Chuyện đời chuyện người - Tuyết Minh
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
frank 15.09.2022 23:30:47 (permalink)
 
 
Chuyện Đời Chuyện Người

Tuyết Minh
 
 

1-  Những Tâm Hồn Cao Thượng
 
Đang theo học Đại học Văn Khoa. Hiển cũng mơ mộng như ai, cũng bạn bè vui chơi, tâm sự, cũng kẻ đưa người đón, các chàng mời đi ăn, đi ciné nếu nàng muốn. Duyên dáng lịch sự, Hiển chú tâm rèn luyện học hành mong năm nay lấy xong bằng Cử nhân Văn khoa để đi dạy học như ý cha mẹ mong muốn.
 
Ngày 30-4-75 ập đến cũng như bao gia đình hoang  mang, lo sợ. Ra đường thấy người chạy đi chạy lại, xe cộ đủ thứ di chuyển, xe đạp, xe gắn máy, xe hơi, xe ba gác, tay ôm, vai vác cuống quýt gọi nhau, trong lòng người nào cũng bồn chồn lo lắng, gặp ai quen cũng hỏi bây giờ đi đâu? Có đường nào để đi không?
 
Gia đình Hiển gồm cha mẹ các anh các chị các cháu, cũng gọi nhau hẹn gặp tụ họp ra bến Bạch Đằng. Người ta chen chúc xô đẩy xuống tàu. Khi ba mẹ Hiển tìm được chỗ ngồi, quay lại điểm mặt các con, các cháu, lúc đó mới thấy thiếu gia đình người con gái lớn. Hiển, người con gái út cũng vừa tới với chiếc xe đạp, mẹ Hiển liền hỏi Hiền trở lại tìm gia đình người chị.
 
Khi gia đình người chị và Hiển tới bến, tàu đã nhổ neo đem theo cha mẹ, các anh chị và các cháu. Không còn đường nào đi được, hai chị em nhìn nhau nước mắt lưng tròng đành kéo nhau trở về.
 
Anh chị Chân phàn nàn ái ngại nhìn Hiển, tự trách chỉ vì anh chị chậm chân để lụy cho Hiển, cả nhà đã đi còn Hiển bây giờ lạc lõng thân gái một mình. Anh chị Chân đều nói:
 
-Em về ở với anh chị rồi tìm đường đi sau.
 
-Đã lỡ rồi, em không phiền trách anh chị, em có thể tự lo được. Bây giờ em phải trở về nhà xem ra sao, rồi sẽ liệu sau.
 
Một cảnh tượng tiêu điều hoang vắng khi Hiển bước chân vào nhà, cách đây vài tiếng đồng hồ, mọi người vội vã thu dọn, tiếng gọi tiếng hối thúc ầm ĩ, giờ đây không một người, không một tiếng động. Hiển cảm thấy cô đơn, buồn phát khóc được, giờ đây chắc cha mẹ cũng đang lo buồn thương các con còn kẹt lại.
 
Một lần nữa anh chị Chân nài nỉ:
 
-Bây giờ lỡ rồi, chúng ta bình tĩnh đợi thời thế xoay đổi, thực tế còn phải sống, anh chị may mắn vẫn còn cửa hàng, em về ở với anh chị, các cháu, tiếp tục đi học đợi tin bố mẹ, anh nghĩ phải một thời gian lâu mới có tin gởi về.
 
Hiển không muốn làm phiền anh chị, trở về nhà thu dọn không đồ đạc còn lại mà trong khi vội vã cha mẹ nàng đã mang theo và chưa kịp bán. Hiển cũng còn may, từ ngày mai sẽ đem ra chợ bán dần, chỉ để lại ít đồ cần dùng cá nhân. Bây giờ mình phải đổi khác, nàng tự nghĩ phải tự túc lo lấy thân, không thể ý lại vào anh chị, anh chị còn lo cho các cháu, đó là bổn phận của anh chị.
 
Hiền đi thăm tất cả những bạn bè, những nhà họ hàng, quen biết để xem ai đã đi được, những ai còn ở lại. Người bạn thân nhất là Thu. Cả gia đình không có ý định đi, như lời bác Tài, bố Thu, nói:
 
-Nghề buôn bán của mình không dính dáng gì đến chính trị, không động chạm gì đến ai, chưa có sự gì cần phải đi.
 
Ông bà Tài và cả Thu đều nói:
 
-Hiển đã lỡ không đi được hãy ở lại đây với Thu là chỗ bạn thân cho có bạn cho đỡ cô đơn.


Mọi người đều trấn an Hiển đừng lo ngại sợ hãi, dù chế độ nào luật lệ có đổi khác, mình là người làm ăn trung thực rồi cũng thích ứng được. Suy nghĩ ít lâu, Hiển nói:
 
-Cám ơn hai bác và Thu. Cháu phải ở lại nhà trông coi và sẽ bán dần đồ đạc chi tiêu, chờ tin tức bố mẹ cháu, chắc rồi ra cùng liên lạc về và còn anh chị cháu cũng ở gần đây. Có chuyện gì cần, cháu xin nhờ hai bác giúp đỡ sau.
 
Cả Hiền và Thu xin phép ông bà Tài đi lên nhà thương Cộng Hòa vì cả hai từ trước vẫn công tác với các bà trong hội Phan Sinh để thăm nom giúp đỡ các thương bệnh bình, giờ đây ai ai cũng lo cho mình và gia đình, không thấy ai nhắc tới việc xã hội. Mấy ai nghĩ tới những thương bệnh binh đang nằm chờ những bàn tay săn sóc, nghe những lời an ủi cho với bớt sầu khổ.
 
Còn khổ hơn nữa, những anh bị mất cả hai tay đến giờ chia cơm không tự ra lấy được phần ăn, thân nhân không có ai, nhờ anh bạn cùng phòng ra lấy giúp để bên cạnh, nhưng phải đợi có người giúp lấy thìa đưa cơm, thức ăn vào miệng. Họ cứ ngồi chờ cô một người nào đi qua thăm hay những anh cùng phòng ăn xong trước, bấy giờ mới giúp cho ăn. Thật là cám cảnh!
 
 Còn những anh thương binh mấy hôm nay đã được gội đầu chưa, nhất là những bị thương ở đầu bê bết máu dính vào tóc đã khô, vừa đau vừa ngứa ngáy. Hiển  hình dung nhớ đến từng phòng mà chiều thứ Sáu nào cả hai cô cũng đều  có mặt để dành phần lấy nước, bưng từng thau nước tới từng thương binh, người múc nước đổ lên đầu, người gỡ tóc, an ủi thương binh.
 
Tới cổng nhà thương, các bà các cô đều thất vọng không ai được vào thăm thương binh Mỹ Ngụy. Hiển và Thu buồn bã nhìn nhau, cả hai cùng trao đổi ánh mắt nhìn xót xa khi nghĩ đến những người thương bệnh binh.
 
***
 
Mấy tháng đầu nếp sống chưa thay đổi nhiều. Từ lúc đổi tiền, chính phủ Cộng Sản phơi bầy bộ mặt giả trá, tìm đủ cách hạ mức sống trong Nam xuống bằng mức sống ngoài Bắc, nghĩa là để cho đói rách bằng nhau. Họ thực hành chính sách bóc lột, tìm cớ tịch thu nhà. Hiển có một mình ở rộng quá, phải thu xuống ở dưới bếp nhường nhà trên cho cán bộ ngoài Bắc vào ở.
 
Gia đình ông bà Tài thuộc diện đi vùng kinh tế mới, của hàng bị tịch thu theo chế độ mới không được buôn bán, riêng Thu xin cha mẹ ở lại với Hiển để tiện vừa học thêm và kiếm việc làm.
 
Ông bà Tài đã trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Một túp lều tứ bề trống hốc, một mảnh đất khô cằn để làm vườn mà người ta chia cho mỗi gia đình với câu “Hãy khắc phục, sỏi đá cũng thành cơm” hay “Đừng tin những gì Cộng sản nói, hãy nhìn công việc họ làm”. Không thể nấn ná ở lại được, ông bà Tài đành đưa gia đình về Sàigòn móc nối tìm cách ra đi.
 
Đôi bạn Hiển Thu rất tâm đầu ý hợp, bàn nhau tìm một ý hướng trong cuộc đời. Can đảm phấn đấu sẽ là phương thức duy nhất nếu không muốn thấy mình phải vùi thân dưới làn nước đục, trong nơi hắc ám. Đôi bạn cùng ý hướng đã tìm vui sống và ý nghĩa cho cuộc đời trong cách thức đó.
 
Sau khi đã xin được việc làm, Hiển đi dậy học. Thu làm ở bệnh viện. Cả hai thường nâng đỡ an ủi nhau bởi vì những kỳ thi, chèn ép, những lời nói, hành vi thô bỉ đã diễn ra hàng ngày nơi làm việc, không làm các cô chùn lòng thoái chí. Các cô cố tạo bầu không khí  hòa đồng thích hợp, làm tròn bổn phận. Các cô can đảm chịu đựng, tha thứ, nhẫn nhục, giúp đỡ những tha nhân chung quanh bằng những việc làm.
 
Dần dà đã thấm, có tác động làm mềm lòng những quả tim độc ác chai đá. Mỗi khi nhận thấy kết quả những nghĩa cử mình làm được ở bệnh viện, ở nhà thương, các cô về tới nhà vui vẻ kể cho nhau nghe trong bữa ăn luôn là rau muống, ít tép rang mặn mà cả hai thấy ngon như những bữa sơn hào hải vị.
 
Sau khi tới nhà thương Cộng Hòa các cô không được vào thăm giúp đỡ thương binh như mọi khi vì những người của Mỹ Ngụy đã bị đuổi đi.
 
Một cuộc triệu tập họp bí mật của những người đầy lòng bác ái đã khuyến khích phân công. Lời của bậc đáng kính mà các cô luôn nhớ trong buổi linh thao trước khi Người bị trục xuất. “Lúc nào cũng mãn nguyện khi thấy được sinh làm người cao quý hơn muôn vật khác, là dịp chia sẻ cùng tha nhân, trong cố gắng và trau dồi, để được dễ dàng mà gần gũi họ hơn trong cải tiến tình yêu thương cao đẹp giữa người với người”.
 
Đôi ba lần Thu cương quyết xin phép bố mẹ ở lại với lý do muốn phục vụ đồng bào xấu số, bệnh tật đau yếu. Nàng nói:
 
-Xin bố mẹ hãy tin con, được bố mẹ sinh ra, dậy dỗ, với vốn học vấn con có đủ nghị lực để thích ứng đối phó với những bất trắc ở đời, đừng lo cho con. Xin bố mẹ cứ đưa các em đi vì tương lai. Với chế độ tối tăm này không còn tìm đâu ra ánh sáng, xã hội băng hoại mầm non cứ thui chột dần.
 
Các cô đã nhận rất nhiều thư của cha mẹ, anh chị em thúc giục làm giấy tờ xin đoàn tụ đáp ứng với đơn xin ở ngoại quốc do cha mẹ bảo lãnh. Các cụ muốn các cô đi sớm còn kịp lập gia đình, hay nếu muốn tu thì ra nước ngoài cũng sẵn có nhiều dòng tu phục vụ như ý.
 
Các cô đều trả lời một luận điệu xin đừng thắc mắc vì chúng con đã chọn con đường ở lại với các em mồ côi, với anh chị em tàn tật, thiếu thốn, với những cha mẹ già không cơm áo, bệnh hoạn. Con muốn tu, chúng con đã chọn thứ nhất tu chùa, thứ hai tu chợ, thứ ba tu ở nhà là con đường đã chọn.
 
Các cô đều luôn luôn nhận được những thùng đồ tiếp tế do gia đình ở ngoại quốc gởi về, mỗi lần nhận đồ về là một dịp các cô bận rộn phân chia, đâu là phần các em mồ côi ở Long Thành, những gia đình có người tàn tật ở Thủ Thiêm, những ông bà già đau yếu ở Nguyễn Duy Khánh, ở Cầu Ông Lãnh v.v…. vẫn không đủ chia, cứ băn khoăn mấy người này đói quá, còn mấy chị thiếu nợ đong gạo chịu nấu cháo cho con chưa có trả bị người ta mắng chửi tàn tệ, chỉ biết khóc, nơi nào cần hơn hãy đến trước.
 
Các cô đã dùng những ngày nghỉ đến tận hang cùng ngõ hẻm mà không biết mỏi mệt, không chê hôi hám, bẩn thỉu, coi ai cũng như ruột thịt.
 
Ôi cao quý thay, đáng phục thay, những người ở lại với tâm hồn cao thượng, nhường cơm sẻ áo, an ủi người đau khổ chịu đựng những khinh bỉ, chế riễu, bị thiệt thòi đủ đường mà vẫn can đảm coi thường, tha thứ vì mục đích hướng thượng giúp đỡ tha nhân làm vui.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.09.2022 01:39:35 bởi frank >
#1
    frank 16.09.2022 23:20:14 (permalink)
     


    2-  Ngọc Tìm Trong Đá, Vàng Đãi Trong Cát


     
     
    Trời  còn mờ sương chẳng biết mấy giờ, có mỗi cái đồng hồ lại hỏng phải đem đi chữa, người ta hẹn hôm nay mới chữa xong. Tết nhất đến nơi, hôm nay đã là ngày 28 phiên chợ cuối cùng, mua bán gì còn có ngày hôm nay nữa thôi, rồi còn nghỉ ăn Tết. Miệng nói, chân đi, tay làm, mấy phút sau Bà Tràng hối thúc cả nhà mọi người tới ăn cơm. Bữa cơm nhà quê thanh đạm không cầu kỳ, chỉ cần nồi cơm nóng, đĩa tôm hay cá kho mặn làm sẵn từ hôm trước với đĩa rau luộc, chén nước mắm cho bữa ăn buổi sáng.
     
    Nhà ông bà Tràng tọa lạc bên chân đê đường chặn nước mặn từ bể Thái Bình Dương tràn tới. Nơi đây cũng là ngã ba giao thông bằng đường thủy cho ba miền Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa. Chung quanh nhà là ruộng cấy lúa trừ một con đường đất nhỏ chạy thẳng từ nhà tới mặt đường đê ở vào một địa điểm tiện cho nghề chăn nuôi vịt, gà, cấy lúa, trồng rau.
     
                                            ***
     
    Trước đây Tràng lớn lên trong một gia đình đông con; thôi bú, mẹ đã để ở nhà cho anh hay chị bế ẵm, có khi là ông bà nội, ngoại hay hàng xóm, bất cứ ai có thể gửi được con, để đi làm từ sáng tới chiều mới về. Khi con lớn đến đâu đã có việc với tuổi như sai vặt, biết nấu cơm quét nhà, tưới cây, dần dà cho tới lúc đã đủ sức theo cha mẹ ra đồng cầy cấy làm ruộng.
     
    Tràng đã thay bố đưa trâu ra đồng, thay bố cầy bừa phá rẫy, nhận những công việc nặng. Khi người em kế tiếp đủ sức thay thế cho anh, cũng là lúc bố mẹ bàn tính đến chuyện “cây cả ra hàng”, tìm nơi hỏi vợ cho con. Không cần đi đâu xa, cô thợ cấy Lệ ở xóm trên, mỗi khi ra đồng, buổi trưa nghỉ ăn cơm, mọi người kéo nhau lại dưới bóng cây đã trò truyện hỏi thăm nhau. Từ hôm cha mẹ đôi bên nói cho con biết ý định của cha mẹ, cả hai chỉ liếc mắt nhìn nhau e thẹn quay đi ngay, họ theo ý cha mẹ, không thắc mắc tìm hiểu tính xấu nết tốt của nhau, hay có yêu nhau không, cho đến ngày cưới nên vợ nên chồng.
     
    Ba tháng sau ngày cưới, bố mẹ cho vợ chồng Tràng ra ở riêng, lấy cớ nhà chật còn phải lo cho các em. Vâng lời bố mẹ, Tràng đã tìm được mảnh đất bên chân đê vì là nơi xa xóm làng không ai muốn canh tác, với một cơi trầu chai rượi đến xin với hương chức trong làng, họ cấp giấy cho Tràng được tự do khai khẩn.
     
    Có sức lực  sung  mãn, với tính cần mẫn, cả hai vợ chồng ban ngày đi làm thuê, tối về, họ cố gắng đào ao lấy đất làm nền, chẳng bao lâu đã có một mái nhà nhỏ, nói cho sang với mọi người, chỉ là túp lều che mưa che nắng, lấy chỗ nghỉ ngơi qua đêm cho một tiểu gia đình chỉ mong muốn được an cư lạc nghiệp.
     
    Ngoài những ngày đi làm thuê cho xóm làng, họ trồng rau nuôi heo, gà, vịt; ở vào địa điểm khoáng đãng, không khí trong lành, súc vật họ nuôi đẻ sinh sôi nẩy nở. Có chút vốn liếng, cả hai vợ chồng ở nhà trông coi những đàn vịt, đàn gà nhiều hàng trăm con.
     
    Khởi nghiệp với hai bàn tay trắng, bây giờ ông bà Tràng đã có nhà cửa khang trang, vườn rau ao cá, ruộng đồng cũng nhiều ngày mùa tấp nập thuyền ra thuyền vào chở lúa đến. Các con đã gửi trọ học gần trường.
     
    Cả hai ông bà Tràng thuở thiếu thời đã không được học hành, chỉ nhờ vào các buổi tối mùa hè hàng năm nhà thờ Công Giáo tổ chức dậy giáo lý cho trẻ con đồng thời cũng dậy vần quốc ngữ cho những người lớn nào muốn học, nên cả hai cũng biết đọc, chữ nào khó quá thì phải đánh vần.
     
    Vì ít học, cả hai ông bà gặp ai nói năng hoạt bát tỏ ra có học đều được ông bà kính trọng  quý mến; tính tình dễ dãi, có người quen giới thiệu gửi gấm, những người khách tới nhà, ăn nói lễ phép lịch sự tỏ ra là người có địa vị, học hành nên ông bà vui vẻ kính trọng, rồi hết người này lại giới thiệu người khác, nên trong nhà ông bà Tràng lúc nào cũng có khách, khi ít khi nhiều, có người đến rồi đi ngay, có người ở lại lâu một hai tuần lễ hay hết lộ phí cũng được ông bà cung cấp luôn.
     
     Nhà sẵn gà vịt, thức ăn, ông bà khoản đãi những người lạ mặt càng ngày càng nhiều, người ta đã hứa hẹn khi cách mạng thành công sẽ trả ơn ông bà nào chức quyền lợi lộc. Tọa thực sơn băng, mắc bận vào thù lao tiếp khách, công việc làm ăn bỏ bê, lợi tức ngày một kém, khách khứa cũng tự rút bớt, không còn những bữa ăn nhậu nhẹt đầy nhà như trước.
     
    Vợ chồng người nông dân chất phác tin tưởng vào người học hành giỏi giang, không ngần ngại dốc hết túi tiền để dành từ bao lâu nay đưa ra giúp vào công cuộc cách mạng cứu dân cứu nước chưa có tia hy vọng.
     
    Đã thấy chiến sự lan tràn, trong dân chúng thỉnh thoảng nghe nói người bị bắt cóc, người bị thủ tiêu, hoang mang chán nản, bị đe dọa vì trong nhà thường có người lạ mặt lui tới ở nhà, lại ở vào nơi đồng không mông quạnh, xa xóm làng. Ông bà suy đi tính lại các con còn nhỏ phải kiếm chỗ an toàn cho các con ăn học, nên quyết định thu nhặt những gì có thể mang đi được rồi xuống thuyền tìm vào khu an toàn Phát Diệm có người bà con quen thuê giúp gian nhà làm nơi tá túc lần hồi.
     
    Năm 1954, Hiệp định Genève ra đời chia đôi đất nước. Gia đình ông bà Tràng cũng vội vàng thu xếp đưa con theo làn sóng người đi tị nạn xuống tàu há mồm vô Nam. Lần này được sự trợ cấp của chính phủ đi định cư trên cao nguyên, được bảo vệ an ninh, với hai bàn tay cần cù mẫn cán, đã quen khởi nghiệp bằng nghề canh tác, ngày qua ngày, hai ông bà sung sướng nhìn nương vườn, thửa ruộng xanh mướt thoai thoải dưới chân đồi thay thế cho vườn rau, ao cá, ruộng lúa tốt um do hai bàn tay trắng vợ chồng đã tạo lập nên ở ven đê thuở thiếu thời. Quê hương cũ ngoài Bắc bây giờ chỉ còn những hạng lục lâm thảo khấu, những lũ chó nhảy bàn độc chiếm ngự ăn trên ngồi trốc, bần cùng hóa nhân dân biến dân thành nô lệ cho chúng, ru ngủ dân với mỹ từ tự do, độc lập, hạnh phúc.
     
    Đang yên ổn sống trong vùng tự do, các con nhỏ có chỗ học hành, các con lớn tản mác các quân khu thi hành nghĩa vụ giữ nước thì ngày 30-4-75 ập đến, cơn hồng thủy khắc nghiệt tràn vào bao phủ toàn dân. May mắn thay, qua thời gian lo âu ông bà đã nhận được tin các con từ Mỹ, tứ Úc lần lượt báo tin về. Rồi ông bà Tràng luôn nhận được những thùng quà từ các nước văn minh gửi về kèm với lá thư thương nhớ phát xuất từ tâm hồn hiếu thảo trung trực thừa hưởng di truyền của cha mẹ chúng, lòng chân thành rộng rãi, với dòng chữ dặn cha mẹ giúp đỡ những người thiếu thốn chung quanh.
     
    Không cần những lời con dặn trong thư ông bà Tràng cảm ơn Trời đã cho mình gặp may mắn, chỉ để đủ dùng cho hai vợ chồng còn bao nhiêu phân chia cho bà con lối xóm không phân biệt thân sơ. Muốn sự giúp đỡ hiệu nghiệm và lâu dài hơn, ông chia tùy từng người có nghề gì như thợ mộc, thợ nề, thợ cưa, sửa xe v.v… giúp mua cho dụng cụ theo nghề. Hay không có nghề thì cho thuê xích lô với giá tượng trưng, ít lâu sau có tiền muốn làm chủ sẽ bán lại với giá rẻ.
     
    Tại nhà, ông bà mướn người mở dậy may miễn phí cho các bà các cô, tập may bằng thứ vải xấu rẻ tiền. Rồi đem mớ quần áo này vào các thôn xóm xa thành phố phát quần áo này cho những nhà quá nghèo, có người ốm đau thì giúp đỡ gạo, thuốc men. Ông bà cứ âm thầm giúp đỡ tha nhân.
     
     Những hành động từ bi bác ái đã làm gương khích động được mấy ông bà khác họ tới hợp tác, tiến lên giúp đỡ đồng bào một cách hữu hiệu và sâu rộng hơn như đã kiếm được một căn nhà bỏ không, họ sửa sang lại biến thành trung tâm y tế, thuê một ông bác sĩ, một nha sĩ lương chưa tới 10 mỹ kim mỗi tháng  chữa miễn phí cho dân nghèo, một ngôi trường có 9 lớp, thuê các giáo sư dậy miễn phí cho các học sinh nghèo, lại có một cổ đòn đám ma cho mượn không lấy tiền.
     
    Ông bà hăng say với công việc giúp đỡ tha nhân; vì các con thúc giục phải đi đoàn tụ, nhưng trước khi đi ông bà giao lại công việc cho các ông bà bạn điều hành với lời hứa ra ngoại quốc sẽ tìm nguồn tài trợ gửi và khuếch trương rộng để giúp đỡ được nhiều người hơn.
     
    Ngọc tìm trong đá, vàng đãi trong cát, tình thương ẩn trong tim những người chất phác, không khoe khoang kêu gọi ầm ĩ. Đúng như câu Tổng Thống 4 không đã nói hãy nhìn việc người ta làm, đừng nghe người ta nói. Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu, rộng rãi và chân thành.
    #2
      frank 21.09.2022 00:56:22 (permalink)
       
      3-  Tuổi Già Trên Phần Đất Mới
       
       
      Tiếng chuông điện thoại reo vang, thằng cháu nhỏ mới lên 5 tuổi, bụ bẫm, trắng trẻo, hai mắt đen như hai hạt nhãn, một tay ôm  con gấu nhồi bông, một tay kéo xe từ trong nhà chạy ra sân đảo mắt tìm bà, miệng kêu “Bà nội, có điện thoại”. Bà Hạnh nở nụ cười tươi nhìn cháu hỏi:
       
      -Có điện thoại ai gọi bà hay người khác?
       
      -Không phải người khác – thằng cháu trả lời – người ta hỏi nội cháu đâu hãy đi tìm nội.
       
      -Bác Mạnh hả, khỏe chứ?
       
      -Tôi rầu muốn chết, khỏe gì? Bác có bận không, đang làm gì đấy?
       
      -Ồ, muốn bận thì bận, không có việc gì gấp, sáng hôm nay ở đây đẹp trời quá, cuối hạ sang thu rồi, tôi ra vườn xem luống cải còn ít cây đã có bông nở vàng óng định để giá lấy hạt làm giống thì cháu gọi về. Thế nào, có truyện gì mà kêu buồn rầu quá vậy?
       
      -Khổ quá, tôi chỉ còn biết nói chuyện than thở với bác cho đỡ khổ, chứ biết nói với ai bây giờ. Như bác biết tôi lo lắng chạy hết chỗ này đến chỗ kia tìm mối lo cho con đi chui tị nạn, bán từ của tốt tới của xấu, đồ đạc trong nhà không dám để dùng, tần tiện từng đồng mới đủ tiền đóng cho chủ thuyền, lo lắng đêm ngày nhỡ hở ra công an họ biết là tiêu tùng. Mà có phải một lần đi được đâu, biết bao tháng ngày, lần thứ ba mới trót lọt, tôi cũng chỉ gắng được hai cháu lớn đi, đành để lại ba cháu nhỏ ở nhà rau cháo nuôi nhau.
       
      Qua giai đoạn vất vả và các cháu vừa đi học vừa đi làm cũng dành được chút ít gởi về để nuôi các em chúng. Mấy cháu ở nhà cũng biết thân phận thời buổi khó khăn, sống với cộng sản khổ mọi đường, nhưng chúng biết thương bố mẹ, chiều chuộng hiếu đễ với bố mẹ, tôi dậy bảo các cháu biết đường ăn ý ở, dù thiếu thốn nhưng cũng không có điều gì đáng phàn nàn.
       
      Từ hôm được giấy đi gọi đoàn tụ, chúng tôi mừng hết sức. Tuy buồn vì phải xa các con ở nhà, nhưng đi được là may, đỡ cho các cháu bớt được hai miệng ăn, còn hy vọng thôi thúc chúng tôi ra đi. Lúc đi hồ hởi biết chừng nào, thương nhớ biết mấy. Tới phi trường Los Angeles gặp các con lại thêm dâu, tay bồng tay dắt các cháu nội mà chúng tôi chỉ biết qua các lá thư gửi về, bây giờ mới biết mặt.
       
       Lòng chúng tôi vui mừng rộn rã, thật là thiên đường hạ giới hay trong giấc mơ, có thực hay chăng? Rồi những lời chào đón hỏi thăm tíu tít của những người quen biết khi còn ở nhà. Chúng tôi như bất động trước cảnh lạ, người qua lại, phục sức lạ hoắc, xe cộ ngược xuôi, một cảnh văn minh chỉ nghe nói và tưởng tượng, bây giờ mới mục kích nhãn tiền.
       
      Các con cháu đưa bố mẹ ông bà ra tận xe, mới tận hưởng sự êm ái, nhanh chóng của xứ văn minh. Về tới nhà đã sẵn một bàn tiệc linh đình, món ngon thức ăn lạ, các con tôi dành cho chúng tôi phòng riêng đủ tiện nghi, chỉ cho biết dùng cầu tiêu, nhà tắm có nhiều cái rắc rối phải hỏi đi hỏi lại mới nhớ hết. Qua hôm sau theo con đi làm giấy tờ, đi shopping chúng nói gì đi đâu chỉ biết theo chúng.
       
      Ôi, ngày vui chóng tàn. Đến tối trước khi đi ngủ, con tôi dẫn bố nó đi chỉ các chỗ bật và tắt đèn như máy điều hòa không khí, cách mở, đóng cửa lớn, cửa sổ, còn tôi thì con dâu nó dẫn vào bếp chỉ cho biết cách nấu nồi cơm điện, vặn nước nóng, nước lạnh, nó nói nếu ba má không thích ăn cơm thì có bánh mì đồ hộp, chỉ việc khui ra mà ăn, khỏi phải làm, tiện hơn. Vì sáng mai các con phải đi làm sớm, trước khi đi còn phải đưa cháu lớn đi học, cháu bé đi gửi, lâu dần quen sẽ để cháu bé ở nhà chơi với ông bà.
       
       Sáng hôm sau, chúng dậy sớm ăn qua loa miệng bánh mì với ly cà phê, trước khi đi dặn chúng tôi tự động ăn uống. Thế là hai vợ chồng già lủi thủi đi thu dọn lau chùi cửa, làm lấy mà ăn. Chúng tôi cố nhẫn nại, buồn tủi chỉ biết thở dài, tôi nghĩ muốn đi khỏi nhà con không biết đi đâu bây giờ. Tiếng nói không biết, tiền không có. Đành phải nhẫn nhục chịu đựng chờ vài ba năm nữa có tiền già dành dụm lại rồi trở về nước nhà cho khỏi cảnh trái tai gai mắt nhục nhã với con và dâu. Nghĩ đến đây tủi thân tôi đã khóc nhiều lần.
       
      Bẵng đi mấy tháng sau, cậu Đức, con bà Mạnh tới mời bà Hạnh lại nhà chơi với mẹ.
       
      Gặp nhau hai bà bạn già ôm nhau vui vẻ thăm hỏi. Bà Hạnh nhìn bà Mạnh khen:
       
      -Trông bác độ này hồng hào khỏe mạnh vui vẻ lắm.
       
      Nở nụ cười tươi, bà Mạnh khoe và kể:
       
      -Bây giờ tôi sống thoải mái lắm, tôi hiểu các con tôi, không còn buồn phiền trách móc con trai và dâu nữa. Cách đây ít lâu, một hôm gặp ngày nghỉ, vợ chồng nó mời một số khách đến chơi ăn uống đàn hát từ sáng tới chiều, rồi cả chủ lẫn khách kéo nhau đi hết, tôi ngao ngán nhìn từ phòng khách tới nhà bếp, trên bàn dưới sàn nhà ngổn ngang chai lọ bát đĩa khăn ăn giấy lau tay dơ bẩn mọi chỗ. Trước khi đi không đứa nào nói với tôi một lời, thôi tôi cũng ráng thu dọn được tới đâu hay tới đó.
       
       Khi tôi đang làm thì các con tôi trở về. Quá tức, tôi gọi con trai lại nói: “Má nghĩ các con đón ba má đến ở với các con để phụng dưỡng, không ngờ các con muốn má làm vú già hầu các con phải không?” Con trai tôi sửng sốt, nó nói con không có ý như vậy, chúng con đưa bạn đi rồi trở về nhà thu dọn, xin má đừng làm gì cả, tất cả công việc lớn nhỏ làm bếp thu dọn là phần việc của vợ con, nếu làm không hết con cũng phụ vào làm, chúng con không có ý để ba má phải làm gì hết,  nếu có gì sai trái ba má cứ nhắc lại, dậy lại cho chúng con biết. Con dâu tôi cũng xin lỗi: “Xin má đừng giận con, có điều gì lầm lỗi má cứ nói cho con biết để con sửa lại.” Thực ra bấy lâu nay tôi buồn vì tôi hiểu lầm, không chịu nói ra những điều khó chịu, các con tôi làm sao biết được.
       
      Tôi có gặp ông bà bạn thân quá già lại hay đau yếu có bảy người con đều bận công ăn việc làm,  họ họp nhau lại chia nhau góp tiền đủ thuê nhà và mướn một người giúp việc trông coi nấu ăn hầu hạ bố mẹ ở riêng, mỗi buổi chiều đi làm về lần lượt một người phải đến thăm và ăn cơm với bố mẹ. Xứ sự như vậy rất công băng không con nào phải phàn nàn kêu ca.
       
      Hai ông bà khác nữa chỉ có một con, ở nước nhà là một đại thương gia, ông bà có đầy đủ người giúp việc, tới đoàn tụ với con cũng hiểu con và dâu không thể cung ứng được như ý bà mẹ chồng muốn và bà lại mắc một số tật hay nói, mở mắt ra bà đã kêu nhà cửa lôi thôi dơ bẩn, nào là con dâu không chịu thu dọn, rồi đến ăn mặc nay bộ này mai mốt khác, mỗi ngày đi làm lại thay một bộ, ở nhà mặc quần áo hở hang, không thèm mở miệng nói cứ như người câm hay giả điếc, nếu có mở miệng nói thì toàn những câu cộc lốc không lọt lỗ tai rồi quăng mèo ném chó, hay đem cháu của bà ra chửi mắng, có lẽ gây khó chịu để bố mẹ dọn đi chỗ khác.
       
      Cụ ông đã khuyên và giải thích cho bà hiểu người con dâu của bà khi tới đây chỉ mới có 9, 10 tuổi, đâu đã hiểu gì về lẽ giáo phong tục ở nhà. Năm tháng lớn khôn với sự hiểu biết học ở trường với bạn bè toàn là Mỹ, đã bị Mỹ hóa từ tư tưởng lới nói cư xử tự do theo như người Mỹ. Hai nếp sống trái ngược nhau, tuy nhiên bên nào cũng có cái hay, cái dở của nó. Bà có yêu con thương cháu thì hãy chấp nhận hoàn cảnh hiện tại, rồi từ từ đưa ra ý kiến dung hòa của hai phong tục, những cái hay của người nên học hỏi, những cái dở của mình nên bỏ đi.
       
      Đứng giữ thành kiến cố chấp thì giữa cha mẹ và các con mới thông cảm nhau được. Bây giờ chúng ta kiếm căn nhà ở riêng với ước lệ cứ cuối tuần các con cháu hãy về thăm ba má, ở lại hàn huyên ăn cơm với ba má hay đón ba má đi chơi giải trí, đây là cách giải quyết lưỡng tiện.
       
      Nhiều nơi nào có đông người Việt các cụ đã thành lập hội Cao Niên, hội Bô Lão cốt ý để các cụ đến đây giải phiền tìm bạn, vui chơi, có sẵn bữa ăn trưa khỏi gián đoạn cuộc vui.
       
      Tiếng cười tiếng ồn ào, người mới bước vào cửa cũng không mấy ai để ý, cứ tự động trông tìm đảo mắt xem khu nào góc nào có người mình quen hợp với mình thì tới chào hỏi trò chuyện dù đã biết tất cả những người thường xuyên đến đây cũng có người lâu lâu mới đến. Tất cả những ồn ao nói cười ấy chia ra nhiều khuynh hướng khác nhau, có nhóm gọi nhau lại chơi bài, nhóm ngồi xem phim chưởng, nhóm nói chuyện thời sự, có các cụ thích văn chương tao nhã, xướng họa bình thơ, bình văn, một số cụ thời mẫn bàn về chính trị chính em phỏng đoán bao giờ trở về quê nhà.
       
      Đời người kể từ khi có trí hiểu biết trải qua  cuộc đời đầy gian nan, gai góc, lắm đau khổ nhiều thất vọng, đến tuổi già có quyền được nghỉ ngơi an dưỡng tuổi già.
       
      #3
        frank 22.09.2022 23:31:01 (permalink)
         
         
        4-  Bức Tranh Vân Cẩu
         
         
         
        Luân phiên về chiều mỗi cuối tuần chúng tôi trong nhóm bạn hữu, tổ chức những cuộc họp mật bỏ túi về bất cứ vấn đề gì thuộc đời sống, chính trị, kinh tế.
         
        Hôm nay chúng tôi rủ nhau đi chơi, thả bộ đi xem người; xem các cửa hàng mãi cũng chán, đói bụng, chúng tôi rủ nhau vào tiệm ăn. Còn đang đứng xếp hàng chờ người tiếp viên đưa vào chỗ ngồi, chợt nghe có tiếng người nói: “Hạnh, Ô Hạnh! Các bạn được đi chơi sướng quá, chả bù….” Tới đây tiếng nói khựng lại không nói tiếp. Tôi quay nhìn người vừa nói, anh Mạnh, cũng là bạn của cả trong nhóm. Chúng tôi ngầm hiểu Mạnh muốn nói gì nhưng đã kịp ngưng lại và hỏi sang câu khác:
         
         “Các anh còn ở chơi đây bao lâu, bây giờ ở đâu cho biết địa chỉ, tối nay gặp nhau được không?”
         
        Hạnh trả lời thay:
         
        -Được quá, thế thì còn gì vui vẻ bằng, bạn hữu gặp nhau còn tâm tình chứ.
         
        Hạnh đưa địa chỉ hẹn tám giờ tối. Chúng tôi bắt tay Mạnh rồi kéo nhau vào bàn ăn, để hưởng những món ăn mùi vị Việt Nam với món chả giò nổi danh quốc tế, ăn cơm với canh chua, cá kho tộ cứ nhắc đến đã làm mọi người bắt thèm.
         
        Sau bữa ăn chúng tôi chia tay để tới thăm ai có bà con bạn bè quen biết. Tới tám giờ tối ai nấy đều trở về bản doanh như đã hứa với Mạnh tới thăm rồi cùng nhau đi ăn theo chương trình đã định trước.
         
        Tám giờ hơn, mọi người đã về tới nhà, Mạnh đã tới với hai tay hai bịch bia đưa lại để góp vui với các bạn. Rượu vào lời ra sau những tràng cười cởi mở, nói đùa hỏi thăm nhau về công việc làm ăn, học hành như anh Nhu vừa đi học vừa đi làm sống độc thân cũng cố dành dụm dè sẻn để có tiền độ vài ba tháng gửi về cho cha mẹ các em một thùng quà.
         
         Nhu than không có gì khổ bằng ngày thứ Bảy, Chúa nhật đi mua đồ, trên tay cầm lá thư dò lại xem các em trong thư dặn mua những thứ gì, có thứ vừa túi tiền mua được, có món viết trong thư giá tiền nhiều quá không đủ tiền mua lại phải chọn thứ khác hay nơi nào bán rẻ trong khi túi tiền mình có hạn, mua thứ này thiếu thứ kia, cho đến lúc gửi xong thùng quà mới thấy nhẹ thở khoan khoái. Ngày hôm sau đi học đi làm mới hết thắc mắc.
         
        -Ồ thế là mày sướng đó Nhu.
         
         Nhu đáp:
         
        -Còn Hạnh không sướng sao. Có gia đình hạnh phúc mấy ai đã được như anh.
         
        -Tôi có hạnh phúc gia đình như anh nói nhưng như Nhu chỉ lo có việc mua quà gửi về nhà cho cha mẹ các em tùy ý mình gửi nhiều ít không cần đắn đo tính toán. Như tôi phải lo cho cả đôi bên cha mẹ còn kẹt lại. Mỗi khi ra thùng thơ lấy thư thấy phong bì Việt Nam chưa đọc là mình đã đoán được phần nào, thư bên vợ hay thư của gia đình tôi cũng chẳng khác là mấy, cũng một ngôn ngữ túng thiếu, cần hết thứ này đến thứ kia cần gửi về v.v..
         
         Đi làm chỉ mong ngày cuối tuần được nghỉ lại phải đi mua đồ gửi về cho cả đôi bên gia đình, mà gia đình bên tôi lại đông người hơn bên vợ tôi, nếu tôi muốn mua đủ đồ cho các em, tôi lại phải chi nhiều hơn thùng đồ bên vợ. Cứ cuối tháng trả bill xong còn lại bao nhiêu tiền lại đã nghĩ đến đi mua đồ. Mỗi khi đi mua đồ gửi về lại có màn cãi nhau ầm cửa  ầm nhà giận dỗi chỉ vì gửi quà về bên nhiều bên ít. Chúng tôi mong sao cho chóng được đoàn tụ tất cả thì gia đình tôi mới có thể êm ấm được. Tôi vẫn mang trong người một  khổ là vậy.
         
        -Còn anh Thiệu thì sao?
         
        Thiệu nói:
         
        -Hoàn cảnh tôi khác các bạn, vợ chồng tôi mới cưới nhau vài tháng là di tản cùng với cha mẹ tôi, tới Mỹ các cụ tìm cách buôn bán nuôi vợ chồng tôi tiếp tục đi học; khi chúng tôi học xong tìm được việc làm, lại có cháu nhỏ, vợ chồng tôi xin các cụ ở nhà trông nhà chơi với các cháu để chúng tôi yên tâm đi làm. Nhưng cũng phải khéo lắm, phải hiểu nhau giữa cha mẹ và vợ chồng tôi phải hiểu tính nhau, tôn trọng lẫn nhau, tôi là con thế nào cũng được nhưng giữa mẹ chồng nàng dâu đã có mấy ai chịu hiểu nhau.
         
        Nhưng gia đình tôi dễ thông cảm với nhau lắm. Vì đi làm cả ngày chỉ có bữa cơm chiều mới là lúc họp mặt mọi người, là lúc mẹ chồng nàng dâu giúp nhau mau có bữa ăn, mọi người vừa ăn vừa chuyện trò, trong sở gặp chuyện gì chúng tôi đưa ra nói, ở nhà cha mẹ tôi gặp chuyện gì cũng nói cho chúng tôi nghe, rồi bàn tán cái hay cái dở trong câu chuyện, nhất là chuyện thời sự nước nhà, nước tạm dung, tình hình thế giới mà ông bố tôi hay xem báo rồi đoán những  việc sẽ xảy đến, nhiều lúc tranh luận thiệt là vui, đồng ý kiến hay bất đồng ý kiến cũng vậy. Vì ai cũng hiểu phải tôn trọng tự do của nhau.
         
        Chúng tôi cởi mở, tất cả mọi người trong nhà không có ai muốn giấu nhau điều gì, chúng tôi đều thành thật, nếu khó chịu điều gì cứ việc nói ra giải thích cho mọi người hiểu, được như vậy là nhờ biết tha thứ yêu nhau thật lòng.
         
        Cuối cùng còn anh Mạnh, vẻ mặt dầu dầu, Mạnh nói:
         
        -Tôi không có được diễm phúc như các bạn. Trước kia cũng như anh Nhu có dư bao nhiêu tiền tôi gửi về cha mẹ tôi theo yêu cầu, thỏa mãn đỏi hỏi, tôi làm giấy bảo trợ gửi tiền về lo lót ở nhà để chóng được đi đoàn tụ. Tôi không dám lấy vợ, sợ gặp phải người vợ có tính chặt chẽ, mình sẽ không giúp được gia đình rồi lại còn sinh ra lắm chuyện lôi thôi, lại còn phải mua căn nhà rộng rãi có đủ phòng ở cho cả gia đình; muốn được vậy tôi phải bỏ hết sở thích.
         
        Khi được tin ra phi trường để đón gia đình, tôi sung sướng  được các bạn cùng đi đón cho thêm long trọng vui mừng, gặp cả gia đình đầy đủ bố mẹ anh em; muốn dành sự ngạc nhiên cho cả nhà tôi đưa cả gia đình đến căn nhà mới mua có đủ tiện nghi. Chẳng được bao lâu, bố mẹ khi đã quen chỗ ăn chỗ ở là lúc bố mẹ tôi thi hành chủ quyền, bắt đầu bố tôi bắt kê lại đồ đạc trong nhà thậm chí mấy cây kiểng cũng đào lên theo ý bố tôi, nhà cửa cũng đục chỗ  nọ bít chỗ kia, tôi có phản đối là bố tôi giận, chửi tôi là đồ bất hiếu, đã dám chống lại ý bố mẹ.
         
         Mẹ tôi cũng theo như bố tôi, hỏi lương tôi kiếm được bao nhiên, tiền nhà phải trả bao nhiêu, tiền điện tiền nước v.v… nghĩa là mẹ tôi muốn nắm lấy sự chi tiêu trong nhà, điều khiển chúng tôi theo ý mẹ tôi. Như các bạn biết, anh em chúng tôi đã lớn khôn cả, cũng muốn trai có vợ gái có chồng. Tôi muốn mời cô bạn nào về nhà chơi có ý để bố mẹ tôi biết mặt làm quen để hiểu nhau hơn, tuy mẹ tôi đã bằng lòng mời cô bạn tôi tới, sau khi cô bạn tôi về là mẹ tôi chê: “Quá tự do, không biết ăn nói, mặc không kín đáo.” Như vậy làm sao tôi lấy được vợ.
         
        Đến như em gái tôi có bạn trai đến nhà xin phép bố tôi mẹ tôi cho em tôi đi chơi thì mẹ tôi bắt phải có anh trai hay em trai đi kèm không để cho chúng tôi có tự do trong vấn đề lựa chọn. Bố mẹ tôi  quá nghiêm khắc và thường nói bố mẹ làm thế là có lợi cho các con chứ cho ai.
         
        Các cụ áp dụng quy tắc thật chặt chẽ không cho phép chúng tôi bào chữa và cũng không thèm nghe chúng tôi nói. Ra lệnh là phải theo, không lôi thôi gì hết, không được có ý kiến gì. Như vậy làm sao chúng tôi có vợ có chồng?
         
        Người xưa đã nói, quá giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Gạt bỏ những điều không thích hợp với hoàn cảnh với địa vị, đồng thời  nên duy trì những cái hay cái đẹp riêng của nó. Văn minh Âu Mỹ dựa trên giá trị khoa học, đặt nặng vật chất vào đời sống  trong khi nền văn minh của Á Đông lại chú trọng giá trị tinh thần đạo đức. Hai bản chất khác nhau xa nên ta chỉ tìm tòi học lấy những cái hay của người. Một nhà hiền triết đã nói: “Nguyên tắc căn bản trong cuộc phát triển tương lai con người là nằm trong tình yêu.”
         
        #4
          frank 27.09.2022 01:38:40 (permalink)
           
           
          5-   Hai Cuộc Đời
           
           
           
          “Tâm ơi, cháu đi đâu sớm thế.” “Thưa Bác cháu không đi đâu, trông thấy bác ra sân tự nhiên cháu muốn gặp bác, cháu nghĩ chắc chả bao lâu nữa cháu không còn ở đây và rồi ra không chắc cháu có dịp gặp bác.” Tôi khựng lại nhìn em. Với nét mặt buồn man mác, Tâm uể oải nhặt từng hòn đá nhỏ ném vào bụi cây. Khác với mọi ngày em vui tươi da mặt hồng hào nhẩy nhót, mỗi chiều đi học về em thường hay chạy qua đường rủ bạn em, Tân, con ông Thái hàng xóm ở cạnh nhà tôi, cả hai bằng tuổi nhau, 15 tuổi, học lớp Mười, cùng học hay cùng chơi.
           
          Vừa thương cảm vừa tò mò muốn biết tại sao bỗng dưng em Tâm gặp cảnh ngộ bi đát cuộc đời em sẽ ra sao.
           
          -Cháu cho bác biết qua câu chuyện nhà cháu.
           
          -Thưa bác cháu cũng chả biết rõ tại sao. Đêm qua ba mẹ cháu cãi nhau to tiếng, cháu cũng tưởng như những lần trước, ba mẹ cháu thường hay xích mích. Làm bài xong cháu đóng cửa phòng đi ngủ quen như thường lệ, mỗi buổi sáng cháu dậy sớm làm vệ sinh xong cháu xuống bếp làm sẵn mấy gói sandwich cho cháu và các em ăn đi học, đợi ba cháu chở đến trường trước khi đi làm. Nhưng sáng hôm nay trước khi cháu dậy, không thấy mẹ cháu đâu, ba cháu ngồi hút thuốc, cháu có hỏi, ba cháu nói mẹ cháu bỏ nhà đi từ sáng sớm, còn cháu, không cho cháu đi học nữa, ba cháu lại nói nay mai người ta tịch thu lấy nhà, các cháu sẽ phải tạm đi ở nhờ hay ai có thể nuôi được cứ đi.
          ***
          Cách đây 3 năm khi gia đình tôi tới ở khu này rất mừng gặp sẵn có hai gia đình đồng hương ở gần. Khi đi tìm nhà để mua vợ chồng tôi đồng ý ước muốn tìm khu nào có người Việt để có bạn bè dễ thông cảm nhau, cùng dòng giống, tiếng nói, nếp sống, phong tục cùng nhau giữ được văn hóa Việt, cần cho tụi nhỏ có dịp luôn nghe tiếng Việt, dễ hòa hợp hơn người khác chủng tộc.
           
          Dọn nhà vào ngày cuối tuần thấy là người mình, cả hai gia đình ông bà Thái, ông bà Phan cùng tới tự giới thiệu thăm hỏi, nhận nhau tỏ tình tương thân,  tương trợ, rồi mỗi khi có dịp đồng hương hội họp chúng tôi không quên rủ nhau cùng đi, luôn gặp  nhau khi khi nhà có ngày kỵ hay sinh nhật để tỏ tình lân lý, bạn bè mật thiết hơn.
           
          Nghĩ bạn hàng xóm gặp cảnh không may, tôi lại nhà ông bạn Thái để bàn về cách giúp đỡ gia đình ông Phan, ba mẹ của Tâm. Tôi nói:
           
          -Như lời cháu Tâm thực đáng ái ngại, chúng ta góp ý kiến có thể giúp đỡ bạn được chút nào không? Giúp cách nào, nói như thế nào mà không chạm lòng tự ái tới bạn chúng ta.
           
          -Theo tôi, ông Thái đáp, chúng ta phải biết rõ tính tình và nếp sống nhà anh chị Phan. Tôi ở đây đã lâu trước khi anh chị Phan tới, tuy chơi với nhau nhưng chúng tôi không muốn bắt chước lối sống, suy nghĩ như anh chị Phan. Là một người giởi có chí, vừa làm vừa học, Phan lấy được bằng kỹ sư điện, dễ tìm việc lương cao. Đang ở chung cư anh chị muốn có nhà riêng; sau khi đi làm được mấy tháng để dành đủ tiền ký quỹ hợp lệ mua ngôi nhà vừa tầm mức số lương đủ để chi tiêu ăn, tiêu lặt vặt và trả tiền nhà hàng tháng, còn dư chút ít để dành như anh Phan đã tính để phòng khi có việc bất ngờ xẩy đến.
           
           Chị Phan đi làm với số lương khiêm nhường chỉ đủ để chi tiêu mua sắm quần áo, son phấn, đi ăn đi chơi vào ngày nghỉ. Nếu cứ dùng vào mức sống và hạn chế ước muốn xa hoa cũng được đi. Nhưng anh chị thích giao thiệp, thích đua đòi. Trong số người quen ai có  xe  mới đẹp, một số người không chịu kém cũng đổi xe mới đẹp bằng hay hơn mới được, rồi đến nhà cũng thế, người ta có nhà to hơn, dĩ nhiên đồ đạc cũng phải sắm theo với nhà rộng lớn. Rồi cũng muốn nhiều người biết để hãnh diện, lại phải tổ chức ăn uống nhân dịp này dịp nọ mời các bạn quen thân sơ, mục đích khoe nhà đúng hơn. Số tiền vợ chồng kiếm được chỉ có hạn, mà chi ra không đủ. Đúng với câu bóc ngắn cắn dài.
           
          Ít lâu sau chị Phan mất việc, không có tiền mà nhịn tiêu khổ quá, quen tính đua đòi nay bộ này, mai bộ khác không nhường ai, mỗi khi đi dự hội hè, party,  các bà khoe nhau hãnh diện có bộ y phục mới, đắt giá trong đám các bà các cô chưa ai có, rồi đảo mắt xem bà, cô nào mặc bộ đồ nào tầm thường với cái nhìn  phớt qua. Họ chú ý vui vẻ với những bộ mã bề ngoài, bàn chuyện góp ý về những hàng xa xí phẩm.
           
          Vốn tự phụ là người biết ăn diện xưa nay không thể dừng lại, phải tiêu vào tiền lương để dành, biết thế anh Phan tự cắt giảm nhiều thứ còn chị vẫn phải giữ sĩ diện với bạn bè. Mấy tháng nay anh Phan không có đủ trả tiền nhà, vợ chồng hay gấu ó nhau. Sở anh Phan làm tạm thời cho nghỉ việc, anh chị không hy vọng giữ được chỗ ở. Tôi cầu mong anh chị Phan sớm tìm được lối thoát có việc làm sẽ suy nghĩ chín chắn thực tế hơn, tái lập đời sống có căn bản không phù phiếm xa hoa đua đòi.
           
          Ông Thái ngừng một lúc rồi nói tiếp:
           
          -Vậy chúng ta nên gặp anh Phan yên ủi, anh và tôi cũng xin anh Phan cho tôi được đón cháu Tâm sang ở bên nhà tôi cùng đi học với con tôi cùng lớp cùng trường rất tiện, đừng để cháu Tâm phải gián đoạn niên học của cháu, tôi coi cháu Tâm như con tôi, cháu Tâm là một học trò giỏi, rất ngoan, ai cũng mến cháu, bao giờ anh chị Phan ổn định công ăn việc làm lúc ấy anh chị hãy đón cháu về.
           
          Chúng tôi đều đồng ý giải pháp đó và rủ nhau sang thăm gia đình ông Phan. Ông Thái trình bày với bạn một cách khéo léo để ông Phan khỏi xấu hổ hay tự ái.
           
          -Rất cám ơn các anh chị đã chia sẻ nỗi bất hạnh của tôi và đặc biệt anh Thái có nhã ý đón cháu Tâm về nhà anh để anh đưa đi đón về cùng học với con anh. Thật là một sự may mắn cho cháu Tâm và đỡ cho tôi khỏi ăn hận về sự học của cháu Tâm khỏi dang dở. Nhận thấy gia đình các anh hạnh phúc vui vẻ, tôi thầm phục các anh các chị là những người biết sống an phận.
           
          Như gia đình anh Thái tôi biết rất rõ, khác nghề, khác sở, số lương chắc ít hơn tôi và chị Thái đi làm ở chỗ phải đi lại giao dịch nhiều mà lúc nào tôi gặp anh chị cũng thấy anh chị ung dung, xe đi vừa phải, phục sức tươm tất nhã nhặn, không se sua, các nơi ăn chơi tôi cũng không hay gặp các anh chị, tôi phải bắt chước các anh chị, có bí quyết nào xin cho tôi biết thêm. Tôi muốn biết muốn học muốn có gia đình hạnh phúc và hướng về tương lai cho các con.
           
          -Thưa anh chẳng có bí quyết, nhưng cũng có sự tính toán của cả hai vợ chồng, khi chúng tôi kết hôn với nhau, cha mẹ đôi bên cho ở riêng được tự do, chúng tôi thuê ở trong chung cư cho đỡ tốn, khi cả hai số tiền để dành được kha khá, lại thêm các cháu đến tuổi đi học cần tìm chỗ  nào gần trường tốt, một căn nhà hợp với số tiền để dành sẵn có đủ để trả trước càng nhiều càng tốt chừng đó, để bớt số tiền phải vay, hàng tháng chỉ trả ít, hạn vay trong năm năm tính đến khi các cháu vào đại học phải tiêu nhiều, bấy giờ không phải trả tiền nhà hàng tháng sẽ có đủ tiền cho các cháu học lên.
           
          Thực ra trong đời sống các thứ chi tiêu có thể bớt, tiền nhà trả hàng tháng không thể thiếu mà có “an cư mới lạc nghiệp”, nghĩ thế chúng tôi không muốn đổi nhà lớn, xe mới, phải vay nhiều lúc nào cũng phải nợ, cuối tháng lo trả bill nhiều mệt quá. Ngay đến sự đua đòi ăn chơi phung phí cũng phải nhắm mắt cho qua, tránh môi trường, giữ cho tâm trí được thanh thản.
           
          Thực đời tôi chẳng có gì đáng nói, chỉ âm thầm làm việc nuôi gia đình, luôn an vui với điều đang có, không oán hờn ai, không ham muốn chi lạ, sao cho giữ được công bình, khiêm nhường, bác ái, tiết độ, thành thật. Và nghĩ rằng không ai sống mãi ở đời, cái chết sẽ chấm dứt ảo tưởng.
           
          #5
            frank 28.09.2022 01:27:20 (permalink)
             
             
            6-   Nguyên Nhân Mặc Cảm
             
             
             
            Cuối tuần lại về, cuối năm có nhiều giấy mời, chúng tôi phải xem lại những giấy mời hội họp, hiếu hỉ của các bạn người đồng hương và các bạn người Mỹ. Có trùng ngày không? Nếu cùng ngày phải cân nhắc nên đi đám nào, thân, sơ, chỗ nào cần phải đến hơn?
             
            Trong giấy mời là một buổi họp để bàn thảo về một vấn đề gì. Thường thì nhường cho đàn  ông đi, tuyệt đối không nên đưa theo trẻ con. Nếu nội dung có bàn về chính trị hay một công ích về xã hội, có người trong bạn bè, người quen tỏ ý muốn đi cùng để được giới thiệu làm quen, trước khi mời họ đi theo, phải hỏi ý gia chủ có bằng lòng không mới nên mời người ta cùng đi. Nếu không hỏi ý trước, chẳng may ông bạn tháp tùng đến nơi, lại phát biểu ý kiến trái ngược với tôn chỉ đường hướng của cuộc hội họp, tính nóng nảy đưa ra những lời chỉ trích thiếu lịch sự, làm cho ta cảm thấy có sự cẩu thả trong sự nhận xét.
             
            Thiệp đám cưới hay dạ hội, chúng tôi cần biết gia chủ có dự chỗ cho trẻ em ngồi riêng, mới nên đưa các cháu đi thêm cho vui. Hay chỗ ngồi, phần ăn chỉ có hẹn, cho những phiếu hồi âm, mà đưa thêm trẻ con đi thật làm phiền cho gia đình chủ, ngoài dự tính của chủ nhân, lại thêm các em nhõng nhẽo đòi ngồi bên cha mẹ làm mất chỗ ngồi của người lớn, đòi ăn món nọ bỏ món kia như ở nhà, cha mẹ chiều ý chúng làm cho những  thực khách ngồi bên cạnh vì lịch sự không nói gì, nhưng trong lòng không ai đồng ý về cử chỉ cha mẹ chiều con, lại còn khoe khoang nết tốt của chúng để mọi người chú ý, và cũng phải khen chúng một cách giả tạo cho qua.
             
            Gặp thiệp người bạn Mỹ mời dự party theo đúng tập quán của họ trong thiệp đã nói rõ số người nhiều ít, không thể tự tiện đưa thêm người đi, tới nơi đã  có người chỉ chỗ hay giấy ghi số bàn, ghế, cứ tự động tìm tới chỗ ghi trong giấy, gặp người quen hay có người lạ cũng chẳng sao, nếu muốn nói truyện với người quen ở bàn khác, hãy rủ nhau ra sân, ra hè một góc nào đó nói chuyện, chỗ ngồi của mình không có ai chiếm, phần nhiều cuộc hội họp có ăn uống với thói quen tự động đi lấy thức ăn uống tùy ý, rất hiếm những bữa ăn uống có người hầu bàn. Đó là phong tục tốt chúng tôi để ý bắt chước cho trường hợp khi hữu sự.
             
            Đây là thiệp mời mừng người con tốt nghiệp văn bằng cao học và cũng là ngày sinh nhật ăn mừng  thọ cha mẹ của người bạn thân. Chúng tôi phải thu xếp cho cả gia đình tới chia vui với bạn cho đúng giờ vì trong thiệp có ghi rõ đưa hết các cháu đi.
             
            Tới nơi cũng đã có một số người đến trước, chúng tôi được gia chủ đón tiếp vui vẻ lại còn khen đã đến đúng giờ, các con tôi đem theo đã được người hướng dẫn vào chỗ dành riêng cho các em để chúng được tự do làm quen chơi với nhau. Tất cả những khách đến dự tiệc đã tiếp tục cùng lúc hay sớm hơn, muộn hơn một chút. Tất cả đã được mời vào bàn có số chỉ định. Mọi người đang vui vẻ đi tìm số bàn của mình.
             
            Cùng lúc đó có hai ông bà dắt hai em nhỏ tới cùng đi tìm bàn. Người đàn ông phục sức sang trọng, cũng complet, cravate, gặp ai ông cũng cười, bắt tay không biết lạ hay quen, tôi là X, ông tự giới thiệu. Bà thì diện đúng mode thời trang, tay ôm ví dắt con, đi tới giữa nhà, bà dừng lại đảo mắt như tìm chỗ ngồi. Một bàn trống nhiều ghế có thể chắc rằng đây là bàn đặc biệt dàng riêng cho các cụ hay người thân của chủ nhà, mới có bốn cụ cao niên đạo mạo ngồi nói truyện như còn đang chờ cho đủ người ngồi.
             
            Chắng thấy ai mời, bà X tự đưa con cùng ngồi vào các ghế trống, khi tự giới thiệu xong ông X cũng kéo ghế ngồi bên cạnh bà vợ. Liền sau đó, mấy cụ tìm đến số bàn của mình, đứng ngơ ngác vì bàn đã ngồi đủ người. Người nhà đến nói với ông bà  xin dẫn em nhỏ đi tới các bàn các em nhỏ ngồi cho vui, khốn nỗi các em cứ bám lấy mẹ không chịu đi.
             
            Thực là khổ tâm cho gia chủ phải loay hoay xê dịch mãi mới có chỗ khả dĩ cho mấy vị chậm chân, với những lời xin lỗi vì sơ ý, làm cho các vị thực khách ngồi gần đưa mắt nhìn nhau như ngầm hiểu đồng ý chê ông bà X thiếu lịch sự làm cho gia chủ mất vui. Cũng chưa hết, khi đã an vị được chỗ tốt như ý, ông bà X bắt đầu mở máy khoe khoang. Về nhà cửa ông nói khu A sang đẹp nhưng thiếu an ninh, khu B nhà nhỏ, cũ, giá lại mắc, chỉ có khu C nhà mới xây nhiều kiểu đẹp và ông bà định đổi nhà sẽ tìm vào đấy, tương đối có thể chọn được căn nhà như ý.
             
            Nói về gia súc chó, mèo, các loại chim, ông đã từng nghiên cứu phải nuôi ra sao?  Các giống cây, rau trồng vào mùa nào ngày nào. Bây giờ ông chán không đủ thời giờ chăm nuôi súc vật, hay trồng cây; nói sang chính trị ông thao thao chê hết hội đoàn này, chê bai người trong hội đoàn kia, rồi ra vẻ ưu thời mẫn thế chán ngán cho người đời, tuổi ông chưa già, có dịp ông sẽ hợp tác với bạn bè gánh vác việc xã hội. Bây giờ ông còn để thì giờ nghiên cứu về khoa học, ông đã phát minh được vài tiện ích, có người hỏi muốn xem tận mắt những sáng chế mới của ông nhưng ông nói phải chờ thời gian nữa cho hoàn hảo hơn nữa sẽ trình làng.
             
            Đồng bệnh tương lân, bà X sau khi hỏi thăm xã giao mấy bà ngồi gần làm quen rồi bà nói về các kiểu áo, kiểu giầy, các  hàng của Pháp, Nhật, Ý, Mỹ, Hương Cảng, Đài Loan, áo của bà mặc toàn thứ mắc tiền, nói đến vàng, ngọc, hạt xoàn, bà khoe có nhiều những đồ trang sức đắt giá mà chung quanh đây không bà nào có. Đúng là một cặp ông thì kiêu căng và bà thì hợm mình, chỉ biết say sưa nói về mình và không chú ý, thiếu nhận xét những người chung quanh. Khi nghe ông bà X nói làm họ thiếu tin tưởng, hồ nghi những lời nói không thật. Có một số ông bà đã biết rõ tông tích, nghề nghiệp của ông bà X, họ mỉm cười tỏ vẻ khinh bỉ.
             
            Càng làm lớn càng phải hạ mình, khiêm nhường. Những bậc chính nhân quân tử, có thực tài làm nên những công việc hiển hách, thi ân, bố đức, không biết đến khoe khoang, kiêu hợm.
             
            Trái lại bạn bất tài vô tướng, thuổng, cóp được lời nói, công việc của người lấy làm của mình, đem đi lòe thiên hạ còn tìm cách hạ giá những người đáng kính, cố ý đưa cái “tôi” lên. Cũng bởi thâm  tâm họ có mặc cảm dốt, thiếu hiểu biết, kém người, sợ người khinh chê nên cần phải đóng kịch để nhiều người biết mình khôn, giỏi, không thua ai.
             
            Như trong Kinh Thánh viết: “Tai họa dành cho những kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa. Ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình sẽ được nhắc lên.”
             
            #6
              frank 28.09.2022 22:49:26 (permalink)
               
               
               
              7-   Giá Trị Lao Động

               
               
              Mỗi buổi sáng, như thường lệ tôi mở cửa ra sân nhặt báo mà người phát báo đã để sẵn từ 5 giờ sáng. Một mảnh giấy nhỏ trong thùng thơ gần đấy chìa ra bên ngoài một nửa, cố ý cho có người trông thấy. Nhìn trong giấy viết địa chỉ, số điện thoại, nhận làm bất cứ một việc gì, thù lao $30 cho mỗi công việc.
               
              Tôi đưa mảnh giấy vào nhà hỏi mọi người có việc gì cần người giúp. Việc vặt có nhiều… như sơn lại cửa, quét mái nhà đã từ lâu lá rụng đầy làm nghẹt máng chảy nước khi trời mưa, ống máng bị hoen rỉ phải thay, đào gốc cây bị tróc, sửa vườn, hàng rào ngã nghiêng, đổ hồ chỗ sân bị tróc, lối đi chung quanh nhà cần lát gạch lại v.v… Những việc vặt có nhiều mà phải mướn thợ chuyên môn từng việc  rất khó tìm mà lại tốn phí, vì mỗi khi gọi người ta phải tới lượng giá trước, thấy công việc ít họ không muốn làm, hay có làm họ tính thật mắc.
               
              Chúng tôi điện thoại theo trong giấy quảng cáo. Tiếng một bà trả lời: “10 giờ sáng hôm sau sẽ có hai người tới làm.” Ngày hôm sau, 10 giờ đúng hẹn, hai thanh niên lái xe tới làm. Họ mặc áo T-shirt, quần ngắn, dụng cụ mang  theo có chiếc thang dài để trèo lên mái nhà và thêm cái chổi, cái bay, thước để làm hồ. Tôi đoán chừng không phải là những người chuyên môn trong nghề. Thôi cũng chẳng sao, tôi nghĩ thầm. Thiếu đồ dùng hay cần gì sẽ nhờ một trong hai người đi mua.
               
              Không phải là người quen từ trước hay là người của công ty gửi đến nên chúng tôi vẫn dè dặt, đề phòng, chỉ để thợ làm bên ngoài. Nhận thấy họ làm việc cần mẫn, nhanh nhẹn, có lương tâm, khi làm xong việc gì họ chờ ý kiến chủ nhà, chỉ làm việc khác hay sửa đổi theo ý chủ nhà.
               
              Vào giờ nghỉ trưa, tôi hỏi chuyện hai anh thợ. Một anh tên Bill, còn anh kia tên John. Các anh nói là sinh viên, nhân nghỉ hè có thì giờ đi làm cả ngày. Đến tối họ còn đi làm ở nhà hàng ăn. Nhà các anh không giàu, cha mẹ chỉ đủ sức  nuôi các anh ăn học.
               
               Nhưng cha mẹ khuyên các anh nên dùng những ngày nghỉ để đi làm nhất là kỳ hè có nhiều ngày nghỉ, đi làm có nhiều cái lợi, biết tôn trọng sự làm việc, lấy tiền công xứng đáng lúc tiêu tiền, hiểu được giá trị đồng tiền sẽ không tiêu bậy, phí phạm, biết tự lập. Tiền kiếm được họ gửi vào nhà băng, mở trương mục  riêng để chi vào tiền học, tiêu vặt. Họ có sáu anh em. Hai anh này đã vào đại học, cha mẹ các anh không muốn các anh vay tiền chính phủ để học. Có vay sau này đi làm cũng phải trả lại. Cha mẹ các anh khuyên nên chịu khó đi làm, có thiếu cha mẹ sẽ bù thêm.
               
              Người trả lời điện thoại là mẹ các anh. Tùy công việc bà chia việc nặng trèo cao cho các anh lớn, việc nhẹ cho các em nhỏ. Các em nhỏ đi làm, bà cho các anh chị lớn phụ giúp. Tất cả đưa tiền công về khoe với cha mẹ. Bà mẹ rất hân hoan và thường cho những món ăn mà các con ưa thích hay một chầu xi-nê.
               
              Nhận thấy John và Bill làm việc giỏi không kém những thợ lành nghề, có nhiều việc cần sửa chữa, tôi yêu cầu các anh đưa thêm người đến cho chóng. Ngày hôm sau tăng cường thêm người anh cả là Jack, ngày kế có thêm một em. Gần về chiều, bà mẹ tới xem có cần chỉ bảo thêm và khuyến khích các con.
               
              Tiện dịp, chúng tôi hỏi chuyện bà mẹ. Bà ta cho biết, người con cả 22 tuổi, Jack, năm tới học luật với ý định ra làm luật sư sau này. Bill, thứ hai, năm nay 19 tuổi, tháng 9 sẽ đi Tulsa học phi công lái máy bay. John 17 tuổi, vừa học xong trung học. Bà có sáu người con đi học, cứ mùa hè tất cả đều đi làm do bà hướng dẫn, đốc thúc. Bà kiểm soát không muốn các con để phí thì giờ vào sự ăn chơi, đua đòi với các bạn xấu dẫn dắt vào đường xì ke, ma túy.
               
              Bà nói: “Các con tôi hiểu được tinh thần trách nhiệm, ý thức được việc học, việc làm. Không phải bây giờ tôi mới khuyến khích các con tôi Tôi đã để ý dậy bảo chúng từ lúc còn nhỏ mới bắt đầu đi học. Mỗi ngày tôi phải biết các con tôi học ra sao, chơi với bạn bè nào tốt, xấu. Tôi theo dõi rất sát để hướng dẫn chúng.”
               
              Tôi cám ơn  bà Mỹ đã cho tôi biết về phương pháp giáo dục các con của bà. Tôi cũng đã gặp một số các con ông bà du học tại Mỹ từ trước 1975 là những anh chị em được học bổng và một số anh chị em được cha mẹ giầu có cho đi du học đã kể lại về kỳ nghỉ hè. Một số phải đi làm để lấy tiền ăn học, đã không nề hà một việc gì, như về các vùng quê hái trái cây, nhổ rau, giữ em, làm vệ sinh lau chùi nhà cửa… Anh chị em chóng thích nghi với phong tục, nếp sống, không có mặc cảm khi phải làm những công việc bằng chân tay.
               
              Biến cố 30-4-75 xẩy đến. Trên miền đất xa lạ, mọi người còn hồi hộp ít lâu rồi cũng phải kiến tạo lại đời sống. Người lớn vừa đi làm vừa đi học, trẻ con cũng đi học. Nhưng một số người quý phái, sang trọng không động gì đến tay chân, nay chạm vào thực tế phải kiếm việc làm.  Thật khổ tâm cho những người không có nghề  chuyên môn, đi làm nhà hàng phải bưng đồ ăn. Nghe khách gọi lấy làm xấu hổ. Làm hãng, làm sở, phải khuân vác nhọc nhằn cho là nghề của những người hạ cấp. Giữ trẻ, lau chùi nhà cửa, các bà các cô sợ mất giá trị, xấu hổ.
               
               Những công việc khác lại không có khả năng, chỉ có cách đi xin trợ cấp xã hội. Những người này vì mặc cảm tự ái vặt đã không thức thời, không tiến lên được mà còn ảnh hưởng đến con cái họ.  Khi con cái họ đi học, chúng thiếu thốn đủ thứ mà bố mẹ chỉ trông vào tiền trợ cấp, lấy đâu để chu cấp cho con cái. Do đó chúng phải tự kiếm  với mánh lới gian dối, dần dần sa ngã vào vòng trộm cướp, du đãng, băng đảng.
               
              Kế tiếp, một số người tới sau tuy ở nhà mất tự do, thiếu thốn đủ thứ, khi tới đây không có gì nhưng vẫn mang theo trong tâm trí tự ái, mặc cảm không đúng chỗ đã làm khổ cho những người thân, bà con, anh em như trường hợp sau đây:
               
              Gia đình người anh đi trước nay đã ổn định với công việc. Ông làm trong siêu thị với việc xếp đồ, đủn xe theo khách hàng, bà chọn rau, khoai làm cho cửa hàng bán thực phẩm. Trước kia ông đã từng là bậc chỉ huy cao cấp trong một binh chủng nhưng nơi xứ lạ, hoàn cảnh khác biệt, ông bà đều ý thức được đời sống thực tế ở đây nên chịu khó làm việc, dành dụm, chẳng bao lâu đã có xe mới, nhà riêng.
               
              Cách hai năm sau, ông bà được tin mừng đón tiếp một lúc hai gia đình; một người em ông, một người em bà. Lấy kinh nghiệm đi trước, ông anh bà chị thuê sẵn hai căn nhà trong chung cư đón các em. Mừng rỡ, hàn huyên, vài ngày sau ông anh bà chị đưa tặng mỗi gia đình em $1.000 và nói: “Anh chị đã tìm sẵn cho các em việc làm.” Người em hỏi chị: “Sở em làm ở đâu? Làm công việc gì? Lương bao nhiêu? Có người đưa đón không?”
               
              Ông anh từ tốn giải thích: “Ở đây phong tục, nếp sống khác xứ mình. Muốn làm công chức các sở phải có bằng cấp chuyên môn, học lực khá, có quốc tịch. Có chí cầu tiến thì ban ngày đi làm, tối về đi học thêm (ở đây sẵn có lớp học tối). Như gia đình anh còn nặng gánh vì đông các cháu nhỏ, cả anh chị đều phải đi làm như các em đã thấy.”
               
               Mặc anh chị giải thích, ông em không chịu đi làm những việc tầm thường, ít lương vì trươc kia ông là công chức cao cấp ngành hành  chính, còn bà vợ lại tỏ vẻ chán đời, bất mãn, luôn nghĩ về quá khứ ‘vang bóng một thời’. Vậy tìm đến sở xã hội cho được nhàn hạ. Ông anh bà chị chán ngán, biết nói nhiều chỉ thêm xích mích. Và từ đây những người quen biết thêm một danh từ “bất cần đời” của các ông, bà em này.
               
              Khi về già, bố tôi đã gọi các con mà nói: “Nếu các con thiếu tiền tiêu, hãy bán những gì không cần thiết trong nhà. Không nên đi vay phải trả lời. Tiền lời sẽ làm con mất thứ gì con đem bảo đảm hay phải mang ơn người ta nếu người ta không lấy lời, rồi cũng phải tìm cách trả ơn người ta. Hãy nhớ không ai cho không mình vì người ta phải làm vất vả mới có. Nếu có đói, con hãy đổ mồ hôi mà kiếm sống, chớ có mang lụy ai về đồng tiền cả. Như thế mới có thể ngẩng mặt nhìn trời mà không thẹn, nhìn người mà không nhục.”
               
              #7
                frank 29.09.2022 22:35:02 (permalink)
                 
                 
                 
                8-   Giá Trị Gia Đình
                 
                 
                 
                Bằng vào truyền thống văn hóa của dòng Lạc Việt vững chắc, có hệ thống, có căn bản mà bao nhiêu đợt tấn công đô hộ hàng ngàn năm của nước láng giềng hùng mạnh, đông người và tàn ác đã cố ý đồng hóa một dân tộc nhỏ bé như nước ta, đã không thành công mà còn bị bao nhiều lần phải ôm hận, cúi mặt chạy dài bởi sự trừng phạt của những tướng Việt như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ v.v..
                 
                Những người ngoại quốc tới thăm nước Việt Nam khảo sát về văn hóa rất ngạc nhiên thấy những gia đình quần tụ từ ông bà, cha mẹ, các con, cháu, có cả hàng chắt đã được sống gần ông bà cố nội, cùng là một nét đặc thủ của nền văn hóa Lạc Việt.
                 
                Một nền văn hóa bất thành văn, chỉ truyền khẩu dậy dỗ, nhắc nhở từ người trên xuống dưới trong căn bản tinh thân gia đình: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, năm đức tính cao quý của người Việt Nam.
                 
                Văn hóa tập tục của mình đã từng bị pha trộn nhiều cái tốt cũng như nhiều các xấu bởi ảnh hưởng của người du mục phương Bắc. Xấu như đem tròng ách nô lệ vào cổ người đàn bà với mỹ danh tam tòng mà chỉ có một số gia đình hủ nho khư khư giữ lại, những cái dở xấu đã không phổ biến rộng rãi vào quần chúng. Tiền nhân ta rất tinh tế biết loại cái dở, thu dụng cái hay để truyền thụ cho con cháu.
                 
                Trên đất nước tạm dung nơi đây có nếp sống văn hóa khác biệt làm chúng ta ngỡ ngàng, nhưng ít lâu rồi ai cũng nhận thấy phong tục có khác, có nhiều cái hay cũng có nhiều cái dở.
                 
                Những gia đình cẩn trọng đã không lóe mắt với tự do quá đáng, với bình đẳng mà bỏ mất tự trọng  gia đình, đã không đua đòi ăn tiêu xa xỉ, biết quân bình đời sống, chú tâm vào giáo dục con cái từ còn nhỏ mới dễ uốn nắn chúng, từ lời nói cử chỉ lễ độ, khuyên  làm điều hay, tránh điều dở. Còn nhỏ chúng dễ hấp thụ mọc rễ trong tâm hồn chúng, lớn lên chỉ cần kiểm soát nhẹ nhàng chúng vẫn giữ được trong vòng gia giáo, đã dung hòa hội nhập vào đời sống mới mà vẫn giữ lại nền nếp cũ tốt đẹp của mình.
                 
                Hàng năm, bằng vào những thủ khoa, á khoa các trường học được phỏng vấn các em thường đề cao công ơn hy sinh, giáo dục của cha mẹ và muốn cho cha mẹ được nở mặt nở mày, đấy là lý do  các em đã cố gắng học hành thành công.
                 
                Nhưng có nhiều em vị thành niên, tuổi đang đi học đã phải ra tòa vì tội trộm cướp. Xét đến lý lịch, không kể những em bất hạnh mồ côi hay cha mẹ ly dị không được săn sóc dậy dỗ, còn phần lớn cha mẹ bỏ bê hay không biết cách dậy con,  nuôi cho con ăn cho mặc rồi mặc chúng lớn lên theo tuổi, tự ý tìm hiểu theo chúng bạn xấu tốt không cần biết.
                 
                Cũng có nguời quá nuông chiều con theo thị hiếu chúng đòi gi cũng cho; có những em gái 12, 13 tuổi đã phấn son lòe loẹt ăn mặc hở hang theo chúng bạn bỏ nhà đi chơi đêm mà cha mẹ cũng mặc, những em trai thường bỏ học theo bạn đi chơi hay đưa bạn về nhà hát hỏng nhảy nhót. Cho đến ngày, con gái vác bụng về nhà hay bỏ nhà theo kép mất hút, con trai xì ke ma túy rạc rài trộm cướp, bấy giờ cha mẹ đổ lỗi cho ai?
                 
                Cha  mẹ không biết thương con: có con buồn tủi nói: “Em không muốn về đến nhà, bố mẹ gây gổ với nhau, cứ em mà đánh chửi thay thế con cơn giận, giao việc bắt em làm không còn thì giờ để học bài. Hay ông bố uống rượu say đập phá đồ đạc, mẹ lại đi cờ bạc tối ngày.”
                 
                Sau đây cũng là một trường hợp đáng suy ngẫm: “Cha tôi cứ nói về ngày xưa bên Việt Nam. Ông uống rượu mời bạn bè đến nhà. Mẹ tôi thì không thích phải hầu hạ họ. Mẹ tôi đã đi làm và có vẻ thích công việc ở sở. Mẹ tôi có vẻ trẻ và đẹp hơn. Cha tôi ghen và hay gây gỗ. Ở Việt Nam mẹ tôi không phải đi làm, ở nhà lại có người làm. Sáng dậy không có ai lo lắng cho cha tôi, ông càng bất mãn. Tôi buồn quá vì nhà tôi như cái hỏa ngục. Tôi học không được.”
                 
                “Tôi muốn chơi thể thao, tôi được tuyển vào đội Football của trường, nhưng cha tôi bắt tôi phải về nhà sau giờ học để giúp đỡ công việc  trong nhà. Tôi muốn bỏ nhà ra ở bên ngoài mà không biết phải đi đâu.”
                 
                “Tôi phải nấu ăn cho cha tôi để ông có thể đi làm vào lúc 5 giờ chiều mỗi ngày. Đây là lý do tôi không thể ở lại trường để học thêm”. (Trích báo Dân Chúa).
                 
                Trường hợp một em khác: “Tôi ít thấy cha mẹ tôi. Các ngài đi làm về trễ mỗi ngày sau khi tôi đã đi ngủ và bố mẹ tôi ra khỏi nhà trước khi tôi thức buổi sáng. Vào ngày thứ bảy, chúa nhật cha mẹ tôi dậy muộn, rồi hối chúng tôi pha cà phê hay làm đồ ăn sáng cho cha mẹ và mời các bạn của cha mẹ đã tới nhà, sau khi ăn vội vã họ chia nhau ngồi, đàn ông chơi xì phé, tổ tôm, các bà đánh chắn, đánh bài.
                 
                Chúng tôi rất vui tuy phải hầu khách để họ sai vặt vì có khách mà chúng tôi được ăn uống  thả cửa những đồ ăn ngon, cả uống rượu nữa, mà mẹ tôi đã mua sẵn để đãi khách. Ngày thường chúng tôi không được ăn ngon, bây giờ lại được thêm tiền công chia bài, tôi có tiền tiêu vặt, chị em gái có tiền đi mua phấn son. Chúng tôi đã học được  cách đánh bài, đánh chắn, cả xì phé đều thành thạo, tập cả cách uống rượu của người lớn.”
                 
                Tình trạng bối cảnh gia đình các em kể trên, bất mãn từ cha mẹ một lúc nào đó có môi trường từ bạn bè xấu, các em sẽ bỏ nhà đi theo gia nhập băng đảng hư hỏng cả một đời em, trách nhiệm cả cha lẫn mẹ  đã không ý thức được bổn phận nâng đỡ con cái. Cha mẹ  chỉ biết tìm khoái cảm riêng cho mình, không nghĩ gì đến sự học hành giáo dục con cái, cho đến lúc chúng bê tha rượu chè cờ bạc. Cha mẹ đã làm gương xấu cho con cái bắt chước, khỏi cần bạn bè xấu rủ rê. Cha mẹ chưa biết tu thân, còn nói gì đến tề gia, tổ quốc còn hy vọng gì vào tương lai con cái của họ.
                 
                Năm 1987, em T. 17 tuổi, sau khi tòa tuyên án, em quay lại nhìn bố mẹ em với con mắt oán hận mà nói: “Nếu mẹ dành cho con ít thời giờ mà mẹ đi shopping, đi đánh bạc, và bỏ bớt đi với bạn bè uống rượu, bớt đi phòng trà, thì đới con đã không có giờ phút này”. Tất cả mọi người trong tòa án quay nhìn bố mẹ em nạn nhân bằng con mắt khinh bỉ lẫn xót xa với em. Đây là một bài học đã đánh động lương tâm những bậc làm cha mẹ thiếu trách nhiệm, thiếu lòng nhân với con cái, đang tâm ích kỷ chỉ nghĩ đến vui sướng thỏa thích cho riêng mình.
                 
                Nhưng cha mẹ sắp ly thân, ly dị, xin hãy hồi tâm thương về mấy con thơ vô tội mà mình đã có công cưu mang, đẻ đau, nuôi nấng, đừng để những tâm hồn ngây thơ, non nớt, lo lắng, buồn tủi vì sẽ phải xa bố hay mẹ, phải thiếu tình thương thiêng liêng, thiếu sự đùm bọc, dậy dỗ, chỉ có bố mẹ mới có lòng quảng đại trìu mến, dẫn đưa cuộc đời con mình đến chổ thành  công. Các con của mình chính là món quà đặc ân Thượng Đế ban cho mình với trách nhiệm yêu thương và dậy dỗ chúng.
                 
                Gia đình là nền tảng xã hội, gia đình có yên vui trên thuận dưới hòa thì xã hội sẽ thái bình thẳng tiến, có những thanh niên nam nữ ưu tú tiếp nối công cuộc kiến quốc, đáp ứng giải tỏa những thao thức lo lắng của những bậc thức giả đang lo cho tiền đồ dân tộc, muốn giáo dục cho thế hệ Việt Nam được hoàn mỹ.
                 
                #8
                  frank 03.10.2022 23:17:13 (permalink)



                  9-   Phong Tục Miền Bắc Quê Hương Tôi


                   
                   
                  Trước Đệ nhị Thế chiến, ở thôn quê miền Bắc Việt Nam phụ nữ thường thất học, nên chỉ có một số biết đọc biết viết, nhưng phong tục lề thói vẫn truyền khẩu từ đời này sang đời khác.
                   
                  Khi con cái đã lớn, nhất là con gái thường được dậy cho biết thế nào là tam tòng tứ đức, biết ăn trông nồi ngồi trông hướng, ăn cơm chan canh không quá ba thìa, ăn xong để đũa xuống cho êm nhẹ, uống nước từ từ đừng để cho kêu ùng ực, xỉa răng phải lấy tay che miệng, khi đi qua trước mặt ông bà cha mẹ hay những bậc tôn trưởng phải cúi đầu đi thưa về trình, nói với người giúp việc phải nhỏ nhẹ đừng quát mắng hách dịch, ăn mặc xứng kỷ đức, không được xe xua làm xốn con mắt người ngoài.
                   
                  Khi đến tuổi cặp kê các bà mai đến thăm nom nói với phụ mẫu cô con gái hẹn ngày cho nhà trai tới chơi, coi mắt, các cô lại được dậy bảo cặn kẽ, nào khi người nhà trai đến họ bắt đầu xem từ cổng tới sân có được quét tước sạch sẽ hay không, trong nhà họ xem đồ đạc có được lau chùi sạch bóng không, mấy người đàn ông ngồi ở phòng khách nói chuyện, còn đàn bà nhà trai đi với bà mai thường là mẹ, cô, dì của chàng rể lấy cớ xuống tận nhà bếp.
                   
                   Họ chú ý nhất tới nhà bếp vì cho rằng người con gái có ngoan ngoãn, siêng năng, cứ trông căn bếp có ngăn nắp sạch sẽ hay bẩn thỉu lôi thôi sẽ hiểu tính nết. Người con gái nào cũng thế, vào thời đó đều có tính e thẹn, họ sẽ trốn mất cho tới khi bà mai nói với ba mẹ cô gái xin cho nàng ra để đàng trai coi mặt, nhà trai giả bộ đi mua hay bán các thứ nông phẩm như lúa, gạo, đậu, lạc, bắp v.v…. để nói truyện làm quen.
                   
                  Mấy ngày sau bà mai trở lại rồi tin đi mối lại đến khi đôi bên thỏa thuận định ngày “chạm ngõ” hay là cơi  trầu thứ nhất nhà trai chính thức tới thăm nhà gái biếu ít quà tùy tiện để xin đi cơi trầu thứ hai là để biếu trong họ gần xa như ông bà, cô, dì, chú, bác, không cần nhiều cau bánh, nhà trai tùy iện đưa tới. Bà mẹ cô gái thường nói: “Chúng tôi không muốn bày vẽ nhưng cháu là con tôi thật nhưng còn là cháu  của bà con trong họ nên phải thỉnh ý cho có sự đồng ý.”
                   
                   Sau đôi bên định ngày lễ ăn hỏi, tức cơi trầu thứ ba. Cơi trầu này quan hệ, đây là dịp nhà gái “thách cưới” phải xin bao nhiêu phần bánh, rau, trà, rượu để biếu trong họ thân sơ, làng xóm bạn bè. Nhà trai thấy quá nhiều không lo nổi đành phải bỏ hay nhà gái muốn gả phải bỏ tiền ra mua bù vào, thành bại tùy tài bà mai điều đình thuyết phục.
                   
                  Sau khi  thu nhận lể vật chàng rể được trình diện cha mẹ họ hàng bên nhà gái theo bậc, và bữa ăn do nhà gái thết họ hàng nhà trai. Có trường hợp đôi bên cha mẹ lựa chọn sẵn, làm lể vấn danh ăn hỏi rồi để đấy “giữ  chỗ” chờ cho đôi bên cô cậu lớn đủ tuổi. Thời kỳ chờ đợi nhà trai phải đi sêu  tết, biếu của đầu mùa tất cả các thứ trái cây như nhãn, mít, cam, hồng, cốm, tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu, gọi là làm rể có khi tới hai, ba năm mới làm lễ cưới.
                   
                  Tục này đông tây quả có giống  nhau. Như trong Cựu Ước sách Khởi Nguyên trang 6, 7, ông Jacob tới ở rể nhà ông Laban trông coi đàn cừu, để hết bảy năm mới lấy được bà Lea, muốn lấy cả bà Rachel lại phải ở rể thêm bảy năm nữa (tức tổ tiên dân Do Thái ngày nay).
                   
                  Sau đó đôi bên chọn ngày lành tháng tốt cử hành lể dẫn, đưa dâu. Trước ngày cưới nhà trai phải đưa đến nhà gái một con heo nếu nhà khá giả lại ở xa, hay nhà gần nhau sáng sớm đã đưa đến một số mâm cỗ đã làm sẵn tùy nhà gái cho biết để biếu những ông bác, chú, cô, dì ở gần gọi là “cỗ dựa” tuy những người này sẽ đi đưa dâu và ăn cỗ.
                   
                  Nhưng cái màn “thách cưới”  bỏ quả khem cũng cần bà mai nhắc lại cho chắc tuy điều kiện đã thỏa thuận từ trước, tục lệ chỉ có bỏ vào trong quá khem 100 miếng trầu quế 100 đồng tiền ngoài ra nhà trai muốn bỏ thêm đồ trang sức cho cô dâu và vàng bạc muốn khoe của phải nói trước, gặp phải cha mẹ cô gái tham lam sẽ lấy hết hay cho lại cô dâu ít nhiều. Phần nhiều nhà gái thương con dễ dãi hứa không lấy món gì để trong quả khem và còn nói trước sẽ cho của hồi môn có khi gồm cả trâu, bò, nông cụ để  cô dâu đưa về nhà chồng như tục cổ của mấy nhà giầu ở vùng Yên Khánh.
                   
                  Cũng một miền có nơi cô dâu đem theo gối và chiếc mền bông, rương quần áo một người gánh theo sau, có nơi cô dâu không đem theo vật gì. Bà mẹ đã nói con gái là con người ta, con dâu mới thật là con cha mẹ mua về. Từ đây thuộc về nhà chồng, ấm no đã có nhà chồng lo cho.
                   
                  Đến giờ xuất hành rước dâu, đi đầu là một cụ già mặc áo thụng xanh nhà trai đã chọn là người có địa vị giầu sang bề thế có đầy đủ con trai con gái để bưng quả khem có người người che lọng xanh, đi sau đến cha mẹ họ hàng bạn hữu chú rể có hai người phù rể chọn trong bạn hữu đi hai bên. Khi đám rước dâu đi tới đầu làng phải dừng lại vì tục chăng dây đón đường đám cưới để đòi tiền mới cho qua, vì thế đám rước dâu mới phải chậm lại gần nửa giờ điều đình nộp tiền mới đi được.
                   
                  Đây là một “tệ tục” còn sót lại bởi trưới kia nước Việt Nam ta còn chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa phong tục Trung Hoa mà người Tầu đã chính thức bỏ từ đời nhà Đường Huyền Tông (713-742) vì tục ấy thành tệ tục. Sách Thông Diễn chép đời vua Đường Huyền Tông, Đường Thiệu dâng sớ tâu vua: Trong ngày sĩ thứ nghênh hôn những kẻ hèn hạ quê mùa đem xe ra chặn đường đòi cơm rượu. Tục ấy trở nên thịnh hành đến cả những bậc vương hầu nhóm nhiều bè lũ ra chặn đường giữ đám cưới lại làm mất nhiều thì giờ đòi tiền của đến nỗi tiền cho bọn ngăn đường nhiều hơn tiền cưới. Vậy xin cấm đoán hẳn, vua phê chuẩn việc ấy. (Lê Qúy Đôn, Văn Đài Loại Ngữ).
                   
                  Mọi người tới trước cổng nhà gái đứng lại. Ít người nhà gái ra đón tới trước cửa chính, một ông trong nhà gái cũng áo thụng xanh bước xuống thềm đỡ quả khem ở tay ông cụ nhà trai trịnh trọng đặt trên bàn: khi hai bên chào hỏi yên vị, một ông nhà trai đưa chú rể ra trình diện và giới thiệu với họ nhà gái. Tới lượt nhà gái một bà dẫn cô dâu ra chào họ nhà trai và đưa  cô dâu tới trật quả khem rồi bà xướng lớn cho mọi người biết trong quả khem có tiền trăm bạc ngàn có trăm giầu quế, đấy là câu nói của tục lệ, tiếp đó mới kể đến vàng bạc, nữ trang từng thứ một rồi thứ nào bố mẹ chồng định cho sẽ được một bà nhà trai đeo ngay cho cô dâu, lại đến lượt mẹ cô dâu lại quả cho chú rể một món gọi là một chút cho các con làm vốn gọi là của hồi môn.
                   
                  Sau khi cô dâu chú rể làm lễ gia tiên, chú rể còn phải lậy cha mẹ vợ, thường được cha mẹ vợ miễn chước, gặp phải ông nhạc gia khó tính phải nhất định bắt chú rể phải lậy, gặp ngay chú rể ngang bướng không chịu lậy, cô dâu phải ra xi lậy thay mới xong.
                   
                  Đám cưới về tới cổng nhà trai. Những người bên họ nhà gái đứng lại với cô dâu, một bà lên tiếng gọi “Mẹ đâu ra dắt con vào”. Bà mẹ của chú rể trong nhà đi ra cầm tay cô dâu dẫn bước qua nồi than hồng đã được đốt sẵn từ trước. Cô dâu lại được dẫn tới trước bàn thờ làm lễ tơ hồng, trên bàn thờ có hương hoa, nến, một chai rượu nhỏ, một cái ly, một ông tới rót rượu đầy vào ly sau khi đôi tân hôn đã vái trước bàn thờ. Cả hai thay nhau uống hết ly rượu bà mẹ chồng đưa hai con vào trong buồng nhận nhà.
                   
                  Phòng chú rể được trang hoàng theo ý, nhưng mắc màn và giải chiếu phải có một bà đứng đắn vui vẻ mau mắn có nhiều con trai con gái lãnh phần, sau khi giải chiếu sẽ để vào giữa giường 12 quả trứng vịt ngụ ý  để sau này cô dâu sẽ đẻ nhiều như vịt.
                   
                  Đến lễ gia tiên, cô dâu nhận tiên tổ họ hàng nhà chồng. Sau cùng đến lể động đũa, đúng thủ tục thì phải làm trước mặt hai bên họ hàng. Để tránh e thẹn cho cô dâu mới, bà mẹ chồng xin với hai họ hai bên để đưa mâm cỗ vào phòng cô dâu chú rể ăn với nhau  với ý nghĩa: “Vợ chồng như đũa có đôi. Mình với ta như đôi mà một, ta với mình như một mà đôi.” Cô dâu so đũa xới cơm nâng bát mời nhau cùng ăn có nghĩa ở với nhau cho hết cuộc đời.
                   
                  So đũa là chọn hai chiếc đũa thật bằng bặn không cọc cạch so le có nghĩa đũa không bằng bặn hoặc  chiếc cong chiếc thẳng, chiếc nhỏ chiếc lớn, chiếc dài chiếc ngắn, chiếc mới chiếc cũ. Một đặc điểm khác là ta gọi cả hai đầu đũa là “đầu đũa”, chứ không phân biệt là đầu đuôi. Đũa tuy một mà hai là hai vợ chồng tuy hai lại là một. Đây là sự bình đẳng bình quyền bình sản tuyệt đối của xã hội Việt Nam, bình đảng về tư cách cá nhân, thành vợ thành chồng rồi ai có nhiệm vụ nấy. Nam là ngoại tướng, nữ là nội tướng.
                   
                  Tài sản dù chồng hay vợ tạo ra cũng đều là của chung, của chồng công vợ, cùng nhau lao tác cùng nhau chia sẻ ngọt bùi như chim liền cánh, như cây liền cành. Bữa cơm Việt Nam bao giờ cũng bắt đầu bằng xới cơm so đũa. Một người cầm cả nắm  đũa dộng xuống mâm cho đều rồi mới chia mỗi người một đôi đũa. Đũa so rồi nhưng người lớn nhất trong bữa cơm mới là người cầm đũa trước với nghĩa tỏ sự  thương yêu công bằng cùng ăn một mâm.
                   
                  Những phong tục rườm ra từ sau Đệ nhị Thế chiến đã đổi thay tuy nhiều nơi vẩn còn giữ lại ít mỹ tục. Ở hải ngoại nhiều người vẫn còn giữ được phong tục, nhiều người đã bỏ. Ở nhà có câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, bây giờ trái lại “con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy.”
                   
                  Tất cả những lễ nghi phong tục của tổ tiên ta để lại đều mang những ý nghĩa đặc biệt sâu xa, gìn giữ chẳng được, mai một dần quả thật đáng tiếc. Sự ràng buộc trong nghĩa hôn nhân gói ghém biết bao nhiêu trong từng phong tục lề thói. Ngày nay lễ nghi càng bỏ bớt bao nhiêu, nghĩa hôn nhân cũng nhẹ bấy nhiêu.
                  #9
                    frank 06.10.2022 03:29:06 (permalink)



                    10-   Một Bước Lên Đài Danh Vọng

                     
                     
                     
                    Vào thập niên 30 nạn kinh tế khủng hoảng lan tràn khắp nơi. Việt Nam dưới chế độ bảo hộ, Nho học ngày càng tàn lụi, tân học với phong trào chữ quốc ngữ chưa phổ biến tới nơi tới chốn. Nơi thành thị trường ốc còn khả quan, miền quê thì cả một phủ, huyện mới có một hai trường tiểu học. Những làng ở gần trường, nhà khá giả mới cho con đi học, dù miễn phí, dân quê quá nghèo nên con cái đến tuổi đi học cũng là lúc các em có thể giúp đỡ cha mẹ những việc lặt vặt ở nhà như coi em, nấu cơm, xay lúa, giã gạo, vì thế nạn mù chữ không giải quyết nổi.
                     
                    Nhỏ Chung nhà nghèo, đông anh em, mỗi khi có dịp di qua trường học chỉ biết nghễn cổ nhìn vào trường học thèm thuồng ước ao được đi học như cac em học sinh.
                     
                    Bố mẹ Chung thương con có ý muốn tìm người nuôi đỡ các con vì ở nhà các con ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Vừa lúc một cô Đội Tây về thăm quê muốn mướn một đứa nhỏ giúp việc. Chung được bà hàng xóm giới thiệu. Cô Đội còn hứa với gia đình Chung sẽ cho nhỏ Chung đi học. Ngày hôm sau Chung từ giã bố mẹ theo cô Đội đi Đáp Cầu ở với cô. Đáp Cầu nguyên là một căn cứ quân sự của người Pháp. Chung quanh Đáp Cầu người ta mở nhiều tiệm buôn bán, hàng ăn, cung ứng nhu cầu cho quân đội Pháp, dĩ nhiên có nhiều hàng trá hình buôn hương bán phấn trong số có cửa hàng nhà cô Đội.
                     
                    Khi còn ở nhà với cha mẹ, Chung hàng ngày phải đi chăn trâu, cắt cỏ hay mò cua, bắt ốc suốt ngày ở ngoài đồng, dù có nước da trắng cũng thành đen xạm, chân tay bị chai cứng nứt nẻ, thân hình gầy guộc quần áo rách trên vá dưới.
                     
                    Ngã rẽ cuộc đời nhỏ Chung bắt đầu từ đây. Nhỏ Chung không được đi học như cô Đội đã hứa, nhưng được ăn mặc sạch sẽ để hầu các khách ra vào toàn là người Pháp, bắt buộc Chung cũng phải cố gắng nghe và nói, lâu dần Chung cũng hiểu và nói tiếng Pháp trôi chảy nhưng rất “bồi”. Sau đấy ít lâu, Chung tìm việc làm hầu bàn ở các hàng ăn. Với dáng dấp lanh lẹ, khổ người cao ráo, da trắng, đẹp trai bặt thiệp. Chung được một người Pháp đưa đến làm bồi bếp cho phủ Thống sứ Bắc kỳ. Đem hết sở trường khéo léo nấu bếp, lại biết đòn ý chiều chuộng từ các cô các cậu, dần dà Chung đã lấy được cảm tình cả gia đình ông Thống sứ.
                     
                    Một anh cò mồi thính mũi, đã dắt khách đến với Chung để làm ăn. Khách là những tri phủ, tri huyện tham tá, thông phán, địa vị bị lung lay muốn thăng quan tiến chức. Không ai hiểu bằng cách nào, trong khi hầu bàn mang thức ăn, Chung đã nói được việc cho những bọn cầu danh bằng cửa hậu.

                     
                                             ***

                     
                    Hồi này Chung đã thành cụ Cửu Chung… Phủ Thống sứ đặc cách cho anh hàm Cửu phẩm văn giai. Sau khi cởi cái “tạp dề”, Chung đi giầy tây bóng loáng, mặc áo sa-tây, đội khăn xếp với chiếc nón dứa cầm tay đúng với phong tục cụ Cửu. Sau khi ra khỏi phủ Thống sứ, một chiếc xe tay đã đợi sẵn trờ tới đón. Trên xe bước xuống một đấng dân chi phụ mẫu vui vẻ mời cụ Cửu đi chơi, đi đâu bao giờ cũng có một ông quan phán cò mồi “tự phong”, cặp bài trùng Chung, Văn như bóng với hình vì kẻ tung phải có người hấng, ra giá, mà cả, gợi ý là phần vụ của cò mồi.
                     
                    Đến cả những miền quê các ông lý, phó trưởng, chánh, phó tổng sắp phải thu hồi đồng triện, được người mách, chỉ có quan phán và cụ Cửu chịu về tận nơi, nói một lời với quan phủ, huyện việc sẽ xong. Nạn nhân có khi phải bán nhà bán ruộng mà lo lót cả hai nơi vừa quan bản hạt vừa cụ Cửu đầu bếp. Gặp những món nhà quê, cặp bài trùng ăn ngon cả đôi bên, chỉ tốn ít nước bọt xin quan phủ hay huyện một đặc ân cho nạn nhân. Trước khi ra về, quan phủ, huyện có một chút làm quà đưa chân cho cụ Cửu và ông phán, rồi tài xế của quan lái xe đưa cụ Cửu về Hà Nội để cụ còn làm bếp, hầu bàn cho gia đình phủ Thống sứ.
                     
                    Vinh qui bái tổ, được nở mặt với dân làng, hàng xóm họ hàng ai ai cũng đều mong có một ngày, huống nữa Chung thuộc vào gia đình cùng đình, cần phải cho mọi người  biết đến. Lệ làng ai có chức tước muốn cho làng công nhận, phải làm tiệc khao cả làng  trước khi làm phải có cơi trầu trình các cụ trong làng, xin phép để các cụ hổ trợ và sai phái đàn em trong làng tới giúp.
                     
                    Tiên chỉ làng này là cụ Bảng Do, cụ là bậc thức thời, có tiết tháo, không xuất chính để khỏi chịu sự chi phối của ngoại bang, đau lòng vì chính sách hà khắc của bọn thực  dân độc quyền bán muối, bán rượu, ru ngủ dân bằng thuốc phiện cho bán tự do. Cụ  khinh những bọn lên mặt quyền quý ra vẻ giầu sang, chỉ là những bọn cúi mặt theo voi hít bã mía, tiến thân bằng cửa hậu lạy lục với bọn Tây bồi bếp. Sau khi đỗ đạt cụ không xuất chính, trở về cố hương làm ruộng, dân làng ai thiếu thốn đều được cụ giúp đỡ, mọi người đều quý mến.
                     
                    Khi Cửu Chung đưa cơi trầu tới xin phép cụ tiên chỉ, cụ Bảng cười nói: “Đúng là nước lụt chó nhảy bàn độc. Anh không biết đọc biết viết đi bồi Tây nói được tiếng Pháp chưa làm giúp ích gì cho ai ở làng. Anh muốn khao làng  phải biếu làng 100 bạc. Đây là ngoại lệ xung quỹ để sửa đường.” Sau bữa ăn khao, Chung hãnh diện được cả làng gọi là ông Cửu, còn tiếng cụ để gọi những cụ bô lão từ 60 tuổi trở lên, đó là lệnh cụ Bảng. Cửu Chung cũng khôn khéo phóng tiền tài mua nhân tâm, hắn hiểu tất cả chức dịch ở làng, người đôi giầy, chiếc dù ô, hay xấp vải tùy thứ đặc biệt, ngay đến quan phủ bản hạt cũng phải e dè Cửu Chung.
                     
                    Thời trước bồi Tây thành quan phán, cụ Cửu ngàn năm một thuở được các vị phụ mẫu chi dân bị thất sủng  hay tham nhũng bị lộ diện phải hạ mình đến cầu cạnh cụ bồi, vừa được tiền, được tâng bốc thật hãnh diện sau khi được việc, vẫn còn được vi nể mỗi khi gặp nhau.
                     
                    Sau ngày 30 tháng Tư đen, đến giờ gặp buổi giao thời nhiễu nhương, lại thêm nhiều thảm trạng. Người Việt mình đi di tản trên khắp thế giới sau khi định cư yên ổn sống nơi xa lạ, chẳng mấy ai biết rõ tông tích mình lúc ấy, tha hồ nói khoác. Sự thật có một nói thành mười, vẽ thêm hoa lá cho xôm trò. Chẳng ai vô công rồi nghề đi điều tra hay đánh thuế những người dương dương tự đắc nói khoác.
                     
                    Có biết đâu vương tướng quyền quý nào có nghĩa gì, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, đã bỏ nước bỏ nghĩa vụ mà đi không lấy thế làm hổ thẹn mà còn khoa khoang vênh váo, chức tước danh vọng chỉ là phù du, chỉ có phẩm cách con người là căn bản và tồn tại mãi mãi.
                    #10
                      frank 06.10.2022 23:19:31 (permalink)



                      11-   Câu Truyện Ông Dần

                       
                       
                       
                      Đoàn khách hành hương từ các nơi tới tập họp ở phi trường Kennedy, New York để đi Do Thái thăm Thánh Địa. Trước khi chuẩn bị giấy tờ thông hành lấy vé lên tầu, trong khi chờ đợi, chúng tôi đi làm  quen, tìm bạn đồng hành để giúp nhau khi cần có việc gì xẩy ra. Nhất là ngồi lâu giờ trên phi cơ xem sách xem báo mãi cũng chán, có người ngồi nói truyện cho nghe thật là thích thú, mau qua thì giờ.
                       
                      Tôi nhìn sang hai bên ghế trước ghế sau, các bạn mới quen đều ngồi cách xa chỗ tôi. Còn bên phải là ông Dần trong số bạn vừa quen. Ông ta trạc ngoài 50 tuổi, da ngâm đen, vẻ mặt chất phác. Sau một giấc ngủ dài, vừa tỉnh dậy ngơ ngác nhìn sang tôi ông hỏi: “Này bạn giờ là mấy giờ?”, “5 giờ, giờ Nữu Ước”, tôi đáp. Sau mấy câu hỏi thăm nhau về quê quán trước khi ở Việt Nam, ông Dần kể tôi nghe về đời của ông.
                       
                      Quê tôi ở Thái Bình, nơi đất hẹp người đông, tôi sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo nàn, không được đi học, dù mơ ước của cha mẹ tôi chỉ muốn các con biết đọc biết viết cũng đã mãn nguyện rồi. Hồi còn nhỏ mỗi khi đi ngang qua trường học ở phố phủ bao giờ tôi cũng  đứng lại nghe tiếng học trò đọc bài, nghe thầy giáo giảng nghĩa: nào là hiếu cha mẹ, rồi học trò đọc: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước  trong nguồn chảy ra”. Để đối anh em như câu: “Nhường anh nhường chị lại nhường người trên”, nghĩa đối với bạn vè với câu: “Duyên  phải duyên kim cải, nghĩa phải nghĩa giao hòa”. Tôi nhớ hết những câu ca dao ấy và lấy làm hay.
                       
                      Dạo đó tôi phải đi ở đợ để trừ nợ cho bố mẹ. Nhưng lúc đi ngang trường học  tôi thường đứng ngoài nghe tiếng thấy giảng. Về nhà muộn là bị chủ la mắng, có khi bị đánh đập. Tôi phải làm việc luôn tay luôn chân. Có lúc nhớ mẹ trốn về lại bị bố mẹ la mắng, dẫn lại nhà chủ xin lỗi. Bị nhục nhã, đánh mắng  vì miếng cơm, manh áo, đem sức lao động ra làm cho chủ được bao nhiêu chủ giữ lại trừ nợ mà bố mẹ tôi đã mượn trước. Đến năm 18 tuổi làng cấp điền lại, tôi được chia cho năm sào ruộng công điền. Thật là sung sướng cho tôi và cả gia đình, đã bao năm nay bây giờ chúng tôi lại được làm chủ năm sào ruộng.
                       
                      Trước kia bố tôi cũng có phần công điền như tôi bây giờ, mà lại còn nhiều hơn, những sáu sào lận. Bố tôi được nhiều hơn tôi bây giờ là vì số người được chia còn ít. Bố mẹ tôi làm chủ số ruộng này được vài năm thì xẩy ra biến cố: ông nội tôi rồi đến bà nội tôi được mồ yên mả đẹp, cũng là lúc bố mẹ tôi phải đem phần ruộng làng chia bán đứt cho người ta để trả nợ. Bố mẹ tôi thường nói buồn vì bán mất phần ruộng, lại hả hê đã giữ trọn bổn phận hiếu thảo với ông bà tôi.
                       
                      Còn tôi khi nhận phần ruộng xong tôi cũng xin tùy bố mẹ định đoạt. Bố tôi nhìn tôi nói: “Con đã lớn đủ sức vác cầy làm ruộng, hãy ở nhà cùng với bố tự cầy cấy lấy phần ruộng của mình, và đi làm thuê cho người ta cũng đủ sống. Mà gia đình tôi, từ bố mẹ đến tôi là khôn lớn hơn cả có bao giờ nghĩ đến làm giầu, chỉ mong sao được ngày hai bữa ăn no, có đủ áo ấm mặc về mùa đông là mãn nguyện rồi.
                       
                      Cứ đến bữa ăn ngồi quây quầy chung quanh mâm cơm  bố tôi thường nói: “Các con hãy nhớ: ‘Đói cho sạch rách cho thơm’ đừng bao giờ nói dối, nói xấu ai, đừng tham lam lấy của ai, của phi nghĩa không giữ được lâu đâu. Làm được có đồng tiền, bát gạo phải khó nhọc, đổ mồ hôi xót con mắt. Người không làm tìm đủ cách cướp lấy của người ta đấy là bọn đạo tặc, vô lại, tham nhũng.
                       
                      Gia đình tôi sống an phận, cái nghèo vẫn không tha. Tới khi bố tôi chết gia đình thiếu một tay lao động. Lại gặp năm 1944 mất mùa, người Nhật thu mua lúa gạo, làm thuê không ai mướn, quá tháng 10 hết ngày mùa, gần hết cả miền tôi, chúng tôi đều đói, bữa ăn bữa nhịn. Tôi là con lớn ngồi nhìn mẹ và các em đói, không thể chịu được tôi đem đồ đạc có thể bán được, tôi bán tất cả phần ruộng công điển. Gom được số tiền tôi tính cứ ngồi ăn, không được bao nhiêu ngày sẽ chết đói nếu không tìm được việc làm.
                       
                      Tôi bàn với mẹ tôi còn chút tiền để làm lộ phí ra nơi tỉnh thành may ra tìm được việc làm sống qua ngày. Tới Hà Nội cũng thấy người đói đi lang thang xin ăn đầy đường, đêm nằm vỉa hè hay quán chợ gầm cầu, chúng tôi bỏ Hà Nội đi lần tới Tuyên Quang, tương đối còn có công việc làm, có khoai có sắn hay vào rừng đào củ mài cũng còn có chỗ để sống.  Nhưng lúc cùng quẫn tôi đã có ý nghĩ phải biết nói dối, lường gạt nếu muốn sung sướng, như tôi đã từng gặp nhiều người quen có, lạ có mà có sao đâu, nhiều lúc tôi nói hở ra, mẹ tôi biết ý xấu manh  nha trong lòng tôi, tôi thấy mẹ tôi buồn lắm, cứ hay nói khi bố còn sống vẫn dặn các con phải ăn ngay ở lành đừng có quên lời bố dặn.
                       
                      Qua mấy tháng chịu rét và đói ở Tuyên Quang, mẹ tôi đòi về làng quê Thái Bình, vả lại nay đã gần đến mùa gặt chúng tôi có thể trở về làng đi gặt thuê được. Tôi thu xếp đưa mẹ và các em tôi tới Hà Nội, mẹ tôi bị sốt thương hàn chết không kịp về tới quê, tôi đành chôn cất mẹ ở nghĩa trang Khương Thượng. Trước khi chết mẹ tôi nắm lấy tay tôi mà nói: “Hãy nghe mẹ, nhớ lời bố con đã nói: Đói cho sạch, rách cho thơm. Đừng bao giờ nói dối, lừa gạt, ăn cắp, ăn cướp, của phi nghĩa, không bền đâu con, giữ được lòng ngay thẳng, rồi con sẽ được sung sướng.” Khi nói mẹ tôi ứa hai hàng nước mắt và tôi đã hứa để mẹ yên lòng nhắm mắt.
                       
                      Khi về tới quê tôi, một cảnh thương tâm, nhiều nhà bị rỡ đi bán làm củi, nhiều người đã chết, có gia đình chết hết. Mùa lúa đã chín người gặt thì thiếu. Anh em tôi lần hồi làm ăn khá giả, năm 54 bỏ hết mọi thứ vào Nam nơi đất tốt người thưa tôi làm ăn phấn chấn, rồi tới 75 lại bỏ lại hết, di tản tới đất nước người. Chúng tôi lại làm lại từ đầu. Cứ tuần tự nhi tiến có nhà có xe, con cái học hành thi đâu đỗ đấy. Đúng như lời mẹ tôi căn dặn trước khi chết “giữ được lòng ngay và những lời bố dậy kia rồi con sẽ được sung sướng”. Nếu muốn nghe thêm tôi xin kể thêm câu truyện của người em họ tôi.
                       
                      Chôn cất mẹ xong anh em tôi trở về quê biết chắc đã đến mùa gặt sẵn việc làm, về tới nơi không còn nhà vi cột kèo thứ tối đã đem bán, còn lại làm củi đốt hết, trơ đám đất cỏ mọc, việc đầu tiên anh em tôi chia nhau đi tìm họ hàng quen biết, tìm chỗ trú ngụ qua ít ngày sẽ cắt túp lều cư ngụ. Đang xớ rớ đứng nhìn mảnh đất hoang tàn, nghe tiếng em tôi từ xa gọi, lại đi bên một người đàn ông, đến gần nhận rõ người đàn ông chính là em họ: Hiền con bà cô tôi. Hai anh em ôm nhau khóc kể về gia cảnh, em tôi bị thảm hơn tôi, cũng như mẹ tôi, cô tôi kiếm được củ khoai miếng sắn cũng nhịn bớt cho con nên chóng chết, khi chết chỉ có manh chiếu để bọc đem chôn: Ôm nhau một lúc cho lắng đọng bi thương, rồi Hiển đưa anh em tôi lại nhà Hiển, nhà chú em tôi chỉ là một cái lều.
                       
                      Hiển nói với tôi: “Anh ạ, em cũng mới về được năm ngày nay, trước khi về vợ em đã đi nhặt được mấy cành cây mấy tấm ván xấu gỗ mục, người ta vất đi để sẵn, lúc em về hai vợ chồng em đã dựng túp lều tạm này lấy chỗ che mưa đụt nắng. Rồi Hiển kể tiếp: “Sau khi mẹ em chết (tức bà cô tôi) em vừa đói vừa lo buồn lấy gì mà ăn cầm hơi sống cho ngày mùa. Vợ em đi ăn mày cũng không ai cho, phải đi hái các thứ lá cây về luộc ăn cho đầy bụng đến nỗi em  vốn là thanh niên khỏe mạnh, bây giờ đi không nổi, em cũng cố lần ra tới đường làng thấy có một đám đông người đứng bao quanh một người thanh niên trẻ tuổi và ông lý trưởng ở làng.
                       
                      Em vừa tới nơi là lúc người thanh niên bỏ giấy vào cặp, cậu thanh niên vừa trông thấy em, cậu ta liền hỏi tên em là gì và bảo: tôi nhận thêm anh này nữa. Nói rồi, cậu ta kêu mọi người có tên theo cậu về trại. Tới nơi chúng tôi biết đây là trại cứu đói. Bắt đầu, chúng tôi được ăn ngay mỗi người một bát cháo loãng, bữa tới bát cháo đặc hơn dần dần. Sau ba ngày, chúng tôi mới được ăn cơm, sau này tôi mới biết nếu những người đói quá như chúng tôi lại kiệt sức, không thể ăn cơm hay cháo đặc ngay được, phải ăn từ từ là thế, khi đã lại sức, chúng tôi được tập thể dục ban sáng, được phân công làm việc tùy khả năng, khi vợ  tôi biết tôi đã được nhận vào trại cứu đói cứ đến bữa ăn, tôi giấu được một nắm cơm tìm cách đưa cho vợ nên cả hai vợ chồng được cứu sống đến bây giờ.
                       
                      Ngừng một lát ông Dần thở dài nói tiếp: Chú Hiển em tôi là người có nghĩa biết nhớ ơn, mỗi khi nhớ đến cậu thanh niên đã nhận mình về trại khỏi chết đói, trong khi còn bao nhiêu người chết đói vì không được nhận, chỉ vì trại không đủ sức nuôi. Chú em tôi nói muốn gặp cám ơn cậu thanh niên mà không biết làm thế nào; khi tôi vào trại được ít lâu, một hôm có toán lính Nhật đến bao vây trại tìm bắt cậu, rất may cậu ta trốn thoát.
                       
                      Rồi người Nhật đưa một khác đến làm trại trưởng thay chỗ cậu thanh niên. Khi chia đôi đất nước, di cư vào Nam chú Hiền làm trại trưởng một trại tiếp cư ở Cà Mau. Một hôm đi phố chú Hiền  đã gặp lại cậu thanh niên trại trưởng trại cứu đói cách đây 11 năm, chú nói em mừng quá em quỳ xuống giữa đường tạ ơn cậu đã cứu đói khỏi chết, cậu ta nâng em đứng lên chỉ cười hỏi thăm mấy câu.
                       
                      Ý em muốn mời cậu về nhà nhưng cậu nói thế là quá đủ rồi từ giã vì có việc cần phải đi, từ đấy không  bao giờ gặp được cậu ta để cám ơn cậu vì bấy giờ em làm ăn khá giả  muốn có vật gì làm quà gọi là để cám ơn. Cho đến bây giờ chú em tôi vẫn thường cầu nguyện xin ơn trên phù hộ cho người đã làm ơn cho mình.
                       
                      Nghe xong câu chuyện của ông Dần, một người nhà quê chất phác, cả quãng đời thiếu niên không được học hành, chịu thiếu thốn, đói khát lao khổ, vẫn giữ được giá trị con người, giữ được lòng hiếu thảo biết vâng lời cha mẹ, khi cùng quẫn đã nghĩ đến nói dối, lường gạt nhưng thấy mẹ buồn và câu nói của mẹ “phải ăn ngay ở lành”, “đói cho sạch rách cho thơm” của bố đã làm cho ông tin tưởng bỏ được tà tâm. Đến như chú Hiển trong câu truyện đúng là người “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” tuy không trả ơn bằng vật chất được, trả ơn bằng ý cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho người đã cứu mình khỏi chết đói. Và người thanh niên khi nhận Hiền vào trại không nghĩ có ngày Hiền tìm đến cám ơn.
                       
                      Khi làm việc thiện là tận dụng làm cho trọn, không đòi hỏi mục đích gì, thành hay bại, mang lại danh tiếng hay không, miễn sao giúp được người yếu, kẻ thiếu thốn.
                      #11
                        frank 08.10.2022 00:06:13 (permalink)
                         
                         
                        12-   Một Mẩu Ký Ức
                         
                         
                         
                        Cuối thu vào đông gió Bắc thổi xuống miền đồng  bằng bắt đầu rét lạnh lại thêm giời mưa lất phất cộng lại càng lạnh hơn. Cũng là lúc mùa màng gặt hái đã hết, lúa, rơm, rạ được phơi khô, lúa vào cốt, rơm rạ lên đống gọn ghẽ. Trong những ngày mùa rất nhiều việc, những cụ già cũng phải giúp đỡ con cháu các việc nhẹ, không ai bình tâm đứng nhìn con cháu quá vất vả mà không ra tay giúp việc.
                         
                        Bây giờ không còn việc nhẹ cần đến các cụ nên có nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi chơi sắm sửa hay đi thăm họ hàng, bạn bè, để tỏ tình liên ái dù xa xôi cũng tới nhà bạn ở có khi đôi ba ngày mới về.
                         
                        Làng Liên Quy, Hiếu Nghĩa, thuộc miền Nga Sơn là đất bồi bãi biển, người ta phá lác trồng cói ở ngoài còn nước mặn độ vài ba năm, trời mưa xuống đã rửa hết nước mặn, người ta lại đưa gốc cói ra trồng bên ngoài là những đất phù sa do lượng nước sông Hồng Hà và sông Đáy bồi lên. Những ruộng cói cũ đã thành ruộng lúa, người ở các vùng đông dân kéo nhau đến ở lập nghiệp, đất tốt, chim trời cá nước rất nhiều vì gần bờ bể.
                         
                        Người ta sống rất thanh bình, tình lưu luyến hiếu khách rất cao. Nhớ đến người bạn già ở Liên Quy, cụ Huân chiều hôm trước đã ngỏ ý cho bà cụ biết sáng sớm mai cụ sẽ đi thăm bạn cụ  An Hòa, và ở lại chơi mấy ngày. Sáng  hôm sau cụ dậy sớm đưa xe đạp ra sân nắn lại hai bánh xe xem có rắn chắc, tay lái, đĩa răng cưa có đầy đủ dầu mỡ. Chiều hôm qua cậu con trai khi nghe bố nói đi chơi đã tự động xem lại xe cẩn thận.
                         
                         Phương tiện giao thông ở nhà quê đi xe đạp rất phổ thông, khi không cần mang  đồ nhiều quá, một vài bộ quần áo, ít quà để biếu bạn, xếp trên porte-bagage rất tiện. Vả lại con đường từ nhà cụ Huân tới Liên Quy nơi cư ngụ nhà cụ An Hòa xa chừng 20 cây số. Nhà cụ Huân ở thuộc Bắc Kỳ, nhà cụ An Hòa thuộc Trung Kỳ. Thời Pháp thuộc chia ranh giới hai miền là con sông Điển Hộ, một cây cầu bắc qua cho dân hai miền giao thông.
                         
                        Từ khi quân phiệt Nhật tràn vào Đông Dương không bảo nhau nhưng cùng một ý hướng giống thực dân Pháp, đã lũng đoạn hết cách làm cho dân Việt Nam một cổ hai tròng khốn khổ về kinh tế, cấm cách giao thông tắc nghẽn, có ý cho dân đói khổ không còn ý chí quật khởi chống lại bọn chúng, nên chúng đặt ra những luật lệ rất vô lý.
                         
                        Bọn Pháp chia nước mình ra ba kỳ như ba nước cho dễ cai trị, mỗi kỳ có luật riêng không giống nhau. Những nhà buôn vải từ Sàigòn về Hà Nội bán cũng bị cấm mỗi khi xe lửa dừng ở ga nào thuộc địa phận nào bọn cẩm phú lít ào lên khám xét toa chở hành lý hàng hóa dù nhà buôn xuất trình biên lai của nhà hàng ở Sàigòn… Đây thuộc đất Trung Kỳ không được phép đưa vải, len, sợi v.v.. qua đây. Bị tịch thu quan Tây bắt không chỗ kêu ca đành mất.
                         
                        Những nhà buôn Việt Nam mình khôn lanh hơn, họ chạy khắp các toa xe tìm một ông Nhật nào, chẳng biết chức vụ lớn nhỏ, nhờ ông can thiệp lấy lại hàng ngay tức khắc. Không biết tiếng Nhật nhưng với cử động bằng tay ra dấu kéo ông tới toa hàng, thế là hiểu ngay, đế tránh xẩy ra lôi thôi nhà buôn tìm cách giao thiệp để hàng hóa vào toa có người Nhật, không một ông Tây nào dám đột nhập khám xét.
                         
                        Trước thập niên 40, xứ Bắc Kỳ nền nông nghiệp tuy thô sơ vẫn không thiếu gạo mà còn thừa để xuất cảng qua cửa bể Hải Phòng, bằng chứng các phủ huyện thuộc miền duyên hải chỗ nào cũng có cửa hàng cân gạo của khách trú người Trung Hoa mua gạo để xuất cảng  do những người nhà quê xay lúa giã gạo bằng tay đem tới bán. Vì chính sách tàn độc của bọn Pháp Nhật bắt phá lúa trồng đay tích trữ lương thực để cho dân thiếu gạo, các nhà buôn quay về tỉnh Thanh Hóa nhờ được chương trình nông giang cách đây ít năm đắp đập Bái Thượng  khơi sông ngòi dẩn thủy nhập điền, mới có câu được mùa “Nông cống thì sống mọi nơi”.
                         
                        Bị cấm phải tìm kẽ hở các nhà buôn gạo chở gạo tới hải phận gần Điền Hộ  chờ đêm tối mới vượt biển vào Tân Hải thế là thoát, đã vào tới đất Bắc kỳ tự do chở đi các nơi tùy ý. Có khi thuyền đang lênh đênh ngoài biển gặp bọn tuần duyên thuyền chỉ việc quay đầu trở lại đất Trung kỳ cách mấy chục thước cũng thoát nạn tịch thu.
                         
                        Trong mấy ngày ở nhà các cụ trò chuyện ăn uống muốn đổi không khí các cụ đưa nhau ra bãi biển, nghe nói có vài thuyền buôn đậu ở ngoài biển cách bờ không xa. Vì tò mò hai cụ tìm chiếc thuyền nhỏ thẳng đường chèo tới thuyền buôn mà các cụ đã trông thấy khi đi trên bờ. Tới nơi các cụ biết là bất đồng ngôn ngữ. Cũng chẳng sao, người ta đã đưa giấy để bút đàm và cho biết họ là người Trung Hoa mà người ta thường gọi là Tầu ô, cả hai cụ đều là người hiểu Hán học, rồi họ đưa các cụ đi xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ sứ như bát đĩa v.v… các thứ như thuốc bắc, đồ tơ lụa của Trung Hoa. Mục đích đi chơi, các cụ chỉ xem cho biết chớ không mua gì. Sau khi họ đãi một chầu nước trà các cụ cảm hơn rủ nhau ra về.
                         
                        Vừa bước chân lên bờ, hai cụ đã được du kích trong làng rước với nghi vệ giao găm, lựu đạn nội  hóa đeo chung quanh lưng, trên vai, tòng teng kiếm hay gươm cùn, họ đưa các cụ về trụ sở ủy ban kháng chiến đặt ở đầu làng. Thật ngỡ ngàng, các cụ đưa ra lý do đi chơi, cụ An Hòa xin ủy ban xét tình người làng đưa bạn đi chơi.
                         
                        Chủ tịch ủy ban phán rằng có ống viển kính đã trông thấy các cụ lên thuyền thông đồng với người ngoại quốc tức làm gián điệp, là Việt gian. Vào cuối năm 1946 chiến tranh bộc phát, quân Pháp định đổ bộ nhiều nơi đã tung gián điệp khắp chỗ, nên ta phải đề cao cảnh giác. Cụ An Hòa còn có thể châm chước, nhưng cụ Huân là người lạ, là người xứ Bắc kỳ theo đạo Công giáo rất đáng nghi ngờ. Đã buộc là gián điệp chẳng cần xét xử, không phải điều tra, cứ việc  đưa thẳng lên lao Thành Tín giam vào trại Lý Bá Sơ cũng như trại Đầm Đùn, không cần tả lại ai ai cũng có thể hình dung ra được những cực hình dã man đối với tù nhân.
                         
                        Người nhà cụ An Hòa đưa tin cho gia đình cụ Huân biết cả hai cụ bị bắt, cũng không biết người ta đưa các cụ đi đâu, hỏi thăm ở đâu cũng chối không biết. Cụ bà Huân ốm yếu mấy người con còn nhỏ chưa quen đi xa ít biết giao thiệp ứng đối, khi được tin mấy người cháu lớn tuổi của cụ Huân tự động đến họp với đại gia đình tìm cách cứu cụ Huân. Việc đầu tiên là hãy dò la cho biết chỗ giam cụ Huân ở đâu mới có cớ đích xác để tìm cơ quan can thiệp; với Cộng sản lại đang thời kỳ chống Pháp làm gì có luật sư có tòa án mà kêu ca.
                         
                        Rồi họ phản công. Đang lúc chiến tranh chỗ nào cũng có canh gác, có du kích hơi khả nghi người ta bắt giữ lại để xét hỏi, đàn bà đi lại còn dễ hơn, nên người cháu dâu được đề nghị giả làm người buôn bán, chị đi mua được vài chục bánh thuốc lào để bán lẻ vì hầu hết đàn ông nhà quê thích hút thuốc lào, từ thị xã Thanh Hóa chị lân la hết nơi này đến nơi kia hỏi thăm, chị đã tìm ra nhà lao Thành Tín trại Lý Bá Sơ là nơi giam cụ Huân.
                         
                         Sau một hồi bàn đi tính lại không dùng tiền, không dùng lý được, cụ bà Huân và các con tìm về  Phát Diệm, nơi ở của Cố vấn Giám mục Lê Hữu Từ kể hết tự sự, một lợi điểm cụ Huân đang giữ chức chánh trương hàng xứ là người Công giáo tốt. Giám mục Lê Hữu Từ sau mấy câu yên ủi gia đình cụ Huân, bảo người thơ ký thảo công văn bảo đảm xin tha cho cụ Huân, sau khi ký tên cố vấn Lê Hữu Từ đã cho người cầm tay đưa tới ông Đặng Thái Mai, chủ tịch hành kháng tỉnh Thanh Hóa.
                         
                        Sau ít lâu chờ đợi không kết quả, cố vấn Lê Hữu Từ phải gửi thư tới Hồ chủ tịch nhờ can thiệp, tạm thời bỏ chính sách giết nhầm hơn tha nhầm. Bấy giờ Đặng Thái Mai mới báo cho Đức cha cố vấn biết ngày cụ được tha. Được tin bà cụ Huân lại họp gia đình cắt cử ai là người có thể đi đón cụ Huân từ nhà lao vì đường xa không có đường xe hơi, chỉ có cách đi xe đạp đón cụ về.
                         
                        Một người cháu trai xung phong xin đi với chiếc xe đạp, anh đã đạp hơn một trăm cây số đường trường khúc khuỷu, ổ gà. Nhiều chỗ đắp mộ ngăn quân giặc phải đi bộ dắt xe. Lúc về anh nhường xe để cụ Huân đi xe đạp, anh chạy bộ theo sau và đun xe cho cụ đi đỡ mệt. Quá mừng mong cho chóng tới nhà, nhiều lúc cụ cố đạp nhanh, quên người cháu chạy theo sau dù mệt cũng cố chạy theo cho kịp.
                         
                        Về tới nhà sau mấy lời thăm hỏi vợ con, cụ Huân chỉ vào người cháu trai và người cháu dâu, cụ nói vì tình gia tộc các cháu đã chẳng ngại nguy hiểm khó nhọc, bỏ công ăn việc làm giúp đưa cụ về tới nhà, nói với các con phải biết ơn hai người cháu.
                         
                        Thực là một gương sáng thể hiện tình gia tộc thắm thiết của thời quốc gia.
                         
                        #12
                          frank 11.10.2022 02:02:48 (permalink)



                          13-   Một Truyện Xưa: Tình Gia Tộc

                           
                           
                           
                          Một buổi sáng về mùa đông trong không khí êm đềm, im lặng, mấy người lớn, cha mẹ các anh các chị tôi đã có người thức nhưng vì thời tiết khá lạnh, chưa ai muốn tung mền ra khỏi giường trừ chị giúp việc phải dậy sớm nấu nước dưới bếp.
                           
                          Bất thần một âm thanh vang vọng như thúc giục mọi người phải dậy. Tất cả nhà ai cũng giật mình đều tung mền ra khỏi giường, vội khoác áo dầy mở tung cửa để xem việc gì quan trọng đã xẩy ra. Tôi cũng vội vã mặc thêm áo ấm theo chân các chị tôi ra khỏi nhà.
                           
                          Một đám người vừa đàn ông, đàn bà cả trẻ nít từ phía nghĩa địa trở về khu xóm vừa đi vừa kêu la chửi rủa… đứa nào đã đào trộm mất mả tổ của chi họ… Nhưng lời bâng quơ bóng gió ám chỉ bác Hai đứng đầu một chi họ.
                           
                          Bác Hai là người giầu có nhất làng, hiền lành hào hiệp hay giúp đỡ người nghèo túng nhưng tính cương trực dễ làm mất lòng những kẻ thích xu nịnh. Bác đã là nạn nhân của mấy người chức dịch trong làng ở thôn quê nôm na gọi là bọn cường hào ác bá. Bọn họ chú ý đến nhà bác Hai. Cứ đến xin một hai con gà, mai đến mượn tạm ít tiền, mốt tới vay ít lúa hẹn sẽ trả sau. Thấy dễ ăn chúng làm tới nhiều lần nhưng nếu ai không chịu được lối làm tiền trắng trợn, vô lý đó và tìm cách từ chối chúng sẽ tìm cách trả thù.
                           
                          Rồi một hôm tối trời chúng đào một lỗ huyệt để sẵn mấy tấm ván thôi, là thứ gỗ quan tài cũ lấy từ một bờ bụi trước kia có người vứt đi khi cải táng các ngôi mộ. Lúc đó mấy người đàn ông thuộc chi họ mất mả tổ kéo nhau tới hội đồng xã đưa cau rượu mời hương chức tới nghĩa địa xin chứng kiến để họ đi kiện. Bọn đàn bà và trẻ con đi rêu rao chửi bới cả chi họ bác Hai từ đầu làng cuối xóm bằng lời tục tĩu bóng gió. Hết mọi người đều nghe biết, làm cho những người họ hàng đều hiểu câu  chuyện thuộc gia tộc mình, họ tự động kéo nhau tới nhà bác Hai, từ người người ruột thịt đến những  người có họ xa tới hàng cháu chú cháu bác cháu cô cháu cậu những người mang cùng tên họ, thậm chí những bà cô đi lấy chồng các làng bên cạnh được tin cũng đưa theo các con mình tới nhà trưởng tộc để hỗ trợ.
                           
                           Mẹ tôi khi nghe biết sự việc trong họ đã đốc thúc tất cả mọi người bỏ việc nhà kéo tới nhà bác Hai. Trong nhà bác đầy người, kẻ đứng người ngồi ra tới ngoài hiên, để nghe các ông bà trưởng thượng bàn nhau xong, tức khắc phản công: một nhóm trai trẻ đi theo vài ông tới nghĩa trang trước, nhóm đàn bà con gái theo sau. Bác Hai gái dẫn đầu làm áp lực đối phương, cũng vừa đi vừa la hét chửi không đích danh những người bất lương vu oan giá họa cho giòng họ này.
                           
                          Khi hai bên đều kéo tới nghĩa trang theo hương lý chứng kiến để làm  biên bản, bên nguyên, một người đại diện đứng ra trình bày là ngôi mộ tổ bị mất trộm hài cốt, sẽ làm cho cả họ ăn không ngon ngủ không yên, cả họ mắc tội với tổ tiên, làm thiệt hại cho trong họ, nhiều người phải bỏ công ăn việc làm đi tìm hài cốt.
                           
                          Khi được hỏi bên nguyên có nghi cho ai là thủ phạm, một người  bên đó đứng ra trả lời: có hồ nghi cho ông Trần Văn Hai là thủ phạm vì ông này có tính đố kỵ, thấy họ chúng tôi có nhiều người khá giả có uy tín ở làng nên ông ta đào trộm mộ tổ của chúng tôi để trong họ chúng tôi sẽ làm ăn lụn bại không ngóc đầu lên được.
                           
                          Bên ông Hai một người đàn bà đại diện rẽ đám đông đi ra, bà ta xắn tay áo chỉ mặt đối phương hỏi:
                           
                          -Anh nhận chỗ này là ngôi mộ tổ của anh bị đào vậy anh có dấu vết gì làm bằng, chỗ này trước kia không là ngôi mộ, bằng cớ những cây lúa đã nhổ lên còn vất tung tóe chung quanh. Đây chỉ là một đám ruộng được đào lên rồi chôn xuống mấy mảnh ván thôi. Nếu muốn đào mộ lấy cổ quan tài dài rộng như ta thường thấy, thì ít nhất phải đào đất dài rộng hơn cỗ quan tài mới moi được quan tài lên khỏi mặt đất. Chỗ ruộng này phải sày xéo rộng gấp 5, 7 lần chỗ này mới đúng, mà dấu vết đào nào có lớn gì, chỉ đủ chôn con chó chết. Thế mà anh dám nhận đấy là mộ tổ nhà anh sao? Còn bảo rằng chúng tôi  đào trộm mộ tổ nhà anh lấy hài cốt về để bón vườn chăng?
                           
                          Với những lời cay độc làm cho đối phương nổi sùng, hai bên như đã dàn thành thế trận, bọn hương lý đã phải huy động tuần tráng giữ trật tự. Tiếp sau là  bao nhiêu cái miệng các bà các cô đôi bên chửi nhau bằng tất cả những danh từ thật xấu xa.
                           
                          Bên nguyên nhiều người trong họ nhận thấy sự bất chính dã man vu oan  cho người khác, họ bỏ về, rất ít người theo. Nhận thấy bên bị cả gia tộc cố kết  hỗ trợ nhau, quá ức nhiều người định xông tới đối phương dùng võ lực muốn ăn thua đủ, bên nguyên cảm thấy thế yếu không chống nổi đành hạ màn rút lui. Thấy đối phương đã rút nên cả đại gia tộc cho là đã làm xong nhiệm vụ bênh vực cho người trong họ cũng tự động giải tán. Còn lại mấy ông bà có địa vị trong gia tộc ở lại nhà bác Hai bàn về hậu quả sau khi hương chức đã đưa nội vụ lên phủ.
                           
                          Mục đích mất mộ tổ chỉ là dụng ý của bọn tiểu nhân muốn kiếm món tiền nếu khổ chủ chịu điều đình, thấy không sơ múi gì cả hai bên yêu cầu hương lý để biên bản về phủ dường. Theo luật, tội đào trộm mộ của người khác là một trọng tội. Vụ án mơ hồ không đủ chứng cớ buộc tội, lục sự sơ thẩm phải đệ hồ sơ  về tỉnh, thấy vụ án cứ kéo dài mất thời giờ tổn phí đi lại lên tỉnh xuống phủ mỗi lần cứ bị bọn nha lại làm khó dễ nếu không chi tiền cho chúng, phần nhiều quan lại tham nhũng chỉ trông vào người có khả năng chi tiền bác Hai đành phải bỏ ra món tiền để vụ án chóng kết liễu dù bản án không đủ chứng cớ buộc tội.
                           
                          Với tình gia tộc mọi người đều cho là có bổn phận giúp nhau khi hữu sự, không ai có hậu ý được hưởng lợi lộc gì. Trong họ hàng người nghèo khi cần đến vay người giàu vẫn trả lời, thuê ruộng vẫn nộp tô, mua lại đồ dùng, súc vật vẫn trả tiền, thuận ý cả đôi bên tình lý phân biệt. Nhưng khi cần hỗ trợ nhau, họ sẵn lòng bỏ công việc nhà, đồng áng, đến giúp nhau, không kể sự thiệt thòi về vật chất.
                           
                          Người mình xem trọng tình gia đình, nghĩa gia tộc. Đó là một sợi dây thiêng liêng nối kết từng đại gia đình với nhau. Đây không phải là một điểm son trong văn hóa Việt hay sao?
                          #13
                            frank 11.10.2022 22:40:27 (permalink)



                            14-   Bất Mãn

                             
                             
                             
                            Mùa thu gió nhè nhẹ thổi làm cho những đám lá vàng rụng rơi từng hàng cây hai bên đường bay theo chiều gió đưa đám lá tản mạn khắp hè phố. Tính đi làm về đậu xe trước cửa, vừa ra khỏi xe đã bị lá bay vào mặt, vào cổ, như gây thêm sự bực bội trong lòng từ lúc gặp Côn, người bạn đồng hương, đồng học khi xưa.
                             
                            Nhà Côn và nhà Tính cùng ở một con đường, mỗi buổi sáng, Côn, Tính cùng rủ nhau đi học, đồng tuổi, cùng trường, rất thân nhau, chia nhau từng chiếc kẹo, học bài chung với nhau. Ngày nghỉ hai đứa thường rủ nhau đi bắt  chim, đi câu, đi đá bóng, học hết tiểu học, lên trung học, càng lớn cá tính con người mỗi ngày một rõ: nhà Tính khá giả ít anh em, được cha mẹ chiều chuộng, được ăn ngon mặc đẹp theo ý muốn, vì vậy học hành không cố gắng, mỗi khi đi học có bộ đồ mới,  chàng có vẻ tự kiêu với các bạn đồng học, lười học không làm được bài lại nhờ bạn, mượn bạn để chép, rồi cũng cố gắng học xong cho hết trung học, vì thấy các bạn mình đã bỏ xa, lên đại học từ lâu gần hết.
                             
                            Cảm thấy mình học kém, ham chơi, không muốn học, vả lại cha mẹ Tính một ngày một già, lợi tức kém, trong nhà sa sút. Tính phải xin đi làm để giúp đỡ cha me. Không có nghề chuyên môn, chàng không tìm được việc làm có đồng lương cao, sinh ra bất mãn, hằn học những sự không đâu, bạn cùng sở làm khá được tăng lương, cũng làm cho Tính bực tức, kèn cựa, gặp dịp là nói móc, hay chê bai người khác.
                             
                            Ngược lại đi nịnh hót cấp trên, tìm dịp nói xấu người khác, gieo vào đầu người nghe làm cho người ta phân tâm, nghi ngờ, cốt ý hại người, vì người ta hơn mình. Với cái dã tâm ghen tị, Tính đi làm ở đâu cũng không được lâu vì những đồng nghiệp bị chạm tới nhân phẩm, quyền lợi, họ liên kết loại phần tử xấu tính. Tính cũng tham gia các hội đoàn lấy vui, nay hội mai họp bạn bè kéo nhau đi ăn uống. Chàng biết chàng không đủ tài làm được việc gì để người chú ý, nhưng không thể ngồi yên được, sáng kiến hay thì không có, sáng kiến đi dèm pha đặt điều nói xấu thì dễ quá.
                             
                             Mỗi khi có ai làm được việc gì lại là dịp cho chàng phát huy “ghen tị” bằng đủ mọi cách, kéo bè kéo cánh để hạ đối thủ, rỉ tai, nói xấu, với chủ trương không được ăn được tiếng thì đạp đổ, mới hả tấm lòng ti tiện. Tự cao tự đại, tự mãn quá ư tự tin, chả làm được tích sự gì, nhưng gia nhập hội đoàn nào cũng chỉ chăm chú đòi hỏi “đi đầu, đứng trước”, bởi vậy không ai muốn để Tính vào danh sách của hội mình.
                             
                            Côn từ ngày lên trung học cũng nhận thấy Tính hay khoe khoang, phách lối, chàng không lấy thế làm phiền, tính hồn nhiên hay giúp đỡ, nếu thấy các bạn nào chưa hiểu bài học hay chưa tìm được đáp số cho bài toán, chàng sẵn lòng cắt nghĩa chỉ dùm. Chàng thanh thản tiến theo trong đường học vấn, đi vào chuyên nghiệp, và ra trường với bằng kỹ sư, được các công ty danh tiếng mời làm với lương bổng nhiều, xứng đáng lúc thức khuya dậy sớm đi học.
                             
                            Có tiền tài danh vọng nhưng Côn không bao giờ biểu lộ ra ngoài với bất cứ ai, khoe khoang, hợm mình, lúc nào cũng vui vẻ hòa nhã; nếu ai cần giúp đỡ chàng mau mắn không từ chối ai, không tự mãn có thì giờ lại tìm tòi học hỏi thêm trau dồi kiến thức. Người bạn đường là người đã cùng học với nhau từ trung học, họ hiểu nhau gây dựng một gia đình hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, họ tham gia, giúp đỡ những công tác xã hội, không nề hà bất cứ một việc nào có thể làm được.
                             
                            Quả đất tròn, giờ đây Côn, Tính không hẹn lại gặp nhau cùng ở một thành phố, ở các nơi hội họp công cộng. Côn rất vui vẻ khi gặp lại bạn cũ, mời Tính về nhà chơi cho biết nhà và giới thiệu với vợ con cho thêm thân mật.
                             
                            Từ ngày gặp lại Côn, Tính đã biết rõ địa vị nghề nghiệp gia cảnh của Côn hơn mình về mọi phương diện càng làm cho Tính xốn con mắt mỗi khi gặp Côn không còn nghĩ đến tình bạn, lòng ghen tị quái ác dâng lên. Tính tìm hết cách nói xấu phá Côn nhưng ngoài mặt lại ra vẻ thân tình, tâng bốc quá đáng khen ngợi vô lý làm cho Côn phải cảnh giác về những lời khen không chính đáng.
                             
                            Có nhiều người được khen thấy lòng tự ái được ve vuốt bắt đầu thấy ngượng rằng mình chưa làm được điều người ta nói, hay không thể làm được, nhưng nghe đi nghe lại mãi lời tâng bốc nhiều lần “tự kỷ ám thị” cho là mình đáng được tôn quý. Người nghe lời sàm nịnh là người thiếu tinh thần tự chủ, giống như người cộng sản họ có cả một chương trính láo khoét, họ kiên nhẫn cứ ra rả nói đi nói lại ngày này sang ngày khác, lâu dần dân chúng tin theo cho đến lúc họ chụp được lưới lên đầu dân chúng.
                             
                            Bậc chính nhân khi nghe lời khen không lấy làm hồ hởi mà còn xét xem mình có đáng nhận lời người ta khen hay không, chẳng tụ ti mà cũng chẳng tự đắc. Ở đời chỉ những người không biết phục thiện tự làm khổ mình mới đáng cho người chê trách. Hãy sống an vui tự tại bằng lòng với những gì mình có thể làm được, chẳng nên bất mãn cuộc đời.
                            #14
                              frank 12.10.2022 23:08:59 (permalink)



                              15-   Lỗi Tại Ai? Đổ Lỗi Cho Ai?

                               
                               
                               
                              Khi rời bỏ quê cha đất tổ, ngay khi vào Nam cũng như nay sống lưu vong trên đất khách quê người, phần mộ tổ tiên không thể mang theo được, nhưng  lề thói phong tục tốt cũng như xấu đã mang theo và đã ăn sâu vào đầu óc mà phần lời người Việt đều mắc phải cái bảo thủ cổ hủ của một số nhà Nho “nửa mùa” rồi gieo rắc vào đầu dân chúng, chỉ sợ người khác hơn mình, cái gì ở nơi mình cũng nhất, cũng hơn thiên hạ.
                               
                              Ở nhà thường đem thuyết “ngày xưa các cụ”, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”, “phu xướng phụ tủy”. Cách xử thế “cá vú lấp miệng em” giữa con người với nhau cho đó là luân lý, đạo đức thánh hiền. Đã là đạo đức, luân lý thì phải dựa trên căn bản luân lý, sự thật công bình bác ái. “Phu xướng phụ tủy” cũng phải tùy theo loại phu, loại chuyên môn ăn hiếp, hơi một tí quát tháo, chửi bới, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh vợ chửi con, khi ra ngoài thì mắt la mày liếc, tán cô nọ theo bà kia, rồi về nhà phụ phải tủy hay sao?
                               
                              Mỉa mai thay hiện nay vẫn còn những người khư khư ôm thói tục này và cho đó là kho tàng đạo đức thánh hiền để lại. Đã là người, ở địa vị hay tuổi tác nào cũng có lúc lầm lỡ, “nhân vô thập toàn”. Ai cũng có cái hay cái dở, nên học hỏi, bổ túc cho nhau trong tình yêu thuơng, kính trọng lẫn nhau.
                               
                              Trước 75 cũng có nhiều đôi trong tình trạng gia đình nệ cổ, độc đoán bị “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cậu hay cô không bằng lòng, phản đối thì bị mắng chửi, quá nữa còn bị đòn, bất kể phạm đến nhân phẩm, tự do của các con. Đôi bên cha mẹ cứ việc mai mối định ngày vu quy, nghênh hôn bất kể nỗi lòng đau khổ của con với một câu của cha mẹ an ủi: “Bây giờ chưa yêu, rồi sau khi cưới sẽ yêu nhau, không sao đâu”.
                               
                              Một số gia đình thiếu căn bản giáo dục từ trước, tới đất tự do đầy cám dỗ chóa mắt với nhiều mới lạ, lao đầu vào chốn ăn chơi, say mê ánh đèn mầu như những con thiêu thân tự cho mình biết ăn chơi văn minh chẳng kém ai. Về đến nhà gặp chồng hay vợ mình thiếu lời ngọt ngào tâng bốc vuốt ve, chỉ cắm cúi đi làm,  thu vén nhà cửa săn sóc các con để dành tiền mua nhà hay để khi các con lớn lên ăn học sau này tốn kém.
                               
                              Ông chồng bà vợ chân chỉ đạo đức đã không chịu chiều theo thị hiếu của bọn suy đồi đã mắt căn tính, gia đình đối với bọn họ giờ đây là nơi tù đầy giam hãm họ, làm cho họ khổ, khi phải đối diện với vợ hay chồng cho rằng cổ hủ không còn chút khả ái nào như khi mới lấy nhau, là chướng ngại cản mũi họ bằng bổn phận bằng lời khuyên. Họ chán ngán gia đình chỉ tìm cách gây sự chống đối để lấy cớ xa gia đình “ma đưa lối quỷ dẫn đường”, bao giờ cũng vẫn sẵn những đồng chí như họ đang chờ đợi họ bên ngoài ngưỡng cửa gia đình.
                               
                               Những kẻ phản bội tận cùng lương tâm đôi khi cũng lóe sáng nhận biết tội lỗi, nhưng không đủ can đảm dứt khoát. Hồi đầu khi có thân quyến khuyến bảo, họ chỉ biết đưa ra luận cứ lỏng lẻo bào chữa  tội bằng cách đổ cho cha mẹ trước  kia đã ép duyên, đánh chửi bắt họ phải lấy chồng lấy vợ, người mà họ không hề yêu, họ đã phải khổ trong mười mấy năm trời nay, sống với nhau chỉ như cái xác không hồn. Một lối ngụy biện nguy hiểm ấu trĩ cho những người nghe đồng bệnh tương lân.
                               
                              Thảm cảnh gia đình họ Vũ vừa mới xảy ra cách đây không lâu tại Houston, Texas, năm mạng người chết một cách tức tưởi, hỏi ai đã gây nên tội? Người cha quá tức tối người vợ và tình địch đã trút hận thù vào lũ con vô tội, bắn chết 4 đứa con rồi quay súng tự sát. Để tránh đau khổ nhục nhã cho gia đình, người chồng đã không đủ can đảm, nhẫn nhục chờ  thời gian hàn gắn lại. Thường tình người vợ và tình địch phải nhận hậu quả tội lỗi do họ gây nên mới đúng.

                              Làm vợ làm mẹ thời gian dài, quá đủ kinh nghiệm gìn giữ gia đình, còn đổ lỗi cho cha mẹ sao được. Không còn yêu chồng, yêu vợ cũng còn bổn phận đối với con cái, không còn chút tình thương nào đủ hy sinh cho con cái nữa sao? Đang tâm dứt tình mẫu tử, phụ tử để hệ lụy ảnh hưởng xấu suốt đời cho các con, Những kẻ phản bội là hạng người ích kỷ, chỉ biết tìm khoái cảm cho mình, khi chán người này lại tìm kẻ khác. Bọn người thiếu bổn phận làm cha mẹ không biết thương con, biết bao những trẻ con thiếu cha thiếu mẹ, mồ côi sống trong cảnh bi đát đã không lung lay nổi những con người trụy lạc.
                               
                              Xin những bậc làm cha làm mẹ hãy nghĩ đến đàn con thơ đang sống trong vòng tay cha mẹ nỡ lòng nào hất  đổ hy vọng các con mình đã sinh ra, đang tâm xô chúng xuống vực thẳm hay sao? Chỉ vì tính ích kỷ, tìm khoái cảm nhất thời đến nỗi tan vỡ hạnh phúc để khổ lụy đến đàn con. Ít khi có trường hợp bị lỡ làng duyên phận một cách chính đáng.
                               
                              Nhiều đôi đã lấy câu “duyên số” an ủi lẫn nhau, đôi bên thông cảm tạo dựng gia đình hướng về tương lai, dồn tình yêu bổn phận cho con cái và đặt nền tảng thăng tiến cho xã hội. Dù sống ở đâu cũng hội nhập, thu nhận lấy mỹ tục của người nhưng vẫn giữ trọn văn hóa gốc Việt.
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 35 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9