thơ NGUYẼN KHUYẾN
rockman 05.04.2007 23:29:27 (permalink)






Vài nét về Nguyễn Khuyến


Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Sinh ngày 15-2-1835 (tức 18 tháng Giêng năm Ất Mùi).
Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vung Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ, cho đến thời nhà thơ đã được năm trăm năm. Cụ bốn đời Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Mại, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Hiến sát sứ Thanh Hóa. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi nho học, đỗ 3 khoa Tú tài, chuyên nghề dạy học để kiếm sống ở xứ vườn Bùi.
Mẹ Nguyễn Khuyến là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khê, tục gọi là làng Ngòi, nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Thủa nhỏ Nguyễn Khuyến học cha. Năm 1825, đi thi Hương lần thứ nhất cùng với cha, song không đỗ. Ngay năm sau, địa phương có dịch thương hàn, ông mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột, bố mẹ vợ chồng cùng nhiều họ hàng thân thuộc đều qua đời. Gia đình ông lâm vào cảnh “Tiêu điều, xơ xác, đời sống ngày càng đói rét ”. Bà mẹ phải may thuê và đi làm mướn lần hồi, còn ông thường phải “sách đèn nhờ bạn, một ngày học mười ngày nghỉ ”. Từ năm 1854, đi dạy học lấy lương ăn để tiếp tục học và đi thi. Song trong các khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858 đều bị trượt.
Nghĩ tôi lại gớm cái mình tôi,
Tuổi đã ba mươi kém một thôi...
Bốn khoá Hương thi không đậu cả,
Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi.
Có lúc, ông đã nản đường khoa cử, định chuyển nghề dạy học để kiếm sống và nuôi gia đình, thì được người bạn là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến cùng học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ, huyện Nam Xang (Lý Nhân ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái chí. Do vậy, khoa thi 1864 ông mới đỗ Cử nhân đầu trường Hà Nội. Tiếp theo ông thi Hội các khoa 1865, 1868 đều bị trượt. Ông ở lại Huế, vào học Quốc Tử Giám, khoa năm 1869 lại trượt. Cho đến khoa năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình, khi ông đã 37 tuổi.
Dưới triều Nguyễn, cho đến lúc đó mới chỉ có hai người đỗ Tam nguyên (đỗ đầu cả 3 kỳ thi), thì Nguyễn Khuyến là một. Nhưng khác với Trần Bích San (quê ở Vị Xuyên, Nam Định), ông phải lận đận gần 30 năm trời đèn sách, với  9 khóa lều chõng, đó là một cố gắng phi thường.
Đầu tiên, ông được bổ làm Sử quan trong triều; năm 1873, ra làm Đốc học Thanh Hóa, rồi thăng nhanh lên Án sát tỉnh. Năm 1874, ông phải mang quân chặn quân khởi nghĩa (mà sử cũ gọi là lệ phỉ) phạm vào tỉnh Thanh ở vùng Tĩnh Gia, Nông Cống. Đúng lúc ấy bà mẹ ông mất. Ông phải nghỉ ba năm về quê cư tang mẹ. Hết tang, ông vào triều giữ chân Biện lý bộ Hộ. Năm 1877 lại ra làm quan ngoài, giữ chức Bố chính Quảng Ngãi. Rồi làm Toản tu ở Sử quán, từ 1879 đến 1883, vẫn sống trong cảch thanh bần, lại thêm đau yếu, ông đã có tâm trạng chán ngán cảnh quan trường.
Năm 1883, quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai. Rồi Tự Đức chết (19-7-1883), triều Nguyễn phải ký hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883. Nguyễn Khuyến đã được cử làm Phó sứ sang Mãn Thanh. Ông đã ra Bắc, nhưng chuyến đi sứ ấy bị bãi. Ông lấy cớ đau yếu, xin tạm về quê dưỡng bệnh, thì trung tuần tháng 12 năm 1883, triều Nguyễn cử ông làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, song ông không chịu đến nhận chức, mà chính thức cáo quan về nghỉ hưu khi mới 50 tuổi.
Một phần tư thế kỷ về ở Yên Đổ này có ý nghĩa quyết định để nhà thơ trở thành bất tử, khi ông tiếp tục sáng tác nhiều và hay hơn nhiều so với thời gian trước đó.
Ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-2-1909 (tức 15 tháng Giêng năm Kỷ Dậu), thọ 75 tuổi. Tác phẩm để lại: Quế Sơn thi tập; Yên Đổ Tam nguyên quốc âm thi tập.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2007 23:37:51 bởi rockman >
#1
    rockman 05.04.2007 23:32:07 (permalink)





    Anh giả điếc







    Trong thiên hạ có anh giả điếc,
    Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
    Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày",
    Lối điếc ấy sau này em muốn học.
    Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
    Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu. (1)
    Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
    Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
    Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
    Điếc như thế ai không muốn điếc?
    Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
    Hỏi anh, anh cứ ậm à.


    1. Hai câu chữ Hán ý nói: khi mọi người ngồi nói chuyện và cười cợt thì ngây ra như gỗ, nhưng đêm khuya leo trèo thì lanh lẹn như con khỉ.

    #2
      rockman 06.04.2007 23:36:31 (permalink)
      An Ủi Ông Lão Đá

      Một quyển sách đặt trên yên,
      Một ngọn bút cắm ở trên ống này.
      Không dây, đàn có một cây,
      Không phương, thuốc uống có đầy một phong,
      Một bình trà nóng thường dùng,
      Một lò sưởi đốt để phòng một bên
      Chậu đá một củ thủy tiên,
      Một quả Phật thủ đặt trên bát sành.
      Lấy ai làm bạn cho đành?
      Có ông lão đá với mình cùng vui.

      Người lặng tiếng, kẻ nhiều lời,
      Tính tình cũng chẳng đi đôi mới kì!
      Lão thì chẳng thích chi chi,
      Ta thì trái ngược, cái gì cũng hay.
      Ta lười, chỉ thích nằm dài,
      Mà lão thì cứ suốt ngày ngồi trơ.
      Lão thì lẳng lặng như tờ,
      Mà ta thì thích ngâm thơ viết bài.
      Riêng tình thân chẳng đơn sai,
      Bạn thần giao hẳn duyên trời chi đây.
      Đi về cõi hóa có ngày,
      Biết đâu lão đấy, ta đây một người!
      #3
        Huyền Băng 10.04.2007 21:44:54 (permalink)
        Một số tác phẩm khác của NGUYỄN KHUYẾN các bạn có thể xem ở đây


        http://vnthuquan.net/tho/tacpham.aspx?thisi=Nguyễn%20Khuyến
         

        HB
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9