Tản Mạn Cuối Tuần
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 5 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 70 bài trong đề mục
Lý Lạc Long 09.01.2006 16:53:54 (permalink)
Niềm Tin và Cuộc Sống

Có lẽ không gì buồn chán bằng một cuộc sống không định hướng! Không gì thất vọng bằng một cuộc đời không lý tưởng, không lẽ sống! Sống mà không biết tại sao mình sống! Sống mà không biết mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường, khổ đau và thất vọng nhất. Mọi người, bạn cũng như tôi, cần phải có một niềm tin vào một lý tưởng hay một lẽ sống nào đó để mà sống .

Theo một câu chuyện cổ ở nước Anh, liên tục trong 500 năm liền. Cứ mỗi đêm Giáng Sinh dân chúng tại một thành phố nọ đều tụ họp lại ở một thánh đường, không phải để mừng ngày sinh của Chúa mà để chờ đợi Chúa trở lại. Từ 500 năm qua, cứ mỗi đêm Giáng Sinh, mọi người đều đến ngôi thánh đường đổ nát ấy để cầu nguyện theo ý hướng ấy. Nhưng ngày trở lại của Chúa Giêsu vẫn chưa xảy đến. Khi được hỏi: Bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong đêm Giáng Sinh tại thành phố của bạn không? Một trong những nhân vật chính trong câu chuyện trả lời như sau:
- Không, tôi không bao giờ tin như thế.
- Vậy tại sao bạn lại đến đây mỗi đêm Giáng Sinh?
Nhân vật này mỉm cười trả lời:
- Giả như Chúa thực sự trở lại trong đêm đó và tôi là người duy nhất vắng mặt thì sao?
Nhân vật chính trong câu chuyện trên đây quả thật không có một niềm tin siêu nhiên nhưng ít ra người này còn có một niềm tin nào đó để đến ngôi thánh đường trong đêm Giáng sinh cầu nguyện với mọi người.

Gần đây một vị mục sư, tại một nhà thờ Anh Quốc đã phải công khai xin lỗi các trẻ em vì ông ta đã quả quyết là không hề có ông già Noel. Ông nói với các em rằng: Người tặng quà cho các em trong đêm Giáng Sinh không phải là ông già Noel mà chính là cha mẹ các em. Các em đã khóc sướt mướt, khiến cho cha mẹ các em đã phải lên tiếng phản đối và cuối cùng vị mục sư này đã công khai đính chính.

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, dù ông già Noel chỉ là truyền thuyết nhưng cần thiết cho tâm hồn trong trắng của trẻ em cũng như niềm tin cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cần có niềm tin để tiếp tục sống. Chúng ta cần có niềm tin để vượt qua những nghịch cảnh và thử thách trong cuộc sống.

Nhưng niềm tin là gì?
Có hai quan niệm cơ bản trái ngược nhau về thực chất của niềm tin.
Quan niệm thứ nhất cho rằng, niềm tin có trước ý thức, mở đầu cho ý thức và sau đó các ý thức hệ, tín ngưỡng, tôn giáo... được hình thành từ niềm tin. Quan niệm thứ hai thì ngược lại, cho rằng niềm tin là sản phẩm của ý thức. Việc quan niệm nào đúng sai là một chủ đề rất bao quát và rộng lớn ngoài khuôn khổ của bài viết. Nhưng có một điều chắc chắn là bất kỳ quan điểm nào đúng thì hình như ai cũng "đồng ý" là niềm tin có một giá trị độc lập của nó. Niềm tin giúp con người vượt qua những giới hạn của ý thức để hình thành những khả năng khó ngờ và siêu phàm của con người.

Niềm tin đến từ đâu hay cái gì tạo ra niềm tin? Cảm xúc là nguồn cảm hứng để khơi gợi, xây dựng niềm tin và những cảm xúc - đặc biệt cảm xúc tạo niềm tin - là một phần thiết yếu của đa số tôn giáo. Cảm xúc cũng là cái duy trì niềm tin, lý do này rất quan trọng vì muốn được niềm tin thì tình trạng cảm xúc tạo niềm tin đó phải được giữ vững. Niềm tin đến với chúng ta từ nhiều cơ duyên. Niềm tin có thể phát sinh từ sự trực nhận của ngũ giác quan như mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, tay sờ. Có niềm tin đến với chúng ta do nhận thức và suy luận như khi thấy có khói thì lý trí suy luận và tin là nơi đó phải có lửa, như khi nghe tường thuật tin tức về một án mạng chúng ta có thể suy luận đây là một tai nạn hay là sự cố ý sát nhân. Có niềm tin đến do bối cảnh của truyền thống văn hóa, nền tảng giáo dục và đạo đức nhưng vì khác biệt văn hóa, người Tây phương tin rằng nụ hôn cho nhau lúc gặp mặt là biểu hiện của sự thương mến và quý trọng nhưng người Á đông thì không tin như vậy; như vì nền tảng giáo dục thì sinh ra ở trong gia đình theo tôn giáo nào thì thường con cái sẽ theo đạo đó. Có niềm tin đến với chúng ta từ sự thực nghiệm, cảm nhận, kinh nghiệm của cuộc sống, như lúc còn trẻ tuổi khi nghe nói là lúc già cơ thể bị lão hóa sẽ không còn linh hoạt nữa, hay khi nghe những người lớn tuổi than thở về sự suy giảm của sức khỏe, mệt mỏi, chúng ta không thật sự hiểu và tin cho đến khi bản thân chúng ta trải qua giai đoạn này thì sẽ hiểu và tin; như những lời dạy của Phật, của Chúa, của các bậc thánh nhân hiền triết thì phải qua sự thực nghiệm chúng ta mới thực sự hiểu và tin.

Niềm tin, nói chung có thể chia thành hai loại chính: Loại thứ nhất là loại ngăn trở trí tuệ. Loại này dựa vào kích động, thậm chí ép buộc. Cấm hẳn việc nghi ngờ chủ thuyết hay giáo điều. Chỉ được phép phục tùng. Niềm tin theo loại này không có chỗ cho trí tuệ phát triển. Phải có niềm tin, phải phục tùng, trung thành triệt để và bất chấp lý trí. Loại niềm tin thứ hai là con đường dẫn tới trí tuệ. Loại này kích thích tính tò mò, khích lệ khởi sự việc học tập. Trên thế giới này có quá nhiều điều cần phải biết. Không có niềm tin, chúng ta không biết phải bắt đầu từ điểm nào, đường hướng nào phải theo để học tập, nhưng khi một người có niềm tin, đề tài hay giáo lý sẽ cho điểm khởi thủy. Niềm tin thức tỉnh sự chú ý và khích lệ chúng ta tiến tới đề mục đã quan tâm. Tin tưởng vào con người, đặc biệt, sẽ dẫn đến việc tiếp xúc và học hỏi nơi người khác.

Như chúng ta đều đồng ý, là làm người ai mà không có niềm tin và ước vọng, tin nơi chính mình, tin nơi người khác, ước vọng cuộc đời mình sẽ như thế này hoặc như thế nọ. Một người mà đánh mất niềm tin và ước vọng thì sẽ không còn thấy được ý nghĩa của cuộc đời nữa. Đánh mất niềm tin và ước vọng thì người ta gọi là tuyệt vọng, không còn một chút hy vọng gì cả đối với cuộc đời này. Trong đời sống thường nhật, khi làm bất cứ điều gì chúng ta cũng có niềm tin và ước vọng là sẽ thành tựu và khi thất bại thì chúng ta thường hay có thái độ tuyệt vọng, chán nản, mất niềm tin vào chính mình. Trong số những niềm tin và ước vọng của con người, có một niềm tin và ước vọng rất lớn, rất mãnh liệt, đó là niềm tin và ước vọng vào cuộc sống, vào sự hiện hữu giá trị của mình trên thế gian. Chính niềm tin và ước vọng vào cuộc sống này đã và sẽ dẫn dắt chúng ta đi suốt cả đời người. Vì vậy nếu chúng ta thiết lập niềm tin và ước vọng không chính đáng thì cuộc đời của chúng ta cũng sẽ theo định hướng sai lầm đó. Thế nhưng, xác định được niềm tin đúng theo nhận thức thường nghiệm của thế gian lại là một vấn đề không đơn giản. Một thí dụ cụ thể, là ở vào thập kỷ này hầu hết chúng ta đều tin vào sự chính xác của kiến thức khoa học hiện đại, nhưng khoa học hiện đại thì không như là những gì chúng ta tin tưởng, cái đúng hôm nay có thể bị chứng minh là sai hay thiếu sót ngày mai, không có gì để đảm bảo kiến thức khoa học là chân lý tuyệt đối. Một số các lý thuyết khoa học một thời đã được cho là chân lý khoa học, đã làm nền tảng cho kiến thức khoa học, với thời gian đều tự nó không đủ bảo đảm sự giá trị xác đáng vĩnh viễn. Như hiện nay, thuyết tương đối (General Theory of Relativity) của Albert Einstein, các nhà khoa học đã xem như là không đủ để giải thích toàn vẹn và rõ ràng các hiện tượng vũ trụ và Stephen Hawking, một nhà vật lý học người Anh, đã phải phối hợp thuyết "cơ học lượng tử" (Mecanique quantique) để đề xuất ra một hướng mới cho vũ trụ học. Và với tiến bộ của khoa học, ngay lý thuyết cơ bản về nguyên tử (Atom) cũng đã được giải thích khác nhau. Hiện nay, với khái niệm về "hạt điện tử" (quark) thì ranh giới của cơ cấu vật chất định hình gần như bị xóa mất và tiến dần vào cảnh giới vô hình, vô tướng.

Một nhận xét đáng được nêu ra, là với sự phát triển của khoa học, con người được trang bị những kiến thức khoa học hiện đại, hình như con người đã không còn dựa vào niềm tin tôn giáo như lúc xưa. Nhưng niềm tin tôn giáo cái mà chúng ta gọi là tín ngưỡng và tôn giáo nhân gian thì vẫn còn rất gần và thật với con người. Niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng, vẫn tồn tại như đã có từ bao nhiêu thế hệ. Niềm tin khoa học thì dường như thay đổi với thời gian. Trong lịch sử nhân loại, cũng đã có những người trở thành cuồng tín với một chủ thuyết nào đó, mà một thời thao tác trên thế giới này, rồi cuối cùng lại phát hiện ra rằng đó chỉ là một thứ lý thuyết không tưởng, huyễn hoặc gấp ngàn lần hơn niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo nhân gian. Thí dụ cụ thể là sự sụp đổ và phá sản về niềm tin vào chủ thuyết duy vật, đúng hơn là chủ thuyết cộng sản (Communism) trên thế giới trong hai thập kỷ vừa qua. Gần đây, những nhà khoa học cho biết, trong tương lai, họ có thể biết một người đang nghĩ gì, đơn giản chỉ cần dùng một cái máy, hay phân tích các chất tiết ra từ bộ não. Những việc như vậy có cơ sở khoa học thực tế và có thể thành công, nhưng sự thật của các vấn đề ấy sẽ cho thấy, có giống như Sir Arthur Eddington khám phá "Cái bóng của thế giới các ký hiệu"? Không phải thực sự là chân lý mà chỉ là cái bóng của chân lý?

Và mới vài hôm gần đây, theo tin từ BBC và Livescience, một nhóm các nhà khoa học Thụy Sĩ đã phát hiện ra một loại hormone trong người, tên là oxytocxin, có công dụng làm cho con người tin cậy lẫn nhau. Như vậy thì tương lai con người có thể tìm thêm được "niềm tin chứa đựng trong lọ thuốc" (?). Nhóm nghiên cứu nàyđã dùng chất oxytocxin để thí nghiệm về quan hệ giữa việc tin nhau và trao tiền cho nhau. Tiến sĩ Michael Korsfel là kinh tế gia, tại Viện Nghiên Cứu Mô Hình Kinh Tế đặt tại Zurich, Thụy Sĩ và là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:”Chúng tôi phát hiện công dụng của hormone niềm tin trong một cuộc thí nghiệm, khi chúng tôi yêu cầu những người tham gia giao tiếp với những người khác bằng cách cho tiền. Tức là một người có thể trao tiền cho người khác. Hành động này đo lường mức độ họ tin cậy lẫn nhau vì một người muốn trao tiền thì phải có lòng tin vào những người khác. Những người ngửi hít oxytocin biểu lộ trạng thái dễ dàng tin tưởng vào người khác, theo khía cạnh là họ sẵn sàng trao tiền cho họ”. Để xác định kết quả này có do lòng tin tạo nên, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một thí nghiệm thay thế người được ủy thác bằng máy tính. Những nhà đầu tư - cho dù đã được ngửi oxytocin - vẫn không dễ dàng mạo hiểm số tiền của mình cho máy móc. Các nhà nghiên cứu cho rằng kết quả chứng tỏ oxytocin tăng cường niềm tin giữa con người, hơn là đẩy lùi nỗi lo sợ rủi ro của người ta. Antonio Damasio, một nhà nghiên cứu tại Đại học Iowa, nhận định: "Kết quả đã mở ra những khả năng cho việc tìm hiểu các điều kiện mà ở đó lòng tin được tăng lên hoặc suy giảm, như trong trường hợp tự kỷ".
Oxytocin là loại hóa chất do não bộ tạo ra một cách tự nhiên, được thôi thúc bởi một loạt các chất kích thích, trong đó bao gồm chuyện cho con bú và làm tình với nhau. Theo các khoa học gia thì trong tương lai hormone này có thể giúp chữa các loại bệnh về bất ổn tinh thần.

Chân lý hay là cái bóng của chân lý, thì trong thực tế nền văn minh khoa học hiện đại được xây dựng dựa trên những nguyên tắc nghiêm túc, khách quan, thực nghiệm và lý trí. Xa hơn nữa, chúng ta không có ai có thể phủ nhận được các thành quả hữu ích mà khoa học đã mang lại cho loài người, trong đủ mọi lĩnh vực của đời sống và rất là nhiều không thể kể xiết. Một thí dụ cụ thể trước mắt là bản thân tôi, nếu không ở vào thời đại điện toán, thì có lẽ tôi không có dịp để nghe, đọc những cuộc diễn thuyết, phỏng vấn, các bài viết, tài liệu v.v... để học hỏi thêm từ mọi người, ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ mọi nẻo đường đời, để mở mang kiến thức, có nguồn cảm xúc tạo cảm hứng để tôi xây dựng niềm tin, tin ở chính mình hơn chút và tin ở người khác để học hỏi một cách hiệu quả và dễ dàng như thế này. Nói một cách khác, là cơ duyên để niềm tin đến với tôi tăng lên rất nhiều với sự giúp sức của những thành quả khoa học. Lý do đơn giản thôi vì nếu không có mạng lưới internet thì có lẽ rất nhiều bài viết liên quan đến niềm tin, tôi sẽ không bao giờ có dịp để xem và tôi sẽ không có dịp hiểu thêm chút về niềm tin để có đủ tự tin mà viết bài này.

Để kết luận bài viết, tôi xin gởi đến các bạn một câu chuyện về niềm tin: “Nhà bác học thời danh của Pháp là Louis Pasteur không những nổi tiếng vì những khám phá trong lãnh vực y khoa mà còn được nhắc nhở hơn vì niềm tin sâu sắc của ông. Vì niềm tin ấy người ta thường kể giai thoại như sau:
Trên một chuyến xe lửa xuyên tỉnh, một sinh viên trẻ tuổi ngồi gần bên cụ già, chỉ vài phút đồng hồ sau khi đoàn tàu chuyển bánh cụ già liền rút trong túi ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự cầu nguyện, người sinh viên theo dõi cử chỉ của cụ già và xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa cho nên mới lên tiếng nói:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông còn tin ở chuyện nhảm nhí ấy?
Cụ già điềm tĩnh trả lời:
- Đúng thế, tôi vẫn còn tin, còn cậu, cậu không còn tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi tin những chuyện nhảm nhí ấy nữa, khoa học quả thực đã mở mắt cho tôi, ông cứ tin tôi đi, hãy quăng cái tràng chuỗi ấy đi và học hỏi những khám phá mới của khoa học, ông sẽ thấy rằng tất cả những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già điềm tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, cậu có cách nào giúp tôi hiểu được những điều đó không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách, ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người thanh niên, người thanh niên lặng lẽ dời chỗ sang toa khác khi đọc xong danh thiếp bởi vì tấm danh thiếp ấy cậu đã được đọc như sau: Louis Pasteur, Viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Chúc các Bạn thiết lập được niềm tin và ước vọng vào cuộc sống xác đáng cho bạn .

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/14/07/2005)
#1
    Lý Lạc Long 09.01.2006 17:10:38 (permalink)


    Hoa Tre: Hạnh Phúc Cuối Đời


    Xứ lạnh vào khoảng giữa mùa xuân và giữa mùa thu thời tiết ấm áp. Vạn vật, đặc biệt là thảo mộc, hình như biết là những ngày nắng ấm sẽ qua nhanh nên "trưởng thành", đâm chồi, nẩy lộc, trổ lá, đơm bông, kết trái rất là vội vã so với thảo mộc của miền nhiệt đới. Nếu để ý quan sát, thì chỉ cần một đêm thì cảnh vật chung quanh đã đổi khác rất nhiều. Hay có lẽ đây chỉ là cảm nhận của những người sống nơi cực bắc của trái đất, cũng như thảo mộc, trong lòng luôn chờ đợi, vui đón và tận hưởng những ngày nắng ấm. Từ màu trắng quen thuộc, buồn bả và chán ngấy của tuyết vây phủ bốn phía suốt mùa đông dài thay vào đó đủ màu sắc rực rỡ của cỏ cây hoa lá, một sự thay đổi mà hình như dân xứ lạnh luôn chờ đợi và mở rộng vòng tay đón tiếp mỗi năm.

    Chiều qua, đến thăm viếng người thầy cũ. Nhìn khu vườn "quê hương bỏ túi" của thầy, ngoài những giống hoa, cây kiểng bản xứ thì còn vài chậu mai, trúc kiểng, quỳnh ... và những loại hoa kiểng khác mà thầy và bạn bè của thầy đã cho phép chúng "nhập cảnh" lén, vì ở Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) qui định về nhập cảnh các loại thảo mộc lạ rất chặt chẽ . Thầy tôi, ở tuổi về hưu, nên có thì giờ và có lẽ cũng như nhiều người Việt sống lưu vong khác, thầy "mang theo quê hương của mình ra đất khách" như có thể "làm" được. Đây là một điểm đặc thù của dân Việt Nam mà ít có giống dân khác giống. Chữ "quê hương" ở đây bao gồm tập tục, thói ở, nết ăn, tính tình, văn hoá ... Nói chung thì cho đến nay, trên xứ người, thì "quê hương" mà người Việt sống tha hương mang theo có nhiều ưu điểm. Thí dụ như món phở, thì đã đủ sức đương cự với pizza của Ý, sushi của Nhật, chaomien của Tàu ... và đã trở thành một món ăn khá "quen thuộc" với một số dân chúng ở Mỹ, Canada và một số nước ở Châu Âu. Cả tổng thống Mỹ Bill Clinton cũng đã từng "xơi ngon lành" hai tô phở và dĩa gỏi cuốn một lượt, trong một bửa ăn. Lẽ dĩ nhiên "quê hương" của người Việt mang theo ở xứ người cũng không thể tránh được khuyết điểm như vụ "rau muống ở Florida". Rau muống do người Việt tỵ nạn thả trồng trong các lạch mương của vườn riêng đã mọc tràn lan ra các hồ nơi du lịch làm cản trở sự đi lại của du thuyền của du khách. Tiểu bang Florida đã phải bỏ ra hàng triệu đô để dọn và diệt trừ rau muống vì du khách là một trong những nguồn thu nhập chính của tiểu bang. Hiện nay, rau muống đã trở thành món rau "quốc cấm" cho dân Việt ở Florida. Và "tính đi trễ" của người Việt trong các buổi lễ hội của cộng đồng, đặc biệt là đi dự đám cưới, cho đến nỗi người ta đã có câu ví: " không say không phải Mễ, không trễ không phải Việt Nam".

    Quê hương người Việt tha hương mang theo là một câu truyện dài. Tôi xin trở lại chủ ý chính của bài viết hôm nay về hoa nói chung và đặc biệt hoa tre. Tre một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời .

    Trên trái đất, có muôn vạn loài hoa, mỗi loài có một nét đẹp và hương sắc riêng. Từ trinh nữ, lan rừng ... sinh trưởng nơi hoang dã không cần bàn tay chăm sóc cho đến những hoa hồng rực rỡ kiêu sa trong những vườn hoa, những chậu lan quí được chủ nhân chăm sóc cẩn thận. Mỗi loài hoa, chúng ta biết hay chưa biết, hình như đều ẩn chứa một huyền thoại. Ai đã từng thức đêm ngắm hoa quỳnh nở chắc khó dằn được cảm xúc trước cái đẹp của hoa quỳnh, nhìn những cánh hoa cong trắng nõn nà, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngào ngạt, ngây ngất, và chỉ qua đêm là hương sắc đã tàn phai . Nhìn hoa sen, chợt nhận ra lẽ vô thường của kiếp người, sự thanh cao, trong sạch của các bậc giác ngộ . Ai sẽ không buồn khi nhìn thấy hoa ty-gôn, hình tim vỡ, đỏ như màu máu và liên tưởng đến những câu thơ của TTKH. Như người xưa một lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt ngàn, đã phải buông ra một câu hỏi buồn với rặng phi lau : Sao vừa nở ra đã vội bạc đầu thế hở lau ơi?... Và có một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết, nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời, nở như để dọn đường giã từ sự sống. Tre và hoa tre chết đứng chứ không rủ xuống như bao loài hoa khác, tre và hoa như đang thi gan cùng tuế nguyệt . Một hình ảnh hiên ngang và bất khuất giữa trời đất mênh mông, giữa muôn ngàn giống loài của thảo mộc. Thản nhiên trong cõi đi về tựa như một triết nhân đã ngộ được chân lý về sự sống chết của cuộc đời.

    Trên thế giới, Việt Nam không phải là một quốc gia duy nhất có tre. Trừ Châu Âu và một số ít vùng Châu Úc, tre gần như có mặt ở khắp nơi. Tre có tên khoa học là Bambysaceae, lấy từ gốc Mã Lai là Bambu, xếp chung cho các loài tre - trúc. Ở Việt Nam, tre mọc rất nhiều và khắp nơi. Ngoài được trồng ở thôn xóm, làng xã... tre còn mọc tập trung thành rừng từ Bắc chí Nam. Tre gồm hơn 40 loài và 15 giống khác nhau như: Hoa, Bương, lồ ồ, gai, vầu, mỡ, nứa, tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le, trúc, là ngà v.v... Ở Mỹ, thì có khu Vườn Tre (Bamboo Garden) của trường Foot Hill College, thành phố Los Altos, tiểu bang California. Khu vườn tre này có khoảng 70 loại tre trên thế giới, từ các loại tre ở miền nhiệt đới cho đến các loại tre miền ôn đới . Thông thường thì tre đươc trồng bằng gốc, và một gốc tre được ươm trồng thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến năm thứ ba thì mới có măng (tre non). Vì nhu cầu kỹ nghệ, con người đã nghĩ cách trồng tre bằng hạt, nhưng chu kỳ ra hoa, kết quả của tre thường lâu: từ 5 đến 60 năm 1 lần và sau khi ra hoa tre thường chết hàng loạt. Gần đây, các nhà khoa học Ấn Độ đã nghiên cứu kỹ thuật kích thích tre nở hoa trong phòng thí nghiệm bằng dung dịch gồm có nước dừa, muối khoáng, đường, vitamin. Kết quả sau 15 - 20 ngày, tre đã nở hoa.

    Đã là người Việt Nam thì ai cũng biết cây tre, nhưng tôi nghĩ rất nhiều người không có dịp để thấy được "tre nở hoa". Tôi chỉ có dịp thấy hoa tre nở một lần vào giữa thập niên 60, những bụi tre gai ở góc vườn hương quả của tổ tiên, bung nở từng chùm hoa vàng nhạt như màu đất, xen giữa màu xanh của lá tre. Tôi không nhớ là bao lâu, những cây tre từ màu xanh dần chuyển sang màu ngà. Cho đến một hôm nọ thì thân tre đã khô lại. Ở trên cao, những chùm hoa tre khô cong đong đưa trong gió như những bàn tay đang vẫy chào tiễn biệt. Tôi nhớ là Nội tôi thường ra vườn nhìn những bụi tre nở hoa và khe khẽ thở dài. Hình như Nội đã tiên đoán một điều gì đó sẽ xảy ra. Những năm kế tiếp sau đó, thì chiến tranh lan tràn đến làng tôi, bom đạn đã làm cháy hết cả nhà cửa, vườn tược, gia đình tôi đã phải dọn về tỉnh ở. Từ sau 75, thì dịu vợi quan san cách trở, tôi chưa có dịp để trở về thăm lại khu vườn xưa, có lẽ đã đổi chủ . Nhưng hình ảnh của quê nhà và bụi tre nở hoa như vẫn còn khắc đậm trong tâm trí. Ký ức hiện về và rõ ràng như những đoạn phim quay chậm.

    Cây tre gắn bó với dân Việt Nam tự ngàn xưa Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, nơi quây quần chia xẻ buồn vui của cuộc sống của những cộng đồng người Việt từ hàng bao thế hệ. Hai chữ lũy tre thường gợi cho người nghe hình ảnh tươi mát thân yêu của một làng quê bên nội hay bên ngoại nào đó. Và không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống người Việt như một thành tố không thể thiếu được. Chuyện cổ tích về tre thì cũng có nhiều như trong huyền sử Việt Nam, có truyện Phù Đổng Thiên Vương giúp vua đánh đuổi giặc Ân để cứu nước và giữ nước. Roi sắt bị gãy, Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre hai bên đường làm vũ khí để đánh đuổi giặc Ân. Hễ bụi này tan thì chàng trai làng Gióng lại ném đi và nhổ bụi khác. Cứ thế cho đến khi giặc tan tác, đầu hàng, thì chàng cỡi luôn ngựa sắt bay lên núi Sóc để về trời. Tôi chưa được tới thăm quê Thánh Gióng để chiêm ngưỡng di tích huyền sử. Nhưng theo lời kể lại, của những người đã có dịp viếng thăm, thì hai bên đường lên núi Sóc người ta còn thấy những ao lớn, theo truyền thuyết thì đây là dấu chân của ngựa sắt để lại, và những bụi tre nghiêng ngã tự bao đời là cháu chắt của những bụi tre Thánh Gióng ném ngày xưa. Lại có chuyện đời xưa kể rằng vào một mùa Đông, khi tuyết phủ khắp mọi nơi thì bà mẹ Mạnh Tông trở chứng thèm măng. Mùa Đông làm gì tre có măng, Mạnh Tông thương mẹ quá, đành đội tuyết ra ôm gốc tre khóc lóc năn nỉ xin một búp măng để vui lòng mẹ. Lòng hiếu của Mạnh Tông đã làm cảm động gốc tre già và một mầm măng nhú lên như phép lạ. Phải chăng tre cũng có hồn và tấm lòng để hòa đồng và cảm thông với con người?

    Cây tre có mặt trong truyện cổ tích , trong thi văn, trong hội họa, trong âm nhạc. Trong các loại nhạc khí cổ truyền của Việt Nam thì có cây sáo trúc và cây đàn bầu được chế tạo từ họ nhà tre, rẻ tiền, dễ kiếm , cấu trúc đơn giản nhưng âm thanh lại cực kỳ phong phú. Cái khèn của dân miền núi, cái đàn t’rưng cũng từ tre mà ra. Cái mõ ở chùa làm bằng gỗ, thường là gỗ mít, nhưng cái mõ của làng lại làm bằng tre. Dù trong thời buổi kỹ thuật tân tiến hiện đại, tre vẫn là hình ảnh một thành tố quen thuộc thân yêu gắn bó với dân Việt. Hình ảnh là cái đòn gánh bằng tre nhịp nhàng đàn hồi theo bước đi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ bán. Hình ảnh chiếc nón lá với mười sáu vành tre che nắng, che mưa của những người mẹ Việt tảo tần ngược xuôi, lo lắng sinh kế để nuôi đàn con khôn lớn. Hình ảnh duyên dáng của những cô gái Việt bẽn lẽn, e ấp dấu nụ cười duyên với người tình dưới chiếc nón lá "bài thơ" . Như nhiều dân tộc Á Đông khác chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, Tết Nguyên Đán của ta cũng bắt nguồn từ phuơng bắc, nhưng với cây nêu tre và bánh chưng, bánh tét (buộc với lạt giang - giang cũng thuộc vào họ nhà tre- ) thì Tết Nguyên Đán đã trở thành Tết Việt Nam . Kể sao cho hết những đóng góp của tre cho đời sống của dân Việt từ ngàn xưa đến nay. Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt. Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo trúc như tiếng Trương Chi đã làm điêu đứng Mỵ Nương, người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của dân Việt. Tre là vũ khí giúp dân Việt chống đuổi ngoại xâm giữ gìn bờ cõi. Tre lại còn là thực phẩm ngon cho con người (măng tre).

    Trong ký ức tuổi thơ của tôi, thì đầy ắp những kỷ niệm với tre, ống thục bằng trúc, cần câu cấm bằng tre gai, cần câu cá sông thì bằng trúc, sườn diều bằng tre hay trúc ... Và nhớ luôn cả cái ngu lúc còn đi học khi đọc bài ca dao "Lính Thú Đời Xưa" và dõng dạc "tuyên bố" giữa lớp là : " bài ca dao trật vì cây mai làm sao có măng?" Đến nỗi ông thầy dạy Việt văn phải bật cười . Vì trong thực tế, ở ngoài Bắc, có một loại tre cũng được gọi là "mai" .
    "Ba năm trấn thủ lưu đồn,
    Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan.
    Chém tre, đẳn gỗ trên ngàn,
    Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?
    Miệng ăn măng trúc, măng mai,
    Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng?
    Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng!"

    Và khi đọc câu ca dao ví von về khó khăn :" Nhất đốn tre, nhì ve gái" thì tôi đã hết hiểu nổi luôn, nhưng im thin thít. Vì ở vào cái lứa tuổi đó (lớp 6, lớp 7) thì "dù nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò", nhưng "ve gái" là một chuyện, ở vào lứa tuổi đó, hầu hết chúng tôi đều xem đây là một chuyện khó khăn nhất. Mãi sau này lớn lên, và có dịp xem đốn tre và kỷ thuật cần thiết để bảo đảm an toàn cho người đốn thì tôi mới hiểu. Vì đốn tre không đúng kỷ thuật thì người đốn có thể bị thương hay mất mạng do "sức bật" của cây tre bị đốn. Còn "ve gái" thì cùng lắm là bị cho "de" hay tệ hơn là bị cho "ăn guốc".

    Theo luận án của võ sư Nguyễn văn Sen, môn phái Vovinam, Việt Võ Đạo: " Theo quan niệm đông phương, tre - trúc tượng trưng cho mẫu người quân tử. Cứng mà mềm mại, đổ mà không gãy, lòng rỗng không, biểu tượng cho tinh thần và khí độ an nhiên tự tại, không mê đắm quyền vị, vật chất của mẫu người quân tử Á Ðông. Trúc hợp với Mai để làm một cặp biểu trưng thể hiện phẩm tính Âm - Dương, Cương -Nhu, nói lên tình cảm và hào khí dân tộc Việt. Một dân tộc có tiết tháo, phẩm hạnh vừa kiêu hùng, vừa quân tử. Ngoan cường nhưng hiếu hòa, độ lượng." Và " bắt nguồn từ các quan điểm trên, nhưng phong phú hơn, Vovinam Việt Võ Ðạo quan sát cây tre ở nhiều góc độ để xây dựng một con người vừa cao quí như một bức tượng thần để chiêm ngưỡng, là mục đích để noi theo, đống thời cũng là một con người bình thường gần gũi, hòa nhập với cộng đồng để mưu tìm hạnh phúc bình dị, chấp nhận mọi hoàn cảnh, mọi mẫu người. Coi đó như một tất nhiên và hóa giải các tất nhiên đầu mâu thuẩn bằng nguyên lý cương nhu phối triển. Cho nên, TRE còn là biểu tượng cho yếu lý võ thuật."
    Tóm lại, nếu " người ta là hoa của đất" như tục ngữ nói, và tùng bách là biểu hiện của ngươì quân tử ẩn dật, thì tre là biểu tượng của ngươì quân tử dấn thân. Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người. Khi tre nở hoa cũng là lúc tre giã từ cuốc sống. Một cái chết hùng tráng, không cho người cảm giác bi ai, não nùng của sinh tử biệt ly. Tre nở hoa trước khi chết. một cách đi vào cõi chết rất đẹp, ung dung tự tại tựa như một triết nhân đã giác ngộ chân lý về lẽ sống chết của cuộc đời.

    Chúng ta là hoa của đất đang đi những trên con đường đầy hoa trong cuộc sống. Muốn vội vàng thì cứ vội vàng, muốn la cà thì cứ la cà, muốn dùng dằng thì cứ dùng dằng, muốn vương vấn bước chân thì cứ vương vấn ... Trời đất vần xoay, vạn vật biến chuyển, có lúc nào đường sẽ không hoa chăng? Có hoặc không, chắc không ai có thể trả lời cho bạn và tôi. Thôi thì cứ dấn thân vào vạn nẻo đường đời gần xa của cuộc sống và tự mình tìm cho mình câu trả lời.

    Chúc bạn và tôi một cuối tuần vui !

    Lý Lạc Long
    (TTL/TCT/MAI/4/8/2005)
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2006 12:57:54 bởi Lý Lạc Long >
    #2
      Lý Lạc Long 09.01.2006 17:18:00 (permalink)


      HƯƠNG SẮC QUỲNH HOA


      Trong tất cả các loài hoa trên mặt đất, có lẽ hoa quỳnh là một trong những loài hoa hiếm hoi đặc biệt nhất. Cây hoa giản dị, ban ngày trông xoàng xĩnh tầm thường nhưng về đêm lại là vua của muôn hoa. Hoa Quỳnh thường được gọi là "Night Blooming Cereus" (Queen of the Night, Moon Cactus, Night Cactus, Orchid Cacti), thuộc họ xương rồng(Cactaceae) có tên khoa học là Epiphyllum grandilobum, Epiphyllum oxypetallum, Phyllocactus grandis, Selenicereus grandiflorus... Sau khi tra cứu, tôi vẫn không biết đích xác danh từ khoa học nào áp dụng cho loại hoa quỳnh màu trắng ở Việt Nam thường chỉ nở về đêm mà thôi. Nhưng thôi chuyện này hãy để dành lại cho những nhà khảo cứu chuyên môn. Hôm nay tôi chỉ muốn mời bạn cùng tôi thưởng thức hương sắc của hoa quỳnh qua những vần thơ, những cảm xúc của thi nhân ghi lại khi ngắm quỳnh hoa - nữ hoàng của các loài hoa nở trong đêm - khoe sắc tỏa hương. Và huyền thoại của hoa quỳnh.

      Từ ngàn xưa, hoa được coi là thông điệp của tâm hồn. Chúng ta ai mà chẳng yêu hoa, ai mà chẳng có kỷ niệm đẹp về những loài hoa. Từ cổ chí kim, hoa bao giờ cũng được coi là biểu tượng của cái đẹp. Và các thi sĩ cổ kim từ đông sang tây, hầu hết đều rung động, cảm xúc trước cái đẹp của hoa. Có thi sĩ nào lại không yêu hoa và trân trọng vẻ đẹp của các loài hoa. Đỗ Phủ, một nhà thơ Trung Quốc, đã viết: "Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân" (Mỗi cánh hoa rơi cũng làm giảm đi vẻ đẹp của mùa xuân). Người Á đông có phong cách độc đáo riêng trong sự thưởng thức vẻ đẹp của các loài hoa: Tao nhã, tinh khiết, trầm lắng... một phong cách Á đông.

      Ngắm Quỳnh nở hoa được các cụ ngày xưa liệt vào loại thú vui tao nhã bậc nhất trên đời. Mỗi lần biết hoa sắp nở, họ thường mời thêm vài người bạn thân đến để thưởn g hoa. Trong khi chờ ngắm hoa nở, các cụ thường pha một ấm trà ngon, thưởng thức hương vị đậm đà của chung trà nóng trong khi chờ đợi Quỳnh khai hoa nở nhụy. Nhân gian bảo hoa Quỳnh nở vào nửa đêm nhưng không phải vậy. Hoa quỳnh nở sớm hơn rất nhiều. Từ chập tối, nụ hoa đã no tròn chúm chím. Đài hoa mở dần, những đường gân hoa trắng xanh bung ra từ từ. Cuống hoa mới ban ngày còn rất nhỏ, vào đêm thoắt dài ra như cánh tay con gái xanh xao. Thường cứ vào tám giờ là giờ hoa Quỳnh bắt đầu nở. Nhìn nụ hoa mở lòng trinh bạch, thi nhân nghe tim mình bỗng dưng đập rộn. Gió đêm thoảng nhẹ, cuống hoa cứ vươn dài ra, những cánh hoa run run e ấp. Từ giữa lòng hoa, lấm tấm một dãy nhụy trắng đội mũ vàng trạng nguyên tỏa sâu vào lòng đêm. Mùi xạ hương bay ra ngất ngây.

      Bên mái trăng non,đêm quá nửa
      Muôn hương vườn ngậm cánh mong manh.
      Gió mơ, lá ngủ, sương đi lãng,
      Bẽn lẽn hoa quỳnh hé ý trinh.
      (Đông Hồ)

      Ôm ấp dáng tinh hoa của trời đất
      Cánh ngọc ngà, hương khép nép lời dâng
      Một phút giây tô điểm nét giang san
      Một phút giây mà nghìn thu dậy sắc
      (Hoàng Ngọc Quỳnh)

      Khi hoa nở những cánh trắng tươi nõn nà mềm mại xòe ra, tỏa hương thơm dìu dịu quyến rũ đưa người thưởng hoa vào cõi bát ngát tận cùng của hư không...rồi từ từ khép lại giữa những đài hoa phong kín như ban đầu...

      Hoa trăng với lại hồn tôi
      Phút giây hư thực đất trời trôi qua.
      Đến khi thức dậy nhìn ra
      Ánh trăng vừa tắt, sắc hoa vừa tàn
      (Tế Hanh)

      Lặng lẽ bốn mùa với nắng mưa, hoa có thể nở bất cứ giờ phút nào. Từ lúc bình minh khi những hạt sương óng ánh còn đọng trên cành lá, hay lúc ban trưa dưới ánh nắng gay gắt chói chang của mặt trời, hay trong đêm dưới ánh trăng sao khi đa số chúng ta đang yên giấc. Có lẽ vì vậy mà ít người để ý đến một thế giới huyền bí kỳ ảo của những loài hoa chỉ khoe sắc tỏa hương trong đêm với trăng sao. Và trong thế giới của các loài hoa đêm này, hoa quỳnh đã được tôn là nữ hoàng. Người tây phương nói hoa Quỳnh tượng trưng cho "sắc đẹp phù du" (transient beauty), nở đó để rồi tàn đó, khoe sắc hương tuyệt vời chỉ trong vài giờ phù du.

      Hoa nở để mà tàn
      Trăng tròn để mà khuyết
      Bèo hợp để mà tan
      Người gần để ly biệt
      (Xuân Diệu)

      Nhưng cũng có người nói rằng hoa Quỳnh tượng trưng cho "vẻ đẹp chung thủy" (loyal beauty), vì quỳnh chỉ nở một lần rồi tàn tạ, cũng như một tình yêu đầu tiên nguyên thủy và duy nhất dâng hiến cho người tình trăm năm.

      Tóc em ngọn gió trăm nguồn
      Chở đầy thương nhớ vây buồng phổi ta
      Từ em hơi thở quỳnh hoa
      Nụ thơ hàm tiếu ru ta tình đầu
      (Vương Ngọc Long)

      Có lẽ không có màu trắng nào sánh được với màu trắng của hoa quỳnh. Dường như có chút gì đó rất liêu trai trong hương sắc hoa quỳnh. Một màu trắng trinh bạch, một vẻ đẹp huyền ảo mong manh làm xao xuyến lòng người. Cho nên không lạ khi nhiều người ngắm hoa quỳnh bỗng nghe lẫn trong mùi hương quỳnh văng vẳng tiếng vó ngựa lao xao, tiếng reo hò một thuở và tiếng bật khóc nức nở của ai đó bên ngoài hiên vắng... Từ hoa nở đến hoa tàn chỉ trong vài giờ. Ngắn ngủi kiếp hoa, phù du kiếp người như nhắc nhở chúng ta mọi việc trên đời đều vô thường.

      Quỳnh hoa âm thầm nở
      Bóng đêm hờ hững rơi
      Giọt sương hay giọt lệ
      Lặng lẽ trên môi cười
      Hương đêm vương lá cỏ
      Chuông điểm thời công phu
      Chú tiểu lơi tiếng mõ
      Hoa lẻn vào kinh thư
      Bát Nhã Ba La Mật
      Thơm ngát quỳnh hương ơi!
      Đời vô thường,
      Không thật
      Đêm tàn,
      Trăng khuyết rồi.
      Chú tiểu ngân nga tụng:
      "Huyễn mộng bào ảnh thôi"
      Vườn trăng.
      Hoa quỳnh nở
      Vườn trăng,
      Hoa quỳnh rơi
      Chú tiểu còn tĩnh tọa
      Trăng đã vỡ làm đôi
      Chú tiểu vừa nhập định
      Trăng đã thành mặt trời
      (Diệu Trân)

      Theo truyền thuyết, vào thời nhàTùy (605-617) ở Dương Châu,Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy cây trổ hoa đẹp. Và cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa chợt mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh. Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo:"Ai vẽ được hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng sau... có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh vô cùng xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh. Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châu. Hàng chục triệu ngày công làm việc phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (điển tích "dặm liễu" xuất phát từ đó, như trong câu thơ: "Dặm liễu sương sa khách bước dồn" của Bà Huyện Thanh Quan). Kinh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng thì được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đi. Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui thuyền rồng uống rượu nghe đàn hát ca, ngắm cảnh sắc Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân, hễ thấy nàng nào vừa ý thì vua cho vời vào hầu ngay. Chuyến tuần du này của Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, tạo cơ hội cho nhà Đường dựng xây cơ nghiệp đế vương. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châu. Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên - phương danh là Lý Thế Dân - cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông thì lớp trẻ như họ khó chen chân lọt vào vườn hoa. Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627-649) nên khi hoa vừa nhìn thấy chàng, Quỳnh hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngào. Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Lý Thế Dân và bằng hữu xem xong thì một cơn mưa to đổ xuống làm hoa rủ cánh hết. Sáng hôm sau Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy chơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác. Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa liền ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi. Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". Sau chuyến tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơi Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.

      Người ta trồng Quỳnh bằng cách cắm cành và Quỳnh được trồng trong chậu để dễ di chuyển khi xem hoa nở. Kỹ thuật trồng Quỳnh nở về đêm theo Peter Hines (The Oregonian, Home and Garden, October 2, 2003) thì trồng Quỳnh để có hoa nở về đêm được xem là tương đối... dễ dàng (?). Sau đây là cách trồng của Peter Hines về hoa Quỳnh tại Portland (Oregon): Cắt một đoạn lá từ cây gốc, ngâm trong nước đến khi rễ mọc ra từ lá và trồng cây vào chậu có hỗn hợp 2/1 đất "potting" và "peat". Giữ cây đủ ẩm trong mùa hè và khô trong mùa đông. Chăm sóc cây bằng cách tưới phân "Peter" 2 tuần một lần. Khi cây bắt đầu đâm chồi, dùng phân có chứa nhiều "phosphorus" hơn. Trong các tháng 10-11, tùy thời tiết có giá lạnh hay không, chuyển cây vào trong nhà xe để có độ lạnh mát cần thiết thúc cây nở hoa. Đưa cây ra ngoài trở lại vào tháng 4-5 (tùy thời tiết bên ngoài), điều quan trọng là giữ Quỳnh đừng chịu ánh nắng trực tiếp mỗi ngày quá 1 giờ (nắng sáng hay chiều, tránh nắng giữa trưa). Quỳnh sẽ trổ hoa trong tháng 9. Hoa bắt đầu nở khoảng 8-9 giờ tối, tỏa hương thơm và nở trọn vẹn vào nửa đêm... rồi tàn ngay vào sáng hôm sau. Dù chúng ta, ai cũng yêu thích hoa nhưng cuộc sống tất bật vội vã của thế kỷ hiện đại, với quá nhiều nhu cầu khác của đời sống thực tế. Có lẽ đa số các bạn cũng như tôi chưa có dịp hoặc không có thì giờ và điều kiện để thưởng thức cái thú vui tao nhã này. Cuộc đời vô thường, kiếp người phù du, công hầu khanh tướng, giàu nghèo sang hèn... rồi thì khi xuôi tay cũng sẽ trở về cùng cát bụi. Một lần ngắm Quỳnh hoa nở trong đêm nơi xứ người là ước vọng của tôi hiện giờ. Có lẽ nay mai tôi sẽ ươm cho mình một chậu Quỳnh...

      Chúc các Bạn một cuối tuần vui!

      Lý Lạc Long
      (TTL/TCT/MAI/ 06/08/05)
      #3
        Ct.Ly 10.01.2006 06:54:09 (permalink)
        #4
          Lý Lạc Long 10.01.2006 23:21:43 (permalink)


          Trích đoạn: ct.ly

          Chào thi sĩ TTL,
          Hôm nay thi sĩ cũng có nhả hứng viết văn,
          CtLy đọc và thích nhất là chuyện TTL nói về đóa hoa quỳnh,

          Theo Ly biết thì hoa quỳnh có nhiều loại, có loại như TTL nói, chỉ nở về đem, và tàn héo vào buổi sáng,
          Có loại màu hồng nhạt, ( loại này khg thơm lắm) thì nở cả ngày,
          có loại nở được vài ngày, nhưng hoa nhỏ hơn, nhưng màu cũng hồng đậm hơn

          Riêng mà trắng là loài hoa xinh nhất, to nhất, đẹp nhất mà tàn nhanh nhất, nhà của ctly cũng có hai bụi, nhưng trồng nó phải dùng loại đất cho cây xương rồng, đừng nên tưới nhiều ,

          Nhưng công mình cầy cấy, nưng chìu, mà nhìn nó có 1 đêm, đêm nào mệt ngủ sớm là khỏi nhìn luôn.

          Cuộc đời thật dúng là phù du, mới còn gặp nhau đó, sáng đã khg còn gặp nữa, nhưng đó goi là định số của mỗi con người,Đạo Phật đã nói: con người ai cũng phải trãi qua sanh, lão , bệnh, tử, ai cũng phải chịu thôi
          Nhưng nói là nói, nhưng mà xảy ra rồi, mơí biết nói thì dể , thực thì khó.

          Thấy hoa Quynh , làm ctly thấy thích, vì là loại hoa mình thích, nên vào nói thêm 1 tí, TTL đừng phiền nhé, như cây tre thì ctly hỏng biết nhiều, nên đọc trong lặng lẽ vậy

          Những bài Tản mạn cuối tuần, đã được mang vào thư viện

          Mong đươc đọc thêm những loài hoa gì của TTL tiếp nối nhé

          Thân ái


          Hi Ct.Ly,

          Cám ơn Ct. Ly đã ghé xem... và làm ơn gọi tên đi (bỏ giùm "...sĩ" đi... ttl là "...sư" mà cứ bị bắt làm "...sĩ" hoài. Buồn thiệt !!! )

          Ct.Ly cũng rành về hoa Quỳnh quá hén. Vâng, quỳnh thì ttl cũng đã có thấy nhiều loại... nhưng cũng giống như CtLy, ttl thấy hoa quỳnh trắng là "đẹp" nhất... và "phù du" nhất.

          Vòng "sinh tử" của đời người không ai tránh khỏi. Và biết thì ai cũng biết... Rất đồng ý "nói" thì dễ lắm, nhưng đụng chuyện mới biết cái "khó" của vấn đề này. Như Ct.Ly mới vừa "experience" sinh ly tử biệt (ttl biết là khó "take it easy" lắm, nhưng cũng xin chúc Ct.ly thêm nhiều nghị lực để vượt qua.)

          Cám ơn đã chia xẻ cảm xúc... và không dám phiền đâu. Ngược lại nữa , welcome Ct.Ly any time.

          ttl đăng tiếp bài viết về hoa Mai... quỳnh thì quỳnh trắng, mai thì mai vàng :).

          Thân mến,
          ttl

          #5
            Lý Lạc Long 10.01.2006 23:33:32 (permalink)




            Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam


            Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mai vàng, một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp Xuân về, với dân Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân của vùng đất phương Nam từ nghìn năm trước. Trong văn chương, hoa mai đã có mặt trong thơ của thiền sư Không Lộ, thiền sư Mãn Giác từ thời nhà Lý, thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần, trong thơ của Nguyễn Trãi thời nhà Lê, trong những tác phẩm nổi tiếng như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, trong Lục Vân Tiên của Nguyễn đình Chiểu ... và rất nhiều những vần thơ, những áng văn của các văn thi nhân khác từ cổ chí kim viết để ca tụng hoa mai . Trong số này, có hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, mà khi đọc sẽ thấy ngay địa vị của hoa mai trong tâm tưởng của thi nhân Việt .
            ”Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
            Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.

            (Mười năm chu du tìm gươm cổ
            Một đời chỉ cúi lạy hoa mai.)

            Thiền sư Huyền Quang, ông tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã "phong" cho hoa mai ngang hàng "ngự sử".
            "Ngự sử mai hai hàng chầu ráp
            Trượng phu tùng mây rặng phò quang"


            Mai cũng có mặt trong hai câu thơ khắc trên chiếc dĩa cổ cuả triều Nguyễn, trưng bày ở Huế mà tác giả theo tương truyền là của Nguyễn Du.
            "Nghêu ngao vui thú yên hà
            Mai là bạn cũ, hạc là người quen"

            Nhưng hiện nay tác giả của hai câu thơ trên là đề tài đang được tranh luận . Giữa Nguyễn Du, Định Viễn Quận Vương và Đông Các Đại Học Sĩ Đinh Phiên, ai là tác giả vẫn chưa có kết luận.( Ðịnh Viễn Quận Vương là hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long. Ðông Các đại học sĩ Ðinh Phiên là người đã phụng mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình sang Thanh năm 1819) .

            Xuân đến- xuân đi, những ngày Xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa mai vàng rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến-đi, hoa nở- hoa tàn, tóc xanh- tóc bạc . Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Vô thường của thời gian, vô thường của cỏ cây hoa lá, vô thường của kiếp người. Một sự chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, ai cũng sống chết. Ngắn ngủi một kiếp người, đã là thế nhân làm sao thoát khỏi vòng sinh tử. Phàm nhân tục tử, như hầu hết chúng ta, chắc ai cũng có những cảm giác băn khoăn, nuối tiếc, lo lắng, sợ hãi... khi nghĩ đến thời điểm phải rời xa trại tạm trú trần gian này. Làm sao có thể an nhiên, tự tại, thanh thản, sẳn sàng đón nhận sanh tử vô thường như các bậc giác ngộ ? Dù có chờ hay chẳng đợi, thì con người vẫn phải phụ thuộc theo sự vận hành của đất trời, như một phần tử của bộ máy tạo hóa xoay chuyển và biến hóa mãi không ngừng. Dù vui hay buồn thì Xuân cũng đến và đi . Như tâm sự của Chế Lan Viên khi xuân về :
            " Tôi có chờ đâu có đợi đâu
            Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
            Với tôi tất cả là vô nghĩa
            Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…"


            Mỗi độ xuân về, có lẽ bài kệ thi "Cáo Tật Thị Chúng " của thiền sư Mãn Giác được nhắc đến nhiều nhất vì cái hay, cái đẹp của tứ thơ và phong thái của một bậc giác ngộ đối diện với Sinh, Trụ, Dị và Diệt của vạn vật và con người .

            Cáo Tật Thị Chúng
            "Xuân khứ bách hoa lạc
            Xuân đáo bách hoa khai
            Sự trục nhãn tiền quá
            Lão tùng đầu thượng lai
            Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai."


            (Xuân đi, trăm hoa rụng
            Xuân đến, trăm hoa khai
            Đời thoáng ngang qua mắt
            Tóc trên đầu bạc phai
            Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua, sân trước một nhành mai.)

            Xuân đến trăm hoa khoe sắc thắm, xuân đi qua trăm hoa rơi rụng. Xuân đến và đi, với thiền sư, thanh thản, nhẹ nhàng, bình yên và an lạc . Với thời gian, tóc xanh mới đó đã thành bạc thì cũng chẳng có gì vướng bận tâm hồn. Những gì đã qua không nuối tiếc, những gì chưa đến không mong cầu. Bình thản, tự tại và an lạc sống với hiện hữu, trước những cảnh biến đổi của thời tiết thiên nhiên, trước những đổi thay dâu bể của cuộc đời. Nhưng đây là cách ứng xử của một bậc chân tu, đã giác ngộ lẽ sinh tử vô thường của cuộc sống. Còn thế nhân như chúng ta, tâm tư đầy ắp bóng dáng khổ lụy của kiếp người. Lúc được thì vui, lúc mất thì buồn. Khi gần gũi thì hạnh phúc, khi ly biệt thì đau khổ. Được khen thì tươi tắn, bị chê thì ủ rũ. Như ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận ... Tóm lại, chúng ta là phàm nhân, rất khó kềm chế lòng ham muốn của con người nên luôn bị chi phối bởi những cảm giác thương yêu, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn sầu, vui vẻ, khổ đau, hạnh phúc ... và làm sao không nao núng tâm thần trước những biến đổi lớn lao của cuộc sống. Nhưng đã sinh ra làm kiếp con người, dù có "Trải qua những (một) cuộc biển dâu; Những điều trông thấy mà đau đớn lòng", dù không đủ khả năng giác ngộ mọi việc như một bậc chân tu, dù phải chân ngắn bước dài, lên cao xuống thấp, thăng trầm theo buồn vui nhân thế thì chúng ta cũng phải sống, và sống cho trọn một kiếp trăm năm. Dù vẫn biết bài thi kệ "Cáo tật thị chúng", thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về qui luật vận hành tất yếu của thiên nhiên và cái vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng mùa xuân đã qua mà thiền sư vẫn trông thấy một nhành mai ở sân trước. "Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận; Đình tiền tạc dạ nhất chi mai." Có chăng một cành mai nở muộn lúc xuân tàn? Hay thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân nơi cành mai tàn có thực trước sân chùa? Theo qui luật thiên nhiên thì cành mai chắc chắn là không có hoa , nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai không hoa ấy mà nói thế để truyền dạy cho thế nhân thông điệp: Mùa Xuân trường cửu trong vạn vật. Ước mong chúng ta có thể nhìn thấy sự trường cửu của mùa Xuân trong mọi việc đã qua, đang xảy ra và sắp đến. Mùa Xuân là mùa cây lá đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa khoe sắc thắm... Mùa Xuân là mùa của sự sống, là biểu tượng cho sự cát tường của đời sống.

            Hoa mai đã đươc tao nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻ đẹp thanh khiết cao quý, hương hoa nhẹ nhàng thanh tịnh . Trời càng lạnh, hoa càng tỏa hương thơm hơn nên hương của hoa mai còn được gọi là "lãnh hương" (hương lạnh). Màu vàng của hoa mai là màu tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang, màu tượng trưng và dành riêng cho vua chúa thời xưa. Theo thuyết ngũ hành, thì màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí Trung Ương của bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi dân Việt phuơng Nam chọn mai vàng để đón Xuân, để đón cái Tết Nguyên đán thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc .

            Nhiều quốc gia trên thế giới có một tập quán rất hay, họ gọi tên quốc gia bằng tên của một loài hoa như : Hòa Lan là xứ sở của hoa tulip, Bungari là đất nước hoa hồng, Nhật Bản là đất nước hoa anh đào, lá phong (maple leaf) là biểu tượng của Canada ...v.v Cũng là thảo mộc như bao loài thảo mộc khác nhưng nhưng những hoa, lá đó là biểu tượng của một quốc gia, mang trên mình sứ mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một dân tộc. Cũng với định ý này, người Nhật đã vinh danh hoa anh đào là quốc hoa (kuni no hana) của Nhật Bản. ChoViệt Nam, nếu theo tập quán có ý nghĩa, hay và đẹp này thì hoa mai có thừa đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Mặc dù là vậy, ở Việt Nam, hoa mai vẫn chưa được "vinh danh" xứng đáng với tầm vóc và phẩm chất của một loài hoa cao quý. Có lẽ, mọi người dân Việt nên suy nghĩ "dùm" cho hoa Mai . Có thể nói, đây là suy nghĩ cho cả dân tộc và đất nước VN luôn chứ không phải cho riêng hoa mai. Phần của hoa mai thì chắc cũng đã hài lòng với những tước hiệu như "sứ giả của mùa xuân", " ngự sử", "loài hoa cao quý", "bạn song hành với thi nhân" ... mà dân Việt đã dành tặng cho hoa mai qua bao nhiêu thế hệ.

            Mỗi độ xuân về, ngoài trời tuyết phủ trắng cảnh vật. Đã bao nhiêu cái Tết chẳng có mùi vị Xuân trôi qua im lặng đến lạnh lùng như khí hậu lạnh lẽo của nơi này. Giao thừa đến không hay, giao thừa đi chẳng biết. Đôi khi có dịp cùng vài người bạn thân cạn vài ly rượu mừng Xuân, cũng thấy ấm áp, khuây khỏa vơi bớt nỗi buồn ngày Xuân xứ lạ đôi chút. Cùng nhau ôn lại quá khứ, nhắc lại những kỷ niệm đã qua. Chợt nhận ra, đã có quá nhiều thay đổi, khác biệt do cuộc sống mang lại . Những giấc mơ đầy nhiệt huyết thuở nào dường như đã bị chôn vùi sâu dưới lớp bụi thời gian. Nhạt nhoà và mất dần dấu tích theo năm tháng trôi qua. Buồn lại kéo về tràn ngập, tát không vơi.

            Đón Xuân nơi xứ lạ
            Cành mai giả, màu vàng
            Ngoài trời tuyết phủ trắng
            Những giấc mơ muộn màng
            Ngày Xuân đem rao bán
            Tiếng tơ lòng ai mua ?
            Nỗi lòng người xa xứ
            Chờ cơn gió giao mùa .

            Thêm một mùa Xuân đang chờ ngoài ngõ, nỗi nhớ quê hương càng thêm da diếc. Tự nhủ lòng : Thôi đừng buồn nữa tôi ơi! Quê hương còn đó, bè bạn còn đây. Rồi sẽ có một ngày đất nở hoa, đón xuân về ngắm huỳnh mai nở hoa sân trước.

            Cầu nguyện cho mùa Xuân dân tộc và Việt Nam trường cửu trong lòng người dân Việt ly hương.


            Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai


            Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/ Xuân 2005)





            CUNG CHÚC TÂN XUÂN
            CHÚC TẤT CẢ ACE CỦA VNTQ MỘT NĂM MỚI AN KHANG & THỊNH VƯỢNG



            Đã mang vào thư viện,

            Thân ái
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2006 16:25:57 bởi Lý Lạc Long >
            #6
              Lý Lạc Long 22.01.2006 16:03:36 (permalink)



              Băng Tửu : Rượu Ngon Xứ Tuyết
              ( Ice Wine, Vin de Glaciere, Eiswein...)


              Có một loại rượu, kết quả của một sự tình cờ, từ Châu Âu, vùng Francoinia thuộc nước Đức. Người Đức gọi loại rượu này là "Eiswein", người Anh gọi là "Ice Wine", người Pháp gọi "Vin de Glaciere". Dịch sang tiếng Việt, sát theo chữ có lẽ là "Rượu Nước Đá", nhưng tôi thì thích gọi loại rượu ngon đặc sản của xứ lạnh này là "Rượu Tuyết" hoặc nếu xài tiếng Hán - Việt thì "Băng Tửu" nghe cũng "xứng". Cái tên diễn tả được nguồn gốc, phẩm chất và như phảng phất đâu đó hương vị của loại rượu tương đối hiếm và đặc biệt này.

              Về nguồn gốc của băng tửu, theo tương truyền, vào năm 1794, có một chủ vườn nho (vineyard) ở Đức vì bận công chuyện phải đi xa, đã không sắp xếp được việc hái nho đúng lúc như thông lệ hàng năm. Khi ông trở về thì nho đã chín mùi và thời tiết lạnh của mùa đông đã làm nho đông đặc lại . Nhưng có lẽ vì "tiếc của", ông vẫn quyết định hái những trái nho đã đông đặc và ép lấy nước nho làm rượu . Kết quả, ông đã vô tình sản xuất được một loại rượu đặc biệt mà người ta lúc đó gọi là "rượu mùa đông" (winter wine). Loại "rượu mùa đông" này là một "bí mật" của nước Đức mãi cho tới khoảng thế kỷ 18 thế giới mới biết đến, từ các nhà sản xuất rượu ở vùng Rheingau (Đức). Khoảng năm 1962 thì "rượu tuyết" đã sản xuất thành sản phẩm thương mại phổ biến ở Châu Âu. Và bắt đầu từ đó những tên như Eiswein, Ice wine, Vin de Glaciere ... trở thành quen thuộc trong giới sành rượu.

              Ở Bắc Mỹ, theo bước chân của di dân Âu Châu, phương cách và nghệ thuật làm rượu tuyết được truyền bá đến những vùng khí hậu lạnh và có đủ điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc sản xuất rượu tuyết như các tỉnh (provinces) của Canada như British Columbia, Ontario ..., và một số tiểu bang (states) của Mỹ như New York, Michigan, Ohio... Theo tài liệu ghi lại thì Walter Hainle, ở Canada, đã sản xuất được một số lượng nhỏ rượu tuyết vào năm 1973. Nhưng đến năm 1978 thì rượu tuyết do Hainle Vineyards sản xuất mới chính thức trở thành sản phẩm thương mại. Trên thế giới thì ngoài Đức và Bắc Mỹ (Canada, Mỹ) còn có Áo (Autria), Úc (Australia), Tiệp Khắc (Czech Repulic), Tân Tây Lan ( New Zealand) ... cũng sản xuất băng tửu. Nhưng các quốc gia này chỉ sản xuất một số lượng nhỏ của băng tửu, có mặt trên thị trường tiêu thụ. Hiện nay, Gia Nã Đại là một nước sản xuất rượu tuyết dẫn đầu thế giới, vì có điều kiện thiên nhiên thuận lợi nhất để sản xuất loại rượu quý và hiếm này. Ở Canada, giá của một chai rượu tuyết ( 350 ml) trung bình khoảng 45 đô (Can) và cao nhất có thể lên đến 300 đô (Can). Điều ngạc nhiên, theo thống kê, thị trường tiêu thụ tăng trưởng mạnh nhất cho loại rượu này lại là Châu Á, nhất là ở Viễn Đông, tiêu biểu là Nhật Bản và giá rượu tuyết ở Nhật có thể mắc hơn gấp đôi so với giá rượu tuyết ở Canada.

              Cái đặc biệt nhất của băng tửu là nho dùng để làm rượu phải để "chín mùi" và đông đặc ngoài trời với thời tiết thiên nhiên của mùa đông. Nho chín được hái bằng tay và thường thì ngay sau trận lạnh đầu tiên (the first frost) của thời tiết hàng năm, vào những giờ rất sớm của buổi sáng (trước 10 giờ sáng) và nhiệt độ lý tưởng để hái nho phải ở trong khoảng trừ (minus) 10 đến trừ 13 độ Celcius. Nho phải được ép lấy nước ngay trước khi tan. Nói cách khác, là người ta không thể đông đặc nho trong tủ lạnh và sau đó ép lấy nước nho để làm rượu và gọi đó là băng tửu được.

              Đức và Canada là hai quốc gia có qui định rõ ràng nhất và kiểm soát rất chặt chẻ việc sản xuất băng tửu. Ở Đức, băng tửu phải hội đủ các điều kiện qui định bởi QmP (Qualitätswein mit Prädikat - German wine classification), một cơ quan có trách nhiệm phân loại và theo dõi việc sản xuất các loại rượu có phẩm chất cao. Ở Canada, thì các hãng rượu sản xuất băng tửu phải theo đúng qui định của VQA (Vintners Quality Alliance). Nếu qui trình sản xuất, nguyên liệu và thành phẩm không đạt đủ tiêu chuẩn qui định , hoặc cố ý "gian lận" trong quá trình sản xuất băng tửu như dùng các phương tiện khác hơn để "đông đặc" nho với mục đích rút ngắn thời gian sản xuất...v. v thì sẽ không được dùng nhãn hiệu "băng tửu" cho rượu đã sản xuất hoặc sẽ bị rút giấy phép làm rượu băng tửu. Theo qui định của QmP và VQA thì điều kiện cơ bản và bắt buộc để rượu được dán nhãn hiệu "băng tửu", là nho dùng làm rượu phải được đông đặc một cách tự nhiên bởi thời tiết và nho phải được hái ở một độ lạnh tối thiểu, QmP qui định độ lạnh tối thiểu là trừ 7 độ C, còn VQA thì trừ 8 độ C. Ngoài ra, VQA còn qui định rất chi tiết về nguyên liệu, qui trình sản xuất, và phẩm chất của băng tửu mà các hãng sản xuất rượu tuyết ở Canada bắt buộc phải theo đúng như :
              - Nước nho lúc vừa ép xong phải có "Brix" tối thiểu là 32%, và thành phẩm băng tửu phải có "Brix" tối thiểu là 35%. Brix là cách đo "độ ngọt" của băng tửu (Brix is the measure of ice wine sweetness in degree of concentration). Độ ngọt (brix) của băng tửu sản xuất trên thế giới thường ở trong khoảng 29% (ít ngọt) đến 56% ( ngọt giống như mật ong) và brix được ghi ở chai rượu rõ ràng để cho người tiêu thụ có thể chọn theo ý thích .
              - Nồng độ đường đọng lại (residual sugar) tối thiểu 125g/ lít và rượu (alcohol) phải hình thành từ chất đường thiên nhiên của nho.
              - Không được "hái nho" trước ngày 15, tháng 11 mỗi năm. Và trước khi hái phải ghi chép lại đầy đủ các chi tiết trên "giấy tờ" như VQA qui định.
              - Tất cả các nhà trồng nho và hãng làm rượu tuyết phải ghi danh với VQA.
              - Các nhà sản xuất rượu phải dự cuộc họp thường niên về tiêu chuẩn của băng tửu (Icewine Standards Seminar) do VGA tổ chức mỗi năm.
              ...
              Vì có những qui định rõ ràng và kiểm soát nghiêm túc như vậy nên băng tửu của Canada và Đức có phẩm chất cao và được ưa chuộng nhất trên thị trường tiêu thụ.

              Việc sản xuất băng tửu đòi hỏi sự nhẫn nại, như phải chờ đợi đúng thời điểm để hái nho, giống như chờ đợi một bông hoa nở trọn vẹn. Nho hái sớm quá hay muộn quá sẽ làm giảm phẩm chất của rượu. Trong thực tế thì khó mà biết trước lúc nào là thời điểm "tốt" nhất để hái, việc này tùy thuộc rất lớn thời tiết và may mắn của nhà sản xuất rượu. Ngoài ra chủ vườn nho còn phải coi chừng chim chóc phá hoại. Nên từ khoảng cuối tháng Mười cho đến đầu tháng Ba, vườn nho được chăm sóc rất cẩn thận .

              Cả hai loại nho trắng (white grapes) và đỏ (red grapes) đều có thể dùng để làm băng tửu. Qua kinh nghiệm thu thập của những nhà sản xuất băng tửu thì hai loại nho: Riesling và Gewurztraminer là thích hợp nhất để làm rượu tuyết . Riesling, thuộc giống nho trắng, có lớp vỏ dày, nên trái nho bám vững chắc vào cây nho hơn và giữ được toàn vẹn nồng độ đường của nho trong thời tiết khắc nghiệt của mùa đông. Gewurztraminer là giống nho đỏ, mặc dù có tên Đức nhưng nguồn gốc giống nho này lại xuất phát từ Ý (Tyrollean Alps, vùng Alto Adige, Italy), rượu làm từ giống nho này có mùi thơm rất nồng, rất đặc biệt và dù chưa có kinh nghiệm thưởng thức rượu, một người vẫn có thể nhận ra hương vị của nó.

              Vì phương cách làm băng tửu tùy thuộc rất lớn vào thời tiết thiên nhiên, lại phải dùng lao động tay chân khá nhiều nên rượu tuyết là loại rượu tương đối khó sản xuất, hiếm và giá cả khá cao so với nhiều loại rượu khác. Có lẽ vì vậy mà rượu tuyết thường được bán dưới dạng "nửa chai" (half bottle, 375 ml) thay vì "một chai" (one bottle,750ml ) như thường thấy ở các loại rượu khác.

              Theo một số lớn các chuyên gia ẩm thực thì nên thưởng thức băng tửu ướp lạnh khoảng 10-12 độ C. Băng tửu tự nó đã được mệnh danh là "món tráng miệng trong cái ly" (dessert in a glass). Vì vậy không cần thiết phải có đồ nhấm đi theo, nhưng nếu thích thì có thể dùng trái cây tươi hoặc phó mát (cheese) đi kèm. Lúc đầu người ta thường dùng loại ly thanh nhã và nhỏ để uống rượu tuyết, nhưng những nghiên cứu về băng tửu gần đây thì loại ly lớn (9oz) sẽ làm khuếch đại và làm tăng thêm hương vị của băng tửu với người thưởng thức. Riedel Crystal, một hãng sản xuất ly dùng để uống rượu, đã thiết kế một loại ly để dùng uống băng tửu, loại ly tên là "The Vinum Extreme Ice Wine".

              Băng tửu, không những đã thỏa mản những đòi hỏi của người sành điệu và thưởng thức rượu ngon. Nhiều đầu bếp nổi tiếng cũng đã khám phá ra là chỉ với vài giọt băng tửu, họ có thể nâng cấp một món ăn bình thường như món gà nấu rượu đến nổi thực khách sành ăn phải tò mò "hỏi" vì chợt nhận ra những mùi vị thơm ngon khác biệt với mùi vị của "gà nấu rượu" bình thường .

              Băng tửu có màu vàng như mật ong, vị ngọt tương tự như vị ngọt hòa trộn giữa các loại cam, quít và tùy theo loại, băng tửu có mùi thơm giống như trái đào (peach), vải (lychee), xoài (mango)... Nhắp một hớp băng tửu, cái cảm giác mát lạnh, êm dịu, mềm mại, ngọt ngào ... của rượu thấm vào từng tế bào lưỡi có thể diễn tả tương tự như "Nắng Sài gòn ... chợt mát ... vì em mặc áo lụa Hà đông". Băng tửu "hấp dẫn" như "em và áo lụa Hà đông" vậy.

              Một đêm yên bình nào đó, bên cạnh người bạn đời, một chút nhạc nhè nhẹ, hương vị của băng tửu sẽ làm buổi tối thêm đậm đà. Nếu có dịp, hãy thử thưởng thức, tôi tin là bạn sẽ thích loại rượu ngon, đặc sản của xứ tuyết này.


              Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/ 18/01/06)



              <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2006 16:24:45 bởi Lý Lạc Long >
              #7
                Lý Lạc Long 23.01.2006 10:35:42 (permalink)
                Bông Hồng Cho Mẹ
                (Thân tặng cho các Bạn còn có được "Bông Hồng Cài Áo")

                "Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều."

                Ngày xưa khi đọc câu ca dao ở trên, lúc vẫn còn quanh quẩn ở mảnh đất chôn nhau cắt rún, mảnh đất được gọi là quê hương và vẫn còn có mẹ hiền bên cạnh, hiểu thì có hiểu, nhưng tôi đã không cảm được hết tất cả ý nghĩa và cảm xúc của tác giả khuyết danh nào đó, đã gởi gắm tâm tư của mình trong hai câu ca dao lục bát này. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đây là tâm sự của một cô gái lấy chồng xa và nhớ quê nhà...

                Ngày lễ hiền mẫu vừa qua, được người bạn mời đến nhà chơi. Nhìn những tấm thiệp nhỏ vẽ nguệch ngoạc những hình ảnh và chữ, gởi mẹ, gởi bà của những đứa con bạn, bên cạnh những nụ hồng đỏ rạng rỡ. Nhìn người bạn và những đứa con loay hoay sắp xếp những dĩa đồ ăn vừa được nhà hàng đem đến, chuẩn bị cho buổi cơm gia đình. Mừng cho hạnh phúc của bạn mình, gia đình êm ấm và đặc biệt còn có Mẹ để thương yêu, phụng dưỡng nơi xứ lạ quê người. Chợt nghe thèm điếu thuốc lá, tôi mở cửa bước ra ngoài, nhìn khói thuốc tan loãng vào không gian, ngước lên cao nhìn mây trôi lững lờ. Mây trôi về đâu? Một luồng gió bất chợt thổi ngang, đưa ngược khói thuốc vương vào mắt. Dường như mắt hơi cay ! Mẹ và quê hương, tôi đã mất tất cả .

                Chiều nay bên hiên nhà người
                Nhớ về đất tổ. Mẹ ơi! .... ngậm ngùi.

                Ngược dòng ký ức, mẹ tôi, một người phụ nữ nhỏ nhắn, mãnh khảnh, dịu dàng và hiền hòa. Trên đôi vai gầy guộc, mẹ đã bền bĩ, cưu mang những gánh nặng chất chồng của gia đình, của đời sống mang lại và đã vượt qua tất cả. Ba tôi thì cũng thương mẹ và rất lo lắng cho gia đình, nhưng có lẽ do ảnh hưởng của truyền thống phong kiến ngày xưa, Ba tôi ít khi dịu dàng săn sóc hay tiếp tay với mẹ với những công việc lặt vặt trong nhà. Với ba tôi, thì có lẽ vợ là một người thân cận nhất, một nội tướng của ông, và có bổn phận phải lo mọi chuyện trong gia đình. Còn ông thì chỉ lo lắng đến những công việc "lớn". Theo tôi, thì đây là một sự phân công và sắp xếp rất là bất công cho phụ nữ, nhưng trong suốt những năm tháng sống gần gũi với Mẹ, tôi không hề nghe Mẹ than vãn gì về việc này. Có lẽ vì đã lớn lên và được giáo dục trong bối cảnh của thời đại "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu" nên mẹ xem đây là bổn phận của mẹ, của một người vợ. Tôi có cảm giác như săn sóc, lo lắng cho ba tôi không phải là một gánh nặng mà là một niềm hạnh phúc của mẹ.

                Đối với con cái, thì tình thương và tấm lòng của mẹ tôi thiệt đúng như câu "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào ..." . Kể làm sao cho hết những nỗi nhọc nhằn, chịu đựng và hy sinh của mẹ tôi cho gia đình, cho con cái qua những đoạn đường thăng trầm của cuộc sống. Con cái thì nhiều và mỗi người một cá tánh khác biệt. Hình như là mẹ tôi biết cách thương mỗi đứa con tùy thời điểm và đúng mức. Nếu căn cứ vào lý lẻ thì nhiều khi thấy không công bằng, nhưng con tim của mẹ chắc có lý lẻ riêng của nó. Và sự thật thì tôi thấy đúng, ít nhất là về mặt tinh thần, như tục ngữ đã nói "mất mẹ liếm lá đầu đường", nếu không có mẹ thì những khác biệt về tính tình, anh chị em của chúng tôi có lẽ đã bị rã đám. Mẹ tôi đã như là chất keo gắn liền mọi người lại với nhau. Tình thương của mẹ cho những đứa con thầm lặng và kín đáo, không ồn ào, và đôi khi phải nhìn và nghe bằng con mắt và lỗ tai vô hình. Nói một cách khác, là dùng trái tim để nhìn và nghe, mới có thể cảm nhận được tình thương từ trái tim của mẹ .

                Phần của tôi, nếu không có tình thương và "những giọt lệ âm thầm" của mẹ cảm hóa thì chắc tôi cũng không được như ngày nay. Là con trai duy nhất trong gia đình, được cưng chiều từ lúc nhỏ. muốn gì thì gần như được nấy .Có lẽ một phần là vì vậy nên tôi đã ỷ lại, xem trời đất bằng cái nắp vung, lêu lỏng, ham chơi, bỏ bê, không xem việc học hành là cần thiết cho tương lai. Ba tôi thì rất là nghiêm khắc, nhưng đòn roi và sự cứng rắn của ông, đã không làm cho tôi thực sự "hiểu" sự quan trọng của học vấn đối với tương lai, để chuyên tâm đến việc học hành hơn . Tôi cũng đến trường, nhưng chỉ cho có lệ và mỗi lần ba tôi liên lạc với trường là mỗi lần tôi bị rầy la, bị phạt đòn. Những lỗi lầm, sai trái của tôi lại cũng rơi trên đôi vai của mẹ. Gia đình, họ hàng, người quen biết ai cũng "đổ lỗi" cho mẹ, là sự thương yêu và chìu chuộng của mẹ dành cho tôi là nguyên nhân chính làm cho tôi bê tha, hư hỏng. Nhưng dù vậy, tình thương của mẹ dành cho tôi hình như chỉ thêm chứ không bớt. Có một lần tôi bị phạt đòn khá nặng, mẹ tôi hình như đau lòng lắm, nhưng không dám "can" ba tôi . Tối đó, nửa đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy mẹ tôi đang xoa dầu trên những vết roi. Mẹ không nói gì nhiều và chỉ hỏi: "Có còn đau lắm không?". Nhìn đôi mắt của mẹ, tôi biết mẹ đã khóc trong âm thầm. Suốt đời tôi vẫn nhớ mãi ánh mắt thương yêu, khổ tâm, còn ươn ướt với những giọt lệ âm thầm rơi của mẹ trong đêm đó và tôi tự hứa với bản thân là sẽ làm cho mẹ tôi vui. Năm tôi đậu Tú Tài 2, được nhận vào đại học, mẹ tôi đã tổ chức buổi tiệc ăn mừng. Nhìn mẹ thắp hương tạ ơn tổ tiên, và hãnh diện "khoe" với bà con, cậu Tú "tiểu tặc lì" của mẹ . Cũng với đôi mắt ươn ướt, như đêm tôi bị đòn đau, nhưng lần này thì với lệ mừng, tôi thấy như cả đại dương của tình thương thu gọn lại trong ánh mắt của người mẹ hiền.

                Mẹ tôi và tình thương của mẹ dành cho tôi nói riêng, của những người mẹ và tình thương của họ dành cho con cái nói chung, được diễn tả một cách không cầu kỳ, bình dị, gần gũi và đúng mức như trong hai câu ca dao . "Mẹ già như chuối ba hương. Như xôi nếp một, như đường mía lau". Vâng, mẹ và tình mẹ có thể so sánh một cách cụ thể với hương vị ngọt ,thơm, ngạt ngào của chuối ba hương. Dẻo, mềm, ngon của xôi nếp một đầu mùa. Đậm đà, ngọt dịu như đường của mía lau. Mẹ, tượng trưng cho những gì chín nhất, ngọt nhất và quý nhất .

                Có lẽ cưu mang và dưỡng nuôi là hai đặc tính thiên phú của phái nữ, cho nên dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình thương người mẹ dành cho con cái cũng không bao giờ cạn và chảy bất tận như nước trong nguồn. Những ai may mắn, được sống và lớn lên, trong vòng tay bảo bọc và che chở của mẹ . Hình ảnh của người mẹ sẽ mãi mãi là một hình ảnh cao quí, thân thương, gần gũi, in sâu, khắc đậm và trường cửu trong tiềm thức của mỗi chúng ta dù cho vật đổi, sao dời. Tình mẹ có thể nói là điểm phát sinh và là gốc của mọi tình cảm thương yêu của một con người. Ngay từ lúc còn bé, chúng ta vừa cất tiếng khóc thì người mẹ đã chạy đến bên cạnh nâng niu, vỗ về . Mẹ như một bà tiên dịu hiền hiện đến để xoa dịu, chăm sóc, làm tiêu tan những lo âu, sợ hãi của chúng ta. Từ lúc chào đời, như một đứa bé, chúng ta chẳng có chút khái niệm gì về tình thương, về phương diện này, thì có thể nói người mẹ cũng là một người thầy đầu tiên dạy chúng ta về thương yêu. Trong trường hợp của tôi, nhờ có mẹ, tôi đã hiểu thế nào là thương yêu, mẹ tôi đã khơi dậy ngọn lửa tình cảm trong tôi, đã khiến tôi làm những việc, mà lúc đó, tôi cũng chưa hiểu là cần thiết cho tương lai của tôi. Như việc cố gắng học để làm cho mẹ tôi vui lòng là một thí dụ . Tôi chĩ nghĩ là cố gắng học để cho mẹ tôi vui. Tôi cố gắng học vì tình thương của mẹ dành cho, và vì tôi thương mẹ tôi . Chứ việc cố gắng học để cho bản thân tôi có một tương lai tốt thì rất là xa vời và mù mờ trong trí óc tôi lúc đó. Có thể nói, những kiến thức và khả năng tôi có được ngày hôm nay, để sinh sống, để đóng góp như một phần tử hữu dụng của xã hội, đều bắt nguồn từ những "giọt lệ âm thầm" của mẹ tôi. Mẹ là tặng phẩm lớn nhất mà cuộc đời đã cho tôi .

                "Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi ..."
                Những giọt lệ âm thầm của mẹ, vị nóng, mùi nồng của dầu cù là, và bàn tay dịu dàng êm ái của mẹ trên những vết roi đã xoa dịu cơn đau thể xác, đã dập tắt sự chống đối và nổi dậy ngông cuồng không phân biệt đúng sai của tuổi trẻ, đã dẫn dắt tôi qua những đoạn đường gập ghềnh nhất của cuộc đời . Ở một nơi nào đó, xin mẹ hãy yên lòng, đứa con trai duy nhất của mẹ đã nên người. Điều tiếc nuối nhất trong đời, là ngày tôi có điều kiện và khả năng để đền đáp lại chút đỉnh nghĩa ân trời biển của mẹ, thì mẹ và con đã âm dương ngăn cách. Nhìn cảnh gia đình ấm cúng của bạn, vui mừng cho bạn, xót xa cho mình và chợt nghe thèm quá tiếng gọi: Mẹ ơi!

                Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, thì hình như tình mẹ cũng đưọc vinh danh, người Âu Mỹ đặt ra ngày Hiền Mẫu để vinh danh tình mẹ . Nhưng có lẽ đúng như nhà văn Trà Lũ đã nhận xét trong cuốn Đất Thiên Đàng : "Ở đây, mỗi năm một lần, con cái mới nhớ tới cha mẹ, mới mua quà, mới mua thiệp, mới mời đi ăn tiệm. Việt Nam mình hơn hẳn họ mặt này. Chúng ta yêu mẹ quanh năm. Từ bé cho đến trưởng thành, chúng ta quấn quýt bên mẹ".

                Đời sống của các xứ kỹ nghệ quá tất bật và bận rộn. Người già ở những xứ này, nếu không còn đủ linh hoạt để thích ứng với cuộc sống, thì hình như không được coi trọng lắm như ở quê hương mình và thường bị con cháu bỏ quên. Trường hợp như gia đình của người bạn là một trong những gia đình may mắn, vợ chồng thuận thảo, kính mẹ, yêu cha và có đủ điều kiện để lo lắng. Một số gia đình khác thì kém may mắn hơn, mà nguyên nhân thì có thể do điều kiện kinh tế, hoặc dâu hay rễ bất hòa với cha mẹ của đôi bên… Những bậc cha mẹ chẳng may lâm vào hoàn cảnh này thì thật là khổ tâm và đáng thương. Tưởng qua bên này, thì những tháng ngày lam lũ, nhọc nhằn sẽ là quá khứ. Nhưng thực tế thì khác hẳn với tưởng tượng. An nhàn chỉ là giấc mơ và nay lại gánh thêm nỗi buồn xa xứ. Một số những người mẹ, thay vì an hưởng cảnh thanh nhàn của bản thân, thì vì tình thương, vẫn tiếp tục đem thân xác già nua của họ dãi nắng dầm mưa, tiếp tục đổ từng giọt mồ hôi để kiếm thêm chút tiền. Tôi đã thấy những bà mẹ tóc bạc, chào mời khách mua giúp những bó rau, những củ khoai hay những giỏ trái cây trồng ở vườn sau, nhặt từng cái lon nhôm ... chắt chiu gom góp từng đồng, để gởi về giúp đở, để san sẻ nỗi cơ cực lầm than của con cháu nơi quê nhà, bên kia bờ đại dương . Tình thương của những người mẹ VN này quả thật là vĩ đại .

                Bạn thân mến,
                Theo tục lệ Âu Mỹ thì trong "Ngày Hiền Mẫu", bông hồng trắng cho những đã mất mẹ và bông hồng đỏ cho những người còn mẹ . Nhân dịp này, dựa vào kinh nghiệm bản thân của một người đã mất mẹ, tôi không dám khuyên, chỉ xin nhắc với các bạn có được "bông hồng cài áo", là đừng quên: Mẹ là "chuối , là "xôi" , là "đường", là "mật" . Mẹ là những gì chín nhất, ngon nhất, ngọt nhất, tuyệt nhất và quý nhất. Hãy thương yêu kính trọng mẹ, hãy làm vui lòng mẹ với hết khả năng, để mai sau với bông bồng trắng cài trên áo, bạn sẽ vẫn nhớ thuơng và nghĩ đến mẹ, nhưng bạn sẽ không có gì để phải ăn năn hay nuối tiếc. Tôi đã mất mẹ, nên hiểu thế nào là nhớ thương, nuối tiếc và ray rứt với những ước muốn, là tôi đã có thể làm cho mẹ tôi được nhiều việc hơn tôi đã làm và tôi đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi đã thương ... khi mẹ tôi còn sống .

                Lý Lạc Long
                (TTL/TCT/MAI/ 8/05/05)


                *****

                Ngày Giỗ Mẹ

                Ngày giỗ của mẹ
                Con thắp nén nhang thơm
                Con rót chung trà nóng
                Trên bàn có vài món mẹ thích
                Con của mẹ nấu đó
                Mời mẹ ăn !
                Con đã gởi tiền vàng bạc ... và mọi thứ khác
                Như lời mẹ dặn lúc còn sống
                Để mẹ xài khi cần
                Chắc vài hôm nữa mẹ sẽ nhận được.

                Mẹ mất,
                Thắm thoát đã mười năm
                "Tiểu tặc lì" của mẹ, tóc cũng đã hai màu
                K.D., L.H. cũng đã lớn
                Chúng hay nhắc đến mẹ lắm
                Hôm nay Ly Hương hỏi :
                Sao không có trầu cau cho bà nội?
                Nội "ghiền" trầu mà
                Con nghe trong lòng xót xa
                Phải chi còn ở quê nhà
                Sẽ không thiếu cau trầu tươi ngày giỗ mẹ.

                Con biết,
                Mẹ không trách và sẽ nói:
                "Xứ người, như vậy cũng đủ quá rồi"
                Với con, mẹ như nước ngọt trong nguồn
                Cũng như lúc còn nhỏ
                Con làm việc sai trái
                Ba phạt roi xong, mẹ lấy dầu thoa
                Lau mặt, vuốt đầu
                Có đau lắm không?
                Đừng giận ba, con trai cưng của mẹ
                Ba thương con lắm đó
                Mẹ làm sao "cắt nghĩa" đây ?

                Mẹ ơi !
                Chỉ nhỏng nhẽo với mẹ thôi
                Con đã hiểu từ lâu lắm rồi
                Ba nghiêm khắc vì muốn con nên người
                Công ơn ba lớn lắm
                Mẹ không cần phải "cắt nghĩa" đâu
                Không có ba, không có con ngày nay
                Những lời dạy bảo của ba
                Đã và sẽ theo con suốt đời
                Con trai của mẹ đã nên người
                Mẹ yên tâm đừng lo nữa
                Một đời mẹ đã nặng gánh
                Hãy để xuống
                Con mời mẹ ngồi
                Ăn một bửa cơm với con và gia đình.

                Lý Lạc Long (TTL/TRT/30/03/2003)
                (Kính dâng hương hồn mẹ hiền)
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.01.2006 08:37:12 bởi Lý Lạc Long >
                #8
                  Lý Lạc Long 30.01.2006 16:59:33 (permalink)
                  Lời Của Tim

                  Em yêu ...

                  Hình như đã lâu , anh đã quên mất là đã đến và ở nơi này lúc nào nữa. Đời sống cứ lặng lẽ trôi qua như con nước xuôi dòng theo một nhánh sông để đến một nơi vô định nào đó theo định mệnh sắp đặt . Em và anh, cũng như những con nước xuôi dòng theo những nhánh sông riêng rẽ dẫn về biển . Trên hành trình ra biển, những nhánh sông có thể gặp nhau, họp thành một nhánh , hoặc chỉ gặp ở một điểm nào đó rồi sẽ theo hướng riêng, về biển . Ước mong của anh, mình sẽ là những con nước của cùng một nhánh sông định mệnh, để được cùng một hướng, chung hành trình về biển khơi .

                  Cuộc sống bận rộn, vội vã ở xứ người, đã làm con người chạy theo những qui trình đã định như những cái máy. Ngày tháng trôi qua, tình cảm dường như cũng lạnh lùng theo thời tiết nơi này, những cảm xúc, rung động ... với ngoại cảnh không biết từ lúc nào đã biến mất. Sống vì phải sống và làm vì phải làm, vì bổn phận, vì thói quen ... những mơ ước, mộng mơ xa vời của tuổi hoa niên môt thời như đã đi dần vào quên lãng. Tập trung và vùi đầu vào việc học, việc làm để tìm vui, để quên những muộn phiền khác của đời sống . Anh ngỡ trái tim mình đã chai đá, khô khan và cằn cỗi như cây mùa đông trụi lá .

                  Những ngày qua, em chợt đến, như nắng ấm mùa xuân bất chợt về ngang, làm cây khô chuyển mình như muốn đâm chồi kết nụ giữa mùa đông, và nhựa sống bỗng căng đầy. Những giấc mơ hoang, êm ái , nồng ấm đã từng bước trở lại làm đêm thêm dài với những nhớ nhung, ước mơ. Những đêm trăn trở, thả hồn đi hoang và hình như anh đã bắt đầu tìm lại và nếm được hương vị ngọt ngào của cuộc sống. Khô khan, lạnh lùng , chán nản , bi quan ... dường như đã nhường bước và trái tim bỗng đập lại những nhịp tưởng chừng như đã quên lãng và mất từ lâu .

                  Buổi sáng hôm nay, nơi anh ở, tuyết cũng rơi nhiều và những luồng gió từ cực bắc về thổi ngang, lạnh buốt da như những mùa đông đã qua . Nhưng mùa đông năm này dường như khác với những mùa đông trước, hòa quyện trong luồng gió lạnh như có hơi thở ấm áp của em, và những cánh hoa tuyết như trắng hơn, mịn màng hơn lơi lả bay lượn đùa với gió đông . Mùa đông chợt reo vui và anh chợt thấy cần một ánh mắt thân thương, một bàn tay để những ngón tay tìm nhau truyền hơi ấm và gìn giữ lại những tin yêu đã một thời vuột mất .

                  Anh đang mơ .... Có lẽ ! Và “trái tim sắt đá” đang trở thành mềm nhão, mong manh như tuyết, sẽ tan thành nước thấm vào lòng đất cho cây trổ mầm, hoa ươm nụ đón chào mùa xuân .

                  Một giấc mơ hoang? Cũng được, sẽ không hối tiếc, sẽ không ân hận .
                  Cám ơn em đã mang nắng xuân về làm ấm lại mùa đông .

                  Anh .

                  PS:
                  “Em là sóng, nhưng xin đừng như sóng
                  Đã xô vào, xin chớ ngược ra khơi “ (Đỗ Trung Quân)
                  #9
                    Lý Lạc Long 30.01.2006 17:02:07 (permalink)
                    Gửi Em Từ Một Góc Trời Xa



                    Như Khói Như Sương

                    Buổi sáng cuối tuần, ngồi nhìn từng giọt cà phê phin rơi chậm vào ly, suy nghĩ vẩn vơ về sự ngắn ngủi, mong manh như sương khói của một đời người. Anh chợt nghĩ đến đời sống của bản thân mình, sẽ từ giã trạm tạm trú trần gian này lúc nào và sẽ đi về đâu? Thiên đàng hay địa ngục, nếu có, và sẽ tiếp tục làm gì ở đó? Toàn những câu hỏi mà có lẽ không ai có đủ thẩm quyền để có thể giải thích một cách rõ ràng được cả . Theo hầu hết các tôn giáo, thì thiên đàng dành người “tốt” và địa ngục thì cho kẻ “xấu”, nhưng ngay cả quan niêm về “xấu” và “tốt”, tự nó cũng đã thay đổi theo từng xã hội, từng phong tục tập quán, từng thời điểm. Hình như, trên đời này mọi việc đều tương đối, không có gì là tuyệt đối cả, ngay cả đúng và sai, cái đúng nơi này có thể là sai nơi khác, và cái đúng ở thời điểm hôm nay có thể bị chứng minh là sai trong tương lai. Nếu ai hỏi anh sẽ chọn thiên đàng hay địa ngục khi chết. Nếu anh được chọn lựa, thì có lẽ câu trả lời của anh hiện giờ sẽ là: Anh chọn nơi nào có bạn bè của anh. Em, theo như định nghĩa của “bạn”, thì em cũng là một người bạn của anh.

                    Anh chợt nhận ra một điều này hơi lạ, là anh đang suy nghĩ vẩn vơ, nhưng sao vẫn có em trong đó? Dường như dạo này, bằng những con đường không tên, bất định hướng, ngắn hay dài, vô tình hay cố ý, em cũng đến và ngang nhiên chiếm ngự một phần những dòng tư tưởng và suy nghĩ của anh, như một người có rất đầy đủ thẩm quyền. Nhiều lúc anh có cảm giác như là em đang quanh quẩn bên cạnh và rất gần gủi, dù là mình đang cách núi, ngăn sông. Em như ẩn hiện ở giữa vùng ranh giới của thực chân và hư ảo. Với sự giúp sức của em, anh đã và đang dệt ra những giấc mơ để trang điểm cho đời sống hiện tại, làm hành trang trên đường về tương lai. Ngày mai, ai biết được sẽ ra sao? Nhưng những ngày vừa qua là những ngày rất vui vẻ trong cuộc sống của anh. Xin cám ơn em!

                    Vui Buồn Nhân Thế

                    Dường như đã lâu lắm rồi, anh đã không nằm gác tay lên trán nhìn trần nhà, không hề để ý đến cái bóng đơn lẻ của mình phản chiếu trên tường mỗi đêm, méo mó và thảm não như đang bị hành hạ vì nhớ nhung và cô đơn. Sự thản nhiên với ngoại cảnh, quên lảng quá khứ, thờ ơ với hiện tại lẫn tương lai đã thay bằng những cảm giác mà có lẽ khi đang yêu người, yêu đời, mới cảm nhận được. Cuộc sống nơi xứ người, trôi qua lặng lẽ, tẻ nhạt. Anh đã không để ý lắm đến sự tươi mát, xinh đẹp của mùa xuân, phong cảnh thơ mộng, mênh mông sương khói của mùa thu. Chỉ cái nóng của mùa hè nhắc anh phải mở máy lạnh, cái lạnh của mùa đông nhắc anh phải xem nhiệt độ của lò sưởi và mặc đủ đồ ấm khi ra ngoài.

                    Thời gian, thoáng qua mau như một giấc mơ và những ngăn cửa của các khung ký ức đã lần lượt đóng kín một cách vô thức hay hữu tình. Bao nhiêu ước vọng của tuổi hoa niên, những nỗi niềm thầm kín, riêng tư, những hứa hẹn, thề nguyện với chân tình ngày xưa dường như đã ngoài khả năng thực tế, đang từng bước vuột khỏi tầm tay và xa dần. Quê hương mờ mịt xa. Bạn bè ngày xưa phiêu bạt, đứa chân trời, đứa góc biển. Cuộc sống tha hương, xuôi ngược khắp nẻo đường. Tri kỹ, tri âm, người quen biết, gặp gỡ, chung một đoạn đường, rồi cũng rẽ hướng, chia tay. Mỗi người trôi theo một dòng đời riêng của mình. Người đến rồi người đi qua cuộc đời. Ai sẽ là người ở lại?

                    Anh chợt nghĩ đến em và anh, đến tình yêu của mình trong tương lai, đến việc họp để rồi tan, sớm hay muộn, gần như là một quy luật của đời sống trần thế. Hy vọng, là em và anh sẽ đi chung một ngã đường trong cuộc sống nhân thế và chia tay theo định luật tự nhiên "sinh tử" của tạo hóa. Đời người ngắn ngủi và mong manh như khói như sương. Càng nghĩ xa xôi, càng thấy mình nhỏ bé và bất lực, quá nhiều việc ngoài tầm tay, lại càng bi quan hơn. Do nợ duyên và định mệnh đưa đường, mình gặp gỡ và yêu thương nhau. Anh đã nhủ lòng là sẽ sống với hiện tại. Yêu thương em với tất cả tình yêu anh đang có trong huyết quản, làm hết những việc anh có thể làm. Với anh, dù tương lai là thành công hay thất bại, tốt hay xấu, anh cũng sẽ hoan hỉ đón nhận. Điều chắc chắn, là anh sẽ không bao giờ phải hối hận, ăn năn, nuối tiếc vì anh đã yêu, đã sống, và đã làm hết khả năng của mình. Dù biết đời nguời như khói sương, đời sống vốn vô thường, hôm nay có và ngày mai không . Lòng anh hiện giờ rất thanh thản và yên bình để yêu em, yêu người và yêu đời .

                    Ước Mơ

                    Những buổi chiều buồn lang thang dọc bờ hồ, tiếng ca của em hình như đang hòa quyện với tiếng sóng vỗ bờ, với tiếng gió vi vu, văng vẳng bên tai . Nhớ ơi là nhớ! Những nụ hôn vô hình, những vòng tay ôm chân không, những yêu thương, luyến ái, mặn nồng gởi trao mà dư hương như luôn luôn quanh quẩn, ẩn hiện trong mùi thơm của tách cà phê buổi sáng, trong mùi cháy thơm nồng của củi thông trong lò sưởi đêm đông. Như mưa xuân, nắng hạ, gió thu, tuyết đông là của đất trời. Với anh, dường như em là tất cả, là tình nhân để anh yêu thương và được yêu thương, là cái bóng và cảm xúc để anh thơ thẩn, sắp vần, ráp chữ, dệt mộng xây mơ, xẻ chia nỗi niềm tâm sự, là hy vọng và tương lai để anh thấy cuộc đời đáng yêu và đáng sống hơn.

                    Con đường tình yêu, anh có thể xem mình như là một trong những người may mắn, đã tìm được nửa phần đi lạc của mình. Với em, anh có cảm giác là như vậy. Trong thực tế của cuộc sống, có rất nhiều người đi suốt cuộc đời vẫn tìm không gặp nửa phần đi lạc của họ. Có thể họ cũng có bạn đường, hoặc đang sống dưới mái ấm gia đình, nhưng đồng sàng dị mộng. Sự kết hợp của họ không phải là do tình yêu mà có thể là do những nhu cầu thiết thực của đời sống, của xã hội ... v.v đòi hỏi . Như tâm sự của TTKH:
                    "Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời .
                    Ái ân lạt lẽo của chồng tôi"
                    Hay như của Phan Thị Thanh Nhàn:
                    "Người tôi yêu đã đi xa
                    Người yêu tôi ở lại nhà. Buồn không!"

                    Yêu người và được yêu đã là một sự may mắn thì được sống chung với người mình yêu mến phải là một hạnh phúc tuyệt vời . Anh hy vọng là con đường tình yêu sẽ dẫn mình đến một cuộc sống hạnh phúc bên nhau. Với anh, chắc cuộc sống sẽ vô nghĩa, mất hẳn lạc thú nếu đời sống tương lai thiếu vắng hình bóng của em. Từ sâu thẳm trong lòng, anh thưong mến em như chưa từng biết thương, thực sự muốn chia xẻ với em mọi buồn vui của cuộc sống, với tấm lòng và khả năng của anh. Đừng hỏi anh tại sao, vì anh không thể nào giải thích rõ ràng, rành mạch và hợp lý lẽ bằng ngôn ngữ bình thường được đâu. Hãy nhìn vào mắt anh, và lắng nghe nhịp đập của trái tim, em sẽ hiểu.

                    Bên này mùa Xuân cũng đã về, sân cỏ trước nhà đã xanh tươi, cây cũng bắt đầu nẩy mầm kết nụ. Buổi sáng, đã có tiếng chim hót ríu rít, líu lo đón chào bình minh, những đàn chim về phương nam trốn cái lạnh khắc nghiệt của phương bắc hình như cũng đã trở về. Sáng này anh pha hai ly cà phê, và đã uống dùm em một ly đó. Ước chi, mỗi buổi sáng có thêm nụ hôn của em đi kèm, thì cà phê chắc sẽ thơm ngon hơn và ngày sẽ tràn đầy nắng ấm và vui vẻ với anh, dù cho ngoài trời có đang mưa hay nắng .

                    Chúc em mọi việc vui vẻ và như ý. Hẹn thư sau .

                    Anh.
                    #10
                      TTL 12.02.2006 13:03:07 (permalink)
                      VALENTINE'S DAY
                      NGÀY CỦA TÌNH YÊU VÀ THÂN ÁI


                      Hàng năm, vào tháng Hai, đặc biệt ở Âu châu và Mỹ châu, thiệp, kẹo "chocolate", bông hoa và tặng phẩm được trao đổi giữa những người yêu thương nhau như vợ chồng, tình nhân... để kỷ niệm và mừng ngày lễ Tình Yêu (Valentine's Day) vào ngày 14, tháng 2. Ngày nay, phong tục mừng ngày lễ Tình Yêu đã được phổ biến rộng rãi đến nhiều quốc gia khắp năm châu. Một điểm lạ, với cái tên ngày Tình Yêu, nếu chưa biết, một người có thể suy đoán là nguồn gốc của ngày lễ phải liên quan đến một câu chuyện tình lãng mạn ướt át nào đó trong đời sống thực tế hoặc trong huyền thoại. Nhưng không phải như vậy, những nhân vật chánh tạo thành ngày Tình yêu không phải là những cặp nhân tình như kiểu Roméo và Juliette của văn hào Shakespeare hay như câu chuyện thần thoại của thần tình yêu Cupid và công chúa hạ giới Psyche. Nguồn gốc ngày lễ Tình Yêu xuất phát từ tôn giáo, liên quan đến câu chuyện của một vị linh mục Thiên chúa giáo tử đạo, đã được giáo hội phong thánh tên St. Valentine. Nhưng thánh Valentine là ai? Và tại sao người ta lại nhớ và kỷ niệm ngày lễ này?

                      Mặc dù nguồn gốc và lịch sử ngày lễ Tình Yêu và thánh Valentine vẫn còn che phủ bởi tấm màn bí mật, chưa có xác định được rõ ràng. Nhưng từ xưa, tháng Hai đã được người ta xem như là một tháng của tình yêu, mộng mơ, thi vị và lãng mạn. Ngày lễ Tình yêu như chúng ta biết hôm nay bắt nguồn từ Công giáo và một số những truyền thống của La mã cổ đại. Về tên St. Valentine thì Tòa thánh La Mã đã công nhận ít nhất là ba vị thánh khác nhau có cùng tên Valentine hay Valentinus, tất cả những vị thánh này đều tử vì đạo (martyred). Và trong số ba vị thánh này thì có lẽ truyền thuyết của vị thánh Valentine dưới đây, với những tình tiết được phổ biến rộng rãi, được nhiều người biết đến nhất cho ngày lễ Tình Yêu.

                      Theo truyền thuyết thì thánh Valentine là một linh mục sinh sống và hành đạo vào thế kỷ thứ ba (270) ở La mã. Cũng vào khoảng thời điểm này, nước La Mã ngăn cấm việc truyền đạo và theo đạo Công giáo rất nghiêm nhặt. Thêm nữa, theo quan điểm vua La Mã, Claudius II, đang trị vì thì thanh niên độc thân sẽ làm những người lính tốt hơn những người có gia đình. Để đảm bảo đủ "nguồn cung cấp" cho quân đội những chiến sĩ độc thân gan dạ, sẵn sàng chết, không vì tình yêu và gia đình mà bị "lạnh cẳng"... để phục vụ cho đế quốc La Mã, bạo chúa Claudius II đã ra lệnh ngăn cấm không cho thanh niên trẻ lập gia đình. Đến thế kỷ 20, thì chúng ta thấy chuyện này được lặp lại ở Việt Nam, qua cái chính sách "tam khoan" (khoan yêu, lỡ yêu thì khoan cưới, lỡ cưới thì khoan đẻ) của đảng cộng sản Việt Nam áp dụng cho thế hệ trẻ miền Bắc thời chiến tranh để có đủ xương máu phục vụ cho "quốc tế vô sản" (?). Lúc ấy, Thánh Valentine đã cho đó là phi lý và bất công, nên ông vẫn bí mật tiếp tục làm chủ lễ phối hôn và ban phước cho những thanh niên trẻ muốn lập gia đình. Vì vậy, nên vua Claudius II đã ra lịnh bắt giam và xử tử Valentine vào ngày 14, tháng 2, năm 270 . Tương truyền trong lúc bị giam giữ trong ngục, thánh Valentine đã quen biết với một bé gái mù, con của người cai ngục và tình bạn đã nảy sinh. Cô bé nghe tiếng vị linh mục hiền lành và nhân từ này rất thương yêu trẻ con và thường hái hoa đẹp trong vườn hoa của ông để tặng các em bé nên cô cũng thường đem hoa đến, ném qua cửa sổ ngục thất tặng ông . Cô tin tưởng một nhà tu thánh thiện như thánh Valentine sẽ có quyền năng cầu xin Chúa giúp cho đôi mắt cô sáng lại. Thánh Valentine chấp nhận lời cầu xin và bắt đầu cầu nguyện cho cô bé. Điều kỳ diệu đã xảy ra, đôi mắt cô bé được sáng lại, nhưng chỉ kịp để nhìn thấy những giây phút cuối cùng của thánh Valentine. Trước khi bị hành quyết, thánh Valentine đã viết gửi cho cô bé mù một lá thư từ giã, cuối lá thư ghi: "Từ Valentine của cô bé" (From your Valentine) ...

                      Một sự kiện khác nữa là giữa tháng Hai (15/ 2) còn là ngày lễ hội Lupercalia của người La mã, ngày lễ này vinh danh thần Lupercus, vị thần bảo vệ gia súc và mùa màng cho người La mã, cùng với Romulus và Remus, con song sinh của thần chiến tranh Mars, Romulus là ông tổ của dân La mã. Theo tục lệ xưa, trước ngày Lupercalia, các cô gái trẻ viết tên mình trên một mảnh giấy và để vào chung trong cái chum lớn. Đến này lễ, những chàng trai trẻ độc thân sẽ bóc một trong các mảnh giấy ghi tên các cô gái từ cái chum, cô gái có tên trên mảnh giấy sẽ trở thành bạn gái duy nhất của chàng trai trong năm đó. Thường thì các cặp này sẽ thành vợ chồng. Nhưng nếu không hợp thì chàng trai có quyền "từ chối" cô gái, và sang năm lại bóc thăm nữa với hy vọng sẽ tìm được người tâm đầu ý hợp. Tục lệ này sau đó bị giáo hội La Mã ngăn cấm vì không hợp với các quan điểm của Công giáo. Khoảng năm 498, Đức Giáo hoàng Gelasius công bố ngày 14, tháng 2 là ngày của thánh Valentine (St. Valentine's Day). Công giáo đã trở thành quốc giáo của La Mã và người ta dần dần đổi, kết hợp ngày Lupercalia với ngày St. Valentine thành một ngày của mùa màng sung túc và của tình yêu lứa đôi. Vào năm 1969, Giáo hoàng Jean Paul VI đã loại bỏ ngày này ra khỏi lịch nhà thờ. Tuy nhiên sự pha trộn giữa lễ hội của người La Mã và ngày kỷ niệm vị Thánh tử vì đạo, St. Valentine của Thiên chúa giáo vẫn được ưa chuộng và ngày lễ Valentine vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay.

                      Để tri ân và vinh danh thánh Valentine, hàng năm đến ngày 14, tháng 2, người ta tặng cho nhau những đóa hoa hồng, hay loại hoa Violet tím dại, loài hoa đã mọc trong khe đá bên chấn song cửa sắt của nhà ngục, gửi cho nhau những lời yêu thương, thân ái được nắn nót viết trên những tấm thiệp. Ngày nay, từ "valentine" có thể hiểu như "người quan tâm và thương mến ". Xa hơn, cho những cặp tình nhân, cụm từ "from your valentine" của tiếng Anh còn có nghĩa là "từ một người rất yêu em /anh".

                      Vào thời đại Trung cổ (Middle Ages), ở Âu châu , người ta tin rằng ngày 14, tháng 2 là lúc bắt đầu mùa tình ái của chim, sự tin tưởng này tiếp sức mạnh mẽ cho cái ý tưởng giữa tháng Hai, ngày kỷ niệm thánh Valentine, là một chọn lựa đúng cho ngày lễ Tình Yêu. Nước Anh, sau khi quân La Mã đặt chân lên đảo, và du nhập vào xứ sở của sương mù này những tập tục cùng các lễ hội truyền thống của La Mã. Lễ Tình Yêu xuất phát từ Ý, nhưng nước Anh lại là nơi phát triển truyền thống này mạnh mẽ nhất. Có lẽ ngày lễ này có sức hấp dẫn hợp với dân tộc tính (đa sầu, đa cảm) của Anh Quốc nên chẳng bao lâu ngày Tình Yêu đã trở thành một cái lễ có ý nghĩa nhất với người Anh.
                      Vào tháng Hai, ở Anh, thường có một loại chim lông đen về làm tổ trên những mái vòm cao của nhà thờ nên người ta càng tin rằng tháng Hai chính là tháng tình yêu và hôn nhân nảy nở. Các cô thiếu nữ có lệ đi vòng quanh nhà thờ, rải hạt "gai dầu" (hempseed), một loại hạt cho chim ăn và khấn nguyện sẽ gặp được một chàng hiệp sĩ cỡi bạch mã của lòng. Rải hạt và khấn nguyện xong xuôi thì các nàng đi về. Và trên đường chắc các nàng cũng thỉnh thoảng ngoái lại xem có chàng "khờ" nào cỡi ngựa trắng theo sau về "trình diện" bố mẹ không? Ngày nay thì chắc chàng không cỡi ngựa mà là lái xế theo nàng. Xã hội tiến bộ mà, và như vậy có lẽ bảo đảm hơn, tránh được trường hợp các chú ngựa bị tiếng sét ái tình của các nàng ngựa, nổi chứng đình công hoặc "làm dơ" đường phố bất tử. Lại có những thiếu nữ khác tin rằng, trong ngày lễ Tình yêu, chàng trai nào nàng gặp đầu tiên sẽ là phu quân của nàng. Dĩ nhiên là chàng trai "đầu tiên" đó phải hào hoa phong nhã mới lọt vào mắt xanh nàng được. Tục lệ này cũng hay hay vì lỡ gặp chàng đầu tiên mà "xấu xí" quá thì các nàng cứ làm tỉnh, phớt lờ coi như không thấy, và không gặp là xong . Tuy vậy, các chàng độc thân cũng nên "đóng bộ" và "diện" cho ngon lành chút và dạo phố đông xem . Biết đâu gặp may mắn, mũi tên của thần ái tình sẽ bắn trúng tim nàng. Cho những người mà sao Đào Hoa và Hồng Loan chiếu mạng, có nhiều người yêu quá, đến nổi bối rối không biết chọn ai để làm bạn trăm năm. Có gì khó giải quyết đâu ? Cứ theo tục lệ của người Anh thuở xưa, viết tên của từng bạn tình trên mỗi mảnh giấy bỏ chung vào cái chén thả sông, cái chén chìm và mảnh giấy nào nổi lên trước nhất thì người đó là "duyên tiền định" của mình. Dễ dàng quá xá!

                      Vào thời Trung Cổ và thời Phục Hưng, thiệp chúc chưa có phổ biến, người ta thường tặng nhau hiện vật như hoa, chim, đồ trang sức... Những người giàu có thì gởi tặng các cô những món nữ trang đắt giá. Nhưng chẳng bao lâu thì người ta nhận ra chơi theo cái kiểu trưởng giả này thì cháy túi sớm và lỡ chuyện không thành, nàng quay lưng thì quả là ..." hư hao" thiệt, nên khoảng năm 1760 cái tục tặng nữ trang đã chính thức chấm dứt. Hiện nay, Viện bảo tàng Anh quốc (British Museum) có lưu trữ được một cái thiệp "Valentine" cổ xưa nhất. Tấm thiệp này, do Charles, một quận công người Pháp ( Duke of Orleans) viết vào năm 1415, lúc ông bị quân Anh bắt và giam giữ. Trong tấm thiệp đó, quận công Charles viết những vần thơ tình yêu cho vợ ông và có nhắc đến tên St. Valentine. Theo tài liệu ghi lại thì mãi đến năm 1800, người Anh mới in được tấm thiệp Valentine đầu tiên trên một tấm bảng đồng, các hình trái tim được vẽ và sơn bằng tay, chung quanh tấm thiệp được viền với ruy băng (ribbon) lụa. Đến năm 1925, với sự ra đời của công ty Sir Adolph Tuck, kỹ nghệ in thiệp Valentine nước Anh đã đi đến chỗ hoàn chỉnh và phát triển đa dạng theo tiến hoá của kỹ thuật cho đến ngày nay.

                      Ở Bắc Mỹ, dù thế kỷ 17 đã có khá nhiều di dân Châu Âu đến Bắc Mỹ sinh cơ lập nghiệp, nhưng có lẽ vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn của đời sống vào thời buổi khai phá và lập nghiệp, vì cái tính thực dụng của di dân là phải lo cho cái bao tử trước rồi mới lo cho trái tim sau, nên mãi đến thế kỷ 18 thì dân Bắc Mỹ mới bắt đầu đón nhận và kỷ niệm ngày Valentine. Lúc này thì kỹ nghệ in của Bắc Mỹ còn thô sơ nên thiệp Valentine chỉ là những tờ giấy cắt thành những hình đơn giản biểu tượng tình yêu như hình trái tim, với những dòng chữ diễn tả, ca tụng và vinh danh tình yêu, viết bởi những nghệ nhân có nét chữ đẹp và bay bướm. Lịch sử phát triển của thiệp Valentine ở Mỹ bắt nguồn từ Esther Howland, một cô gái sinh trưởng ở thành phố Worcester, tiểu bang Massachusetts. Trong lúc tiếp gia đình trông coi tiệm bán sách, Howland có dịp thấy thiệp Valentine nhập cảng từ Anh và thường những tấm thiệp này rất đắt giá, cô liền nảy sinh ý định tự làm lấy thiệp Valentine bằng những phương cách thủ công của cô. Với năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh, giá bán vừa phải, nên thiệp Valentine Howland làm ra được khách hàng ưa chuộng và đơn đặt hàng tăng. Howland phải mướn thêm bạn bè và nghĩ ra cách làm "dây chuyền" để sản xuất thiệp cho đủ số lượng. Nếu căn cứ vào việc này thì Esther Howland mới là người đầu tiên áp dụng phương cách sản xuất dây chuyền chứ không phải "vua xe hơi" Henry Ford. Việc làm thiệp của Howland phát triển thành công ty làm thiệp lớn do chính cô làm chủ, đến năm 1880 mới bán lại cho Whitney Company (công ty này ngưng hoạt động vào năm 1942). Hiện nay, Hallmark Carlton là những công ty sản xuất thiệp nổi tiếng của Mỹ. Ở Hoa kỳ, Esther Howland được xem như "Người Mẹ của thiệp Tình Yêu" (Mother of the Valentine).

                      Ngoài "trái tim màu hồng", một biểu tượng cho tình yêu, không thể thiếu được trên thiệp Valentine. Người ta còn thấy các biểu tượng khác như: Hoa hồng (được mọi người xem như là hoa tình yêu). Hoa violet tím - theo truyền thuyết St.Valentine, violet tím là hoa tình thương- nở giữa những song cửa sắt của ngục thất. Hình ảnh đôi chim quấn quýt, thường là đôi chim sẻ, mà người Á đông gọi là chim uyên ương, người Tây phương gọi là "the love birds" – theo tiếng Anh - Hình thần tình yêu Cupid, một thiên thần nhỏ, xinh xắn, mũm mĩm như một cậu bé có đôi cánh trắng, luôn mang theo bên mình cây cung với những mũi tên tình ái. Ai bị trúng tên này thì trái tim sẽ đập loạn xạ không theo những quy trình bình thường nữa. Thổn thức, nức nở, nhức nhối, thao thức suốt năm canh... là những triệu chứng cho biết trái tim bị trúng thương nặng.

                      Nhưng Cupid là ai vậy? Theo chuyện thần thoại, thì Cupid là con của Mars (thần Chiến Tranh) và Venus (thần Vệ Nữ hay thần Sắc Đẹp). Cupid được Thượng đế ban cho một bộ cung tên mầu nhiệm để lo chuyện kết nối tơ duyên cho người nhân gian ở hạ giới, nên được xưng tụng là thần Tình Yêu. Nhưng chính bản thân vị thần Tình Yêu Cupid, trái tim cũng bị "nhức nhối" như người trần gian khi bị "cú sét ái tình" đánh trúng. Đến nổi Thượng đế cũng cảm động, mũi lòng chịu hết nổi phải ra tay can thiệp tác hợp lương duyên cho Cupid và người yêu.

                      Tương truyền thần Vệ Nữ, một hôm chợt khám phá ra một chuyện động trời là dưới hạ giới có nàng công chúa tên Psyche, mang sắc đẹp kiều diễm mà theo lời đồn đãi, có thể lấn lướt, hơn cả sắc đẹp của Venus, một vị thần Sắc đẹp. Không thể chấp nhận được cái chuyện có người đẹp hơn mình, Venus bèn sai Cupid xuống hạ giới giết Psyche. Cupid lãnh nhiệm vụ mẹ mình giao, vác cung tên hăm hở bay xuống hạ giới tìm Psyche để giết . Nhưng khi Cupid gặp Psyche thì tim đập loạn xạ, tay chân bủn rủn ... Mũi tên tình ái đã bắn ngược trúng ngay tim thần Tình Yêu. Thay vì giết Psyche, thì Cupid hóa phép đem nàng về cung điện của chàng ở thượng giới để kết duyên chồng vợ. Nhưng Cupid chỉ có thể đến với Psyche lúc ban đêm thôi . Psyche tò mò muốn biết mặt phu quân của mình, nên thắp đèn để nhìn Cupid cho rõ trong lúc chàng ta đang ngủ, mãi say mê ngắm nhìn khuôn mặt thiên thần của trượng phu, Psyche vô tình làm một giọt dầu rơi trúng mặt Cupid, chàng giật mình thức dậy và tức giận bỏ đi biệt tích (dĩ nhiên là với trái tim nhức nhối và rỉ máu). Psyche nhớ thương Cupid, lặn lội tìm kiếm khắp nơi, nhưng bóng chàng như... "bóng chim tăm cá". Cuối cùng hết cách, Psyche phải đến nhờ vả mẹ chồng. Venus được dịp "đì" nàng dâu cho "bỏ ghét". Để thỏa lòng ghen tức, Venus buộc Psyche làm những việc rất khó khăn, nhưng với sự giúp đỡ của chim muông, thú vật và côn trùng, Psyche đều hoàn thành vẻ vang.

                      Thách đố cuối cùng, là việc đi trộm cái "hủ kem thoa mặt" của nữ hoàng Proserpina, vợ Diêm vương Plutto kèm theo lời dặn: "Lấy được cấm mở ra xem" thì Psyche có "trộm" được hay không cũng thua chắc. Chuyện "thách đố" này quả thật chỉ có đàn bà như Venus mới nghĩ ra được, đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy cái thông minh, cái thâm hiểm và cả cái vô lý của quý bà luôn . Venus là thần Vệ nữ, người đẹp số một trong vũ trụ rồi thì cần chi mỹ phẩm thoa mặt để làm đẹp thêm nữa? Proserpina, thì ở dưới vùng âm phủ tối thui, chỉ có dân "ngưu đầu mã diện", không trang điểm cũng chắc chắn là đẹp hơn họ và trang điểm để chi? Vì âm phủ tối thui thì chắc trắng cũng như đen. Có lẽ bởi vậy mà ở trần gian, kỹ nghệ mỹ phẩm và làm đẹp cho quý cô, quý bà cũng là cái ngành "hốt ra tiền" nhất. Chuyện xảy ra đúng như Venus dự đoán, Psyche thành công và trộm được "hủ mỹ phẩm" của Poserpina, nhưng lại không nén được tò mò phải mở ra xem tí. Xém chút nữa là Psyche ngủ một "giấc thiên thu" luôn nếu không có Cupid vì nhớ thương vợ, tìm đến và đánh thức nàng dậy. Cuối cùng, Thượng đế thấy bất nhẫn, phong Psyche làm một vị thần, và ra lệnh cho thần Vệ nữ (Venus) phải chấp nhận mối lương duyên này . Chuyện tình của Cupid và Psyche có lẽ là một trong những mối tình đẹp trong những chuyện tình thần thoại. Cupid tượng trưng cho Tình Yêu, Psyche tượng trưng cho Tâm Hồn và sự Thủy Chung. Nên cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi hình ảnh thần Cupid trở thành biểu tượng rất phổ biến trong ngày lễ Tình Yêu.

                      Cũng như thánh Nicholas qua hình ảnh của Ông Già Noel, (Santa Claus) truyền thông điệp về giá trị của niềm tin, lòng nhân ái, sự chia xẻ trong ngày lễ Giáng sinh thì thánh Valentine qua hình ảnh của trái tim, của thần Tình Yêu (Cupid) cũng đã để lại cho nhân loại món quà của Tình Yêu và Tâm hồn Thủy Chung, hay Tình Thân Ái, hay Tình Yêu Thương giữa người và người.

                      Hãy gõ, cửa sẽ mở. Hãy gọi, sẽ có trả lời. Hãy khởi hành, sẽ có lúc đến đích. Hãy mở lòng ra "trò chuyện" cùng người, cùng cỏ cây, cùng vạn vật. Với tình yêu và tình thân ái mọi việc đều có thể "đạt được".

                      Chúc tất cả một ngày Lễ Tình Yêu như ý.

                      Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/Valentine 2006)






                      V. Cho Hồ Điệp

                      Về thăm lại khu vườn xưa cổ tích
                      Anh ngồi đây ôn lại kỷ niệm xưa
                      Lưu luyến mến thương nói mấy cho vừa
                      Em vẫn đó trong hồn thơ nét chữ
                      Nắng đầu xuân thoảng dư hương ngày cũ
                      Từ phương xa con bướm đã về thăm
                      Im lặng bay qua vườn cũ âm thầm
                      Nghiêng đôi cánh rắc phấn hương tình ái
                      E ngại đã gây ra nhiều ngang trái
                      In vết hằn ngực trái khổ lòng nhau
                      Lời của tim gởi cánh bướm hôm nào
                      Yêu! Ghi khắc trong tâm lời ước hẹn .
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2006 01:04:38 bởi ct.ly >
                      #11
                        Ct.Ly 14.02.2006 01:35:58 (permalink)
                        #12
                          TTL 14.02.2006 16:54:30 (permalink)
                          Cám ơn Ct Ly.

                          Nhân tiện.... TTL XIN CHÚC CT LY " A HAPPY VALENTINE'S DAY"




                          BẤM VÀO ĐÂY!

                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2006 16:14:22 bởi TTL >
                          #13
                            Lý Lạc Long 15.02.2006 16:42:29 (permalink)
                            Hành Trình Đi Tìm "Phân Nửa"

                            Trong cuộc sống hầu hết chúng ta đều mơ ước tìm được "phân nửa" của mình. Nhưng trong thực tế thì có bao nhiêu người đã tìm được phân nửa của mình như đã mơ ước? Câu hỏi chắc hơi khó có trả lời chính xác. Nhưng căn cứ theo thống kê thì tổng cộng con số của ly dị và số người chọn cuộc sống độc thân ( mặc dù có đủ điều kiện để lập gia đình) có lẽ không dưới 50 % của những người trong lứa tuổi có thể lập gia đình. Lý do ly dị hay chọn cuộc sống độc thân thì rất nhiều và khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mỗi người . Nhưng tóm lại thì chúng ta có thể nói những người này đã không tìm được hay cảm thấy hạnh phúc trong đời sống gia đình, đời sống lứa đôi. Họ thất vọng và không vừa ý với người "bạn đường" của họ . Nói một cách khác thì họ vẫn chưa tìm được "nửa phần đi lạc" của họ .

                            Có người nói, cuộc sống là một cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu và mỗi người sẽ tìm thấy ba người . Người mình yêu nhất, người yêu mình nhất và người bạn đồng hành hay bạn đời của mình. Nhưng trong cuộc sống thực tế thì rất hiếm hoi là ba người này sẽ cùng là một người. Người mình yêu nhất có thể không yêu mình, người yêu mình nhất thì mình lại không yêu và người bạn đồng hành thì không phải là người mình yêu nhất hay người yêu mình nhất mà chỉ là một người xuất hiện vào lúc thích hợp nhất. Cho những người may mắn "yêu và được yêu" thì vì hoàn cảnh này nọ khiến họ không thể là bạn đời được thì quả là một điều rất đau khổ. Cái câu "tạo hoá trêu người" rất là đúng cho quá trình tìm kiếm tình yêu trong cuộc sống của đa số chúng ta.

                            Chúng ta thường nghe những lời thề non hẹn biển của những đôi bạn tình. Hai người đang yêu nhau thì thích nghe và nhiều khi còn yêu cầu người bạn tình "thề hẹn" như thế, nhưng trong thực tế thì làm gì có những chuyện đó. Trong tình yêu thì có lẽ nói là một chuyện và làm là một chuyện khác. Người nói có thể không tin những gì mình nói và người nghe thì có lẽ cũng không tin những điều mình nghe. Cái điều thực tế nhất là ... Bạn đã tìm được người thứ mấy cho bạn? Hay ngược lại bạn là người thứ mấy trong cuộc sống của người yêu của bạn . Không ai muốn thay đổi tình yêu của mình cả nhưng đây là một chuyện thực tế . Khi yêu thì là yêu, khi không yêu thì là không yêu và rất khó mà giả vờ . Khi một người không còn yêu mình và muốn rời xa mình thì bạn đừng nên tìm cách ngăn cản dù bạn còn yêu hay không yêu người đó nữa . Vì nếu bạn còn yêu thì bạn sẽ mong cho người đó có cuộc sống hạnh phúc với người mà người đó yêu. Và nếu bạn cũng như người đó không còn yêu nữa, thì càng không có lý do gì hay tư cách gì để trách hay ngăn cản người đó.

                            Tóm lại, chuyện tan vỡ trong tình yêu thì hầu như ai cũng từng trải qua ít nhất một lần trong đời, và không nhất thiết là phái nữ là người bị tổn thương nặng nề như quan niệm của đa số người. Nếu phải đối diện với tình huống khó khăn này, chúng ta nên cố gắng đừng để mình ngập chìm trong bi lụy, mà nên nghĩ rằng cánh cửa này đóng lại thì cũng có cánh cửa khác đang mở ra và biết đâu đây là một cơ hội tốt cho tình yêu, hạnh phúc và cuộc sống của bạn . Đừng nên nhìn quá lâu vào cánh cửa đang đóng bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội nhìn những cánh cửa đang mở ra . Khi người yêu của bạn muốn chia tay, xác xuất rất lớn là người ấy đã yêu người khác. Đó là kết luận từ khảo sát của các nhà tâm lý học hiện đại. Vậy, chẳng còn lý do gì để bạn phải luyến tiếc một trái tim đã đổi thay. Tình yêu cần có sự tự nguyện của cả hai bên. Giữ người muốn ở lại chứ ai giữ chi kẻ muốn ra đi để làm gì? Bạn hãy tự an ủi rằng, ít ra người ấy cũng không muốn lừa dối bạn.

                            Là con người thì ai cũng mơ một mái ấm gia đình và một số người phải đối diện với sự chọn lựa : Lấy người yêu mình hay lấy người mình yêu? Hai quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau . Những người theo quan niệm " lấy ngươì mình yêu" thì cho rằng : Được sống với người mình yêu thì còn gì sung sướng bằng, dù người ta không yêu mình nhưng vẫn chấp nhận bổn phận làm vợ ( hay chồng), vẫn đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của mình là đủ rồi . Chỉ những việc như : được ở cùng nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng giuờng, được tự do kề cận, được thoải mái ngắm nhìn, được quan tâm, được săn sóc, được chiều chuộng .... người mình yêu cũng là niềm hạnh phúc và đâu phải ai cũng có được. Nhưng người theo chủ trương "lấy ngươì yêu mình" thì lại cho rằng : Khi người ta yêu mình, thì chắc chắn họ sẽ hết lòng săn sóc phục vụ mình, luôn săn đón những ham muốn của mình để mà chìu chuộng. Như thế chẳng sướng một đời ư? Và biết đâu, sau một thời gian chung sống, thấy người ta quá tốt với mình, làm cho mình cảm động, mình lại cũng yêu người ta thì còn hạnh phúc nào bằng.

                            Cho những người chưa có kinh nghiệm với cuộc sống gia đình, mới nghe qua lập luận của hai trường phái, thì thấy cũng rất thực tế và khó bác bỏ. Và thường thì phái nữ chọn lấy người yêu mình hơn để được thương yêu chiều chuộng, sự chọn lựa này có lẽ phần lớn bắt nguồn từ bản chất chân yếu tay mềm của phái nữ . Còn phái nam thì có lẽ do sức dài vai rộng, muốn đóng vai người hùng, bảo bọc che chở người mình thương yêu nên thường chọn lấy người mình yêu. Hai lập luận này có thể đúng nếu cuộc sống chung chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, và có thể những người trong cuộc chưa kịp nhận ra những ước mơ thực sự, những nỗi đau thầm kín buốt lòng của "đồng sàng dị mộng" , của tình yêu chỉ có từ một phía, của tình một chiều hay còn gọi là tình yêu đơn phương.

                            Như người ta thường nói : "cuộc sống là một quá trình đi tìm tình yêu" và "không yêu, không phải là sống mà chỉ là tồn tại" thì lấy người mình yêu và người đó không yêu mình thì chẳng khác chi lấy một người "không sống" mà chỉ đang tồn tại.. Tương tự như bạn đang sống với cái xác không hồn, chẳng thương yêu hay quan tâm gì đến bạn. Thì thử hỏi bạn có thể hạnh phúc với cái xác không hồn như vậy suốt đời không? Có thể bạn đang yêu người đó quá nên nghĩ : Thế cũng được, thế còn hơn cuộc sống không có người đó. Đây là cách suy nghĩ của một người đang đói, đang chỉ cần ăn thôi, và nghĩ rằng họ không cần thêm gì nữa cả. Nhưng cuộc sống thực tế thì sẽ không có đơn giản như vậy. Và con người thì ai cũng phải yêu. Người đó không yêu bạn, thì bạn có chắc là họ không yêu người khác không? Và bạn có chấp nhận được "chuyện như vậy" không? Cái gì khác thì chắc có lẽ bạn có thể sẽ chia xẻ . Nhưng tình yêu thì chắc chắn là không. Ghen tuông, nghi kỵ, theo dõi rình mò, ăn không ngon, ngủ không yên ... Và một cuộc sống như thế làm sao có hạnh phúc?

                            Ngược lại, những ai chấp nhận lấy người yêu mình để được chìu chuộng, dù mình không yêu người ta, chẳng lẽ cả đời bạn sẽ không không yêu ai? Lẽ nào bạn từ chối sống, không sống chứ chưa nói là sống hạnh phúc? Bạn nghĩ rằng cứ được người khác săn sóc, chìu chuộng là hạnh phúc ư? Nếu nghĩ thế, bạn có thể lầm lẫn . Sự săn sóc, chiều chuộng chỉ đem lại hạnh phúc cho ta khi ta chờ đợi nó. Nếu bạn không thể yêu nổi một người nào đó chắc chắn bạn phải có lý do. Nói khác đi, bạn không thích người đó. Một khi bạn không thích ai thì chắc có lẽ bạn cũng chẳng muốn người đó chiều chuộng, săn sóc mình. Và xa hơn nữa nếu bạn nhận sự thương yêu, chìu chuộng , săn sóc của người này nhưng tâm hồn lại hướng về người khác thì trên phương diện đạo đức của con người thì không thể chấp nhận được. Nói một cách khác là bạn đang lợi dụng người khác hay tệ hơn nữa là bạn đang lừa mình và gạt người.

                            Rõ ràng lấy người yêu mình hay lấy người mình yêu đều sai lầm. Và nếu cần một hình ảnh để dễ so sánh, có thể so sánh câu hỏi: "Lấy người mình yêu hay người yêu mình?" với câu: "Nếu phải què một chân thì nên què chân phải hay chân trái?" Tại sao ta lại phải chọn một trong hai chuyện bất hạnh đó, trong khi không ai bắt buộc mình?

                            Có lẽ những phương châm dưới đây sẽ giúp bạn và tôi trong hành trình đi tìm kiếm phân nửa của mình và thưởng thức những điều kỳ diệu của tình yêu :
                            "- Nếu ta yêu một người mà người ấy không yêu lại mình, hãy cứ dịu dàng với bản thân vì ta đã không làm điều gì sai trái cả. Tất cả chỉ vì tình yêu đã không chọn chỗ dừng chân nơi trái tim người ấy mà thôi.
                            - Nếu một người nào đó yêu ta nhưng ta lại không yêu ngừơi ấy, hãy tôn trọng điều đó vì tình yêu đã đến gõ cửa trái tim ta, nhưng hãy nhẹ nhàng từ chối nhận món quà mà mình không thể đáp lại. Đừng nhận để không gây đau khổ. Cách ta cư xử với tình yêu chính là cách ta cư xử với chính mình, mọi con tim đều có cùng cảm nhận về nỗi đau và niềm hạnh phúc ngay cả khi cách sống và con đường chúng ta đi có khác nhau.
                            - Nếu ta yêu một người và họ cũng yêu ta , nhưng rồi tình yêu lại ra đi, thì cũng đừng nên níu kéo hay đỗ lỗi mà hãy để nó ra đi. Mọi lý do đều có ý nghĩa riêng của nó và rồi ta sẽ hiểu. Hãy nhớ rằng ta không lựa chọn tình yêu. Mà là tình yêu chọn lựa ta. Tất cả những gì mà chúng ta thật sự có thể làm là hãy đón nhận tình yêu với tất cả những điều kỳ diệu của nó khi tình yêu đến. Khi tình yêu ngập tràn trong tâm hồn ta, hãy cảm nhận từng hơi thở của nó nhưng cũng phải sẳn sàng buông tay và để cho nó ra đi một khi tình yêu đã muốn thế. Hãy mang tình yêu đến cho những người đã làm sống lại tình yêu trong ta, mang đến cho những ai thiếu thốn tình cảm trong tâm hồn, mang đến cho thế giới xung quanh mình bằng mọi cách mà ta có thể làm được. Có những người đang yêu đã sai lầm. Sống một cuộc sống không tình yêu lâu ngày, họ cho rằng tình yêu chỉ là một nhu cầu. Họ ngỡ rằng con tim là một chỗ trống mà tình yêu có thể lấp đầy, họ bắt đầu nhìn tình yêu như một điều sẽ phải đến với họ, hơn là một điều xuất phát từ chính bản thân họ. Họ quên đi điều kỳ diệu nhất của tình yêu , đó là – tình yêu là một món quà – và chỉ có thể đâm chồi nảy lộc khi được trao tặng đi . Hãy nhớ lấy điều này và giữ gìn nó trong trái tim mình . Mãi mãi tình yêu là một điều bí mật. Hãy tận hưởng niềm hạnh phúc khi tình yêu đến ngự trị trong ta dù chỉ một khoảnh khắc của cuộc đời mình "

                            Lại thêm một cuối tuần sắp qua trong cuộc sống, trong cuộc hành trình tìm kiếm phân nửa của chúng ta . Chúc tất cả , bạn và tôi , một cuối tuần như ý .

                            Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/15/9/05)
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2006 12:13:29 bởi Lý Lạc Long >
                            #14
                              Lý Lạc Long 15.02.2006 16:46:15 (permalink)
                              DU HÀNH VÀO TÌNH YÊU

                              Từ xưa đến nay, hình như chưa ai có thể định nghĩa một cách thỏa đáng về tình yêu. Tình yêu vẫn là một chủ đề được đem ra phân tích, diễn tả, bàn cãi... có lẽ từ thuở tạo thiên lập địa, từ lúc loài người xuất hiện trên quả đất cho đến giờ vẫn chưa kết thúc và sẽ mãi mãi là một đề tài hấp dẫn với tất cả mọi người. Những người đã yêu, đang yêu và kể luôn cả những người chưa yêu đều có chung một cảm giác về sự huyền bí, quyến rũ và thú vị của tình yêu. Tình yêu là một thế giới mênh mông, bí ẩn, khó hiểu và có một điều mà ai cũng thừa nhận là: Trong chúng ta, mỗi người đều có một tình yêu thật sự và chỉ một. Và "tình yêu", đề tài này đã có rất nhiều người nói đến, về đủ mọi phương diện, nhưng những chủ đề liên quan đến tình yêu thì dường như không bao giờ lỗi thời . Nên tôi muốn mời bạn cùng tôi làm một cuộc du hành vào tình yêu, thử "khám nghiệm và tìm hiểu" một vài khía cạnh của tình yêu.

                              Màu Của Tình Yêu
                              Hầu hết các thực thể, hay khái niệm hiện hữu trong đời sống này đều có màu tượng trưng. Thí dụ cho hy vọng, hòa bình thì là màu xanh, chiến thắng thì được khoác cho màu đỏ, lòng chung thủy thì được gán cho màu tím, sự quý phái mang màu vàng, sự thơ ngây trinh trắng thì màu trắng, thời gian thì màu cà phê phin, tương lai thì màu hồng hay xám, tội ác được tô màu đen, sự phản bội thì màu tím tái, sự vô ơn bạc nghĩa thì màu bạc v.v... Còn tình yêu có màu tượng trưng không? Sống ở xã hội Bắc Mỹ chúng ta thường nghe câu nói giỡn này "honey, money". Tình yêu có là màu xanh như những tờ giấy bạc Mỹ? Hay màu lấp lánh của những viên kim cương? Hay màu vàng ngà của những bằng cấp?... Chắc chắn là những trả lời này không đúng rồi vì màu của tình yêu dựa vào những tiêu chuẩn này sẽ thay đổi nhanh như chong chóng quay theo chiều gió và bất định và nếu thử đi vào thế giới của văn thi sĩ tao nhã để xem "tình yêu màu gì ?" trong mắt các vị ấy, có lẽ chúng ta càng bị lẫn lộn hơn nữa. Nào là "đỏ rực như lửa mặt trời", "sáng như trăng rằm", "xanh như nước biển", "vàng như lá mùa thu", "trắng như bông tuyết", "đen như suối tóc"... và như vậy thì tình yêu màu gì? Còn đi vào thế giới của các vị chuyên gia khoa học kỹ thuật thì có thể chúng ta sẽ được trả lời: "Tình yêu, giống như điện, không màu sắc, không mùi vị nhưng đụng vào sẽ bị giật tê người... và còn "dữ dằn" hơn điện nữa là tình yêu có thể sôi ở chỗ lạnh và đông đặc ở chỗ nóng, không có hao hụt và biến mất, mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác..." Có thể chấp nhận được định nghĩa này không? Chắc chắn là không rồi. Và nếu có đồng ý thì cũng chẳng đi tới đâu, chẳng giúp chúng ta "thấy" màu của tình yêu mà lại làm cho chúng ta hoang mang thêm. Hay là chúng ta cho hết những trả lời của "con nguời" ở trên vào những máy siêu điện toán (super computer) phân tích xem sao? Chuyện không tưởng! Nhưng nếu thực hiện được thì máy siêu điện toán chắc cũng sẽ bị vỡ mạch điện tử, chịu thua và ngưng làm việc luôn nữa.

                              Như vậy thì không có câu trả lời à? Vậy chúng ta thử đặt ngược lại vấn đề là có "tình yêu" hay không xem sao. Nói một cách khác, là tình yêu có hiện hữu không? Thì câu trả lời sẽ là: Tình yêu không thấy được, chưa hiểu đủ để định nghĩa được như điện, nhưng hiện hữu giống như điện. Vì nếu không có tình yêu thì loài người tìm đâu ra lý do để cưới hỏi và ly dị? Một số cảm giác hạnh phúc, sung sướng, đau khổ sẽ không có nguyên nhân và lý do. Phải có lửa thì mới có khói! Xa hơn nữa, nếu không có cái gọi là tình yêu thì văn thi sĩ xưa và nay, viết về tình yêu tìm đâu ra cảm xúc để sáng tác trong văn chương?

                              Tuy nhiên, một điều rất chắc chắn, là dù chưa được định nghĩa thỏa đáng nhưng tình yêu hiện hữu và màu tình yêu phải ở đâu đó trong khoảng giữa dãy quang phổ tập họp các màu đỏ, xanh, lục, lam, chàm, tím… chỉ có điều là chúng ta chưa tìm thấy mà thôi. Cũng giống như các câu hỏi chưa có được trả lời: Có sự sống ở ngoài trái đất không? Có thuốc trường sinh bất tử hay có phương pháp cải lão hoàn đồng không?... thế nào cũng có ngày, chúng ta có được định nghĩa thỏa đáng về tình yêu và sẽ có câu trả lời cho màu tình yêu. Cũng như ngày nay, chúng ta có thể nói chắc chắn là mặt trăng không có sự sống. Cung Quảng, Hằng Nga, Chú Cuội, Ngọc Thố... chỉ là truyền thuyết. Hiện giờ, tạm thời mỗi người chúng ta cứ tự chọn lấy một màu cho tình yêu của mình và nhớ giữ riêng cho mình, đừng cho ai biết. Vì như vậy sẽ không ai thắc mắc hỏi bạn "tại sao". Bạn sẽ không phải trả lời và khỏi phải bàn cãi.

                              Tình Yêu và Cuộc Sống
                              Tại sao trong cuộc đời, tình yêu lại quan trọng đến nỗi không thể không có nó? Trong cuộc sống chúng ta có cần tình yêu không? Chúng ta hãy xem cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nghĩ thế nào về cuộc sống và tình yêu: "Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài quy luật cả. Nhưng tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc nhận chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc quan khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình được yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không được yêu. Tôi không thể nói về một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chưa hiểu hết. Chưa hiểu hết là nói theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có người nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xưng mình am tường hết nội dung phong phú và quá phức tạp của tình yêu. Có người yêu thì hạnh phúc; có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con người không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn năm nay con người đã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời. Sự giả trá đó lúc biết được thì làm khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Người giả, người thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói được. Người thật thì nằm bệnh, người giả thì nói, cười huyên thuyên. Đời sống vốn không bất công. Người giả trong tình yêu thế nào cũng bị thiệt thòi. Người thật thế nào cũng được đền bù. Tình yêu thời nào cũng có. Nhưng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ có khi con người không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có người đã nói như vậy. Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: Cuộc sống không thể thiếu tình yêu".

                              Tình Yêu Là Gì ? Cho Hay Nhận?
                              Tình yêu là sự kết hợp với "phân nửa" của mình để giữ toàn vẹn được mình. Là sức mạnh hoạt động của con người, làm cho con người chiến thắng được cảm thức cô đơn. Có thể nói yêu là điều kiện để thực hiện việc nghịch lý: "Mình với ta tuy hai mà một", "Ta với mình tuy một mà hai". Ta sẽ nghĩ thế nào trước mệnh đề "Tình yêu là hiến tặng"? Thông thường hiến tặng ai một cái gì, có nghĩa là mất đi, là một sự hy sinh. Trong ý nghĩa ấy, sẽ có lập luận cho rằng bản chất của tình yêu và vô điều kiện. Nghĩa là yêu không cần đáp trả. Nhưng yêu không cần đáp trả chỉ là một hình thức của tình cảm đơn phương. Trong trường hợp này, tình yêu chỉ mới thực hiện được có một nửa. Bởi vì bản chất của tình yêu phải là sự cộng hưởng. Khi ta nói yêu nhau, tức là yêu cầu cả hai người và về cả hai phía. Do đó, hiện tượng yêu không cần đáp trả là sự biến dạng của tình yêu chứ không phải là tình yêu trọn vẹn. Điều đó, chứng tỏ rằng khởi điểm của tình yêu là cho, là hiến tặng. Mà điều tối quan trọng của cho không phải chủ yếu thuộc về vật chất. Sự kết hợp nào, tình yêu nào đặt cơ sở trên vật chất sẽ không tồn tại. Vậy thì cho cái gì? Đó là mạng sống, con người, tâm hồn, cái gì quý giá nhất của chính mình. Tóm lại tặng hiến của tình yêu quý giá nhất là cái gì thuộc về phạm vi nhân bản, là niềm vui, sự hiểu biết, sở thích, óc hài hước, sự buồn khổ và tất cả những gì làm cho người yêu "giàu" hơn lên, sống động hơn lên, làm sản sinh ra một đời sống mới, một thế giới mới. Như vậy, "cho", tự bản chất là một niềm khoái lạc. Và chỉ có người thật sự làm chủ, thật sự "giàu" mới có khả năng cho và muốn cho. Từ đó, ta sẽ hiểu yêu là một sức mạnh, một năng lực tuyệt đỉnh sản sinh ra hạnh phúc, niềm vui, khoái lạc. Cho nên ý nghĩa cao cả của tình yêu không phải là yêu không cần được đáp trả mà là đem tới cho người kia niềm vui, sở thích... nghĩa là "cho" cái gì quý giá nhất của mình đồng thời từ đó mở ra hướng để "kẻ cho lẫn người nhận đều có cái thú là mình đã cho ra đời một cái gì mới". Đó chính là tình yêu đích thực, trọn vẹn, tự do và tự nguyện.

                              Khởi sinh của tình yêu là hiến tặng, là cho. Đi từ cái cho thuộc về tình cảm, thuộc về tâm hồn chuyển hóa thành của cải cho có tính cách vật chất, tình yêu bao gồm trong bản thân nó trái tim và thân xác, tinh thần và vật chất. Có ai đó đã từng nói: "Tình yêu là sự kích thích, đồng thời là một ý niệm chịu tác động ở phía bên ngoài. Nếu quả thật như vậy thì khi nào bạn thiếu thốn tình yêu, có nghĩa là bên ngoài không còn tác động gì đối với bạn, và chính bạn, bạn đã không còn khả năng kích thích phía bên ngoài. Đó là một hiện tượng "nghèo nàn không thể ban tặng gì cho ai và mất hiệu lực hòa nhập với con người. Cho nên, trong suốt cuộc tình của mình, không phải yêu một lần là đủ, cho một lần là xong. Muốn giữ cho tình yêu bền chặt, hạnh phúc lứa đôi không vơi cạn, mỗi người phải "cho" không ngừng để làm sản sinh ra tình yêu. Người nào chỉ thích thú khi "nhận" mà không cảm thấy thích khi "cho", người đó sẽ không có tình yêu. Theo như một nhà tâm lý học đã viết: Tình yêu tuổi thơ đi theo nguyên tắc: "Tôi yêu vì tôi được yêu". Tình yêu trưởng thành thì ngược lại: "Tôi được yêu, vì tôi yêu". Tình yêu chưa đủ trưởng thành thì: "Tôi yêu bởi vì tôi cần em (anh)". Tình yêu đã trưởng thành thì: "Tôi cần em (anh) vì tôi yêu em (anh)". Như vậy, bản chất của tình yêu là Cho hay Nhận? Và có phải tình yêu phát sinh bằng cách yêu (cho) thì "hay đẹp, tốt" hơn là bị lệ thuộc (vì nhận) tình yêu ? Giải quyết được điều này sẽ giúp chúng ta dù đang ở trong bất cứ giai đoạn nào của tình yêu: Nếu chưa có tình yêu, vẫn còn cô đơn ta sẽ có thể tìm gặp được đối tượng và tìm thấy tình yêu. Nếu đang yêu, sẽ giữ được tình yêu và người yêu. Nếu đã là bạn đời với nhau, ta sẽ củng cố được hạnh phúc gia đình, làm cho cuộc sống lứa đôi mãi mãi có hương vị quyến rũ như thuở nào.

                              Tình yêu là con dao, có thể cắt nát con tim hay có thể khắc sâu vào tim ta những vết khắc diệu kỳ và sẽ theo ta đến cuối đời. Tình yêu là một tặng phẩm tuyệt vời mà tạo hóa dành cho con người, có thể đem đến cho ta niềm hạnh phúc và sức mạnh. Nhưng cũng có thể đem đến cho ta nỗi đau, có nhiều tình yêu kết thúc bi thảm đến độ có người không dám yêu nữa. Cũng như sống là đương đầu, rủi ro với cái chết. Hy vọng là liều lĩnh với sự thất bại. Yêu là mạo hiểm vì có thể bị từ chối. Nhưng không mạo hiểm thì đã là thất bại rồi vì trong cuộc sống điều nguy hiểm nhất là không thử thách điều gì. Để đạt được cái kế tiếp, bạn phải dám mạo hiểm với những gì liên quan. Bộc lộ cảm xúc là chính bạn đang nói lên sự thật. Thử thách trong tình yêu chính là bạn yêu mà có thể không được đáp trả. Làm thế nào để định nghĩa tình yêu như: Vấp ngã nhưng không suy sụp, kiên định nhưng không cố chấp, chia xẻ và công bằng, đồng cảm và không đòi hỏi, tổn thương nhưng đừng bao giờ giữ lại nỗi đau.

                              Như người ta thường nói : "Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ".
                              Cho tôi, có lẽ dù có khổ thì cũng " yêu". Còn bạn thì thế nào?

                              LÝ LẠC LONG (TTL/TCT/MAI/ 19-5-2005)
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 5 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 70 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9