HƯƠNG ÁO-thơ LUÂN TÂM
MÌNH QUÊ HƯƠNG NHỚ
Mình quê nghèo chẳng dám ham
Thì giờ đâu có tay làm hàm nhai
Sao hôm tựa bóng sao mai
Trăng sầu đêm lạnh thở dài lưng đau
Ta quê hương áo nhớ trao
Trần ai gió thét sóng gào mặc mưa
Vườn trầu không bóng gió đưa
Vườn cau rụng trắng ao chưa sen tàn
Em quê hoa cải áo vàng
Tóc dài nón lá hiền ngoan tiên bồng
Áo dài trắng cắn gót hồng
Nằm mơ dệt mộng sang sông anh đào
Anh quê ngơ ngẩn khát khao
Cầu tiên tăm cá chiêm bao vai kề
Má đào mới tựa xuân về
Mình quê hương nhớ môi thề hụt hơi...
MD.02/11/18
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2024 06:32:17 bởi LuânTâm >
THUYỀN SẦU
Ra đi thêm nhớ quê nhà
Trăm măm nghi hoặc thương xa nhớ gần
Người buồn hoa héo khô xuân
Hoa buồn người héo hồng trần khô hương
Ngày xưa sống với ruộng vườn
Ngày nay lạc lõng phố phường nhỏ nhoi
Hiền nhân xưa cũng nổi trôi
Thi nhân xưa cũng rã rời hồn thơ
Trăng sầu tóc bạc xác xơ
Gian nhà quen thuộc còn ngờ chưa quen
Mặc ai chia rẽ sang hèn
Mặc ai quên nghĩa trắng đen thay lòng
Ta như sóng nước Cửu Long
Lang thang bốn biển mà lòng một phương
Đất lành thêm một quê hương
Nợ duyên mấy kiếp đoạn trường gian nan
Tuổi thơ sao lắm cơ hàn
Đội trời đạp đất thênh thang sông hồ
Lối nào hoa úa cỏ khô
Nhân gian mờ mịt nhấp nhô thuyền sầu
Chạy ăn chạy mặc bạc đầu
Đắng cay lủi thủi về đâu đêm dài
Sao chưa nguyện ước đã bay
Áo chưa kịp mặc đã phai hết màu
Tối đen đường trước ngõ sau
Bầy đom đóm nhỏ bay vào mộng du
Bốn phương khói lửa mịt mù
Bao nhiêu oan ức tội tù nát thây
Còn đâu chiều cũ sum vầy
Ly trà xanh chén rượu say nghĩa tình
Mười năm gối mộng thư sinh
Mười năm dâu bể thuyền tình dở dang
Ai về phố cũ hoang tàn
Ta tha hương cũng xốn xang nửa đời
Ao bèo ca nhỏ còn bơi
Ruộng hoang rau đắng cải trời nhớ ai
Nhà không vườn trống mưa bay
Nhện giăng rêu phủ dấu giày bể dâu
Mồ cha mả mẹ còn đâu
Nghìn thu cũng chẳng thể nào yên thân
Đã đành nhân thế phù vân
Mà sao gian ác chẳng cần đắn đo
Thì thôi câm điếc giả đò
Cũng như cát bụi nhỏ to làm gì
Một đời chỉ một chuyến đi
Trước sau rồi cũng xanh rì mốc meo
Lang thang nắng sớm mưa chiều
Đục trong hờn giận thương yêu còn gì
Rừng thiền núi mộng vô vi
Áo bay sương khói đường đi bụi mờ....
MD.01/11/02
LuânTâm r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2024 05:07:04 bởi Ct.Ly >
ANH GIÓ CÁT EM KHÓI MÂY
Anh gió cát em khói mây
Chân mây gió cuốn bóng cây chờ hoài
Mộng hồng trần thế mấy ai
Má hồng môi đỏ tóc dài vân du
Tay mơ mắt biếc sóng thu
Đường tình nho nhỏ đền bù cung tiên
Học trò yêu hoa kỳ duyên
Bướm hồng hoa trắng áo hiền dịu thơm
Tương tư sầu đông gối rơm
Ngày chờ đưa đón tối ôm phong trần
Ca dao gieo cầu tủi thân
Tình ca hát dạo phù vân đau lòng
Sông sâu sào vắn ngược dòng
Bóng chim tăm cá cua còng tréo ngoe
Bến mơ bến mộng biến tre
Chiêm bao ăn mật gấu khoe chân tình
Em tiên bồng anh quê mình
Phù sa nước mắt sử kinh tế bần
Sông dài trời rộng ân cần
Cầu hồn thơ mộng chung thân thích mình...
MD.09/23/22
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2024 07:45:30 bởi LuânTâm >
NGỌT NGÀO
Chờ nhau cuối nẻo luân hồi
Mênh mông hương tóc bồi hồi áo bay
Nghẹn ngào tay lại cầm tay
Qua bao bể khổ chông gay nhục nhằn
Còn không một chút băn khoăn
Ngày xưa chú Cuội chị Hằng yêu nhau
Ai trồng trầu ai trồng cau
Mà thôi chỉ kể cho nhau chuyện mình
Thuyền sầu thuyền mộng thuyền tình
Biết đâu còn có trăm nghìn dòng thơ
Chở em vào mộng vào mơ
Cũng còn chưa đủ nên chờ nghìn năm
Gối chăn còn dáng em nằm
Nghiêng qua nghiêng lại trăm năm ngọt ngào
Mưa nhiều nên chẳng có sao
Mắt em rực sáng lối vào hồn anh
Dìu nhau khắp chốn rừng xanh
Lá hoa vẫn đẹp mong manh áo màu
Dìu nhau lên đỉnh non cao
Sương rơi gió thoảng hôn nhau điên cuồng
Nổi trôi tận suối tận nguồn
Mò trăng đáy nước tìm hương ven đồi
Giả từ thế kỷ đơn côi
Cùng nhau thơ thẩn vùng trời riêng tư
Em như dòng nước hiền từ
Anh như rong biển tương tư si tình
Hẹn hò cuối nẻo phù sinh
Khói mây thay áo cho mình yêu ta
Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Em bao nhiêu tuổi ngọc ngà ngây thơ
Cho tình vẫn đẹp vẫn mơ
Cho anh chết đuối trên bờ môi em...
MD. 01/09/03
LuânTâm
(Trích trong "TUYỂN TẬP THƠ QUỐC GIA HÀNH CHÁNH", Cơ Sở Hoài Bão Quê Hương XB, CA/USA.2005, tr.145-146)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2024 07:48:34 bởi LuânTâm >
ĐAU LÒNG THIÊN THU
Chỉ là nỗi nhớ dịu êm
Mơ màng rau đắng bên thềm trông mưa
Chỉ là ngọn cỏ gió đùa
Mong manh lưới nhện đong đưa sợ buồn
Chỉ là chao mặn thêm tương
No lòng cơm nguội giữ hương ru tình
Chỉ là cầu ván rung rinh
Đầu trần chân đất lạnh mình nóng ta
Chỉ là một bóng sao sa
Hay là bóng nhạn thoáng qua cổng chùa
Chỉ là đình giữ hồn xưa
Nửa đường hết phép hết bùa hết duyên
Chỉ là tâm phật tình tiên
Tủi thân hạt bụi lãng quên cuối trời
Chỉ là thực bỗng hóa chơi
Cũng đành muốn lỗ sợ lời khó coi
Chỉ là xôi gấc thôi nôi
Ấm lòng châu chấu ngựa trời đi đêm
Chỉ là bớt bỗng hóa thêm
Buồn cười vui khóc lênh đênh lụy phiền
Chỉ là giả dại giả điên
Bỏ ân nuôi oán triền miên sao đành
Chỉ là xác sẻ hồn oanh
Xót xa bóng nắng dỗ dành bóng mây
Chỉ là cỏ chỉ cỏ may
Nhừ xương ớt lớn không cay thẹn thuồng
Chỉ là nhái bén ễnh ương
Cầu dừa ao cá tang thương vuông tròn
Chỉ là áo lụa Sài gòn
Đưa trăng đón gió bông gòn Bến tre
Chỉ là xuồng nhỏ tưởng ghe
Cám ơn bóng mát bờ tre đầu làng
Chỉ là khói quyện chân nhang
Mơ hồ đom đóm đưa đàng tha ma
Chỉ là hơi mẹ bóng cha
Về thăm con cháu không nhà nổi trôi
Chỉ là thương đất nhớ trời
Đen da nám mặt chị ngồi chợ trưa
Chỉ là muối để dành dưa
Buồn trôi giấc ngủ hẹn đưa mộng về
Chỉ là gốc rạ bờ đê
Cười xuôi khóc ngược lỗi thề biển sông
Chỉ là trước có sau không
Đói queo râu bướm đèo bồng nhụy hoa
Chỉ là tình sử tình ca
Nợ duyên nghi hoặc gần xa lẽ nào
Chỉ là núi lở biển đau
Khổ thân dế nhũi cào cào ăn đêm
Chỉ là một chút thân quen
Khói nhang xa vắng lòng thiền mồ côi
Chỉ là nghèo rớt mồng tơi
Ăn xin ăn mót hụt hơi cua còng
Chỉ là giọt nắng chiều đông
Đầy vơi biển nhớ đau lòng thiên thu…
MD. 07/09/07
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2024 07:54:36 bởi LuânTâm >
MẸ
Chân cứng đá mềm tủi hồn quê
Áo nâu nón lá mặt sầu che
Nắng khô bờ mía khô ao cá
Cỏ héo hoa tàn bặt tiếng ve
Mây che cát lấp hay mắt mù
Mẹ đi con cũng mất đường tu
Kinh hoàng chết khát không nguồn cội
Tàu chuối lá dừa lạnh gió thu
Luống cải hoa vàng bướm ngẩn ngơ
Mẹ con vun tưới nắng thẫn thờ
Cơn giông chợt đến mưa ma quái
Con được chui vào áo mẹ mơ
Câu chuyện thần tiên lại trở về
Thơm bầu sữa mẹ ngủ no nê
Hai tay ôm chắc lưng từ mẫu
Tóc mẹ giăng màn trời chở che
Mẹ có nghỉ ngơi, có ngủ không
Đêm hè leo lét ngọn đèn chong
Vá may bắt muỗi tay mòn mỏi
Áo lạnh vai gầy tủi gió đông
Khói lửa tràn lan giặc cướp về
Nửa đêm ba mẹ bị kéo lê
Ba may chạy thoát thương thân mẹ
Máu nhuộm kinh hoàng mấy bờ đê (1)
Cũng may trời phật ông bà thương
Mẹ đã vượt qua nẻo đoạn trường
Chân le chân vịt thân xuôi ngược
Lo cháo lo rau quên vết thương
Biển cạn non mòn sông vơi đầy
Trời mưa trời gió rụng cỏ may
Canh chua rau đắng lòng thơm ngọt
Ba vẫn thường khen mẹ lắm tài
Ngày xuân mới thấy áo mẹ lành
Dâng lễ tổ tiên trọn lòng thành
Tóc lại bạc thêm lưng còm cõi
Xin được an bình đủ cơm canh
Thương tay mẹ biến chứng đau gan
Lở lói đớn đau chẳng dám than
Giấu con vì sợ con đau xót
Không thể ôn thi mất bảng vàng (2)
Cũng may không thẹn với mẹ hiền
Con đậu tú tài mẹ bình yên
Tim con tan nát khi hay biết
Nước mắt đong đầy bàn tay tiên
Gió thoảng xa gần nhịp võng trưa
Tiếng gà buồn ngủ gọi trời mưa
Mẹ ru nắng ấm thơm hoa sứ
Con dệt mộng đầu chuyện đời xưa
Mơ được đào tiên dâng Mẹ ăn
Trắng da dài tóc sống nghìn năm
Mẹ cười hoa bưởi vui hoa nắng
Nhẹ gót trường sinh thoát nợ nần
Đất nước tang hoang ma quỷ về
Cá tôm tuyệt giống mất lũy tre
Mẹ đau ngày tháng con oan ức
Tù tội không chừa bóng trăng quê
Nước mắt mẹ thành biển thành sông
Trời cao đất rộng có như không
Hận sầu cháy tóc tim khô máu
Hồn vội tìm con chốn lửa hồng
Lê gót tàn trên nẻo đắng cay
Xác xơ mái rạ cửa không cài
Chuồng gà chuồng vịt không còn dấu
Rau muống rau dừa nhớ bóng ai
Khói lạnh nhang tàn tủi trời mưa
Không một tiếng chim không bóng dừa
Vườn trầu khô chết hoa mắc cỡ
Khóm trúc gục đầu mặc gió đưa
Lối cũ lạ lùng ngõ nhện giăng
Áo sầu chân đất lạnh bóng trăng
Bên thềm rêu chết khô dế khóc
Còn sợi tóc nào vương gốc măng
Trời đất sao không tan biến đi
Để sầu để hận mãi làm chi
Tình người đâu mất người hóa thú
Hay thú hóa người ngăn lối đi
Ngày đêm mòn mỏi mong chiêm bao
Gặp mẹ thân yêu như ngày nào
Đón con trước cổng trường sơ học
Tay sẵn thẻ đường thơm mía lau
Lâu quá rồi sao mẹ không về
Con như cháo khét như cơm khê
Như sầu riêng rụng non ung thối
Chim chóc côn trùng đều chán chê
Một hôm đất khách bão tuyết tràn
Nửa mê nửa tỉnh nửa kinh hoàng
Vội vàng mẹ đến cho hơi ấm
Thơm ngát mộng lành hương bình an
Chưa kịp dâng trà chưa hầu cơm
Vô tình tuyết xóa hết dấu chơn
Mẹ theo nhang khói theo sương gió
Một giọt nắng vàng rơi trước sân...
MD 10/10/05 LuânTâm Xin Chân Thành Kính Dâng Từ Hiền Mẫu
(1) Khoảng 1946, lúc tôi mới độ 3 tuổi, một đêm cướp bắt ba mẹ tôi tra khảo tiền một cách dã man. Ba tôi chạy thoát, chúng đâm mẹ tôi nhiều vết thương, tưởng chết, chúng bỏ đi.
(2) Lúc tôi trọ học ở Mỹ Tho, bận ôn bài thi Tú Tài thì ở quê nhà mẹ tôi bị đau gan nặng biến chứng: tay chân lở lói, đau nhức vô cùng, gia đình định nhắn tôi về, mẹ tôi không cho vì sợ tôi đau khổ lo lắng, hỏng thi. Đến lúc thi đậu xong, trở về quê mới hay mẹ đau nặng, tôi vô cùng kinh hoàng, đau xót. Cũng may không phụ lòng hy sinh, thương yêu của Mẹ hiền !
(Trích trong TT"HƯƠNG ÁO", MinhThư xuất bản , MD,USA.2007, tr.41-46) R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2024 17:03:54 bởi Ct.Ly >
LÒNG CHA
còn dấu chân trần giữ hồn quê
nắng thương ôm bóng gọi con về
theo Ba bắt ốc mò cua ruộng
tắm nước ao bèo đâu dám chê...
***
Không như Mẹ quá ngọt ngào
Ba yêu con đến trời cao động lòng
Dìu con lội khắp ruộng đồng
Mò cua bắt ốc tắm sông cày bừa
Vỡ lòng thương dạy tối trưa
“Con Gà Con Chó” đời xưa cũng người
Giáo Khoa Thư Quốc Văn cười
Gửi thơm hồn trẻ rạng ngời mắt Ba
Minh Tâm Cổ Học Tinh Hoa
Luận bàn nhân nghĩa thiết tha kiệm cần
Lên tỉnh học sợ tủi thân
Vỗ về an ủi cuối tuần thần tiên
Đón con về vui Mẹ hiền
Hoa mừng chim hót Ba quên dãi dầu
Phố xa người lạ con đau
Mắt vàng như nghệ trước sau hãi hùng
Ruột gan đau đớn vẫy vùng
Hồn non vía dại điên khùng xốn xang
Ruộng vườn bỏ mặc cỏ hoang
Cõng con chạy chửa thuốc thang tây tàu
Mơ màng còn tưởng chiêm bao
Gọi con âu yếm nghẹn ngào khóc than
Tay sương gió mắt thiên đàng
Lòng quê hồn đất vái van dỗ dành
Sớm cá cháo chiều gan canh
Thuốc viên thuốc nước trưa xanh tối vàng
Nuôi con gà trống dịu dàng
Ba như bắp nướng lửa than quê nghèo
Bến Tre bụi cỏ đi theo
Khói xe rác chợ bọt bèo bơ vơ
Con vừa lành bệnh nhởn nhơ
Vội về cuốc đất be bờ bồi mương
Trọn đời dãi nắng dầm sương
Đắng cay cam chịu đoạn trường cháo rau
Như hoa me đất vàng sao
Thương Ba con cố học mau thành tài
Ngờ đâu địch hoạ thiên tai
Cùng đường nước mất nhà bay kinh hoàng
Gạt tù cải tạo xương tan
Mẹ đau thoát xác băng ngàn tìm con
Da mồi tóc bạc héo hon
Kéo lê uất hận mỏi mòn đợi mong
Con về chưa kịp ấm lòng
Dầu khô bấc lụn Ba không cần gì
Âm thầm thanh thản ra đi
Bờ dừa bụi chuối luống mì héo khô
Chó thương chủ chết giữ mồ
Hàng mai chiếu thủy khăn sô trắng bờ
Bông giấy tím rụng xác xơ
Mây buồn xỏa bóng thẩn thờ xe tang
SàiGòn khóc MỹTho than
Con đò Rạch Miễu bàng hoàng tiễn Ba
Đường làng đau xót Tường Đa (1)
Ba về với Mẹ quê nhà vẫn hơn
Cho chim hạt lúa cọng rơm
Cho người ơn đất hạt cơm nghĩa tình
Cho con trọn Đạo Đức Kinh
Mẹ Ba Tiên Phật hiển linh dẫn đường
Cháu con ngày nhớ đêm thương
Sau hè rau đắng cuối vườn rau sam
Hiếu tâm thơm mãi khói nhang
Sao lòng con vẫn nát tan từng giờ…
MD 06/08/07
LuânTâm
Xin Chân Thành Kính Dâng Từ Hiền Phụ
(1) “Tường Đa”: Tức xã Tường Đa, Quận Hàm Long (Sóc Sãi),tỉnh BếnTre ,là quê Nội tôi, nơi Cha Mẹ tôi sinh sống và an nghỉ nghìn thu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2024 03:04:28 bởi LuânTâm >
LÒNG CHỊ
Bão tuyết ngăn đường che bóng quê
Sóng gào gió hú nắng ngủ mê
Trôi trong cát bụi thiên thu lạnh
Không biết ra đi hay trở về
Sét đánh ngang tai ác mộng nào
Chị bỏ em đành đi thực sao
Không chờ em kịp về thăm chị
Em tưới luống cà chị tưới rau
Chị ơi thân chị quá thảm thương
Ngậm đắng nuốt cay giấu đoạn trường
Chồng con bạc bẽo thôi xong nợ
Lòng đất lạnh tình nghĩa chao tương
Xin chị bình yên cõi mênh mông
Không bị sẩy thai không té sông
Chông gai trắc trở vùi dâu bể
Quên thuở đầu thai lỡ sụp hầm
Hết lo khói lửa hết đói nghèo
Hái rau xắt chuối nấu tấm heo
Bồng em xách nước mòn xay lúa
Chân le chân vịt mỏi chống chèo
Kể chi mười sáu với mười ba
Áo lụa phấn hồng của người ta
Chị như rau đắng sau hè vẫn
Thơm mát canh chua dành mẹ cha
Bầy em nhõng nhẽo quấn chân hoài
Bắp nướng không thèm đòi luộc khoai
Đòi đuà đòi cõng đòi ru võng
Chị chỉ tức mình có hai tay
Cơm sôi cháo khét heo đòi ăn
Chạy mưa đậy lúa dẹp áo chăn
Củi đòn củi chẻ vô nhà bếp
Hứng nước đầy lu lạnh cắn răng
Không xin áo mới không tuổi xuân
Tay chai má nám mắt thâm quầng
Thờ cha kính mẹ cưng em dại
Ngày mưa tháng nắng vẫn chân trần
Mười bảy đơn sơ tóc không thề
Vu qui không pháo áo vẫn quê
Lạy cha lạy mẹ ông bà khóc
Lạnh sóng Hàm luông đau Bến tre
Mẹ khổ quanh năm chị cực hoài
Con hư chồng dữ áo cơm đày
Nửa đường gãy gánh chiều bom đạn
Nhà cháy vào chùa xin cơm chay
Hè phố lang thang bán cà phê
Nuôi con ăn học khổ trăm bề
Miếng ngon vật lạ dâng cha mẹ
Vẫn áo nâu sồng vẫn hồn quê
Đổi đời máu nhuộm biển hận thù
Chị khô nước mắt khóc em tù
Thân tàn ma dại xanh rừng núi
Em về chị khóc mẹ còn đâu
Nhịn ăn nhịn mặc cho cháu em
Chị lại còng lưng tóc bạc thêm
Thức khuya dậy sớm đèn leo lét
Dầu đâu còn đủ đến nửa đêm
Thương em lưu lạc khóc như mưa
Ngất xỉu bên thềm ga tiễn đưa
Em như giẻ rách chị mít ướt
Chanh hết nước rồi khế hết chua
Nửa vòng trái đất quà thuốc về
Khi nhỏ khi to khi quá quê
Chị vui như gặp em trai út
Còn quí hơn vàng ai dám chê
Vợ bệnh còn thương nhắc quà xuân
Cho chị thuốc thang trả nợ nần
Ngờ đâu chỉ kịp lo chôn cất
Còn tưởng báo lầm tang người dưng
Thôi hết lòng quê hết bóng quê
Mồ hoang mả lạnh mối trùn chê
Dế mèn dế nhũi thương ru chị
Đêm vắng canh dài trả bến mê
Em sẽ về như ốc mượn hồn
Hàng cây vú sữa tím hoàng hôn
Bồng em tóc chị thơm hoa bưởi
Tay cánh chim chiều trốn cô đơn
Khói lạnh nhang tàn chị về đâu
Sinh ly tử biệt huyết lệ trào
Bóng qua cửa sổ đâu còn bóng
Xin chị cho em gặp chiêm bao
Chị ơi! Lạy chị !Xin an bình
Áo tiên mắt phật lời chân kinh
Mây đưa gió đón trăng sao đợi
Hết nợ hết duyên hết vô tình
Gặp lại mẹ cha chắc chị vui
Em gửi kính yêu lạy hai Người
Một ngày biển lặng em thanh thản
Trở lại quê xưa xin chị cười…
MD ngày 07 tháng 02 năm 2007
(tức 20 tháng chạp năm Bính Tuất)
LuânTâm
Vô cùng đau đớn thương tiếc khóc Chị PHAN THỊ NGHĨA
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2024 02:11:29 bởi LuânTâm >
ANH RU EM NGỦ MỘNG LÀNH
Anh ru em ngủ mộng lành
Mây hồng mây trắng mây xanh vòng tình
Anh ru em ngủ xiêu đình
Hoa chanh mắc cỡ hoa quỳnh ngây thơ
Anh ru em ngủ mộng mơ
Gió hồng gió trắng gió chờ vòng yêu
Anh ru em ngủ nâng niu
Hoa cau trong trắng ngoài trêu gót giày
Anh ru em ngủ mộng say
Khói hồng khói trắng khói bay lưng đồi
Anh ru em ngủ đỉnh trời
Hoa mai khoe Tết đẹp đôi chim hồng
Anh ru em ngủ mộng bồng
Lửa hồng lửa trắng lửa đồng tình ca
Anh ru em ngủ ngọc ngà
Hoa đồng cỏ nội phù sa ngọt ngào
Anh ru em ngủ mộng sao
Nước hồng nước trắng nước trào lệ vui
Anh ru em ngủ thôi nôi
Hoa tiên vẫy bút tuyệt vời tinh anh
Anh ru em ngủ mộng xanh Mây hồng mây trắng xây thành chân kinh Anh ru em ngủ mê nhìn Hoa chanh mắc cỡ hoa quỳnh nằm mơ...
MD.08/08/11
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2025 04:42:06 bởi LuânTâm >
HƯƠNG NHỚ
Giặc giã qua rồi hương cố nhân
Trắng tay vẫn lạnh bước phong trần
Thanh gươm cổ tích sầu chinh chiến
Vó ngựa già nua bước ngập ngừng
Mắt mỏi trăng sao mộng ước nào
Cũng đành trả sách lại nghìn sau
Con đường mơ ước xa gần mất
Màu áo thương yêu cũng bạc màu
Tóc rụng những đêm thổn thức sầu
Gió khuya sương sớm lắm bể dâu
Dấu chân thơ dại quên hò hẹn
Nửa giận nửa mừng buổi gặp nhau
Dòng sông thề hứa mộng xuân xanh
Áo gấm vinh qui tình trọn tình
Đồng quê mắc cỡ hoa em thẹn
Chiếc nón nghiêng nghiêng ngây ngất nhìn
Mấy kiếp phong sương mấy dặn dò
Biển xa sông rộng vẫn buồn lo
Người yêu bé bỏng sầu muôn thuở
Khói lửa làm cho lỗi hẹn hò
Nhớ tiếng cười vui như gió xuân
Nhớ bàn tay nhỏ dáng thiên thần
Khói sương thơm tóc mơ tình sử
Giọng nói chim ca bước ngập ngừng
Xa cách muôn trùng tiếng võng trưa
Bờ tre già đổ lá hững hờ
Hè sang cánh phượng ve sầu nhớ
Lớp học thân quen vẫn đợi chờ
Tâm sự trắng đêm đầu bạc đầu
Rượu nào chung thuỷ ấm môi nhau
Tha hương tuyết lạnh vai gầy nhớ
Áo ngủ mong manh giọng ngọt ngào
Có phải hư không những cõi lòng
Vai kề má tựa vẫn xa xăm
Người xưa hận hải mang mang hận
Một kiếp phù sinh mấy nhánh rong
Phân vân lạc lối bướm về đâu
Đêm tối bơ vơ bỗng lệ trào
Thân sao lận đận đường tăm tối
Lỡ bước phong sương lạc áo màu
Nhớ những đêm trăng gác trọ buồn
Lang thang phố nhỏ bước mù sương
Thềm ga vắng đợi con tàu vắng
Gió lạnh đường khuya tủi mặt đường
Gặp gỡ mùa thu áo mộng nào
Hàm răng tình tứ nhớ thương sao
Về mơ sao rụng hôn dòng tóc
Đầm ấm vòng tay thơm má đào
Cười vui chưa trọn giấc mơ hoa
Tiếng quốc thâu canh lẫn tiếng gà
Đường cũ trăng xưa đêm ngại bóng
Thương nhớ điên cuồng nát thịt da
Chén cạn hương thề thơm tóc mai
Nhìn nhau nghi hoặc tiếng thở dài
Bâng khuâng trời nước xanh màu áo
Em vẫn là hoa mộng kiếp nầy
Năm tháng hững hờ đêm nhớ đêm
Hồn thơ tình sử cũng là em
Trời thương màu mắt hiền nguyên thủy
Ai nhớ trần ai ai nhớ tiên
Bồ đào mỹ tưủ nhớ người xưa
Ta cạn thời gian quên gió mưa
Tri âm vẫn đẹp trăng mười sáu
Mây khói bờ vai áo lụa đùa
Mộng thực thiên thu sầu nối sầu
Hẹn hò mấy kiếp nỡ xa nhau
Cải trời dang dở tình rau đắng
Phận bạc lênh đênh gửi chốn nào
Suối cạn khô rồi nước về đâu
Cành rong tiền sử chết phương nào
Xin cho một bóng chim tăm cá
Mang lệ nghìn xưa khóc nghìn sau
Vĩnh biệt lòng đau thực không đành
Hồn đau vương vấn áo em xanh
Xin cho một chút hương chăn gối
Kiếp khác tìm nhau sẵn để dành...
MD 01/01/03
LuânTâm
(Trích trong Tuyển Tập Thơ Quốc Gia Hành Chánh,Cơ Sở Hoài Bão Quê Hương xuất bản,California USA.2005,tr.129-132)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2025 04:47:39 bởi LuânTâm >
TẾT NHỚ TẾT THƯƠNG
Nay tết buồn thêm hay bớt vui
Ngày qua sao ngậm đêm tới ngùi
Không trăng răng cắn môi mai trắng
Gối tuyết chăn sương gió ngược xuôi
Mắt mỏi gót mòn dư lệ đá
Mây ngủ khói vùi hết hồn thơ
Sóng bạc đầu trần ai tiên cá
Sắc không bóng gió biết đâu ngờ
Chiều xuống buồn lên bàng hoàng hôn
Cỏ hoa ngày cũ bướm xuân khôn
Lời ngon tiếng ngọt chưa bay bổng
Vỏ ốc kề tai qua cầu hồn
Tết nhớ tết thương thân thích tết
Dành trọn cười vui cho người nhà
Bể sầu giấu kín cho ta hết
Tâm hương cha mẹ lễ ông bà...
MD.02/10/18
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.01.2025 04:53:09 bởi LuânTâm >
NẺO NHỎ VÀO THƠ LUÂN TÂM
Trong vườn thơ văn hải ngoại vừa xuất hiện một thi tâp mang tên Hương Áo (tháng 10/2007). Tác giả là LuânTâm, người chỉ mới cầm bút cách nay hơn 5 năm. Đây là đứa con đầu lòng, một trong 3 đứa sẵn sàng chào đời trong nay mai. Riêng tập Hương Áo này, khá đồ sộ, gồm 151 bài thơ dài, với 360 trang chữ chật ních.
Tôi hân hạnh có Hương Áo trong tay và cả gan đọc qua cho biết. Dù chưa cảm-hiểu hết, tôi cũng cảm thấy mắc nợ tác giả. Niềm tâm sự, nỗi suy tư của mình phần nào đã được tác giả ghi lại giùm rải rác suốt tập thơ. Những viên ngọc đẹp, những cánh hoa tươi góp phần tô điểm thêm cho đời. Rồi tôi cũng cảm thấy cần giải bày chút gì để tỏ lòng trân quí những cánh hoa, những hạt ngọc và để tạ ơn tác giả LuânTâm.
Muốn đọc cho xong Hương Áo phải mất cả tuần. Muốn thưởng thức kỹ hơn thì cả tháng. Sạu cùng, xếp sách lại, chưa chắc hiểu hết. Với nét đặc trưng như vậy, với vóc dáng lẫn tâm hồn như vậy,” Hương Áo” quả là một hiện tượng lạ. Tôi thầm nghĩ chỉ riêng tập thơ này thôi cũng đủ tiêu chuẩn định vị tác giả là một thi-sĩ có tầm cỡ.
Với tư cách là một độc giả bình thường, không rành về thơ lắm, tôi xin được ghi lại vài cảm tưởng chung chung về tập thơ nói trên. Đọc Lời Tựa của nhà thơ Dương Quân, Lời bạt của nhà văn Nguyễn Bữu Thoại và cả bài Lời Nói Đầu của chính tác giả in trong Hương Áo, ai cũng cảm thấy đó là con đường rộng lớn đưa khách vào cõi huyền hoặc thơ LuânTâm rồi. Do vậy, bài viết này xin được xem là một nẻo rất nhỏ, một cái nhìn xa xa, hướng vào vài góc cạnh của khối kim cương hết sức đa diện. Nếu có gì sai sót, kính xin quí vị và tác giả thông cảm cho.
1. HƯƠNG ÁO hay ÁO HƯƠNG ?
“Hương Áo” là tựa một bài thơ, được chọn đặt tên cho toàn thi tập.
Hai từ đó phát ra âm điệu ngọt ngào, vời vợi, mông mênh. Làm sao không gây liên tưởng tới 2 câu thơ xưa bất hủ:
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi!”
Nhiều vị đã nhắc tới nàng tiên thơ của LuânTâm, cùng lúc cũng là người yêu mộng tưởng, người bạn tri âm, người vợ dịu hiền, nàng tiên mắc đọa. Quả thực tình học trò rồi nghĩa phu thê ở đây là một chuyện tình quá đẹp đẽ, cao vời, chỉ có một trong muôn ngàn, hay thậm chí chỉ có một không hai. Ai cũng khen LuânTâm là người chồng tốt, là kẻ chung tình! Sở dĩ được như vậy là vì LuânTâm rất may mắn có được một “nàng tiên” mắc đọa, người vợ vẹn toàn đức hạnh, hiền thục đảm đang, rất gương mẫu, rất đáng được chung tình với. Cả hai đều hiếm trên đời.
“Hương áo!” Trước hết là hương của chiếc áo người thương, áo vợ hiền. Nhưng, có phải do một sự tình cờ hay chủ ý, Hương áo không chỉ có gói ghém riêng cái tình phu thê thiêng liêng đó, mà còn phủ kín cả cuộc đời. Áo mẹ, áo cha, những chiếc áo đẫm mồ hôi nước mắt, áo mùi bùn mùi cỏ, áo che ấm tuổi thơ. Rộng hơn, áo còn là áo của thời gian, áo của không gian, của dòng đời, của lịch sử, của văn hóa, của đạo lý nghĩa nhân. Người đọc còn bắt gặp hàng trăm lần chữ “Áo” rải rác suốt tập thơ: áo ngày, áo đêm, áo rừng, áo mây, áo mưa, áo lá, áo hoa, áo nắng, áo gió, áo sương, áo bụi, v. v… LuânTâm có vẻ rất sính với từ “áo”. Hương áo lung linh sống động, xa xôi héo hắt hay kề cận thân yêu, như nỗi nhớ niềm thương không rõ tên về một miền quê hương xa cách. Hương Áo chính là hương đời, là hương trần-gian, đượm thắm tính nhân bản và làm thổn thức con tim.
Như vậy “Xếp tàn y lại để dành hơi” có thấm gì khi so với hai tiếng “Hương Áo” này? Đọc “Hương Áo”, hồn người đọc sẽ bồng bềnh trôi theo sóng gợn chập chùng hay đắm chìm theo tâm tư sâu thẳm của tác giả. Nguyên tập thơ chính là chiếc áo tình cảm muôn màu mà LuânTâm đã “áo” lên tất cả mọi thứ “hương trần gian” đó.
Hương áo hay là anh Áo hương?
Làm sao áo được hết yêu thương!
2. SUỐI NGUỒN BẤT TẬN
Hương trần gian trùng trùng bất tận lần hồi được tác giả phổ vào thơ, chuyển hóa thành hương thơ. Thơ thăng hoa, bay cao, hay cuộn chảy, trào tuôn không biết mệt, trong khi người đọc phải bắt mệt trước lưu lượng hãi hùng của nó. Liên tưởng tới hình ảnh cánh tay vung từng nắm hạt mọng lên trời, hay hơi thở toát ra từng ngụm khói sương của lữ khách trên cao nguyên lạnh giá. Cả hai, có phải đó là hình ảnh của LuânTâm làm thơ? Nhất cử nhất động đều toát ra thơ!
Nguồn thơ LuânTâm như những dòng nước ngầm, nước mội, từ đâu đó đã âm thầm tích tụ thành biển hồ mênh mông sâu thẳm, thỉnh thoảng đã có vài bài được phổ biến trong phạm vi thân hữu hạn hẹp, như những con rạch khiêm nhường thoát ra, róc rách uốn mình bên suối rừng u huyền, ít ai biết hoặc lưu tâm theo dõi. Nay thì” Hương Áo” bung ra, như đê vỡ, như đập tràn: như dòng sông hoành tráng 9 cửa mang mầu mỡ phù sa tràn ngập ruộng đồng bát ngát, như dòng suối hùng vĩ với nước nguồn ngọt mát tỏa vào vườn hoa đang khô hạn chốn tha hương.
Xin hãy liếc mắt qua dáng vóc thì sẽ thấy.
Có bao giờ độc giả từng được thấy tập thơ đầu tay của một người mới cầm bút chỉ hơn 5 năm mà dày nặng tới hơn 360 trang? Chẳng vậy mà còn có thêm 2 tập khác với số lượng thơ tương đương sắp được chào đời! (*). Thói thường người ta in thơ chỉ chú trọng về nét thanh thoát, nhẹ nhàng như tranh thủy mạc. Một bài thơ gồm năm, mươi câu đã chiếm trọn một trang, chiều cao bài thơ chiếm 2 phần 3, thậm chí có khi chỉ in từ giữa trang đổ xuống. Những bài thơ của LuânTâm hầu hết rất dài, từ 1 trang trở lên. Có rất nhiều bài chiếm 3, 4 trang giấy. Như bài “Hương Áo” và bài “Lòng Chị” có 88 câu, bài “Một Chút Son Môi” và “Giấc Ngủ Chưa Yên” cùng có 108 câu. Trong suốt tập thơ, ngoại trừ ít trang phụ bản hình ảnh, thư pháp do họa sĩ Vũ Hối và tranh của Họa sĩ A.C.La Nguyễn thế Vĩnh, trang nào thơ cũng đầy ấp từ đầu tới cuối trang, câu chữ chen chút khít rịt, như hoa nhiệt đới, như lúa mạ phì nhiêu của miền Cửu Long. Nếu tính trung bình mỗi trang chuyên chở 20 câu thôi thì trong 300 trang ròng dành cho thơ, tập Hương Áo đã chứa gần 6.000 câu. Nó đã làm cho liên tưởng đến trên 3.000 câu thơ Kiều. Không biết cụ Nguyễn Du đã dành bao nhiêu thì giờ để hoàn tất. Tôi chưa dám nói tới giá trị nghệ thuật hay nội dung thi tứ, chỉ riêng về hình thức và số lượng thôi, thơ Luân Tâm trong 3 tập gộp lại đã có gần 2 vạn câu. Nếu nói khiêm nhường hơn thì cũng có khoảng 15 ngàn câu! Một trường giang! Một đại hải! Tất cả được sáng tác chỉ trong vòng 5, 6 năm. Làm sao mà không đánh giá là đồ sộ? Sao không gọi là hiện tượng hiếm hoi? Viết không biết mệt như vậy mà LuânTâm vẫn cứ than “Thi, thư bất tận ngôn”?
Sức mạnh nào đã đánh động và nuôi dưỡng cảm hứng mãnh liệt bền bỉ đến như vậy?
Đã có hàng muôn ngàn thi tập được in ra ở hải ngoại. Đó là một trong những phương tiện tâm tình của những người xa xứ nhớ quê hương. In ra để biếu làm kỷ niệm! Động lực đầu tiên thúc đẩy Luân Tâm chắc cũng vậy. Viết cho mình, rồi viết cho người thân và thân hữu tri âm. Trong lời trần tình, LuânTâm có ghi rõ. Làm thơ để tìm chút nguồn vui cho người vợ hiền đang lâm bệnh. Làm thơ để đọc cho vợ nghe!! Thơ đã giúp cho hai người đào xới tuổi thơ, moi lên kỷ niệm, tìm lại vùng trời đã mất làm thức ăn tươi mát cho tâm hồn. Thế mà kết quả không ngờ. Hai người đã tìm lại hương áo ngày xưa. Bệnh tình của người vợ hiền từ từ thuyên giảm,sức khoẻ dần dần được hồi phục. Thơ len lỏi vào mọi ngõ ngách tâm hồn, bàng bạc trong cuộc sống thường nhật. Tác giả bị cuốn hút, mê say chìm đắm trong cõi mộng thực, cũ mới, có không, mịt mùng bất tận. Tiên thơ đến tận nhà, ở trong nhà, rất thực, hiện hữu, không cần lên núi tìm kiếm. Chất liệu thơ Luân Tâm hầu hết là những kinh nghiệm sống thực hoặc là những dữ kiện sờ sờ trước mắt.
Những bậc tiên thơ ngày xưa, hay chính vài thi sĩ được xếp vào hạng “lớn” cận đại, thường coi say là nguồn cảm hứng, thậm chí không say mà cũng giả bộ say. Thơ túi rượu bầu. Tản Đà, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng, v.v… cần có rượu. Có vị còn mượn thêm nàng tiên nâu, tiên trắng ấp ủ mới chịu nhả ngọc phun châu. Toàn là ảo tưởng, ảo giác, vị kỷ, riêng tư. Chất thơ rỗng bệu mà thường vay mượn từ đâu đâu. Rượu dễ tạo cảm giác dị thường, cũng dễ giúp nhà thơ thành lập dị, khác chúng. Thơ có rượu mới hay, thơ điên điên lại càng hấp dẫn?
Nhà thơ “non trẻ” LuânTâm (với tuổi già trên 60) cũng có lối lập dị riêng. Cũng say. Nhưng chẳng hề say rượu mà chỉ say tình. Tình yêu vợ chồng, mẹ cha, thầy trò, anh em bạn bè và tình quê hương. Hiếm khi LuânTâm bị hay được “điên” hoặc “mê sảng”, chỉ có lúc ngỡ rằng nàng tiên bỏ cuộc về trời:
Muốn khóc mà không khóc được đâu
Bây giờ mình đã thực xa nhau
Em như sương khói như mây trắng
Không thể yêu anh đến bạc đầu..
(Không Màu. Tr. 114)
Lệ đã khô rồi máu cũng khô
Nằm ôm sương gió ôm mả mồ
Nhớ lời nũng nịu…hương chăn gối
Em nỡ lặng im nỡ hững hờ
(Màu Đất, tr. 248)
Chính tâm hồn mẫn cảm trù phú là cái nền phù sa bất tận cho thơ LuânTâm nảy mầm. Chính cái kho chứa ký ức quê hương vĩ đại là nguồn thơ êm dịu châm thêm cho suối thơ trôi chảy miên man. Thật ra mầm thơ của LuânTâm đã được cấy rất sớm vào tâm hồn và tiềm thức. Như chính tác giả thổ lộ, lúc còn thơ ngoài việc được “tắm trong ca dao”, câu hò và điệu hát ru em, cậu bé Luân Tâm được gia đình khuyến khích đọc rất nhiều truyện bằng thơ và các loại sách tốt. Ngôn từ đã tích tụ cả bồ. Ý thơ đầy ứ tim non. Nàng thơ lấp ló vào hồn. Nhưng cảnh đời bất ổn, vận nước không may, bể dâu tiếp nối đã ức chế bao nhiêu tâm tình tuổi trẻ. Cũng phải trải qua thời gian tù tội, qua một thời quản chế gian khổ bất an, rồi LuânTâm mới được định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1994. Khi cuộc sống tạm yên ở xứ người, bỗng “nàng tiên bị mắc đọa” thì bao nhiêu ẩn ức lúc đó mới tuôn trào, hỏa diệm sơn phát nổ, hồn thơ chắp cánh bay lên cao vút. Bởi vậy thơ Luân Tâm, trong lúc ban sơ mới “xuống núi”, thấy tuy nó mới mà đã cũ, tuy non trẻ mà già dặn. Chững chạc, hiên ngang, phóng khoáng. Đây là cung cách của một hành giả thuần thành, hơn là của anh học trò bỡ ngỡ tập làm “thơ cóc nhái” như tác giả thường tự giễu mình. Không có thơ loạn, thơ say, thơ điên, thơ tếu. Một mực thơ tình cảm, hiền hòa trung hậu.
3. EM TẮM NGỌT NGÀO TRONG CA DAO
Đây là câu dẫn nhập cho bài “Ca Dao” (tr.55). Lại có thêm điểm khác thường trong dáng dấp nàng thơ của LuânTâm. “Em tắm ngọt ngào trong ca dao”. Nàng có vẻ rất bình dị, thật thà nhưng rất lành mạnh như cô gái vườn quê. Nàng chỉ có hai loại áo là Áo Bà Ba đơn sơ, dịu hiền và Áo Dài truyền thống thướt tha. Tôi muốn nói tới thể loại thơ mà tác giả thường dùng. Chỉ có hai thể thơ quen thuộc: Lục bát và Thất ngôn. Hỏi tại sao, được tác giả giải thích lý do là “con người chỉ có 2 chân”. Đúng vậy, chỉ có hai chân mà đi từ sơ cổ đến ngàn sau, từ đồi núi xuống đồng bằng, từ rừng sâu ra biển cả, từ quê nhà tỏa khắp năm châu.
Lục bát mộc mạc như nghề nông của dân tộc, là tiếng ru của mẹ, là hơi thở ông bà, là tiếng gió quê hương, thoang thoảng sau hàng tre, loang tỏa khắp ruộng đồng. LuânTâm sanh ra và lớn lên nơi quê hương của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, là kẻ hậu sinh, dường như cũng muốn tận dụng thể thơ của Lục Vân Tiên, bình dị như ca dao?
Lá tre rụng xuống ao nào
Mấy con cá nhỏ che đầu mộng mơ
Thương con tôm tích gà mờ
Búng càng ra khỏi hang chờ cá non
(Hương Quê, tr. 68)
Thất ngôn là bảy chữ kiểu thơ Đường, nhưng ở đây niêm luật bị mài mòn góc cạnh, cho nó bình lặng hơn, êm dịu hơn:
Tha thướt em đi như mây hồng
Xin cho anh được cùng sang sông
(Như Mây Hồng, tr. 117)
Hai thể thơ là đủ. Chẳng cần biết thêm thơ cũ thơ mới, 2 chữ, 4 chữ, ngũ ngôn, 8 chữ hay thơ tự do gì cả.
Có người bảo LuânTâm là người rất mực chung tình với vợ?
Chung tình tế nhị tình tứ lãng mạn ngọt ngào thơ mộng tuyệt vời cho đến nổi tác giả đã cố ý hoàn tất xong ngay bài Tưạ “ĐƯỜNG VÀO THƠ” cho TT ” HƯƠNG ÁO” đúng ngay vào ngày 19 tháng 11 năm 2006 tức là ngày kỷ niệm Sinh Nhựt của “Nàng Tiên Thơ vợ hiền BÙI THỊ LUÂN” của anh !
Không chỉ có vậy. Ở đây cũng thấy sự chung tình với lục bát ca dao.
Rồi với cả cách dùng từ dụng ngữ nữa. Cũng là người chung thủy hết mực với văn hóa dân tộc. Với bằng Cử Nhân Văn Khoa chắc là không thiếu chữ. Vậy mà chẳng thấy những điển tích, sáo ngữ, địa danh bên Tàu như Đường Minh Hoàng, Tô Châu, Hoàng Hạc Lâu trong thơ LuânTâm. Không có sông Danube, thành Vienne hay Venise ở bên Tây. Mà toàn là cua cá, cóc nhái, dưa bí, cỏ rau, cây trái, bùn sình, v.v… của quê hương. Toàn là ảnh tượng quê mùa, ngôn từ bình dân. Ít có ai can đảm như LuânTâm. Đất mới do ông bà bỏ xương máu khai phá để có cây lành trái ngọt, ngôn ngữ mới ông bà phát kiến và sử-dụng theo hoàn cảnh đổi thay. Có phải yêu thương và bảo tồn 2 thứ đó là điều hãnh diện đối với tác giả? Xin nhắc lại mấy câu ca dao:
Gió đưa cây cải vìa trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
Hoặc
Bìm bịp kêu nước lớn ai ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê
(Ca Dao)
Còn LuânTâm thì:
Tủi thân ăn ớt không cay,
Khổ qua không đắng, chanh xoài không chua
Buồn rung tàu chuối lá dừa
Hoa tàn cây héo thềm xưa thẫn thờ
Trời mưa: cá nhảy lên bờ
Hết ham bắt cá đặt lờ giăng câu..
(Cỏ Khô tr. 59)
Có phải chính những thứ rau đắng, rau má, trái cau, trái dừa…, hoa bưởi, hoa lục bình, điên điển, v.v.. đã thành xương, thành máu, đã núp kỹ trong tiềm thức của LuânTâm, thành những hạt mầm bất diệt, giờ gặp cơ duyên tốt nảy nở thành vườn hoa.
Ngôn ngữ thơ thì vậy, nhưng về khía cạnh nghệ thuật thì LuânTâm đã vượt ra khỏi thói thường, đã thành thầy bùa thầy pháp, với những sáng kiến bất ngờ, với cách thế phối từ, đảo ngữ, dàn ý rất lạ. Thí dụ như:
Xanh trời xanh biển xanh môi
Cội nguồn nghi hoặc ngại lời mai sau
Hết thấp đất hết trời cao
Gió xoay lòng huyệt gió bào xương da
Lòng đau rụng sạch tay chân
Lăn hoài trong cõi phù vân ỡm ờ
Ảnh ai mà nhặt lên thờ
Nhìn đi nhìn lại còn ngờ là ta
(Xanh Môi, tr.209)
Tuy có hao hao Bùi Giáng nhưng dễ cảm nhận hơn. Hoặc như:
Người che mặt ta giấu thân
Giữa trời lận đận nợ nần đục trong
Tay khô ủ gót chân hồng
Nghiêng so kỷ niệm cuối bồng tương lai
Chợt đau thấu nắp quan tài
Ta ru người ngủ áo bay thẫn thờ…
(Cuối Bờ Viễn Du, tr 319)
Có người đã xếp thơ LuânTâm ở một khía cạnh nào đó vào loại “siêu thực”. Thực ra chắc tác giả không muốn tự nhốt mình vào bất cứ “trường phái” nào. Tôi nghĩ đó chỉ là sự trùng hợp về chút tiêu chuẩn của cái được gọi là “siêu thực”. Nó nằm trong tứ thơ nhiều hơn là hình thức. Chú tâm gò mình vô khuôn mẫu hay trường phái nào đó, cái hồn nhiên chân chất của thơ có còn không? Mầm thơ có sanh ra quái thai mệnh yểu hay không? Có nhiều thi sĩ đã chết oan khi “dấn thân” theo đuôi “thời thượng” được khơi dậy từ Âu Mỹ. Xin quí vị nhớ lại thời đầu thập niên 60 thế kỷ trước, và hiện nay, nhìn quanh quất đâu đây thì cũng thấy. Một số người hãnh diện, tự hào vì đu được cái đọt héo Hiện-sinh thuở ấy hay, bây giờ, nắm cái đuôi Hậu hiện đại gì đó, rồi phát loa inh ỏi về việc cách tân khó thuyết phục của mình. LuânTâm, dù lắm khi có ý tưởng lạ, tứ thơ bí hiểm, dường như vẫn men theo lối mòn, theo gót đám đông. Rất khó xếp thơ Luân Tâm vô một khuynh hướng hay khuôn mẫu nào. Hơi của Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử … cũng có. Hương của Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên hay của Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư… cũng có. Có đủ hết. Trên suối thơ mấp mô chập chùng, lấp láy quanh co của Hương Áo, ánh lên đủ hết các màu sắc: xưa- nay, cổ điển- tân thời, bình dân- bác học, hiên thực- trừu tượng, cụ thể-siêu hình, v.v… và đôi khi có chút thiền và chút triết. Cho nên, nếu vị tình, không chê lối đó là bảo thủ thì tặng cho nhãn hiệu “gìn vàng giữ ngọc” cũng hợp tình phải lý. Xin xem vài thí dụ:
Lang thang tìm lại dấu bụi đường
Em mới dẫm lên còn dễ thương
Nhặt lên âu yếm cho vào túi
Mà ngỡ ngọc ngà ngỡ sắc hương...
(Như Mây Hồng, tr. 117)
Đọc nghe từa tựa Nguyên Sa?
Hoặc là:
Dấu ngã dấu huyền dấu sắc không
Trôi theo đường thẳng bám đường vòng
Đếm từng dấu nặng từng dấu phẩy
Không đủ đền bù năm tháng không...
(Trong Lòng Gió, tr. 206)
Đọc thấy hơi thơ là lạ và nhuốm chút triết kiểu Bùi Giáng?
Cũng có cái gì nghe rờn rợn kiểu Hàn Mặc Tử, như:
Bao đêm thức trắng nhớ trăng tàn
Nghe tiếng côn trùng lạnh thở than
Nghe mình mục rã như tro bụi
Hoa dại xây mồ cạnh cỏ hoang
(Không Nhớ Tên, tr. 245)
Còn nhiều, rất nhiều trong hơn 300 trang thơ Hương Áo sự trùng hợp hay tương tợ như trên, mà chắc chắn không phải là sự bắt chước mù quáng vì mỗi người diễn đạt những ý tứ riêng tư, độc đáo của mình. Và trên đời, chí lớn gặp nhau là thường.
4. CÁI NẾT ĐÁNH CHẾT CÁI ĐẸP
Đã rõ dáng vóc nàng thơ của LuânTâm là cô gái quê. Nhưng xét về tâm hồn thì người ta không khỏi ngạc nhiên. Tôi định nói về ý tứ mà thơ LuânTâm bao hàm, cái hương trời nét ngọc mà LuânTâm đã “áo” bên trong những vần thơ bình dị đó. Cái hồn của thơ có bay bổng hay không là do sự sáng tạo. Nhìn từ khía cạnh này người đọc mới thấy những thi tứ bất ngờ, những sáng tạo vô biên của tác giả.
Luân Tâm có nhiều lợi thế hơn nhiều người làm thơ khác. Từ mùi bùn non áo vá đến hương áo dài phấn son, từ nhà lá đơn sơ đến nhà tầng cao nghệu, từ đi bắt ốc hái rau ngoài đồng cho đến ngồi trong đại sảnh soạn thảo văn thư, v.v… Đã trải qua hết. Thượng vàng hạ cám có hết. Do đó cái tình quê, tình người ở đây tỏ ra tự nhiên như nước với sông, gắn bó, bàng bạc, mênh mông, bất tận. Khác với tình thương hời hợt góc phố hẹp hòi với con đường Gia Long, Lê Lợi, quán La Pagode, Thanh Thế hay “Con đường Duy- Tân cây dài bóng mát”, sớm bỏ đi và sớm bỏ quên. Chính cảnh sống và lớn lên với cỏ cây mây nước miệt vườn Cửu Long hiền hòa đã giúp cho tình yêu đó càng tha thiết thâm sâu. Nhớ là nhớ hoài. Xa thì cứ mộng thấy quê hương. Toàn TậpThơ của LuânTâm đã thể hiện rất cụ thể những điều đó. Nàng thơ trong LuânTâm đã làm cho người đọc quên mất cái dáng vóc bình dị kém cao sang của mình, mà bị lạc vào chốn tâm linh u huyền mà rất diễm lệ.
Cũng vẫn là điệu nói thơ quen thuộc nhưng chứa chan tình mẹ tình quê như:
Mẹ nuôi được một con heo
Bao nhiêu nồi cám nồi bèo sớm trưa
Mà tiền chẳng đủ để mua
Cho con áo mới lên chùa dâng hương
Quản bao dãi nắng dầm sương
Quanh nhà bầu bí mướp hương mấy giàn
Bạc hà hành hẹ dưa gang
Khế chua bưởi ngọt bên hàng xoài tơ…
(Giấc Ngủ Chưa Yên, tr.311)
Cũng còn là sự thể hiện chân chất, như trong bài khóc Thầy Nguyễn văn Bông:
Khóc Thầy: hận hải mang mang
Trời cao xuống thấp để tang thương Thầy
Chính danh đại nghĩa còn đây
Đêm đêm thức giấc bóng ai giữa trời?
(Cánh Hồng Việt Nam, tr. 189)
hoặc như:
Mai sau ta có đi rồi
Làm ơn gọi nắng mây trôi khóc giùm
. . . . . . . .
Tiễn đưa cuối đất cùng trời
Cũng chưa nói hết được lời biệt ly
(Một Lần Đi, tr. 264)
Rồi bước qua khúc ngoặc ngữ, ngôn:
Sững sờ cây trả áo xanh
Trời thương biển nhớ cũng đành bú tay
Tình câm còn bóng hôn gầy
Em hoa chùm gửi ta dây bìm bìm
Áo quan nào cũng được khiêng
Bàng hoàng nắng rụng chó điên cản đường…
(Trả Áo Xanh, tr. 121)
Và sau cùng, đọc giả thường bị lạc vào cõi huyền hoặc bí hiểm của rừng thơ LuânTâm:
Giọt mưa gợn sóng mặt hồ
Mặt hồ gợn sóng đợi chờ chiêm bao
Chiêm bao gợn sóng trăng sao
Trăng sao gợn sóng lối vào hư không
. . . . . . . . . . .
Chân người ai vác đi đâu
Tay ta ai bắc nhịp cầu lãng quên
Quá quen sao vẫn hỏi tên
Hay là thay xác mà quên đổi hồn
(Sóng Gợn, tr. 178)
Bởi vậy có người bảo thơ của LuânTâm là siêu thực, trừu tượng hay bí hiểm, cũng không phải là sai. Quá đúng, vì rõ ràng muốn tìm bắt cho hết ý tứ bao hàm trong thơ LuânTâm thì quả thực, đối với tôi, là công việc của người mù xem voi.
Cảm tưởng chung là dường như tác giả làm những sự tổng gộp, thay vì tổng hợp, những liên tưởng. Những liên tưởng này đi ngược lại quá trình xem voi. Thấy cây quạt, liên tưởng tới con voi, rồi vẽ cây quạt mà biểu người đọc phải hiểu đây là con voi. Hoặc giả từ câu ca dao “Em tôi khát sữa bú tay” rồi tác giả dùng từ “bú tay” để tả những cái hụt hẫng về tình cảm, cái cô đơn của thân phận. Hầu hết những hình ảnh khác cũng vậy. Có vẻ như là lối ẩn dụ mà không hẳn là ẩn dụ. Tượng trưng mà chẳng phải tượng trưng. Cho nên thơ LuânTâm thật là bí hiểm đối người đọc mà lại hả hê mãn nguyện cho chính mình. Trừu tượng hay Siêu thực ư? Chắc không hẳn. Trong cõi ký ức LuânTâm có chứa quá nhiều chất liệu thơ, văn, quá nhiều châu ngọc và nhiều kỳ hoa dị thảo, cho nên khi vườn thơ LuânTâm hình thành, người ta thấy trong đó có một sự tổng gộp tự nhiên những chất liệu đó, như dòng máu có chứa ngàn chất dinh dưỡng tổng gộp một cách tự nhiên từ thức ăn thường ngày. Nhìn một cánh hoa thơ của LuânTâm, nếu bảo là hoa hồng cũng đặng, bảo hoa cúc, hoa lài, vạn thọ… cũng chẳng sai, bởi vì tác giả đã nhặt từng tay từng cánh của đủ loại hoa mà ghép lại thành một bông hoa bí hiểm theo ý mình. Nhặt muôn ngàn hạt giống quí mà sáng tạo cho riêng mình một vườn thơ, rừng thơ. Phải có sự tưởng tượng và liên tưởng mãnh liệt mới mong tìm ra ít nhiều ý nghĩa của thơ LuânTâm. Cần đọc đi đọc lại nhiều lần thì cái ý mới lấp ló xuất hiện mời gọi như nàng tiên mơ hồ trên cõi non xa. Đến một lúc “chứng” được một ứng nghiệm nào đó thì mới hít hà khen “tuyệt”.
Nhưng thói thường thì khi thưởng thức thơ, đọc lên nghe âm điệu hay hay, thấy ảnh tượng rực rỡ thì cũng đủ vui rồi. Nghe nhạc Trịnh công Sơn mịt mù mây khói mà ai cũng thích. Cái đẹp không tên, cái ảnh không rõ thì càng hấp dẫn lâu dài. Không biết chính tác giả LuânTâm đã có chủ ý đánh vào cái yếu huyệt tâm lý này hay không, nhưng chắc chắn thơ Luân Tâm sẽ thâm nhập, thẩm thấu từ từ vào tâm tư người đọc và sẽ để lại ấn tượng khó mờ không thua suối thơ Bùi Giáng trước đây.
Riêng tôi, những ấn tượng sâu đậm nhất hằn mãi trong tâm hồn sau khi đọc Hương Áo, ngoài cái tình nghĩa phu thê của tác giả, lại còn có hình ảnh cỏ cây, sông nước, vườn tược ruộng đồng, rau đắng, ốc bươu vì quê tôi cũng là vùng phù sa nằm giữa hai cánh tay ngọt ngào khoan dung Sông Cửu. Những thứ đó đôi khi đã làm cho tôi cảm thấy ngộp thở đứng tim bay bổng. Vì nhớ nhà. Xin cảm ơn thi sĩ LuânTâm./.
TX Lâm Thanh,
OZ Nov. 2007
Chú thích:
(*) Tác giả có ghi 2 thi tập sắp ấn hành là
– Ngơ Ngẩn Dấu Buồn
– Trong Vết Bụi Mờ
(**) Nhà Văn, Nhà Thơ quá đa tài hoa nhưng vô cùng bạc mệnh Lâm Thanh (1943-2008), còn có bút hiệu khác là Hai Quẹo, tức Lâm Thành Hổ, Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh, Khóa Đốc Sự 15,Tác giả Tuyển Tập Thơ Văn tuyệt tác bất hủ”CÕI QUÊ CÕI NHỚ”,Tác giả xb, Australia,2008
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.02.2025 06:01:49 bởi LuânTâm >
HOA SỮA
Anh khát sữa đeo đỉnh đồi rau má
Gọi mây bay nâng cánh khói mồ côi
Em bú tay níu dòng sông nước đá
Nghe trăng tan lấp đáy biển vá trời
Mưa không ướt đất lành cho chim đậu
Thì cũng đành trôi nổi gánh hát rong
Ngày hụt hơi đêm không nơi nương náu
Chim quyên đau khô héo trái nhãn lồng
Em nhóm lửa tình sông thương ngập núi
Chờ bình minh gọi đò chở sương mù
Nghìn năm sau bên góc đời lủi thủi
Ta gặp nhau hôn môi đói thiên thư
Anh chú rể chân phèn vui khan tiếng
Sính lễ hoa vú sữa trái mãn cầu
Em cô dâu áo vàng bông điên điển
Cười đơn sơ trong vỏ ốc nhiệm mầu
Đời giặc giã bụi tre che bụi chuối
Đất đen thui tình nghĩa thật trắng tươi
Trăng ăn mật em nhìn anh bối rối
Trời đất ơi vợ anh đẹp quá trời....
MD.06/27/08
LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 1 ngày và 23 giờ bởi LuânTâm >
ĐỠ TỦI THÂN
Nép vào bụi chuối khóm tre
Thương đôi cánh bướm quanh hè cuối sân
Tình sầu nương náu gót chân
Tình ngoan dỗ giấc thật gần thật xa
Người ở trọ kẻ không nhà
Sao không chung giấc mơ hoa muộn màng
Sao đành vội vã sang ngang
Mang theo tất cả nắng vàng trời xanh
Lá non hoa trắng mong manh
Ngây thơ còn chút an lành khói sương
Chân phố thị mắt ruộng vườn
Còn vầng trăng cũ tơ vương nghĩa tình
Bao giờ cho gặp cho nhìn
Đất trời ghen thấy chúng mình yêu nhau
Nước đâu còn để tưới trầu
Vườn rau vườn cải năm nào cháy khô
Giọt sương bé bỏng đợi chờ
Miệng khô lưỡi đắng còn mơ mưa dầm
Náu nương vào cõi xa xăm
Mơ hồ cơm áo âm thầm thịt xương
Lẽ đâu không có thiên đường
Lẽ đâu chỉ có tang thương nợ nần
Nép vào nhau đỡ tủi thân
Xin cho một chút ân cần nửa đêm...
MD 03/19/04
LuânTâm
(Trích trong TT HƯƠNG ÁO,MinhThư xb, MD.USA.2007, tr.47)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 1 ngày và 23 giờ bởi LuânTâm >
NGƠ NGẨN DẤU BUỒN
Chim con lông rụng mẹ đau
Nắng chưa vàng cánh gió cao hết hồn
Cành nghiêng bóng đậu cô đơn
Buồm căng dây lạnh kéo đờn nổi trôi
Xanh trời trắng hạc chia phôi
Mềm mây ốm gió mồ côi bay nhà
Tình ru chăn cỏ gối hoa
Chơi vơi biển cạn nhạt nhoà rừng sâu Vườn xưa thèm nắng mai sau
Xương tan thịt nát tình trào quê hương
Son môi che lạnh dấu thương
Sóng sầu lưu lạc đoạn trường dấu yêu Ăn trưa uống tối cũng liều
Bơi hương lặn sắc chợ chiều mộng du
Giường trăng thao thức dáng thu
Núi rừng khát nước sương mù đón đưa
Mê hương râu bướm vẽ bùa
No da đói thịt mắt trưa hẹn hò
Ỡm ờ áo tắm thăm dò
Gối chăn nổi loạn lần mò đường mê Về nhớ đi đi nhớ về
Da trời chân đất ủ ê bảy màu
Lững lờ lưng trắng mài râu
Nuôi chim dưỡng trứng bạc đầu xanh môi Đói thương đứng khát nhớ ngồi
Nắng chờ mưa đợi bóng trôi mộng hồng
Ngậm sương lúa trổ đòng đòng
Lấp sông mất nước đau lòng phù sa Lối cò trắng lụa tình ca
Khói lên mây xuống trăng hoa chập chờn
Bến buồn thuyền rã keo sơn
Bỗng đau muối xát tân hôn vẫy chào Nửa đêm khát sữa chiêm bao
Trôi sông lạc chợ làm sao ẵm bồng
Lỡ làng bến sắc bờ không
Vào ra khép mở đục trong thẹn thuồng Hoa thương ngọc tiếc dấu buồn
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn ven đường áo bay
Thắt lưng buộc bụng cau mày
So chân cát bụi tay dài níu trăng Vui sông buồn suối ăn năn
Lệ mờ bóng rã dáng nằm thiên thu
Ngựa già móng lở mắt mù
Da khô chiến địa bạn thù dấu đau Thẫn thờ núi tuyết rừng sao Xác treo chớp biển hồn trao mưa nguồn... MD.10/23/06 LuânTâm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23 giờ bởi LuânTâm >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 17 bạn đọc.
Kiểu: