MỘT THỜI HOA PHƯỢNG ĐỎ
Thay đổi trang: << < 4041 > | Trang 40 của 41 trang, bài viết từ 586 đến 600 trên tổng số 604 bài trong đề mục
HOA HUYỀN 12.11.2009 13:42:20 (permalink)
0
395.
NẾU BỐ CÒN SAY

Bố ơi! đừng nhậu suốt đêm ngày
Be bét rượu chè… xỉn quắt quay
Quần áo lôi thôi như giẻ rách
Đầu bù tóc rối tựa bèo mây
Tương lai sẽ khổ khi không tỉnh
Hiện tại đang hèn bởi vẫn say
Nghèo rớt mồng tơi, thêm gánh nợ
Vợ con nheo nhóc, xác thân gày

hoahuyen



Bài xuớng

Mẹ

Mẹ đong năm tháng bước qua ngày
Nắng xối mưa gào với gió quay
Khi tính chắt chiu từng hạt nắng
Lúc lo gom nhặt những làn mây
Đầu làng chạng vạng cơn mê tỉnh
Cuối bãi chập chờn giấc ngủ say
Lầm lũi lưng còng run rẻ mạ
Cho con no đủ- mẹ hao gầy

luongthephiet
HOA HUYỀN 12.11.2009 13:44:10 (permalink)
0
398. Thơ đố vui
LÀ CON GÌ NHỈ ?

Hung hăng khi đang đói
Dữ tợn lúc vồ.... người
No nê thường phởn chí
Nhe hàm răng ra cười

Nơi rừng xanh núi thẳm
Chuá tể cuả muôn loài
Vướng vào tờ... hôn thú
Là cụp cả hai tai

Xổng chuồng có vẻ oai
Đố là con gì nhỉ ?

Hoahuyen

 
HOA HUYỀN 12.11.2009 13:50:52 (permalink)
0


403.
NGHỀ CAO QUÝ

Hai nghề cao quý em ơi!
Lương y - Nhà giáo người đời đều mê
Cổ kim kính cẩn khen, chê
Nghề vì dân chúng tứ bề lo toan


Trồng người vất vả gian nan
Cứu nhân độ thế chứa chan ân tình
Cái nghề phải biết hy sinh
Không màng danh vọng, nhục vinh coi thường

Môi trường... hữu xạ... nhiên hương
Đối nhân xử thế yêu thương thật lòng
Uốn cây từ lúc non cong
Chữa người khỏi bệnh là lòng mừng vui


Hoahuyen
#588
    HOA HUYỀN 12.11.2009 13:52:06 (permalink)
    0
    Bài họa
    410.
    THÈM CŨNG CHỊU

    Hớ hênh nom rõ cả hai... đồi
    Thây lẩy bồng bềnh dụ dỗ tôi
    Giần giật tâm hồn chưa muốn dứt
    Lâng lâng thể xác chửa thèm thôi
    Khi còn son trẻ vung thừa sức
    Để lúc già nua tiếc đứt hơi
    Giờ có cho không... ông cũng chịu
    Mó may đôi chút gọi là chơi

    Hoahuyen




    Bai xuong
    Gửi ông Lương Hữu Chí

    Tạ ông Lương Chí ở trên đồi
    Đã có lời mừng sách lẫn tôi
    Bốn tập "Bóng chiều" sờ lộm cộm
    Bảy mươi "mùa lá" ngó lôi thôi
    Cao mèo bạn biếu đà tiêu hóa
    Thơ thẩn cụ cho để xả hơi
    Bóng xế đã vào hồi chập choạng
    Văn vo có tí cũng mần chơi

    Hồ Văn Thiện
    17-10-2009

    #589
      HOA HUYỀN 14.11.2009 15:23:43 (permalink)
      0
      28.
      ƠN THÀY CÔ
      Chúc các Thầy, Cô
      Nhân ngày nhà giáo 20/11


      Tuổi thơ cắp sách tới trường
      Dùng dằng kỷ niệm vẫn còn theo ta
      Nhớ thời từng chữ ê, a
      ”O” tròn như quả trứng gà… nhà em

      Chữ ”I” như thể que kem
      Rắn toàn nước đá vẫn thèm mấy que
      Mái đầu nắng đỏ tóc hoe
      Suốt ngày lặn ngụp trên bè, dưới sông

      Những ngày hè nghỉ… lông nhông
      Trèo me, hái ổi tồng ngồng rong chơi
      Nhớ thời đỏ xác phượng rơi
      Sân trường ríu rít tiếng cười giòn tan

      Câu thơ ai viết trên bàn ?
      Chữ lồng tên khắc… gốc bàng còn đây
      Bao năm đèn sách đêm ngày
      Rèn tâm, trí, đức Cô thày bày cho

      Nẩy mầm khao khát ước mơ
      Niềm tin cháy bỏng từng giờ… bay cao
      Công thành, danh thỏa khát khao
      ”Tôn sư trọng đạo” ai nào dám quên

      Gia đình sự nghiệp ấm êm
      Nhớ người gầy dựng tuổi tên cho mình
      Thày Cô thắm nghĩa đượm tình
      Dậy em tô đẹp dáng hình nước non

      Tim em tạc tượng vàng son
      Thầy, Cô cho cả trăng tròn ước mơ

      Hoahuyen

      #590
        HOA HUYỀN 17.11.2009 21:50:25 (permalink)
        0


        431.
        VẦN THƠ DÂNG THẦY CÔ
        Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20.11


                    Uốn cây từ lúc cong... non
           Hình thành nhân cách khi còn ngây thơ
                    Cô ươm hoài bão, ước mơ
            Thày nâng đôi cánh từng giờ bay cao

                    Cho tri thức, vượt gian lao
          Niềm tin, tâm, đức khát khao làm người
                   Mười năm chăm tốt cây tươi
         Trăm năm mới có lớp người hồng chuyên (*)

                     Gia đình là chốn bình yên
             Nhà trường mảnh đất gieo hiền tài cao
                    Môi trường xã hội thanh tao
             Lung linh hương sắc xiết bao ân tình

                     Thày cô dạy dỗ hết mình
             Cho em tô đẹp dáng hình nước non
                  Tim em tạc tượng vàng son
           "Tôn sư trọng đạo" vuông tròn giấc mơ

                   Mái đầu nay đã bạc phơ
           Trào dâng cảm xúc vần thơ dâng Thày
                  Nhớ lời Người dậy: trồng cây
          Trăm năn lợi ích phải xây trồng người (**)

                                   Hoahuyen (431)
                                        17.11.2009






        (*)(**) Ngày 13-9-1958, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện tại lớp học chính trị của các giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc. Người căn dặn: " Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng n, nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tất cả giáo viên chớ nên cho học thế là đủ, mà phải tiếp tục học tập thêm để tiến bộ mãi".



        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2009 22:06:29 bởi HOA HUYỀN >
        #591
          HOA HUYỀN 17.11.2009 21:59:19 (permalink)
          0
          418.
          CÔNG ƠN CHA MẸ, THẦY CÔ

          Uốn cây từ lúc nẩy mầm non
          Rèn chữ o, a... nắn méo tròn
          Nhân cách hình thành do giáo dục
          Thầy Cô tất cả chỉ vì con

          Tri thức mênh mông như biển cả
          Lớn khôn thành đạt nhớ ơn thày
          Sinh thành dưỡng dục công cha mẹ
          Bệ phóng cho con sải cánh bay

          Hoahuyen
          #592
            HOA HUYỀN 17.11.2009 22:02:08 (permalink)
            0
            Họa Thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương

            433.
            ĐÊM ĐÔNG VÀO THẾ

            Gió se lành lạnh sắp vào đông
            Có gã trai lơ mượn chén nồng
            Dựng hứng hồn thơ lay cán bút
            Hớ hênh thân xác nhạo Càn Long (*)
            Pháo đang vào thế chờ cơ hội
            Đạn đã lên nòng đón lệnh thông
            Dại dột ba năm hờn suối ngọc
            Khôn ngoan một tiếng thế là xong

            Hoahuyen
            (*)

            Rượu Càn Long Ngự Dịch được điều chế từ hơn 20 loại
            dược liệu quý hiếm của Trung Quốc: Đông trùng hạ thảo,
            thận hải cẩu, lộc biển, nhân sâm, tam thất, ... Một loại rượu bổ quý


            Bài xướng
            Thiếu nữ ngủ ngày

            Muà hè hây hẩy gió nồm đông,
            Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
            Lược trúc chải cài trên mái tóc,
            Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
            Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
            Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.
            Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
            Đi thì cũng dở, ở không xong.

            Hồ Xuân Hương

             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.11.2009 22:03:22 bởi HOA HUYỀN >
            #593
              HOA HUYỀN 11.12.2009 12:57:36 (permalink)
              0



              438.
              Hơn nhau ở chỗ
              TẦM CAO THƯỢNG

              Chả trách đàn ông giỏi ngứa nghề
              Chỉ ham của lạ khoái đồng quê
              Hai đầu ngứa ngáy thèm nghiêng ngó
              Bốn mắt long lanh thích tỉ tê
              Quân tử đàng hoàng têm cánh phượng
              Tiểu nhân lén lút thả đàn dê
              Hơn nhau ở chỗ tầm cao thượng
              Thấy gái anh nào bảo: ... tớ… chê ?

              Hoahuyen
              19.11.2009
              #594
                HOA HUYỀN 11.12.2009 13:00:58 (permalink)
                0





                Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11 - Hoahuyen xin mở chuyên mục Xướng họa Thơ Đường luật, một thú chơi tao nhã của các bậc tiền nhân xưa... nay vẫn đang nở rộ trên cả nước nhất là những người cao tuổi thường dùng thể thơ này để rèn tâm, trí, đức và thù tạc, phản ánh một phần đời sống tinh thần phong phú " Sống vui, sống khỏe, sống có ích cho đời "... góp phần gìn giữ vốn cổ... kính mong được các bậc cao thâm và các thi hữu gần xa hửng ứng.
                Hoahuyen


                Thơ mời họa

                TRỌNG TRÁCH TRÊN VAI

                Trí thức hơn nhau ở cái đầu
                Khả năng hiểu biết rộng và sâu
                Nói hay buông chữ tròn xoe nghĩa
                Viết sắc rơi từ nhói buốt câu
                Giỏi hướng tương lai dân sớm thịnh
                Tài xoay hiện tại nước nhanh giầu
                Thuyền ra biển lớn cần tài đức
                Trọng trách trên vai bắc nhịp cầu

                Laonong(458)
                (Hoahuyen)





                TRỌNG TRÁCH TRAO AI?

                Món này khó gặm ít người chơi!
                Dẫu đã nỉ năn gẫy đũa mời
                Vướng luật câu từ... văn rối rắm
                Vướng niêm ý tứ... chữ tơi bời
                Lão niên thì thích khen tinh tuý
                Lớp trẻ toàn chê bảo dở hơi
                Trọng trách trên vai... gánh thế?
                "Giữ gìn bản sắc..." Việt nam ơi!


                Hoahuyền




                Bài họa 1
                NHỮNG CHUYẾN ĐÒ NGANG

                Mỗi chuyến đò ngang vẫn đứng đầu
                Quản gì sóng cả với nông sâu
                Dòng tâm luôn thắm tươi màu chữ
                Nguồn đức vẫn đầy thắp sáng câu
                Trọn nghiệp vun trồng không hám lợi
                Suốt đời dâng hiến chẳng ham giầu
                Miệt mài chở chữ qua sông lớn
                Mỗi chuyến đò sang tựa chiếc cầu.

                Lươngthephiet
                19.11.2009




                Bài họa 2
                Khai đường sáng

                Mấy mươi năm đã nhuốm sương đầu
                Thầy vẫn tận lòng ước vọng sâu
                Giúp trẻ dày công mài chữ nghĩa
                Nắm tay gò viết đẹp từng câu
                Mai sau đất nước thêm hưng thịnh
                Ngày đến muôn nơi được sướng giầu
                Phía trước dù muôn vàn lối khó
                Khai đường tâm vững hướng qua cầu

                đông hòa Nguyễn Chí Hiệp
                20.11.2009







                Bài họa 5
                KHÔNG ĐỀ 1

                Thầy Cô gương sáng - Đức làm đầu,
                Nghĩa lớp , tình trường mãi nặng sâu.
                Đãi cát tìm vàng rèn đẹp chữ,
                Khai tâm mở trí luyện hay câu.
                Lòng mong lớp trẻ nhanh tài đức,
                Dạ muốn non sông sớm mạnh giàu.
                Bởi vậy Thầy Trò luôn gắng sức
                Bền gan vững chí vượt qua cầu!

                Võ Ngọc Sơn







                Bài họa 3
                LÃNH ĐẠO

                Lãnh đạo là luôn biết dẫn đầu
                Hướng vào lĩnh vực mới cao sâu
                Đón đầu xu thế không cần đợi
                Đi trước nhu cầu lọ phải câu
                Tỉnh táo thì đâu đến nỗi hố
                Cao mưu chắc hẵn sẽ mau giầu
                Thị trường mới đúng nơi rèn luyện
                Tài cán cần ai bắc hộ cầu

                Hồ Văn Thiện
                20.11.2009




                Bài họa 4
                GHI TẠC CÔNG THÀY CÔ

                Thày ban Trí Đức, tích trong đầu
                Ngẫm lại cả đời ý thật sâu
                Trước học lễ nghi thông vạn lẽ
                Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu
                Nhân tài giúp nước yên bờ cõi
                Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu
                Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ
                Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu

                hadinhchung
                20.11.2009



                Bài họa 6
                KHÔNG ĐỀ 2

                Cái gì ai cũng đặt trên đầu ?
                Cao chóp rộng xòe khoét lõm sâu
                Mắt lớn che nghiêng thò mũi quặm
                Tai to úp xéo ló cằm câu
                Ngày thường vênh váo khoe môi quý
                Tháng hạn lấm le giấu trán giàu
                Mưa nắng tiết thời nào biết được
                Lỡ mai gió lớn tọt rơi cầu

                Bs Tản
                Học trò trường thuốc




                Bài họa 7
                Tài Trí

                "Trọng Trách Trên Vai"
                hẵn đứng đầu
                "Đò Ngang bác Phiệt" ý thâm sâu
                Văn chương gói gọn năm ba chữ
                Ngữ nghĩa trang đầy mấy chục câu
                "Lãnh Đạo" khôn ngoan ban quyết sách
                Nhân dân hạnh phúc hưởng sang giàu
                Thi thơ chính trị như nhau cả
                Trí thấp tài ương chớ cưỡng cầu

                Phieuvan_Thlangdu


                Bài họa 8
                Đồ giả

                Muốn làm học giả ngẩng cao đầu
                Bằng cấp thầy mua mộc đỏ sâu
                Ra huyện khoe mình rằng học tốt
                Đến trường viết chữ chẳng thành câu
                Cửa công múa bút lòe cu nhỏ
                Về xóm khua trương hách kẻ giầu
                Đến lúc khui ra bằng giảo mạo
                Đêm khuya ông đã nhảy qua cầu
                ( tự vận á )

                donghoa nguyenchihiep



                Bài họa 9
                Tự trào Đường Thi
                Họa cùng "Trọng Trách Trao Ai?".

                Lúc trắc khi bằng há giỡn chơi
                Không thông hạn luật dễ đâu mời
                Mù mờ tự loại câu toang toác
                Chệch choạng vần niêm tứ rối bời
                Đĩnh đạc thâm trầm còn thiếu chữ
                Cuồng ngông lấc cấc hẵn thừa hơi
                Đường Thi chắt lọc bao tinh túy
                Xét lại thơ mình thấy hỡi ơi


                Phieuvan_Thlangdu


                Bài họa 10
                XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG




                Xướng họa xem ra thấy nhẹ đầu

                So chi cao thấp luận khơi sâu

                Mong mang nhân ái gieo thi phú

                Nguyện lấy vô thường dệt chữ câu

                Ẩn sĩ khinh danh đời tạo phúc

                Cao nhân luyện đức nghiệp thêm giàu

                Tương giao thơ cổ thần an tọa

                Bạn hữu dung hòa trộm khấn cầu.

                NICO













                BÌNH THƠ: BÀI HỌA CỦA HADINHCHUNG






                Anh hadinhchung kính, đây là một vài ý kiến nhanh của hoahuyen đối với bài họa của anh:



                GHI TẠC CÔNG THÀY CÔ



                Thày ban Trí Đức, tích trong đầu

                Ngẫm lại cả đời ý thật sâu

                Trước học lễ nghi thông vạn lẽ

                Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu

                Nhân tài giúp nước yên bờ cõi

                Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu

                Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ

                Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu



                hadinhchung



                Trong tất cả các bài thi hữu gần xa đã họa thì “ GHI TẠC CÔNG ƠN THÀY CÔ” của Nhà thơ hadinhchung có lẽ theo ý kiến rất riêng ( có thể khác với cảm nhận của một số bạn ) là bài họa hay nhất vì những lý do sau :



                * Họa = vẽ lại một bức tranh khác cùng đề tài ( có thể đẹp hoặc xấu hơn là do tài năng của người “họa” và có thể đối nghịch lại cả “người xướng” )



                * Bài họa đối luật, không phản đề vì : “ Bài họa đã diễn đạt lại được toàn bộ ý chính (nội dung) của bài xướng, không lạc đề. đối luật với bài xướng, vì bài xướng luật trắc - bài họa của Bác hadinhchung luật bằng, họa cùng một tư tưởng đánh giá cao vai trò của trí thức và Nhà giáo đối với xã hội…. Nghiêm túc xét về luật : đây là bài chắc luật, vững liêm, họa và đối khá chỉnh, khó bắt bẻ, 56 chữ chỉ có 2 chữ trùng lặp đó là chữ “Thày” nhưng là 2 chữ “đắt” đúng chỗ, nhấn mạnh và khẳng định vài trò của người Thày trong việc trồng người



                Trước hết ta xem 2 câu đề :



                Thày ban Trí Đức, tích trong đầu

                Ngẫm lại cả đời ý thật sâu




                Nhiệm vụ chính của người Thày là dạy học và rèn người. dạy học là cho “chữ” tức là cho iến thức để làm hành trang vào đời, mặt khác thày cô còn có nhiệm vụ cực kì quan trọng đó là rèn rũa hình thành nhân cách… đạo đức của học sinh để thực sự trở thành CON NGƯỜI đúng nghĩa có ích cho xã hội – 2 câu đề quá rõ ý, mạch lạc câu văn…


                Tiếp 2 câu thực : tả thực những việc mà nghề nhà giáo đã được xã hội quy định



                Trước học lễ nghi thông vạn lẽ

                Sau rèn chữ nghĩa thấm từng câu




                “Tiên học lễ hậu học văn” – muốn làm NGƯỜI trước phải thông lễ nghi, hiểu vạn lẽ, uốn nắn từ việc đi, đứng, nói năng, chào hỏi, thưa gửi, kính trên nhường dưới dần dần hình thành con người “đối nhân xử thế chu toàn”
                Sau học chữ, tích lũy kiến thức để thấm và ngấm từng câu… có ý muốn nói học đến nơi, đến chốn, hiểu cặn kẽ từng vấn đề một cách thấu đáo, khoa học, tránh hời hợt….



                Tiếp 2 câu luận :

                Nhân tài giúp nước yên bờ cõi

                Tiềm lực xây non Tổ Quốc giầu



                Một lời bình hay : Khi là người đã có tâm tầm trí, đức thì hằn đó là hiền tài giúp nước cũng chính là tiềm lực xây dựng tổ quốc giàu mạnh – một người hoàn chỉnh lý tưởng có lẽ cần hội đủ các yếu tố:
                • Tâm trong sáng – Đức cao đẹp - Trí uyên bác – Hành mẫu mực và sống “ cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư “ ( hehehe, khó nhỉ )



                Tiếp 2 câu kết :

                Ghi tạc công ơn thày dạy dỗ

                Khai nguồn trí tuệ sánh toàn cầu



                Có lẽ không cần bình nữa vì nó đã rõ như ban ngày
                Một bài họa thơ đường chỉnh, hay, có tầm tư tưởng lớn, câu văn chau chuốt, bay bổng... chúc bác hadinhchung nhiều cảm xúc cho nàng thơ


                Hoahuyen

                22.11.2009




                Một số kiến thức cơ bản cần thiết về
                CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
                » Tác giả: ...
                » Dịch giả:
                » Thể lọai:
                Biên khảo
                » Số lần xem: 276





                1. CÁC THỂ THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT









                Có 2 thể thức họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận.


                1.
                HỌA HẠN VẬN:
                Họa hạn vận là phải theo sự hạn định trước. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo mà họa, hơn thế nữa, ta phải:
                - Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn. ...



                - Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định.


                Thí dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
                a.
                Đầu đề (nội dung) là:



                Trống treo ai dám đánh thùng
                Bậu không ai dám dở mùng chun vô



                b.
                Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô - vô - ô - rô.
                Bài thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một thiền sư chân tu !!!
                ... như sau đây:



                Nào phải là ai dám giục xô
                Thuận tình trước hết tự nơi cô
                Có cho mới dám trao dùi đánh
                Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
                Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
                Ham vui quên hết chuyện dâm ô
                Thói hư thuần thước xưa còn lạc
                Đừng học làm chi gióng nhảy rô




                Còn có một lối hoạ hạn vận rất khó. Hoàng Thứ Lang kể lại một câu chuyện như sau:
                Mùa Hè năm 1926, trong dịp thi sĩ Đão Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật với các điều kiện sau:
                - Đầu đề: Xuân Khuê
                - Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
                - Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm, ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
                Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão thi sĩ Phan Mạnh Danh:



                Xuân Khuê


                Một mong hai đợi bốn ba chờ
                Mười hẹn đêm trăng tám hững hờ
                Nửa gối năm canh gà gáy giục
                Tấc mây sáu cánh nhạn tin thưa
                Trăm lần cặp mắt đôi hàng lệ
                Chín khúc bên lòng vạn mối tơ
                Ngàn trượng thành sầu đo thước khó
                Biếng đem bảy vẻ dệt nên thơ



                Phan Mạnh Danh



                2.
                HỌA PHÓNG VẬN
                Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng, còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).



                Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
                a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
                b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận là họa từ dưới lên.
                c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
                d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta làm rất nhiều vì dễ làm.




                CHÚ Ý QUAN TRỌNG: Trong thể thức Họa Vận, không được dùng trùng từ thứ 6 trong các câu có vần của bài xướng. Tức là không được dùng lại từ đứng trước của 5 vần bài xướng. Nói dễ hiểu là không được dùng lại chữ thứ 6 ở các câu 1-2-4-6-8 của bài xướng. Càng tránh dùng trùng từ trong toàn bài của bài xướng càng tốt, ngoại trừ những từ đặc biệt không thể tránh được.
                Hoạ Thơ bao gồm 2 phần chính quan trọng sau đây:
                Đã có một bài thơ sẵn trước gọi là Bài Xướng. Bài xướng có thể chọn 1 bài đã có sẵn từ xưa, từ trước, hoặc 1 bài do 1 người khác làm trước "thách đố" cho người khác đáp lại. Người đáp lại thì bài reply đó gọi là Bài Họa. Bài họa phải có ít nhất 3 yếu tố quan trọng sau đây:
                1. Họa vần: 5 vần tức là 5 tiếng (chữ) cuối của các câu 1-2-4-6-8 mà người xướng đã ra như thế nào thì người họa phải theo đúng y chang 5 vần đó, không được vì bí hay kẹt mà sửa đổi. Chỉ cần sai 1 trong vần kể trên thì bài họa coi như bị hỏng, và như vậy gọi là bị Xuất Vận nghĩa là bị ra khỏi vần đã hạn định cho mình, dĩ nhiên bài họa đó bị Fail.2. Bài xướng nói lên ý (main idea) gì thì bài họa cũng phải nói lên ý đó hoặc tán rộng nghĩa ra thêm.3. Bài xướng gieo luật gì thì bài họa phải đối lại luật đó (trong xướng họa có hàm nghĩa đối đáp). Thí dụ bài xướng luật trắc thì bài họa phải luật bằng và ngược lại.4. Ngoài ra bài họa có thể đối ý lại bài xướng, thí dụ bài xướng khen 1 vấn đề gì thì bài họa có thể chê vấn đề đó (gọi là phản đề, nhưng không bắt buộc).Tóm lại 3 yếu tố 1-2-3 là cần thiết cho 1 bài họa xuất sắc.Sau đây là một thí dụ về xướng họa điển hình để làm mẫu. Hai bài này nổi tiếng trong văn học Việt Nam.
                Bài Xướng:



                TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
                (của Tôn Thọ Tường)



                Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
                Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
                Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
                Về Hán trau tria mảnh má hồng
                Son phấn thà cam dày gió bụi
                Đá vàng chi để thẹn non sông
                Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
                Thà mất lòng anh được bụng chồng




                Bài Họa:


                TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
                (của Phan Văn Trị)



                Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
                Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông
                Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
                Duyên về đất Thục đượm màu hồng
                Hai vai tơ tóc bền trời đất
                Một gánh cương thường nặng núi sông
                Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
                Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng



                Những bài thơ minh họa cho các thể thức Họa Thơ.
                1.
                HOẠ HẠN VẬN:
                Thí dụ:



                - Hạn đề:
                "Trống treo ai dám đánh thùng
                Bậu không ai dám dở mùng chun vô"



                - Hạn vận:
                Xô - Cô - Vô - Ô - Rô



                Bài họa:


                Nào phải là ai dám giục xô
                Thuận tình trước hết tự nơi cô
                Có cho mới dám trao dùi đánh
                Không hẹn nào ai đẩy cửa vô
                Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
                Ham vui quên hết chuyện dâm ô
                Thói hư thuần thước xưa còn lạc
                Đừng học làm chi giống nhảy rô




                2. HỌA PHÓNG VẬN:
                Thí dụ 1:



                a.
                Họa nguyên vận:



                Bài xướng:


                TƯƠNG TƯ


                Tương giang hai đứa ở hai nơi
                Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
                Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
                Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
                Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
                Nét chữ run run ý cạn lời
                Định số an bài mang khổ hận
                Đêm trường thổn thức máu tim rơi



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05




                Bài họa:


                TƯƠNG TƯ


                Mỏi gót phiêu bồng khắp mọi nơi
                Về đâu trên vạn nẻo đường đời
                Mưa buồn đổ mãi mưa buồn hỡi
                Tuyết trắng rơi hoài tuyết trắng ơi
                Muốn nhắn đôi câu mà nghẹn ý
                Mong trao mấy tiếng lại ngăn lời
                Dòng sông ly biệt nào chia lối
                Ngắm dải Ngân Hà đếm lệ rơi



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05



                b. Họa đảo vận:


                Bài xướng:


                TƯƠNG TƯ


                Tương giang hai đứa ở hai nơi
                Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
                Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
                Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
                Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
                Nét chữ run run ý cạn lời
                Định số an bài mang khổ hận
                Đêm trường thổn thức máu tim rơi



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05




                Bài họa:


                TƯƠNG TƯ


                Lất phất bên thềm tuyết trắng rơi
                Niềm riêng ấp úng chẳng nên lời
                Hai hàng lệ tủi than trời hỡi
                Một áng thơ sầu khóc bạn ơi
                Rẽ yến chia oanh hờn số kiếp
                Lìa loan rã phụng lỡ duyên đời
                Sông Tương uống cạn dòng thương nhớ
                Giang vĩ giang đầu đứa mỗi nơi



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05



                c. Họa Hoán Vận:


                Bài xướng:


                TƯƠNG TƯ


                Tương giang hai đứa ở hai nơi
                Uống cạn dòng sông nhớ trọn đời
                Chỉ thắm xe lơi người mộng hỡi
                Tơ hồng buộc lỏng bạn lòng ơi
                Vần thơ nức nở mi nhòa lệ
                Nét chữ run run ý cạn lời
                Định số an bài mang khổ hận
                Đêm trường thổn thức máu tim rơi



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05




                Bài họa:


                TƯƠNG TƯ


                Gởi gió nhờ mây nhắn mấy lời
                Trao người yêu dấu của tôi ơi
                Đường mơ vạn nẻo đành riêng lối
                Bến mộng đôi bờ phải khác nơi
                Bóng chiếc phòng đơn sầu lệ đổ
                Đèn khuya gác vắng tủi châu rơi
                Ai xui hai đứa mình dang dở
                Chẳng trọn cùng nhau suốt cuộc đời



                Hoàng Thứ Lang
                11/8/05



                d. Họa Tá Vận (mượn vần):


                Bài xướng:


                TRUNG THU


                Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm
                Tháng tám chờ trông đến bữa rằm
                Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng
                Cha làm trống ếch đánh quanh năm
                Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh
                Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm
                Chiếc lá chao mình trong gió sớm
                Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm



                Hoàng Thứ Lang
                Oct 05, 2006




                Bài họa:


                XIN XĂM


                Mẹ dẫn lên chùa để thỉnh xăm
                Hôm nay trăng sáng đúng đêm rằm
                Cầu xin phúc lộc vào nguyên tháng
                Khấn nguyện bình an đến trọn năm
                Giữa Hạ oi nồng đừng nắng gắt
                Trung Thu mát mẻ chớ mưa dầm
                Đưa tay vói rút ồ hên quá
                Thượng thượng ngon lành chẳng bị âm



                Bạch Mai
                Oct 06, 2006



                Hoạ thơ Đường luật


                Họa vần là sáng tác một bài thơ thường gọi là bài họa dựa trên hệ thống vần của một bài thơ có trước thường gọi là bài xướng.


                Thơ Đường luật có nhiều thể như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú.
                Nếu thể thơ thất ngôn bát cú thì toàn bài có năm vần là chữ cuối cùng của các câu 1, 2, 4, 6, 8.
                Những chữ vần thường là thanh bằng (có một số bài làm theo vần trắc, thì các chữ ở vị trí này là thanh trắc).



                Sau khi có bài xướng, người làm thơ họa sáng tác một bài khác, dùng lại đúng năm chữ vần của bài thơ xướng, với điều kiện chỉ dùng chữ cuối, không được dùng chữ kế cuối.


                Nếu dùng lại chữ kế cuối là phạm nguyên tắc "khắc lục", là lỗi cấm kỵ trong họa vần thơ Đường luật.


                Bài họa phải diễn đạt lại ý chính (nội dung) của bài xướng, không được lạc đề.


                Thường là bài họa phải đối luật với bài xướng, nếu bài xướng luật bằng thì bài họa phải luật trắc và ngược lại. Kẹt lắm mới làm bài họa đồng luật với bài xướng.
                Thí dụ:



                Bài xướng:


                Vườn rau Cẩm Tú


                Thầy cho xới lại mảnh vườn hoang
                Cẩm Tú đem phân ủ mấy hàng
                Củ cải gieo gần dây mướp đắng
                Su hào tỉa cạnh gốc khoai lang
                Thì là diếp cá lên muôn lối
                Húng đổi cần tây mọc khắp đàng
                Tứ phía rau xanh nhìn mát mắt
                Tha hồ cải thiện bữa ăn...
                sang



                Cẩm Tú



                Bài hoạ::


                Vườn rau Cẩm Tú


                Cẩm Tú gieo trồng mảnh đất hoang
                Rau xanh thẳng tắp rất ngay hàng
                Ngò om óng mượt bên giàn mướp
                Húng quế thơm lừng kế luống lang
                Bí rợ tần ô lên bít lối
                Dưa leo ớt hiểm mọc đầy đàng
                Chiều chiều đứng ngắm lòng thanh thản
                Cuộc sống quê nghèo ngẫm lại...
                sang



                Hoàng Thứ Lang


                Không được dùng lại chữ thứ 6 (chữ kế cuối) trong các câu cước vận (câu 1-2-4-6-8) của bài xướng và tất cả những bài đã hoạ trước.
                5 chữ vần của bài hoạ không được khác nghĩa với 5 chữ vần của bài xướng.Coi như bài hoạ là bản copy những nét căn bản về ý và vần của bài xướng, vì vậy bài hoạ phải cùng một tựa đề với bài xướng.Hoạ thơ Đường luật không đến nổi quá khó nhưng không phải dễ dàng như nhiều người đã lầm tưởng !Hoạ sai một vần gọi là xuất vận: không được.Hoạ sai nghĩa một vần gọi là xuất ý: không được.
                --

                Bài đọc thêm



                Xướng hoạ thơ Đường luật là có hàm ý đối hoạ ở trong đó.
                Người ta xướng ra mình phải đối đáp lại, vì vậy nếu chỉ một bài xướng và một bài hoạ thì bài hoạ bắt buộc phải đối luật với bài xướng. Thí dụ bài Tôn Phu Nhân Qui Thục xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Phan Văn Trị.Trường hợp bất khả kháng không thể đối luật được thì có thể châm chế hoạ đồng luật, nhưng bài hoạ đồng luật sẽ bị giảm giá trị vì không đáp ứng đúng thể thức xướng hoạ đúng cách.Bắt đầu những bài hoạ sau đó (nếu có) thì có thể dùng luật gì cũng được.
                Hoạ thơ là "vẽ lại" hình ảnh của bài xướng cho nên phải trung thực với bài xướng về ý cũng như vần.
                Hoạ sai ý bài xướng là không đạt.Hoạ sai bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất vận: không đạt. Xuất vận là đi ra khỏi sự hạn định về vần của bài xướng.Hoạ sai nghĩa bất cứ chữ vần nào của bài xướng gọi là xuất ý: không đạt. Xuất ý là đi ra khỏi ý nghĩa chữ vần của bài xướng.
                Hoạ thơ Đường luật đúng cách rất khó.



                Khi bạn bè (thi hữu) chung vui xướng hoạ với nhau, có thể dùng thể thức Hoạ Tá Vận (tức là mượn vần) để hoạ những vần tử vận và tử ý. Cách nầy không đạt nhưng cốt là để cùng nhau vui vẻ mà thôi. Nhưng cũng không nên đi xa thi đề (nội dung của bài xướng). Thí dụ bài Cảm Vịnh Cây Mai xướng của Tôn Thọ Tường, hoạ của Đông Hồ.
                Lấy thí dụ tử vận xót xa không thể nào hoạ nguyên vận theo chính hoạ được. Chúng ta có thể hoạ tá vận (mượn vần) theo bàng hoạ là xa xa, từ xa, đàng xa v.v... chẳng hạn. Dĩ nhiên là sai nghĩa của chữ xót xa rồi (bởi vậy mới bị xuất ý: không đạt), nhưng cốt để cùng nhau vui vẻ mà thôi.
                Chúng ta học thơ Đường luật chính thể, cho nên phải học kỹ về chính luật, chính vận, chính đối, chính hoạ.



                Thông vận, bàng đối và bàng hoạ...
                không xuất sắc.
                Làm thơ, nếu dùng thông vận thì nên dùng cận vận mà không nên dùng viễn vận. Viễn vận và cưỡng vận không hay, hạn chế dùng.
                Luật bất luận trong thơ Đường luật chính thể



                Người xưa đã nghiên cứu, cân nhắc rất kỹ càng chu đáo khi đặt ra luật thơ chính luật cho thơ Đường luật. Theo chính luật thì bài thơ sẽ có âm điệu du dương trầm bổng đọc hoặc ngâm nga rất êm tai truyền cảm. Thơ không phải chỉ để đọc mà còn để ngâm vịnh nữa, cho nên âm điệu rất quan trọng vì nó tạo ra nhạc tính cho bài thơ. Do đó người ta nói trong thơ có nhạc trong nhạc có thơ là bởi lẽ đó. Bài thơ mà không tuân theo thanh luật tức là luật về âm thanh hay nói khác đi nếu bài thơ mà không tuân theo luật thơ khi đọc lên thì nghe rất chỏi tai, ngâm vịnh thì bị chỏi miệng trẹo lưỡi mà trong thơ gọi là khổ độc.Tuy nhiên trong một vài trường hợp đặc biệt, có những chữ không thể sửa đổi để khép vào khuôn khổ của luật thơ (chính luật) được. Đó là những chữ thuộc về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng ... Vì vậy mà người ta đặt thêm luật bất luận để áp dụng cho những trường hợp đặc biệt này. Nhưng luật bất luận cũng có sự qui định chặt chẽ phải tuân theo một cách nghiêm ngặt không thua gì chính luật.Một vài thí dụ về thành ngữ, điển tích, chuyên ngữ, thuật ngữ, danh từ riêng không thể sửa theo chính luật được, như sau:


                - Thành ngữ: tang điền thương hải, học tài thi mạng, tháo củi sổ lồng ...


                - Điển tích: kết cỏ ngậm vành, nghiêng nước nghiêng thành, bình rơi trâm gãy ...


                - Chuyên ngữ, thuật ngữ: tam bộ cửu hậu, tứ chẩn bát cương, cữu hư hoãn bổ ...


                - Danh từ riêng: Mỵ Châu, Thúy Kiều, Kim Trọng, Đạm Tiên, Bá Nha, Tử Kỳ ...



                So sánh đối chiếu với chính luật:


                - Thành ngữ: non thề biển hẹn, quốc phá gia vong, nhà tan cửa nát ...


                - Điển tích: cử án tề mi, thiên kiều bá mỵ, chim sa cá lặn, hoa tường liễu ngõ ...


                - Chuyên ngữ, thuật ngữ: tứ chứng nan y, đau chân há miệng, bảng hổ danh đề ...


                - Danh từ riêng: Ngưu Lang, Chức Nữ, Trương Chi, Trọng Thủy, Lưu Thần, Nguyễn Triệu ...



                Vì những sự kiện đặc biệt như đã dẫn chứng trên nên luật bất luận được ra đời để áp dụng cho những từ ngữ đặc biệt không thể sửa đổi này.


                Sau đây là bảng luật bất luận cho thơ Đường luật chính thể:


                1.
                LUẬT BẰNG VẦN BẰNG:



                b - B - t - T - T - B - B (vần)
                t - T - b - B - T - T - B (vần)
                t - T - b - B - B - T - T (đối câu 4)
                b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 3)
                b - B - t - T - B - B - T (đối câu 6)
                t - T - b - B - T - T- B (vần) (đối câu 5)
                t - T - b - B - B - T - T
                b - B - t - T - T - B - B (vần)




                2.
                LUẬT TRẮC VẦN BẰNG:



                t - T - b - B - T - T - B (vần)
                b - B - t - T - T - B - B (vần)
                b - B - t - T - B - B - T (đối câu 4)
                t - T - b - B - T - T - B (vần) (đối câu 3)
                t - T - b - B - B - T - T (đối câu 6)
                b - B - t - T - T - B - B (vần) (đối câu 5)
                b - B - t - T - B - B - T
                t - T - b - B - T - T - B (vần)




                Ghi chú quan trọng:


                - Những chữ viết hoa đứng ở vị trí 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải giữ theo đúng chính luật.
                - Những chữ viết thường đứng ở vị trí thứ 1-3 không bắt buộc phải giữ đúng theo chính luật. Tuy nhiên chỗ mà theo chính luật là trắc ta làm ra bằng thì không sao nhưng chỗ mà theo chính luật là bằng thì không nên làm ra trắc. Riêng chữ thứ 1 có thể linh hoạt hơn, gặp chỗ là bằng cũng có thể làm ra trắc nếu không thể tìm ra chữ khác hay hơn để thay thế. Trường hợp bất khả kháng, đối đế lắm cũng có thể áp dụng cho chữ thứ 3 giống như chữ thứ 1, nghĩa là đáng lẽ bằng mà vì kẹt phải làm ra trắc. Tuy nhiên không nên lạm dụng luật bất luận mà làm bài thơ trắc trở không êm tai.Bằng là suông sẻ, trắc là trắc trở, vì vậy chỗ đáng trắc mà làm ra bằng thì suông sẻ, nhưng chỗ đáng bằng mà làm ra trắc thì trắc trở, không nên.
                Bài thơ thí dụ làm mẫu để minh hoạ cho luật bất luận:



                1.
                Luật trắc:



                Tôn Phu Nhân Qui Thục
                (Bài xướng)



                Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
                Ngàn thu rạng tiết gái Giang đông
                Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
                Về Hán trau tria mảnh má hồng
                Son phấn thà cam dày gió bụi
                Má hồng chi để thẹn non sông
                Ai về nhắn với Chu Công Cẩn
                Thà mất lòng anh đặng bụng chồng



                Tôn Thọ Tường



                2.
                Luật bằng:



                Tôn Phu Nhân Qui Thục
                (Bài hoạ)



                Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
                Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
                Khói toả đồi Ngô ùn sắc trắng
                Duyên về đất Thục đượm màu hồng
                Hai vai tơ tóc bền trời đất
                Một gánh cang thường nặng núi sông
                Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
                Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng



                Phan Văn Trị


                Ghi chú: đây là 2 bài thơ xướng hoạ nổi tiếng trong văn học sử Việt Nam, chúng ta nhận thấy tác giả áp dụng luật bất luận đúng y như trong phần giải thích ở trên, và dùng cũng rất hạn chế.


                2009-03-16 11:30:13
                #595
                  HOA HUYỀN 11.12.2009 13:06:35 (permalink)
                  0


                  CẢM XÚC KHÔNG TÊN


                  Hay thơ trăng mới xuống trần
                  Thơ hòa với rượu đôi vần mời trăng
                  Lỡ làng nỗi hẹn trăm năm
                  Thôi thì uống cả vầng trăng cho tròn

                  Ngày xưa ngắm ánh trăng non
                  Nửa đau mình nhận, mỏi mòn ta mang
                  Ngắm trăng, trăng vỡ, tình tan
                  Hương phai, phấn nhạt, lửa tàn, hồn tê

                  Say nghiêng quên cả lối về
                  Bọt bèo tan biến ê chề ánh trăng
                  Say cho gió lộng mưa giăng
                  Say cho bến cách sông ngăn một thời

                  Long lanh vời vợi người ơi!
                  Trăng hòa với rượu đầy vơi chưa chừa
                  Men nồng rối rắm tình xưa
                  Thôi thì uống cạn cho vừa lòng nhau

                  Ngất ngây say ánh trăng sầu
                  Tình sau ta ở, tình đầu người quên?
                  Uống cho hết nợ vơi duyên
                  Lịm trong vô vọng nhớ, quên đôi bờ...

                  Say cho bay bổng hồn thơ
                  Say cho câu chữ ngẩn ngơ ý lời
                  Mai sau cuối đất cùng trời
                  Trăng ơi! người ngắm rã rời vì trăng !

                  Hoahuyen (59)


                  #596
                    HOA HUYỀN 11.12.2009 13:08:15 (permalink)
                    0
                    Thơ mời họa




                    Bài 1 ( Lý sự )
                    Cảm

                    Lí Bạch,(1) Xuân Hương(2) tiếng để đời
                    Thơ đường xướng - họa kén người chơi
                    Vững niêm chữ nghĩa vung thừa sức
                    Kém luật từ câu vắt kiệt hơi
                    Già dặn (3) say sưa khuôn thước cổ
                    Trẻ trung mê mẩn kiểu tân thời
                    Hậu sinh gìn giữ không mai một
                    Cũ - mới giao duyên thuận ý trời

                    Laonong
                    Hoahuyen (533)

                    (1) Lí Bạch : Một nhà thơ rất nổi
                    tiếng của TQ
                    (2) Hồ Xuân Hương : Bà chúa thơ
                    nôm của Việt Nam
                    (3) Già dặn : lớp già nhưng trí ruệ
                    còn minh mẫn, giầu kinh nghiệm,
                    yêu mến và có ý thức giữ gìn vốn cổ

                    Bài 2
                    ( Thơ mộng hơn )
                    NGUYỆT DẠ


                    Nguyệt dạ, xin thưa chẳng muốn già
                    Mặc ngàn năm tháng cứ trôi qua
                    Trời giăng mây trắng đùa trêu gió
                    Đất ngợp trăng vàng bỡn cợt da
                    Cung quảng Hằng Nga say Ngọc Thố
                    Trần gian sỹ tử đắm hồng hoa
                    Hữu duyên trời đất trào ân ái
                    Chết dưới chân nàng đã có ta.

                    Laonong
                    Hoahuyen (188)

                    Lưu ý:

                    * Xin họa đúng chủ đề,
                    * Số lượng bài họa không hạn chế
                    * Bài nào hay sẽ có bài bình và giải
                    thưởng là 1000 nụ hôn gió của hoa hậu
                    Thế giới quý bà năm 2009 (hehehe )



                    [@more@] Trong Entry mời họa lần trước nhân dịp ngày Nhà giáo Việt nam 20.11 Hoahuyen thât sự bất ngờ vì đã được các bậc cao niên và bạn bè thi hữu gần xa quan tâm tham gia họa bài thơ " TRỌNG TRÁCH TRÊN VAI" Của Hoahuyen ( như Bác Hồ văn Thiện, Anh Luongthephiet, anh Đông Hòa nch, anh hadinhchung, anh phieuvan08, Bác sĩ Tản, anh Võ Ngọc Sơn, Mỵ Duy Sơn, các em Sonata, Nico... và nhiều bé bạn quan tâm khác ) - Entry đó đã có gần 160 cảm nhận và trên 1000 người truy cập ( có nhiều ý kiến tranh luận nhiệt tình như hai anh Đông Hòa và anh phieuvan08...), đó chính là niềm vui, khích lệ động viên to lớn mà các bạn đã giành cho Hoahuyen - Xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn gần xa - Lần này Hoahuyen đưa ra một đề tài cũng từng có nhiều ý kiến khác nhau về thơ cũ và thơ mới bằng một bài thơ mời họa như trên và 1 bài nhẹ nhàng- mong nhận được nhiều ý kiến của các bạn:









                    SUY và NGẪM

                    "Nhất tự vi sư" chẳng lỗi thời
                    A còng (1) hiện đại trẻ mê tơi
                    "Cổ nhân bất thức kim thời nguyệt"(2)
                    Xướng họa bây giờ ít kẻ chơi

                    Luân hồi như mốt thay quần áo
                    Hết túm thì loe, váy ngắn dài
                    Đã có thơ điên, văn lủm củm
                    Xoay vần nhật nguyệt cứ lai rai

                    Nếu cổ mà hay sao lại bác ?
                    Tân thời hợp mốt lắm người say
                    Công tâm ủng hộ văn thơ mới
                    Gìn giữ cho đời vốn cổ... hay

                    Lão Nông
                    (1) Thời đại @
                    (2) Một câu thơ của Lý Bạch trong bài
                    " Bả tửu vấn Nguyệt "


                    Bài họa 1
                    TUỔI TRẺ CHÍ KHÍ

                    Văn hiến nghìn năm để lại đời
                    Kế thừa tiếp bước chẳng ham chơi
                    Thi đua học giỏi bền dai sức
                    Tranh đấu so tài cứng cáp hơi
                    Phú quý giàu sang nào cậy thế
                    Công thành danh toại há trông thời
                    Tiếng thơm muôn thuở rền sông núi
                    Ngẩng mặt hiên ngang giữa đất Trời

                    Bs.Tản
                    Học trò trường thuốc

                    ___________________

                    Bài họa 2
                    CHỮ NGHĨA

                    Thần Siêu thánh Quát hiến cho đời
                    Nhiều áng hùng văn đâu để chơi
                    Chữ nghĩa chân dân khai mở sắc
                    Tấm lòng bảo quốc đến tàn hơi
                    Khuôn vàng thước ngọc không dây mực
                    Khí phách trượng phu chẳng lạc thời
                    Bút tả thanh thiên soi hậu thế
                    Thanh gươm đâu tá chém ngang trời

                    26-11-2009
                    Hồ Văn Thiện

                    _____________________

                    Bài họa 1
                    Loạn Trăng
                    (thủ vỹ-thuận nghịch độc)

                    xuôi
                    Trăng viếng mộng khuya lạc bóng già
                    Lững lờ sao hạ giấc tìm qua
                    Hằng thêm gió loạn mây huyền sắc
                    Níu khẽ trời say lạnh tím da
                    Lăn chậm giọt buồn đêm khóc bạn
                    Nghẹn thầm môi oán lệ sầu hoa
                    Đằng sương khói ảo mơ cuồng vọng
                    Trăng đón muộn sầu gửi đến ta

                    ngược:
                    Ta đến gửi sầu muộn đón trăng
                    Vọng cuồng mơ ảo khói sương đằng
                    Hoa sầu lệ oán môi thầm nghẹn
                    Bạn khóc đêm buồn giọt chậm lăn
                    Da tím lạnh say trời khẽ níu
                    Sắc huyền mây loạn gió thêm hằng
                    Qua tìm giấc hạ sao lờ lững
                    Già bóng lạc khuya mộng viếng trăng

                    đông hòa
                    Nguyễn Chí Hiệp
                    26.11.2009

                    Thật sự đáng nể khả năng phản xạ thơ
                    Đường cực nhanh của anh Đông Hòa


                    _____________________
                    Bài họa 3
                    CÙNG GÓP SỨC

                    Công thành danh toại hiến cho đời
                    Kiến thức cao cầu chẳng dễ chơi
                    Lanh lợi thông minh cần nhã nhặn
                    Tài cao trí lớn há cầm hơi
                    Người già cố thủ mau hòa nhập
                    Tuổi trẻ tiên phong cải cách thời
                    Rạng rỡ non sông cùng góp sức
                    Tương lai Tổ quốc hợp lòng trời

                    Viết bởi hadinhchung
                    26 Nov 2009, 17:07

                    _______________________

                    Bài 2
                    CHỊ HẰNG THỜI NAY

                    Chị Hằng năn nỉ Bác Trăng già
                    Canh đón phi thuyền lúc vút qua
                    Tranh thủ quá giang đi uốn tóc
                    Sẵn thời xuống phố để căng da
                    Xong rồi vô shop mua giầy bốt
                    Tiện thể ra đường sắm váy hoa
                    Ở riết cung trăng buồn chán ngắt
                    Chỉ mong có Bạn tám cùng ta

                    Học trò trường thuốc

                    Viết bởi Bs.Tản


                    __________________

                    Bài họa 4
                    Thanh Bình

                    Đã thấy yên tâm giữa cuộc đời
                    Nơi nơi khắp cả được vui chơi
                    Tây Đô về ngắm trăng xuôi bóng
                    Bình Định đến thăm suối thả hơi
                    Thương cảnh thu xưa đêm giải hạn
                    Nhớ ngày hạ trước buổi giao thời
                    Năm dài nỗi khổ nay tan hết
                    Lại đón mùa xuân pháo ngập trời

                    đông hòa Nguyễn Chí Hiệp
                    26.11.2009

                    _______________________

                    Bài họa 3
                    ĐỘC ẨM THƠ TA

                    Trăng khuya thủ thỉ bóng tre già
                    Mờ tỏ cho nhau thoảng dáng qua
                    Gió lặng im lìm lay kẽ lá
                    Mây bay tan tác hở làn da
                    Thu về lồng lộng mơ người đẹp
                    Xuân đến tuơi nồng thắm sắc hoa
                    Trời đất xe duyên cùng Nguyệt Dạ
                    Ôm nàng độc ẩm nhắm thơ ta...

                    Viết bởi hadinhchung
                    26 Nov 2009, 21:41







                    Bài họa 4
                    CHẲNG MÌNH TA

                    Bảy mươi chưa hẳn tuổi về già
                    Gọi chú, kêu em tự nhận "QUA"
                    Đầu óc mẫn minh còn sáng suốt
                    Mặt mày tươi rói chữa nhăn da
                    Làm thơ lúc hứng còn trêu Nguyệt
                    Văn viết động tình dám cợt Hoa
                    Nguyễn Trải thả thi quen Thị Lộ
                    Thế gian thất thập chẳng mình ta

                    Hongle09







                    Kính thưa tất cả các bạn yêu thơ văn nói chung và yêu thể loại thơ Đường Luật nói riêng Hoahuyen đã đọc tất cả các bài họa của các bạn gửi về và xin sơ kết ( tạm gọi là đợt 1 ) Hoahuyen nhận thấy:
                    1. Tuy có sôi nổi thật nhưng chỉ tập trung vào 1 số người ( như Bác Hồ văn Thiện, Anh Luongthephiet, anh Đông Hòa, anh hadinhchung, anh phieuvan08, Bác sĩ Tản, anh Võ Ngọc Sơn, Mỵ Duy Sơn, Sonata, Nico... ) chơi loại thơ này tức vẫn chỉ "đếm trên đầu ngón tay"
                    2. Một số bài có nhiều ý, tứ hay nhưng cũng có bài sai chủ đề và còn "sạn". Cho đến thời điểm này Hoahuyen đánh giá cao ( theo ý kiến rất riêng ) Bài của bác Hồ Văn Thiện và BS. Tản
                    3.Đặc biệt anh Đông Hòa có khả năng phản xạ thơ đường nhanh ( kể cả thuận nghịch độc là loại khó nhai không dễ gì ai cũng làm được nagy nhưng với ĐH chẳng khác gì "người bị ma nhập" )
                    Bài của bác Hồ Văn Thiện
                    Bài họa 2
                    CHỮ NGHĨA

                    Thần Siêu thánh Quát hiến cho đời
                    Nhiều áng hùng văn đâu để chơi
                    Chữ nghĩa chân dân khai mở sắc
                    Tấm lòng bảo quốc đến tàn hơi
                    Khuôn vàng thước ngọc không dây mực
                    Khí phách trượng phu chẳng lạc thời
                    Bút tả thanh thiên soi hậu thế
                    Thanh gươm đâu tá chém ngang trời

                    26-11-2009
                    Hồ Văn Thiện

                    đọc nghe sang sảng như lời hịch truyền
                    Bài của BS.Tản
                    Bài họa 1
                    TUỔI TRẺ CHÍ KHÍ

                    Văn hiến nghìn năm để lại đời
                    Kế thừa tiếp bước chẳng ham chơi
                    Thi đua học giỏi bền dai sức
                    Tranh đấu so tài cứng cáp hơi
                    Phú quý giàu sang nào cậy thế
                    Công thành danh toại há trông thời
                    Tiếng thơm muôn thuở rền sông núi
                    Ngẩng mặt hiên ngang giữa đất Trời

                    Bs.Tản
                    Học trò trường thuốc

                    @ và đây là bài mà Hoahuyen thật sự đáng nể khả năng phản xạ thơ Đường cực nhanh của anh Đông Hòa ( nhưng bài này chỉ mang ý nghĩa thù tạc là chính, thông điệp gửi đến người chưa có gì lớn... )
                    Bài họa 1
                    Loạn Trăng
                    (thủ vỹ-thuận nghịch độc)

                    xuôi
                    Trăng viếng mộng khuya lạc bóng già
                    Lững lờ sao hạ giấc tìm qua
                    Hằng thêm gió loạn mây huyền sắc
                    Níu khẽ trời say lạnh tím da
                    Lăn chậm giọt buồn đêm khóc bạn
                    Nghẹn thầm môi oán lệ sầu hoa
                    Đằng sương khói ảo mơ cuồng vọng
                    Trăng đón muộn sầu gửi đến ta

                    ngược:
                    Ta đến gửi sầu muộn đón trăng
                    Vọng cuồng mơ ảo khói sương đằng
                    Hoa sầu lệ oán môi thầm nghẹn
                    Bạn khóc đêm buồn giọt chậm lăn
                    Da tím lạnh say trời khẽ níu
                    Sắc huyền mây loạn gió thêm hằng
                    Qua tìm giấc hạ sao lờ lững
                    Già bóng lạc khuya mộng viếng trăng

                    đông hòa
                    Nguyễn Chí Hiệp
                    26.11.2009

                    Hoahuyen hy vọng sẽ còn tiếp tục nhận được các bài họa khác biết đâu còn hay hơn




                    Vài nhận định về sự đối câu trong thơ Đường Luật

                    Phạm Doanh

                    Có những ý kiến cho rằng 2 cặp câu 3,4 và 5,6 của thơ Đường Luật phải đối một cách tuyệt đối, nghĩa là từng chữ câu trên thuộc tự loại nào thì chữ cùng vị trí trong câu dưới cũng phải đúng tự loại đó .

                    Nhiều tác giả chú trọng quá nhiều vào hình thức đối của thơ Đường nên gò từng chữ miễn sao cho đúng luật hiểu theo cái nhìn chật hẹp, nên viết những câu đối thật chặt chẽ về hình thức mà trống rỗng về nội dung cũng như gượng ép trong cách dùng chữ.
                    Họ có thể cho những câu như sau là hay vì chỉnh trong vấn đề đối:
                    Chàng trai trước cửa đứng lau xe
                    Cô gái sau sân ngồi rửa bát

                    Đối trong thơ Đường Luật là đối ý trước tiên rồi mới đến đối tự loại. Và đối từng cụm từ chứ không phải từng chữ. Ý tưởng nghèo nàn, chữ dùng thô thiển thì dù có đối chỉnh cách mấy cũng không có chút giá trị nào, loại Đường Luật nặng về hình thức này giống như 1 chiếc hộp gỗ thật vuông vức thật thẳng góc cạnh nhưng gỗ là gỗ tạp và chứa đựng trong lòng nó nội dung nghèo nàn. Sao bằng được một chiếc hộp gỗ góc cạnh có thể không thẳng hoàn toàn nhưng là gỗ quý và chứa đựng món hay vật lạ.
                    Ngay cả trước đây hơn một thế kỷ các nhà Nho nổi tiếng như Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến sống trong thời đại từ chương, gò bó về luật thơ, đi thi chỉ cần sai một chút là hỏng mà cụ đậu đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội và Đình. Bậc Trạng Nguyên như thế mà còn không cố chấp về luật đối trong thơ ĐL thì chúng ta trong quan niệm phóng khoáng ngày nay lại cố bám vào từng chữ hay sao. Có khi còn bắt lỗi là cùng là động từ nhưng transitive verb (cần túc từ) không được đối với intransitive verb (không cần túc từ) hay trạng từ chỉ thời gian không đi với trạng từ chỉ không gian, 1 câu là câu hỏi thì câu kia cũng phải là câu hỏi.
                    Sau đây là các thí dụ của bất chấp luật đối cứng ngắc của Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ông bất chấp chứ không phải ông không biết luật.


                    Thu Vịnh

                    Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
                    Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
                    Nước biếc trông như tầng khói phủ
                    Song thưa để mặc ánh trăng vào.
                    Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
                    Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
                    Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
                    Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

                    Với những ý kiến chấp nê thì năm ngoái,không đối với nước nào ?
                    "flower of yesteryear" không đối với "goose of which country"?


                    Thu Điếu



                    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
                    Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
                    Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
                    Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
                    Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
                    Ngõ trúc quanh co khách vắng teo,
                    Tựa gối, buông cần lâu chẳng được.
                    Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

                    Nếu "hơi" đi với làn là danh từ kép thì khác với "sẽ" là trạng từ, còn nếu hơi là trạng từ để đối thì chữ làn đứng trơ trọi.
                    Rõ ràng ở đây là đấu ý, đối cả câu chứ không phải từng chữ. (1)

                    Tự Thuật
                    Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,
                    Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
                    Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ ?
                    Răng long ngày trước hãy còn đây.
                    Câu thơ được chửa, thưa rằng được,
                    Chén rượu say rồi, nói chửa say.
                    Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
                    Nghĩ ra ông sợ cái ông này.

                    Tương tự như thế ngay cả 2 cụm từ màu xanh ở trên cũng không cùng tự loại đừng nói gì từng chữ trong nó.
                    Vịnh Tiến Sĩ Giấy
                    Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò,
                    Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
                    Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
                    Giấy má nhà bay đáng mấy xu ?
                    Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
                    Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.
                    Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
                    Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.

                    Ví dụ này càng cho thấy cái "không đối" theo như những lập trường cố chấp, Bán và mua trong câu trên là động từ còn Bảng và bia là danh từ; ngay cả tiếng và danh là danh từ cũng không đối với vàng và đá là tĩnh từ. Nhưng đối là đối cả ý, cả câu chứ làm sao mà Nguyễn Khuyến không biết luật được. Cái luật mà người ta khăng khăng bám vào chỉ là cái cố chấp vô lối thôi. Dĩ nhiên là nếu mình muốn đối tuyệt đối thì cũng không sao, nhưng mang lập trường đó mà phê bình thơ người khác một cách hàm hồ thì thật là thiển cận biết bao.
                    Ở đây không phải là người không làm nổi câu đối nên nguỵ biện, chỉ là thấy những người học được một số luật rồi bám vào đó coi như là kinh điển tuyệt đối đúng là biết một mà chẳng biết hai. Chính họ là những người hay sửa sai và chê bai người khác là làm thơ sai luật vì đối không chỉnh.

                    Không phải chỉ mình Nguyễn Khuyến mới "thất luật", 2 câu sau đây của Tú Xương cũng sẽ không làm vừa lòng các vị bảo hoàng hơn vua:
                    Chí cha chí chát khua giày dép,
                    Ðen thủi đen thui cũng lụa là.

                    Khua là động từ có đi với cũng là trạng từ không? Thưa được vì
                    đối ý, đối câu mà hay thì từng chữ một không cần đúng.

                    Ra đường đáng giá người trinh thục
                    Trong bụng sao mà những gió trăng,

                    Người và những trong con mắt của người cố chấp thì chắc chắn là không đối rồi.
                    Và hãy đọc Nguyễn công Trứ
                    Tự cao
                    Trời đất cho ta một cái tài
                    Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
                    Dở duyên với rượu khôn từng chén
                    Trót nợ làm thơ phải thuộc bài
                    Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
                    Ðàn còn phiếm trúc tính tình đây
                    Ai say ai tỉnh ai thua được
                    Ta mặc ta mà ai mặc ai

                    Nguyễn Công Trứ

                    Cả hai cặp 3,4 và 5,6 đều không đối từng chữ . Nếu khăng khăng thì hoá Nguyễn công Trứ không biết luật sao ?, "từng chén" chắc chắn không đối với "thuộc bài" và "xe ngựa" không cùng tự loại với "tính tình" , đó là chưa kể "với" versus "làm" . Nhà Nho như Nguyễn công Trứ há lại phạm 3 lần lỗi trong bốn câu hay sao ?
                    Ra đường đáng giá người trinh thục
                    Trong bụng sao mà những gió trăng,

                    "Người" và "những" trong con mắt của người cố chấp thì chắc chắn là không đối rồi.
                    Hay là bài thơ nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông
                    Đề Miếu Bà
                    Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
                    Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
                    Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ,
                    Làn nước chi cho lụy đến nàng.
                    Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
                    Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
                    Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
                    Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng...

                    Chúng ta thấy rõ ràng là trong hai cặp đối nhau, không phải tất cả các chữ cùng vị trí đều cùng tự loại cả, (tắt / cho), (đừng / lụy) , (nghe / đến) , (đôi / mượn), (vầng / đến) ngay cả (nhật nguyệt / đàn tràng) hay (trẻ / nàng) đều không đối theo quan niệm cứng ngắt hẹp hòi. Nếu bắt lỗi thì 4 câu của vua Lê Thánh Tông trong bài thơ truyền tụng lại đã phạm 6, 7 lỗi. Nhà vua là người uyên bác lại đứng đầu một thi đàn chẳng lẽ không biết luật.
                    Những sự phóng khoáng không để bị quy luật hạn hẹp của sự đối gò bó mình được thấy trong rất nhiều nhà thơ cổ xưa và hiện đại.
                    Những người hay phán xét thơ người khác qua lăng kính đó thì chỉ tìm xem đối từng chữ mà không thấy được những vần thơ có giá trị.
                    Tóm lại đối chỉ là 1 khía cạnh hình thức của thơ ĐL, mà ý tưởng, vần điệu và từ ngữ là những khía cạnh khác. Đáng giá một bài thơ ĐL không phải là trước tiên nhìn coi từng chữ có đúng tự loại hay không mà là âm điệu có êm đềm, thánh thót hay trầm bỗng, ý tưởng đặc sắc và từ ngữ trong sáng hay độc đáo và nhất là cả bài thơ có để lại cho người đọc một ấn tượng một rung động nào không.
                    Không lẽ
                    Ban ngày chó sủa trên đầu phố
                    Buổi tối mèo kêu dưới cuối phường

                    ngày/tối chó/mèo sủa/kêu trên/dưới phố/phường
                    là câu đối tuyệt hảo hay sao?
                    #597
                      HOA HUYỀN 11.12.2009 13:13:51 (permalink)
                      0
                      Một số hình ảnh chuyến Ngao du phía Bắc
                      của Hoahuyen và vợ chồng anh Phương Hà
                      ( Nguồn tổng hợp lấy từ nhà Bạch Dương )



                      Từ trái sang phải: Ba mẹ con nghệ sĩ Thanh Thủy - nvHĐQ-BD-HOAHUYEN-PHUONGHA tại nhà hàng BÁNH TÔM HỒ TÂY
                      [@more@]






                      Tham dự đêm GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
                      "Trong em có người đàn bà khác"
                      của Nhà thơ Vũ Thanh Hoa




                      Dẫn chương trình : Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên



                      BD tặng hoa chúc mừng Nhà thơ Vũ Thanh Hoa









                      Hoahuyen và vợ chồng Anh Phương Hà cùng Bạch Dương và nghệ sĩ Thanh Thủy thăm quê " Làng Sơn Cốt" thắp nén nhang giỗ Thân Phụ Nhà văn Hoàng Đình Quang
                      _____________

                      Một số hình ảnh chụp tại quê nhà anh Quang


                      Thắp nén nhang thành kính

                      Ăn giỗ cùng đại gia đình anh Quang

                      Chụp ảnh trong vườn nhà

                      Lang thang ngắm cảnh quê


                      #598
                        HOA HUYỀN 11.12.2009 13:16:39 (permalink)
                        0
                        Tạp chí Ngày Nay của Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam tổ chức cuộc thi xướng - Họa nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long, nhận bài tư 10-2009 đến 10-2010. Bài xướng của nhà thơ Ngô Văn Phú như sau:

                        Ngàn năm rực rỡ đất rồng thiêng

                        Hồn hoa đệ nhất có Long Biên
                        Núi Tản sông Hồng một cõi riêng
                        Bao thuở kinh đô vang chiến tích
                        Dấu xưa thành cổ vẫn còn nguyên
                        Danh nhân trí thức nhiều người giỏi
                        Văn hiến văn minh lắm bậc hiền
                        Nam Bắc Đông Tây đường trải rộng
                        Ngàn năm rực rỡ đất Rồng thiêng

                        Nhà thơ Ngô Văn Phú


                        Bài họa
                        672.
                        THỦ ĐÔ HÀ NỘI
                        Thế tựa rồng bay mảnh đất thiêng

                        Đã bốn ngàn năm sử sách biên
                        Nước nam định phận cõi bờ riêng
                        Dáng xuân Hà Nội(1)khoe hương sắc
                        Nét cổ Phong Châu(2) vẫn đượm nguyên
                        Đánh thức địa linh... yêu kẻ sĩ
                        Khơi nguồn nhân kiệt... trọng tài hiền
                        Thủ đô văn hiến đang hòa nhập
                        Thế tựa rồng bay, mảnh đất thiêng

                        Laonong (Hoahuyen)
                        05.12.2009

                        (1) Hà nội : tên thủ đô ngày nay
                        (2) Phong Châu : là nơi vua Hùng đóng đô 4000 năm trước



                        Hà Nội ngàn năm văn hiến

                        Hà nội ngày nay nằm trên cùng đất bồi tụ của ngã ba sông Hồng, sông Đuống, là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, bởi vậy sự hình thành vùng đất Hà Nội cùng gắn liền với sự kiện tạo vùng châu thổ sông Hồng, vùng đồng bằng Bắc Bộ.

                        Hà Nội cổ 4000 năm trước từ thời vua Hùng dựng nước, là một vùng đất cổ của một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Căn cứ vào các tài liệu sử học và văn hoá dân gian thì đất Phong Châu là nơi vua Hùng đóng đô.

                        Kinh đô nước Âu Lạc là Phong Khê nay là Cổ Loa - huyện Đông Anh, trải qua bao năm tháng, bao mùa lũ phù sa bồi đắp dần dần hồ đồng bằng đã trở thành đồng bằng. Vào thời ấy khu vực Cổ Loa là bãi bồi, bậc thềm của bờ sông Hồng, sông Ngũ Huyện,..Cổ Loa vừa là thung lũng, vừa là đê ngăn lũ cho kinh kỳ. Trong tình hình địa lý thời bấy giờ không đâu sánh kịp Cổ Loa về địa thế thuận lợi cho một kinh kỳ.

                        Từ thời khởi thuỷ Hà Nội cổ chỉ mới là một làng quê cổ nằm ven sông Tô Lịch. Làng quê này có cái tên huyền thoại Long Đỗ vào thời Hùng Vương, An Dương Vương. Đến thế kỷ thứ năm khu làng gốc của đất Hà Nội cổ đã phát triển thành một huyện, một quận tên là Tống Bình vào thời nhà Tuỳ. Đến năm Giáp Tý (544) Lý Nam Đế, sau khi đánh đuổi thứ sử nhà Lương, lên ngôi vua đổi tên nước thành Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diêm Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng ngày nay) và dựng thành luỹ bằng tre gỗ ở cửa sông Tô Lịch thông ra sông Nhĩ Hà là đất phường Giang Khẩu hay Hà Khẩu (nay là phố Chợ Gạo – Hoàn Kiếm).

                        Sang thế kỷ thứ VII, Tống Bình trở thành trung tâm của nhà Tuỳ thống trị cả đồng bằng Bắc Bộ. Năm 621 nhà Đường thay nhà Tuỳ bắt đầu xây dựnga thành luỹ ở Tống Bình và năm 679 đặt ở đấy trụ sở của “An nam đo hộ phủ”. Đến thế kỷ thứ X, Tống Bình là thành luỹ chính của bộ máy đô hộ phủ phương Bắc, Trương Bá Nghi xây La Thành, Trương Chu đến Cao biền đắp rộng ra lấy bờ sông Tô làm hào tự nhiên. Hà Nội cổ từ đó mang tên Đại La thay cho Tống Bình.

                        Sau 1000 năm ngoại thuộc, Ngô Quyền giành lại độc lập và trở về kinh đô ở Cổ Loa xưa. Đất nước chưa hoàn toàn thống nhất nên phải đóng đô ở Hoa Lư, một vị trí khuất, địa thế hiểm trở không có khả năng phát triển thành nơi đô hội. Đến triều đại độc lập thứ 3, Lý Công Uẩn đã hạ “chiếu thiên đô” năm 1010, lời chiếu nói rõ lợi của việc thiên đô là “cốt để mưu việc lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì rời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Năm 1010 Lý Công Uẩn rời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên là Thăng Long. Tục truyền khi thuyền ngự từ sông nước Hoa Lư cập bến Đại La, bỗng có Rồng vàng hiện lên trên sông rồi bay vút lên trời, vua Lý Thái Tổ cho đó là điềm lành nên nhân hình ảnh đó mà đặt tên cho kinh đô mới là Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên.

                        Từ năm 1010 – 1225 thời kỳ kiến thiết đất nước trên qui mô lớn và Thăng Long xây dựng xứng đang là quôc đô của một nước hùng cường mở đầu một thời kỳ văn hoá rực rỡ, văn hoá Thăng Long.

                        Năm Mậu Thân 1428, nhà Lê lên ngôi vẫn lấy Thăng Long – Đông Đô là quốc đô nhưng đổi thành Đông Kinh (1430).

                        Triều Mạc ngắn ngủi vẫn lấy Đông Kinh làm quốc đô, thời ấy lái buôn phương tây bắt đầu đến, tên Đông Kinh họ phiên âm ra tiếng La tinh là “Tonquin”. Còn trong dân gian thì “Kẻ Chợ” là tên gọi phổ biến cho đô thị Thăng Long – Đông kinh bấy giờ.

                        Qua các thời kỳ Lý, Trần, Lê kinh thành Thăng Long – Đông đô của nước Đại Việt đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Nền văn hoá Thăng Long tiêu biểu cho cả kỷ nguyên văn minh Đại Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Thăng Long vừa qui tụ, vừa tập trung tinh hoa văn hoá cả nước, vừa toả sáng văn hoá ra cả nước. Sau hàng nghìn năm bị đế chế Bắc đô hộ, hơn 100 năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. nhân dân Việt Nam mới giành được độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

                        Thành phố rồng bay đã vươn lên mạnh mẽ trong công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá. Kể từ ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954) đến nay Hà Nội đã trải qua hơn 40 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sẹ lãnh đạo của Đảng. Ngày ấy đã cắm một mốc son sáng ngời, mở ra một thời kỳ mới cho Hà Nội trên con đường đổi mới và phát triển. Hà Nội đã hoà nhập cùng đát nước, hoà nhập với khu vực và quốc tế để bước vào một thời đại mới, hứa hẹn những thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

                        Hà Nội hôm nay là “chàng trai mười bảy” vươn vai Thánh Gióng trên thế tựa Rồng bay với hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ thuộc mọi ngành nghề khác nhau. Thủ đô Hà Nội đang bước vào thời kỳ phát triển và đổi mới. Mọi hoạt động xã hội đều chuyển theo cái trục kinh tế. Tuy nhiên Hà Nội ngày nay còn là hiện thân của ngàn năm văn hiến, của bản sắc văn hoá, là biểu tượng, là tinh hoa của đất nước.
                        #599
                          HOA HUYỀN 11.12.2009 13:18:41 (permalink)
                          0
                          Đúng 11 giờ 25.7.2007 Hoahuyên có mặt tại lầu 9 khách sạn sài gòn trong tâm trạng háo hức được gặp lại anh Hoàng Cát - cùng đón anh còn có đông đủ các gương mặt bloggers quen biết tại Sài Gòn như Nguyễn Quyết Thắng (Cúi xuống bầu trời), Phương Phương (Ngày xưa ơi), Nguyên Hùng, Trung Kim, Phương Hà, Hoa Huyền (Một thời đã xa), Đông Hòa (Đông Hòa & Tình yêu lãng mạn), Muaraothang6 (Tình yêu không có tuổi). Đặc biệt, tại cuộc hội ngộ còn có sự góp mặt của các bloggers hoàn toàn mới (đã có nhà nhưng chưa tới ở), như nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm (nguyên Trưởng BBT Tài Hoa Trẻ, tác giả "Thương nhớ tài hoa", "Nghìn câu thơ tài hoa"...), nhà thơ Trần Quang Đạo (Phó TBT báo Nhi đồng), nhà thơ Khánh Chi, nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu (NXB Văn Nghệ, con gái cố nhà thơ Nguyễn Bính).

                          Nhân dịp này Hoahuyen xin viết một đôi điều về :

                          ANH HOÀNG CÁT

                          Lật lại chùm quá khứ để chứng nghiệm : Đời chỉ là một khoảng khắc vô thường - Biết vô thường nên không còn chấp AI - BI - ÁI - Ố - HỶ - NỘ. Lấy cái bất hạnh dung hòa với diễm phúc để tìm ra một hướng đi tế nhị vừa xoa dịu mình vừa hoà nhập với xung quanh:

                          " Có những lúc lòng ta sao trống trải
                          Không quê hương, không bè bạn, không nhà
                          Chẳng thiết làm thơ, chẳng ham đọc sách
                          Như thể sương mờ dăng mắc bủa vây ta
                          ...
                          Có những lúc chỉ thích ngồi im lặng
                          Một mình ta dưới gốc khế già
                          Chừng như cây cũng cùng ta thấu hiểu
                          Bao nỗi đời chua chát đã từng qua...

                          Theo quy luật sinh học còn hơi thở là còn sự sống, nhưng đó mới chỉ là sự tồn tại vật chất, khi hơi thở và tinh thần hoà quyện với nhau mới cho ta ý nghĩa thật sự của cuộc sống, có người sống đấy mà như đã chết, lại có người chết rồi đấy mà vẫn sống trong lòng bè bạn, độc giả... Có trường hợp sống chỉ một ngày đã lấy làm dài, mà sống trăm năm vẫn cho là ngắn ...
                          "Người thơ" đa số thường không tham sống dài, mà cốt sống sao cho có ý nghĩa - Mỗi bước anh Hoàng Cát đi từ thuở ấu thơ đến khi tóc ngả màu mây đều lưu dấu chân kỷ niệm buồn vui, khổ đau và hạnh phúc

                          "Ta lang thang không bến không bờ;
                          Ta thả nổi đời ta cho nắng gió
                          Trải dằng dặc vô vàn lo sợ,
                          Giờ "nỏ hại chi" - đã sắp đến bến trời !

                          "nỏ hại chi" tức là Không sợ gì ( tiếng Nghệ ngữ ) cho thấy cuộc đời có rất nhiều cái "ngưỡng" mà chúng ta - những người trong cuộc phải vượt qua khi "cuộc đời là một sân khấu vĩ đại, mỗi người là một diễn viên tự diễn vai diễn của mình..." anh có thể là một diễn viên đa tài, tôi có thể là một diễn viên hạng bét - Cuộc sống bắt ta phải tự thích nghi, tự làm lên giá trị, bản sắc của riêng mình - Anh Hoàng Cát đã có cho riêng mình một vị trí, khẳng định một tài năng không bị một tài năng quá lớn che phủ:
                          Ngạn ngữ phương tây có câu :

                          Mặt trời vừa trưa, vừa xế
                          Con người vừa sống vừa chết

                          Cả vũ trụ luôn luôn luân chuyển, cả không gian, thời gian đều không ngừng trôi về phía trước, sự sống cũng không thể nào đứng yên một chỗ. Con người cũng vì thế mà ngày càng già đi theo thời gian:

                          "Kiếp nhân sinh là cái kiếp cực dài
                          Cũng cực ngắn - ngắn như là tia chớp
                          Ai biết được khổ đau và hạnh phúc
                          Ấy là người sung sướng cõi trần gian... "

                          Anh Hoàng Cát ơi! Chúng em biết hiện tại Anh "... không còn là một chàng trai, nhưng nhất quyết không thể là một ông già. Khoảng khắc vào thu, khiến cái nắng cũng bỗng nhiên bồn chồn, mơ mộng... " anh hãy cứ sống thật với lòng mình :

                          "Ta thích viết những dòng thơ ứa lệ
                          Những trang văn thấm đẫm nhân tình
                          Đời hiểu ta thế nào, ta mặc kệ;
                          Trái tim ta đau đáu nỗi nhân sinh "

                          Hoahuyen rất tin với nhà thơ Hoàng Cát, dù ở độ tuổi nào, dù trong hoàn cảnh nào anh cũng đã, đang và sẽ hồn nhiên, vô tư, thoải mái sống thật với lòng mình, sống với đúng ý nghĩa của một CON NGƯỜI đang sống

                           
                          #600
                            Thay đổi trang: << < 4041 > | Trang 40 của 41 trang, bài viết từ 586 đến 600 trên tổng số 604 bài trong đề mục
                            Chuyển nhanh đến:

                            Thống kê hiện tại

                            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                            Kiểu:
                            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9