Bei Dao, nhà thơ lưu vong của thời đại chúng ta
Topics - Tạp ghi
Written by Nguyễn Mạnh Trinh Thursday, 15 June 2006
TẠP GHI VĂN NGHỆ -
Nguyễn Mạnh Trinh Tôi nhớ khoảng tháng năm năm ngoái, nhà thơ Bei Dao có đến đại học UCLA để nói chuyện và đọc thơ. Buổi seminar này do UCLA Asia Institute tổ chức nhằm giới thiệu một khuôn mặt thi ca lưu vong Trung Hoa đã phải trốn khỏi đất nước sau biến cố Thiên An Môn. Cuộc tiếp xúc sẽ diễn ra vào giữa trưa nên tôi dự trù sẽ lấy giờ lunch để tham dự. Tôi rất thích thú được gặp một nhà thơ mà tôi thường đọc và yêu quý. Thế mà, vì bận công việc trong sở nên dự trù ấy không thực hiện được. Tôi cứ tiếc mãi…
Bei Dao là bút hiệu của một sinh viên Trung Hoa Zhao Zhenkai, là một nhà văn nhà thơ rất nổi tiếng trên thế giới. Ông là một trong hàng đầu danh sách những người được chọn lựa cho giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển trong vài năm gần đây. Bút hiệu Bei Dao có nghĩa là ‘Bắc Đảo‘ - Northern Island, là một trong nhiều tên mà ông đã dùng trong thời gian đã qua ở Trung Quốc để tránh sự theo dõi của chính quyền Cộng Sản. Là một trong những lãnh tụ sinh viên của ngày nổi dậy mùng 4 tháng 6 năm 1989 tại quảng trường Thiên An Môn, ông phải chạy trốn và lưu vong sang các nước Tây phương. Ông đã sinh sống ở bẩy quốc gia, kể cả Thụy Điển, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hoa Kỳ. Những tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức ngữ…
Được tôn xưng là nhà thơ lưu vong của thời đại, Bei Dao đã từng tham gia Hồng Vệ Binh dưới thời Mao Trạch Đông trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Thế mà, năm 1969 ông bị cải tạo bẩy năm ở vùng biên giới với công việc khổ sai cưỡng bách lao động trong các công trình xây dựng. Trong thời gian này ông cực kỳ bất mãn với hệ thống chính quyền Trung Quốc và ông ngấm ngầm tham gia vào những tổ chức cầm bút phản kháng. Ông bắt đầu viết văn và làm thơ. Ông xuất bản nhiều ấn phẩm lậu bí mật và đã góp mặt trong một tờ báo có ảnh hưởng rất lớn mặc dù hoạt động rất ngắn, nhật báo của văn chương ở dưới hầm tối ‘ Jintan’ – Ngày nay. Ông kể lại mới đầu khi tham gia Hồng Vệ binh ông rất tin tưởng vào khẩu hiệu chính trị đã được tiêm nhiễm qua giáo dục và tuyên truyền. Nhưng khi đi lao động cưỡng bách để xây dựng các xí nghiệp ở vùng biên địa, ông thấy sự nghèo khổ lầm than của dân chúng cũng như lề lối áp đặt chuyên chế của nhóm người lãnh đạo, ông thay đổi thái độ, và thấy rằng chữ nghĩa sẽ có tác dụng để chống lại cường quyền bất công. Ông bắt đầu học từ sách vở và viết như một cách thế để tranh đấu cho sự sống còn của mình. Những truyện ngắn, ghi lại một phần đời sống tuy có nhiều nét buồn thảm nhưng không đến nỗi bi quan.Trong lốc xoáy của thời thế, vẫn có sự tin tưởng vào những giá trị đích thực nhân bản.Thực tế của đất nước Trung Hoa đã cho thấy khoảng cách thật xa giữa đời sống hiện thực và những cái hứa hẹn cũng như những khẩu hiệu đã được vạch ra và tôn sùng.
Trong thời kỳ cởi trói văn hóa ở thập niên 1980, Bei Dao bắt đầu được nhiều người biết đến và là một trong những khuôn mặt trí thức được coi là phát ngôn viên của phong trào phê phán chính quyền, đòi hỏi tự do dân chủ. Khi sinh viên nổi dậy và chiếm quảng trường Thiên An Môn năm 1989, họ đã đọc thơ và hát nhạc phổ thơ cuả Bei Dao và trang trí bằng những tấm biểu ngữ có những hàng chữ rực lửa;
Tôi sẽ không quì gối sát mặt đất
Dù chực chờ dưới tay đao phủ vẫn ngẩng cao đầu. Bei Dao sinh năm 1949 tại Bắc Kinh trong một gia đình trung lưu. Cha của ông là một viên chức cán bộ chính quyền và mẹ của ông là một bác sĩ y khoa.Trong thời kỳ Cách Mạng văn hóa, ông dù đã gia nhập Hồng Vệ Binh nhưng cũng phải bị đi cưỡng bách lao động ở vùng biên giới.
Cầm bút với phong cách khai phá tân kỳ, những truyện ngắn của ông nói về những cuộc sống bị hủy hoại và những sự kiện cực kỳ phi lý của cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cuốn sách được xuất bản nhan đề ‘Bodong’ và được dịch sang Anh ngữ ’ Waves’. Đây là một tác phẩm được coi như hàng đầu của một chân dung văn học hiện đại Trung Hoa, Sử gia Jonathan Spencer viết trong ‘New York Times Book Review’ đã gọi tập truyện ngắn này là biểu tượng của nỗi niềm chua cay sâu sắc đếân mức hầu như không chịu đựng nổi. Hình ảnh những truyện ngắn của Bei Dao thường có sức mạnh lôi cuốn vào những cảnh sống thực, của nhữngngười bị lôi cuốn vào cơn lốc bạo tàn của thời thế. Nó vỡ òa ra những nhân dáng tiêu biểu của thời đại,của một xã hội đầy những sự kiện tàn nhẫn đến phi lý. Cái nhìn của ông trong văn chương không phải hoàn toàn là nỗi thất vọng mặc dù ông đã nhìn và nghe với một thái độ đã được trấn tĩnh sự xúc cảm. Như trong truyện ngắn “The Homecoming Stranger” người cha trở về nhà sau hơn hai mươi năm đầy ải trong các trại tù của chính trị phạm. Hầu như tất cả nỗi cô đơn của những năm tháng phải chịu đựng một mình đã tạo cho người cha một nếp sống trầm lặng. Câu chuyện kết thúc với món quà trang sức mà người cha đã làm trong những năm tháng địa ngục cho người con gái yêu dấu. Chuỗi hạt mà ông đã nâng niu giữ gìn suốt bao nhiêu năm và đã đánh bóng bằng những vật thô sơ như cái bàn chải đánh răng cũ nát. (Hình như chuyện này quá quen thuộc với những người tù cải tạo Việt Nam. Những vòng đeo tay, những lược, những trâm cài đầu, … mà người tù cải tạo làm cho vợ, cho con, có lẽ là chứng tích của lòng nhớ thương gia đình của những người tù. Thế mà, ở văn đàn thế giới vẫn chưa có những trang văn chương dưới đáy địa ngục của người cầm bút Việt nam về sự kiện ấy!).
Hơn 130 trang sách của “Waves“ là tiếng nói chân thực của nhữngngười bị bóp nghẹt, của một trí thức thấy những giá trị của con người bị suy đồi đến một mức khó tưởng tượng nổi. Những truyện này đã đăng rải rác trong tờ báo xuất bản bất hợp pháp (báo in chui) “Today” từ những năm 1974, rối 1976 và trở lại năm 1979. Đây à những chứng tích của một thời đại đen tối nhất của lịch sử Trung Hoa…
Là thi sĩ, Bei Dao là một trong những nhà khai phá của ‘thi ca mù sương’ trong sự tăm tối, siêu hiện thực, mới lạ trong ngôn ngữ và tân kỳ trong cách biểu hiện diễn tả để qua mặt những cơ quan kiểm duyệt của Đảng Cộng Sản trong mục tiêu tấn kích chế độ.Những tập thơ được chuyển dịch sang Anh Ngữ gồm “Notes from the City of the Sun”, “The August Sleepwalker”, “New Directions”, ”Old Snow”, “Forms Of Distance“ và “Landscape Over Zero”. Tuyển tập mới nhất là “Unlock” gồm bốn mươi chín bài thơ mới viết ở Hoa Kỳ.
Viết về ‘Unlock’, nhà phê bình Andrew Ervin của Philadelphia Inquirer đã viết : ”Nếu phân loại Bei Dao chỉ đơn thuần là một người cầm bút phản kháng hay lưu vong thì chúng ta đã nhầm lẫn lớn. Ông chỉ đơn giản là một thi sĩ. Thật là không có sự đe dọa lớn lao cho các chủ nghĩa chuyên chế độc tài bằng sự tôn trọng tính chất cá nhân và trong phần nào của đời sống người viết đã làm chủ tiếng nói thanh nhã mà chúng ta đã lắng nghe từ Unlock.”
Trong tuyển tập thơ “From Old Snow”, tính chất phản kháng được nhìn rõ nét. Trong bài thơ “Requiem” ông đã vinh danh những người đã gục ngã cho tự do ở Thiên An Môn Cũng như trong bài thơ “Prague” thi sĩ đã viết về những bóng ma của lịch sử ở trên đường phố Prague để mọi người tưởng tượng ra bóng ma trên đường phố Bắc Kinh. Ký ức ấy là một biểu hiện của đạo đức và luân lý con người. Sự trao đổi hai chiều người trao và người nhận những kinh nghiệm xương máu của chính trị làm thông hiểu hơn hai mặt của cuộc sống. Có những ký ức, không bao giờ bị tàn phai…
Hãy đọc bài thơ “Requiem“ mà tôi chuyển ngữ sau đây:
Cầu Hồn (chiêu niệm cho những người nằm xuống ngày 4 tháng 6)
Không phải sự sống mà là nỗi chết.
Dưới bầu trời tím ngắt của ngày tận thế.
Đi thành toán.
Thống khổ dẫn đường về đằng trước thống khổ
Tận cùng của căm hờn là nỗi hờn căm
Mùa xuân khô hạn trôi qua
Đại họa căng ra không đứt
Con đường trở về có khi là phải biệt xứ Không phải thượng đế mà là trẻ thơ
Giữa âm thanh đe dọa của nón sắt
Nói lời nguyện cầu
Những hiền mẫu nuôi dưỡng ánh sáng
Bóng tối lại làm họ đứt hơi
Đá tảng lộn nhào, kim đồng hồ quay ngược
Mặt trời hình méo bầu dục hoàn toàn ngự trị . Không phải thân xác các bạn mà linh hồn các bạn
Thế nào cũng chung nhau ngày sinh nhật mỗi năm
Các bạn đồng niên tuế.
Yêu thương đã hình thành từ nỗi chết
Trong miên viễn bước đồng hành
Các bạn ôm nhau xiết chặt nhau
Cuộc thảm nạn ghi tên tử biệt. Bài thơ có tiếng nói trầm thống của những đớn đau cố gắng dồn chặt vào ký ức. Nói về cái chết, với những người đồng hành, để tưởng niệm những hy sinh cho tự do dân chủ.
Một bài thơ khác,bài “Prague” viết về những ngày thủ đô Tiệp Khắc quặn mình dưới vết xích ce tăng của Hồng Quân Nga Xô Viết. Một liên tưởng,từ Prague đếnBắc Kinh, cũng là trường hợp những người tay không đứng lên chống trả bạo quyền. Có những cái chết,máu đổ nhưng không vô ích. Hoa tự do đã tưới bằng máu của hy sinh.
Prague
Hàng hàng bầy của xứ sở loài mọt tấn công thành phố
Những cột đèn đường, những dung nhan ác quỷ
Kiễng chân mỏng manh chống đỡ bầu trời đêm Nơi toàn là bóng ma,đó là lịch sử
Mạch ngầm sâu lòng đất không tăm tích trên bản đồ
Là của Prague khí phách vùng dậy Thời niên thiếu của Kafka đã trải qua trên quảng trường này
Giấc mơ chơi trò trốn học, ơi giấc mơ
Là người cha nghiêm khắc, đã lên ngôi từ những áng mây Nơi mà người cha, là quyền hạn của sự kế thừa
Lũ chuột dạo chơi xuyên qua những hành lang cung điện
Bóng tối có mặt từ tụ họp vòng quanh
Bánh xe Kolesa đã vào cửa ngõ thế kỷ
Trở về từ hàng xe tăng dọc theo con phố.
Chân lý được chọn bởi kẻ thù.
Nơi chân lý ở, là nỗi lãng quên
Đong đưa giống như nhụy hoa theo gió, thân người
Đã rớt xuống lời nguyền rủa tục tĩu dơ bẩn
Cầu của vượt thời gian qua Vlatava
Một đi vào ánh sáng ban ngày chói lọi
Cả đến những tượng đài cũ xưa cũng tràn đầy ghét hận Nơi mà ghét hận, là sự vinh quang
Người bán dạo thần kỳ chìa ra một mảnh nhung
Hãy mua thời tiết đẹp với những hạt ngọc kết thành. Những hình ảnh thoạt tưởng như rời rạc mà lại có sự liên kết nào đó. Cảm xúc, không phải là những ấn tượng ập nhanh đến, mà là những chuỗi liên tưởng lan mãi ra, để một lúc biến thành nỗi mênh mông của những tâm tư muốn ngỏ. Thơ, như không có nhịp cầu dẫn dắt mà lại là trong cái tự nhiên của lòng người sẽ cảm nhận trực tiếp.
Thơ Bei Dao, là những âm vọng trầm thống. Nó đi xuyên qua sự lựa chọn của tri giác để thành những lời thẩm thấu.
Trong cuộc phỏng vấn của The Journal of The International institute, ông khẳng định rằng ông hay hướng ý nghĩ mình về một số người bạn thân sẽ là độc giả. Ông viết cho một nhóm nhỏ những người cùng tâm huyết hơn là viết cho tập thể đại chúng rộng lớn mặc dù đó là mục tiêu chính phải thuyết phục. Ông nói tôi không muốn thơ của tôi có vẻ giống như âm thanh đã được chọn lựa sẵn cho một bản đồng ca đã làm mệt mỏi người nghe. Thơ của ông, nói về tình yêu và nỗi chết, dĩ nhiên, của một người bình thường và không qua một lăng kính triết hoc và luận lý nào. Thơ là Thơ, trước nhất và sau cùng chỉ có vậy. Nhưng thơ, chính là ngôn ngữ tồn đọng lại từ những năm tháng lịch sư dằng dặc của cả một dân tộc. Thơ nói lên tất cả những nỗi niềm khó ngỏ nhất. Thơ có chữ mà như không chữ. Dướng như trong cái không lại chứa đựng mênh mông hơn… Thơ Bei Dao có những hình tượng của lịch sử, mà nhiều khi trong sự chiêm nghiệm, là những tình cờ của kiếp sống. Con đường cụt, không phải là con đường sai, lầm lẫn còn sửa chữa được chứ cụt đường thì vô phương. Làm người lưu vong vì văn chương phản kháng, chắc không phải là con đường cụt?
Tiểu luận văn chương của Bei Dao được in trong “Blue House” mà một nhà phê bình văn học đã cho rằng volume của chính trị đã được vặn nhỏ ở đây. Cuốn sách gồm bốn phần,là những chân dung văn học gần gũi với tác giả: Allen Ginsberg, Gary Snyder, Elliot Weinberger, Clayton và Caryl Eshelman, Jonathan Spence, Tomas Transtsmer và Octavio Paz. Ở đây cá tính của mỗi người được làm nổi bật và văn chương cũng phần nào biểu lộ tâm, sinh lý của từng khuôn mặt. Như Ginsberg với 1 tâm thức mênh mông đến có lúc như một người điên bất chợt, của khuôn dáng lúc xa vắng lúc nồng cháy. Như Snyder phong cách một thiền giả, nhưng trong cơn vật vã của tiềm thức cũng không trấn tỉnh nổi những xao động hiện đến.Như Weinberger như một hình dạng Don Quixote của “cynicism”. Như Octavio Paz thì vĩ đại và là một sư tử già ngẩng cao đầu. Nhưng tất cả đều là hình tượng của những tính chất lưu vong. Allen Ginsberg thì lưu vong từ quá khứ của mình. Snyder thì lưu vong từ văn minh và văn hóa của chính quê hương ông.Eshlman là một điển hình của lưu vong từ sự cách tân. Giáo sư của đại học Yale, Jonathan Spence, lưu vong trong cái kinh ngạc của sử học. Cũng như thi sĩ Thụy Điển Trantsmer, sau cơn nhồi máu cơ tim đã lưu vong trong chính thân xác của mình.
Bei Dao viết trong tâm cảm của người luôn nhìn về quê hương và những kỷ niệm sống trong tâm ông đến tận bây giờ. Hầu như tất cả độc giả của văn chương Anh Ngữ hiện đại đều hiểu chất văn chương của James Joyce là “ thầm lặng, lưu vong, duyên dáng”. Bei Dao không muốn lưu vong, nhưng trong ý nghĩ đã làm thành một Joyce đổi thay tốt đẹp hơn xem như rất đỗi lạ lùng. Âm vọng của ngôn ngữ tao thành cảm xúc không đến nỗi quá sức chịu đựng. Bei Dao muốn về trở lại quê nhà và giấc mơ ấy thể hiện trong những trang tiểu luận. Ông thường nói về thời đã qua của văn minh Trung Hoa cổ xưa, nhưng cũng có lúc, chân thực hơn : ”Trong những điều hồi nhớ lại từ quá khứ tôi không bao giờ có sự thơ mộng lãng mạn của tuổi trẻ. Trong những năm tháng ấy mỗi người trong bọn tôi là những con sói đơn độc hung dữ, chịu đựng, kiên trì, ích kỷ và luôn luôn sẵn sàng để đấu chiến”. Bây giờ, đường về quê nhà như một ngõ cụt, tâm trạng ấy được viết trong” Daughter”., một thế giới cô độc khủng khiếp in sâu trong tiềm thức. Người châu Mỹ có thể hiểu biết điều ấy từ lúc mở mắt chào đời nhưng với người Trung Hoa thì phải học hỏi kinh nghiệm ấy. Nhưng chẳng có bài học nào chính thức, mà mỗi người qua đời sống để hiểu được bài học tự nhiên cho mình.
Nếu bài học cô đơn không có trường lớp nào dạy bảo thì với Bei Dao, qua kinh nghiệm 15 lần đổi chỗ cư trú qua 7 nước phương tây trong khoảng thời gian từ 1989 đến 1995, tất cả trong “Moving” như một trường hợp cô độc của một người Á Châu đến xã hội phương Tây.
Tất cả trong ‘Blue House“ là những hình ảnh trong suốt của một niềm mơ ước an lành. Từ “ God’s Chinese Son” đến “Gao Ertai, Witness”, rồi “Reciting”, thiên nhiên và con người hòa nhập. Những câu văn chuẩn có giá trị như thước đo một tâm tình lưu vong chuộng yên bình nhưng vẫn phải lang thang trong những nơi chốn xa lạ.
Trở về quê hương là một giấc mộng, với Bei Dao. Năm 1994, ông về thăm gia đình thì bị giữ lại ở phi trường, cô lập và hạch hỏi về những việc làm đối kháng trước đó và hiện tại. Công an truy vấn về những bài viết đăng trong báo in không giấy phép ‘To day” và những hành vi liên quan đến sự nổi dậy của sinh viên tại Thiên An Môn. Rốt cuộc ông phải quay trở lại Hoa Kỳ. Trùng phùng với vợ con chỉ là giấc mộng,với một thi sĩ yêu hòa bình yêu tự do!
Bei dao hiện giờ là giáo sư dạy môn Creative Writing tại Beloit College. Ông cũng là giảng sư tại Đại học Stanford. Cũng như nhận giải Gugeinheim Fellowship và là thành viên danh dự của “The American Academy of Art and Letters“.Tác phẩm của ông được dịch ra 25 ngôn ngữ và cũng là chủ bút của tạp chí văn học Trung Hoa ”Today”. Năm 2000, ông dẫn đầu trong danh sách những người là candidate của giải Nobel văn chương. Và chỉ thua Cao Hành Kiện có một phiếu. ..
Nguyễn Mạnh Trinh http://www.viet.no/content/view/327/67/