(url) Lý Đông A
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục
Ngọc Lý 24.01.2008 14:21:03 (permalink)
Huyết Hoa
X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


I - HUYẾT HOA



 
9- THÁNH HÙNG


          Có những tấm lòng thuần nhân ái to rộng và lớn lao, nồng nàn và chân thật, cũng không phải là lối từ thiện, cũng không thể đem mua bán ngoài chợ được, ví như khó mà tả cho ra, vì đó là biểu hiện của Phạn (Brahma) không bờ, không bến, cùng trước, cùng sau, Phạn từ bi và hỷ xả. Cho nên Gandhi là Mahatma, là Thánh Hùng, là kỳ nhân đời nay ví như Messie của Ấn Ðộ. Thánh Hùng là lịch sử một muôn năm của Ấn Ðộ trong dòng sông Hằng Hà kết tập tất cả tinh thần sống mà nặn nên. Phải hiểu Gandhi bằng hiểu dân tộc tính của Ấn Ðộ. Cho nên hơn 300 triệu người Thiên Trúc ngày nay thiếu Gandhi không được.


          Lịch sử phải nối tiếp nhau liên tục bằng những nút người thuế biến như thế. Nếu nói Gandhi là hiện thân của hết thảy những khuyết điểm và nhược điểm của xã hội Ấn (Nehru) thà nói đời sống và con đường trường với bước đi lịch sử xã hội Ấn phải lấy Gandhi làm cầu nối mà chuyển sang điển hình của Nehru. Sự tiến hóa loài người đích xác phải diễn bằng cái trật tự đó nó đầy đủ biểu hiện mỗi đặc tính dân tộc và đặc điểm phát triển như vậy.


          Thánh Hùng là người lý tưởng đất sạch thường trong sáng của tất cả đời sống nông nghiệp và phong kiến tỏa thoát lên như ánh trăng sực có hơi thu vậy. Mục tiêu, lý tưởng chính trị của Gandhi là do quan niệm Vệ Ðà đó góp thành, không thể để cho những nhà chính trị đời nay và khoa học khâm phục được. Nhưng Gandhi với lý tưởng chính trị lờ mờ như thế càng tỏ rõ cái địa vị lịch sử và sứ mệnh tinh thần của mình. Cương lĩnh chính trị nào mặc dầu hay, hay dở cho tương lai người Ấn là do Nehru cả.


          Nòi giống Phật không có sát sinh thực từ lòng tự nguyện mà ra. Gandhi dùng thủ đoạn hòa bình và tiêu cực, bất hợp tác (1925), bất bạo động (1939) thực từ ở đó mà ra. Tự xả và tuyệt thực là vũ khí chính trị của ông. "Tự cấp""tự tạo" là công cụ kinh tế của ông; quân địch thù là tính hiếu chiến ở trong lòng ông và nòi giống ông. Trong Gandhi, mục đích cho hết thủ đoạn, thủ đoạn ấy phải là mục đích nhân ái trùm hết chính trị, tinh thần trùm hết lịch sử và lý tưởng Brahma trùm hết tương lai.


          Ðịa vị của Ấn Ðộ và tiến triển của Quốc Dân Hội Nghị Ấn Ðộ chỉ là sự nghiệp của cái sức cảm hóa và khải dịch lớn lao bằng linh hồn của Gandhi mà thôi, tất cả qua đại đa số quần chúng vô luận phải biết đều thống nhất thành một khối dưới sự lãnh đạo tinh thần và thanh khiết ấy. Sự vu miệt Gandhi là độc tài chỉ là sự chứng minh cái quyền uy vô thượng của đạo đức. Gandhi chỉ có tự tỉnh, tự hối và tự trừng mà thôi. Gandhi không tranh giành vu miệt và lừa dối ai hết. Cái phong cách ấy đáng nói Gandhi là lãnh tụ của hết thảy lãnh tụ, như Thích Ca là thầy của hết thảy các thầy, như Christ là chúa của hết thảy các chúa đó vậy.


          Lịch sử cách mạng Ấn Ðộ là lịch sử riêng của Gandhi. Cuộc đấu tranh lớn lao kia cả hàng ngũ năm năm tề chỉnh nên, tự xả và hy sinh với quân thù địch đế quốc chủ nghĩa mạnh ác và bền dẻo nhất thế giới, biết bao nhiêu máu lệ đã đổ cho Swadeshi (độc lập vận động) và Thánh Hùng cho tới hiện nay đang trầm ngâm trong hy sinh một cách thần thánh.


          Chỉ có nan hành khổ hạnh mới có thể cứu sống được đời. Chỉ có trở về đời sống dân chúng mới có thể phục hưng được dân tộc. Chỉ có lòng nhân ái vô biên của Phật lý tưởng mới có thể an ủi và tế độ được hết chúng sinh. Thánh Hùng còn sang sảng nói: "chúng ta phải tự sức một mình đánh với toàn thế giới để cởi mở cho tự dân tộc chúng ta, còn để cởi mở cho cả dân chúng bị áp bức toàn thế giới, không những thế mà lại cởi mở cho cả dân chúng nòi giống da trắng, họ cũng bị khổ nạn không phải không là không".


          Brahma cùng với hết thảy Ma ác đấu tranh. Ấn Ðộ và thế giới là địa ngục vô cùng đau thảm. Brahma phải đấu tranh và đau khổ nhưng vẫn tin chắc rằng: "Thế giới một ngày kia sẽ biến thành cõi sống trang nghiêm, đó là bình đẳng ở trong bao gồm cả Ma ác cũng được yêu thương nữa".


          Ma với Phật là một. Gandhi là như thế và có tấm lòng nhân ái thực, nào ở đời phải lấy Gandhi làm thực cứ.


 



X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
 Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )


<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.01.2008 14:23:12 bởi Ngọc Lý >
#16
    Ngọc Lý 25.01.2008 13:14:26 (permalink)
    .
    Huyết Hoa
    X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A

    I - HUYẾT HOA
     

    10-SƯƠNG MAI


              Loài người là cõi Tinh và Ma thống trị, Phật tự trị. Phật với Tinh và Ma đấu tranh không dứt ở trong đau khổ không bờ bến, nhưng mà Phật, Tinh và Ma là thể thống nhất trên chế độ của loài người. NGƯỜI, người khi bị đè nén, đau khổ, tự tỉnh lại và trở về nguồn gốc sinh mệnh và lý tưởng cao cả trong giác ngộ lớn lao, đó là Phật.


              Người khi hút máu người, đè nén người, mê ly trong cõi điên cuồng của dục vọng không chán, đó là Tinh và Ma. Thế giới lúc nào cũng tối đêm vì loài người bao giờ để mà sống, còn cần phải, còn bị thống trị. Thống trị ví như màn đen, chăng lên bao phủ hết cả cho đen tối. Ở dưới cái màn đen đó chỉ có những mùi hôi tanh, xương máu, mồ hôi đẫm với lệ và tất cả những cái hư nát. Loài người cần ánh sáng và thanh thoảng đó. Sự đấu tranh giữa Tinh và Ma càng làm cho ảo não và đen tối. Chỉ có cuộc thánh chiến giữa Phật và Tinh, Ma khi thắng mới mang được đến ánh sáng và thanh thoảng cho loài người.


              Sinh mệnh của toàn thể loài người là chế độ người đi đôi với bối cảnh của chế độ Phật hay Tinh hoặc Ma. Loài người hiện nay đang trong cuộc hỗn loạn giữa Tinh, Ma và Phật đó. Ðêm tối đang giày vò và hôi tanh đang sặc sụa mà lý tưởng nghĩa là ánh sáng và thanh thoảng thì thật xa vời. Sao cho chóng đến ban mai. Sao cho chóng đến ánh sáng và thanh thoảng. Cầu khẩn đi! Nhưng cầu khẩn là hèn nhát. Tìm tòi đi. Nhưng tìm tòi là dò dẫm. Ðấu tranh đi. Chỉ có đấu tranh mới giải quyết được lý tưởng.
    Sự cải tạo làm lên trên thối nát, hôi tanh và mục đổ. Phật ở trong đó mà ra, rạch hết thối nát hôi tanh và mục đổ mà mọc lên đóa hoa Sen của lý tưởng đầy Chân, Thiện, Mỹ, chọc màn đen ra bằng đấu tranh, hy sinh và vun bồi mà đưa hương thơm, ánh sáng và gió thoảng lại. Chỉ có ở dưới đáy bùn mới ươm giấu sẵn những chủng tử của Phật đó. Tinh và Ma tất cánh là sức trên mặt tầng.


              Các nòi nước nhỏ yếu và giai cấp bị đè nén, toàn loài người đã đến lúc đoàn kết, sự tìm tòi tự muôn đời đến nay đã ví như hạt giống ươm trồng chồi nẩy, màn thống trị bùng nhùng để lộ ánh bình minh. Ánh sương mai đã róc rách suốt cõi tự trong đáy lòng người cho đến suốt cảnh vật, hết thảy đượm cái sinh khí mới mẻ đó, như tỉnh lại và phải bồng bột.

              Ánh sương mai đã thấm thía ánh bình minh lóng lánh, sóng tân sinh đương dào dạt khắp lòng người. Ðấy là trẫm triệu của Di Lặc. 


     


    X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
     Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
    xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
    ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.01.2008 13:17:56 bởi Ngọc Lý >
    #17
      Ngọc Lý 26.01.2008 15:21:19 (permalink)
      Huyết Hoa
      X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


       

      I - HUYẾT HOA


       


      11 - QUÁN TƯỞNG ( Contemplation )


                Từ không trước đến không sau, từ nhỏ tắp đến to ngời toàn vũ trụ cấu tạo bằng vật chất. Cái cực chất tinh diệu đó là tự kỷ nguyên nhân cho một cuộc vận động không dứt xoáy trôn ốc trong đường trường vận động đó bằng mỗi nền tảng của gặp gỡ và mỗi điều kiện của thế thái mà tom góp nên muôn vật. Loài người là do cái bối cảnh của vận động đó mà kết thành.


                Hãy nhắm mắt lại, trở lại tự mình, xem cái sinh mệnh của tự mình tất thấy cả cái kết hợp và vận động đó, xem tất cả cái sinh mệnh của loài người trước mặt và xem tất cả các sinh mệnh của lịch sử muôn năm đã có đến ngày nay. Một luồng sóng máu trào dồn dập và bát ngát vỡ tóe tung bao nhiêu máu, óc, mồ hôi và nước mắt. Cái luồng sóng trào đó gọi là dòng sống, có cơ thể, mỗi đời thoát xác mà chuyển đời đời. Bao nhiêu đau khổ, chỉ thấy đau khổ và chỉ còn rớt lại đau khổ trong cái vạch hướng thượng của đời sống đó. Loài người thể nghiệm thấy sinh mệnh của mình phải không dứt chắt ép để làm trọn thăng hoa đời đời hướng theo cái lý tưởng cứu cực không dứt đấu tranh và chịu đau khổ. Vì chỉ có đấu tranh và đau khổ mới là hiện thân của lý tưởng. Lý tưởng là thể số học của sinh mệnh trong tác dụng thăng hoa, tất cả những cố gắng tính, tâm, thân, mệnh, trong đường lối đó gọi là thực hiện.


                Loài người là vật của chân lý, của tinh thần. Dòng sống không dứt tiến hóa để mong đến cõi thành tựu là cõi nhất như. Cái cỗi tội (péché original) của loài người là ở nơi đó mà lòng nhân ái cũng từ đó mà có ra. Loài người trong mục đích chủ quan của mình, cái tiêu chuẩn là phải thắng khách quan mục đích của tự nhiên; hãy trông trong con mắt người mù không dứt ngẩng lên nơi chúa mà đi (Byron); cái hình ảnh của loài người trong tiến hóa cũng hệt như vậy. Mù nhưng mà phải sống, con mắt tối gầm nhưng trong là sống, và thể sống, người mù tự thấy mình cũng có một mục tiêu trong đời, người mù kém cỏi và tàn tật hơn hết nhưng mà bao giờ cũng hy vọng ánh sáng của nắng, người đó không thấy bằng mắt, nhưng mà trông thấy bằng lòng. "Hy vọng là mẹ hết tư tưởng" (Tolstoi).


                Ấy thế cho nên "tin thờ là mẹ đẻ của hết thảy công đức cho cõi đạo" (Hoa Nghiêm Kinh). Cái tin thờ là chất tố của hy vọng. Từ tin thờ mà sinh ra hết tội lỗi với đạo đức, sinh ra hết cái đáng yêu và đáng ghét.


                Người ta chỉ có thấy bộ mặt đáng ca, đáng khóc, đáng khâm, đáng sợ của hy vọng, tin thờ và lý tưởng trong đau khổ, thất vọng và thất bại. Vì đau khổ, thất vọng và thất bại là ba mặt biểu hiệu của chiến đấu đang tồn tại đang sống. Phải tương lai đắc thắng, dù sao cũng là bộ mặt xấu ác của tội lỗi. Cho nên hãy xem, hãy trông một thân con người phải quỳ gối, cúi đầu: đừng xem, đừng trông, đừng để ý đến quỳ gối cúi đầu, hãy trông vào con mắt của người lúc ấy, đó là hình tượng của bao nhiêu thê thảm của thê thảm, của bất đắc dĩ, của khổ tâm.


                Ừ, mặc dầu con người ấy là gian, là ngay, là tội, là oan. Gian, ngay, oan, tội, không xá kể gì, chỉ kể con mắt đau thương làm nẫu hết thế gian, chỉ kể con mắt đau thương ấy nó tả hết hình ảnh chân thực và lịch sử loài người đời đời.


                Cho nên không thể ca tụng được những cái xưa kia của đắc thắng nếu cái đắc thắng ấy không phải là cái đắc thắng của buồn rầu, đồng thời chỉ có thể ca tụng được những cái đắc thắng không tội lỗi, cái đắc thắng thuần túy trên loài người không chia thắng với bại, không chia phải trái với người ta nữa, cái đắc thắng vô ngã nó làm muôn nghìn nghìn hết thảy không sót một chúng sinh nào còn "mắt mù và mặt cúi" nữa. Có thế lịch sử mới đến đoạn chân thật của lý tưởng và loài người mới đến đời sống chân đại đồng: cái đắc thắng của yêu thương.

                Trời ơi ! Ta đã đi đến bờ cõi của tông giáo. Không yêu thương là tông giáo tranh đấu; văn nghệ, tông giáo, triết học và khoa học chỉ còn là một thứ văn nghệ nhiều mặt của yêu thương. Lịch sử chỉ còn là thứ văn nghệ của yêu thương tranh đấu có sự thực. Yêu thương là của nhân đạo. Nếu bảo rằng yêu thương là của thần thánh cho ta một sứ mệnh; nếu nói rằng yêu thương là luật hấp dẫn chung của vũ trụ, ta đều không thể tin được yêu thương là thể chỉ có thể coi được như một "bản ngã" của sinh mệnh loài người, cho đó là một công năng đặc thù tiến hóa hơn và lý tính hóa của loài người.


       


      X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
       Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
      xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
      ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.01.2008 15:23:00 bởi Ngọc Lý >
      #18
        Ngọc Lý 02.02.2008 13:12:50 (permalink)
        Huyết Hoa
        X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A

        I - HUYẾT HOA

         


        12 - MUSES


                  Nhà văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu thương là huyết tính của loài người. Nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu thương trong sinh mệnh lịch sử, hiện tại và tương lai trong loài người, trong sống thật, sống máu và sống đấu tranh của loài người. Nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng vô ngã.


                  Thế cho nên nhà văn nghệ phải là của dân chúng, phải trở về bình dân, phải là phần tử bình dân, còn phải là người tin thờ bình dân, đấy là toàn thể cái hiện thân của yêu thương, hy vọng, tin thờ lý tưởng đang tranh đấu phải "mắt mù", "mặt cúi". Nhà văn nghệ không làm "mõ chợ" được, văn nghệ không thể làm tiếng "chó sủa" được (Shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai cấp độc quyền (Tolstoi), cũng không thể làm "đồ chơi của bọn tục". "Nó là tiếng đau khổ thực ảm đạm và nghiêm nghị" (Chu Xuyên Bạch Thôn). Bỏ loài người ra, văn nghệ không có giá trị gì hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương vô ngã ra, văn nghệ không thể có một giá trị thích đáng. Nhà văn học phải là một "giáo sĩ tiên tri và dùi mài" (Fichte). "Phải thổi tiếng kèn đánh thức lên" (Shelley). "Phải làm sao cho loài người tự hiểu mình, tự tin mình và càng khát mơ chân lý" ( Gorky ). Thế cho nên "văn nghệ là lương tâm của loài người" (Herbert).


                  Cái lương tâm và việc đánh thức chỉ có thể bằng yêu thương đang đau khổ trong vật lộn. Muốn được thế, văn nghệ phải vô ngã mà không còn chấp trước nữa. Văn nghệ còn là hình thể của lý tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp và thực. Lành và thực không hỗ giải được cho có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu hiện được rõ ràng giá trị nhất.


                  Cho nên văn nghệ là hình tượng, cảm tưởng và tượng trưng. Ðẹp phải biểu hiện độc lập và thuần túy trên hình thể và mầu sắc, đẹp phải trình bày cái độc đặc của nội dung, "chỉ có thực chất sinh ra hình thức" (Goethe). Văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút ( Gorky ). Mỗi bức vẽ phải là một vở kịch một màn, cái diễn trình phải chú trọng trong sắc vận. Khó có thể tìm thấy trong những nhà văn hào lớn lao như Balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa (Gorky), vì văn nghệ chỉ là sinh mệnh phô bày ra (Herbert) và loài người trong đời sống cũng như không ỷ vào lý tưởng thì không thể nở hoa được (Thạch Xuyên San Tứ Lang), đó là sứ mệnh thực hiện chủ nghĩa, đó còn là cách mạng lãng mạn chủ nghĩa.


                  Văn nghệ là hoa của đạo lý, huyết hoa. Văn nghệ phải là sống.


                  Hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (Romain Rolland). Phải phá tan màn tối ra cho ánh sáng, hơi thoảng chiếu vào phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai và không khí sáng mà nở lên trái quả tươi màu.


                  Nếu loài người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có khoa học của vật chất luật tắc.


        Nếu loài người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ có tông giáo qua thần thức.


                 Văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức của tự loài người.


                  Văn nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ là dưỡng sinh nền tảng của mọi người. Cho nên Lễ Nhạc chính trị là phương thức chính trị của Nho duy sinh. Lễ Nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng và sống thật mới được.


                  Lễ Nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là giáo dục hóa. "Một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa lý tưởng và thực dụng làm mục tiêu chỉ là một thứ sống bất lương và bệnh thái".

        Nhưng mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính khách và nhàn tản theo đòi được. Văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu chủ trì, văn nghệ là của dân chúng mới được. 


         
        X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
         Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
        xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
        ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2008 13:14:46 bởi Ngọc Lý >
        #19
          Ngọc Lý 07.02.2008 07:39:24 (permalink)
          Huyết Hoa
          X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


           

          II . SỬ HỒN


           


          3 - ÁI HOA


                    Tất cả những tài năng đạo đức chỉ là hương thơm của đóa hoa Nhân Ái nở mãi không tàn. Nhân ái một khi được sáng suốt viễn kiến, chế độ hóa, thực tiễn hóa, quy củ hóa mới chân thực là nhân ái có thực hiện thực thể cho loài người và vũ trụ. Ðóa hoa nhân ái là cả một kiến trúc lẫy lừng của lý tưởng, cái lý tưởng lập thể của nhân loại. Ðóa hoa nhân ái thấm vào thấu suốt mỗi sinh mệnh làm cho những tiếng gọi sứ mệnh, tiếng gọi vô thanh, vô hình. Chỉ có hương thơm, hương thơm của nhân ái. Nhân ái mà cũng đến bị bài xích, bị lợi dụng, bị chiêu bài, bị đầu cơ, thôi hết cả! Mà đến thế, trời đất mà đến thế. Ai là những người kỳ ưu thiện ý?


                    Ðóa Ái Hoa còn là đóa trí tuệ hoa. Bây giờ ta mới chân thực hiểu thế nào là sinh tri. Sinh tri chẳng phải là nghiêm ngặt và ấu trĩ đẻ ra đã biết, biết từ mới đẻ. Sinh tri là trí tuệ tự sinh, sinh ngay bằng sự bừng nở cửa trí tuệ. Chữ giác ngộ của Phật cũng cùng một ý ấy. Tịch chiếu, hội quan, quán thông, quán tưởng, trầm tưởng, mặc khải đều là những thuộc từ của sự sinh, sự tri... Phải là một sinh mệnh dàn dụa nhựa sống, đầy dẫy ánh sáng của xuân tình mới nẩy nở ra cái cơ sinh tri đó được.


                    Ðóa Ái Hoa còn là đóa ngữ hoa, giải ngữ hoa, giải hoa ngữ, ngữ giải hoa, hoa với ngữ như sát chặt với nhau trên sự thăng hoa tuyệt diệu và tột bậc của vóc tinh thần thiết diện, linh thiêng ở những lời hùng hồn của từ bi hay của nhân ái hoa là tri âm hoa với tri âm ngữ, cái tinh kết của sinh mệnh đời đời, khúc nhạc của vận động thuở thuở.


                    Vườn xuân của đời nhân ái hoa nở đầy lý tưởng hoa: xuân thu hoa, ái hoa, tri âm hoa, trí tuệ hoa; tiếng đồn dậy: tri âm ngữ, đồng chí ngữ, ái ngữ, lý tưởng ngữ, vong quốc hoa (Nam Thi) phải là nhịp uyển quỳnh đủ cả tình tang của muôn tiếng.


                             "Thiên hạ vạn nhi tranh hồng tử"
                             "Thùy thức kiền khôn tạo hóa tâm".

                    Người Việt tri âm hãy lặng ngắm quốc hoa Việt, hãy đọc quốc ngữ Việt, ái nhân, nhân ái, chúng ta mới biết được rõ ràng là tri âm ngữ với tri âm hoa của Ái Hoa.


           


          X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
           Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
          xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
          ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.02.2008 07:40:27 bởi Ngọc Lý >
          #20
            Ngọc Lý 15.02.2008 03:35:30 (permalink)
            Huyết Hoa
            X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


             

            II . SỬ HỒN




            2 - TRƯỜNG HẬN


                      Ðây là mối dằng dặc trường hận của cả một vũ trụ trường hận, tấm lòng của cả một mênh mang sống vô bờ bến. Còn gì nữa? Ðã nghe kêu: O horror! O horror! O horror! Ôi gớm quá! Vũ trụ chỉ còn sau mỗi đổi đời, thất thanh kêu gào rít lên như vậy trong đáy lòng mỗi con người Phật. Bao nhiêu linh hồn cũng như bao nhiêu thể sống chưa thành tựu đều tìm một an ủi, một ôm ấp trong cái hoài bão lớn lao của rỗng không vô tình đó. Một hữu tình lớn lao? Không phải! không phải chỉ riêng một loài người, một loài người con con, mỗi sát na, mỗi vi trần đều là thể sống, sống thực, cần phải thuyền từ, bác ái và tế độ. Nhưng mà chính thế đó, chúng sinh vô hạn lượng, tự cứu lấy mình không cứu nổi ai. Mỗi phiền não rất lớn ở trong cái vô ý nghĩa rất lớn của vũ trụ, lòng đại độ mấu cứ vào cái ý nghĩa lớn trong cái vô ý nghĩa rất lớn lao đó.


                      Chỉ có rỗng không là rỗng không. Mỗi tư tưởng bắt rễ bén mầm trong cái sầu thảm của rỗng không đó, sống còn vô bờ bến. Hết cái bờ bến của vô bến đó có một bờ bến viên mãn là sự yên lặng rất sống, rất sáng, rất cơ, rất thực, rất đẹp ngay trong đó là một công cuộc cứu vớt ở vô cùng trong luân hồi vũ trụ đó. Không, quyết không, thật không có cái gì là tài phán cuối cùng của ai hết; không ai làm chúa hết, chỉ có lòng Phật làm chúa mà thôi!


                      Tất cả vũ trụ phải được cứu, sự cứu vớt ấy luôn luôn không dứt. Mỗi vi trần và mỗi sát na hờn oán, đau khổ, tối tăm, mê mẩn, sợ sệt, tức bực là chỉ đều quay về hết lòng từ bi vũ trụ, đã đồng nhất hóa với cái bản thể vũ trụ rất sống, rất sáng, rất cơ, rất thực và rất đẹp. Im lặng và nhắm mắt lại, im lặng cứu lấy vũ trụ hồn nhiên, cứu lấy, sao không cứu được mau! Không cuộc cách mạng nào lớn lao đến để cứu vũ trụ ư? Chịu để cho vô thủy, vô chung giày vò mãi sao? Nhắm mắt lại, hãy im lặng làm hết những cái anh có thể làm được đi. Ðóa hoa xuân đã nở, đợi mùa thu sang rọi ánh trăng tròn. Xuân với Thu luân hồi nhau mãi, mãi mãi vũ trụ còn dằng dặc cái trường hận đời đời! Thích ca đã thất bại một cuộc cách mạng. Jésus, Lão, Marx đều đã thất bại cả, để lại một bài thơ Thu Nguyệt Xuân Hoa! Ôi gớm quá! Ôi gớm quá! Ôi gớm quá! Còn gì nữa? Còn gì nữa?


                      Những lợi hại thị phi, thiện ác, buồn vui, sống chết của vô thường! Nhưng mà Phật hãy còn, còn luôn luôn, ngày ngày còn, mãi mãi còn, còn luân hồi của cái vũ trụ trường hận ấy. Phật vẫn còn, còn gì nữa? Ðâu là Thích Ca? Chỉ còn có mỗi cái phiền não sầu thảm của trường hận vũ trụ đời đời! Còn cái phiền não đó, còn nhiều Thích Ca và là Thích Ca những ai đã cứu được cái phiền não đó. Tiếng gọi của Sử, như một tiếng động vang trong sương ra tỉnh vào mê, không dứt dào dạt với muôn đời gọi lên một hồn nghĩa vụ. Sự đào thải với tái sinh qua các cuộc mưa nắng Xuân Thu biểu hiện lên một tình cảm, đó là tâm sự của Sử. Tất cả những lời máu và thủ ký của Sử đó còn lại với tiếng gọi và tâm sự của nòi giống ở trong cái di sản toàn bộ của Sử. Thử hỏi di sản của Sử có những gì? Cả một nòi giống trên sự thực sống biết, sống tinh thần và vật chất theo một phương châm dẫn dắt bằng một linh hồn của sống ấy, nghĩa là cả một thiên hạ hiện tại để làm cho ngày mai và cả một thiên hạ ngày mai làm cho ngày kia nữa. Tất cả những chuốt lọc thiên nhiên và nhân vi trong đời người đã để lại của quá khứ những gì làm nền tảng và điều kiện cho ngày nay. Lê Văn Hưu cũng như Trần Hưng Ðạo, Hàn Nguyễn Thuyên cũng có ý nghĩa như Lê Thái Tổ làm nên cả một truyền thống của dòng máu Việt.


                      Những chất liệu linh hồn ấy đã hòa thân vào ý chí sống chung và cả đời đời thành những lượng tử (quantum), năng tử (neutron) hoạt động hơn, nó chuyển động tất cả một kết cấu nguyên hình chất (protoplasma) của nòi giống, một văn minh trọn vẹn và đầy đủ, ví như văn minh đời Hồng Ðức đặt cái cương thường trăm thuở (24 điều giáo hóa) làm đề cương cho pháp luật. Dưới cái cương thường đó tổ chức nên một sinh mệnh chung cả của đạo đức, văn đức, vũ công và kinh tế. Lịch sử còn chuốt lọc và mài giũa nên mỗi chủ lực của đời thuở làm lõi chốt cho quốc dân. Thế hệ ngày Bông Lau còn phục hoạt lại ngày Bình Ngô, mỗi văn minh trên vận hành của Ðại Việt ta không dứt bằng khởi điểm của nó, không giờ phút nào ngơi. Chu Văn An cũng như Nguyễn Du, di thần nhà Lê cũng như di thần nhà Trần đều là những hạt giống khí tiết và những mô phạm của chân tài tử chỉ có những sĩ khí tiết và những chân tài tử, mới sống được ở trong sự sống của hồn Sử và quốc hồn.


                      Lý tưởng của Sử nở lên như một bông hoa Tổ hồn, văn minh là như thế. Hồn của Sử là hồn đáy tầng của nòi giống, đáy lòng mỗi người, đáy sống của Tổ Tiên truyền dõi mãi mãi. Hồn của Sử thiên vạn cổ còn nhắc đi nhắc lại trên truyền thống của loài người một cái ám ảnh sáng ngời trong tâm lý.


                               "Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ"
                               "Tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ"

                      Ôi! Cảm được thấu cái tâm sự Xuân Thu đó nghĩa là sống bằng Hồn Sử, không ra ngoài hồn của Ðạo, của Sử muôn thuở. Trung với quốc gia, hiếu với nòi giống "tôn quân phụ" trên nền nhất thống, đòi cuộc độc lập, đuổi giặc xâm lăng, trừ giống hủ bại, dẹp quân phản động diệt đàn phá hoại, đòi nhất thống, thảo loạn tặc, giữ nắm cương thường, tôn trọng thể chế, làm chính lòng người, rửa sạch tà thuyết với dị đoan, làm cỏ tà đảng với gian đảng, tôn phù lẽ công, sáng tạo lý cụ (outillage) và khí cụ (matériel), vót nhọn vũ khí ý thức làm nên vô lậu quốc phòng, chấn chỉnh văn minh chính nghĩa, làm nên tĩnh độ hòa bình đấy là sứ mệnh của Xuân Thu. Ôi! Công việc của thánh với vương, nhưng mà trách nhiệm của bố cu mẹ đĩ hết cả với cuộc hưng vong tồn tục của loài người và của nòi giống. Người ta cũng như con vờ, sống ngắn ngủi như thế, nhưng mà sống vô cùng, vì loài người còn sống mãi mãi, mỗi con vờ có ý thức và tư tưởng là một tế bào hoạt động của sinh mệnh Xuân Thu. Người ta cũng như con dã tràng xe cát bể Ðông, nhọc lòng mà không công cán như thế, nhưng mà là có công cán lớn lao vì loài người còn nhớ mãi công cán của mỗi con dã tràng ấy! Người ta cũng như con thiêu thân chui đầu vào lửa mà chết. Nhưng mà mỗi sự hy sinh cho ánh sáng của loài người là mở đầu cho mỗi đun đẩy văn minh đó. Vai Atlas có ai khiến vác quả địa cầu? Chu Văn An thế mà dâng biểu giết nịnh! Những công việc đó đều là công việc của Hồn Sử nghìn Xuân Thu, của tất cả loài người cũng như của mỗi dân tộc. 


             


            X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
             Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
            xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
            ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2008 03:36:56 bởi Ngọc Lý >
            #21
              Ngọc Lý 16.02.2008 00:39:53 (permalink)

              Huyết Hoa
              X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


               

              II . SỬ HỒN

               

              4- BẠCH VÂN


                        Những tầng lớp mây trắng bay đùa sao mà xúc cảm thế. Hình ảnh của vận động tang thương không gì não nuột và bực chán bằng mây trắng.


                                 "Tiết gìn thiên cổ tình khôn dãi"
                                 "Óc tính trăm năm gan dễ phơi"


                        Mây trắng bay trên trời không còn ngăm mãi ở lòng người, còn ngăm mãi ở đời sống người, ngăm mãi trong thâm đáy của dòng đời nay đã in bóng xuống nước, mây bay nước chảy nhưng mà nước còn mãi tâm tình mây. Những từng lớp thế hệ dằng dặc kéo vào thâm đáy của quá khứ. Không, không, thời gian không chảy xuôi, thời gian rút ngược lại, từ bây giờ trở lại, từ ngày qua trở lại, nó kéo dồn dập về sau lưng ta. Ta đi xuôi, ngược lại cái sống ngược lại, những tầng lớp thế hệ kéo ùa vào quá khứ, nhưng mà hình ảnh và tác dụng còn tích cực khuấy động đời đời.


                                 "Trúc lụa đã dày phen trị loạn"
                                 "Son xanh còn chiếu dạ hơn thua"


                        Những linh hồn xưa còn ký ngụ vào làn Bạch Vân trên sử Xuân Thu không dứt, những linh hồn của các tầng lớp chiến đấu đời đời. Có những chiến sĩ làm việc dương chu, có những chiến sĩ làm việc âm phát, có người làm việc hữu hình, có người làm việc vô hình, có những công việc đã hiểu rồi, có những công việc vẫn tưởng vi mang, có những tinh chỉ chế độ thúc đọng lại, vùng vẫy hay tản mạn trong đáy dòng sử, sống trong đáy hồn, đáy tầng.


                                 "Kéo lớp lớp trên am Bạch Vân
                                 Mà còn cái gì? Những cái sống
                                 Mà vì cái gì? Vì những cái bởi"


                        Người ta tưởng tượng như đứng cung kính kiên thành trước bậc đền Delphe, nghe cảm hứng lấy những tiếng của đời xưa theo cái dòng sống người ngược lại, cái dòng sử ngược vang vọng lại hiện tại để mà nghe cảm hứng lấy những tiếng vi mang đó ở trong mỗi động tác, mỗi cái tầm thường, mỗi cái ngây ngốc, mỗi cái ngu si, đến cả mê tín của đời đáy tầng, tức là nghe cảm hứng lấy Tổ hồn, Quốc hồn, Sử hồn, kể chi những tiếng ai oán, những tiếng ước vọng, những tiếng hằn học, những tiếng hò kêu, những tiếng thúc giục.


                                 Ý chí chi mà ý chí thâm
                                 Ý ai mặc ý hóa công thâm
                                 Ðương cơn lửa lạnh thâm đầu rót
                                 Chắc có còn thâm với hóa tâm

                        Ở trước bàn thờ của các thế hệ trước mà dân Việt đang còn sùng kính, há không phải những tiếng thực tế ư?


               


              X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
               Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
              xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
              ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

              <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.02.2008 00:41:17 bởi Ngọc Lý >
              #22
                Ngọc Lý 19.02.2008 11:35:41 (permalink)
                Huyết Hoa
                X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


                 

                II . SỬ HỒN


                5- UYỂN HỒN


                          Thôi chúng ta biết cái tác dụng lịch sử tàn ác, cái cấu tục sinh ra nòi Hồng Việt và bắt nòi Hồng Việt than, bắt nòi Hồng Việt hỏi, có ai giải cứu cho người Chàm, người Thổ, người Mường? Chỉ có người Hồng Việt. Ðau đớn thay dân Ngái, dân Mường, dân Thổ, dân Mán, dân Kha, dân Mèo, dân Nùng nòi giống của chúng ta. Một tiếng chuông chùa hồi thôi vừa hồi, bây giờ không còn được nữa, chính là chỉ đồng vọng tiếng khèn, tiếng hận của Mế Hê, tiếng lòng của Khu Lân, Khu Lân người anh hùng cứu quốc của Ðại Việt. Có ai biết cái tiếng của đất nước nòi đường ngược? Có ai còn nghe thấy cái tiếng ấy? Một làn gió lạnh của Hồn Uyển!


                          Tôi đã không tiếc sao sinh ra loài người Hồng Việt nữa, nhưng mà tôi còn tiếc sao trong bao gian nan của tôi không cho tôi những rỗi thì giờ đi bát bộ mẹng, đi hát trống quân, đi hát đúm, đi hát ví, đi rước nước, đi nghe đàn cồn, đi săn linh hồn của tôi nữa, và nữa, vào cả những núi đá kia, những vườn xanh kia, những đống củi kia, những tháp tàn kia, những lều tranh kia, những ruộng đỗ kia, để mà được hiểu hơn nữa, và nữa, những linh hồn ấy nói gì? Muốn gì? Hỏi gì? Tiếc mong gì? Nước chảy xuôi, gió thổi xuôi! Còn trong không còn nữa, sống trong không sống nữa! Ghê gớm chưa cái đãi lọc muôn đời !!!


                          Ấy đấy, cả một tâm trạng Bách Việt chỗi dậy sống lại trên đời mới. Tôi không tiếc được nữa tại sao chúng ta không sinh làm người Mường, người Mán, người Thổ, người Lào để cứ làm chủ nghĩa Bách Việt Duy Dân? Nhưng mà đất nước hãy còn, không còn mà thực còn ở trong lòng của cõi chết để làm cái đáy vực, cái rốn bể của tiến hóa. Chúng ta cả Bách Việt cứ giác ngộ Bách Việt và nòi giống ấy là đã chân chính sống lại đó, sống sâu sắc, sống triệt để, sống sáng quắc, sống bộc liệt, sống oai hùng.


                          Người Phi Châu rồi sao? Nói gì đến người da đỏ rồi sao? Ai hát lại chiến ca của người da đỏ? Ai hát lại xa xăm của người da đen? Những câu hỏi mỉa mai đó nó lật nhào hết cái đạo đức kỳ quặc của văn minh thế kỷ XVII, XVIII, XIX, XX Gia Tô lịch.

                          Người Atzèque sống lại hay người Mexique trôi tàn? Âu Châu của nòi Hy La còn mãi hay Âu Châu của người Barbares sống lại? Ðều là những nghi ngờ thiên vạn cổ, hóa công vẫn giải quyết ngầm.


                 

                 


                X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                 Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.02.2008 11:37:45 bởi Ngọc Lý >
                #23
                  Ngọc Lý 12.03.2008 07:01:31 (permalink)
                  Huyết Hoa
                  X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A


                   

                  III . XUÂN THU


                   


                  1 - THỜI ÐẠI


                              Duy dân biện chứng đặt để nền tảng của một lý luận đúng đắn về xã hội với thời đại nó cắt nghĩa được rành mạch và thực tại hết thảy hiện tượng của lịch sử trên sự thực của sự thực, chối bỏ được hết những sai lầm của duy tâm, duy vật, duy sinh với thực dụng chủ nghĩa.


                            Trào lưu của thời đại gần đây gồm có ba:


                                     1. Quốc tế cực quyền chủ nghĩa (Totalitarisme International).


                                     2. Quốc tế tư bản chủ nghĩa (Capitalisme International).


                                     3. Quốc tế cộng sản chủ nghĩa (Communisme International).


                            Cực quyền nắm chủ động được trước vì nền tảng xã hội của các nước Ðức, Ý, Nhật: với dòng sống lịch sử của họ quy định một bước đi thời đại cấp tiến hơn, ở đó có một chuẩn bị sớm và nắm quyền chế phát. Ðến năm 1942 trở đi, tư bản trở lại nắm được chủ động từ trong nội dung kinh tế bền dai, rộng rãi và tiềm lực của họ. Cho nên ngày Nga bị lôi cuốn vào chiến tranh, rồi đến ngày Nga tuyên bố giải tán Ðệ Tam Quốc Tế trước khi Trotsky bị đồ đệ thân tín của hắn va một búa ám sát (Ðệ Tứ Quốc Tế trong vòng vỡ lở hẳn), và từ trước khi đó nhiều năm, Cộng Sản không nắm được quyền tả hữu của thời đại. Sự vận động của lịch sử triệt để đào thải sức đứng thứ ba, cho nên, nếu Cộng Sản không bị tiêu diệt hẳn với Trục tâm thắng, thì bị đồng hóa với Ðồng Minh thắng, điều này đã dự đoán trước một cách chắc chắn từ 1939, càng đi với thời cuộc diễn tiến càng chứng thực không sót.


                            Sự đấu tranh gay gắt của hai mặt trận chủ động cực quyền và tư bản bằng tiêu hao, giết tróc, và kéo dài, quy định nên một cuộc rối ren không thể bằng sức người cứu vớt lại được, nó làm cho dù bên nào thắng lợi trên chiến tranh cũng sẽ thất bại đau đớn trên hòa bình; bằng cái tình thế rối ren đó, cuộc đóng cõi (frontières fermées) làm bằng cuộc hướng tâm cách mạng dự đoán từ 1939. Những nguyên tắc dân tộc và nhân tố tâm lý đi sát với diễn tiến tất nhiên của kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội làm cho hướng tâm cách mạng trọn vẹn. Các dân tộc nhỏ yếu với các giai cấp đau khổ lúc ấy sẽ là những lực lượng mới ra sáng tạo một thời đại mới 2000.


                            Nguyên lý của dòng sống máu một dân tộc có thể lấy cái nguyên lý của thủy lực học (science hydrolique) mà chứng minh. Làn gió đáy sẽ thổi dạt dào các luồng sóng đáy, sức nước nguồn từ mỗi vỡ bờ sẽ bằng tất cả cái sức mạnh của các bế tắc thời đại với lượng nước bị ứ tắc mà vỡ lở ra trong một phạm vi quy định bởi sức lực, quy tắc và tinh thần nội tại. Một cuộc nổ bùng 1793 và Napoléon thức (éruption napoléonienne) sẽ đặt để một văn minh Vạn Thắng mới của nòi Việt từ muôn năm. Các lần vỡ bờ từ Ðinh, Trần, Lê, Nguyễn Huệ sẽ tái diễn trên một nền tảng to rộng và cao độ hơn bằng cả một sức lực lịch sử và nhân chủng tích góp, theo lý tắc Totem Rồng Tiên của Bách Việt vạn năm trước mà giải quyết vấn đề Ðông Nam Á, tức là Ðại Nam Hải Á Úc Châu một cách thỏa đáng. Các nòi chi tiếng Môn sẽ lập lại một trung tâm của sống còn mới.

                            Ấy, thời đại này trên cái văn hóa quốc phòng khoa học, quân sự, công nghiệp tư bản chủ nghĩa kinh tế, diễn tiến bằng cái trào lưu là như thế, đặt để bằng cái hình thế của giai cấp và dân tộc toàn thế giới là như thế. Duy Dân biện chứng pháp chối bỏ lối trông thời đại của duy tâm là xâm lược với phản xâm lược hay quốc dân chiến tranh, lại chối bỏ lối xem thời đại của duy vật là tư bản với vô sản hay giai cấp cách mạng, đồng thời còn chối bỏ nốt lối xem thời đại của thứ triết học duy sinh phiến diện (superficielle), bình diện và thực dụng (empirique) là chính trị đấu tranh thường phát sinh ra từ hội nghị nọ hay hòa ước kia.


                   

                   


                  X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                   Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                  xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                  ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2008 23:26:43 bởi Ngọc Lý >
                  #24
                    Ngọc Lý 13.03.2008 09:12:18 (permalink)
                    Huyết Hoa
                    X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 

                    III . XUÂN THU



                    2- CHIẾN TRANH


                              Triết học duy tâm cắt nghĩa cuộc chiến tranh này là do dân tộc tính ăn cướp của Ðức, Ý, Nhật gây nên, bởi thế bóc lột hết thảy các công cụ và các cơ năng chiến tranh của Trục tâm là cần yếu, đồng thời các triết học loạn đời với tất cả các tinh thần cừu hận cũng phải làm cho mất tích. 

                              Các nhân sĩ gọi là khai minh hơn và lối triết học thực dụng duy sinh cho là các nước dân chủ ăn no quá quên cả phòng bị mà gây nên. Riêng phái duy vật cho và dự báo trước bốn nguyên nhân: 

                              1) Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với đế quốc chủ nghĩa.

                              2) Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với dân tộc bị bóc lột. 

                              3) Tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với Tô Nga. 

                              4) Ðế quốc chủ nghĩa từ trong nội bộ có tư bản giai cấp mâu thuẫn với vô sản giai cấp. 

                              Duy Dân chủ nghĩa chính đính và chứng thực rằng cuộc chiến tranh này chỉ là cuộc tranh bá chiến của hai mặt trận đế quốc cực quyền với tư bản dân chủ giả xúc tiến và chứng thực bằng lý luận và thực tiễn của quốc phòng kinh tế trên các nền tảng triết học của tư bản tái sinh sản chính trị hóa (reproduction du capital). Trật tự mới của Âu Châu, trật tự mới của Á Châu cũng như khu vực tổ chức tập đoàn kinh tế trên các hiệu triệu chiến tranh của chính trị địa lý học, đi theo với thuyết sinh tồn không gian (espace vital) hay tiến lên một bước là thế giới liên bang (Fédération internationale) có một tổ chức đằng sau phải là một hậu thuẫn bằng vũ lực, đấy là mục đích tác chiến của cả hai phái trong giai đoạn thế kỷ hai mươi này (sẽ nói rõ trong vấn đề Chiến Hậu). Sự khống chế thế giới phát sinh từ cái nhu yếu của mỗi dân tộc đã đến cực điểm của văn minh tư bản và vật chất. Sáu vấn đề nền tảng của thế giới (xem tuyên ngôn ngày thành lập Tổng Ðảng Bộ) ví như không giải quyết được triệt để thì vô luận một hiệu triệu giả dân chủ hay giả chính nghĩa nào cũng chỉ là ngoài mặt để che lấp cho sự thực của phát triển xấu xa và tội ác tự nhiên tất có của văn minh cũ đã thối nát. 

                              Nếu nói cuộc chiến tranh này là thần thánh chiến do cái mâu thuẫn của đế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với dân tộc thuộc địa thì chỉ là nói mơ, hoặc tiến lên một bước là thay đế quốc đánh lừa dân thuộc địa cho tưởng có phần vinh dự của mình vào để mang nhân mệnh và tài sản ra đỡ đạn cho ăn cướp lịch sử. 

                              Tội tình! Sự phân tán một đống của có phải là ở kẻ có của yếu ớt gây ra sao? Cuộc chiến tranh lần này dân tộc nhỏ yếu là chủ động gây nên với đế quốc? Cuộc mâu thuẫn giữa dân tộc thống trị với bị thống trị là động cơ của giặc giã? Dân tộc bị thống trị có đủ vũ lực và chủ động ra tuyên chiến với đế quốc? Một dân tộc từ thiện nào để cởi mở cho các thuộc địa bị đè nén mà gây chiến tranh? Muôn lần sai, nghìn lần lầm. 

                              Chỉ có một cuộc chiến tranh thuần túy do mặt trận thế giới các dân tộc bị áp bách đánh giết mặt trận ăn cướp thống nhất mới gọi là cuộc thần thánh chiến tranh đó. 

                              Có người nói Trung Hoa đánh Nhật Bản, đó là tiền tiến và đặc chứng của trận giặc lần này, có biết đâu Tàu với cuộc cách mạng Tân Hợi chỉ là một nước "Thiên hạ chủ nghĩa" lối cũ, đế quốc chủ nghĩa lối Á Ðông để thích ứng với cách thức và đường lối mới của đế quốc chủ nghĩa mới là xâm lược chủ nghĩa lối Âu Mỹ, trong giấc tự tỉnh của "con sư tử ngủ" tự trở mình dậy để đi kịp trên con đường chinh phục mới mà quán triệt cái truyền thống tanh hôi của mình theo lịch sử, cái đó chứng thực với bức thư kiến nghị của Tưởng Giới Thạch gửi cho Tôn Văn yêu cầu mặc nhận hiện trạng ngũ tộc ở Tàu và bỏ chủng tộc cách mạng đi để quán triệt mục đích Hán bằng chiêu bài, bằng quốc dân cách mạng, lại chứng thực bằng ý chí, thái độ và hành động khi cách mạng của chính phủ Tưởng mà biết chắc. 

                              Lại có người nói cuộc cách mạng Ấn Ðộ là đặc điểm cuộc chiến tranh này, có biết đâu là trên sự thực và phản ảnh của sự thực ấy là bao nhiêu lần thanh minh của chính phủ Anh, Ấn Ðộ chỉ là vấn đề nội bộ trong đế quốc Anh. Khoảng 1940 đến 1942, từ lúc Nhật Bản để gót đến Miến Ðiện, trực tiếp uy hiếp cửa ngõ cái kho lúa của Anh, với Ðức đánh sát vào Caucasie, hai bên hò reo xông vào cướp giật hạt ngọc trên đế miện của Anh, lúc bấy giờ vì chính lược và chiến lược thế giới, Ấn Ðộ trong địa vị cố nhiên trọng yếu của mình cho số phận toàn thế giới tư bản mà được Tàu, Mỹ, Nga chú ý mà hô hào thôi, há phải là Ấn Ðộ gây ra cuộc chiến tranh này? Ðức, Nhật cuối năm 1942 hết sức và thất bại trong kế hoạch hội sư ở Ấn Ðộ. Ấn Ðộ vấn đề cảm thấy thế nào? Ấn Ðộ địa vị lại trở lại một nội bộ nhỏ xíu, bị khinh miệt, bị giày vò trong đế quốc Anh vậy. Nhưng đứng về mặt Ấn Ðộ cách mạng mà nói, thực tại Ấn Ðộ chẳng tán thành Anh, cũng chẳng tán thành Ðức với Nhật. Ấn Ðộ chẳng tán thành một cuộc chiến tranh nào duy trì đặc quyền (Nehru). Ấn Ðộ đứng dậy cởi mở cho toàn thế giới bị bóc lột kể cả người da trắng bên trong bằng sự chiến tranh với toàn thế giới (Gandhi). Thái độ với ý chí ấy chính là đại biểu cho con đường đi đúng đắn của dân tộc nhỏ yếu suốt địa cầu, tiếc Ấn Ðộ chẳng phải là sức liên hợp to tát tất cả các dân tộc đó, lúc này chẳng phải là đại bản doanh của mặt trận ấy, cũng chỉ là tiên phong và cục bộ nhỏ của mặt trận ấy chưa hết lộ mặt mà thôi. Còn nếu như nói có dân tộc nhỏ yếu nọ, dân tộc thuộc địa kia tán thành mẫu quốc hay lãnh đạo quốc, hết sức tham gia cuộc chiến tranh này để mong có một thí bỏ về giải phóng hay độc lập, sự tán thành đó bằng vô tri hay ngơ ngác, hoặc là cử động đầu cơ của một lũ hoạt đầu, hoặc bị đè nén cực chẳng đã phải đem con, em, gạo lúa... của mình nộp cho đế quốc, chẳng phải một phần ngàn nào đại biểu được lịch sử và ý chí của toàn thể dân chúng đó. 

                              Ðế quốc chủ nghĩa mâu thuẫn với Tô Liên ư? Tô Liên trên cái hiện thực của phương châm dân tộc tư bản tập trung chủ nghĩa chẳng phải là cớ của cuộc chiến tranh này. Tô Liên chỉ là một phần tử lạc loài và phản động không bị tiêu diệt bởi cực quyền thì bị hỗn hóa với tư bản quốc tế. Tô Liên trong cuộc chiến tranh này chỉ là thứ yếu và bị động. Sách lược gia truyền của Lénine là đợi các đế quốc đánh nhọc lả sẽ một tay hoàn thành cả cách mạng vô sản hoàn cầu đã thất bại. Những hành động bất trí trong ngoại giao với Nhật, với Balkans (đứng địa vị khách quan của mặt trận vô sản thế giới mà nói) đủ tỏ rõ cái bàng hoàng của Tô Liên đứng ngã ba. Tô Liên trong cuộc xâm Ba, xâm Phần và càng ngày càng đi sát Anh, Mỹ, Tàu, càng tỏ rõ Tô Liên chẳng phải là thế giới đặc biệt, đi đôi với chính lược lui một bước lên hai bước chỉ có thực tiễn thất bại. Ai bảo Tô Liên là chủ động? Ai bảo Tô Liên là tổ quốc của toàn vô sản thế giới? Lại nói các mâu thuẫn nội bộ của tư bản với vô sản giai cấp trong mỗi đế quốc làm nên trận giặc này? Vô sản Anh vì Anh, vô sản Mỹ vì Mỹ, Ðức vì Ðức, Nga vì Nga, Tàu vì Tàu, Nhật vì Nhật trong cuộc quyết thắng của vận mạng giống nòi với cuộc đánh bạc máu sắt ngày nay. Cộng sản Anh yêu cầu từ 1921 tới nay bao lần vào công đảng đều bị cự tuyệt. Sự im lặng của toàn vô sản thế giới đối với Nga vào trận, sự ám sát Trotsky bởi đồ đệ thân tín càng làm cho cuộc cách mạng thế giới càng chậm lại thế kỷ. Sự đột nhiên giải tán đệ tam quốc tế càng chứng thực. Các Cộng Sản đảng các nước từ bao năm nay mỗi ngày mỗi xu hướng vào cách vận động bằng hình thái dân tộc càng được chứng nhận. Tình thế các giai cấp toàn thế giới càng cho ta một nền tảng phán đoán đúng chắc nữa (Xem nói về Cộng Sản ở dưới). Các cuộc bãi công ở Pháp (Marseille và Paris ) chỉ là phong trào ái quốc. Sự thỏa hiệp của Cộng Sản đảng các nước với chính phủ chiến thời của mỗi nước, sự chia rẽ của Cộng Sản đảng Pháp vừa đi với Vichy lại vừa đi với De Gaulle, đều là những hiện tượng đau thảm của vô sản trên lý tưởng bằng đấu tranh không có phương pháp sáng suốt và ỷ tựa chắc chắn. Các cuộc bãi công ở Mỹ không phải do Cộng Sản gây ra, hoặc phần nhiều là do hành vi của cô lập sai khiến, đồng thời là những hành vi càng khiến cho Mỹ trên chế độ dân tộc tiến vào trạng thái dự trước của Duy Dân chủ nghĩa về chiến hậu. 

                              Cuộc chiến tranh đã thế cũng chẳng phải là do tính ăn cướp của một vài dân tộc, hay do sự ăn no ngủ kỹ của một vài nước trọc phú. Nó có một căn nguyên lịch sử của Duy Dân biện chứng pháp.

                              Cuộc chiến tranh này thuần túy là cuộc tranh bá chiến của hai phe đế quốc. Sự thất bại của họ trên hòa bình chính là thời cơ nhằm đúng của hướng tâm cách mạng, một con đường mới cho đời sống thế giới mới trên con đường lịch sử phải đi triệt để của các nước nòi nhỏ yếu hợp với giai cấp bị bóc lột, chỉ có thời cơ đó chân chính là một dịp sống mới của loài người mới thuế biến, đột biến và đặc biến.


                     

                     


                    X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                     Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                    xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                    ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2008 23:27:06 bởi Ngọc Lý >
                    #25
                      Ngọc Lý 13.03.2008 23:10:52 (permalink)
                      Huyết Hoa
                      X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 

                      III . XUÂN THU

                      3 - CHIẾN HẬU


                                Cái nhược điểm của trào lưu Cộng Sản tức là đệ tam quốc tế dưới những áp bách của hình thế thực tiễn mà giải thể (1942) sau khi cái nhược điểm của Dân Chủ Cộng Hòa trận doanh là Pháp bị đả đảo (1939). Nhược điểm của Phát xít trận doanh là Ý Ðại Lợi vỡ lở năm 1943 (8/1943) mở đầu cho cái nhược điểm to lớn nhất, bên nào cũng phải cần, cần để rồi không tránh được đó là sự thắng trận. Như đã nói từ 1939, chủ động giật lại phía Dân Chủ tư bản thế giới, mặt trận từ sau này mà đi tròng trành giữa lợi thế về chiến lược trên địa giới của Nhật với bức lũy sắc Âu Châu của Ðức. Ðức có thể thua được trong ngoài 1945. Nhật bị nội bộ Ðông Á giải thể trong ngoài 1946. Từ đấy thống trị bởi sự thắng trận. Thắng lợi là chuyện tất yếu của chiến tranh, sau đấy nó có thể mang đến sự thất bại của hòa bình. Anh với Mỹ có thể liên hợp thành một chủng tộc liên bang, lấy kinh tế ra đè ép và buộc chặt thế giới, hoặc Anh vẫn là Anh đế quốc kiên quyết cự tuyệt những nguyên tắc Ðại Tây Dương ứng dụng vào nội bộ của mình, Mỹ vẫn là Mỹ đế quốc thực hành xong "monroisme" mà cương quyết đòi môn hộ khai phóng toàn thế giới. Hai đế quốc ấy đứng trên một hàng trận có mâu thuẫn bên trong như thể chia đôi bá quyền toàn thế giới. Sự giải quyết chung nhau của Anh, Mỹ với vấn đề Nga xúc tiến nên hội nghị Moscou (10/1943) ở đây Anh, Mỹ muốn cho xong vấn đề Ðông Âu, Nga đánh Nhật và đánh Ðức một thể, vấn đề Turquie và Cận Ðông, Anh với Mỹ trong cuộc lãng giải, như là khắng khít như thế, thực tại vì đại địch đương tiền, đại địch hiện nay là Ðức, Ý, Nhật, đại địch tương lai là Nga, đại địch giả định cho tương lai nữa là Tàu. Tàu tuy bị gọi là một trong tứ cường nhưng mà sự lãng bỏ khinh miệt với sự dè dặt và sự đề phòng càng ngày càng phải tăng. Cái hình thế nước Tàu phóng trông ra tương lai, 20 năm sau 1944 chẳng hay ho gì. Những dã tâm của Tưởng Giới Thạch biểu hiện từ trong ra đến ngoài rất đáng kinh khủng cho toàn nhân loại. Những vấn đề Tàu yêu cầu chiếm lĩnh Việt và Hàn ở Washington và yêu cầu các quyền lợi chính trị với kinh tế các phía có Hoa Kiều (nhất là Nam Dương) chưa đủ để cảnh tỉnh Anh, Mỹ hay sao? Tất cả tuyên ngôn đường mật chỉ là đánh lừa và là thừa cho những nhà quan sát chính trị, nhưng là những tài liệu rất quý cho những nhà học về tâm lý trên lịch sử và chính trị. Người ta muốn công nhiên một cách mâu thuẫn bá chiếm cả thế giới, nhưng mà người ta còn cần hiệu triệu, thứ nhất là cần đánh lừa. Hitler nói: "đánh bạc" là thế.


                                Họ đề phòng hết cả, dự kế hết cả, nhưng mà có một thứ ác hại nhất, lớn lao nhất, và đại địch nhất của hết thảy thắng trận là sự thất bại trên hòa bình một cách đau đớn. Những trào lưu anarchy về kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm lý sẽ chạy từ những nước thắng trận ra ngoài để gặp những sự thực anarchy đã hình thành trên khắp các nước bại trận đưa đến sự đóng cõi và phản tỉnh cần cho mỗi nước. Cuộc đấu tranh thực tế của các nước nhỏ yếu lúc bấy giờ mới thành tựu nổi lên. Tàu sẽ trở về một cuộc nội loạn và ngoại loạn để có thời gian cho Á Châu sống lại.


                                Họ sẽ thắng lợi trên chiến tranh, nhưng sẽ thất bại trên hòa bình, cái thất bại mạn tính (chronique) tới ba, bốn mươi năm, nó cần họ tự cứu tế một cách khổ nhọc và đau đớn như bị chứng thần kinh suy nhược.

                                Các dã tâm, âm mưu, mắc lên những cơ quan và kế hoạch sẽ đổ sụp. Loài người bằng sự phản tỉnh và phục hoạt sẽ tu chỉnh lấy lịch sử của mình.


                       


                      X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                       Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                      xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                      ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )



                       
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2008 23:27:29 bởi Ngọc Lý >
                      #26
                        Ngọc Lý 20.03.2008 23:24:44 (permalink)

                         
                        Huyết Hoa
                        X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 

                        III . XUÂN THU



                        4 - PHỤC HOẠT (  Renaissance Việt )  


                                 Có những bờ đê chắc chắn ngăn be hết sức chảy của dòng nước, để dòng nước ấy từ trên nguồn sa xuống, hợp với lượng nước ba bảy sông ngòi dồn lại đóng vạnh đáy và bằng luồng sóng đáy sùng sục nổi lên, chọc thủng hết, phá vỡ hết, để theo dòng chảy của mình.


                                  Ðời sống lịch sử của một nòi giống cũng vậy. Từ 1940, nòi Việt có thể nói, bốn bề đều là quân địch hay là sức can thiệp tới quyền lợi và đời sống Tổ Tiên với con cháu tối thiêng liêng của mình và bởi những bàn tay với những ý chí ô uế nhúng nhớp vào để sẽ chạm vào đáy hồn và danh dự của chúng ta. Lúc ấy, từ bốn phía quân địch đó, ở trong khói lửa và bụi bặm, chúng ta sẽ vạch ra, chọc thủng và phá toang con đường đi. Con đường đi ấy là lối sống chính trị và lịch sử trên quốc dân và thế giới của chúng ta, Vạn Thắng như Vạn Thắng ngày xưa, mà tiến lên mục tiêu của dân tộc.


                                  Sự Phục Hưng đi đôi với sự Phục Hoạt
                                  Máu đi liền với ánh sáng của óc.


                                  Phục hưng và phục hoạt đều từ trên nền tảng bản thân của xã hội ta trong kết cấu của nó phối hợp với những điều kiện yêu cầu của dân chúng và thủy chuẩn của văn hóa ta, suy động trong tiềm năng, tiềm thức mà đột hiện lên bởi cái để uẩn sâu sắc của nhân chủng.


                                  Sự phục hưng và phục hoạt của chúng ta trên tính chất quy định của nó là đột biến, đặc biến và thuế biến.


                                  Bởi đột biến cho nên phục hưng và phục hoạt mới anh hùng


                                  Bởi đặc biến cho nên phục hưng và phục hoạt mới sản sinh ra một văn minh mới, bằng cái văn minh ấy sẽ xây dựng một xã hội và thời đại mới.


                                  Bởi thuế biến cho nên sự phục hưng và phục hoạt mới dân tộc, mới Việt. Lý tưởng Việt như đóa hoa thơm mọc từ sâu xa trong đáy hồn của Tổ, đáy tầng của Dân và đáy lòng của Sử.

                                  Sự phục hưng và phục hoạt ấy là Duy Dân Thắng Nghĩa diễn ra bằng một dòng nghệ thuật tất cả những điệu nhịp sống của Viêm Việt Vạn Thắng.


                         


                        X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                         Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                        xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                        ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2008 23:26:16 bởi Ngọc Lý >
                        #27
                          Ngọc Lý 23.03.2008 12:16:04 (permalink)
                          Huyết Hoa
                          X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 

                          III . XUÂN THU



                          5- THẮNG NGHĨA 

                                    Trong cái sứ mệnh lớn lao và đột nhiên như lời Ðức Chúa ban cho Moise nào sai ra cứu thế, phục hưng và phục hoạt bằng tất cả và là tất cả. Một Lẽ Sống trên Lẽ Thật, một Ðường Sống trên Ðường Thật chỉ vạch ra, dựng dõi lên, rồi lại xây đắp thành một thực thể của lý tưởng, tự trong phản ảnh ra huy hoàng tất cả một văn minh và làm sùng sục sôi tất cả một nguồn sống máu.

                                    Chủ trương thời đại không đủ, phát quật và phát huy được cái để uẩn của một văn hóa để cho người ta sống no và sáng mới đủ.

                                    Chủ trương thời đại không đủ, phải nắm giữ và vận dụng được cái căn cứ của một cái chủ trương đó mới có ích.

                                    Chủ trương thời đại không đủ, phải có được các đồ lề tinh thần và phương pháp học thuật để tìm vạch ra, nó mới chắc chắn và sáng láng. Lại còn phải có đủ các vũ khí của ý thức để phòng vệ cho nó, chỉ huy nó trên mặt trận, bổ thụ cuộc thắng trận cho nó mới đạt được tới một hiệu quả của dự cầu nào của nó đấy.

                                    Cách mạng, chính trị và kiến thiết phải nối liền và hợp nhất vào một tinh thần và luật tắc chỉ huy nó, vận dụng nó, nắm giữ nó và hiểu biết nó.

                                    Lý luận và thực tiễn phải thống nhất trên một lý tắc trọn vẹn, không chướng ngại, không bẻ vặt, không phụ họa và gia giảm.

                                    Thắng lợi phải nắm giữ được thực thể rồi trước khi ra trận.

                                    Họ đã thắng lợi trên chiến tranh nhưng rồi thất bại trên hòa bình. Nếu dân tộc ta không có một nhỡn quang sáng suốt thì hoặc cũng sẽ được thành công trên cách mạng nhưng tất sẽ thất bại trên kiến thiết, hoặc sẽ được thắng lợi trên kiến thiết mà thất bại trên chính trị.

                                    Cách mạng, kiến thiết và chính trị cần phải có hướng thượng, cần hơn cả sự thành công chợp qua. Chủ trương của thời đại có thể thành công nhưng kiến thiết và duy hệ sự kiến thiết và kéo dài sự kiến thiết ấy trên hướng thượng, tức là chính trị không được chỉ đạo bằng cả một để uẩn của lịch sử và cả một thể hệ của triết học, khoa học với thuật học, thống nhất, sâu dày, đầy đủ, cặn kẽ, đúng đắn và tiến bộ thì thế nào cũng thất bại.

                                    Chúng ta còn phải lấy một con mắt công, con mắt thời đại, nhân loại và lịch sử, con mắt của khoa học khách quan mà phán đoán, đừng để bị che lấp bởi ý thức hình thái của một thể chế xã hội và văn hóa nào mà bỏ mất lập trường siêu nhiên và thiêng liêng, nó còn là một quyền lợi của trí tuệ hưởng dụng, của sức phán đoán quyết định và hành động. Chỉ có khi nào ta tự làm chủ, đừng để trụt xuống làm tôi đòi trước cái ý thức và văn hóa, chúng ta mới thực biết làm chủ của vũ trụ, văn hóa, xã hội, văn minh và thời đại. Cho nên chúng ta đừng vì đi học Anh, Nga, Mỹ, Ðức, Ý, Nhật, Pháp, Tàu mà vội vàng đứng vào lập trường những người đó, đối với sự vật gì, trên nơi nào và thời nào vội buông lời phán đoán, hay vội đứng sang chủ trương mình.

                                    Hiểu tức là nghiệm, đuổi theo. Như thế hiểu một thời đại, nghĩa là phải lấy con tâm và con mắt lịch sử, nghiệm qua các thời đại để mà đứng trên nền tảng với điều kiện đó để mà hiểu thời đại đó. Lại còn hiểu một văn hóa nơi nào, nghĩa là phải lấy con mắt và con tâm quốc tế nghiệm qua các văn hóa mọi nơi để mà đứng trên nền tảng và điều kiện văn hóa nơi ấy mà hiểu. Tức cũng như hiểu một người nào, cần phải đem con mắt và con tâm để nghiệm trải nhân tình, thế cố, mà đứng trên nền tảng, điều kiện và lịch trình đời sống người đó mà hiểu.

                                    Chúng ta cho nên, để mà phục hưng và phục hoạt, phải lấy một con mắt nghiêm ngặt Việt, đứng siêu nhiên trên lập trường Việt, thi thiết bằng những chính sách và kế hoạch siêu nhiên và nghiêm ngặt Việt, có một thái độ nghiêm ngặt và siêu nhiên lịch sử Việt. Như thế thì khoa học phục tùng chúng ta, triết học, thuật học và lịch sử phục tùng chúng ta để chúng ta trên nền Người uốn bắt cho cái danh nghĩa và sự cố Việt phục tòng danh nghĩa và sự cố Người (cause humaine).

                                    Dù sao phải có một ý thức thực tại và khách quan.

                                    Lý tưởng tự đó mà mọc rễ, ăn sâu trong để uẩn của lịch sử vận hành. Duy Dân chủ nghĩa, nghiêm ngặt trong ý nghĩa Việt trên cách mạng, chính trị và kiến thiết của Tiểu Việt và Ðại Việt, khoan đại trên ý nghĩa Người trên triết học, khoa học và thuật học, hiệu lực trong ý nghĩa công cụ, phương pháp và vũ khí của văn hóa.

                                    Duy Dân chủ nghĩa là sự phục hưng và phục hoạt tất nhiên và tiên tri cho nên gọi nó là Thắng Nghĩa, nghĩa là thắng hết các chủ nghĩa, vạn thắng cả trên vật chất lẫn tinh thần.



                              X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                           Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                          xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                          ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.03.2008 12:19:52 bởi Ngọc Lý >
                          #28
                            Ngọc Lý 27.03.2008 06:44:23 (permalink)
                            Huyết Hoa
                            X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 


                            III . XUÂN THU

                             
                            6 -TAM DÂN


                                      Người Á Ðông, nhất là những người trong hệ văn hóa chữ Nho, ai đã đi, tất biết đến chủ nghĩa Tam Dân mà Tôn Văn, người sáng tạo ra nó, gọi là một chủ nghĩa cứu quốc còn là một chủ nghĩa cứu thế giới nữa.


                                      Nhiều nhà cách mạng Việt ca tụng và sùng bái cái chủ nghĩa này lắm.


                                      Người Tàu đã tôn Tôn Văn lên làm quốc phụ, chủ nghĩa Tam Dân còn là những "nguyên tắc quốc sách tối cao" đủ biết thế nào.


                                      Người Tàu còn chực dẫn dắt một cuộc vận động ở Tàu gọi là phong trào quốc tế của chủ nghĩa Tam Dân.


                                      Tôn Văn lại còn được người ta tôn là đạo sư của cách mạng cho các dân tộc nhỏ yếu, cố nhiên chủ nghĩa Tam Dân phải ở địa vị chỉ đạo rồi.


                                      Nhưng mà cái thùng "tả pí lù hẩu lốn" đó, người Tàu lại đánh cho kêu, rồi lại la hò rối rít, đối với thế giới phải nên coi đó như trẻ con ta đánh cái mẹt để cứu mặt trời khỏi bị mặt trăng ăn mà thôi (nhật thực).


                                      Tam Dân có thế giới tính? Ðó chỉ là một chủ nghĩa của một dân tộc, trong sự thật rất nghiêm ngặt của các phụ tính của dân tộc, nhất là dân tộc Hán trên con đường phát triển của nó bằng những nền tảng và điều kiện thời đại quy định ra nó sẽ có những đặc tính của nòi giống và đặc điểm của lịch sử kết hợp nên mà làm kim chỉ nam của một chính trị lộ tuyến đặc thù.


                                      Nó là một chủ nghĩa dân tộc, dân quyền với dân sinh, chẳng qua là những chính trị hình thái, chính trị kiến trúc và chính trị quy tắc trong nội bộ của chủ nghĩa dân tộc của nòi Hán đi lên đường. Chủ nghĩa ấy là chủ nghĩa gì? Ðúc các dân tộc vào một lò để thống nhất thế giới (Tam Dân giảng). Bằng cách gì? Chủng tộc xâm lược hay bằng chủng tộc vũ khí như nghìn xưa. Chủ nghĩa ấy sản sinh ra một xã hội hình thái gì? Dân quyền là một thứ quốc dân dân chủ chuyên chính mà một đảng (phải là Quốc Dân Ðảng Tàu) cầm quyền mãi. Dân sinh là một thứ quốc gia tư bản cực quyền mà bọn tài phiệt và nho sĩ phải làm trung kiên. Thứ chủ nghĩa ấy đi đôi với sự lũng đoạn chính trị của Tưởng Giới Thạch và bọn đầu trùm Quốc Dân Ðảng (quân, tài phiệt) đã thành ra một cái chiêu bài nhân đạo rất lớn ví như cái mạng nhện mắc chết bao nhiêu con ruồi vong quốc Việt, Hàn. Lại, trên chính trị hiệu triệu khoáng trương dân tộc ra đến quốc tộc, từ quốc tộc đến quốc quân, chia xâm lược lộ tuyến ra tám đường diệt vong dân tộc nhỏ yếu.


                                      Tam Dân trên chính trị là một học thuyết như vậy. Nếu lấy ý nghĩa đúng đắn của triết học mà nói, nó khó thành và khó đáng gọi là một chủ nghĩa. Nó chỉ có thể gọi được là ba nguyên tắc quốc gia xã hội, mặc dầu kẻ sau hết sức nối liền Tam Dân với học thuyết Khổng Tử và truyền thống của Tàu, nó biểu hiện rõ rệt trong cái thời đại khô khan vì dã tâm, một chứng bệnh bẩn óc rất ghê gớm. Những lý tắc duy sinh nằm trong Kinh Dịch và Trung Dung được phát quật lên để hàn liền chủ nghĩa duy sinh với triết học duy sinh mới (Trần Lạp Phu) và cũ (Kinh Lễ, Lễ Vận) của Tàu để mà lại lúng túng với sự gắn khớp những nguyên lý đó với dân tộc và dân quyền mặc dầu Tàu vẫn tâng bốc Tam Dân là có liên hoàn tính. Lại sự hấp thụ ăn không nhai kỹ và tiêu hóa không thông đối với các khoa học mới đem dính vào sau Tam Dân trông càng mâu thuẫn, đeo càng lẵng nhẵng, tất cả những cái đó càng làm cho óc người Tàu không có một hệ thống và tổ chức được mà thôi. Sự phát minh kiến thiết giai đoạn luận của Tôn Văn có thể ví như sự phát minh cách mệnh giai đoạn luận của Lénine, chỉ là những liều thuốc cứu cấp cho một học thuật với một dự kế không trọn vẹn, tự trong mâu thuẫn nó làm hư phí cả tinh nghĩa của biện chứng đó đi.

                                      Nói tường tế về Tam Dân hoặc có một dịp khác, đây cần nói, chỉ là phê phán qua chơi những điều muốn để cho quốc dân chú ý, nhất là hiện giờ đây có một tụi người Việt có thể gọi là Việt gian làm tay sai cho chính trị mục đích của người Hán, cam tâm dịch chủ tái nô. Bọn ấy tự xưng là tín đồ của kẻ chực đến xâm lược đất đai ông cha chúng ta mong hòng để báo ơn mẫu quốc và đưa dắt Tam Dân về phía Nam, mở mang thêm những lãnh thổ mới kỳ cho "phòng tuyến của dân tộc Hán suốt từ Úc Châu đến Tân Gia Ba ở phía Nam đó"




                            X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                             Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                            xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                            ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2008 06:46:20 bởi Ngọc Lý >
                            #29
                              Ngọc Lý 27.03.2008 22:31:38 (permalink)
                               
                              Huyết Hoa
                              X.Y.Thái Dịch Lý Ðông A 


                              III . XUÂN THU

                               
                              7 -  DÂN CHỦ 


                                        Thanh niên lấy làm vinh dự để nói đến dân chủ. Dân chủ ví như thần thánh "homo res sancta homini", dân chủ là hình ảnh giàu có, bình đẳng và khoa học.


                                        Căn cứ của chủ nghĩa dân chủ là chủ nghĩa cá nhân. Cho nên dân chủ chính thể là kết quả chính trị của chủ nghĩa cá nhân đó. Trong nước dân chủ phải có tiền mới bình đẳng và sinh sản phải tùy khoa học phát minh mới tiến bộ. Chế độ tư bản dân chủ cố nhiên khi đầu mới thay thế cho xã hội phong kiến thực là cứu thế, nhưng đi đôi với tiến hóa của lẽ vô thường, từ thương nghiệp tư bản tiến lên công nghiệp tư bản làm cho trong nước giai cấp ly chia và chính trị đảng tranh. Lại từ công nghiệp tư bản tiến lên đến kim dung tư bản, sự cần dùng thị trường nảy nở ra đế quốc thực dân, từ đó đến quân hóa tư bản gieo rắc chiến tranh cho thế giới. Ðến mạt kỳ này, chế độ dân chủ xấu nhất, nó làm cho nhân chủng linh lạc, gia đình linh lạc, cá nhân linh lạc, ở đó mà quốc gia linh lạc.


                                        Sự cần yếu cho tái sinh sản của tư bản nảy nở ra các hình thức bế quan tỏa cảng lối mới như khối Pound, khối Monroe, khối Yen và khối Franc càng suy động cái dục vọng diệt chủng vong quốc người khác bằng vũ khí kinh tế, và ở đó chiến tranh; cũng ở đó là nguyên cớ chiến tranh chân thực của kỳ này.
                                        Vật hỏng tất phải chữa. Wallace đề xướng ra lối dân chủ mới trên truyền thống dân hữu, dân hưởng, dân trị cũ của Mỹ. Dân chủ mới có năm điển hình là: chính trị dân chủ, kinh tế dân chủ, giáo dục dân chủ, dân tộc dân chủ và nam nữ dân chủ.


                                        Tất cả các kỹ thuật cần dùng để xây đắp đời mới ấy, tác giả không nói ngoài những phương án hòa bình của quốc tế, nó họa may ấn định được đời sống dân chủ đó.


                                        Thế nhưng dân chủ phải gồm các điều kiện toàn dân trực tiếp, tập trung và chân thực, dân chủ ấy mới có thể vững chắc được. Muốn thế, ta không thể đề xướng ra một chủ nghĩa dân chủ mới rỗng tuếch như trên. Ta phải tìm đến tận cội rễ xã hội của nó mà chữa. Cho nên lý tắc của dân chủ là "làm nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi" (droit et devoir). Song ta thấy nghĩa vụ không chìu người. Muốn phục vụ hết nghĩa vụ, không có chỗ để giả nghĩa vụ đó. Cho nên phải có một lý tắc của dân chủ mới: "Có cơ hội đó, làm nghĩa vụ đi để hưởng quyền lợi" (chance, droit et devoir). Tất yếu xã hội phải hoàn thành cái chế độ hiện thực của cơ hội quân đẳng, nghĩa vụ quân đẳng, quyền lợi quân đẳng mới có thể có được đời sống dân chủ trực tiếp, chân thực, toàn dân tập trung, thống quy dưới một hình thái xã hội có lý tưởng, phương châm, tổ chức và quy tắc, nghĩa là phải có một kế hoạch dân chủ, hay là một dân chủ xã hội hóa.


                                        Xã hội là một tổ chức nhân tính. Sự điều khiển nhân sinh phải bằng một chính trị có một tác dụng tích cực là thiết kế và chấp hành đi đôi với một giáo dưỡng trọn vẹn và đầy đủ, là khởi điểm và chung điểm của cái chính trị đó. Cho nên một kế hoạch dân chủ và một chế độ dân chủ xã hội hóa trọn vẹn là xây đắp trên nền tảng của những nguyên lý và quy tắc của bình sản kinh tế. Chỉ có thế ý nghĩa xã hội hóa mới đạt được những hiệu quả dự định của nó trong phạm vi khoáng đại của nhân loại; có thế, hiệu suất của đời sống loài người mới một ngày một tăng tiến theo cách thức và nguyên tắc của nhân loại học. Chế độ bình sản kinh tế phải phối hợp với một kết cấu xã hội hoàn toàn dân chủ theo hết ý nghĩa rộng của nó.


                                        Dân chủ làm cho loài người bất tri bất giác thực hành chính trị dân chủ trong cái tinh thần và tác dụng tối cao và sung sướng của vô chính phủ.

                                        Một kế hoạch dân chủ phải làm trên sự phối hợp chặt chẽ cái tinh thần của vô chính phủ, mới là dân chủ chân chính.


                               

                               


                              X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
                               Gió Ðáy thuộc Duy Dân Học Xã
                              xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam
                              ngày 7 tháng 10 năm 1969 ( Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt )

                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 27.03.2008 22:32:55 bởi Ngọc Lý >
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 35 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9