Động hoa vàng - Thơ - Phạm Thiên Thư
xuxukalo 16.01.2008 16:36:33 (permalink)
Rằng xưa có gã
từ quan
Lên non tìm
động hoa vàng
ngủ say



*
* *


Động hoa vàng



Hay cõi giới tâm thức nguyên sơ
Là khu rừng mầu nhiệm
Nơi trú ngụ của mọi cỏ hoa
Là chân trời bát ngát
Chốn reo ca của những cánh chim trở về
Là trang trại  mầu lam bên kia dòng dịch hóa
Là vàng ngọc không phai mờ dưới đáy sông ngô...
Xin phá tung cánh cổng nhị tướng
Bước vào!





I



Mười con nhạn trắng về tha
như lai
thường trụ trên tà áo xuân
vai nghiêng nghiêng suối tơ huyền
đôi gò đào
nở
trên miền tuyết thơm



II



Xe lên bụi quán hoa đường
qua sương trắng dặm phố phường úa thu
tiếng chim ướt sũng hai mùa
hạt rơi thêm lạnh hững hờ mây qua



III



Dế buồn dỗ giấc mù sa
âm nao lãng đãng tơ ngà sương bay
người về sao nở trên tay
với hài đẫm nguyệt thêm dài gót mơ



IV



Con khuyên nó hót trên bờ
em thay áo tím thờ ơ giang đầu
tưởng xưa có kẻ trên lầu
ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa



V



Tóc dài cuối nội mây xa
vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay
dùng dằng tay lại cầm tay
trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa



VI



Từ chim
thuở núi xa xưa
về đây
rồi lại hạt mơ cuối rừng
từ em
khép nép hài xanh
về qua
giục nở hồn anh đóa sầu



VII



Ừ thì mình ngại mưa mau
cũng đưa anh đến bên cầu nước xuôi
sông này chảy một dòng thôi
mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông



VIII



Ngày xưa em chửa theo chồng
mùa xuân em mặc áo hồng đào rơi
mùa thu áo biếc da trời
sang đông lại khoác lên người áo hoa



IX



Đường về hái nụ mù sa
đưa theo dài một nương cà tím thôi
thôi thì em chẳng yêu tôi
leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng



X



Sao em bước nhỏ ngập ngừng
bên cầu sương rụng mấy từng mai mơ
đêm về thắp nến làm thơ
tiếng chân còn vọng nửa tờ thư tôi



XI



Đôi uyên ương trắng bay rồi
tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
nửa đêm thắp mảnh chăn hồng
lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha



XII



Con chim chết dưới cội hoa
tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
mai anh chết dưới cội đào
khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu



XIII



Tường thành cũ phiến bia xưa
hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
chiều xanh vòng ngọc trao tay
tặng nhau khăn lụa cuối ngày ráng pha



XIV



Đêm dài ươm ngày nhụy hoa
chim kêu cửa mộ trăng tà gõ bia
em ơi rủ tóc mây về
nhìn trăng nỡ để lời thề gió bay



XV



Đợi nhau
tàn cuộc hoa này
đành như cánh bướm đồi tây hững hờ
tìm trang lệ ố hàng thơ
chữ xưa quyên giục bây giờ chim di



XVI



Mây xưa cũng bỏ non về
em xưa cũng giã câu thề đó đây
nhờ đành biết mấy tầm tay
lòng chim biển bắc hòa gầy bãi đông



XVII



Đợi ai trăng dõi hoa buồn
vắng em từ thuở thêm buồm gió xuôi
chiều chiều mở cổng mây trôi
chênh vênh núi biếc mắt ngời sao hôm



XVIII



Thế thôi phố bụi xe hồng
hồ ngăn ngắt giục đôi dòng nhạn bay
đưa nhau đấu rượu hoa này
mai đi dã hạc thành ngoài cuồng ngâm



XIX



Xuống non nhớ suối hoa rừng
vào non nhớ kẻ lưng chừng phố mây
về thành nhớ cánh chim bay
xa thành thương vóc em gầy rạc hoa



XX



Hạc xưa về khép canh tà
tiếng rơi thành hạt mưa sa tần ngần
em về hong tóc mùa xuân
trăng trầm hương tỏa dưới chân một vành



XXI



Em nằm ngó cội thu xanh
môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
về em vàng phố mây trời
tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân



XXII



Thì thôi tóc ấy phù vân
thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
thì thôi mù nhẹ phố phường
thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi



XXIII



Gầy em vóc cỏ mây dời
tay em mai nở chân trời tuyết pha
ngày dài ngựa soải cầm ca
trán cao ngần nửa trăng tà ngậm sương



XXIV



Xe lăn bánh nhỏ bụi đường
Lao xao vó rụng trên đường phố mây
Mưa giăng ráng đỏ hao gầy
Đôi con ngựa bạch ném dài tuyết sa



XXV



Chim nào hát giữa thôn hoa
tay nào hong giữa chiều tà tóc bay
lụa nào phơi nắng sông tây
áo xuân hạ nọ xanh hoài thu đông



XXVI



Con chim mùa nọ chưa chồng
cũng bay rời rã trong dòng xuân thu
từ em giặt áo đông tơ
nay nghe lòng suối hững hờ còn ngâm



XXVII



Thuyền ai buông lái đêm rằm
sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào
cửa sương nhẹ nở âm vào
tay nghiêng bầu nậm rượu đào trầm ca



XXVIII



Lên non cuốc sỏi trồng hoa
xuôi thuyền lá trúc la đà câu sương
vớt con cá nhỏ lòng đòng
mãi vui lại thả xuống dòng suối tơ



XXIX



Vào non soi nguyệt tầm rùa
đọc trên mai nhỏ xanh tờ lạc thư
thả rùa lại đứng ưu tư
muốn qua hang động sống như nguyệt rùa



XXX



Em nghiêng nón hạ cầu mưa
sông ngâm mây trắng nước chưa buồn về
hoa sầu cỏ cũng sầu chia
lơ thơ xanh tụ đầm đìa vàng pha



XXXI



Đất nam có lão trồng hoa
mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
lại đêm bầu ngọc ra trồng
bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân



XXXII



Người vui ngựa chợ xe thành
ta leo cành trúc bên ghềnh thác rơi
theo chân chim gặp mây trời
lại qua khói động hỏi người tu non



XXXIII



Bông hoa trắng rụng bên đường
cánh thơm thông điệp vô thường tuyết băng
con ong nhỏ mới ra giàn
cũng nghiêng đôi cánh nhụy vàng rụng rơi



XXXIV



Mùa xuân bỏ vào suối chơi
nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa
múc bình nước mát về qua
ghé thôn mai nọ hỏi trà mạn xưa



XXXV



Chim từ bỏ động hoa thưa
người từ
tóc biếc đôi bờ
hạ
đông
lên non kiếm hạt tơ hồng
đập ra chợt thấy
đôi dòng
hạc bay



XXXVI



Người về
đỉnh núi sương tây
ta riêng nằm lại
đợi ngày
mướp hoa
bến nam có phố giang hà
nghiêng nghiêng
nậm ngọc
dốc tà huy say



XXXVII



Tình cờ anh gặp nàng đây
chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
qua sông có kẻ chợt buồn
ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu



XXXVIII



Mốt mai em nhớ bao giờ
bãi dâu vãn mộ cho dù sắc không
chân chim nào đậu bên cồn
ngựa xuôi có kẻ lại buồn dấu chim



XXXIX



Đợi người cuộc mộng thâu đêm
sông ngân trở lệ dài thêm dòng nhòa
anh nằm gối cỏ chờ hoa
áo em bạch hạc la đà thái hư



XL



Em từ rửa mặt chân như
nghiêng soi hạt nước mời hư không về
thau hương hiện kính bồ đề
phấn son chìm lắng hạt mê luân hồi



XLI



Ta về rũ áo mây trôi
gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
rằng xưa có gã từ quan
lên non tìm động hoa vàng ngủ say



XLII



Ngựa xưa qua ải sương này
còn nghe nhạn lạc kêu hoài bãi sông
nước xuôi gờn gợn mây hồng
tiếng ca lạnh thấu hoàng hôn giục đò



XLIII



Hoa đào tưởng bóng đào xưa
thuyền sang bến nọ dọng mờ khói vơi
hoa dương vàng nhạt sầu người
ta về uống nước sông khuây khỏa lòng



XLIV



Đưa nhau đổ chén rượu hồng
mai sau em có theo chồng đất xa
qua đò gõ nhịp chèo ca
nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say



XLV



Khăn trăng từ độ trao tay
nửa tan cát suối
   nửa mài nghiên sương
mốt mai lòng có nghe buồn
mảnh trăng
   hiện hóa thiên đường cõi chơi



XLVI



Nhện cheo leo mắc tơ trời
dòng chim qua hỏi
mộ người ta dương
đánh rơi hạt mận bên đường
xuân sau
mọc giữa chân thường
cội hoa



XLVII



Nụ vàng
hương rộ tháng ba
nửa đêm dậy ngó
trăng tà tiêu tương
chẳng như cội liễu bờ dương
tóc xanh mướt
giữa
vô thường sắc không



XLVIII



Mai nào thơm ngát thu đông
lược em chải rụng đôi dòng tơ xanh
đôi chim hồng yến trên cành
ngẩn ngơ quên rĩa lông mình điểm trang



XLIX



Mùa xuân
mặc lá trên ngàn
mùa thu
mặc chú bướm vàng tương tư
động nam hoa có thiền sư
đổi kinh
lấy rượu tâm hư
uống tràn



L



Nến khuya lửa hắt hiu vàng
trang kinh lác đác đôi hàng nhạn sa
ý nào hóa hiện ngàn hoa
chữ nào cẩn nguyệt trên tà áo ni



LI



Dỗ non suối giọng thầm thì
độ tam thế mộng xá gì vóc hoa
ni cô hiện giữa ta bà
búp tay hồng ngọc nâng tà áo trăng



LII



Tiếng chim trong cõi vô cùng
nở ra bát ngát trên rừng quế hương
tiếng em hát giữa giáo đường
chúa về trong những thánh chương
   bàng hoàng



LIII



Đố ai nhớ hết lá vàng
đố ai uống cạn sương tàng trăng thâu
đố ai tát cạn mạch sầu
thì ta để tóc lên cầu đón ai



LIV



Em về sương đẫm hai vai
dấu chân là cánh lan dài nở đêm
từ em hé nụ cười huyền
mùa thu đi mất trên miền cỏ hoa



LV



Guốc mòn lẫn tiếng sơn ca
sư về chống gậy trúc qua cầu này
ngó bờ suối lạnh hoa tay
thương sao dòng nước trôi hoài thiên thanh



LVI



Có con cá mại cờ xanh
bơi lên nguồn cội tắm nhành suối xuân
nửa dòng cá gặp phù vân
hỏi sao mây bỏ non thần xuống chơi



LVII



Dù mai lều cỏ chân trời
khơi hương lò cũ khóc người trong thơ
em còn ửng má đào tơ
tóc xưa dù có bây giờ sương bay



LVIII



Lên non ngắt đóa hoa này
soi nghiêng đáy suối bóng ai nhạt nhòa
nom hoài chẳng rõ là ta
tắm xong khoác áo hát ca về làng



LIX



Tay đeo vòng ngọc xênh xang
áo em bay giải tơ vàng thiết tha
bước chân tìm chán ta bà
ngừng đây nói nhỏ: đâu là vô minh



LX



Hỏi con vạc
đậu bờ kinh
cớ sao lận đận cái hình như không
vạc rằng:
thưa bác thiên thư
mặc chi cái áo
thiền sư ỡm ờ



LXI



Nước đi từ thuở bao giờ
dòng xuôi
người đứng trên bờ ngó xuôi
chừng đâu dưới bến hoa tươi
buộc thuyền xưa đã có người ngó sông



LXII



Từ hôm em bỏ theo chồng
áo trắng em cất áo hồng em mang
chiều nay giở lại bàng hoàng
mười năm áo cũ hoen vàng lệ xanh



LXIII



Đôi chim nho nhỏ trên cành
giục nhau đan tổ cỏ xanh bên đường
nửa đời mây nước dư phương
thiền sư ngắt cỏ cúng dường phật thân



LXIV



Gò chiều ùn bụi sương lên
hỏi ra mới biết nơi yên cành vàng
bên mồ chồn cáo đùn hang
chim kêu như lảnh tiếng nàng ngân nga



LXV



Cuối xuân ta lại tìm qua
tiểu thư chi mộ thềm hoa dại tàn
sớm thu ta đánh đò sang
bên đường cổ mộ lại vàng cúc hoa



LXVI



Đường dài xao xác chim ca
người còn khoác nón theo tà dương nao
ván cờ bay trắng bông đào
sao lên núi thẳm trăng vào chén không



LXVII



Đồi thu vắt suối mây hồng
chim xanh lác đác ngược dòng hoa tiên
bấc sầu lửa lụn chờ em
lệ xưa ai đã đổ nên dầu này



LXVIII



Đón em như ngóng chim trời
bãi xuân sớm đầu chiều dời khói thu
em còn áo trắng ngày xưa
trong anh muôn thuở bao giờ lệ hoen



LXIX



Khơi trầm thơm tụng kinh hiền
máu xuân mạch lạnh trong miền xương da
vườn chùa có nụ hàm ca
sương khuya: pháp bảo
trăng tà: vô môn



LXX



Mai tươi cánh nở bên cồn
mưa bay lấm tấm cành hương trắng ngời
thu đông tàng ẩn kho trời
hạt rơi rụng ngọc mai rời rã hoa



LXXI



Cổng tùng mở cánh sao sa
nhã lan loáng thoáng tiếng gà xóm mai
lên chùa
dâng đĩa hoa nhài
chợt viềng trăng lạnh trên hài
tổ sư



LXXII



Chuông ngân chiều lặng trầm tư
tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
điệu về tay giấu chùm bông
gót chân đất phật trổ hồng hằng sa



LXXIII



Bóng trăng tịch mặc hiên nhà
thành đàn nẩy hạt tỳ bà quyện hương
gió thu từ độ tha hương
về trên hốc gỗ bên đường lặng im



LXXIV



Áo em vạt tím ngàn sim
nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ
yêu nhau từ độ bao giờ
gặp đây giả bộ hững hờ khói bay



LXXV



Tình cờ như núi gặp mây
như sương đậu cánh hoa gầy tiêu dao
tỉnh ra thì giấc chiêm bao
chuyện mười năm cũ lại nao nao lòng



LXXVI



Cành sen
lá trĩu sương trong
áo ni sám vạt trời
hong buồn về
tay nào nghiêng nón thơ che
tay nào lần
chuỗi bồ đề xanh xao



LXXVII



Đôi mày
lá phượng cất cao
đôi môi chín
ửng khoé đào rừng mơ
tiếng nàng vỡ bạc thành thơ
tụng dòng kinh tuệ
trên tờ khói mây



LXXVIII



Tóc em
rừng ngát hương say
tay em dài nụ hoa lay
dáng ngà
mắt xanh
bản nguyệt di đà
bước trầm hương nhẹ lẫn
tà dương chim



LXXIX



Mắt nàng ru chiếc nôi êm
ru hồn tôi ngủ ngàn đêm tuyệt vời
em là hoa hiện dáng người
tôi là cánh bướm cung trời về say



LXXX



Một đêm nằm ngủ trong mây
nhớ đâu tiền kiếp có cây hương trời
cây bưởi trắng ngát hương đời
nụ là tay phật chỉ người qua sông



LXXXI



Non xanh khoác áo sương hồng
con chim điểm tuyết ngoài đồng vụt bay
tiếng kêu lạnh buốt lòng tay
ngón buông lại chợt tuôn đầy lòng hoa



LXXXII



Em bên cửa chuốt tay ngà
cội lan đông mặc vừa sa mấy nhành
ngày em ướp áo hồ xanh
con uyên tha thiết trên cành gọi thu



LXXXIII



Ni về khép cửa chùa tu
sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng
thu vương ngọn chổi đôi bông
thoảng dân hương lạ bướm vòng cành duyên



LXXXIV



Sư lên chót đỉnh rừng thiền
trong tim chợt thắp một viền tà dương
ngón tay nở nụ đào hương
cầm nghiêng tịnh độ một phương diệu vời



LXXXV



Một dòng hoa nổi trên trời
một dòng hoa nở trong người trầm tư
cánh nào mở cõi không hư
phiến băng tuyết khảm một tờ kim cang



LXXXVI



Thư em
ướp nụ lan vàng
lời em gió núi chiên đàn
thoảng xa
áo em
phất cõi di đà
ngón chân em nở
cánh hoa đại từ



LXXXVII



Chênh vênh đầu trượng thiền sư
cửa non khép ải sương mù bóng ai
non xanh ướm hỏi trang đài
trăm năm còn lại dấu hài động hoa



LXXXVIII



Ngày xưa trên giậu vàng hoa
chiều chiều kê chõng nằm ra ngó trời
năm sau em bỏ đi rồi
ta về ngồi lắng mưa rời giậu buồn



LXXXIX



Trên nền gạch nẻ rêu phong
xưa phơi nhã điệu
giờ hong đóa quì
trẻ đào bãi cỏ xanh rì
được thanh kiếm quỉ bao kỳ thu han



XC



Non đem nhạn nhốt trong thành
cho sông chưa trở yếm xanh dưới cầu
người còn dệt lụa tằm dâu
đêm nghe mưa rụng thiên thâu ngoài giàn



XCI



Núi nghiêng suối vắt tơ đàn
nhìn ngoài thạch động mưa vàng lưa thưa
nghiêng bình trà nhớ hương xưa
từ
vàng hoa nọ
bây giờ vàng hoa



XCII



Sáng nghe lan rụng mái nhà
chừng như mué nhẹ núi xa mùa này
đường về mù tịt ngàn mây
về nam đợi cánh chim bay xạc xào



XCIII



Mây dù chẳng chất non cao
đường về dù chẳng sông đào nông sâu
đêm đêm lòng giục nẻo sầu
thềm trăng ngỡ tưởng
hoa cau rụng thầm



XCIV



Nhớ cha
giọt lệ khôn cầm
dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh
nghiêng ly mình cạn bóng mình
tay ôm vò nguyệt một mình mây bay



XCV



Gối tay nệm cỏ nằm say
gõ vào đá tụng một vài biến kinh
mai sau mình lại là mình
về lưng núi phượng một mình cuồng ca



XCVI



Gây giàn thiên lý vàng hoa
lên non cắt cỏ lợp nhà tụ mây
xuống đầm tát cá xây cầu
bới khoai vùi lửa nằm dài nghe chim



XCVII



Khách xa nhớ đến nhau tìm
lên đồi trẩy một giỏ sim làm quà
hứng nước suối thết bình trà
hái bầu nấu bát canh hoa cười khàn



XCVIII



Vào hang nú nhập niết bàn
tinh anh nở đóa hoa vàng cửa khe
mai sau thí chủ nào nghe
tìm lên xin hỏi một bè mây xanh



XCIX



Hoa vàng ta để chờ anh
Hiện thân ta hát trên cành tâm mai
Trần gian chào cõi mộng này
Sông ngân tìm một bến ngoài hóa duyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2008 11:40:24 bởi Huyền Băng >
#1
    xuxukalo 17.01.2008 13:07:06 (permalink)
    CHÂN DUNG MỘT NẾP DUYÊN
          (Bạt của Tam Ích)





    I



       Tôi nói "nếp duyên" ở đây là vì "duyên" cũng như một điểm của kiến trúc lớn. Có duyên ấy cho nên mọi thành tố của khối kiến trúc thành hình vạn hữu riêng chung trong càn khôn. Vạn hữu không riêng chung nhưng thị giác con người nhìn như riêng như chung - "một" mà thôi. Đó là lẽ "thiền".
       Còn nếp là thứ tự sắp xếp cho thành một thực thể thẩm mỹ của con người. "Nếp duyên" đây là nếp duyên xui tôi cả một đời tìm ra được một "tha nhân" tìm đạo, là đạo, thấy đạo - khi nói chuyện với tôi tưởng như thấy có "một" không có thiên sai vạn biệt.



    II



       Số là cách đây hai mươi năm. tôi cùng bạn ngồi uống cà phê đen, nhìn ngựa trắng qua cửa sổ, lòng lẳng lặng. Mây vân cẩu đã bay xa...
       Thấy ông bạn tôi họ Mặc - ngày nay đã là cổ nhân - có một tập thơ nhỏ và mỏng. Tôi hỏi gì đó. Bạn tôi nói thơ đó. Tôi hỏi thơ hay không. Bạn tôi nói hay hay dở tuỳ người thưởng ngoạn. Tôi hỏi thơ người trẻ hay người già, người đã từng làm hay người mới làm. Bạn tôi đưa cho tôi và nói thử đọc coi - đưa mà đưa dè dặt vì bạn biết tôi chỉ thích thơ hay.



    III



       Thì ra là thơ của một nhà tu. Tên: Phạm Thiên Thư.
       Tôi đọc vài câu. Tôi lật vài trang. Bỗng nhiên quên mất mình đương đọc thơ - vì đương cảm thơ, cùng thơ làm "một".
       Tôi hỏi bạn tôi tại sao nhà tu mà không có pháp danh mà lại là họ Phạm mà tên là Thư trơn. Bạn họ Mặc nói đó là một sinh viên hiểu nhiều về Phật, đã từng thảo luận liên miên với các Thượng toạ mà không hiểu "thơ" ở đâu, "đạo" chỗ nào, "thiền" ở đâu - khi nói, lòng không biết chán, "tâm" trụ mọi nơi, "tâm" trụ một điểm không trong không.
       Thế là tôi bị cảm hoá ngay từ đó vì thơ hay: "thơ" và "đạo" không cùng biên giới mà như có biên giới - biên giới không tìm ra, đó là chỗ khó của người tu hành làm thơ.



    IV



       Tôi theo dõi.
       Tôi không lầm.
       Thơ đã hay rồi hay mãi.
       Trước hết là "thơ" diễn lại không "kinh".
       Rồi "kinh" thành không, "không" thành thơ.
       Ngày nay có "Động Hoa Vàng" ra đời. Tôi đề lời "bạt".
       Đọc thơ với con mắt người đọc "thơ mới", thì thơ đi một "mạch" không từng đứt, mạch chuyển như suối chảy xuôi.
       Rồi lại đọc thơ như "thơ" tự do thì người đời nay chưa ai vọng "nhạc tinh" thần tình đến thế. Chỉ có "nhạc", không có "thơ".
       Rồi đọc thơ nhừ "từ khúc" như "Tống biệt" của "Tản Đà" thì Tản Đà chết đã lâu, thần thơ Tản Đà hết dư âm - "từ khúc" cổ nhân lại vang vọng lên trong thơ Phạm Thiên Thư.



    V



       Và lạ nhất là ghép ngược ghép xuôi, ghép như ghép hành trình "loạnh vũ", thì thơ là thơ "lục bát" - rất Việt Nam. Đó là chỗ khó nhất, cổ kim chưa ai làm nổi: chỉ "đạo" va "thơ" và "Việt Nam" mới hoá thể thành nếp thơ lối ấy.
       Thành ra Phạm Thiên Thư là người độc đáo - có một không hai.





    Gần hết hè Tân Hợi
    Tam Ích     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2008 13:08:56 bởi xuxukalo >
    #2
      xuxukalo 17.01.2008 14:01:22 (permalink)
      động hoa vàng
      ... chốn đi về của hồn thiên cổ

            (Bạt của Joseph Huỳnh Văn)



         Có lẽ không tự đặt trước những câu hỏi của từng thời kỳ, của từng khuynh hướng thì ca, một số tác phẩm văn chương đã nhẹ nhàng tới được với nhiều người đọc, không cùng một quan niệm thi ca. Viết, là một hành động tự do tiên khởi để rằng giữa tác giả và tác phẩm có được một nguồn mạch trong suốt.
         Một tác phẩm tránh được những phân - biện, đến với mỗi một người đọc như một tiếp xúc riêng tư, còn mở ra quan niệm về ohân sinh và vũ trụ của tác giả, một khía cạnh mà những người quá thiên trọng văn chương đã không ngần ngại cắt rời nó khỏi tính chất nghệ thuật của tác phẩm. Trong "Động Hoa Vàng", cũng như trong một số tác phẩm cổ điển trước đây, khía cạnh này đã tạo được một khí - sắc thẩm - mỹ cho những câu thơ: cái sầu về thời gian, về không gian là cái sầu. Đẹp của thi ca, cõi không và thời gian như là ngôn ngữ muôn thuở trong văng chương. Như là ngôn ngũ, Đạo cũng là cách nói phơi mở những chân trời sâu thẳm của cuộc đời. Người ta không còn lo sợ vì cái giới hạn của không gian và thời gian trên cuộc sống thực: không băn khoăn về tôn giáo như một biện chứng giải thoát, người ta chỉ cảm nhiễm những nét đẹp thâm trầm ẩn dấu trong cuộc sống, cảm nhiễm vẻ sầu muộn mênh mông của Nơi Chốn và Sáng Chiều như cái đẹp không phai trong văn chương.
         Ở cái đẹp không phai đó, bao hàm tính chất không gián đoạn của Nơi và Thời; những lời thơ là chốn đi, về của hồn thiên cổ. "Ngàn năm gương cũ soi kim cổ" - đã thiên cổ và mãi mãi thiên cổ - không tan biến vì không ngớt được gợi dậy qua bao cuộc biển dâu:
      Tường thành cũ phiến bia xưa
      Hồn dâu biển gọi trong cờ lau bay
          Giữa một thời mà ngôn ngữ thơ bị phân tán, những chữ đẹp đó nhắc tới nỗ lực hàn gắn cái Muôn Thuở - Muôn Nơi luôn luôn dang dở trong văn chương.
         Tìm về cái Muôn Thuở - Muôn Nơi cũng có nghĩa là không về đâu cả, nên trong Thơ, người thi sĩ biết rõ điều nghịch lý đó, hiểu rằng chỉ còn có cách về, chỉ còn có những lời đẹp cho giấc mộng không bến bờ. Những chữ tìm tới giấc mộng không bến bờ, không ràng buộc, thường có vẻ đẹp hững hờ đạm bạc.

      *

      *     *


         ..."Trao nhau khăn lụa, nhớ ngày sầu đưa"... Ngày sầu đưa, ngày nào? Trong kiếp nhân sinh nhiều hệ luỵ với tình,, đã có mấy ngày, mấy thuở "sầu đưa", và ai biết thuở đó là thuở nào...
         ..."Hoa dương vàng nhạt sầu người"... Vàng nhạt, nhạt vì mới khởi đầu? Vì đã kinh qua những chiều mưa nắng? Hay nhạt là trạng thái muôn thuở của sắc hoa và hồn hoa?
         ..."Lên non tìm động hoa vàng ngủ say"... Động hoa vàng, nào ai biết ở đâu, vì đâu chẳng có động hoa vàng, có phải nơi đây là nơi mà một tay tài tử ngày xưa gọi là "đến chơi một làng không có nơi đâu".
         Có phải những ngày sầu đưa, những sắc vàng nhạt, những động hoa vàng là cõi thơ của Phạm Thiên Thu? Xa thì từ muôn thuở, muôn nơi, mà gần thì ở chính ngay lòng thi sĩ; cho nên tuy thân thiết, lời thơ vẫn mang cái vẻ ngậm ngùi xa vắng. Là rượu, không, chỉ là nước, nước đấy thôi:
      Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say.
          Những lời thơ này bởi thế, được coi là ở trong truyền thống cổ điển: cổ điển hiểu như một phẩm tính nghệ thuật, chứ không phải trong ý nghĩa đối chiếu thời gian và truyền thống hiểu như một giá trị đã ổn định. Sáng tạo ở đây là tìm thấy được, tìm về được những chữ như thể đã luôn luôn có sẵn cái đẹp muôn nơi, muôn thuở mà thể thơ lục bát, với những yếu tính nghệ thuật chủ quan của nó, coi như có khả năng diễn rả thích hợp. Trong truyền thống cổ điển này, ý hướng văn chương của Động Hoa Vàng là viết những câu thơ "người đời mai đây có thể bỏ chúng, nhưng chúng không bao giờ bỏ người đời".


      *

      *      *



         Những vần thơ xa vắng ngậm ngùi, hay đấy là những lời không ngừng gởi đến cho người đọc như gởi đến cho người phương xa. Xa từ dĩ vãng xa đến mai sau, xa khắp mọi cõi lòng, cho đến khi nào những lời thơ này vẫn còn được xem như một ngôi làng mà Nhất Linh gọi là Từ Lâm, một ngôi làng không làm người uý phục say đắm, nhưng "điều độ, ân ái, dễ xiêu người"; cho đến khi nào giữa gó bão của người đời; lòng người vẫn thấy cần thiết ấp ủ một "làng từ lâm". Làng từ lâm, dòng thơ còn ngân vang những âm thanh trầm lặng như "bóng tịch dương" nhưng bền vững như "hồn thu thảo" tự ngàn xưa không tan giữa một thời bị mọi cuồng nộ đốt cháy, chút nguyên sơ thoát ra từ những khổ đau của kiếp người mà hơn ai cả thi sĩ, kẽ mỗi ngày bị xô dạt giữa bao nhiêu sức mạnh, đã gánh chịu và thâm cảm đến tận cùng.
          Với chút tuyết trắng ở trong tâm hồn, những người thi sĩ ấy đã sáng tạo nên cõi thơi hùng tráng giữa cõi đời tan rã

      JOSEPH HUỲNH VĂN
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2008 14:07:47 bởi xuxukalo >
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9