TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 55 bài trong đề mục
meocon_thongminh93 04.09.2006 15:05:19 (permalink)
CHƯƠNG 15

Sứt Môi



Chúng tôi câu cá nơi dòng sông. Sứt Môi chạy qua. Nó không thấy chúng tôi. Nó nằm xuống cỏ, kéo váy lên. Nó không có quần lót. Chúng tôi thấy cặp mông đít phơi truồng của nó và nhúm lông giữa hai chân nó. Chúng tôi chưa có lông giữa hai chân. Sứt Môi có, nhưng rất ít.

Sứt Môi huýt sáo. Một con chó chạy đến. Đó là con chó của chúng tôi. Nó ôm con chó và nhào lăn với con chó trong đám cỏ. Con chó sủa, vuột ra khỏi tay nó, giũ lông, và chạy đi. Sứt Môi kêu con chó bằng một giọng dịu dàng trong lúc dùng các ngón tay tự vuốt ve cái hĩm của mình.

Con chó trở lại, ngửi cái hĩm của Sứt Môi dăm ba lần và bắt đầu liếm nó.

Sứt Môi dang hai chân ra, dùng hai tay ghì đầu con chó vào bụng mình. Nó thở rất mạnh và quằn quại.

Cu của con chó lòi ra, thon và đỏ, càng lúc càng dài. Con chó ngóc đầu, cố leo lên lưng Sứt Môi.

Sứt Môi xoay lại, lom khom bò trên hai đầu gối, đưa mông đít cho con chó. Con chó gác hai chân trước lên lưng của Sứt Môi, cặp chân sau run rẩy. Nó dò dẫm, càng lúc càng xáp đến gần hơn, lách vào giữa hai chân của Sứt Môi, áp sát vào mông đít của đứa con gái. Nó hẩy tới tui lia lịa. Sứt Môi kêu lên và, sau một lúc, ngã sấp xuống đất.

Con chó từ từ bước đi.

Sứt Môi nằm trên mặt đất một lát, rồi nó nhỏm dậy, trông thấy chúng tôi, nó đỏ mặt. Nó hét lên:

— Bọn rình rập dơ bẩn! Tụi mày đã thấy cái gì?

Chúng tôi đáp:

— Chúng tôi thấy chị chơi với con chó của chúng tôi.

Nó hỏi:

— Tao có còn là bạn của tụi mày không?

— Còn. Và chúng tôi cho phép chị chơi với con chó của chúng tôi bất cứ lúc nào chị muốn.

— Và tụi mày sẽ không kể cho ai nghe tụi mày đã thấy điều gì chứ?

Nó ngồi lên cỏ, nó khóc:

— Chỉ có súc vật mới thương tao.

Chúng tôi hỏi:

— Có phải thật là mẹ chị bị điên không?

— Không. Bà ấy chỉ bị điếc và mù.

— Cái gì đã xảy đến cho bà ấy?

— Không có gì cả. Không có gì đặc biệt cả. Một ngày nọ, bà trở nên mù loà, rồi sau đó, bà trở nên điếc. Bà nói tao cũng sẽ bị như thế. Tụi mày đã thấy cặp mắt tao chưa? Buổi sáng, lúc tao thức dậy, hai hàng lông nheo của tao dính vào nhau, hai mắt tao đầy ghèn.

Chúng tôi nói:

— Chăc chắn đó là thứ bệnh có thể chữa được bằng thuốc.

Nó nói:

— Có lẽ. Nhưng làm sao đến gặp bác sĩ mà không có tiền? Nói cho cùng, cũng chẳng có một bác sĩ nào cả. Họ đều ở mặt trận.

Chúng tôi hỏi:

— Còn hai cái tai của chị? Chúng có đau không?

— Không, tao không có vấn đề gì cả. Và tao cũng nghĩ mẹ tao chẳng có vấn đề gì. Bà ấy giả vờ không nghe bất cứ điều gì để tránh trả lời những câu hỏi của tao.

#16
    meocon_thongminh93 04.09.2006 15:06:18 (permalink)
    CHƯƠNG 15
    Tập mù và điếc


    Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai. Tấm khăn choàng hôi hám như Bà Ngoại.

    Chúng tôi nắm tay nhau, chúng tôi đi lang thang trong lúc có còi báo động máy bay sắp dội bom, người ta đang trốn dưới gầm nhà, và đường phố vắng ngắt.

    Thằng điếc miêu tả những gì nó thấy:

    — Con đường thì hẹp và dài. Hai bên đường là những ngôi nhà thấp, không có lầu. Chúng có màu trắng, xám, hồng, vàng và xanh. Ở cuối con đường, tôi thấy một công viên với cây cối và một bể nước phun. Bầu trời thì xanh, với vài đám mây trắng. Tôi thấy những chiếc máy bay. Năm chiếc oanh tạc cơ. Chúng đang bay thấp.

    Thằng mù nói chậm rãi để thằng điếc có thể đọc được môi mình:

    — Tôi nghe những chiếc máy bay. Chúng đang tạo ra một âm thanh khục khặc trầm trầm. Bộ máy của chúng làm việc nặng nhọc. Chúng được chất đầy những trái bom. Bây giờ, chúng đã bay đi. Tôi nghe tiếng chim kêu trở lại. Ngoài ra, tất cả đều im lặng.

    Thằng điếc đọc môi thằng mù và trả lời:

    — Đúng, đường phố trống trơn.

    Thằng mù nói:

    — Chẳng được mấy chốc. Tôi nghe những bước chân đến gần từ con hẻm bên trái.

    Thằng điếc nói:

    — Anh nói đúng. Đây rồi, một người đàn ông.

    Thằng mù hỏi:

    — Ông ấy trông thế nào?

    Thằng điếc trả lời:

    — Giống như tất cả những người khác. Nghèo, già.

    Thằng mù nói:

    — Tôi biết thế. Tôi nhận ra bước chân của người già. Tôi cũng nghe đó là hai bàn chân trần, vì vậy tôi biết ông ấy nghèo.

    Thằng điếc nói:

    — Ông ấy hói đầu. Ông ấy mặc một cái áo khoác cũ của quân đội. Ông ấy mặc một cái quần ngắn củn. Hai bàn chân ông ấy bẩn thỉu.

    — Cặp mắt thì thế nào?

    — Tôi không thấy cặp mắt. Ông ấy nhìn xuống đất.

    — Còn cái miệng?

    — Cặp môi móm xọm. Chắc ông ấy đã mất hết răng.

    — Hai bàn tay?

    — Trong túi áo khoác. Những cái túi áo to tướng và đầy những thứ gì đó. Những củ khoai, hay những quả hạnh, chúng làm túi áo nổi lên từng cục u. Ông ấy ngẩng đầu lên, ông ấy nhìn chúng ta. Nhưng tôi không nhận ra màu mắt ông ấy.

    — Anh không thấy điều gì khác sao?

    — Những nếp nhăn, sâu như những vết sẹo, trên mặt.

    Thằng mù nói:

    — Tôi nghe còi hụ báo hiệu đã hết đợt oanh tạc. Ta hãy về nhà.

    Sau đó một thời gian, chúng tôi không còn cần tấm khăn choàng để bịt mắt hay cỏ để nhét tai. Đứa làm thằng mù chỉ cần xoay cái nhìn vào bên trong, đứa làm thằng điếc chỉ cần đóng hai lỗ tai trước mọi tiếng động.

    [còn tiếp nhiều kỳ]


    #17
      meocon_thongminh93 17.09.2006 13:41:22 (permalink)
      CHƯƠNG 16

      Tập mù và điếc




      Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai. Tấm khăn choàng hôi hám như Bà Ngoại.

      Chúng tôi nắm tay nhau, chúng tôi đi lang thang trong lúc có còi báo động máy bay sắp dội bom, người ta đang trốn dưới gầm nhà, và đường phố vắng ngắt.

      Thằng điếc miêu tả những gì nó thấy:

      — Con đường thì hẹp và dài. Hai bên đường là những ngôi nhà thấp, không có lầu. Chúng có màu trắng, xám, hồng, vàng và xanh. Ở cuối con đường, tôi thấy một công viên với cây cối và một bể nước phun. Bầu trời thì xanh, với vài đám mây trắng. Tôi thấy những chiếc máy bay. Năm chiếc oanh tạc cơ. Chúng đang bay thấp.

      Thằng mù nói chậm rãi để thằng điếc có thể đọc được môi mình:

      — Tôi nghe những chiếc máy bay. Chúng đang tạo ra một âm thanh khục khặc trầm trầm. Bộ máy của chúng làm việc nặng nhọc. Chúng được chất đầy những trái bom. Bây giờ, chúng đã bay đi. Tôi nghe tiếng chim kêu trở lại. Ngoài ra, tất cả đều im lặng.

      Thằng điếc đọc môi thằng mù và trả lời:

      — Đúng, đường phố trống trơn.

      Thằng mù nói:

      — Chẳng được mấy chốc. Tôi nghe những bước chân đến gần từ con hẻm bên trái.

      Thằng điếc nói:

      — Anh nói đúng. Đây rồi, một người đàn ông.

      Thằng mù hỏi:

      — Ông ấy trông thế nào?

      Thằng điếc trả lời:

      — Giống như tất cả những người khác. Nghèo, già.

      Thằng mù nói:

      — Tôi biết thế. Tôi nhận ra bước chân của người già. Tôi cũng nghe đó là hai bàn chân trần, vì vậy tôi biết ông ấy nghèo.

      Thằng điếc nói:

      — Ông ấy hói đầu. Ông ấy mặc một cái áo khoác cũ của quân đội. Ông ấy mặc một cái quần ngắn củn. Hai bàn chân ông ấy bẩn thỉu.

      — Cặp mắt thì thế nào?

      — Tôi không thấy cặp mắt. Ông ấy nhìn xuống đất.

      — Còn cái miệng?

      — Cặp môi móm xọm. Chắc ông ấy đã mất hết răng.

      — Hai bàn tay?

      — Trong túi áo khoác. Những cái túi áo to tướng và đầy những thứ gì đó. Những củ khoai, hay những quả hạnh, chúng làm túi áo nổi lên từng cục u. Ông ấy ngẩng đầu lên, ông ấy nhìn chúng ta. Nhưng tôi không nhận ra màu mắt ông ấy.

      — Anh không thấy điều gì khác sao?

      — Những nếp nhăn, sâu như những vết sẹo, trên mặt.

      Thằng mù nói:

      — Tôi nghe còi hụ báo hiệu đã hết đợt oanh tạc. Ta hãy về nhà.

      Sau đó một thời gian, chúng tôi không còn cần tấm khăn choàng để bịt mắt hay cỏ để nhét tai. Đứa làm thằng mù chỉ cần xoay cái nhìn vào bên trong, đứa làm thằng điếc chỉ cần đóng hai lỗ tai trước mọi tiếng động.

      #18
        meocon_thongminh93 17.09.2006 13:42:35 (permalink)
        CHƯƠNG 17

        Kẻ đào ngũ



        Chúng tôi phát hiện một người đàn ông trong rừng. Một người đàn ông còn sống, một người đàn ông trẻ, không mặc quân phục. Ông đang nằm dưới một bụi cây. Ông nhìn chúng tôi, bất động.

        Chúng tôi hỏi ông:

        — Tại sao ông nằm ở đây?

        Ông đáp:

        — Tôi không thể bước đi được nữa. Tôi đến đây từ bên kia biên giới. Tôi đã đi bộ suốt hai tuần. Đêm và ngày. Đặc biệt là đêm. Bây giờ tôi quá yếu. Tôi đói. Tôi không ăn đã ba ngày.

        Chúng tôi hỏi:

        — Tại sao ông không mặc quân phục? Tất cả thanh niên đều mặc quân phục. Tất cả họ đều là lính.

        Ông nói:

        — Tôi không muốn làm lính nữa.

        — Ông không muốn chiến đấu với quân thù nữa hay sao?

        — Tôi không muốn đánh nhau với bất cứ ai. Tôi không có kẻ thù. Tôi muốn về nhà.

        — Nhà ông ở đâu?

        — Vẫn còn xa lắm. Tôi sẽ không bao giờ về đến đó nếu tôi không tìm được cái gì để ăn.

        Chúng tôi hỏi:

        — Sao ông không đi mua một cái gì đó đẻ ăn? Ông không có tiền hả?

        — Không, tôi không có tiền và tôi không thể để người ta thấy tôi. Tôi phải núp. Không ai được thấy tôi cả.

        — Tại sao?

        — Tôi rời bỏ đơn vị mà không có giấy phép. Tôi trốn đi. Tôi là một kẻ đào ngũ. Nếu người ta thấy tôi, tôi sẽ bị bắn hay treo cổ.

        Chúng tôi hỏi:

        — Như một kẻ sát nhân?

        — Đúng, hoàn toàn như một tên giết người.

        — Thế nhưng, ông lại không muốn giết ai cả. Ông chỉ muốn về nhà.

        — Vâng, tôi chỉ muốn về nhà.

        Chúng tôi hỏi:

        — Ông muốn chúng tôi mang đến cái gì để ông ăn?

        — Cái gì cũng được.

        — Sữa dê, trứng luộc, bánh mì, trái cây?

        — Vâng, vâng, bất cứ cái gì.

        Chúng tôi hỏi:

        — Và một tấm chăn? Ban đêm trời lạnh và thường có mưa.

        — Vâng, nhưng các cậu đừng để cho ai thấy. Và các cậu không nói điều gì với bất cứ ai, có phải không? Ngay cả không nói với mẹ các cậu.

        Chúng tôi đáp:

        — Sẽ không có ai thấy chúng tôi, chúng tôi không nói điều gì với bất cứ ai và chúng tôi không có mẹ.

        Lúc chúng tôi trở lại với thức ăn và tấm chăn, ông nói:

        — Các cậu tử tế quá.

        Chúng tôi nói:

        — Chúng tôi không muốn làm ra tử tế. Chúng tôi mang cho ông những cái này bởi vì ông tuyệt đối cần chúng. Thế thôi.

        Ông lại nói:

        — Tôi không biết làm cách nào để tạ ơn các cậu. Tôi sẽ không bao giờ quên các cậu.

        Nước mắt ông ràn rụa.

        Chúng tôi nói:

        — Ông biết đấy, khóc chẳng ích gì. Chúng tôi không bao giờ khóc, tuy chúng tôi chưa thành người lớn như ông.

        Ông mỉm cười và nói:

        — Các cậu nói đúng. Hãy thứ lỗi cho tôi, tôi sẽ không làm như vậy nữa. Chỉ vì quá kiệt sức đấy thôi.

        #19
          meocon_thongminh93 17.09.2006 13:44:06 (permalink)
          CHƯƠNG 18

          Tập nhịn đói



          Chúng tôi thông báo cho Bà Ngoại:

          — Hôm nay và ngày mai chúng con sẽ không ăn. Chúng con chỉ uống nước.

          Bà nhún vai:

          — Mặc kệ bọn mày. Nhưng bọn mày vẫn phải làm việc như thường lệ.

          — Tất nhiên, Bà Ngoại.

          Ngày đầu tiên, bà giết một con gà và nướng nó trong lò. Buổi trưa, bà gọi chúng tôi:

          — Đến đây ăn!

          Chúng tôi đi vào bếp, mùi gà nướng rất thơm. Chúng tôi hơi đói, nhưng không đói lắm. Chúng tôi xem Bà Ngoại chặt thịt gà.

          Bà nói:

          — Thơm phức. Bọn mày có ngửi thấy nó thơm đến chừng nào không? Bọn mày muốn mỗi đứa ăn một cái đùi không?

          — Chúng con không muốn gì cả, Bà Ngoại.

          — Thật tội nghiệp bởi vì nó quả là rất ngon.

          Bà dùng tay cầm thịt gà để ăn, liếm những ngón tay, quẹt chúng vào cái tạp-dề. Bà gặm và mút xương.

          Bà nói:

          — Rất mềm, con gà tơ này. Tao không thể tưởng tượng cái gì ngon hơn nữa.

          Chúng tôi nói:

          — Bà Ngoại, từ lúc chúng con ở nhà bà đến nay, bà chưa bao giờ nấu một con gà cho chúng con ăn.

          Bà nói:

          — Thì hôm nay tao nấu một con gà đấy chứ. Vậy mà bọn mày lại không ăn.

          — Bà biết chúng con không muốn ăn bất cứ thứ gì vào hôm nay và cả ngày mai mà.

          — Đó chẳng phải là lỗi của tao. Đó lại là một trò bá láp khác của bọn mày.

          — Đó là một trong những bài thực tập của chúng con. Để làm chúng con quen chịu đói.

          — Thế thì tập cho quen đi. Chẳng có ai ngăn cản bọn mày cả.

          Chúng tôi rời khỏi bếp và ra ngoài để làm việc trong vườn. Đến cuối ngày, chúng tôi rất đói. Chúng tôi uống thật nhiều nước. Ban đêm, chúng tôi trằn trọc khó ngủ. Chúng tôi nằm chiêm bao thấy thức ăn.

          Hôm sau, vào giữa trưa, Bà Ngoại ăn hết phần thịt gà còn lại. Chúng tôi xem bà ăn mà thấy mắt mình như bị quáng. Chúng tôi không còn đói nữa. Chúng tôi thấy chóng mặt.

          Buổi tối, Bà Ngoại làm những chiếc bánh kẹp với mứt và phô-mai trắng. Chúng tôi thấy buồn nôn và đau thắt trong bụng nhưng, khi nằm xuống, chúng tôi rơi vào một giấc ngủ sâu. Khi chúng tôi thức dậy, Bà Ngoại đã đi ra chợ. Chúng tôi muốn ăn điểm tâm, nhưng trong bếp không còn thứ gì để ăn. Không bánh mì, không sữa, không phô-mai. Bà Ngoại đã cất mọi thứ vào gầm nhà và khoá lại. Chúng tôi có thể mở khoá, nhưng chúng tôi quyết định không đụng vào bất cứ thứ gì. Chúng tôi ăn cà tây và dưa leo chấm muối.

          Bà Ngoại đi chợ về, bà nói:

          — Bọn mày chưa làm việc sáng nay.

          — Đáng lẽ bà nên gọi chúng cháu dậy, Bà Ngoại.

          — Đáng lẽ bọn mày nên tự thức dậy. Nhưng, lần này là ngoại lệ, tao vẫn cho bọn mày ăn.

          Bà nấu cho chúng tôi món xúp rau đậu với những thứ bán chưa hết ở chợ, như thường lệ. Chúng tôi ăn chút ít. Sau bữa ăn, Bà Ngoại nói:

          — Đó là một bài thực tập ngu xuẩn. Và không tốt cho sức khoẻ của bọn mày.

          #20
            meocon_thongminh93 17.09.2006 13:55:24 (permalink)
            CHƯƠNG 19

            Ngôi mộ của Ông Ngoại



            Một hôm, chúng tôi thấy Bà Ngoại rời nhà với cái bình tưới cây và những dụng cụ làm vườn. Nhưng thay vì đi đến vườn nho, bà đi theo hướng khác. Chúng tôi đi theo bà, cách một quãng, để xem bà đang đi đâu.

            Bà đi vào nghĩa địa. Bà dừng lại trước một ngôi mộ và đặt dụng cụ xuống. Nghĩa địa hoang vắng, không có ai ngoài Bà Ngoại và chúng tôi.

            Núp sau những lùm cây và những tấm bia mộ, chúng tôi dần dần lẻn đến gần hơn. Bà Ngoại bị loà mắt và lảng tai. Chúng tôi có thể quan sát bà mà bà không biết.

            Bà nhổ cỏ dại trên mộ, đào đất bằng một cái xẻng, cào đất, trồng những cây hoa, đi đến giếng để lấy nước, mang về tưới lên mộ.

            Khi bà đã làm xong việc, bà gom dụng cụ lại, rồi quì gối xuống trước cây thập giá bằng gỗ, nhưng ngồi trên hai gót chân. Bà chắp hai bàn tay trước bụng như đọc một lời cầu nguyện, nhưng chúng tôi chỉ nghe hầu hết là những câu nguyền rủa:

            — Cứt... chó đẻ... con heo... quân chết tiệt... đồ súc sinh...

            Khi Bà Ngoại rời khỏi nơi đó, chúng tôi đến xem ngôi mộ: nó được chăm sóc rất đàng hoàng. Chúng tôi nhìn cây thập giá: cái tên được viết trên đó là tên của Bà Ngoại, cái họ cũng là họ của Bà Ngoại trước khi lấy chồng. Tên lót là tên đôi, có dấu ngăn nối, và hai cái tên lót ấy là tên lót của chính chúng tôi.

            Trên cây thập giá, còn có ngày sinh và ngày chết. Chúng tôi tính ra thì Ông Ngoại chết lúc bảy mươi bốn tuổi, cách đây hai mươi ba năm.

            Tối hôm đó, chúng tôi hỏi Bà Ngoại:

            — Ông Ngoại của chúng con trông như thế nào?

            Bà nói:

            — Thế nào? Cái gì? Bọn mày không có Ông Ngoại."

            — Nhưng trước kia chúng con có chứ.

            — Không, chưa bao giờ. Ông ấy đã chết trước khi bọn mày được đẻ ra. Cho nên bọn mày chưa bao giờ có Ông Ngoại."

            Chúng tôi hỏi:

            — Tại sao bà đánh thuốc độc cho ông chết?

            Bà hỏi:

            — Bọn mày nói chuyện gì vậy?

            — Người ta nói bà đã đánh thuốc độc Ông Ngoại.

            — Người ta nói... người ta nói... Cứ để cho chúng muốn nói gì thì nói.

            — Bà không đánh thuốc độc ông hả?

            — Để cho tao yên, bọn chó đẻ! Không ai có bằng chứng gì cả. Người ta nói bất cứ thứ gì..

            Chúng tôi tiếp tục:

            — Chúng con biết bà không thích Ông Ngoại. Thế thì tại sao bà lại chăm sóc cho ngôi mộ của ông?"

            — Chính vì lý do đó đấy! Vì những gì người ta nói. Tao làm vậy để bọn chúng khỏi nói đi nói lại nữa! Và làm sao bọn mày biết tao chăm sóc mộ ông ấy, hả? Bọn mày đã rình rập tao, đồ chó đẻ, bọn mày lại còn rình rập tao nữa! Quỷ bắt bọn mày đi cho rồi!

            #21
              meocon_thongminh93 17.09.2006 13:59:00 (permalink)
              CHƯƠNG 20

              Tập sống tàn ác



              Hôm đó Chủ Nhật. Chúng tôi bắt một con gà và cắt cổ nó như chúng tôi đã thấy Bà Ngoại làm. Chúng tôi đem con gà vào bếp và nói:

              — Bà phải nấu nó, Bà Ngoại.

              Bà bắt đầu gào lên:

              — Ai cho phép bọn mày? Bọn mày không có quyền! Tao là người ra lệnh ở đây, nòi nhãi ranh cứt đái! Tao không nấu nó! Thà tao chết!

              Chúng tôi nói:

              — Được thôi. Chúng con tự nấu.

              Chúng tôi bắt đầu vặt lông con gà, nhưng Bà Ngoại giằng nó ra khỏi tay chúng tôi:

              — Bọn mày không biết làm! Đồ súc sinh bẩn thỉu, khổ nạn của đời tao, hình phạt của Chúa Trời, chính là bọn mày!

              Lúc đang nấu con gà, Bà Ngoại khóc:

              — Nó là con gà đẹp nhất của tôi. Bọn nó cố tình bắt con gà đẹp nhất. Con gà vừa kịp lớn để đem ra phiên chợ ngày thứ Ba tuần tới.

              Lúc chúng tôi ăn con gà, chúng tôi nói:

              — Thật ngon, con gà này. Chúng con sẽ ăn thịt gà vào mỗi Chủ Nhật.

              — Mỗi Chủ Nhật? Bọn mày điên rồi hả? Bọn mày muốn tàn hại tao hả?

              — Chúng con sẽ ăn một con gà vào mỗi Chủ Nhật, bất kể bà có thích hay không.

              Bà Ngoại lại bắt đầu khóc:

              — Nhưng tôi đã có làm gì xấu cho bọn nó đâu? Sao mà khốn nạn thế này! Bọn nó muốn tôi chết. Một bà già nghèo khổ vô phương tự vệ. Tôi đâu có làm gì đáng tội. Tôi đã quá tốt với bọn nó cơ mà!

              — Đúng, Bà Ngoại, bà tốt, rất tốt. Bởi vì bà tốt nên bà sẽ nấu cho chúng con một con gà vào mỗi Chủ Nhật.

              Đến khi bà hơi bình tĩnh ra một chút, chúng tôi lại nói với bà:

              — Khi nào cần giết một cái gì đó, bà phải kêu chúng con. Chúng con sẽ giết nó.

              Bà nói:

              — Bọn mày thích giết chóc, hả?

              — Không, Bà Ngoại, thật ra, chúng con không thích giết chóc. Bởi vì vậy, chúng con phải tập giết chóc cho quen.

              Bà nói:

              — Thì ra là vậy. Lại một bài tập mới. Bọn mày nói có lý. Cũng phải biết giết khi cần giết.

              Chúng tôi bắt đầu giết cá. Chúng tôi chộp lấy đuôi cá và đập đầu chúng vào một hòn đá. Chẳng mấy chốc, chúng tôi quen giết những loại cầm thú dùng để ăn thịt như: gà, thỏ, vịt. Thế rồi, chúng tôi giết những giống vật không cần phải giết. Chúng tôi bắt ếch nhái, đóng đinh chúng xuống một tấm gỗ, và rạch toang bụng chúng ra. Chúng tôi cũng bắt bướm và ghim chúng vào một tấm cạc-tông. Chẳng bao lâu, chúng tôi có một bộ sưu tập đẹp.

              Một hôm, chúng tôi treo cổ con mèo của chúng tôi, một con mèo đực đỏ hung, lên cành cây. Bị treo, nó dãn dài ra và phồng lên. Nó co giật, quằn quại. Khi nó không còn nhúc nhích nữa, chúng tôi cắt dây, thả xác nó xuống. Nó nằm dang bốn cẳng bẹp dí trên cỏ, bất động, rồi, thình lình, nó nhỏm dậy và phóng đi.

              Kể từ đó, chúng tôi thỉnh thoảng thấy nó thấp thoáng đằng xa, nhưng nó không còn đến gần nhà nữa. Nó thậm chí không đến uống sữa trong cái dĩa nhỏ chúng tôi để trước cửa.

              Bà Ngoại nói:

              — Con mèo đó càng ngày càng man dại.

              Chúng tôi nói:

              — Đừng lo, Bà Ngoại, chúng con sẽ trị lũ chuột.

              Chúng tôi làm những cái bẫy, và bắt được chuột, chúng tôi đem nhúng chúng vào nước sôi.

              (Còn nữa)

              #22
                meocon_thongminh93 24.09.2006 14:10:29 (permalink)
                CHƯƠNG 21
                Những đứa trẻ khác



                Chúng tôi gặp những đứa trẻ khác ở Phố Nhỏ. Vì trường học đóng cửa, chúng la cà suốt ngày ngoài đường. Có những đứa lớn xác và những đứa nhỏ con. Một số đứa có nhà và mẹ ở đây, những đứa khác thì đến từ những nơi khác, như chúng tôi. Hầu hết là từ Phố Lớn.

                Phần lớn những đứa trẻ này được gửi đến ở nhờ tại nhà của những người mà trước kia chúng chưa biết. Chúng phải làm việc trên những cánh đồng và trong những vườn nho; những người giám hộ của chúng không phải lúc nào cũng đối xử tử tế với chúng.

                Những đứa lớn xác thường tấn công những đứa nhỏ nhất. Chúng lấy hết những gì bọn nhỏ có trong túi, và đôi lúc chúng lột luôn cả quần áo của bọn nhỏ. Chúng còn đánh bọn nhỏ nữa, đặc biệt những đứa đến từ nơi khác. Những đứa nhỏ ở đây thì được mẹ chúng che chở và không bao giờ ra khỏi nhà.

                Chúng tôi chẳng được bất cứ ai che chở. Vì thế chúng tôi cũng học cách tự vệ trước những đứa lớn xác.

                Chúng tôi làm vũ khí: chúng tôi mài nhọn những cục đá, chúng tôi nhồi cát và sỏi vào những chiếc tất. Chúng tôi còn có một lưỡi dao cạo, tìm thấy trong cái hộc trên gác xép, gần cuốn Thánh Kinh. Chúng tôi chỉ cần rút cái dao cạo ra là những thằng to xác liền bỏ chạy.

                Một ngày nóng bức, chúng tôi ngồi bên bồn nước phun nơi những người không có giếng đến để lấy nước. Gần đó, vài thằng to xác hơn chúng tôi đang nằm trên bãi cỏ. Ở đây thì mát mẻ, dưới bóng cây, gần dòng nước chảy không ngừng.

                Sứt Môi đến với một cái xô và nó đặt cái xô dưới một cái vòi đang rỉ ra một tia nước nhỏ. Nó đợi cho cái xô đầy nước.

                Khi cái xô vừa đầy, một thằng trong bọn to xác đứng dậy và đến phun một bãi nước miếng vào trong cái xô. Sứt Môi đổ cả xô ấy đi, tráng nước và đặt nó trở lại dưới cái vòi.

                Cái xô vừa đầy lại, thì một thằng khác nhỏm dậy và phun nước miếng vào đó. Sứt Môi lại đặt cái xô đã tráng nước vào dưới cái vòi. Nó không đợi cho đầy xô, nước chỉ mới vào có nửa xô thì nó đã vội vàng tìm cách chạy thoát.

                Một thằng chạy theo nó, nắm lấy cánh tay nó và phun nước miếng vào cái xô.

                Sứt Môi nói:

                — Đừng làm thế chứ! Tôi phải mang nước sạch về nhà để uống.

                Thằng đó nói:

                — Nhưng nước này sạch mà. Tao chỉ phun nước miếng vào đó thôi. Mày muốn nói nước miếng tao dơ bẩn, hả? Nước miếng của tao còn sạch hơn tất cả các thứ trong nhà mày!

                Sứt Môi đổ xô nước đi, nó khóc.

                Thằng đó mở nút quần ra và nói:

                — Bú đi! Nếu mày bú cặc tao, tao sẽ để cho mày hứng đầy xô nước.

                Sứt Môi quỳ xuống. Thằng đó bước lùi lại:

                — Mày nghĩ tao sẽ đút con cặc tao vào trong cái miệng ghê tởm của mày, hả? Con đĩ!

                Nó đạp vào ngực Sứt Môi và cài nút quần lại.

                Chúng tôi bước đến. Chúng tôi đỡ Sứt Môi đứng dậy, chúng tôi nhặt cái xô của nó, chúng tôi tráng nước cho sạch và chúng tôi đặt cái xô xuống dưới vòi nước của cái bể phun.

                Một thằng trong bọn chúng nói với hai thằng kia:

                — Đi đi, bọn mình đi chơi chỗ khác.

                Một thằng khác nói:

                — Mày khùng hả? Bây giờ mình mới bắt đầu có chuyện vui đây này.

                Thằng thứ nhất nói:

                — Dẹp đi! Tao biết bọn nó. Bọn nó nguy hiểm lắm.

                — Nguy hiểm? Mấy cái thằng lồn đó hả? Để tao, tao săn sóc cho bọn nó. Rồi mày sẽ thấy.

                Nó bước đến chúng tôi, muốn phun nước miếng vào cái xô, nhưng chúng tôi đứa thì hất cho nó trượt chân, đứa thì nện một cái bị cát lên đầu nó. Thằng to xác ngã xuống. Nó nằm trên mặt đất, sửng sốt. Hai thằng kia nhìn chúng tôi. Một thằng bước một bước đến phía chúng tôi. Thằng kia nói:

                — Coi chừng! Mấy thằng lỏi chó đẻ này có thể làm bất cứ điều gì. Có một lần, bọn nó rạch sứt trán tao bằng một cục đá. Bọn nó còn có cả dao cạo và bọn nó không ngại dùng. Bọn nó sẽ cắt cổ mày không gớm tay. Bọn nó hoàn toàn điên rồi.

                Đám to xác bỏ đi.

                Chúng tôi đưa cái xô đầy nước cho Sứt Môi. Nó hỏi chúng tôi:

                — Tại sao tụi mày không giúp tao ngay?

                — Chúng tôi muốn xem chị tự vệ thế nào.

                — Tao sẽ làm được gì để chống lại ba thằng to tướng đó?

                — Ném cái xô vào đầu, cào mặt, đá vào hai hòn dái, la lên, gào lên. Hoặc chạy thoát rồi sau đó mới trở lại.

                #23
                  meocon_thongminh93 24.09.2006 14:17:47 (permalink)
                  CHƯƠNG 22


                  Mùa đông



                  Trời càng ngày càng lạnh hơn. Chúng tôi lục xới trong hai cái va-li và mặc vào người gần như tất cả gì chúng tôi tìm thấy: vài cái áo cổ chui, vài cái quần dài. Nhưng chúng tôi không thể mang thêm đôi giày thứ nhì bên ngoài đôi giày đi phố đã cũ và thủng lỗ. Nói đúng ra, chúng tôi chẳng có đôi giày nào khác nữa. Chúng tôi không có găng tay, cũng không có mũ. Bàn tay và bàn chân của chúng tôi đầy những chỗ sưng lên nhức nhối vì lạnh.

                  Bầu trời xám xịt, những đường phố trống vắng, dòng sông đóng giá, khu rừng ngập tuyết. Chúng tôi không còn đến đó được nữa. Vì vậy chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ thiếu củi.

                  Chúng tôi nói với Bà Ngoại:

                  — Chúng con cần hai đôi ủng bằng cao-su.

                  Bà đáp:

                  — Và còn gì nữa? Chứ bọn mày muốn tao đào tiền ở đâu ra?

                  — Bà Ngoại, gần hết cả củi rồi.

                  — Thì phải tiết kiệm.

                  Chúng tôi không đi ra ngoài nữa. Chúng tôi làm đủ thứ bài tập, chúng tôi đẽo gỗ thành nhiều đồ vật, chẳng hạn những cái muỗng, những cái khay bánh mì, và chúng tôi học cho đến khuya. Suốt ngày Bà Ngoại nằm nghỉ trong giường. Bà rất ít khi vào bếp. Chúng tôi được yên ổn.

                  Chúng tôi ăn rất thiếu thốn, chẳng còn rau trái gì nữa, lũ gà mái cũng không còn đẻ trứng. Mỗi ngày Bà Ngoại mang ra một ít đậu khô và vài củ khoai từ dưới hầm nhà, nơi bà trữ đầy những tảng thịt xông khói và những lọ mứt.

                  Thỉnh thoảng có ông bưu tá đến. Ông reo chuông xe đạp cho đến khi Bà Ngoại bước ra khỏi nhà. Rồi ông liếm đầu bút chì, viết gì đó lên một mảnh giấy, đưa cây bút chì và mảnh giấy cho Bà Ngoại, và bà vẽ một dấu thập ở cuối mảnh giấy. Ông bưu tá đưa cho Bà Ngoại một món tiền, một gói đồ hay một lá thư, và ông vừa đạp xe về phố vừa huýt sáo.

                  Bà Ngoại mang gói đồ hay món tiền vào phòng và khoá cửa lại. Nếu có một lá thư, bà ném nó vào lửa.

                  Chúng tôi hỏi:

                  — Bà Ngoại, tại sao bà ném lá thư mà không đọc nó?

                  Bà đáp:

                  — Tao không biết đọc. Tao không bao giờ đến trường, tao chỉ biết làm lụng. Tao không hư hỏng như bọn mày.

                  — Chúng con có thể đọc cho bà nghe những lá thư bà nhận được.

                  — Không ai được đọc những lá thư tao nhận.

                  Chúng tôi hỏi:

                  — Chứ ai gửi tiền? Ai gửi những gói đồ? Ai gửi thư vậy?

                  Bà không trả lời.

                  Hôm sau, trong lúc bà ở dưới hầm nhà, chúng tôi lục lọi phòng bà. Dưới giường bà, chúng tôi tìm thấy một gói đồ đã mở ra. Có những cái áo cổ chui, những khăn choàng cổ, những cái mũ, những đôi găng tay. Chúng tôi không nói gì với Bà Ngoại, vì nếu chúng tôi nói thì bà sẽ biết rằng chúng tôi có một cái chìa khoá mở cửa phòng bà.

                  Sau bữa ăn tối, chúng tôi chờ dịp. Bà Ngoại uống rượu xong, bước loạng choạng, đến mở cửa phòng bằng cái chìa khoá treo lủng lẳng nơi thắt lưng. Chúng tôi bươn theo bà, đẩy bà từ phía sau. Bà ngã lên giường. Chúng tôi giả vờ sục sạo và tìm thấy gói đồ.

                  Chúng tôi nói:

                  — Như vầy là không được tử tế cho lắm, Bà Ngoại. Chúng con lạnh, chúng con thiếu quần áo ấm, chúng con không đi ra ngoài được nữa, nhưng bà lại muốn bán hết tất cả những thứ mà Mẹ chúng con đã đan và gửi cho chúng con.

                  Bà Ngoại không trả lời, bà khóc.

                  Chúng tôi lại nói:

                  — Chính Mẹ chúng con gửi tiền, Mẹ chúng con viết thư cho bà.

                  Bà Ngoại nói:

                  — Không phải nó viết thư cho tao. Nó biết rõ là tao không biết đọc. Từ trước tới nay nó chưa bao giờ viết thư cho tao. Nay có bọn mày ở đây, thì nó mới viết. Nhưng tao không cần những lá thư của nó! Tao không cần bất cứ thứ gì của nó!

                  #24
                    huytran 27.09.2006 11:27:58 (permalink)
                    Chằc meocon không thấy câu Ct. Ly hỏi, tôi trả lời thay vậy nhé
                    Ct. Ly thân,

                    Truyện này là của Agota Kristof, Hoàng Ngọc Tuấn đang dịch. Có muốn đăng lên thư quán, các bạn có thể liên lạc, chắc Tuấn sẽ vui lòng đồng ý.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.09.2006 14:22:31 bởi huytran >
                    #25
                      meocon_thongminh93 30.09.2006 19:40:35 (permalink)
                      CHƯƠNG 23

                      Ông bưu tá



                      Từ đó, chúng tôi đợi ông bưu tá trước cổng vườn. Đó là một ông già đội một cái mũ lưỡi trai. Ông có một chiếc xe đạp với hai cái túi da gắn vào yên sau.

                      Khi ông đến, chúng tôi không để ông kịp rung chuông: rất lẹ làng, chúng tôi tháo cái chuông xe đạp của ông.

                      Ông nói:

                      — Bà ngoại của bọn mày đâu?

                      Chúng tôi nói:

                      — Đừng lo về bà ấy. Hãy đưa cho chúng tôi những gì ông mang đến đây.

                      Ông nói:

                      — Không có gì cả.

                      Ông muốn quay đi, nhưng chúng tôi cho ông một cú huých. Ông ngã lên tuyết. Chiếc xe đạp của ông đè lên ông. Ông chửi thề.

                      Chúng tôi lục lọi hai cái túi da, chúng tôi tìm thấy một lá thư và một phiếu lãnh tiền. Chúng tôi lấy lá thư, chúng tôi nói:

                      — Đưa tiền đây!

                      Ông nói:

                      — Không. Nó mang địa chỉ của bà ngoại bọn mày.

                      Chúng tôi nói:

                      — Nhưng nó được gửi cho chúng tôi. Đó là Mẹ của chúng tôi gửi cho chúng tôi. Nếu ông không đưa cho chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt ông nằm đó cho đến khi chết cóng.

                      Ông nói:

                      — Được rồi, được rồi. Đỡ tao đứng dậy, một cái chân của tao bị đè dập dưới xe đạp.

                      Chúng tôi nhấc chiếc xe đạp lên và chúng tôi đỡ ông đứng dậy. Ông rất gầy, rất nhẹ.

                      Ông lấy món tiền ra từ một trong những cái túi của ông và đưa cho chúng tôi.

                      Chúng tôi hỏi:

                      — Ông cần một chữ ký hay một dấu thập?

                      Ông nói:

                      — Dấu thập cũng được. Dấu thập nào cũng tốt như nhau.

                      Ông nói thêm:

                      — Bọn mày đứng lên đòi quyền lợi như vậy là đúng. Mọi người đều biết bà ngoại của bọn mày là thế nào. Không có ai bần tiện hơn bà ấy. Thì ra mẹ của bọn mày gửi tất cả những thứ đó? Chị ấy dễ thương lắm. Tao biết chị ấy từ hồi chị ấy còn là một bé gái. Chị ấy đi khỏi chỗ này là khôn đấy. Cô ấy sẽ chẳng bao giờ lấy chồng ở đây được cả. Với đủ chuyện xầm xì...

                      Chúng tôi hỏi:

                      — Xầm xì cái gì?

                      — Chẳng hạn chuyện bà ấy đã bỏ thuốc độc để giết chồng như thế nào. Tao muốn nói, bà ngoại bọn mày đã đánh thuốc độc ông ngoại bọn mày. Đó là một câu chuyện cũ rích. Đó là lý do tại sao họ gọi bà ấy là Mụ Phù Thuỷ.

                      Chúng tôi nói:

                      — Chúng tôi không muốn bất cứ ai nói xấu về Bà Ngoại.

                      Ông bưu tá xoay chiếc xe đạp:

                      — Thôi được, được rồi, nhưng bọn mày cũng nên biết chuyện này chuyện nọ.

                      Chúng tôi nói:

                      — Chúng tôi đã biết chuyện này chuyện nọ rồi. Từ rày trở đi, ông sẽ đưa thư từ cho chúng tôi. Nếu không thì chúng tôi sẽ giết ông. Hiểu chứ?

                      Ông bưu tá nói:

                      — Bọn mày dư sức làm chuyện đó, bọn mày có mầm mống của bọn giết người. Bọn mày sẽ nhận thư từ, ai nhận thì cũng vậy thôi, đối với tao. Tao cũng chẳng cần bận tâm tới con Mụ Phù Thuỷ.

                      Ông đẩy xe đạp ra đi. Ông kéo lê cái chân để chứng tỏ rằng chúng tôi đã làm ông đau chân.

                      Hôm sau, với áo quần ấm áp, chúng tôi đi xuống phố để mua hai đôi ủng cao-su bằng món tiền Mẹ đã gửi cho. Lá thư của Mẹ, chúng tôi thay phiên nhau mang trong áo.

                      [còn tiếp nhiều kỳ]


                      #26
                        meocon_thongminh93 27.10.2006 19:05:45 (permalink)
                        CHƯƠNG 24


                        Ông thợ đóng giày



                        Ông thợ đóng giày sống và làm việc trong căn hầm của một ngôi nhà gần trạm xe lửa. Căn hầm đó rất rộng. Ở một góc là cái giường của ông, ở góc kia là bếp. Nơi làm việc của ông hướng về phía cửa sổ dưới tầng hầm. Ông thợ đóng giày ngồi trên một chiếc ghế đẩu thấp, chung quanh ông đầy những đôi giày và đồ nghề. Ông nhìn chúng tôi qua khoảng trống phía trên cặp kính mắt, ông nhìn những chiếc giày da bóng đã quá nứt nẻ của chúng tôi.

                        Chúng tôi nói:

                        — Chào ông. Chúng tôi muốn mua hai đôi ủng cao su, không thấm nước, ấm chân. Ông có bán không? Chúng tôi có tiền.

                        Ông nói:

                        — Có, tao có bán. Nhưng loại da kép, ấm chân, thì rất mắc tiền.

                        Chúng tôi nói:

                        — Chúng tôi tuyệt đối cần chúng. Chân chúng tôi bị lạnh.

                        Chúng tôi đặt tất cả món tiền chúng tôi có lên chiếc bàn thấp.

                        Ông thợ đóng giày nói:

                        — Chừng ấy chỉ vừa đủ cho một đôi. Nhưng một đôi cũng đủ cho bọn mày. Bọn mày cùng một cỡ như nhau. Bọn mày có thể thay phiên nhau mà mang.

                        — Không thể được. Chúng tôi không bao giờ ra khỏi nhà một mình. Bất cứ đi đâu chúng tôi cũng đi với nhau.

                        — Thì hãy xin tiền của bố mẹ bọn mày.

                        — Chúng tôi không có bố mẹ. Chúng tôi sống với Bà Ngoại, người mà người ta gọi là Mụ Phù Thuỷ. Bà không cho chúng tôi tiền bạc gì cả.

                        Ông thợ đóng giày nói:

                        — Mụ Phù Thuỷ, bà ngoại của bọn mày đấy à? Tội nghiệp! Và bọn mày đi từ nhà đến tận chỗ này bằng những đôi giày rách nát ấy sao!

                        — Vâng, chúng tôi đã đi như thế. Chúng tôi không thể sống qua mùa đông thiếu những đôi ủng. Chúng tôi phải kiếm củi trong rừng; chúng tôi phải dọn tuyết. Chúng tôi tuyệt đối cần...

                        — Hai đôi ủng da ấm và không thấm nước.

                        Ông thợ đóng giày cười và đưa cho chúng tôi hai đôi ủng:

                        — Mang vào thử xem.

                        Chúng tôi mang vào thử; cả hai đôi đều thật vừa chân.

                        Chúng tôi nói:

                        — Chúng tôi sẽ giữ lấy cả hai đôi. Chúng tôi sẽ trả tiền đôi thứ nhì vào mùa xuân khi chúng tôi bán được cá và trứng. Hoặc nếu ông thích, chúng tôi sẽ mang củi đến cho ông.

                        Ông thợ đóng giày trả tiền lại cho chúng tôi:

                        — Hãy cầm lấy. Giữ lại cái này. Tao không cần tiền của bọn mày. Hãy đi mua mấy đôi vớ tốt. Tao cho bọn mày hai đôi ủng vì bọn mày tuyệt đối cần chúng.

                        Chúng tôi nói:

                        — Chúng tôi không thích nhận quà.

                        — Tại sao lại không?

                        — Tại vì chúng tôi không thích nói cảm ơn.

                        — Bọn mày không cần phải nói gì cả. Đi về đi. Không. Khoan đã! Hãy lấy thêm mấy đôi dép và xăng-đan cho mùa hè, với mấy đôi giày đi phố nữa. Bền lắm đấy. Hãy lấy bất cứ thứ gì bọn mày muốn.

                        — Nhưng tại sao ông cho chúng tôi tất cả những thứ này?

                        — Tao không cần chúng nữa. Tao sắp đi xa.

                        Chúng tôi hỏi:

                        — Ông đi đâu?

                        — Ai mà biết? Họ sẽ mang tao đi và sẽ giết tao.

                        Chúng tôi hỏi:

                        — Ai muốn giết ông, và tại sao?

                        Ông nói:

                        — Đừng hỏi nữa. Hãy đi về ngay đi.

                        Chúng tôi nhặt lấy những đôi giày, những đôi dép, những đôi xăng-đan. Chúng tôi mang hai đôi ủng vào chân. Chúng tôi dừng lại ở ngưỡng cửa, chúng tôi nói:

                        — Chúng tôi hy vọng họ không mang ông đi. Hoặc, nếu họ mang ông đi, họ sẽ không giết ông. Xin chào ông, và xin cảm ơn ông, cảm ơn ông rất nhiều.

                        Khi chúng tôi về đến nhà, Bà Ngoại hỏi:

                        — Bọn mày ăn trộm tất cả các thứ đó ở đâu vậy hả, lũ chết tiệt?

                        — Chúng con không ăn trộm thứ gì cả. Đó là một quà tặng. Không phải ai cũng keo kiết như bà, Bà Ngoại ạ.

                        #27
                          meocon_thongminh93 27.10.2006 19:08:58 (permalink)
                          CHƯƠNG 25


                          Ăn cắp



                          Với hai đôi ủng và áo quần ấm áp, chúng tôi lại có thể đi ra ngoài. Chúng tôi lướt trên mặt sông đóng băng, chúng tôi đi kiếm củi trong rừng.

                          Chúng tôi mang theo một cái rìu và một cái cưa. Chúng tôi không còn lượm được củi khô nằm rải rác trên mặt đất nữa; lớp tuyết đóng quá dày. Chúng tôi trèo lên những thân cây, chúng tôi cưa đứt những cành chết và chúng tôi dùng rìu chẻ nhỏ ra. Trong khi làm việc, chúng tôi không thấy lạnh. Thậm chí, chúng tôi còn toát mồ hôi ra. Vì thế chúng tôi có thể tháo găng tay ra và nhét chúng vào túi để chúng khỏi bị mòn rách quá nhanh.

                          Một hôm, trong lúc đang vác hai bó củi về nhà, chúng tôi ghé sang thăm Sứt Môi.

                          Tuyết trước túp lều chưa tan, và không có vết chân đi vào. Ống khói không có khói.

                          Chúng tôi gõ cửa, không ai trả lời. Chúng tôi bước vào. Thoạt tiên, chúng không thấy gì cả, vì thiếu ánh sáng, nhưng mắt chúng tôi chẳng mấy chốc quen với bóng tối.

                          Đó là một căn phòng chỗ làm chỗ nấu ăn và chỗ ngủ. Trong góc tối nhất, có một cái giưòng. Chúng tôi bước đến gần. Chúng tôi gọi. Có một người nào đó nhúc nhích dưới những tấm chăn và mớ quần áo cũ; cái đầu của Sứt Môi thò ra.

                          Chúng tôi hỏi:

                          — Mẹ của chị có ở đó không?

                          Nó nói:

                          — Có.

                          — Bà ấy chết rồi sao?

                          — Tao không biết.

                          Chúng tôi đặt củi xuống và thắp lên một ngọn lửa trong lò, vì trong phòng cũng lạnh buốt như ở ngoài trời. Rồi chúng tôi đi về nhà Bà Ngoại và chúng tôi lấy một ít khoai và đậu khô từ dưới hầm nhà. Chúng tôi vắt sữa một con dê và mang trở lại nhà người hàng xóm. Chúng tôi hâm nóng sữa, chúng tôi hơ chảy một ít tuyết trong cái chảo và chúng tôi luộc đậu trong đó. Chúng tôi nướng khoai trong lò.

                          Sứt Môi nhỏm dậy và lảo đảo bước đến một cái ghế cạnh lò sưởi.

                          Người hàng xóm của chúng tôi chưa chết. Chúng tôi rót một chút sữa dê vào miệng bà ấy. Chúng tôi nói với Sứt Môi:

                          — Khi các món này đã chín, hãy ăn và đút cho mẹ của chị một ít. Chúng tôi sẽ trở lại.

                          Với món tiền ông thợ đóng giày trả lại cho chúng tôi, chúng tôi đã mua vài đôi vớ, nhưng chúng tôi chưa xài hết. Chúng tôi đi vào một tiệm tạp hoá để mua một ít bột và lấy muối và đường mà không trả tiền. Chúng tôi cũng đến cửa hàng bán thịt; chúng tôi mua một tảng thịt sườn nhỏ và lấy một thỏi xúc-xích to mà không trả tiền. Chúng tôi trở về nhà của Sứt Môi. Nó và mẹ của nó đã ăn hết khoai và đậu. Bà mẹ đang nằm trong giường, Sứt Môi đang dọn rửa.

                          Chúng tôi nói với nó:

                          — Chúng tôi sẽ mang cho chị mỗi ngày một bó củi. Một ít đậu và khoai nữa. Nhưng, để có các thứ khác, thì phải có tiền. Chúng tôi đã hết tiền. Không có tiền, thì không thể vào một cửa hàng nào cả. Phải mua một thứ gì đó để có thể ăn cắp những thứ khác.

                          Nó nói:

                          — Bọn mày thật là khôn. Bọn mày nói đúng. Họ ngay cả cũng không cho tao bước vào các cửa tiệm. Tao chưa bao giờ nghĩ bọn mày có thể đi ăn cắp.

                          Chúng tôi nói:

                          — Sao không? Đó sẽ là bài tập gian xảo của chúng tôi. Nhưng chúng ta cần chút ít tiền. Tuyệt đối như vậy.

                          Nó ngẫm nghĩ và nói:

                          — Bọn mày hãy đi đòi ông cha xứ. Ông ấy thỉnh thoảng cho tao tiền khi tao cho ông ấy xem lỗ hẻ của tao.

                          — Ông ấy đòi chị làm chuyện ấy à?

                          — Ừ. Và thỉnh thoảng, ông ấy đút ngón tay ông ấy vào chỗ đó. Rồi ông ấy cho tao tiền để tao khỏi kể cho bất cứ ai khác. Bọn mày hãy nói với ông ấy là con Sứt Môi và mẹ của nó cần tiền.

                          #28
                            meocon_thongminh93 27.10.2006 19:11:15 (permalink)
                            CHƯƠNG 26


                            Tống tiền



                            Chúng tôi đến nhà ông cha xứ. Ông ở cạnh giáo đường, trong một ngôi nhà to lớn mà người ta gọi là nhà cha xứ.

                            Chúng tôi kéo dây chuông. Một bà già mở cửa:

                            — Các cậu muốn gì?

                            — Chúng tôi muốn gặp cha xứ.

                            — Tại sao?

                            — Vì có người sắp chết.

                            Bà già đưa chúng tôi vào tiền sảnh. Bà gõ lên một cánh cửa:

                            — Ông cha xứ ơi — bà kêu lên — có người cần lễ xức dầu cuối cùng.

                            Một giọng người đáp lại từ phía sau cánh cửa:

                            — Tôi ra đây. Bảo họ đợi.

                            Chúng tôi đợi vài phút. Một người đàn ông cao và gầy, với một bộ mặt nghiêm trọng, bước ra khỏi phòng. Bên ngoài bộ y phục sẫm màu, ông khoác một thứ áo choàng màu trắng đính kim tuyến. Ông hỏi chúng tôi:

                            — Ở đâu? Ai sai các con đến đây?

                            — Sứt Môi và mẹ của chị ấy.

                            Ông nói:

                            — Cha hỏi các con tên thật của họ là gì.

                            — Chúng con không biết tên thật của họ. Người mẹ thì mù và điếc. Bà ấy sống trong cái nhà ở cuối phố. Họ đang chết vì đói và lạnh.

                            Ông cha xứ nói:

                            — Mặc dù cha tuyệt đối không biết gì về những người này, cha vẫn sẵn sàng làm lễ xức dầu cuối cùng cho họ. Ta hãy cùng đi. Các con dẫn đường cho cha.

                            Chúng tôi nói:

                            — Họ chưa cần phép rửa tội. Họ cần một ít tiền. Chúng con đã mang củi cho họ, với vài củ khoai, một ít đậu khô, nhưng chúng con không thể làm gì hơn nữa. Sứt Môi đã bảo chúng con đến đây. Cha vẫn thỉnh thoảng cho chị ấy một ít tiền.

                            Ông cha xứ nói:

                            — Có lẽ thế. Cha bố thí tiền cho rất nhiều người nghèo. Cha không thể nhớ hết tất cả họ. Đây này!

                            Ông lục lọi trong hai cái túi quần phía dưới tấm áo choàng và đưa cho chúng tôi vài đồng xu. Chúng tôi cầm lấy và nói:

                            — Thế này thì còn ít. Quá ít. Ngay cả chưa đủ để mua một ổ bánh mì.

                            Ông nói:

                            — Rất tiếc. Có quá nhiều người nghèo. Và những con chiên ngoan đạo thì hầu như đã ngưng cống hiến. Mọi người đều gặp khó khăn vào lúc này. Các con hãy đi đi. Cầu Chúa ban phước lành cho các con!

                            Chúng tôi nói:

                            — Hôm nay chúng con tạm chấp thuận món tiền này, nhưng ngày mai chúng con sẽ phải trở lại.

                            — Sao? Muốn nói cái gì? Ngày mai? Cha sẽ không để cho các con bước vào đây. Hãy ra khỏi nơi đây lập tức.

                            — Ngày mai, chúng con sẽ rung chuông cho đến khi nào cha để cho chúng con bước vào. Chúng con sẽ gõ vào cửa sổ, chúng con sẽ đạp vào cửa lớn và sẽ kể cho mọi người nghe cha đã làm những gì với Sứt Môi.

                            — Cha chưa bao giờ làm cái gì với con Sứt Môi cả. Thậm chí cha không biết nó là ai. Nó đã kể cho các con những chuyện nó bịa đặt. Những câu chuyện của một đứa nhỏ bị bệnh tâm thần thì không đáng quan tâm. Sẽ chẳng có ai tin lời các con. Tất cả những điều con bé đó nói đều là láo!

                            Chúng tôi nói:

                            — Thật hay láo thì cũng chẳng thành vấn đề. Điểm chính là nó gây ra tai tiếng. Mà người ta lại yêu thích những chuyện tai tiếng.

                            Ông cha xứ ngồi phệch xuống ghế và lau mặt bằng một chiếc khăn mùi-soa.

                            — Hết sức quái đản. Chúng con có biết cái việc mà chúng con đang làm thì có nghĩa là gì không hả?

                            — Biết, thưa cha. Tống tiền.

                            — Ở tuổi của các con... Thật là ghê tởm.

                            — Vâng, thật ghê tởm rằng chúng con buộc lòng phải làm việc này. Nhưng Sứt Môi và mẹ của chị ấy tuyệt đối cần tiền.

                            Ông cha xứ đứng dậy, cởi áo choàng ra, và nói:

                            — Đây là một sự thử thách do Chúa ban xuống cho ta. Các con cần bao nhiêu tiền? Cha cũng chẳng giàu có gì.

                            — Mười lần nhiều hơn số tiền cha đã đưa cho chúng con. Mỗi tuần một lần. Chúng con không đòi hỏi nơi cha điều gì không thực hiện được.

                            Ông lấy tiền trong túi ra và đưa cho chúng tôi:

                            — Hãy đến đây vào mỗi thứ Bảy. Nhưng đừng bao giờ tưởng tượng rằng cha làm điều này vì cha chịu thua cái trò tống tiền của các con. Cha làm điều này vì lòng từ thiện.

                            Chúng tôi nói:

                            — Thật đúng như những gì chúng con mong đợi nơi cha, thưa cha xứ.

                            #29
                              meocon_thongminh93 29.10.2006 10:58:30 (permalink)
                              CHƯƠNG 27

                              Những lời buộc tội



                              Một buổi chiều, ông tuỳ phái bước vào nhà bếp. Đã lâu chúng tôi không gặp ông. Ông nói:

                              — Các anh đến giúp chuyển đồ đạc khỏi xe jeep?*

                              Chúng tôi mang ủng, chúng tôi đi theo ông đến chiếc xe jeep đậu trên con đường trước cổng vườn. Ông tuỳ phái đưa cho chúng tôi những cái thùng và những hộp các-tông để chúng tôi mang vào phòng của ông sĩ quan.

                              Chúng tôi hỏi:

                              — Đêm nay ông sĩ quan có đến đây không? Chúng tôi chưa thấy ông ấy.

                              Ông tuỳ phái nói:

                              — Sĩ quan không đến đây mùa đông này. Có lẽ không bao giờ đến. Ông ấy gặp chuyện buồn trong tình yêu. Có lẽ sẽ tìm được một cô gái khác sau này. Quên đi. Không phải cho các anh những chuyện như vậy. Các anh mang củi vào để sưởi căn phòng này.*

                              Chúng tôi mang củi vào, chúng tôi đốt lên một ngọn lửa trong cái lò sắt nhỏ. Ông tuỳ phái mở những cái thùng và những hộp các-tông và đặt lên bàn những chai rượu nho, rượu mùi, bia, và nhiều thứ để ăn: xúc-xích, những lon thịt và rau đậu, gạo, bánh bít-quy, sô-cô-la, đường, cà-phê.

                              Ông tuỳ phái khui một chai rượu, bắt đầu uống, và nói:

                              — Tôi, hâm thức ăn đóng hộp trong cái cà-mèn trên cái đồ đun bằng cồn. Đêm nay, ăn, uống, hát với các bạn. Mở tiệc mừng đánh thắng kẻ thù. Chúng tôi chẳng bao lâu nữa sẽ làm chủ cuộc chiến này bằng vũ khí mới mẻ thần kỳ.*

                              Chúng tôi hỏi:

                              — Thế thì chiến tranh gần kết thúc rồi hả?

                              Ông nói:

                              — Đúng. Rất nhanh. Tại sao các anh nhìn thức ăn trên bàn như thế? Nếu các anh đói, ăn sô-cô-la, bánh bít-quy, xúc-xích.*

                              Chúng tôi nói:

                              — Có nhiều người đang chết đói.

                              — Thì đã sao? Đừng nghĩ đến chuyện đó. Nhiều người chết vì đói hay vì những điều khác. Chúng tôi không suy nghĩ. Chúng tôi ăn, và không chết.*

                              Ông cười. Chúng tôi nói:

                              — Chúng tôi biết một người đàn bà mù và điếc sống với đứa con gái bên cạnh nhà này. Họ sẽ không sống qua mùa đông này.

                              — Không phải lỗi của tôi.*

                              — Phải, đó là lỗi của ông. Vì ông và vì đất nước ông. Các ông mang chiến tranh đến cho chúng tôi.

                              — Trước chiến tranh, họ làm gì để kiếm ăn, bà mù và đứa con gái ấy?*

                              — Trước chiến tranh, họ sống nhờ của bố thí. Người ta cho họ quần áo cũ, giày cũ. Người ta mang thức ăn đến cho họ. Bây giờ, không ai còn cho cái gì nữa. Người ta ai cũng nghèo khó hay họ lo sợ sẽ trở nên nghèo khó. Chiến tranh đã làm người ta bần tiện và ích kỷ.

                              Ông tuỳ phái la lên:

                              — Tôi, tôi mặc kệ tất cả những chuyện đó! Đủ rồi! Các anh im đi!*

                              — Đúng, ông bất cần, và ông ăn thực phẩm của chúng tôi.

                              — Không phải thực phẩm của các anh. Tôi lấy nó từ trong kho của trại lính.*

                              — Mọi thứ trên cái bàn này đều là của đất nước chúng tôi: những thức uống, đồ ăn đóng hộp, bánh bít-quy, đường. Chính đất nước chúng tôi nuôi quân đội của ông.

                              Ông tuỳ phái đỏ mặt lên. Ông ngồi lên giường, hai tay ôm đầu:

                              — Các anh tưởng tôi muốn chiến tranh và đến với đất nước bẩn thỉu của các anh? Tôi ở đất nước tôi còn tốt hơn nhiều, yên lặng, làm những cái ghế và những cái bàn. Uống rượu nho địa phương, chơi đùa với những cô gái xinh đẹp ở xứ chúng tôi. Ở đây, mọi người đều tàn nhẫn, cả các anh nữa, những đứa trẻ con. Các anh nói tất cả là lỗi của tôi. Tôi, có thể làm gì? Nếu tôi nói tôi không vào chiến tranh, không đến với đất nước các anh, tôi bị bắn. Các anh hãy lấy hết tất cả, lấy ngay đi, lấy hết mọi thứ trên bàn. Bữa tiệc chấm dứt, tôi buồn, các anh quá tàn nhẫn với tôi.*

                              Chúng tôi nói:

                              — Chúng tôi không muốn lấy tất cả các thứ, chỉ vài hộp thức ăn và một chút sô-cô-la. Nhưng thỉnh thoảng, ít nhất vào mùa đông, ông cũng có thể mang cho chúng tôi chút ít sữa bột, bột mì, hay bất cứ thứ gì để ăn.

                              Ông nói:

                              — Tốt. Điều đó, tôi làm được. Các anh với tôi ngày mai đến nhà bà mù. Nhưng các anh nhẹ nhàng với tôi, sau đó. Được chứ?*

                              Chúng tôi nói:

                              — Được.

                              Ông tuỳ phái cười. Các bạn của ông đến. Chúng tôi rời phòng. Chúng tôi nghe họ hát suốt đêm.

                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 55 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9