại trại Cứu Tế thiết lập ở khuôn viên nhà thờ Phát Diệm. Số người này sẽ được chọn tại từng làng, theo tỉ lệ dân số được cơ quan hành chánh địa phương thỏa thuận.

          (còn tiêp)
          #5
            frank 16.05.2022 22:21:48 (permalink)
             
            Chương 3 (tiếp theo)


            Con số ‘cứu hẳn hòi’ 1.000 người được tính trên căn bản mỗi ngày 300 grams gạo, như vậy nuôi trong 100 ngày là tới mùa gặt, vị chi là vừa đủ số gạo 30 tấn lấy được từ 3 ghe ở Nam Bộ ra. Biết rằng 300 grams gạo cho mỗi người mỗi ngày là hơi nhiều trong thời gian này, nhưng chấp nhận là số cơm được ‘chuồn’ qua hàng rào cho vợ con cầm cự đủ sống tời mùa gặt, như vậy số người được cứu khỏi đói còn tăng hơn nữa. Trên số 30 tấn ngũ cốc này, hơn nửa là thóc, nên nếu xay thành gạo thì chỉ nguyên số tấm không mà thôi, cũng có thể đủ nuôi 300 trẻ em và số cám cũng nuôi được một số người không ít.

            Sau khi thảo luận rất sôi nổi, chương trình lập trại Cứu Tế ‘cứu hẳn hoi’ 1.000 thanh niên được chấp thuận, và liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu được trao trách niệm điều hành trại này. Cha Mai Đức Thạc, chính xứ Phát Diệm tình nguyện cho Trại Cứu Tế được xử dụng các trường học và 4 nhà thờ cạnh làm nơi trú ngụ, các cửa ra vào của khuôn viên nhà thờ Phát Diệm được rào lại và chỉ mở theo giờ giấc cho các giáo hữu tới xem lễ hay đọc kinh.

            Cha Vũ Văn Hải, quản lý của nhà chung, nhận tồn trữ gạo, xay lúa ra gạo, tấm, cám và nấu thành cơm vị chi nhà chung mới đủ dụng cụ nấu cơm cho 1.000 người ăn 2 bữa mỗi ngày. Sa Di Thích Trí Đức nhận tích cực vận động các Phật tử tham gia vào công cuộc cứu đói.

            Ông Tri Phủ Ngô Gia Lễ nhận ra thông cáo chỉ thị cho các hương chức đưa những người đàn ông trai tráng còn gọi là khỏe mạnh, ra trình diện vào những ngày được ấn định, để tùy đại diện của Ủy Ban Cứu Tế lựa chọn theo con số đã được thỏa thuận từ trước cho mỗi làng.

            Sự lựa chọn này thật đau lòng và thương tâm không thể tả được, vì những người không được lựa chọn để tham dự trại Cứu Tế thi được coi như nhận án tử hình.

            Một giai thoại đã xẩy ra là sau khi quê hương chúng ta bi chia đôi sau Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi có dịp xuống thăm một trại định cư của dân tị nạn cộng sản ở bên con đường liên tỉnh lộ Bạc Liêu xuống Cà Mâu gần khu Gia Ray, khi đang đi trên đường vào trại, tôi thấy một người đàn ông ăn mặc chững chạc đi ra, một người trong phái đoàn nói ông đó là trại trưởng trại tị nạn.

            Khi trông thấy tôi, ông trại trưởng quỳ xụp ngay xuống đất rồi vái tôi ba vái, tôi rất đỗi ngạc nhiên, liền quỳ xuống đỡ ông ta đứng dậy và nói rằng:

            Ông trại trưởng làm gì kỳ cục vậy?’

            Ông này liền trả lời: ‘

            Con lạy ba lạy để tạ ơn ông đã cứu sống con. Con là người ở tổng Hồi Thuần ở ngoài Bắc. Trong vụ đói năm Ấ Dậu, nếu ông không ‘nhặt’ con ra để xuống tham dự trại Cứu Tế Phát Diệm, thì nay con đã chết rồi, quá nửa gia đình con đã chết vì đói.

            Cử chỉ này của người trại trưởng làm tôi sực nhớ lại cảnh tượng hằng ngàn người chết đói nằm bên đường phố, cảnh trẻ thơ nhay vú mẹ đã chết, cảnh tượng tôi cùng các trưởng và các em hướng đạo sinh, sắn tay áo lên, giúp việc chôn vùi hàng trăm xác chết bên bờ ruộng dọc theo sông Âu Giang hiền hòa, nhưng đầy nước mắt và tự hào là đã giữ được lời hứa của hướng đạo sinh.. Giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào…

            Trại Cứu Tế 1.000 người đã được tổ chức theo kiểu hướng đạo, chia ra mỗi đội là 12 người, mỗi đội tự bầu lên đội trưởng, 4 đội họp thành một đoàn lấy tên một anh hùng của lịch sử Việt Nam và các đoàn trưởng hội họp lại với ban quản trị điều hành mọi công việc của trại dưới quyền lãnh đạo của tôi và một phó trại trưởng là anh Đỗ Ngọc Tân, một thanh niên rất có thiện chí.

            Các hoạt động thường ngày của trại viên là ngoài những dịch vụ về vệ sinh, trật tự cùng học hành, có những lớp truyền bá quốc ngữ cho những người mù chữ, lại còn những lớp khác cho những người có trình độ học vấn cao hơn. Tất cả các trại viên điều được huấn luyện quân sự cơ bản do anh Nguyễn Như Ngọc tức Cửu, cùng một số cựu quân nhân phụ trách. Nay cụ Cửu là một trưởng lão trên 80 tuổi hiện đang tị nạn cộng sản tại Houston, Texas
            .
            Khi vừa nhập trại, các trại viên chỉ được ăn cháo loãng, ngày hôm sau được ăn cháo đặc hơn một chút và tới ngày thứ tư mới được ăn cơm, vì kinh nghiệm cho biết nếu cho người đói ăn cơm nhiều ngay, họ có thể chết bất tử. Sau đó một tuần lể ăn uống đầy đủ, sức khỏe đã được phục hồi phần nào, Ngoài việc tập quân sự và học hành, các trại viên bắt đầu nhận những công việc tiểu công nghệ như đan nát, dệt chiếu v.v.. để khi ra trại họ có được một ít tiền trong túi.

            Trại Cứu Tế đã được đồng bào khắp nơi ủng hộ nhiệt liệt và giúp đỡ tận tình, vì ngoài vòng rào của trại có hàng ngàn vợ con của các trại viên sống một cách lây lất và ban trật tự của trại được lệnh ‘nhắm mắt’ để các nắm cơm nhỏ được chuyển ra ngoài hàng rào cho người thân của trại viên. Một điều đáng mừng là trong suốt thời gian trại không có người nào chết cả, và vấn đề y tế cũng được các nữ tu dòng Đứa Bà Truyền Giáo giúp đỡ tận tình.

            Đồng thời với trại Cứu Tế cho người lờn, một trại cứu tế cho thiếu nhi cũng được tổ chức tại chợ Năm Dân, một lồng chợ rộng lớn được quây bằng phên, cót, chia ra thành nhiều khu, và 300 em bé cỡ từ 8 đến 13 tuổi được nhận vào trại. Các em bé này là những em mồ côi sống lây lất ở đầu đường só chợ sau khi bố mẹ chết đói, cộng với một số em bé do các nhà thờ và chùa trong vùng gửi tới, và ưu tiên là vẫn dành cho các em mồ côi.

            Nhưng khốn nỗi là khi được nhập vào trại nhiều em đã bị đói lả lâu ngày, nên cứ trung bình mỗi buổi sáng trong 3 tuần lễ đầu, nhặt ra 12 hay 13 em bị chết trong ban đêm. Số này được thay thế ngay vì luôn luôn có số ghi hàng trăm các em đói chờ được nhập trại. Khẩu phần thường ngày của cám em là hai bữa cơm tấm và cứ hai ngày thì một ngày ăn cơm. Khi mới nhập trại các em phải ăn cháo tấm trong 5 ngày.

            Trại trưởng trại Cứu Tế Thiếu Nhi là anh Kim Phát, một bầy trưởng rất hăng say, chịu khó và thương các em bé. Các phụ tá là các phó trưởng và tráng sinh cùng các em em Sói trong bầy Cụ Sáu lo cho các nam trại sinh và một số phụ nữ có lòng thương người tình nguyện giúp đỡ các nữ trại sinh. Các em trại sinh được dìu dắt sinh hoạt như sói con: học hát, học chơi, và học chữ, nhưng đa số đều bị kiệt sức, nên chỉ một số ít trại snh tham dự mọi sinh hoạt mà thôi.

            Vụ lúa chiêm đã chín đầy đồng và mùa gặt sắp tới, ông Phan Kế Toại, Khâm Sai Đại Thần, đại diện Triều Đình Huế tới tham dự lễ bế mạc trại Cứu Tế, 1.000 trại viên cởi trần tiếp đón với khẩu hiệu ‘Tự Do, Cơm Áo’ và anh Đỗ Ngọc Tân, phó trại trưởng đọc bài diễn văn chào mừng bằng những lời thật đanh thép: ‘…Hằng triệu người Việt chết đói chỉ vì những bọn non, mọt già tham quan ô lại…’ anh Tân vừa nói vừa chỉ tay vào mặt Phan Kế Toại, làm cho hàng ngàn tiếng hô ‘Đả Đảo’ nổi lên vang trời. Ông Khâm Sai Đại Thần Phan Kế Toại bị một bữa xanh mặt, sợ hãi trước khí thế của 1.000 thanh niên trại Cứu Tế.

            Nhiều người đặt câu hỏi: ‘Tại sao anh Minh, liên đoàn trưởng liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, trại trưởng trại Cứu Tế, không đọc diễn văn mà lại là anh Tân?’ Thưa: ‘Cơ quan mật thám Kempatai của quân đội Nhật Bản đã chất vấn tại sao lại tập quân sự cho 1.000 thanh niên? Có phải tập quân sự để đánh lại quân đội Thiên Hoàng hay không?’

            Với giọng điệu đe dọa, chúng đòi hỏi phải nhận một tên chó săn của chúng vào ban quản trị của trại, nên tôi với anh Trần Ngận cùng cha Hoàng Quỳnh phải rút về chiến khu Rịa của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc vì thời điểm của cuộc Tổng Khởi Nghĩa đã gần kề.

            (còn tiếp)
            #6
              frank 17.05.2022 23:59:24 (permalink)


              Chương 4


              Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc lập chiến khu


              Suốt quá trình mở nước và dựng nước, ông cha chúng ta đã tranh đấu gian khổ, vượt mọi thử thách để xác định sự có mặt của mình trong loài người đồng thời tiếp nối dòng sinh mệnh Việt qua mọi thời đại, chúng ta tự hào với thành tích, sự nghiệp vĩ đại ấy và kiêu hãnh khi lật trang quốc sử hùng cường oanh liệt của 4000 năm tranh đấu của tiền nhân.

              Từ năm 1862, đất nước Việt Nam bị rơi vào vòng nô lệ của thực dân Pháp và năm 1940 chúng ta chịu thêm ách thực dân mới của quân đội phát xít Nhật Ban tới chiếm đóng những điểm chiến lược ở Việt Nam trong thời đệ nhị thế chiến, tuy nhiên thực dân Pháp vẫn được Nhật Ban dành cho quyền cai trị Việt Nam như trước, nhưng con cháu của tiền nhân anh dũng vẫn coi thường giam cầm đầy ải và giết chóc, kế tiếp nhau hoạt động không ngừng chống thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản.      
                 
              Năm 1940 tại Liễu Châu ở miền Nam Trung Hoa, các chính đảng Cách mạng Việt Nam gồm có:

              -Đồng Minh Hội (Nguyễn Hải Thần)
              -Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hùng Khanh)
              -Đại Việt Dân Chính (Nguyễn Tường Tam)
              -Đại Việt Quốc Dân Đảng (Trương Tử Anh)

              Họp hội nghị thống nhất hành động và thành lập Mặt Trận Thống Nhất Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, dưới sự lãnh đạo của cụ Nguyễn Hải Thần chủ trương hợp tác với Đồng Minh và Hoa Kỳ chống quân phiệt Nhật và thực dân Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam; Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh và Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh được cụ Nguyễn Hải Thần chấp nhận cho tham gia vào Mặt Trận và được phái về nước xây dựng cơ sở đấu tranh.

              Ngày 19-5-1941, tại Hà Giang, Bắc  Việt Nam, Hồ Chí Minh triệu tập một hội nghị gồm các tổ chức cách mạng hoạt động ở trong nước, trong đó có đảng Cộng sản Đông Dương cùng với một số thanh niên và trí thức, thành lập một Mặt Trận khác lấy tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, cũng gọi tắt là Việt Minh, chủ trương bài phong, phản đế, diệt phát xít, giải phóng dân tộc Việt Nam và hợp tác với tổ chức Đệ Tam Quốc Tế của đảng Cộng sản Liên Xô.

              Giữ hai Mặt Trận Việt Minh ở trong nước và hải ngoại chỉ có một khác biệt về danh hiệu là 2 chữ Đồng Minh và Cách Mạng, nhưng hành động tráo trở nửa vời này được coi là một thủ đoạn thâm sâu của Hồ Chí Minh dành thế thượng phong cho đảng Cộng Sản trong công cuộc giải phóng đất nước.

              Trong khi thế tranh đấu cả ở hải ngoại lẫn trong nước, Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tiến tới quyết định thành lập một chiến khu riêng tại Rịa ở triền núi cách con đường tỉnh lộ từ Chợ Gành đi Nho Quan, ở phía Bắc tỉnh Ninh Bình, độ 4 cây số, với quan niệm rằng chiến khu là một khu vực an toàn để huấn luyện các chiến hữu về phương diện quân sự và nhất là về kỹ thuật tổ chức và tuyên truyền để lôi cuốn được toàn dân tham gia vào công cuộc nổi dậy đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật Bản dành độc lập cho tổ quốc.

              Chiến khu cũng được coi như một căn cứ bí mật, có thể bảo đảm an ninh cho những chiến hữu về ẩn náu một thời gian trước khi được phái đi công tác ở các nơi, vì bị lộ thành tích cách mạng, bị mật thám Pháp hay Kempetai Nhật Bản theo dõi và đe dọa bị bắt giữ.

              Tôi cùng với anh Trần Ngân tức Bằng Phong được Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc trao cho trách nhiệm tìm cách bắt liên lạc với các chiến khu của Việt Minh ở Thái Nguyên, Sơn La (Bắc Việt) và chiến khu Quỳnh Lưu ở gần Nho Quan để lập thế liên hoàn trong chiến lược chống Pháp, chống quân phiệt Nhật Bản.

              Nhưng việc liên lạc với chiến khu Thái Nguyên qua anh Nguyễn Hữu Đang, tổng thư ký phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, một nhà cách  mạng trí thức, lãnh đạo cuộc Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, đều không đem lại kết quả mong muốn, riêng đối với chiến khu Quỳnh Lưu, do Nguyễn Văn Mộc và Đặng Kim Giang lãnh đạo đã cử Nguyễn Văn Tài làm liên lạc viên với chiến khu Rịa.

              Chiến khu Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được thành lập ở làng Rịa trong ngay một đồn điền rộng hàng ngàn mẫu, dân cư ở làng này rất thưa thớt, số người sống ở khu vực dưới chân núi là người Kinh nhưng trên sườn núi hầu hết là người Mường, sống rải rác trên nhà sàn. Chủ nhân của đồn điền này, một người Việt sống ở Hà Nội, bạn thân của cha Hoàng Quỳnh, đồng ý cho Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được xử dụng tất cả mọi cơ sở của đồn điền, với danh nghĩa mang người miền biển lên canh tác, hòng che mắt thực dân Pháp và quân phiệt Nhật Bản.

              Ngoài việc canh tác gọi là trồng khoai, trồng sắn để che mắt thiên hạ, mọi nổ lực của các chiến hữu đều đổ dồn vào công tác học quân sự, học tập tổ chức và tuyên truyền như in truyền đơn bươm bướm v.v.. bằng những phương cách ấn loát theo kiểu quay ronéo, tuy hết sức  thơ sơ nhưng hữu hiệu, vì giấy stencile rất hiếm trên thị trường, không thể tìm ra được. Nên giấy này được thay thế bằng giấy bản ở các quyển sách chữ nho loạt thật tốt  và mịn, nhúng giấy này vào sáp nến nấu lỏng và dùng dao cạo, cạo cho sạch nến, rồi mới đưa lên đánh bằng máy chữ, nếu những chữ nào đánh không thủng, thì lại dùng kim châm cho thủng hẳn.

              Giấy bản thủng chữ này được dùng như tờ stencile, đặt trên mặt phẳng có sát mực in, sau đó đưa giấy trắng đặt lên dùng rouleau xoa nhẹ lên trên và kết quả tốt đẹp là hàng vạn tờ truyền đơn bươm bướm  của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được ấn loát và được vận chuyển đi ‘tung’ ở khắp nơi và đặc biệt ở các nhà thờ, kêu gọi toàn dân đứng lên chống thực dân Pháp, diệt phát xít Nhật Bản dành lại chủ quyền đất nước Việt Nam.

              Tổ ấn loát ở chiến khu Rịa do anh Trần Huấn phụ trách cùng với 6 bạn trẻ khác, anh Huấn là một phó đoàn trưởng tiểu đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, là giáo viên trường tiểu học Nhà Chung Phát Diệm, có một thời giữ chức chủ tịch Ủy ban Hành Chánh Kháng chiến phủ Kim Sơn và hiện nay anh đang sống tị nạn ở vùng Los Angeles tiểu bang California. Một giai thoại đáng ghi nhớ là cụ Giáo, thân mẫu của anh Huấn đã tới ‘bắt đền’ tôi, vì anh Huấn là con trai duy nhất mà lại cùng chúng tôi đi hoạt động cách mạng mà nhiều người cho rằng ‘làm hội kín’ không bị Pháp bắt thì cũng bị Nhật ‘thịt’ chết.

              Máy chữ loại có dấu tiếng Việt dùng vào việc đánh stencile giấy bản phải là loại thật tốt và rất hiếm trong thời chiến tranh. Có thể nói chiếc máy duy nhất loại này ở vùng Phát Diệm lại chính là của cô em gái của nội tướng của tôi là cô Lê Thị Bảo, trưởng ban Phụ nữ Công giáo xứ Hòa Lạc và do cha Nguyễn Gia Đệ, phó xứ Hòa Lạc đang xử dụng, Sau một cuộc" vận động" rất khéo léo cha Đệ đã trao máy chữ này lại cho tôi và coi đó như một sự đóng góp rất đáng kể cho công tác tuyên truyền của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

              Trong một cuộc báo động ở chiến khu Rịa, chiếc máy chữ này đã được di tản ra bìa rừng có 2 ngày đêm, mà đã bị mối đùn đất lên bọc kín, mất bao nhiêu công lau chùi sửa chữa mới dùng lại được. Mực in, thời đó là đồ quốc cấm, được cung cấp bởi một chiến hữu làm việc tại nhà in Ngô Từ Hạ ở phố Lamblot, sau này là phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội. Mực in được anh Thứ chở bằng xe đạp suốt từ Hà Nội về tới chiến khu Rịa, đường dài gần 150 cây số.

              Sau khi phát xít Nhật Bản đảo chánh thực dân Pháp vào đêm ngày 9-3-1945, tổ ấn loát của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc được di chuyển từ chiến khu Rịa lên nhà Dòng Châu Sơn, cách phía bắc thị xã Nho Quan độ 3 cây số. Sở dĩ có sự di chuyển này là vì chiến khu Việt Minh ở Quỳnh Lưu dự định tiến quân đánh đại đội pháo binh Nhật Bản đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng  Châu Sơn mà bề trên của nhà dòng này là cha Anselmô, tên dòng của Đức Cha Lê Hữu Từ.

              Anh Nguyễn Văn Cơ, tức là anh em cháu cô cháu cậu với tôi, đồng thời là tu sĩ ở nhà Dòng Châu Sơn được cha Anselmô phái về liên lạc với tôi và nhắn tin cần liên lạc với nhà dòng gấp. Khi nhận được tin, tôi và anh Trần Ngân liền tới nhà dòng ngay, vì cha Anselmô đối với tôi là chỗ thân tình từ trước. Mỗi khi về Phát Diệm, gặp ngày thứ năm là ngày họp hàng tuần của liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, bao giờ ngài cũng dành thì giờ tới họp cùng với chúng tôi ở nhà trường công lập Lưu Phương. Cha Hoàng Quỳnh là tuyên úy của liên đoàn và chúng tôi đều coi cha Anselmô như cha tuyên úy thứ hai của liên đoàn vậy.

              (còn tiếp)
              #7
                frank 18.05.2022 22:31:13 (permalink)


                Chương 4 (tiếp theo)



                Sau khi hàn huyên, cha Anselmô đề nghị chúng tôi di chuyển một số cơ sở của chiến khu Rịa về nhà Dòng Châu Sơn, trong đó có tổ ấn loát. Chúng tôi vui mừng chấp nhận ngay và sau khi trở về Rịa, qua sự liên lạc của liên lạc viên Nguyễn Văn Tài, chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh được thông  báo về việc một phần khu Rịa được di chuyển về hoạt động  ở khu vực nhà dòng Châu Sơn, nên  việc dự định đánh phá Châu Sơn của Việt Minh ở chiến khu Quỳnh Lưu được hủy bỏ.

                Sau đây là 2 giai thoại rất hăng say hoạt động của cha Anselmô tức Đức Cha Lê Hữu Từ, trong công cuộc sửa soạn Tổng Khởi Nghĩa dành Độc Lập của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc.

                Sau khi một số cơ sở của chiến khu Rịa được di chuyển lên nhà dòng Châu Sơn, tôi thường ngủ ở phòng dành riêng cho các người đến tĩnh tâm ở nhà Dòng. Trong một đêm khuya lạnh lẽo của núi rừng, cha Anselmô đến đánh thức tôi dậy và dẫn tôi sang phòng khác khá kín đáo, sau khi đóng cửa, cha Anselmô liền nói:

                ‘Anh Minh ạ, tôi biết chắc chúng ta cần phải có nhiều khí giới đạn dược trong công cuộc giải phóng quê hương, vậy anh nghĩ thế nào? Nếu cần, tôi có thể mua được súng đạn kể cả súng đại bác nữa.’

                Tôi liền vội vàng trả lời ngay:

                ‘Thưa Cha, trong công cuộc giải phóng quê hương, súng ống cũng cần như hơi thở vậy, xin cha cho con biết thêm chi tiết’.

                Cha Anselmô nói:

                Vị sĩ quan Nhật Bản, đại đội trưởng đại đội pháo binh đóng quân ở khu chăn nuôi của nhà Dòng đề nghị với tôi là ông ta có thể bán đủ loại súng ống và đạn dược, nếu chúng ta có vàng’.

                Tôi rất vui vừng và vội vàng tháo luôn giây vàng nặng một lạng đang đeo ở cổ và cái nhẫn nạm ngọc thạch nặng 3 đồng cân, đặt trên bàn và nói:

                ‘Thưa Cha, giây và nhẫn vàng này, nhà con bắt con đeo để có thể bán đi lấy tiền mà xoay sở khi gặp hoạn nạn. Con xin cha đưa cho vị sĩ quan Nhật gọi là làm con  tin, ngay ngày mai con về nhà, chắc chắn con sẽ có một số vàng đem lên để đổi lấy khí giới.’

                Trở về phòng ngủ, lòng tôi xôn xao và vui mừng nên không thể nào nhắm mắt ngủ lại được, chờ tới 4 giờ sáng là giờ các thày dòng dậy đọc kinh ban mai, tôi vác xe đạp ra đi, nhưng chờ mãi tới khuya mới dám về nhà. Bàn thảo với nhà tôi là ủy viên tiếp tế của chiến khu Rịa và sau khi hiểu rõ mọi công  việc, chúng tôi quyết định thu góp tất cả số vàng chúng tôi có sẵn, kể cả nhẫn cưới và nữ trang của hồi môn và còn lại đi vay mượn vàng ở các chỗ họ hàng. Riêng ông bà ngoại của cháu Minh HIền con gái của chúng tôi cũng đóng góp một số, nên chỉ sau 2 ngày, thu góp được một số vàng cũng khá.

                Tôi rời nhà ra đi trong đêm khuya, mang nặng bịch  vàng trên xe đạp, được anh Thứ cùng đạp xe theo hộ vệ trở về Châu Sơn. Số vàng đã được trao cho cha Anselmô và trong số vàng trao cho vị đại úy pháo binh chỉ huy đơn vị đóng quân ở khu Dòng Châu Sơn, hinh như cũng có một số ít trong số vàng của một đại điền chủ ở xứ Đồng Chưa ở Gia Viễn gửi ở nhà Dòng. 

                Sau khi nhận được vàng, một số súng trường và tiểu liên cùng súng liên thanh được quân Nhật Bản thoa dầu mỡ cẩn thận và ném xuống mấy khúc suối sâu nhất chảy qua khu nhà Dòng. Một số đạn dược được chôn  trong những hố sâu ở sau nhà nuôi bò sữa, trong khu chăn nuôi của nhà Dòng, với lối giải thích là cần phải phế thải.

                Sỡ dĩ có câu chuyện gọi là phế thải súng đạn để đổi lấy vàng là vì trong thời gian này quân đội Thiên Hoàng đã bắt đầu thua trận trên khắp chiến trường Đông Nam Á Châu và không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom khốc liệt ngay trên đất Nhật Bản, làm binh sĩ Nhật Bản mất tinh thần. Vì thế mới có câu chuyện sĩ quan chỉ huy Nhật bán súng đạn đổi  lấy vàng để phòng thân sau này.

                Ngay sau khi cướp chính quyền hồi mùa thu tháng 8 năm 1945, cũng từ người sĩ quan chỉ huy này. chúng tôi mua thêm được mấy con ngựa tuyệt đẹp của đơn vị pháo binh Nhật Bản này.

                Khi cha Anselmô, bề trên Dòng khổ tu Châu Sơn được Tòa Thánh Vatican cử lên lãnh chức giám mục, cai quản địa phận Phát Diệm, ngài tâm sự với tôi tại nhà Dòng Châu Sơn:

                ‘Tôi là thày dòng khổ tu, chuyên sống trong Dòng, ít tiếp xúc với đời, nay được Tòa Thánh cử lên lãnh chức giám mục  cai quản địa phận, tôi thấy khó khăn quá, không biết có làm nổi được việc hay không?’


                Rồi ngài tủm tỉm cười và nói với tôi:

                ‘Trong mấy chục năm sống trong dòng khổ tu từ Phước Sơn (Quảng Trị) ra đến Châu Sơn (Nho Quan, Ninh Bình), tôi chỉ đi chân đất và sống như người nghèo khổ nhất trong xã hội Việt Nam, nếu lãnh chưc giám mục, tôi phải đi giầy, không biết làm sao tôi đi nổi đây, nên tôi sẽ cùng một thầy nữa đạp đi vào Huế để gặp Đức Cha Khâm Sứ Tòa Thánh để xin ngài tâu sang Tòa Thánh tha cho tôi đặc ân này’

                Và ngài nói tiếp:

                ‘Vì đường xe lửa vào Huế bị cắt nhiều nơi do bom của máy bay Mỹ, nên tôi phải đi bằng xe đạp, dọc đường tôi tìm tới các xư đạo để tá túc qua đêm, anh sửa soạn cho tôi một số truyền đơn bươm bướm của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, tôi sẽ phụ trách phân phối và tuyên truyền cho Mặt Trận và liên lạc cùng tổ chức khắp nơi tôi sắp đi qua.’

                Ôi! Thật là cơ hội bằng vàng cho Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cức Quốc được bành trướng suốt từ Bắc vào miền Trung và từ đó vào miền Nam. Hỏi còn chiến hữu nào đủ uy tín tuyên truyền cho Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và công việc giải phóng đất nước bằng vị bề trên của Dòng Khổ Tu Châu Sơn sắp vinh thăng giám mục địa phận Phát Diệm. Xe đạp của ngài chở đầy truyền đơn cộng thêm mấy khúc cơm nắm, muối vừng, hai bộ áo lót và quyển sách nguyện.

                Sau hàng chục ngày ròng rã đạp xe trên đường quốc lộ từ Nho Quan vào tới Huế và khi trở về tới nhà Dòng, cha Bề Trên Anselmô tức Đức Giám Mục Lê Hữu Từ nói với tôi:

                ‘Cha đã thất bại, không chinh phục nổi Đức Khâm  Sứ Tòa Thánh để xin được tha khỏi phải lên làm giám mục địa phận Phát Diệm, nhưng cha nói riêng với anh Minh rằng cha đã thành công trong việc tuyên truyền và tổ chức cho Mặt Trận Việt Nam Cứu Quốc của chúng ta tại một  số giáo xứ trên dọc đường từ đây tới Huế.’

                Cảm động và vui mừng vô xiết kể, tôi liền quỳ xuống hôn tay vị giám mục tương lai của địa phận Phát Diệm và vô cùng hân hoan được  trở thành chiến hữu tranh đấu của một vị  chủ chăn lừng danh yêu nước thường nòi  và đã một thời làm Giám Mục Cố Vấn chính phủ cho Hồ Chí Minh, đồng thời là một chiến sĩ có thành tích chống Cộng Sản, chống thực dân Pháp một cách hào hùng và triệt để.
                 
                 (còn tiếp)
                 
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2022 22:37:17 bởi frank >
                #8
                  frank 19.05.2022 23:27:45 (permalink)
                  Chương 5

                  Mặt Trận Việt Nam Công Giáo
                  Cứu Quốc chống Pháp, chống Nhật


                  Song song với việc thành lập chiến khu Rịa, Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chủ trương  rằng sức  mạnh chính trong công cuộc chống Pháp, chống Nhật dành độc lập cho Tổ Quốc, đến từ phía quần chúng, mà quần chúng được coi như nước và lực lượng cách mạng là cá, cá chỉ có thể sinh sôi, nẩy nở trong nước và chính nước bảo vệ và nuôi dưỡng cá.
                   
                  Yếu tố quan trọng nhất, trong việc vận động quần chúng dưới thời Pháp thuộc, là mọi việc kết nạp các chiến hữu của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, phải được thực hiện trong vòng bí mật hoàn toàn và thường được diễn ra dưới hình thức hoạt động tôn giáo, xã hội,  thanh niên và thể thao, ngay đến việc tổ chức chiến khu Rịa cũng diễn ra dưới hình thức di dân từ miền biển lên miền núi để canh tác đồn điền Rịa.
                   
                  Trong công cuộc vận động quần chúng, một yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng là việc kết nạp và huấn luyện các thành phần lãnh đạo của Mặt Trận, từ cấp nhỏ tới cấp cao về kỹ thuật vận động, tổ chức và hướng dẫn quần chúng trong công cuộc đấu tranh dành độc lập.
                   
                  Với tư cách tuyên úy của đoàn thể Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành địa phận Phát Diệm, cha Hoàng Quỳnh đã tổ chức tại các địa hạt khác nhau trong tỉnh Ninh Bình. Dĩ nhiên việc  huấn luyện về Công Giáo Tiến Hành là đề tài chính, nhưng nhiều thanh niên được lựa chọn một cách hết sức cẩn thận và được kết nạp để trở thành anh em kết nghĩa cùng hoạt động trong Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc.
                   
                  Công cuộc kết nạp bạn kết nghĩa không những chỉ diễn ra trong phạm vi tỉnh Ninh Bình như với anh Phạm Quốc Trị sau này là lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh Nguyễn Văn Xướng ở Đồng Chưa, Gia Viễn mà lại còn lan rộng ra khắp các tỉnh khác như anh Lưu Thế Lộ ở Bùi Chu; anh Nguyễn Quốc Quỳnh ở xứ Bính Trì, Phủ Lý, nguyên đại tá Giám  đốc trường Chiến Tranh Chính Trị thời Việt Nam Cộng Hòa; anh Nguyễn Văn Quý ở Thường Tín, anh Nguyễn Văn Hiển ở Hà Nội, anh Nguyễn Văn Chương ở Hải Dương, linh mục Lê Quang Oánh ở Thái Bình và linh mục Dũng chính xứ nhà thờ tỉnh lỵ Phú Lý.
                   
                  Cha Anselmô, Bề trên  dòng Khổ Tu Châu Sơn tức Đức Cha Lê Hưu Từ đã kết nạp và tổ chức một hệ thống liên lạc và hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc tại các xứ đạo ở dọc quốc lộ số 1 và từ đó lan ra khắp vùng từ Thanh Hóa qua tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị tới Thừa Thiên, trong chuyến ngài đi Huế bằng xe đạp để yết kiến Đức Khâm Sứ Tòa Thánh để xin từ chối chức vụ giám mục địa phận Phát Diệm.
                   
                  Qua anh Lê Hữu HIển, em ruột của Đức cha Lê Hữu Từ, những hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã lan tràn vào miền Nam Trung Bộ với anh Đoàn Văn KIểu và ở miền Nam Bộ với anh Nguyễn Hữu Lượng, đại diện Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành trong nhóm thành lập đoàn thể Thanh Niên Tiền Phong tại Sài Gòn ngày 21 tháng 4 năm 1945.
                   
                  Lớp huấn luyện đầu tiên cho 30 giáo viên các lớp Truyền Bá Quốc Ngữ hồi giữa năm 1942 cũng là lớp huấn luyện có bàn về tổ chức cho thành phần nòng cốt của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và ảnh hưởng về tinh thần cách mạng của Mặt Trận đã đi sâu vào quần chúng, qua các học viên của các khóa học 3 tháng, của 10 lớp và đây cũng là phương tiện tốt nhất để nâng cao dân trí và dân nghèo mù chữ.
                   
                  Ngoài việc tổ chức các trại huấn luyện cho Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành, cha Hoàng Quỳnh và chúng tôi thường đặc biệt chú y tới việc thăm viếng các đoàn thể Thanh Niên trong các xứ đạo ở vùng sơn cước điạ phận Phát Diệm, như xứ Khoan Dụ, Xứ Ngải, Vô Hốt, Trung Đồng và Đồng Chưa, với mục tiêu mở rộng khu chiến, bảo vệ cho chiến khu Rịa khi phải hợp tác với chiến khu Quỳnh Lưu của Việt Minh, hành quân chặn đánh quân phiệt Nhật Bản trên con đường chiến lược từ chợ Gành lên Nho Quan  và Chi Nê là khu vực núi non hiểm trở mà quân đội Nhật Bản dùng làm hậu cứ tích trữ lúa gạo và khí giới đạn dược để tiếp vận cho mặt trận khi quân đội Đồng Minh đổ bộ chiếm đóng miền duyên hải Bắc  Việt và Bắc Trung Việt.
                   
                  Công cuộc tổ chức quần chúng quan trọng nhất của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc là Trại Cứu Tế, nuôi sống 1.000 thanh niên thoát khỏi nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm chết 2 triệu dân Việt. Trong 3 tháng rưỡi sống tập trung, những thanh niên này đã được tổ chức thành hàng ngũ và được huấn luyện rất kỹ càng về đường lối đấu tranh của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, họ cũng được huấn luyện về kỹ thuật tổ chức quần chúng, hướng dẫn nhân dân trong công cuộc đấu tranh dành độc lập và cũng được huấn luyện về cơ bản quân sự để sẵn sàng tham gia vào công cuộc tổng khởi nghĩa.
                   
                  Hồi tháng 5 năm 1945, đoàn Thanh Niên phủ Kim Sơn được thành lập và cuộc bầu cử chức vụ đoàn trưởng được tổ chức tại phủ lỵ Quy Hậu. Cuộc vận động tranh cử đã trở nên hết sức sôi nổi giữa ông Nguyễn Duy Chỷ là thúc phụ của anh Nguyễn Duy Diễn, một chiến hữu của Mặt Trận và ông Trần Ngọc Ban là anh cột chèo đối với tôi, ra tranh cử dưới danh nghĩa Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành.
                   
                  Anh em chúng tôi đã bị kẹt cứng trong vụ tranh cử này vì cả 2 ứng cử viên đều là người có liên hệ gia đình, nhưng vì ông Nguyễn Duy Chỷ nhận lời hợp tác chặt chẽ  với chúng tôi trong những hoạt động  của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc nên tới ngày bầu cử 1000 thanh niên của Trại Cứu Tế đã được điều động đi bỏ phiếu, một thủ lãnh trong phe đối lập là ông Giáo Phương đã lớn tiếng thỏa mạ những thanh niên trong trại Cứu Tế đi bỏ phiếu là vì ‘cơm áo’, nên ông này liền bị áp đảo một trận tơi bời.
                   
                  Sau đây là một giai thoại trong những cuộc đi thăm viếng các xứ đạo, một hôm sau khi đi thăm xứ Quảng Nạp ở huyện Yên Mô, cha Hoàng Quỳnh cùng với tôi đạp xe thẳng hướng chiến khu Rịa, tới chiều, sau khi băng qua quốc lộ 1 chúng tôi ngừng lại thăm đồn điền ông Phán Sử ở trên đường tỉnh lộ Chợ Gành đi Nho Quan. Chiều muộn, chúng tôi bắt đầu rời nơi đây đạp xe đạp về Chợ Rịa, đi được một quãng đường, trời sập tối, xe đạp của tôi có gắn dynamô điện, đèn chỉ đủ sáng lờ mờ, cha Quỳnh liền bảo tôi:
                   
                  Này anh Minh, tôi có nhiều kinh nghiệm đi đường rừng trong đêm tối. Vậy khi gặp hổ rình trên lề đường để vồ người, hơi thở của hổ thường rất thối, đến khi ngửi mùi thối xông lên mạnh nhất là lúc hổ sắp nhẩy vồ mồi, vậy khi tôi hô ‘Đùng’ một tiếng,  hổ sẽ nhẩy vọt đi và anh nhớ chúng mình phải cắm đầu cắm cổ đạp thật nhanh nghe không?’
                   
                  Nghe cha Quỳnh nói, tôi cũng cảm thấy hơi e ngại, nhưng tin tưởng của cha cựu chính xứ Khoan Dụ trên miền núi rừng  trước đây, nên tôi cũng yên tâm tiếp tục chăm chú đạp xe. Đi tới một quãng rậm rạp cây cối, tôi bỗng ngửi thấy mùi hôi, tôi nói: ‘Hổ’. Cha Quỳnh trả lời ‘Cẩn thận nhé’. Rồi nghe thấy tiếng ‘Đùng’, thế là chúng tôi cắm cổ đạp xe trối chết. 3 ngày sau trở về qua quãng đường này vào giữa trưa chúng tôi lại ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, tôi hỏi: ‘Thưa cha, có phải cọp nữa không mà không thấy cha nổ tiếng ‘Đùng’, cha Quỳnh chỉ mím môi, nhăn mặt và nói: ‘Lại một người chết đói nữa, thân thối rữa bên đường, chúng ta hãy đọc một kinh Vực Sâu cho người chết’.
                   
                  Chung tôi đã đạp xe từ chợ Rịa lên dốc dài 4 cây số, khi tới gần địa điểm, chiếc xe đạp St Elienne, cũ  kỹ của cha Quỳnh đứt xích, thế là ngài đành phải cuốc bộ, vác xe đạp trên vai, lần mò trong đêm tối, miệng vẫn phải kêu ơi ới: ‘Cha Quỳnh đây, anh Minh đây’ vì sợ anh em canh gác báo động nổ súng.
                   
                  Tới cơ sở đã quá nửa đêm, chúng tôi được anh em vui mừng đón tiếp, và câu hỏi đầu tiên của tôi hỏi anh Thuấn quản lý của trại là anh em có gì ăn không vì chưa ăn bữa cơm tối. Anh Thuần cho biết chỉ còn ít cơm nguội với muối vừng và vài củ sắn luộc. Cha Quỳnh và tôi đã được thưởng thức một bữa cơm đêm trên chiến khu Rịa ngon vô chừng kể.
                   
                  Sau khi ăn cơm nguội xong, cha Quỳnh bắt đầu sửa xe đạp tới 2 giờ sáng mới xong để sáng hôm sau hạ sơn xuống xứ Ngài để kịp dâng lễ ban sáng, rồi ngài lại leo đồi núi về sinh hoạt với anh em trong chiến khu Rịa.
                   
                  Nay cha Quỳnh đã về chầu Chúa, sau khi chết rũ tù ở khám Chí Hòa sau ngày Sài Gòn thất thủ năm 1975. Chúng tôi còn sống  ở nơi trần gian này, nguyện đọc cho ngài một kinh để nhớ lại biết bao kỷ niệm cha và chúng tôi đã trải qua trên con đường tranh đấu chống hết Pháp đến phát xít Nhật Bản và sau hết chống Cộng Sản độc tài vô thần và tàn ác từ miền Bắc tới miền Nam Việt Nam.
                   
                  #9
                    frank 20.05.2022 23:57:55 (permalink)


                    Chương 6


                    Việt Minh ‘cướp chính quyền’


                    Hơn nửa thế kỷ về trước, với lòng yêu nước và tinh thần phục quốc của người dân Việt lên cao đến mức cực độ, ai ai cũng mong muốn dành lại nền độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam, thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật Bản. Tình hình thế giới cũng biến chuyển  mạnh mẽ với cuộc đệ nhị thế chiến, tạo nhiều điều kiện cho tinh thần quốc gia của con dân đất Việt, được khích động và đầy sôi nổi.

                    Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhân cơ hội này, lợi dụng lòng yêu nước của mọi người, hô hào dân chúng tham gia cuộc Tổng Khởi Nghĩa ‘cướp chính quyền’ ở khắp nơi, Phát Diệm, quê hương tôi cũng ở trong tình trạng đó.

                    Sau khi Hoa Kỳ thả bom nguyên tử tàn phá hai tỉnh Nagasaki và Hiroshima, Nhật Hoàng tuyên bố Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Tại Việt  Nam, tổ chức Việt Nam Đồng Minh Hội thường được gọi tắt là Việt Minh nắm lấy thời cơ, gấp rút chuẩn bị cuộc  Tổng Khởi Nghĩa.

                    Ngày 8 tháng 7 năm 1945. Quốc Dân Đại Hội được Việt Minh tổ chức ở chiến khu Thái Nguyên, lệnh Tổng  Khởi Nghĩa được ban hành cho tất cả các chiến khu trên toàn quốc tập hợp lại lực lượng du kích và võ trang tuyên truyền thành lập quân đội Giải Phóng để lãnh đạo toàn dân ‘cướp chính quyền’.

                    Chiều ngày  17 tháng 8 năm 1945, Dân Chủ Đảng trong Mặt Trận Việt Minh, gồm đa số là giới trí thức, sinh viên và tiểu tư sản thành thị, trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Núp bóng Tổng Hội Công Chức, Việt Minh tổ chức cuộc mít tinh ở nhà Hát Lớn Hà Nội để tranh đấu đòi độc lập, đội xung phong tuyên truyền cướp máy phóng thanh hô hào dân chúng ủng hộ Việt Minh ngày 18 tháng 8 các đội tuyên truyền xung phong chia nhau đi khắp  nơi trong thành phố kêu gọi dân chúng tham dự biểu tình.

                    Ngày 19 tháng 8 một cuộc biểu tình vĩ đại được tổ chức tại nhà Hát Lớn Hà Nội, sau đó đoàn biểu tình kéo nhau đi ‘cướp chính quyền’ ở Bắc Bộ Phủ, trụ sở của vị Khâm Sai Triều Đình là ông Phan Kế Toại, ông này khiếp sợ trước khí thế của quần chúng, tuyên bố trao trả chính quyền cho nhân dân, thế là cuộc ‘cướp chính quyền’ của Việt Minh đã thành công mà không tốn một viên đạn.

                    Sau khi nghe tin Việt Minh ‘cướp chính quyền’ ở Hà Nội, dân chúng Phát Diệm phấn khởi, hồ hởi đổ xuống đầy đường đi ‘cướp chính quyền’, nhưng có ai đeo súng, mang theo khí giới gì đâu họ cũng chẳng biết hô những khẩu hiệu gì, nói gì, mà tất cả chỉ là đoàn người lặng lẽ kéo đi qua đến đâu, dân chúng nhập bọn thêm đông đảo đến đó, Tự nhiên khí phách mọi người lại gia tăng, nhưng cũng vẫn có một số người sợ sệt, đứng trong nhà ngó ra, họ nghĩ rằng từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, người ta chỉ  nói đi ‘cướp của’, chứ chưa hề nghe thấy nói hô hào đi ‘cướp chính quyền’ bao giờ.

                    Từ sau ngày Nhật đảo chánh Pháp mồng 9 tháng 3 năm 1945, chinh quyền Việt Nam ở Phát Diệm chỉ có đồn lính khố xanh ở Trí Chính được đặt dưới quyền chỉ huy của một  thượng sĩ già họ Phạm coi về an ninh và phủ Kim Sơn dưới quyền cai trị của viên tri phủ Ngô Gia Lễ. Khi biết tin Việt Minh đã cướp chính quyền ở Hà Nội và ở tỉnh lỵ Ninh Bình, nên cả ông tri phủ họ Ngô lẫn vị thượng sĩ khố xanh sẵn sàng để ‘mời’ mấy ông trong tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong  Mặt Trận Việt Minh lên ‘cướp chính quyền’. Nhưng khốn nỗi mấy ông Minh, Ngân và cha Hoàng Quỳnh còn đang ở chiến khu Rịa chưa kịp về.

                    Nhưng mọi nơi, người ta đều nói tới Tổng Khởi Nghĩa ‘cướp chính quyền’, mà ở Phát Diệm không hưởng ứng hay sao? Dù các  ông Minh, Ngân và cha Hoàng Quỳnh chưa về thì việc cướp chính quyền cũng cần phải được thực hiện ngay, nên một ban tham mưu ‘cướp chính quyền’ được vội vàng triệu tập, ông ký Thụy, một trắc địa viên ở ty đồn địa hỏi: ‘Bao giờ các anh ở chiến khu mới về?’ ông Thịnh, anh ruột của tôi hỏi: ‘Bao giờ chú Minh về cướp chính quyền?’

                    Một số thanh niên và hướng đạo sinh đã được tuyển chọn để lên chiến khu huấn luyện quân sự nhưng chưa kịp đi, nên được xung vào bộ tham mưu, anh nào cũng có vẻ mặt hồ hởi, quan trọng, dáng điệu bí mật, đã tự động đưa tới nào là vải, mực và dụng cụ để may cờ, vẽ biểu ngữ, họ hỏi nhau viết những chữ gì đây? Bàn hỏi mãi chẳng biết lối nào mà mò, vì nào ai biết gì đâu, ngay đến cờ của Việt Minh cũng chẳng ai biết, nên sau hết chỉ có những dòng chữ ‘Việt Nam Độc Lập muôn năm’ được viết ra mà thôi.

                    Như đánh hơi thấy có một sự gì lạ sắp xẩy ra, một số người già, người trẻ kéo tới xung phong nhận công tác, ông ký Thụy hỏi:

                    ‘Chúng ta đi ‘cướp chính quyền’ phải có cờ dẫn đầu, mà tôi không biết mầu sắc của lá cờ Việt Minh ra làm sao cả?

                    Anh Trung, con ông Vóc ở phố Phú Vinh huyênh hoang nói:

                    ‘Tôi biết cờ Việt Minh là cờ mầu đỏ có 3 sao vàng, tượng trưng cho ba kỳ Bắc, Trung và Nam’!!!

                    Bị hết người này đến người kia hỏi nhà tôi là bà Tuyết Minh, ủy viên tiếp tế của chiến khu Rịa:

                    Thưa chị, tại sao anh Minh, anh Ngân và cha Quỳnh, đến giờ này mà chưa thấy về?’

                    Nhà tôi chỉ biết trả lời nước đôi:

                    Cũng sắp về, chắc có ngăn trở việc gì, nên chưa về kịp  đấy thôi.’

                    Thực ra, ngày hôm trước, anh Thứ là liên lạc viên đã từ chiến khu về cho biết tin anh Minh anh Ngân và cha Hoàng Quỳnh đã vội vã rời chiến khu đi Hà Nội để tham dự  cuộc ‘cướp chính quyền’ ở thủ đô.

                    Không khí sôi động hồ hởi và khẩn trương, không biết danh từ ‘cướp chính quyền’ ở Hà Nội, ai xướng ra đầu tiên, có lẽ một số người chỉ biết nghe, chưa kịp hiểu cướp chính quyền là làm sao, cướp ở đâu, cướp rồi  sẽ làm gì?

                    Nghe nói đi cướp chính quyền xem ra ai ai cũng đều hăng hái lắm,  riêng  ở Phát Diệm, một cụ già nói:

                    ‘Ở đồn ở phủ, người ta có súng có ống, còn bọn mình đi ăn cướp ‘chính quyền’ bằng tay không, nhỡ nó bắt cả tụi giam lại thì sao? ‘Hãy đợi tin mấy ông ở chiến khu về có súng ông, khí giới mình hãy đi’.


                    Lại một người  khác giục:

                    ‘Không đợi được, cứ đi vì tôi nghe tin các phủ, huyện lân cận người ta đã cướp được chính quyền cả rồi, như huyện Gia Khánh gần tỉnh lỵ Ninh Bình, chỉ có một người đàn bà cũng cướp được chính quyền’.

                    Người nói ra người nói vào, biết đâu mà tin được, nên cuộc họp của ban tham mưu mở rộng được hoãn, gọi là hoãn  binh chi kế, để về nhà ăn cơm chiều.

                    Sau bữa ăn chiều, mọi người lục tục trở lại để tiếp tục cuộc họp để nghe ngóng tình hình xem có thêm tin tức gì ở chiến khu về không? Ban tham mưu chỉ có 3 người, ông anh cả của tôi Nguyễn Đình Thịnh thì đang bị bệnh sốt rét, nhưng vẫn cố gắng bàn kế hoạch với ông ký Thụy và bà Tuyết Minh, sau cùng ban tham mưu quyết định lấy lực lượng quần chúng làm hậu thuẫn cho công cuộc khởi nghĩa ‘cướp chính quyền’.

                    Ban tham mưu cho người tới đồn Trì Chính và phủ lỵ dò la tin tức, được báo cáo cả hai nơi đều sẵn sàng chờ người tới tiếp thu súng ống, sổ sách đã được bầy la liệt trên bàn để làm bàn giao, và các công chức đều có mặt không thiếu ai. Công cuộc ‘cướp chính quyền’ được quyết định thực hiện ngay trong buổi tối, và đoàn người kéo đi do anh Thịnh và ông ký Thụy cầm đầu, các thanh niên và hướng đạo sinh xông xáo kêu gọi dân chúng hưởng ứng xuống đường dự cuộc ‘tổng khởi nghĩa’.

                    Từ nhà chúng tôi tới đồn Trì Chính chỉ cách có độ 500 thước, nên chỉ lèo tèo có mấy người, thế mà cuộc ‘cướp chính quyền’ được gọi là ‘thành công mỹ mãn’, vì ủy ban cách mạng đã tiếp thu đầy đủ súng ống, được ông thượng sĩ già làm bàn giao ký giấy tờ đàng hoàng, một số linh khố xanh xin tình nguyện ở lại để phục vụ dưới quyền ủy ban cách mạng, số còn lại xin được giải ngũ tại chỗ.

                    Sau cuộc ‘cướp chính quyền’ ở đồn lính khố xanh Trì Chính, đoàn người kéo nhau đi ‘khởi nghĩa cướp chính quyền’ ở phủ lỵ Kim Sơn ở Quy Hậu cách đồn Trì Chính độ 4 cây số, dân chúng lúc này tham dự cuộc tuần hành thật đông, mọi người lẳng lặng kéo nhau đi trong đêm tối, liên lạc viên tới tấp chạy về báo cáo tình hình, tới phủ đường, đèn nến đốt sáng nhưng ông tri phủ Ngô Gia Lễ cùng với các công chức niềm nở tiếp đón dân chúng,  nộp đủ giấy tờ sổ sách cho ông Thịnh và ông ký Thụy và hầu như trút được gánh nặng, ông phủ họ Ngô tuyên bố: ‘Ngày mai, tôi xin lên đường về quê nhà, vui thú điển viên’ và biếu ủy ban Cách Mạng chiếc xe hơi của riêng ông, mọi người đều vỗ tay hoan hô nhiệt liệt.

                    Ấy đó, cuộc khởi nghĩa ‘cướp chính quyền’ oanh liệt của ‘Việt Minh’ Phát Diệm, có thua gì cuộc Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội đâu.

                    Xét việc hành chánh và trị an rất cần được liên tục, nên ông Thịnh dù chưa biết gì về hành chánh, và đang đau yếu, nhưng vì nhu cầu công vụ ông cũng phải tạm thời nhận chức vụ mới gọi là phủ trưởng, và ông giữ lại các công chức cũ để cùng làm việc. Khuya quá nửa đêm, công việc tiếp thu mới hoàn tất, mọi người đều mệt mỏi, sau một ngày đầy căng thẳng, vừa vui vừa lo sợ.

                    Qua một đêm an lành, tin ủy ban cách mạng tiếp thu chính quyền đã được loan đi khắp phủ Kim Sơn, sáng sớm hôm sau, dân chúng ở khắp đường phố Phát Diệm bàn tán chờ đợi một cuộc mít dinh do ủy ban bách mạng quyết định tổ chức ngay tại khu Chợ  Cói ở xã Trì Chính.

                    Một số anh em ở trên chiến khu Rịa đã trở về kịp tham dự mít tinh, trong đó có các anh Đinh Văn Khanh, Trần Huấn, Kim Phát, đều là trưởng  trong liên đoàn Hướng Đạo Cụ Sáu, thêm Phan hỗn danh Phan Chó (bí danh Hồ Du Tử sau này cùng với Tạ Đình Đề, một cặp tình báo của Việt Minh nổi tiếng một thời ở miền Bắc) và một số thanh niên khác nữa.

                    Ngay từ sáng sớm tinh sương, một thanh niên xung phong cầm hoa bằng giấy cứng, hô hào mọi người tập trung tại khu Chợ Cói để họp mít tinh và tuần hành, anh ta đi lên đi xuống theo dọc đường phố chính của thị xã Phát Diệm, nơi tập trung buôn bán có nhiều người đi lại, Chợ Cói là chợ chuyên bán cói và đay là hai vật liệu chính của nghề dệt chiếu rất được phồn thịnh trong vùng. Chợ Cói tọa lạc ngay bên bờ sông An Giang, dưới bóng  cây đại thụ mà bên kia đường số 10 là đồn lính khố xanh Trì Chính.

                    Lệnh cấm chợ được ban ra để mọi người tham dự mít tinh, nghe tiếng loa hô hào, người ta tụ tập mỗi lúc một đông chờ đợi cuộc tuần hành. Cờ đỏ sao vàng lớn nhỏ ở đâu ra mà nhiều thế, và một số người đã tự động đính trên ngực phủ hiệu sao vàng chạy đi chạy lại lăng xăng, quát chỗ này, chạy lại chỗ kia kêu gọi mọi người đứng vào hàng ngũ.

                    Một ông trung niên ở đâu không biết, nhẩy ra quát tháo như muốn chỉ huy đám người ô hợp này, ông này không có mặt trong đoàn người tiếp thu chính quyền đêm hôm trước, nay nhẩy ra ’ăn có’ cùng một số người ủng hộ ông ta. Một cụ gìa hăng hái nhẩy lên sân khấu mới được tạm thời thiếp lập, tuyên bố chỉ những người mới ở chiến khu về mới có quyền ăn nói, tiếng vỗ tay của dân chúng nổi lên ào ào.

                    Bỗng nhiên, trên sân khâu, xuất hiện một  thanh niên, mặt mũi non choẹt, mặc đồ kaki nhà binh, đeo khẫu súng lục trễ bên hông, đứng giữa hai anh tự vệ quân mang súng ‘mút cồ tông’ dõng dạc tuyên bố ‘Ai lôi thôi bắn bỏ’, mọi người thốt lên một tiếng: ‘Ồ, ra anh Lê Xuân Nguyên, anh em con chú con bác của nhà tôi,  mà người ta mới được biết là dân ở chiến khu về nắm quyền  đồn trưởng, phụ trách chỉ huy quân sự của ủy ban cách mạng.

                    Trật tự của cuộc mít tinh được vãn hồi, nhưng chẳng ai nói, chẳng ai nghe, vì có ai biết nói gì đâu, mọi người chỉ mong chờ những vai chính: Minh, Ngân và cha Quỳnh xuất hiện, nhưng chẳng thấy bóng vía 3 người này đâu cả.

                    Trời nắng chang chang, và mọi người chờ đợi khá lâu, khát nước, nên nhiều người ở xa tìm cách chuồn dần, anh đồn trưởng Nguyễn liền hạ lệnh kéo nhau đi tuần hành, vừa đi vừa hô to khẩu hiệu: ‘Việt Nam Độc Lập muôn năm’ trên suốt  quãng đường tiến tới phủ lỵ, rồi quay về nơi xuất phát vào lối 4 giờ chiều, mọi người vừa đói vừa khát nước, nhưng đều hân hoan vì cuộc tiếp thu chính quyền đã thành công mỹ mãn.

                    Công cuộc ‘Việt Minh cướp chính quyền’ ở Phát Diệm là như vậy đó, trừ cha Hoàng Quỳnh ra, hai ông lãnh đạo ở chiến khu là Minh, Ngân thì tuổi cũng chỉ có 26; Ủy ban cách mạng gọi là lãnh đạo cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền này chỉ có 3 người: Tuyết Minh, nhà tôi, một phụ nữ 25 tuổi, trưởng ban tiếp tế của chiến khu Rịa, ông Thịnh, anh ruột tôi, mảnh khảnh đau yếu, 30 tuổi tuổi và ông ‘xếp’ Thụy, gọi là có kinh nghiệm hành chánh nhưng tuổi cũng chỉ 30, còn lại chỉ là những ‘nhãi con’ tuổi trên dưới 20.

                    Tuy chỉ là những thanh niên ít tuổi, thiếu kinh nghiệm đời nhưng phần nhiều đều được huấn luyện về chính trị và lòng họ đầy hăng say, dám làm, vì dân, vì nền độc lập quốc gia, bất kể những đe dọa tù đầy của mật thám Pháp, của mật thám Kempetai Nhật Bản, họ dám nhận hy sinh không nề quản mọi khó khăn, và trên con đường hoạt động, cũng nhiều khi coi mình như ‘rồn vũ trụ’, nên cuộc đời cách mạng cũng thường lên voi xuống chó, ba chìm bẩy nổi.

                    Đến tối ngày mít tinh, 3 vai chinh của chiến khu Rịa mới đạp xe đạp suốt từ Hà Nội về Phát Diệm để được báo cáo đầy đủ về mọi diễn tiến của cuộc ‘cướp chính quyền’ ở phủ Kim Sơn và một cuộc họp mở rộng cũng được triệu tập để nghe tường trình về cuộc cướp chính quyền tại Bắc Bộ Phủ ở Hà Nội, và cũng từ đây bắt đầu một cuộc đời cách mạng đầy sóng gió của các anh Minh, Ngân và cha Hoàng Quỳnh.

                    (còn tiếp)
                     
                     
                    #10
                      frank 22.05.2022 02:50:24 (permalink)


                      Chương 7


                      Lễ ‘trao kiếm’ tượng trưng thần quyền



                      Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh ra mắt dân chúng, tại công viên Cột Cờ Hà Nội, đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tuyên bố nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, cùng ngày đó tại trước phương đình  nhà thờ chính tòa Phát Diệm, hơn 50 ngàn dân chúng họp mít tinh mừng ngày độc lập, nhưng lại được chứng kiến một lễ nghi hơi lạ mắt tỏ ra tinh thần chống cộng sản vô thần một cách cao độ của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, đó là lễ ‘trao kiếm hiệp sĩ’ cho hai anh Trần Ngân và Nguyễn Đình Minh, lãnh tụ của Mặt Trận.

                      Tại sao lại có những sự trái ngược như vậy xẩy ra? Nguyên do là sau khi nghe tin Việt Minh cướp chính quyền ở khắp nơi, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, năm đó 77 tuổi, giữ chức giám quản địa phận Phát Diệm, sau khi Đức Cha Phan Đình Phùng đột ngột qua đời ngày 27 tháng 2 năm 1944, tỏ vẻ lo sợ và có thể nói là ngài  hoảng hốt vì nghĩ rằng vụ Việt Minh cướp chính quyền sẽ giống như cuộc Cách Mạng ở Pháp năm 1780 với những chuyện hàng giáo phẩm bị bách hại.

                      Cha chính địa phận Phát Diệm Lucas Mai Học Lý triệu tập một cuộc họp tại tòa Giám Mục, trong đó có cha Hoàng Quỳnh, tôi và anh Trần Ngân, để trình bầy với Đức Cha Nguyễn Bá Tòng về những hoạt động của Mặt Trận Công Giáo Việt Nam Cứu Quốc cùng với Mặt Trận Việt Minh, và một điều chúng tôi trình bầy  làm cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng yên tâm là Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc có quyền võ trang cho các đoàn viên  trong tổ chức gọi là Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc. Do đó thanh niên của mỗi xứ đạo sẽ được đoàn ngũ hóa và được huấn luyện  quân sự cùng được võ trang để bảo vệ cho dân chúng trong giáo xứ và đóng góp  vào công cuộc bảo vệ nền độc lập quốc gia.

                      Vấn đề đảng Cộng Sản nằm trong Mặt Trận Việt Minh cũng được mổ  xẻ kỹ lưỡng trong cuộc họp này, tuy nhiên chúng tôi cũng trình bầy rằng đây là một vấn đề khá tế nhị trong giai đoạn đấu tranh dành độc lập cho đất nước và cảm thấy cần  phải học hỏi thêm.  Và một điều làm chúng tôi ngạc nhiên  và thích thú là cha Mai Học Lý cho chúng tôi mượn một tài liệu vô cùng quý báu ‘Une somme catholique contre les Sans Dieu’ để rút kinh nghiệm về những cuộc bút chiến đã diễn ra ở Pháp giữa một số học giả người Công Giáo Pháp và bọn vô thần có khuynh hướng  theo Cộng Sản. Sau đó chúng tôi  cũng dựa vào đó để gây một cuộc bút  chiến giữa tuần báo ‘Sống’ cơ quan chính thức của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và tờ báo Sự Thật cớ quan truyền thông của đảng Cộng Sản Đông Dương.

                      Sau khi anh Nguyễn Hữu Đang, trưởng ban tổ chức Lễ Tuyên Ngôn Độc Lập ở Hà Nội báo tin cho chúng tôi biết là ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 được chọn làm ngày Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn ở công viên Cột Cờ, một cuộc họp thứ hai được triệu tập cũng ở tòa Giám Mục, thêm sự hiện diện của cha Anselmô tức Đức Cha được chỉ định Lê Hữu Từ vừa từ Châu Sơn xuống Phát Diệm. Vấn đề tổ chức lễ tuyên bố Độc Lập được đưa ra thảo luận và hội đồng đồng ý về một chương trình tổ chức trao kiếm hiệp sĩ.

                      Đúng ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, sau khi hơn 50 ngàn dân chúng đã tề tựu đứng đầy sân phương đình và tràn qua hồ, Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, Cha Anselmô Lê Hữu Từ và cha chính Mai Học Lỳ ngồi ghế chủ tọa ngay trên phương đình. Sau các lễ nghi chào cờ, mặc niệm và bài tuyên ngôn được đọc lên, cha Hoàng Quỳnh tiến lên gắp dấu hiệu cờ đỏ sao vàng lên ngực của 3 vị chủ tọa, sau đó các anh Trần Ngân và Nguyễn Đình Minh tiến lên trong bộ quân phục kiểu sĩ quan Pháp, anh Ngân được Đ/C Tòng và anh Minh được cha Anselmô tức Đ/C Từ đặt kiếm lên vai và ban phép lành, giống như ở bên trời Âu nhận kiếm trước khi chiến đấu đánh đuổi quân Hồi chiếm giữ Tháng Địa vậy.

                      Cũng trong cuộc lễ này hai người ‘Dân Tây’ là ông Đỗ Văn Đàng và André Dzụ lên tuyên bố từ bỏ quốc tịch Pháp và được dân chúng hoan hô nhiệt liệt.

                      Cuộc trao kiếm hiệp sĩ đã gây nên nhiều tranh luận, mấy cán bộ cộng sản cho rằng lễ trao kiếm này chứng tỏ mấy ông ‘đầu sỏ’ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn lãnh quyền cai trị từ nơi có thần quyền chứ không từ dân chúng, người khác lại nói rằng Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc cướp chính quyền ở Phát Diệm là nơi mà đa số dân chúng là công giáo, nên việc các Đức Giám Mục trao kiếm hiệp sĩ cho 2 lãnh tụ Mặt Trận này chẳng có gì là lạ cả.

                      Nhưng sự thực, việc trao kiếm hiệp sĩ này có ý nghĩa đặc biệt là tuy Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nằm trong Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Đông Dương, mà ai cũng biết là Cộng sản chủ trương vô thần, nên việc trao kiếm này tượng trưng tinh thần độc lập của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đối với Mặt Trận Việt Minh trên phương diện ý thức hệ, đồng thời cũng chứng  tỏ đường  lối chống cộng sản vô thần, nhưng nhận hợp tác trong công cuộc  dành độc lập tự do cho  Tổ Quốc Việt Nam.

                      Việc trao kiếm hiệp sĩ này cũng coi như hành động hơi ‘ngông’ của 2 thanh niên Phát Diệm, tuổi mới 26 nhưng nhiều khi cứ muốn tự coi mình như là ‘rốn vũ trụ’, vì bửng mắt ra thấy cuộc cách mạng đã thành công, sau mấy chuyến vào sinh ra tử nơi chiến khu Rịa.

                      Làm sao lại không ‘ngông’ nhỉ, khi anh Ngân và tôi lên Hà Nội, rủ Nguyễn Hữu Đang, lúc ấy đang bận tíu tít vì đứng đầu ban tổ chức lễ Tuyên Ngôn Độc Lập cùng đi lên phố hàng Da với chúng tôi để sắm bộ quân phục của sĩ quan Pháp, với đôi ủng bằng da, lẫn thắt lưng và vỏ bọc kiếm cũng bằng da đánh xi bóng loáng, để mặc trong ngày lễ trao kiếm hiệp sĩ. Sau khi mặc thử bộ quân phục, tôi quay sang hỏi:

                      ‘Anh Đang ơi, trông chúng tôi có được không?’

                      Đang khen:

                      Trông  các cậu oai lắm’.

                      Không  biết anh Đang nói đùa hay nói thật vì khi tới Hà Nội chúng tôi đã nói cho anh ấy biết  chương trình của cuộc lễ tuyên ngôn độc lập ở Phát Diệm kể cả chuyện trao kiếm hiệp sĩ mà anh ấy không hề phản đối.

                      Đây là cảnh 2 thanh niên Phát Diệm hơi ngông gặp một thanh niên gốc Thái Bình lớn hơn 8 tuổi lại còn ngông hơn nữa, đúng vậy, ai dám bảo Nguyễn Hữu Đang không ngông! Khi làm bộ trưởng  bộ Thanh Niên trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, trưởng  ban tổ chức lể Tuyên Ngôn Độc Lập, sau này khi ra bưng kháng chiến giữ chức Tổng Thanh tra Bình Dân Học Vụ, rồi đến 1954 về thành, Nguyễn Hữu Dang không nhận lời mời ra tham chính để trở về nhà làm nhà in, rồi ra tờ báo Nhân Văn để trở thành phản động đầu xỏ, để rốt cuộc lãnh bản án 17 năm tù.

                      Đến ngày nay anh Đang bị phát vãng về nơi sinh quán ở xã Vũ Công, huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình và mới đây nhà văn Phùng Quán có về thăm Nguyễn Hữu Đang đang sống một đời sống vô cùng đói khổ, đây Phùng Quán viết:

                      ‘…Anh (Đang) chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn đãi khách: ‘Đây là thịt chả cóc băm viên. Đây là thịt chả nhái.. có cả mỳ chính, hạt tiêu nhá! Mười mấy năm nay nhờ bồi dưỡng thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khỏe, còn khá hơn cả chú….’

                      Sau nửa thế kỷ dài dằng dặc, đời sống của con người có biết bao nhiêu thay đổi, ai có thể tưởng tượng được rằng anh Nguyễn Hữu Đang, cựu bộ Thanh Niên của chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, nay đang được bồi dưỡng bằng ‘ăn chả thịt cóc’ cầm hơi ở cái chái bếp căn hộ độc thân rộng khoảng năm mét vuông ở tỉnh Thái Bình.

                      Nếu Ơn Trên phù hộ và anh Đang có dịp đọc được những dòng chữ này, hay những ai biết được địa chỉ hiện nay của Nguyễn Hữu Đang, nghe đâu như đã về sống ở Hà Nội, xin cho tác giả biết.

                      Trong một cuộc lên thăm Hà Nội, Trần Huy Liệu, thuộc Tổng Bộ Việt Minh đã tiếp chúng tôi tại Bắc Bộ Phủ cùng vơi Nguyễn Hữu Đang để thảo luận về những vấn đề liên hệ tới mối liên lạc giữa  Tổng Bộ Việt Minh với các tổ chức Công Giáo trên toàn quốc. Vì trong thời gian này trừ các địa phận Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long do các giám mục Việt Nam quản nhiệm, còn tất cả các địa phận khác trên toàn quốc đều do các giám mục người Pháp hay Tây Ban Nha quản nhiệm, hơn nữa một số nhiều xứ đạo trên toàn quốc lại có các vị thừa sai ngoại quốc làm cha chính xứ.

                      Một trường hợp điển hình được đưa ra thảo luận là tại thành phố Nam Định, cha Vacquier, tên Việt Nam thường được gọi là Cố Cao, là  một vị linh mục thừa sai người Phát hoạt động rất hăng say về thanh niên Công Giáo Tiến Hành và trong thời gian nạn đói đang giết chết nhiều người nhất ở Thái Bình và Bùi Chu thì Cố Cao, chính xứ Nam Định, đã cứu sống hàng mấy chục ngàn người thoát khỏi nạn đói bằng việc mộ họ vào làm phu cho các đồn điền cao su ở miền Nam Viêt Nam và nhờ ở ảnh hưởng rất lớn cũng như tài xoay sở tuyệt vời của Cố Cao, việc chuyên chở mấy chục ngàn người mới được trót lọt vào được miền Nam, vì đường vận chuyển đều bị tắt nghẽn gây ra bởi bom đạn của không lực Đồng Minh.

                      Cố Cao đáng được coi là vị cứu tinh của người nghèo đói, thì ngay sau khi cướp chính quyền, Việt Minh địa phương đã bắt giam Cố Cao và ông Tú Huyên, thủ lãnh Thanh Niên Công Giáo Tiến Hành ở Nam Định. Cả Cố Cao lẫn ông Tú Huyên, sau đó đều bị Việt Minh địa phương thủ tiêu.

                      Sau cuộc thảo luận tại Bắc Bộ Phủ, Trần Huy Liệu cử tôi lãnh trách nhiệm vụ Ủy Viên Liên Lạc của Tổng Bộ Việt  Minh với các tổ chức Công Giáo trên toàn quốc, tôi thấy rằng đây là cơ hội rất tốt để bành trướng thêm Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và bắt được liên lạc với tất cả các tổ chức công giáo trên toàn quốc.

                      Với nhiệm vụ mới này, tôi thường có dịp đi khắp đó đây trên toàn quốc để làm phận sự được trao phó. Cứ tưởng tượng một thanh niên công giáo, còn non choẹt vì tuổi mới có 26, đi trên một cái xe hơi  hộp có cắm cờ, do tài xế lái tới tòa Giám Mục Hà Nội để nói chuyện với Đức Cha Chaize (Thịnh) về việc Việt Minh ở Nam Định bắt  giữ Cố Cao, rồi lại có dịp khác xuống Hải Phòng để gặp xã giao Đức Cha Francois Gomez (Lễ), người Tây Ban Nha rồi lại dịp khác nữa cùng với cha Hoàng Quỳnh tới  thăm cha quản hạt người Tây Ban Nha ở Kẻ Sặt.

                      Sau đó lại về tỉnh lỵ Hải Dương thăm anh Chương và đi đến đâu cũng tiếp xúc với các đoàn thể thanh niên công giáo, đọc hết bài diễn văn nọ đến bài diễn văn kia, tuy nhiên đề tài vẫn là những hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và chiến khu Rịa trong hiện tại và tương lai.

                      Dù câu chuyện xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ và ông Trần Huy Liệu nay đã ra người thiên cổ, nhưng viết đến đây tôi cũng muốn nói lên sự biết ơn của tôi đối với người lãnh tụ Cộng Sản này, nguyên do là vào ngày 12 tháng 12 năm 1946, hai tên tình báo Việt Cộng trong đó có một người tên là Thịnh, tiến tới bắt giữ và xích tay tôi cùng với bạn là Đỗ Ngọc Tân đẩy chúng tôi lên một chiếc xe đò và đưa chúng tôi vào ty Công An tỉnh Ninh Bình, giữ giam ở đó và tạm thời tôi bị rốt trong một xà lim.

                      Nhìn ra ngoài thấy bóng trưởng ty Công An Đào Gia Lựu và phó trưởng Nguyễn Văn Tài, đều là người quen. Đặc biệt anh Tài này trước kia là liên lạc viên giữa chiến khu Rịa và chiến khu của Việt Minh ở Quỳnh Lưu, nên thấy tôi bị giam ở xà lim, Tài hơi ngạc nhiên, sau đó Tài xuống tận nơi cho biết tên Thịnh ở ban an ninh của Vệ Quốc Đoàn bắt tôi và gửi ở ty Công an không nói rõ lý do và tội trạng. Tài nhận cho người về báo tin cho gia đình tôi biết và hạ lệnh không đóng cửa xà lim cùng cho đem cơm ở ngoài chứ không ăn cơm tù.

                      Nhà tôi được tin tôi bị bắt giam ở Ninh Bình, bèn gửi con cho bà ngoại, đi lên Hà Nội, để gặp Trần Huy Liệu, lúc đó Liệu đang sửa soạn rút ra bưng kháng chiến, tuy hết sức bận bịu nhưng Liệu đã viết một văn thư ra lệnh cho ty Công An tỉnh Ninh Bình thả tự do cho tôi ngay. Nhà tôi mang thư này và chờ mãi mới rời được khỏi Hà Nội, ngồi trên mui chuyến xe hỏa cuối cùng tối ngày 19 tháng 12 năm 1946 là ngày cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ ở Hà Nội và ở Bắc Việt.

                      Nằm trong xà lim, nghe rõ tiếng súng đại bác của Pháp, nổ rền vang ở Nam Định, vọng tới Ninh Bình cách xa 28 cây số, lòng tôi hồi hộp lo sợ cho số phận của mình thì ít, nhưng lo cho vợ tôi thì nhiều, vì không biết lúc này đã thoát ra khỏi Hà Nội hay chưa? Và may thay ngày hôm sau trưởng ty công an Đào Gia Lựu đã nhận được lệnh tha và đích thân xuống mở cửa xà lim và mời tôi đi về nhà.


                      (còn tiếp)
                      #11
                        frank 24.05.2022 00:43:03 (permalink)
                        Chương 8


                        Tranh luận với Phạm Văn Đồng về lý thuyết xã hội Công Giáo và học thuyết Cộng Sản vô thần


                        Vào đầu thập niên 1940, cố Cao tức Père Vacquier ở nhà thờ tỉnh lỵ Nam Định, có mở một thư viện với khá nhiều sách vở do ông Hàn Hòa làm quản thủ thư viện. Biết tôi là người mê đọc sách, cố Cao đã cho tôi một đặc ân là được phép mượn từng lô sách bằng tiếng Pháp rất quý, đưa về nhà đọc, vì tôi ở Phát Diện cách xa thành phố Nam Định 57 cây số.

                        Vì đọc quá nhiều sách của thư viện, cố Cao đã gọi tôi là con chuột của thư viện (Tu es le rat de ma biblothèque), và sau khi làm lễ thành hôn vào đầu năm 1942, cả hai vợ chồng đều mê đọc sách cả, nên chúng tôi nghĩ rằng để có đủ sách để đọc, tốt hơn hết là mở một tiệm bán sách.

                        Tiệm sách của chúng tôi lấy tên là Sĩ Thành, ngoài việc bán đủ mọi loại sách và báo, chúng tôi lại có cái thú sưu tầm sách báo mà quý nhất là toàn bộ kể từ số 1 của báo Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh, báo Phong Hóa và Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và một số lớn các loại sách báo quý khác. Người giúp chúng tôi trong việc sưu tầm sách quý, cùng liên lạc với các nhà xuất bản là thi sĩ Hồ Dzếnh, người bạn chí thân của gia đình chúng tôi.

                        Trong các số sách bầy bán, có đầy đủ các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên, theo nhận xét của chúng tôi thì nhóm Hàn Thuyên chủ trương trình bầy học thuyết cộng sản dựa trên: Định luật tiến hóa (Evolutionism) của nhóm Cộng Sản vô thần, có khuynh hướng Đệ tứ Quốc tế thường được gọi là Trotskit. Một hôm, cha Phạm Ngọc Lưu, một chỗ thân tình với gia đình là giáo sư đại chủng viện Thượng Kiệm, đến thăm chúng tôi và mua sách.

                        Cha thấy chúng tôi miệt mài đọc các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên như: ‘Khỉ là Thủy Tổ của Loài Người’, ngài khuyên chúng tôi phải chọn sách để đọc, vì ngài cho rằng các loại sách này chủ trương nghịch với Công Giáo, và ngài có một cử chỉ khá độc đáo là bỏ tiền mua hết tất cả các loại sách của nhà xuất bản Hàn Thuyên bầy bán trong tiệm, nói là cần mua cho thư viện đại chủng viện. Sau đó, vào những ngày nghỉ, cha Lưu thường ra thăm và thảo luận với vợ chồng chúng tôi trong nhiều giờ đồng hồ về vấn đề duy tâm và duy vật cũng như về lý thuyết xã hội Công Giáo và học thuyết Cộng Sản vô thần.

                        Từ những cuộc thảo luận tư riêng với cha Lưu, một đề nghị được đưa ra để thành lập Trung Tâm Nghiên Cứu (Cercle d’Études) gồm có các đại chủng sinh thường được gọi là ‘các ông già’ trường Lý Đoán và các thanh niên có thiện chí họp nhau hàng tháng, để hội luận một cách công khai những đề tài liên quan đến công cuộc cải tiến xã hội theo lý thuyết xã hội Công Giáo được quy định qua các bản thông điệp lừng danh Rerum Novarum (Tân Sự) của Đức Giao Hoàng Leo XIII ra năm 1891, chủ trương một lý thuyết xã hội Công Giáo xây dựng xã hội trong tình bác ái.

                        Được thừa hưởng tình yêu Thiên Chúa, người Công Giáo có bổn phận truyền bá di sản quý báu ấy trong công cuộc cải tạo xã hội, vì bác ái là phương tiện hiệu nghiệm nhất và là phương tiện duy nhất hướng dẫn thế giới trên đường tiến bộ chân chính, chống lại chủ thuyết sai lạc của Cộng Sản vô thần chủ trương giai cấp đấu tranh.

                        Cuộc giai cấp đấu tranh của Cộng Sản thiếu sự công bằng và hợp lý vì Cộng Sản không cho đối phương, tức giai cấp đối nghịch với giai cấp vô sản, bất cứ quyền hạn nào kể cả quyền được sống. Với chủ trương ấy, khẩu hiệu phải tiêu diệt của cộng sản vô thần trước hết nhằm vào các tôn giáo nhất là giáo hội Công Giáo, mà cộng sản không ngần ngại sát hại vì cho rằng Công Giáo gieo rắc hạt giống bác ái yêu thương giữa nhân loại, đi ngược lại chủ trương gieo rắc hận thù để tiến tới giai cấp đấu tranh tiêu diệt tư bản để tiến tới thế giới cộng sản đại đồng.

                        Lý thuyết xã hội của Công Giáo: xây dựng một xã hội trong tình bác ái theo thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum) đã được các quốc gia Tây phương xử dụng trong công cuộc cải tiến xã hội tiến tới việc nâng cao đời sống của giới công nhân và người nghèo, và công cuộc ấy đã thành công một cách rực rỡ, nên nhiều phong trào và đảng phái mang tên Xã Hội Thiên Chúa Giáo đã được dân chúng tín nhiệm bầu lên nắm giữ chính quyền ở các quốc gia này.

                        Để kỷ niệm sự thành công vượt bực của Thông Điệp Tân Sự vào năm 1921 Đức Giáo Hoàng Pio XI đã ban hành Thông Điệp Quadragesimo Anno (Đệ Tứ Thập Chu Niên) để bổ túc cho lý thuyết xã hội Công Giáo: xây dựng xã hội trong tình bác ái bằng một chính sách mới của Giáo Hội chủ trương bảo vệ quyền tư hữu của con người, chống lại học thuyết của cộng sản vô thần chủ trương vô sản hóa để gọi là tiến tới mục tiêu không tưởng: Thế giới cộng sản đại đồng.

                        Khi tranh luận về Đinh luật Tiến Hóa, nền tảng của học thuyết Cộng sản, chúng tôi biết rằng đối với triết học Karl Marx, Tiển hóa đồng nghĩa với đấu tranh, cách mạng và lao động. Đối với Marx chỉ có một thực tại là vật chất, ngoài vật chất ra không có những thực tế tâm linh, hoặc thực tế cơ giới nào nữa. Con người cũng như loài vật hay cỏ cây đều là kết quả của sự biến hóa vật thể.

                        Dưới con mắt của nhà sinh vật học, nguyên nhân chính của sự tiến hóa con người chỉ là một trong những tiến hóa của loài động vật có vú (mamalian evolution). Trong sự cấu tạo của vật thể và tác dụng sinh lý, con người theo định luật tiến hóa, như được chứng minh bởi những vật hóa thạch của các loài vật có vú, như khỉ được tiến hóa dần dần thành con người. Nhưng nếu đặt ngược lại câu hỏi rằng: ‘Đồng ý con người được tiến hóa dần dần từ một loài vật có vú, nhưng những loài động vật ấy cũng như cả vũ trụ này không tự nhiên mà có được, vậy nguyên chất hay vật chất đầu tiên được tiến hóa thành con khỉ để khỉ tiến hóa thành con người, tự đâu mà có?

                        Với quan niệm rằng vũ trụ và loài người cùng vạn vật không thể tự nhiên mà có được, điều này chúng mình là phải có một đấng Chí Tôn đã tạo dựng nên mọi sự. Đấng Chí Tôn đó chúng ta thường gọi là ông Trời, là Thượng Đế hay là Thiên Chúa và từ đó mới có những thực tại như vũ trụ, loài người và vạn vật.

                        Tổ tiên chúng ta từ thời xưa, thường quan niệm một các hết sức sâu sắc về ông Trời, và ngày nay, ngôn ngữ chúng ta thường nói hằng ngày chứng minh một định luật ‘Tạo Dựng’ (Creationism) trái ngược hẳn lại với định luật ‘Tiển Hóa’ (Evolutionism) của Cộng Sản.

                        ‘Ngày xưa, trước tất cả mọi sự đã có ông Trời. Trời là một bậc quyền phép vô song ở trên cao, làm ra tất cả: Trái đất, núi non, sông biển mưa nắng. Trời sinh ra tất cả: loài người, muôn vạn vật, cỏ cây…. Từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao trên trời cho đến vạn vật ở mặt đất đều do Trời tạo nên.

                        ‘Trời có con mắt thấy tất cả, biết hết mọi sự xẩy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ muôn loài, xét đến muôn vật, thưởng phạt không bỏ ai. Do đó mà con người tin có đạo Trời, nhờ Trời, cho là Trời sinh, Trời dưỡng, và đến khi chết thì về chầu Trời.

                        ‘Giang sơn của Trời là từ mặt đất lên đến trên cao, có chín tầng Trời, và chỗ giáp với đất là chân trời. Trời vô hình không nói, nhưng người ta tin ở đâu cũng có mặt của Trời, mọi việc đều do Trời định.

                        Ông Trời của Việt Nam thời cổ cũng được gọi là Ngọc Hoàng, từ khi văn hóa Trung Hoa tràn sang Việt Nam với đạo Lão

                        (trích: Việt Nam Văn Học Toàn Thư)

                        Người Viêt Nam chúng ta tin có ông Trời thì Cộng Sản vô thần lại quan niệm ngược lại nói rằng không có một cái gì hết: Ông Trời không, Thiên Chúa không, nhân loại không, thế giới không, chân lý không, không biết gì, không yêu gì, không tìm gì cả.

                        Con người Viêt Nam chúng ta từ cổ tới kim luôn luôn tin tưởng có ông Trời, tin có thần thánh và không phải mới hôm qua hay hôm nay người ta mới nói tới câu chuyện thần linh. Dưới hình thức này hay hình thức khác trong các động đá hồi thời thượng cỗ, người ta đã tìm ra vết tích tôn giáo, nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại được coi như như cây đuốc soi sáng cho thế giới như Plato, Plutarque đều là những người tin vào sự hiện hữu của ông Trời hay được gọi là Thượng Đế hay là Thiên Chúa.

                        Trong khi đó mấy nhà Duy Vật của cộng sản vô thần lại cho rằng: ‘Người là một con vật không bao giờ được thỏa mãn, bao giờ cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước được hiểu biết rộng rãi, luôn luôn muốn được yêu thương, muốn quyền cao danh vọng… Dưới những ảnh hưởng, những khuynh hướng không bao giờ được thỏa mãn ấy, lẽ dĩ nhiên con người phải tạo nên một ý niệm thần linh cao cả thâu gồm tất cả những ước vọng thèm muốn sau này. (L’Etoile contre la Croix của Dufay)

                        Theo Karl Marx, ông tổ của chủ thuyết Cộng sản vô thần cho rằng Ông Trời hay Thượng Đế hay Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người mà mọi vật trong vũ trụ đều do vật chất mà có, cũng như trí thông minh và tư tưởng của con người là sản phẩm của vũ trụ, con người không có linh hồn bất tử cũng như vũ trụ không do ông Trời hay Thiên Chúa tạo dựng nên cả.

                        Đối với các tôn giáo Karl Marx cho rằng tôn giáo chỉ là phản ảnh của cơ cấu kinh tế. Với định luật tiến hóa, tôn giáo bắt buộc phải biến hóa theo các chế độ kinh tế và đến giai đoạn thế giới cộng sản đại đồng, nhất định tôn giáo phải được khai tử.

                        Quan niệm về tôn giáo của Cộng sản đã hoàn toàn sai lầm, nếu Karl Marx và Lenin được tái sinh thì chắc chắn hai tay này sẽ thất vọng ê chề khi thấy rằng ngày nay, tôn giáo không hề bị khai tử, ngược lại chủ thuyết cộng sản đã bị tiêu diệt trên hầu hết khắp thế giới, như tại nước Nga, được gọi là ‘cái nôi’ của chủ thuyết cộng sản, đế quốc Cộng Sản đã bị khai tử và Giáo Hội Chính Thống Thiên Chúa Giáo đang trong thời kỳ hưng thịnh, sau hơn 70 năm bị bách hại vì chinh sách đàn áp của Cộng Sản vô thần.

                        Tất cả những cuộc hội luận trong các Cercle d’etudes đều được đúc kết lại và được in lại thành sách ‘Cần Hiểu Cộng Sản’ do nhà xuất bản Lê Bảo Tịnh ở Phát Diệm xuất bản năm 1947 và chính những cuộc hội luận này cũng giúp cho ban biên tập của tờ báo Sống, cơ quan chính thức Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc, do anh ruột tôi Nguyễn Đình Thịnh là chủ bút vào năm 1946, có đủ tài liệu để mở một cuộc bút chiến rất hấp dẫn, tranh luận về chủ thuyết cộng sản vô thần, với báo ‘Sự Thật’ cơ quan truyền thông chính thức của đảng Cộng Sản Đông Dương ở Hà Nội.

                        Trong suốt thời gian 7 ngày ở Phát Diệm để tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ và cuộc đại hội của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, đều ở tại nhà tôi, và tôi có khá nhiều thì giờ để thảo luận với Đồng về đủ mọi vấn đề mà Đồng tỏ ra muốn tìm hiểu nhiều nhất là quan niệm của người Công Giáo đối với học thuyết Cộng sản vô thần.

                        Nhờ được ở điểm trước đó tôi được học hỏi và tham dự các cuộc tranh luận trong Cercle d’Etudes về đường lối và quan niệm của Giáo Hội Công Giáo đối với học thuyết cộng sản vô thần, cũng như lý thuyết xã hội của Công Giáo, nên những cuộc tranh luận của tôi với Phạm Văn Đồng có phần nào rất hào hứng, vì tôi là một giáo dân được coi là ngoan đạo, con cháu của những bậc tiền nhân, kiên trì giữ đạo Chúa trong thời gian cấm đạo dưới đời vua Minh Mạng và Tự Đức.

                        Trong những cuộc nói chuyện thân mật với Phạm Văn Đồng, tôi thường tâm sự rằng: ‘Theo chỗ tôi biết thì Đức Giáo Hoàng Piô XII nghiêm cấm người Công giáo không được gia nhập đảng Cộng Sản, vì đảng Cộng Sản chủ trương vô thần, và đối nghịch với Giáo Hội, và vì tôi là người công giáo ngoan đạo không đời nào tôi dám liều mình không vâng phục Đức Giáo Hoàng, vì tôi cho đó là một tội trọng’.

                        Phạm Văn Đồng, một người Cộng Sản thập thành, sau này nắm giữ quyền cao chức trọng nhất trong chính quyền Cộng Sản ở Việt Nam, tỏ ra thông cảm và rất chân thành đối với tôi, một thanh niên tuổi đời mới có 26, chưa có nhiều kinh nghiệm cách mạng nhưng hăng say vì Thiên Chúa và Tổ Quốc.

                        Chính những sự chân thành của Phạm Văn Đồng đối với tôi trong 7 ngày ở Phát Diệm, cũng như trong những cuộc tiếp xúc ở Hà Nội sau đó, và dù rắng không hề gặp lại nhau trong gần nửa thế kỷ, việc được tin Phạm Văn Đồng quy y Phật Giáo bởi Đại lão Hòa Thượng Thích Đức Nhuận, không làm cho tôi ngạc nhiên.

                        Một điều Phạm Văn Đồng nói mà tôi không bao giờ quên về việc đảng Cộng Sản Đông Dương sắp tuyên bố tự giải tán để đoàn kết và đại đoàn kết quốc gia trong công cuộc đấu tranh dành độc lập cho Tổ Quốc, và đúng vậy thật vì ngày 11 tháng 11 năm 1945 tức là một tuần lễ sau khi Đồng nói điều đó với tôi thì đảng Cộng Sản Đông Dương chính thức tuyên bố tự giải tán.

                        Việc đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, không phải là một điều lạ lắm, vì thời gian này Hồ Chí Minh bị đe dọa rất nhiều bởi quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tới Việt Nam, đại diện Đồng Minh tước khí giới quân đội Nhật Bản. Thống Chế Tưởng Giới Thạch, tổng thống của một nước Trung Hoa chống Cộng Sản, không thể chấp nhận Mặt Trận Việt Minh, lãnh đạo bởi đảng Cộng sản Đông Dương nắm chính quyền ở Việt Nam, nhất là vào đúng thời gian này quân Cộng sản Trung Hoa của Mao Trạch Đông bắt đầu chiếm đóng Mãn Châu, khơi mào cuộc chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa.

                        Ngoài ra các đảng phái quốc gia chống cộng cũng hoạt động rất mạnh ở Hà Nội, báo Việt Nam Quốc Dân Đảng và báo Đồng Minh của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đã kích Việt Minh Quốc Dân Đảng cùng một số đồng chí và quân Việt Quốc về tới Hà Nội vào ngày mồng 6 tháng 11 năm 1945, cụ Nguyễn Hải Thần ra thông cáo vào ngày 8-11-1945 đòi Hồ Chí Minh phải áp dụng thỏa hiệp mà họ Hồ đã ký kết ở Liễu Châu bên Trung Hoa vào ngày 23 tháng 3 năm 1944 về việc chính thức thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và đòi thành lập Chính Phủ Liên Hiệp.

                        Được hiểu là mọi hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đều có sự yểm trợ mạnh mẽ của tướng Lư Hán, tư lệnh quân đội Trung Hoa Quốc Gia, nên Hồ Chí Minh sợ rằng nếu còn giữ đảng Cộng sản Đông Dương trong chính quyền, quân đội Trung Hoa có thể lật đổ chính phủ Việt Minh Cộng sản nên đảng Cộng sản Đông Dương phải tuyên bố tự giải tán và đến ngày 19-11-1945, các lãnh tụ Việt Quốc và Việt Cách thỏa hiệp với Hồ Chí Minh về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia.

                        (còn tiếp)
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2022 02:09:25 bởi frank >
                        #12
                          frank 26.05.2022 00:23:44 (permalink)

                          Chương 9


                          Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và  Mặt Trận Việt Minh sau Cách Mạng mùa Thu 1945


                          Sau khi thành lập chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh gặp nhiều sự đối kháng mãnh liệt của các đảng phái quốc gia, được sự yểm trợ của quân đội Trung Hoa tới Việt Nam, với nhiệm vụ tước khí giới quân đội Nhật Bản. Cụ  Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ của phe quốc gia, đòi hỏi Hò Chí Minh phải thi hành thỏa hiệp ký kết ở Liễu Châu bên Trung Hoa ngày 28 tháng 3 năm 1944 về việc thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, Hồ Chí Minh phải nhượng bộ phe quốc gia và ký với Nguyễn Hải Thần một thỏa hiệp hợp tác giữa Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Minh.

                          Mặt khác quân đội Pháp núp bóng quân Anh, trở lại chiếm đóng Sài Gòn và việc làm cho Hồ Chí Minh đau lòng nhất là ngày 11 tháng 10 năm 1945, ngoại trưởng Bevin của chính phủ Anh Quốc tuyên bố thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, cho rằng cuộc cướp chính quyền của Việt Minh ngày 19 tháng 8 năm 1945, danh không chính ngôn không thuận, nên ngày 17 tháng 10 năm 1945, chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh quyết định tổ chức tổng tuyển cử vào ngày 23 tháng 12 năm 1945.

                          Trong chiều hướng quy tụ toàn dân, nhất là đối với các  đảng phái trong nước trong công cuộc đấu tranh dành độc lập, Hồ Chí Minh đặc biệt  quay về phía người Công Giáo. Trong việc tranh đấu cho nền độc lập của Tổ Quốc Việt Nam, các giám mục Việt Nam gửi đến Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, một bức thư xin Ngài ban phép lành và cầu nguyện cho nền độc lập của Việt Nam, ngoài ra các giám mục Việt Nam cũng tuyên bố: ‘Các người Công Giáo không có quyền lãnh đạm với nền độc lập nước nhà, các ngài nhắc nhở cho giáo hữu biết bổn phận của họ là phải tranh đấu như thế, họ sẽ trung thành với Chúa Kitô và với tổ quốc.

                          Những lời tuyên bố này đã được đăng tải rộng rãi trên báo chí của Công Giáo Pháp đặc biệt là trên tờ Bulletin des Missions, với một bài xã luận đề tài Le Chrétien annamite et l’independence du Việt Nam (Người Công Giáo An Nam và nền độc lập của Việt Nam)

                          Riêng về phần hoạt động của giáo dân Việt Nam, ngoài cuộc mít tinh ở Phát Diệm với 50 ngàn dân tham dự nhân ngày lễ Tuyên Ngôn Độc Lập mồng 2 tháng 9 năm 1945, giáo dân và giáo sĩ ở Hà Nội cũng tổ chức một cuộc mít tinh khổng lồ ngày 23-9-1945 để phát huy lòng ái quốc, và ở thành phố Vinh 30 ngàn giáo dân cũng tổ chức một cuộc biểu tình ngày 8-10-1945 như ở Hà Nội.

                          Các hoạt động của hàng giáo phẩm cũng như của giáo dân trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam, tỏ ra rất hăng say và có ảnh hưởng tới dư luận quốc tế, nên Hồ Chí Minh đã đặc biệt cử Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh trong chính phủ lâm thời về Phát Diệm gọi là để cùng với phái đoàn chính phủ tham dự lễ thụ phong Giám Mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Nhưng sự thực là Hồ Chí Minh cử Phạm Văn Đồng về Phát Diệm, ở lại tới 7 ngày, để tìm hiểu và quan sát các hoạt động của hàng giáo phẩm và giáo dân Công Giáo, và đặc biệt ở lại tham dự hội thống nhất Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm với Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc trong Mặt Trận Việt Minh.

                           Cũng nên nhắc lại là Mặt Trận Việt Nam Công  Giáo Cứu Quốc ở Phát Diệm được thành lập ngay từ năm 1942 bởi bộ ba: Cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân tức Bằng Phong và tôi, thời đó thường được gọi là Nguyễn Đình Minh. Cũng vào thời này, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh được thành lập tại Thái Nguyên, và trong danh sách các đảng phái và các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh thời đó chỉ có Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc không mà thôi và không có Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Mọi liên lạc của chúng tôi với Việt Minh ở Thái Nguyên, đều qua Nguyễn Hữu Đang, thời đó là tổng thư ký hội Truyền Bá Quốc Ngữ.

                          Trong cuộc thảo luận về thành phần của ban Chấp Hành của tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên trong Đại Hội ngày 30 tháng 10 năm 1945, một ngày sau ngày lễ thụ phong Giám Mục Phát Diệm của Đức Cha Lê Hữu Từ, Phạm Văn Đồng thường đề cập đến Nguyễn Văn Chính, chủ tịch của đoàn thể Việt Nam Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, mà tôi đã có dịp gặp nhiều lần do sự giới thiệu của Trần Huy Liệu, và tôi biết rất rõ về Nguyễn Công Chính là một người công giáo tốt, một đoàn viên rất hăng say và cũng là phụ tá đắc lực của Nguyễn Mạnh Hà, thủ lãnh của đoàn Thanh Niên Lao Động Công Giáo, ở Hà Nội, và là một đảng viên đảng Cộng sản Đông Dương.

                          Được biết Nguyễn Mạnh Hà, con rể của tổng bí Thư đảng Cộng Sản Pháp Quốc, bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, đã giới thiệu phụ tá của mình là Nguyễn Công Chính vào đảng Cộng sản, và vì  Chính là đảng viên đảng Cộng Sản nên được cử ra làm chủ tịch Việt Nam Công Giáo Khánh Nhật Cứu Quốc trong  Mặt Trận Việt Minh, khác hẳn với Việt Minh.  Nguyễn Công Chính đã bị tử thương trong một trận oanh tạc của máy bay Pháp tại Hà Đông, một tuần lễ sau khi khởi sự cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngày 19-12-1946.

                          Về trường hợp bầu ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chính thức, Phạm Văn Đồng cùng Cha Hoàng Qùynh và chúng tôi đồng ý phân công các chức vụ như sau để tùy đại hội bỏ phiếu chấp thuận. Ban thường vụ gồm 4 người: 2 người thuộc Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc, cùng 8 ủy viên các  vùng và 1 cố vấn. Riêng chức vụ chủ tịch cùng tổng thư ký để dành cho phe Công Giáo Kháng Nhật Cứu Quốc và chức vụ phó chủ tịch cùng giám sát dành cho phe Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc. Chức vụ giám sát kiêm luôn chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ toàn quốc. Lý do chính của việc phân công này là hợp thức hóa và thống nhật hai đoàn thể công giáo cứu quốc cùng đứng trong mặt trận Việt Minh.

                          Câu chuyện hợp thức hóa và thống nhất hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc được cha Hoàng Quỳnh và tôi trình lên Đức Cha Lê Hữu Từ để xin Ngài thẩm định  với lập luận rằng.

                          1- Phía mặt trần Việt Minh muốn lợi dụng việc thống nhất cùng hợp thức hai đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc và sự ủng hộ của giới Công Giáo nói chung đối với Mặt Trận Việt Minh, để dùng làm hậu thuẫn trong việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc  Gia cùng với các đảng phái và nhất là để chứng tỏ cho thực dân Pháp, đang lăm le trở lại tái lập chế độ thuộc địa, thấy giáo dân Công Giáo Việt Nam nhiệt tình hợp tác cùng với chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam.

                          2-  Phía Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc nhận định rằng trong công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc, giáo dân Việt Nam nguyện sát cánh với Mặt Trận Việt Minh để chiến đấu chống lại mọi cuộc xâm lăng, vì Việt Nam Công Giáo  Cứu Quốc  được hợp thưc hóa  trong mặt trận Việt Minh nên được quyền thành lập và võ trang cho các đội Tự Vệ  Võ Trang Cứu Quốc tại các xứ đạo để đóng góp vào việc bảo vệ quê hương cũng như bảo vệ cho nhà thờ và xứ đạo.

                          Đức Cha Lê Hữu Từ đã đồng ý về đường lối chính trị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sẽ theo đuổi trong thời gian sắp tới do cha Quỳnh và chúng tôi đề nghị, và ngài nhận sẽ trình bầy rõ cho các Đức Giám Mục khác cùng các cha chính địa phận biết rõ. Cuộc vận động với các đại diện của các địa phận và giáo xứ tham dự cuộc đại hội đã diễn ra một cách tích cực để cuộc  bầu phiếu ngày hôm sau có thể đem lại được những kết quả dự liệu.

                          Sáng ngày 30 tháng 10 năm 1945, buổi Đại Hội lịch sử của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã diễn ra một cách hết sức long trọng và hứng khởi với bài diển văn khai mạc của Đức Cha Lê Hữu Từ, linh hồn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc và của Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài Chánh đại diện chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh cùng Tổng Bộ Việt Minh. Đồng ký nhận hợp thức hóa tổ chức Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và sau đó là cuộc bầu cử ban Chấp hành chính thức của tổ chức và kết quả như sau:

                          Chủ tịch: Nguyễn Công Chính

                          Phó chủ tịch: L.M. Hoàng Quỳnh

                          Tổng thư ký: Nguyễn Văn Hiển

                          Ủy viên giám sát: Nguyễn Đình Minh

                          Các ủy vien:

                          Bắc bộ: Nguyễn Văn Xướng (Ninh Bình)

                          Bắc trung bộ: Lê Hữu Hiến (em Đ.C. Lê Hữu Từ)

                          Nam trung bộ: Nguyễn Văn Kiều (Nha Trang)

                          Nam bộ: Nguyễn Hữu Lượng (Sài Gòn)

                          Tỉnh Nam Định: Lưu Thế Lộ (Hải Hậu)

                          Tỉnh Ninh Bình:  Phạm Quốc Trị (tỉnh lỵ)

                          Tỉnh Hà Nam: Nguyễn Quốc Quỳnh (Phủ Lý)

                          Cố Vấn: L.M. Lê Quang Oánh (Thái Bình)

                          Trong suốt thời gian 7 ngày ở tại nhà chúng tôi, Phạm Văn Đồng đã hỏi tôi rất nhiều về Đức Cha Lê Hữu Từ từ việc tu hành cho tới thành tích cách mạng của ngài, và dĩ nhiên tôi nói cho Đồng biết tất cả những gì tôi biết về ngài, và Đồng tỏ ra rất khâm phục về đời sống của một khỏ tu dòng Châu Sơn phải sống như người nghèo nhất trong xã hội Việt Nam, nguyên nói tới việc đi chân không tứ mùa bát tiết trong suốt mấy chục năm trời, thêm vào đó lại còn phải ăn chay, hãm mình quanh năm ngày tháng. 

                          Riêng về thành tích cách mạng của Đức Cha Lê Hữu Từ,  tôi cũng cho Phạm Văn Đồng biết rõ những hoạt động của ngài giúp Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc bành trướng rộng rãi, trên đường đạp xe từ Bắc vào tới Huế, xe đạp của ngài mang đầy truyền đơn bươm bướm, và ngài phân phát khắp nơi, kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp, kháng Nhật, dành lại độc lập cho Tổ Quốc.

                          Sau khi Phạm Văn Đồng về Hà Nội để kịp dự cuộc đại hội của đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày  mồng 3 tới ngày 10 tháng 11 và đến ngày 11 tháng 11 năm 1945, đảng Cộng Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, tôi tới gặp và yêu cầu Đồng thu xếp để một phái đoàn của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc Phát Diệm tới gặp cụ Hồ để tỏ bầy lòng biết ơn của giáo dân Phát Diệm về việc cụ Hồ gửi phái đoàn về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ. Lời yêu cầu này được chấp nhận ngay và chỉ 2 ngày sau một phái đoàn gồm có cha Hoàng Quỳnh, các  anh Trần Ngân, Nguyễn Văn Xướng, Lưu Thế Lộ, và tôi tới Bắc Bộ Phủ và được Hồ Chí Minh tiếp đón một cách hết sức nồng hậu.

                          Sau khi cha Hoàng Quỳnh, đại diện cho Đức Cha Lê Hữu Từ tỏ lời cám ơn Hồ Chí Minh và chính phủ lâm thời về việc phái đoán chính thức của chính phủ được cử về Phát Diệm tham dự lễ thụ phong giám mục. Cha Quỳnh cũng tỏ bầy thêm lời của toàn dân nói chung và giáo dân Công Giáo nói riêng, mong mỏi sớm được thấy một chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia được thành  lập để toàn dân tin tưởng và hăng hái tham gia công cuộc tranh đấu dành độc lập cho Tổ Quốc.

                          Hồ Chí Minh đã trả lới một cách mềm dẻo và hưởng ứng lời đề nghị của cha Quỳnh về việc thành lập chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia và cho biết cuộc điều đình với các đảng phái đang diễn ra một cách tốt đẹp, và đoán chắc là chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia sắp được trình diện với quốc dân với quốc dân trong một ngày rất gần đây. Chúng tôi cũng báo cáo về việc thống nhất hai đoàn thể công giáo cứu quốc và yêu cầu việc họp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được chính thức công bố và phái đoàn cũng lưu ý chính phủ về việc công nhận quyền tư hữu tài sản của nhân dân và nhất là vấn đề tự do tín ngưỡng.

                          Cuộc tiếp xúc với Hồ Chí Minh của phái đoàn  Công Giáo Cứu Quốc của Phát Diệm đã diễn ra một cách thân mật và cởi mở, và đã được chấm dứt bằng một bức hình chụp chung. Sau cuộc họp, phái đoàn cũng tiếp xúc với Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu, riêng cuộc tiếp xúc với  Cựu Hoàng Bảo Đại không thực hiện được. Được biết cả Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu cùng với Cựu Hoàng Bảo Đại đều có về tham dự lễ thụ phong giám mục của Đức Cha Lê Hữu Từ.

                          Riêng đối với Phạm Văn Đồng, phái đoàn mời Đồng đi ăn kem Zephyr ở bờ Hồ Hoàn Kiếm vì biết Đồng sắp làm rể bà chủ nhà hàng kem này.

                          Báo Cứu Quốc cơ quan chính thức của chính phủ và tổng bộ Việt Minh trong số ra ngày 10-11-1945 có đăng tải danh sách của ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và liệt kê Việt Nam Công  Giáo Cứu Quốc đứng hàng số 12 trong số các đảng và đoàn thể của Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, báo Cứu Quốc cũng ca tụng tinh thần ái quốc của người Công Giáo Việt Nam.

                          Chủ đích của các cuộc tiếp xúc với các nhân vật chính trong chính quyền đều nhằm vào việc hợp thức hóa Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc để chính thức được quyền võ trang các đoàn thể Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc tại các giáo xứ công giáo không phải chỉ riêng cho địa phận Phát Diệm mà thôi mà lại còn bao gồm các địa phận khác nữa. Để gọi là đóng góp vào công cuộc tranh đấu võ trang dành độc lập, đồng thời lại có súng ống để bảo vệ cho nhà thờ và giáo dân trong lúc thời thế lộn xộn đầy đe dọa này.

                          Mặc dầu báo Cứu Quốc ca tụng lòng ái quốc của người công giáo, và phái đoàn Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được Hồ Chí Minh tiếp đón nồng hậu tại Bắc Bộ Phủ kể cả việc tiếp xúc với  bộ trưởng bộ nội vụ lẫn bộ trưởng bộ thông tin tuyên truyền, nhưng chỉ vài tháng sau, một số những nhân vật trong phái đoàn hay của ban chấp hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã bị đàn áp một cách trắng trợn và đẫm máu của công an hay chính quyền Việt Minh. Điển hình là vụ Tổng Thư Ký Ban Chấp Hành Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc được bầu lên tại đại hội ở Phát Diệm hồi tháng 10 năm 1945 thì chỉ tới tháng 6 năm 1946, nghĩa là chỉ 8 tháng sau, Nguyễn Văn Hiển đã bị Công an Việt Minh bắt cóc và có tin nói Hiển bị thủ tiêu.

                          Cũng trong thời gian tháng 6 này, Nguyễn Văn Xướng, ủy ban Chấp Hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc bị công an tỉnh Ninh Bình bắt giữ trong gần 4 tháng, chỉ vì tội con điền chủ và tôi: Nguyễn Đình Minh tức Thư, Ủy Viên Giám sát kiêm Thanh tra toàn quốc Công Giáo Cứu Quốc cũng bị giam giữ trong xà lim của ty Công An Việt Minh tỉnh Ninh Bình vào cuối tháng 11 năm 1946 mãi tới ngày 20-12-46 mới được thả tự do, nhờ ở lá thư phút chót của Trần Huy Liệu viết cho trưởng ty Công an tỉnh Ninh Bình Đào Gia Lựu,  trước khi Liệu ra bưng kháng chiến, và vợ tôi đã cầm lá thư của Trần Huy Liệu rời nhà ga Hà Nội bằng chuyến xe lửa cuối cùng trước khi quân đội thực dân Pháp và Tự vệ thành Hà Nội nổ súng khai mào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

                          Mặc dầu tôi đã tiếp xúc nhiều lần với Hồ Chí Minh và rất thân với Phạm Văn Đồng, nhưng tôi vẫn bị một thằng công an cắc ké đến tận nhà xích tay giam giữ vào xà lim mà không hề cho biết là bị giam về tội gì!

                          Sáng được đến ngày nay tại đất Hoa Kỳ, ngồi viết những dòng chữ này, làm sao tôi quên được cảnh bạn già của tôi là Nguyễn Hữu Đang người đã giúp tôi liên lạc với Mặt Trận Việt Minh, nhớ lúc tôi cùng Đang và Trần Ngân tiến vào Bắc Bộ Phủ trong giai đoạn đầu của Cách Mạng mùa thu và nay được tin Nguyễn Hữu Đang bị Việt Minh giam tù 17 năm và bị đầy dọa ở quê nhà ở huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình chuyên ăn thịt cóc băm làm chất bồi dưỡng để sống qua ngày.

                          Bị Việt Cộng giam cầm 17 ngày so với 17 năm Nguyễn Hữu Đang bị Việt Cộng giam giữ, làm sao tôi dám so nổi để nói lên lòng căm thù đối với bọn ác ôn côn đồ Cộng Sản Việt Nam đang đầy đọa dân tộc Việt Nam trong đau khổ lầm than.
                           
                           
                           (còn tiếp)

                          #13
                            frank 27.05.2022 02:04:38 (permalink)


                            Chương 10


                            Tổ chức và võ trang các đoàn thể công giáo cứu quốc 



                            Đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, vấn đề võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc là ưu tiên số một trong suốt quá trình đấu tranh của mặt trận trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, chống phát xít Nhật Bản dành độc lập cho Tổ Quốc, ngay từ khi bắt đầu thành lập chiến khu Rịa năm 1944, cũng như sau này khi Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc khởi sự các thánh chiến chống cộng sản vô thần tại Phát Diệm, Bùi Chu.

                            Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (MTVNCGCQ), quan niệm rằng mỗi khi các giáo xứ đều tổ chức  một lực lượng tự vệ công giáo được võ trang một cách hợp pháp đối với chính quyền vì MTVNCGCQ nằm trong tổ chức của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh, điều này chứng tỏ người công giáo nhiệt thành đóng góp vào công cuộc chung chiến đấu thực sự dành độc lập cho  Tổ Chức, đồng thời với lực lượng võ trang sẵn có, việc giữ gìn an ninh cho giáo xứ cũng như làng xóm, được bảo đảm trong thời kỳ loạn lạc và chiến tranh.

                            Nên ngay sau khi đi Hà Nội để phản đối việc Hồ Chí Minh ký  hiệp định sơ bộ với Pháp, trở về tới Phát Diệm, Đức Cha Lê Hữu Từ đã triệu tập ngay ủy ban lãnh đạo MTCGCQ gồm cha Hoàng Quỳnh, Trần Ngân và tôi Nguyễn Đình Minh, tới tòa Giám Mục để bàn thảo về tình hình chính trị chung của đất nước, và hoạch định đường lối của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong giai đoạn cực kỳ khó khăn gây ra bởi việc Hồ Chí Minh bán nước cho Pháp.

                            Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946, chấp nhận Việt Nam chỉ là một quốc gia tự do trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp và cho phép quân đội Pháp đóng quân tại nhiều địa điểm ở miền Bắc, từ vĩ tuyến thứ 16 trở lên, với thâm ý hòa hoãn với Pháp để đuổi quân đội Tầu về nước, hòng tiêu diệt đảng phái quốc gia.

                            Từ trước đến giờ, người ta thường nói tới mối liên hệ giữa các vị thừa sai người Pháp và người Công Giáo Việt Nam, nên chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc đã được hoạch định một cách thật minh bạch là cương quyết chiến đấu chống thực dân Pháp và kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam triệt để chống Pháp dành độc lập thực sự cho Tổ Quốc, và không chấp nhận quy chế một nước Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp như Hồ Chí Minh đã ký kết với Pháp trong Hiệp Định Sơ Bộ.

                            Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cũng chủ trương đứng ngoài chính quyền nhưng ủng hộ chính phủ liên hiệp kháng chiến và hoạt động đôc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia để kiện toàn việc tổ chức các đoàn Công Giáo Cứu Quốc cùng đặt vấn đề võ trang cho các đoàn tự vệ công giáo là ưu tiên số một.

                            Dù đảng Cộng sản Đông Duong trong Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh tuyên bố tự giải tán ngày 11-11-1945, nhưng các đảng viên đảng Cộng sản vô thần vẫn còn  tại vị, nên Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc khẳng định rằng lập trường của Mặt Trận VNCGCQ cương quyết chống đổi đến cùng chủ thuyết Cộng Sản Vô thần.

                            Giáo Hội Công  Giáo đã ban hành nhiều thông điệp phi bác chủ nghĩa vô thần, đặt biệt là Thông Điệp Divini Redemptoris ngày 19-3-1937, của Đức Giáo Hoàng Piô XI, và dựa vào thông điệp này Hội Đồng Giám Mục dã phổ biến một thư chung cấm người Công Giáo không được tham gia các tổ  chức của người Cộng Sản vô thần. Theo như điều 2140 của sách bổn của Giáo Hội Công Giáo thì việc theo chủ thuyết vô thần được coi như bác bỏ hay chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa như vậy là một tội trọng, phạm vào điều răn thứ nhất,  nguyên văn điều 2140 bằng tiếng Pháp như sau: ‘En tant qu’il rejette ou refuse l’existence de Dieu, l’atheisme est un péché contre le premier commandement’.

                            Ngoài việc gia nhập đảng phái chủ trương chính sách vô thần là một tội trọng, việc người công giáo gia nhập vào các đảng hay các hội có âm mưu chống lại Giáo Hội Công Giáo đều bị cấm theo Giáo Luật hiện hành: Điều 1374 quy định: ’Ai ghi tên vào một hội âm mưu chống lại Giáo Hội sẽ bị phạt xứng đáng. Ai phát động hay điều khiển hội ấy, sẽ bị phạt cấm chế’.

                            Trong chiều hướng phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc, cùng cụ thể hóa chính sách của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ngày 26 tháng 4 năm 1946, Đức Cha Lê Hữu Từ đã gửi thư luân lưu số 7 cho các linh mục trong địa phận Phát Diệm, thúc giục việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc, ngài viết:

                            '...Nhân dịp, tôi cũng xin nhắc lại cho các cha một lần nữa là xin các cha  nhắc nhở cho con chiên bổn đạo và nhất là các thanh niên đừng có ai vào phái đảng nào hết. Trong lúc này nhiều người lợi dụng danh nghĩa tôi mà đi tuyên truyền bậy bạ. Tôi chỉ xin các cha cổ động và thành lập cho mau chóng trong xứ các đoàn Công Giáo Cứu Quốc là cái mà chính phủ đã cho phép chúng ta được tổ chức để huấn luyện người Công Giáo cho biết phụng sự Giáo Hội và Tổ Quốc…’

                            Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc chủ trương đứng ngoài chính quyền và hoạt động trong giới hạn của luật pháp quốc gia để tiến tới viêc võ trang cho các đoàn Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc, Đức Cha Lê Hữu Từ ra một thông tư đề ngày 8-2-1946, trong đó có vấn đề mua võ khí, Đức Cha Lê Hữu Từ nói:

                             ‘…Các cha còn nhớ: ngày cụ Hồ Chủ Tịch về thăm chúng ta, tôi đã hứa sẽ tổ chức ngay các đoàn Công Giáo Cứu Quốc để huy động lực lượng toàn thể quôc dân ủng hộ chính phủ. Ủng hộ chính phủ đó là mục đích của ta, đó là con đường độc nhất  của ta. Vậy nơi nào  chưa lập xong (Đoàn Công Giáo Cứu Quốc) thì một lần cuối cùng nữa tôi xin các cha ở những nơi ấy thu xếp cho mau chóng. Tôi đã xin phép Chính phủ lập trường quân chính và xin phép mua mấy khẩu súng để cho các đoán luyện tập cho gọi là biết chút ít hòng một khi Tổ Quốc cần thì  ta có người ta hưởng ứng ngay’.

                            Trong tinh thần đứng ngoài chính quyền của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ủy ban hành chính phủ Kim Sơn, một sản phẩm của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc sau cuộc ‘cướp chính quyền’ sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, cũng được trao lại cho ông Nguyễn Duy Chỷ, một cảm tình viên của Mặt Trận VNCGCQ, đảm nhiệm chức vụ Chủ Tịch, sau một cuộc bầu cử và được Ủy Ban Hành Chính tỉnh Ninh Bình chấp nhận. Trong suốt thời gian  nắm chính quyền ở phủ Kim Sơn, chúng tôi đã tổ chức xong những cuộc bầu cử ủy ban hành chánh các xã trong 7 tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hướng Đạo, Tự Tân, Truy Lộc và Lai Thành.

                            Thể theo tinh thần Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc cương quyết chống Pháp dành độc lập cho Tổ Quốc, đại đội Vệ Quốc Đoàn phủ Kim Sơn, do chúng tôi thành lập sau ngày ‘cướp chính quyền’, cũng xung phong xin được vào Nam đánh giặc Pháp, và đại  đội này được chuyển vào Nam tham gia mặt bao vây thành phố Nha Trang và đóng quân ở đèo Rù Ri.

                            Sau khi quân đội Pháp, đổ  quân từ  Ban Mê Thuột theo đường quốc lộ  21, xuống Ninh Hòa, đánh bọc hậu, đại đội này đã phải rút quân theo đường núi ra Quy Nhơn để trấn giữ tỉnh lộ 19 từ Pleiku xuống và đóng quân ở Phú Phong, trong một trận đánh ở thị xã An Khê, trung  đội của anh Tràng, người ở trại Ba Đê, Phát Diệm, đã phá vỡ cầu đúc An Khê và trong trận này, một số linh Pháp bị tử thương.

                            Trong số các binh sĩ thuộc đại đội Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn bị tử thương ở 2 mặt trận Rù Ri và An Khê, có một người bạn thân của tôi học cùng lớp nhất ở trường Nhà Chung Phát Diệm là Vũ Xuân Lan, con cụ Bảng Ro, ở làng Định Hưởng tổng Hồi Thuần. Anh Trân, một trung đội trưởng của Vệ Quốc Đoàn Kim Sơn, nghe nói sau này lên tới chức tướng của bộ đội Việt Minh.

                            Việc võ trang cho lực lượng Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc trong công cuộc chống Pháp dành độc lập và chống cộng sản vô thần, đã được phát động một cách chính thức, vì có sự đồng ý của chính phủ Liên Hiệp Quốc Gia, và nhiều vụ thu, mua, chế tạo võ khí đã được thực hiện khi công khai, khi bí mật, không những chỉ riêng ở trong nước mà thôi mà Phát Diệm còn tổ chức gửi phái đoàn sang điều đình mua súng đạn ở tận bên Tầu nữa.

                            Một thanh niên công giáo tên Trần Điển, người xứ Trà Cổ ở Vạn Ninh thuộc Móng Cáy, sát biên giới với Trung Hoa, thường chở đĩa, bát về bán ở Phát Diệm, mà dân địa phương thường gọi là ‘thuyền bát’, hay thuyền Trà Cổ, cho biết tin có một sĩ quan quân đột Nhật Bản đóng ở Port Valluy gần Cẩm Phá trong vịnh Hạ Long muốn bán một số súng ống đạn dược đủ để trang bị cho một trung đoàn bộ binh.

                            Khi được tin này tôi đã cùng anh Điển đi tới Port Valluy tiếp xúc với vị sĩ quan Nhật Bản này để xem thực hư thế nào và sau một cuộc điều đình khá gay go, sĩ quan Nhật Bản này đặt giá bán là 2 triệu đồng bạc. Số tiền đòi hỏi này được coi như rất lớn thời bấy giờ, nên khi trở về Phát Diệm, chúng tôi đặt kế hoạch là trình bầy cùng chính phủ, xin phép tổ chức một cuộc quyên tiền trong giới Công Giáo không mà thôi, và nếu mua được số súng đạn này chúng tôi sẽ tổ chức một trung đoàn bộ binh gồm các thanh niên công giáo xung phong và đánh giặc Pháp ở miền Nam.

                            Sau khi được sự đồng ý của Đức Cha Lê Hữu Từ, một phái đoàn của Mặt Trận Công Giáo Cứu Quốc gồm có cha Hoàng Quỳnh và cha Lê Quang Oánh ở Thái Bình cùng với tôi và các anh Trần Ngân, Lưu Thế Lộ, Nguyễn Văn Xướng, Phạm Quốc Trị, Nguyễn Quốc Quỳnh xin vào yết kiến Hồ Chí Minh để trình bầy nguyện vọng của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn thành lập một trung đoàn thanh niên công giáo xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ với số súng đạn mua được của quân đội Nhật Bản với tiền quyên được ở trong giới Công Giáo.

                            Ông Hồ tiếp phái đoàn một cách niềm nở và tỏ ý tán thành đề nghị của chúng tô. Bỗng nhiên, một ủy viên tùy phái tới trình rằng: "Ông Giáp mời ông Hồ sang phòng bên thưa chuyện"  Chỉ một lúc sau không lâu, ông Hồ trở lại tiếp chuyện chúng tôi và ông ta bắt đầu nói lên một giọng  điệu khác hẳn với lúc trước. Ông ta nói:

                             ‘Tôi rất tán thành ý nguyện của anh em Công Giáo Cứu Quốc xung phong vào đánh giặc Pháp ở Nam Bộ, nhưng việc xin phép mua súng và quyên tiền sẽ được đưa ra bàn ở trong phiên họp của hội đồng chính phủ sắp tới’


                            Và ông Hồ nói là bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp sẽ liên lạc với chúng tôi sau. Dĩ nhiên việc này bị cho chìm luôn!

                            Kế hoạch xin mua súng đạn một cách đại quy mô để đánh giặc Pháp ở Nam Bộ của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc không thành công là điều dễ hiểu vì chúng tôi biết Hồ Chí Minh đã âm mưu nói chuyện với đặc phái viên của thực dân Pháp là Jean Sainteny, để bán nước bằng việc  ký Hiệp Định Sơ Bộ mồng 6 tháng 3, nhưng tôi cảm thấy ngạc nhiên khi Trần Huy Liệu, lúc này không còn là bộ trưởng tuyên bộ tuyên truyền nữa, đã liên lạc mời tôi tới gặp và đưa cho tôi một giấy phép của Tổng bộ Việt Minh cho phép Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc mua 50 khẩu súng các loại.

                            Đây có thể là đáp ứng của một lời yêu cầu trước đây xin mua súng nhân danh chức vụ Thanh Tra Công Giáo Vụ Toàn Quốc, để võ trang cho các đơn vị Tự Vệ Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc và cũng có thể Hồ Chí Minh không chấp nhận đề nghị của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc muốn mua  một số lượng lớn súng đạn đủ võ trang  cho một trung đoàn, nên hạ lệnh cho Tổng Bộ Việt Minh cấp giấy mua 50 khẩu súng này không có giới hạn thời gian tính và không có việc kiểm soát số lượng súng mua được, nên với giấy phép này chúng tôi đã mua được nhiều súng ống và chuyển vận một cách hợp pháp về Phát Diệm.

                            Công tác mua súng được ủy nhiện cho bà xã tôi: Tuyết Minh, ủy viên phụ trách tiếp tế của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc từ thời chiến khu Rịa, thực hiện cùng với hai phụ tá là anh Nguyễn Văn Thứ và anh Trần Văn Lai thường được gọi là Lai Cụt.

                            Sỡ dĩ anh Lai được gọi là Lai Cụt vì một tai nạn xẩy ra khi anh bắn thử một lô 12 khẩu súng hai nòng hiệu Browning mua được của một Pháp kiều ở Hà Nội, khi anh bắn thử tới khẩu thứ 11 thì một viên đạn đã nổ tung trong lòng súng, làm cho anh Lai bị cụt 4 ngón tay và phải nằm cả tháng trong nhà thương, và  anh Trần Văn Lai đã bị thiệt mạng trong vụ Việt Minh tấn công vào giáo xứ Phúc Nhật ngày 9 tháng 10 năm 1947.

                            Việc mua súng không đến nỗi khó khăn lắm, vì mấy anh lính Tầu Phù cần bán súng để lấy tiền hút thuốc phiện, và mối mua súng của quân đội Nhật Bản cũng rất sẵn. Nhưng vấn đề chuyển vận súng là vấn đề khó khăn nhất, không phải vì Công An hay cảnh sát Việt Minh làm khó dễ,  vì việc mua súng của VNCGCQ có giấy phép đàng hoàng, nhưng việc chuyển súng qua ga hàng Cỏ ở Hà Nội là khó khăn nhất vì quân cảnh của quân đội Trung Hoa kiểm soát khá chặt chẽ.  Nhiều lần chúng tôi đã gặp  khó khăn tại đây nhưng rất may  là đều trôi chảy cả.

                            Những loại súng chúng tôi thường mua được là súng mitraillette Sten, do hãng garage  Avia bán xe Citroen ỏ Hà Nội sản xuất, sau nữa là các loại súng Thompson hay súng lục bắn liên thanh Pạc hoọc, súng Carbin và các loại súng lục hay rouleau cũng dễ mua  và dễ tháo rời ra để chuyên chở.

                            Mối mua súng mới và tối tân là đặt mua qua các Tầu Ô, đây là những tầu buôn loại khá lớn, chạy bằng buồm đến từ Bắc Hải hay Quảng Châu Loan ở bên Tầu, và những cuộc  thương lượng mua súng và hàng hóa thường diễn ra ở cửa sông Càn và sông Mã ở Thanh Hóa gần đảo Núi Nẹ. Một lần nhạc phụ tôi là cụ Chánh Huyến, chánh trương xứ Hòa Lạc đích thân đi cùng với ông bạn là cụ Hào Bình ở Liên Quy, Tam Tổng thuộc tỉnh Thanh Hóa, đi thuyền ra biển giao tiếp với các chú nhân Tầu Ô gọi là làm quen sau nữa để xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ xứ như bát đĩa, thuốc bắc và tơ lụa v.v… nhưng các cụ cũng ướm hỏi về việc đặt mua súng đạn cho Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc xứ Hòa Lạc. Vì ngôn ngữ bất đồng nên sự giao tiếp giữa hai bên thường diễn ra bằng bút đàm vì các cụ đều là những nhà nho thông thạo  hán ngữ.

                            Vừa bược chân lên bờ, hai cụ đã được du kích ở làng Liên Quy đón tiếp với giao găm và lựu đạn nội hóa, đưa các cụ về trụ sở của ủy ban hành chánh kháng chiến xã, sau một hồi tra khảo các cụ bị buộc vào tội làm gián điệp, liên lạc với người ngoại quốc. Thế là hai cụ bị đưa lên giam ở trại Lý Bá Sơ ở lao Thành Tín và cũng có tên khác là Đầm Đùn nổi tiếng nghiệt nhất ở tỉnh Thanh Hóa.

                            Khi hay tin các cụ lâm nạn, chúng tôi liền vào Nhà Chung Phát Diệm xin Đức Cha Lê Hữu Từ là Cố vấn của chính phủ Hồ Chí Minh can thiệp. Sau khi kể hết tự sự và đặc biệt nhấn mạnh tới điểm nhạc phụ của chúng tôi là chánh trương xứ Hòa Lạc, nên Đức Cha nhận lời, ngài liền cho thảo một bức thư viết  cho  Đặng Thái Mai là chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Thanh Hóa để xin tỉnh tha cho cả hai cụ, nhưng không có kết quả cấp tốc, nên Đức Cha Từ lại viết một thư khác xin Hồ Chí Minh đích thân can thiệp, và cuối cùng Đặng Thái Mai mới hạ lệnh thả tự do cho 2 cụ.

                            Một gương sáng thể hiện tình gia tộc thấm thiết của con dân đất Việt là ông anh thúc bá của vợ tôi đã đón ông Cụ từ trại Lý Bá Sơ ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa về Hòa Lạc, Phát Diệm, bằng xe đạp, ông chú đạp xe, ông cháu chạy theo, đun xe cho ông chú đỡ mệt, trên một khoảng đường dài sơ sơ có gần 100 cây số thôi.

                            Vì tình hình chính trị biến chuyển mạnh sau khi Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ và đặc biệt là các đảng phái quốc gia bắt đầu bị tan rã, lớp chạy theo quân đội Trung Hoa sang lánh nạn ở bên Tầu, lớp bị Việt Minh đàn áp và giam giữ, lớp rút lui về hoạt động bí mật, nhưng riêng đối với Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc thì thời gian này lại là thời cơ phát triển thuận lới nhất cho những hoạt động độc lập trong giới hạn của luật pháp quốc gia. Phát Diệm trở thành nơi nương  tựa vững chắc cho các hoạt động chống cộng sản vô thần, nên các cơ sở của Việt  Nam Công Giáo Cứu Quốc được thiết lập lấy giáo xứ là đơn vị hạ tầng, phủ bộ, (nhiều giáo xứ gần nhau) là đơn vị trung tầng và tỗng bộ là cơ quan chỉ huy tối cao đặt tại Phát Diệm.

                            Cha Hoàng Quỳnh được Đức Cha Lê Hữu Từ trao cho việc tổ chức các lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các thầy giảng và các thanh niên của các giáo xứ. Trung tâm huấn luyện của Công Giáo Cứu Quốc được đặt tại Trường Thử ở Trì Chính, đây là một cơ sở rất rộng lớn có đủ chỗ huấn luyện cho 300 thanh niên mỗi khóa.

                            Vì nhiều địa phận có đông giáo dân như Bùi Chu, Thái Bình, Hà Nội và Nghệ An, và  ngay những giáo xứ ở miền Bắc địa phận Phát Diệm, nằm trong vùng kiểm soát của Việt Minh, nên việc thành lập các đoàn Công Giáo Cứu Quốc khó có thể thực hiện được, chớ đừng nói tới việc võ trang cho các đơn vị tự vệ Công Giáo Cứu Quốc. Tuy nhiên nhiều thanh niên quả cảm ở các giáo xứ vẫn đổ về Phát Diệm tham dự các khóa huấn luyện chính trị và quân sự để trở  về hoạt động bí mật ở các địa phương.

                            Để hướng dẫn và nâng đỡ các cơ sở hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở các giáo xứ trên toàn quốc, trụ sở của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc ở số 9 phố Lamblot tức phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội vẫn hoạt động đều đặn với anh  Nguyễn Công Chính, chủ tịch của Ủy Ban Chấp Hành VNCGCQ là người có thể đi sát được với Tổng Bộ Việt Minh, nên phần nào nhiều giáo xứ hoạt động công giáo cứu quốc vẫn tiếp tục đều đặn được.

                            (còn tiếp)
                            #14
                              frank 27.05.2022 23:40:45 (permalink)
                               
                              Chương 11


                              Việt Minh chủ trương Giáo Hội Việt Nam tự trị



                              Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc biến thể thành Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc chỉ một thời gian rất ngắn sau khi Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1946, bán nước Việt Nam cho thực dân Pháp và sau đó là tin quân đội Pháp sẽ tới Bắc Việt, thay thế quân đội Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch để tước khí giới quân đội Nhật Bản, theo lệnh của Tổng Tư Lệnh Đồng Minh.

                              Tại trụ sợ của Công Giáo Cứu Quốc ở số 9 phố Lamblot cũ tức phố Lý Quốc Sư ở Hà Nội, bỗng xuất hiện 2 nhân vật người Tầu mà Nguyễn Công Chính, chủ tịch ban Chấp hành Công Giáo Cứu Quốc giới thiệu là cán bộ Công Giáo Vận của Cộng Sản Trung Hoa đến từ Diên An, chiến khu của Mao Trạch Đông ở bên Tầu. Theo như Chính cho biết thì 2 cán bộ người Tầu được Mặt Trận Việt Minh cử tới làm cố vấn cho Nguyễn Công Chính, trong vấn đề tranh đấu cho Giáo Hội Việt Nam được tự trị.

                              Sau cuộc đàm luận với 2 cán bộ Công Giáo Vận người Trung Hoa, cha Hoàng Quỳnh và chúng tôi, cùng toàn thể các ủy viên trong ban chấp hành của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, ngoại trừ Nguyễn Công Chính, khẳng định là Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tức Việt Minh chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị tách rời của Việt Minh theo chính sách vô thần của đảng Cộng Sản Đông Dương chủ trương chia mà trị để loại bỏ tôn giáo và Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) quyết chống đối đến cùng.

                              Để đối phó với chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Việt Nam Tự Trị nghĩa là tách rời khỏi Tòa Thánh Vatican của Việt Minh, Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) vận động xin Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Drapier ở Huế tâu về Tòa Thánh Vatican xin cứ các giám mục Việt Nam thay thế các giám mục người Pháp hay Tây Ban Nha. Được biết thời này ở cả Việt Nam, chỉ có 3 giáo phận được cai quản bởi giám mục Việt Nam là các giáo phận Phát Diệm với Đức Cha Lê Hữu Từ, giáo phận Bùi Chu với Đức Cha Ngô Đình Thục, kỳ dư 13 giáo phận khác đều do các giám mục người Pháp hoặc Tây Ban Nha cai quản.

                              Việc thiêt lập hàng Giáo Phẩm hoàn toàn Việt Nam được Giáo Hội chuẩn bị thiết lập ngay từ khi Đức Cha Nguyễn Bá Tòng lên ngôi giám mục Tiên khởi Việt Nam vào năm 1933 và từ năm 1934 đến 1960, Giáo Hội Việt Nam vẫn tiếp tục tiến triển, nhưng gặp phải biết bao trở ngại bên ngoài bên ngoài cũng như bên trong, nhưng Giáo Hội đã đập tan hết mọi trở ngại để đi đến ngày vinh quang: Giáo Hội chính thức thành lập phẩm trật tại Việt Nam.

                              Toàn cõi Việt Nam được chia ra làm ba giáo tỉnh: Giáo tỉnh Hà Nội, Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Sài Gòn. Một Giáo tỉnh đều do Một Đức Tổng Giám Mục cai quản và mỗi giáo phận do một Đức Giám Mục (xem Việt Nam Giáo Sứ quyển II trang 200) và hiện nay tất cả các tổng giám mục và giám mục Công Giáo đều là người Việt Nam, và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn thông công với Giáo Hội Mẹ ở La Mã, và như vậy là Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn thất bại trong âm mưu thành lập Giáo Hội Cộng Giáo Việt Nam Tự Trị hay loại Giáo Hội Quốc Doanh.

                              Tuy bị Cộng Sản Việt Nam bách hại dữ dội, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã giữ vững được sự trung thành với Giáo Hội Mẹ ở La Mã: ngược lại, Giáo Hội Công Giáo Trung Hoa đã bị Cộng Sản bách hại, lâm vào tình trạng chia rẽ rất nặng nề. Nhiều giám mục, linh mục và giáo dân bị Cộng Sản cầm tù vì trung thành với La Mã, tuy nhiên một số giáo phẩm và giáo dân, một phần nào vẫn giữ vững đức tin, sinh hoạt bí mật trong Giáo Hội Thầm Lặng. Trong khi đó Giáo Hội Công Trung Hoa Quốc Doanh, hiện chiếm cứ hầu hết các nhà thờ trên toàn quốc, và tuyên bố tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo Mẹ ở La Mã, và tình trạng quốc doanh này vẫn còn kéo dài, dù Tòa Thánh đang hết sức cố gắng vận động kéo đoàn chiên lạc Trung Hoa trở về với Chủ Chăn là Đức Giáo Hoàng đại diện Chúa Kitô ở trần gian.

                              Hiện nay chính sách tổ chức Công Giáo quốc doanh của Cộng sản Việt Nam không thành công, nhờ vào ý chí tranh đấu quyết liệt của Giáo Hội Việt Nam. Tuy nhiên trong năm 1946, vấn đề gọi là tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị đã làm cho dư luận của các tầng lớp giáo dân Hà Nội trở nên rất sôi nổi, vì một cuộc bút chiến dữ dội đã xẩy ra giữa tuần báo ‘Sống’ cơ quan của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, do anh ruột tôi là Nguyễn Đình Thịnh, làm chủ bút và tờ tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ có khuynh hưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng, người chủ trương là anh Mai Ngọc Liệu, một huynh trưởng Hướng đạo rất thân với tôi. Cuộc bút chiến xẩy ra một cách hết sức gay go, đến nỗi có nhiều khi suýt xẩy ra những cuộc xô xát giữa những người anh em tình nguyện phân phát của 2 tờ báo, trước của nhà thờ Chính Tòa Hà Nội sau các thánh lễ Chủ Nhật.

                              Chúng tôi công nhận rằng lập trường đả kích vấn đề Việt Minh chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, tách rời khỏi Vatican của tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ là đúng, nhưng chúng tôi vẫn để cuộc bút chiến tiếp diễn, vì một lý do chính trị rất khó nói ra công khai thời bấy giờ. Là Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc (Phát Diệm) chủ trương hòa hoãn với Việt Minh trong giai đoạn Mặt Trận đang bành trướng việc tổ chức các đoàn thể Công Giáo Cứu Quốc và mua võ khí để võ trang cho các đơn vị Tự Vệ Công Giáo Cứu Quốc tại tất cả các giáo xứ trên toàn quốc. Nên lập luận của Mặt Trận VNCGCQ trong cuộc bút chiến này là Giáo Hội Việt Nam cần phải được tự trị, nghĩa là các giáo phận không thuộc quyền cai quản của các giám mục ngoại quốc nữa và vận động xin Tòa Thánh cử giám mục Việt Nam thay thế.

                              Ngoài cuộc bút chiến về vấn đề Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị, tờ Hồn Công Giáo cũng đả kích rất mạnh chính phủ Hồ Chí Minh và vạch trần ra rằng chính phủ này là chính phủ của Cộng Sản, và trong các bài viết Hồn Công Giáo luôn luôn đề cao vai trò của Liên Đoàn Công Giáo và đả phá Công Giáo Cứu Quốc, nhưng chỉ sau đó ít lâu, nhờ ở tình huynh đệ Hướng Đạo, vấn đề ‘hiểu lầm’ giữa nhóm chủ trương báo ‘Hồn Công Giáo’ và báo ‘Sống’ đã được giải tỏa một cách êm đẹp.

                              Ngoài vấn đề bút chiến với tuần báo ‘Hồn Công Giáo’ về chủ trương tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tự trị như vừa trình bày ở trên, tuần báo ‘Sống’ lại còn gây một cuộc bút chiến khác với báo ‘Sự Thật’ là cơ quan truyền thông chính thức của đảng Cộng Sản Đông Dương về vấn đề vô thần và hữu thần. Cuộc bút chiến này được coi như là một cái ‘ngông’ của tuổi trẻ.

                              Vì tiên liệu tình hình chính trị của Việt Nam trong giai đoạn này có nhiều thay đổi từ việc Việt Minh thỏa hiệp với Pháp qua hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm 1945 tới việc quân đội Trung Hoa bị triệu hồi về nước để quân đội Pháp thay thế tước khí giới quân đội Nhật Bản và các đảng phái cùng các đoàn thể có tinh thần quốc gia bắt đầu bị Việt Minh đàn áp và chính phủ liên hiệp kháng chiến giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia sắp bước vào giai đoạn chót của liên hiệp.

                              Nên sau một thời giai mở rộng những hoạt động của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc tại địa phận Hà Nội và Hải Phòng, Đức Cha Lê Hữu Từ gọi cha Hoàng Quỳnh về hoạt động ở địa phận nhà, chú trọng tới việc củng cố các tổ chức Công Giáo Cứu Quốc của địa phận và mở rộng hoạt động sang địa phận Bùi Chu.

                              Đứng trước những âm mưu của Việt Minh tiếp tục chính sách phá tôn giáo của Cộng Sản bằng tiếng gọi là tranh đấu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Tự trị tách rời ra khỏi Giáo Hội Hoàn Vũ ở Vatican, Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc dần dần biến thể thành Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc, trụ sở đặt tại Phát Diệm, nhưng vẫn hoạt động sát cánh với Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, trụ sở ở Hà Nội, với Nguyễn Công Chính là chủ tịch Ủy Ban Chấp Hành, để giữ tính cách hợp pháp của Tổng bộ CGCQ đối với Việt Minh.

                              Một trong những mục tiêu chính của Tổng bộ Công Giáo Cứu Quốc là tổ chức những lớp huấn luyện thường xuyên về chính trị và quân sự một cách hợp pháp tại Trường Thử ở Trì Chính cho các thày giảng và các thanh niên công giáo trong địa phận Phát Diệm hay từ các địa phận khác gửi tới. Ngoài những lớp huấn luyện tại Trường Thử, sau này Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc thiết lập 3 trung tâm huấn luyện.

                              1- Trung Tâm Phát Diệm dành cho các xứ bộ thuộc phủ bộ Kim Sơn, khu bộ miền duyên hải. Huyện bộ Yên Mô và trở thành trung tâm huấn luyện thường xuyên cho tới năm 1951.

                              2- Trung Tâm Phúc Nhạc cho các phủ bộ Yên Khánh và Gia Khánh (giới hạn tỉnh lỵ Ninh Bình)

                              3- Trung Tâm Mưỡu Giáp- Lãng Vân dành cho các xứ bộ trong các phủ bộ Gia Viễn, Nho Quan, và một phần phía bắc Gia Khánh.

                              Chương trình huấn luyện gồm:

                            • Chính trị Công Giáo, học thuyết xã hội Công giáo
                            • Chính trị phổ thông
                            • Quân sự động tác cơ bản và bắn súng
                            • Võ thuật: quyền cước, gươm đao, mã tấu, côn, gây
                            • Tring sát: cách thông tin và nghệ lượm tin tức
                            • Ca kịch, lửa vui, ca nhạc (trích Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, của Đoàn Độc Thư và Xuân Huy)

                              Tại địa phận Bùi Chu, hồi tháng 10 năm 1946, trại thủ lãnh thanh niên mang tên Hồ Ngọc Cẩn đã được tổ chức tại Hải Hậu, thu hút các thành phần từ ưu tú công giáo chịu đào luyện để một mai chống chọi với làn sóng đỏ bắt đầu lan tràn. Chính phủ cộng sản tỏ vẻ hoài nghi, mà quả nhiên một năm sau, lớp thanh niên ấy đã nổi dậy như vũ bão để bảo vệ quyền lợi tôn giáo một cách đắc lực, trước thì trong mặt trận Công Giáo Cứu Quốc (1946-1948) sau thì trong phong trào Tự Vệ (1949-1951 (Xem Việt Nam Giáo Sử của Phan Phát Huồn CssR trang 273) và cuối năm 1946, thể theo lời yêu cầu của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn, Giám Mục địa phận Bùi Chu, cha Hoàng Quỳnh được phái sang Bùi Chu giúp việc thiết lập Tổng Bộ Công Giáo Cứu Quốc Bùi Chu.

                              Trong khi đó vì đường lối quyết liệt chống thực dân Pháp và cộng sản vô thần của Đức Cha Lê Hữu Từ và vì ảnh hưởng của cuộc bút chiến giữa báo ‘Hồn Công Giáo’ và báo ‘Sống’ của Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc, Phát Diệm đã bị các giám mục người Pháp và Tây Ban Nha ‘hiểu lầm’ nên Đức Cha Lê Hữu Từ và cha Đoàn Độc Thư đã phải làm 1 cuộc ‘xuất ngoại’ để ‘giải độc’ du luận.

                              Cuộc giải độc này bắt đầu bằng cuộc viếng thăm tòa Giám Mục Hà Nội ngày 14-10-1946, Đức Cha Chaize (Thịnh) và các cố tây cho rằng Đức Cha Lê và Phát Diệm theo Việt Minh Cộng sản đánh lại người Pháp… Những luận điệu chống đối này đã được Đức Cha Lê và cha Đoàn Độc Thư giải đáp và trình bày cặn kẽ từ lập trường dành độc lập và chống chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, đến những hành độ phải có trong chiến thuật ‘gậy ông đập lưng ông’ vì Phát Diệm rõ hơn ai hết Việt Minh là cộng sản.

                              Cuộc giải độc đã thành công, Đức Cha Thịnh và các cố Tây thay đổi thái độ, tiếp đón phái đoàn Phát Diệm một cách hết sức nồng hậu khác hẳn thái độ lạnh nhạt khi mới tới, và sau Hà Nội phái đoàn Phát Diệm lại còn tiếp xúc với các giám mục người Tây Ban Nha của các địa phận Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, và Đức Cha De Cooman, giám mục địa phận Thanh Hóa và Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn ở Bùi Chu cùng cha Tổng quản Trần Hữu Đức ở địa phận Vinh.

                              Kết quả cuộc giải độc này lại còn thành công hơn nữa là vào năm 1947, Đức Cha Gomez, giám mục địa phận Hải Phòng, người Tây Ban Nha đã cho Đức Cha Lê Hữu Từ mượn một số tiền lớn là 1,000.000 đồng (tiền Đông Dương) mua súng đạn ở Trà Cổ để võ trang cho lực lượng Công Giáo Cứu Quốc. Số tiền ấy, sau này năm 1951, Đức Cha Gomez đã không đòi lại mà tặng luôn cho Đức Cha Lê và Phát Diệm.

                              (còn tiếp)
                               
                            • #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9