400 câu hỏi nữ giới cần biết
Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 4 của 6 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 79 bài trong đề mục
Asin 24.08.2004 14:52:47 (permalink)
84. Tâm trạng không vui có gây ảnh hưởng đến kinh nguyệt không?

Kinh nguyệt có bình thường hay không là do chức năng của hạ khâu não, tuyến yên, chức năng buồng trứng có bình thường hay không và có phối hợp ăn khớp với nhau hay không. Khi người phụ nữ có tâm trạng buồn rầu lo lắng, đau khổ như có tang, thất tình, sợ hãi hoặc có mâu thuẫn trong công tác, có thể làm thay đổi sự phối hợp điều tiết của hạ khâu não - tuyến yên - buồng trứng, khiến chức năng của buồng trứng rối loạn, vì thế làm kinh nguyệt thất thường, nếu thần kinh bị tổn thương nặng hơn thì có thể gây ra bế kinh, cho nên người phụ nữ phải luôn giữ được tâm trạng ổn định, đó mới là điều kiện quan trọng đầu tiên để kinh nguyệt ra đều đặn.

85. Vì sao những người béo hay quá gầy, kinh nguyệt đều thất thường?

Kinh nguyệt là chỉ sự chảy máu của tử cung do niêm mạc tử cung bong ra theo chu kỳ mà có. Sự thay đổi có tính chu kỳ đều đặn của kinh nguyệt là do hạ khâu não - tuyến yên - buồng trứng có sự điều tiết, ràng buộc lẫn nhau trong việc tiết ra các chất nộ tiết, trong đó có các chất kích thích của tuyến sinh dục nữ, đặc biệt là sự thay đổi lúc ra ào ạt, lúc ra ít của nội tiết tố oestrogen, vì thế làm hàm lượng oestrogen trong cơ thể ít đi và không còn, cộng với những hoạt động quá độ của lớp da tuyến thượng thận mà những người béo thường hay mắc và sự giảm sút chức năng của tuyến giáp trạng, khiến quá trình thay thế các nội tiết tố trong cơ thể bị rối loạn, làm ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng.

Vì thế kinh nguyệt bị thất thường, lượng kinh ra ít hoặc bị bế kinh. Những người béo phì có thể bị chứng kinh nguyệt không đều. Những người quá gầy cũng khiến chu kỳ kinh nguyệt bị ảnh hưởng. Nhìn chung, nếu trọng lượng cơ thể nhẹ hơn 10% trọng lượng cơ thể chuẩn hoặc nếu cơ thể bị gầy rộc đi trong một thời gian ngắn, việc điều tiết các chất nội tiết tố trong cơ thể bị rối loạn thì có thể làm cho chu kỳ kinh nguyệt trở nên thất thường, máu kinh trở nên loãng hơn, lượng máu kinh ra ít, thậm chí dẫn đến bế kinh. Qua đó có thể thấy, cơ thể béo phì ra quyết không phải cái gì cũng tượng trưng cho “sự phúc hậu”, cơ thể quá gầy cũng không phải là biểu hiện của “sự thon thả”. Vì vậy người béo quá thì phải tăng cường vận động, hạn chế ăn chất béo. Người gầy quá thì nên tăng cường bồi bổ, điều hòa thói quen ăn uống của mình, như vậy mới điều hòa được kinh nguyệt, cơ thể phát triển khỏe mạnh.

86. Thế nào là có kinh muộn? Việc thấy kinh muộn thường do yếu tố nào?

Đại đa số các cô gái đều thấy kinh lần đầu tiên trong độ tuổi 12, 13, đến 16, 17 tuổi. Nếu quá 18 tuổi mới thấy kinh thì gọi là “kinh muộn”. Một trong những nguyên nhân gây nên chứng kinh muộn là do cơ thể chậm phát triển. Vì cơ thể chậm phát triển nên bộ máy sinh dục cũng chậm phát triển, do đó kinh nguyệt có muộn. Còn đối với một số người cơ thể phát triển bình thường chiều cao, trọng lượng đều thích hợp, đặc trưng giới tính đã phát triển đầy đủ, nhưng vẫn chưa thấy kinh, điều này có thể bị ảnh hưởng bởi sự xúc động hay kích thích về tinh thần, tâm trạng, cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tác động của môi trường sống. Một nguyên nhân nữa là do nhân tố di truyền. Thông thường nếu người mẹ hay những người trong gia tộc đều có kinh muộn thì con cái cũng thấy kinh khá muộn. Cũng có trường hợp có kinh muộn là do ăn uống thất thường hoặc dinh dưỡng không đủ, thế nhưng những trường hợp này là khá hiếm

-----> healthy books <--------
#46
    Asin 27.08.2004 00:19:29 (permalink)
    87. Không có kinh nguyệt, có thể có con được hay không?

    Kinh nguyệt là biểu hiện của sự phát triển bình thường của bộ máy sinh dục nữ. Tuyệt đại đa số phụ nữ không có kinh nguyệt thì không thể có con. Bởi vì việc không có kinh nguyệt, tất yếu nói rõ rằng, một bộ phận nào đó trong bộ máy sinh dục bị trắc trở, hiển nhiên là không thể sinh đẻ được.

    Nhưng có mấy trường hợp đặc biệt, ví dụ như, có rất ít những phụ nữ trưởng thành đầy đủ, tuy buồng trứng và tử cung đã có những biến đổi theo đúng quy luật, nhưng đến cuối chu kỳ, niêm mạc tử cung không bong ra mà lại tự thoái hóa đi, cho nên không có hiện tượng hành kinh, được Đông y gọi là “ám kinh” (tức “hành kinh ngầm”). Những người như thế này tuy không hành kinh, nhưng vẫn rụng trứng bình thường, vì thế vẫn sinh đẻ được.

    Cá biệt có phụ nữ kết hôn quá sớm khi bộ máy sinh dục còn chưa phát triển hoàn thiện, vừa khéo chỉ sau một lần rụng trứng là đã có thai, tất nhiên trường hợp này cũng được coi là thụ thai không hành kinh. Ngoài ra, do mắc một số bệnh khiến người phụ nữ bị tắt kinh nên khi chức năng sinh sản vừa hồi phục trong quá trình điều trị đã thụ thai ngay, trường hợp này cũng coi như thụ thai không có kinh. Cho nên đối với những phụ nữ không có kinh nguyệt, phải đưa đi kiểm tra phụ khoa thật cẩn thận, sau khi xác định được nguyên nhân gây bệnh mới có thể kết luận có khả năng sinh đẻ hay không?

    88. Thế nào là xuất huyết thời kỳ rụng trứng? Thế nào là tiếp xúc có tính cọ xát?

    Trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường, bắt đầu từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 14 là ngày rụng trứng. Việc chảy một ít máu ở âm đạo trong thời kỳ này được gọi là xuất huyết thời kỳ rụng trứng. Trường hợp này là do nang noãn lúc đó bị phá vỡ, nội tiết tố oestrogen lúc tăng lên lúc giảm xuống, làm thay đổi sự lưu thông của mạch máu mà ra ngoài. Để theo dõi phân biệt sự xuất huyết của thời kỳ rụng trứng với các bệnh khác, cần chú ý đo nhiệt độ cơ bản của cơ thể. Nếu máu ra đúng vào ngày rụng trứng thì đó là xuất huyết thời kỳ rụng trứng.

    Việc chảy máu trong thời kỳ rụng trứng có thể không cần chữa trị gì nếu máu ra ít và nhanh hết còn nếu máu ra nhiều, có thể uống thuốc cầm máu với liều lượng thích hợp. Có lúc đồng thời với việc chảy máu thời kỳ rụng trứng, còn cảm thấy khó chịu và đau bụng dưới. Nếu đau nhẹ và ít, có thể chườm nóng vào bụng là khỏi. Nếu đau dữ dội, lại kéo dài thì nên mời bác sĩ đến khám và chữa trị. Cái gọi là chảy máu có tính cọ sát, đó là chỉ sự chảy máu do cổ tử cung, nhưng phần lớn thường hay chảy máu do sinh hoạt tình dục. Những trường hợp hay bị chảy máu nhiều lần, thường là bị các bệnh ung thư, viêm nhiễm nặng nên cần đến bệnh viện khám xét kỹ càng, ngoại trừ sự biến chuyển của các bệnh ác tính.

    89. Vì sao lại bị bế kinh trong tuổi dậy thì?

    Bế kinh thường được phân ra làm hai loại. Một loại là chỉ những cô gái đã quá 18 tuổi mà vẫn chưa hành kinh lần đầu tiên, những trường hợp này gọi là “bế kinh có tính nguyên phát”. Loại bế kinh thứ hai là chỉ những cô gái đã hành kinh theo một chu kỳ nhất định, bỗng tắt kinh từ 3 tháng trở lên, những trường hợp này gọi là “tắt kinh có tính kế phát”.

    Có loại bế kinh bình thường, có loại bế kinh bất bình thường. Loại bế kinh bình thường là những trường hợp thấy kinh muộn do di truyền. Còn trường hợp sau khi thấy kinh lần đầu tiên, kinh nguyệt lúc ra lúc không trong một hai năm đầu đều không có bệnh gì, không nên chạy chữa, hai ba năm sau sẽ tự đều đặn bình thường.

    Loại bế kinh bất bình thường thì có rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như tử cung non, màng trinh bít kín hoặc chức năng của tuyến yên ở dưới não của tuyến giáp trạng hoặc tuyến thượng thận là những bộ phận tiết ra các chất nội tiết tố bị mất điều hòa hoặc do buồng trứng bị viêm, phát dục không đầy đủ hoặc do tử cung có những thay đổi khác thường, ví dụ như kết hạc màng tử cung… thế nhưng những trường hợp như thế này là khá hiếm.

    Ngoài ra, có có một số bệnh khi mắc phải cũng có thể gây ra bế kinh, chẳng hạn như bệnh thiếu máu, bệnh giun móc… Bởi những bệnh này sẽ làm cho cơ thể thiếu dinh dưỡng, sức khỏe suy yếu, việc tiết ra các chất nội tiết tố bị suy giảm, niêm mạc tử cung phản ứng không bình thường đối với các nôi tiết tố mà dẫn đến tình trạng bế kinh. Tuy vậy, đại đa số những trường hợp bế kinh có tính bệnh lý trong tuổi dậy thì đều có liên quan tới chức năng điều tiết của hệ thống thần kinh não. Nếu tâm trạng buồn phiền lo lắng, căng thẳng quá độ, môi trường thay đổi hoặc khí hậu có những thay đổi đột ngột, mưa dầm dề, cóng lạnh, mệt mỏi quá độ v.v… sẽ làm cho não, thần kinh bị tác động mà gây ra bế kinh. Có thể thấy rằng, việc giữ vệ sinh kinh nguyệt, lao động nghỉ ngơi thích hợp, giữ cho tinh thần vui vẻ thì có thể tránh được bế kinh.

    90. Thế nào là bế kinh có tính sinh lý?

    Những phụ nữ đã quá 18 tuổi mà vẫn chưa hành kinh hoặc đã hành kinh theo một chu kỳ nhất định nhưng tự nhiên bị tắt kinh từ 3 tháng trở lên, đều gọi là bế kinh. Những cô gái đã quá tuổi 18 mà vẫn chưa hành kinh thì gọi là bế kinh có tính nguyên phát còn loại thứ hai thì gọi là bế kinh có tính kế phát.

    Bế kinh được phân thành hai loại gồm bế kinh có tính sinh lý và bế kinh có tính bệnh lý. Bế kinh có tính sinh lý chỉ là một hiện tượng bình thường. Trong hai ba năm đầu của tuổi dậy thì, sau khi người con gái đã bắt đầu hành kinh, do chức năng nội tiết của buồng trứng còn chưa được ổn định nên kinh nguyệt hay thất thường. Sau khi người phụ nữ có thai, do hoàng thể của buồng trứng tiết ra một lượng lớn hoàng thể tố (tức progestin), kích thích niêm mạc tử cung không ngừng phát triển mà không hề bong ra nên người phụ nữ không có kinh nguyệt hàng tháng nữa. Sau khi đẻ, hồi phục lại chức năng của buồng trứng đòi hỏi phải có một thời gian nhất định. Việc cho con bú cũng có tác dụng hạn chế nhất định đối với buồng trứng, nên thời gian để người phụ nữ hành kinh trở lại cũng có những thay đổi. Khi người phụ nữ đã ngoài 40 tuổi, do chức năng của buồng trứng dần dần thoái hóa làm niêm mạc tử cung thiếu mất sự kích thích có tính chu kỳ nên kinh nguyệt thường mấy tháng mới có một lần cho đến khi sạch kinh. Những hiện tượng bế kinh xảy ra trong tuổi dậy thì, khi mang thai, khi đang cho con bú và trong tuổi mãn kinh được gọi là bế kinh có tính sinh lý là hiện tượng bình thường.

    91. Thế nào là bế kinh có tính bệnh lý? Nguyên nhân phát sinh từ đâu?

    Tắt kinh do có bệnh tật ở một bộ phận nào đó trong bộ máy sinh dục hoặc do bị bệnh trong cơ thể gây ra được gọi là bế kinh có tính sinh lý. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bế kinh có tính bệnh lý. Khái quát lại thì có thể chia thành 7 nguyên nhân gồm:

    1. Nhân tố tinh thần

    Sự thay đổi đột ngột của môi trường sống, sự biến đổi của khí hậu và những vết thương về tinh thần, sự sợ hãi, lo lắng buồn phiền, sự căng thẳng v.v… dưới tác dụng phản xạ của hệ thống thần kinh, sẽ làm ảnh hưởng đến chức năng nội tiết của tuyến sinh dục mà gây ra bế kinh.

    2. Dinh dưỡng kém

    Việc thiếu dinh dưỡng trong một thời gian dài, chẳng hạn như thiếu chất albumin, thiếu các loại vitamin… có thể gây trở ngại cho quá trình nội tiết mà dẫn đến bế kinh.

    3. Bệnh tật trong cơ thể

    Các bệnh truyền nhiễm cấp, mạn tính, bệnh thiếu máu nghiêm trọng, bệnh lao, bệnh thận, bệnh phong thấp, bệnh đái đường, sự rối loạn của nhiễm sắc thể giới tính v.v… thường làm ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng gây ra bế kinh.

    4. Tử cung bị bệnh

    Các trường hợp như: không có tử cung bẩm sinh hoặc không có niêm mạc tử cung, tử cung bị cắt bỏ, tử cung phát triển không hoàn thiện, nạo tử cung quá sâu, khoang tử cung dính liền lại với nhau hoặc chữa bệnh bằng phóng xạ; việc tử cung mắc các bệnh nặng như viêm niêm mạc tử cung có tính kết hạch, việc kéo dài thời gian cho trẻ bú hoặc mất điều hòa thần kinh huyết quản khiến tử cung khô héo hoặc làm mất niêm mạc tử cung… đều có thể gây nên bế kinh, khiến các nội tiết tố của buồng trứng không thể tác động được tới tử cung.

    5. Buồng trứng có bệnh

    Buồng trứng bị thiếu do bẩm sinh hoặc phát triển không tốt và phẫu thuật cắt bỏ hai bên buồng trứng hoặc sau khi điều trị bằng phóng xạ, hai bên buồng trứng bị u nang hoặc một bên buồng trứng bị phá hoại hoặc bị nhiễm chứng bệnh của buồng trứng đa nang… đều có thể làm cho bế kinh.

    6. Có vấn đề ở hạ khâu não

    Tuyến yên bị bệnh: chẳng hạn như bị cảm, bị viêm nhiễm làm cho tác dụng của tuyến yên kém hiệu quả hoặc uống thuốc tránh thai để ngăn cản tác động của hạ khâu não - tuyến yên, cũng dẫn đến bế kinh.

    7. Bệnh tật từ các tuyến nội tiết khác

    Nếu cơ năng sinh lý của tuyến giáp trạng quá mức bình thường hoặc yếu, khiến buồng trứng tác động kém tới các phản ứng của các nội tiết tố tuyến sinh dục, cộng với sự thay đổi của quá trình trao đổi chất trong cơ thể, dễ gây ra bế kinh hoặc tuyến thượng thận tăng sinh, có khối u hoặc chức năng hoạt động suy yếu, cũng làm cho bế kinh. Hơn nữa, còn phải chú ý rằng, có một số hiện tượng bế kinh giả, cũng gọi là bế kinh ẩn, tức là có sự thay đổi của kỳ kinh nguyệt nhưng do bị vách ngăn ngang âm đạo bẩm sinh, do màng trinh đóng kín, do âm đạo hoặc cổ tử cung bị đóng kín bẩm sinh hoặc bị tổn thương sau này, khiến máu kinh không thoát ra ngoài được mà gây ra bế kinh. Những bệnh nhân loại này thường bị đau bụng dưới có tính chu kỳ, thậm chí đau dữ dội theo từng tháng, khác những trường hợp bị bế kinh thực sự đã nêu ở trên

    ----> healthy books <------
    #47
      Asin 27.08.2004 00:21:08 (permalink)
      92. Phòng và điều trị bế kinh như thế nào?

      Để tránh bị bế kinh, trước hết phải chú ý giữ gìn vệ sinh kinh nguyệt. Do sức đề kháng của cơ thể trong chu kỳ kinh nguyệt khá yếu nên cần chú ý chế độ dinh dưỡng, sắp xếp hợp lý mọi sinh hoạt, công tác, tránh gây nên những căng thẳng kích thích về thần kinh và tránh bị cảm gió, cảm lạnh, tránh bị nhiễm các bệnh về kinh nguyệt.

      Ngoài ra còn phải chú ý giữ gìn vệ sinh trong giai đoạn cho con bú, bỏ thói quen cho con bú quá lâu, loại trừ những ổ nhiễm bệnh mạn tính, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, tránh nạo thai, nắm vững những ứng dụng của việc uống thuốc tránh thai, để ý phát hiện những khác thường trong cơ thể và kịp thời lý. Nếu làm được việc ngăn chặn ngay từ lúc chưa xảy ra thì có thể tránh được rất nhiều trường hợp bế kinh.

      Bế kinh không phải là một căn bệnh mà là một chứng trạng của rất nhiều bộ phận và sự thay đổi bệnh tật cả cơ thể. Bởi vậy trong việc chữa trị chứng bế kinh, cần sớm tìm ra nguyên nhân và bệnh lý của nó, sau đó chữa trị theo nguyên nhân. Nếu bị bế kinh do nhân tố thần kinh gây ra thì chỉ cần loại bỏ được lo lắng buồn phiền về thần kinh và gánh nặng tư tưởng, cải thiện hoàn cảnh thì kinh nguyệt sẽ trở lại bình thường.

      Nếu bị bế kinh do suy dinh dưỡng hoặc do bệnh tật trong người gây ra, chỉ cần nâng cao chế độ dinh dưỡng, trị đúng nguyên nhân gây bệnh, bổ sung đủ dinh dưỡng, cơ thể khỏe lên thì kinh nguyệt cũng trở lại bình thường.

      Nếu do tử cung phát triển kém hoặc do chức năng của buồng trứng, tuyến yên bị mất điều hòa mà dẫn đến bế kinh thì có thể uống loại vỉ thuốc tránh thai kết hợp, mỗi ngày uống một viên, liên tục trong 20 ngày thì ngừng. Nếu ra được kinh thì sẽ uống thuốc tiếp vào ngày thứ 5 (tính từ ngày bắt đầu hành kinh). Chất oestrogen chứa trong lượng thuốc này có tác dụng thúc tuyến yên tiết ra chất hoàng thể, từ đó làm tăng lượng oestrogen được tiết ra từ buồng trứng mà kích thích rụng trứng. Có thể uống liên tục trong 3 chu kỳ kinh. Những người bị suy giảm chức năng buồng trứng hoặc chức năng tuyến yên hoạt động quá mức bình thường đều có thể sử dụng thuốc này. Chữa trị bằng một chu kỳ nhân tạo, tức là mỗi ngày uống một loại 0,5 mg, uống liền 20 ngày, sau đó bắt đầu từ ngày từ ngày thứ 15 trong khi đang uống thuốc, mỗi ngày tiêm 10 mg chất hoàng thể vào cơ bắp. Sau khi đã hành kinh, lại bắt đầu chu trình điều trị thứ hai kể từ ngày hành kinh thứ 5.

      Ngoài ra, việc tác động vào chất kích thích tuyến sinh dục cũng có thể kích thích được chức năng của buồng trứng, làm rụng trứng, khôi phục lại kinh nguyệt. Chất nội tiết tuyến giáp trạng cũng có tác dụng nâng cao quá trình trao đổi chất, những người có sự trao đổi chất kém, cũng có thể áp dụng. Nếu bị bế kinh do khối u ở tuyến yên, buồng trứng hoặc do bị mắc chứng đa nang ở hai bên buồng trứng thì nên làm phẫu thuật ngay. Dùng thuốc Đông y rất giúp ích cho việc dưỡng máu bổ thận, thông khí hoạt huyết, thường có tác dụng thúc kinh ra nên có thể mời thầy thuốc Đông y kê đơn bốc thuốc điều trị.

      ------> healthy books <----------
      #48
        Asin 28.08.2004 05:00:05 (permalink)
        93.Những nguyên nhân nào có thể gây ra thống kinh? Khi bị thống kinh thì nên làm thế nào?

        Những trường hợp bị đau bụng dưới, đau mỏi thắt lưng vào trước và sau kỳ kinh hoặc trong lúc đang hành kinh, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến sinh hoạt, học tập và công tác, chính là chứng thống kinh.

        Theo thống kê không đầy đủ ở trong và ngoài nước, có khoảng trên 50% phụ nữ bị đau bụng ở những mức độ khác nhau trong khi hành kinh, trong đó 1/10 số phụ nữ bị đau dữ dội, thậm chí phải nằm nghỉ trong thời gian hành kinh, không thể làm việc hoặc tham gia học tập. Căn cứ vào nguyên nhân phát bệnh, có thể chia chứng thống kinh thành 2 loại gồm: chứng thống kinh có tính kế phát và chứng thống kinh có tính nguyên phát.

        Chứng thống kinh có tính nguyên phát là chứng đau bụng khi bắt đầu hành kinh, thường xuất hiện ở các cô gái trẻ tuổi chưa qua sinh nở.

        Chứng thống kinh có tính kế phát là chứng thống kinh do những biến đổi bệnh lý về khí chất của bộ máy sinh dục dẫn đến, cho nên được gọi là chứng thống kinh có tính khí chất, đa số hay xuất hiện ở các phụ nữ trung niên hoặc nhưng phụ nữ đã qua sinh đẻ.

        Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chứng thống kinh có tính nguyên phát. Một là do nhân tố tinh thần, những cô gái quá ưu tư, quá lo lắng, tinh thần căng thẳng hay bị thống kinh.

        Có một số nữ thanh niên do không hiểu về kinh nguyệt mà có tâm lý xấu hổ, sợ hãi, kinh ghét v.v… cũng bị thống kinh. Hai là do cơ bắp quá mạnh hoặc co bóp loạn xạ, ép mạnh vào mạch máu làm cho tử cung bị kích thích mà sinh ra đau bụng. Nếu cửa tử cung hoặc thân tử cung nhỏ hẹp, vị trí tử cung bị lệch đi hoặc tử cung quá cong, niêm mạc tử cung bong ra từng cục, có thể làm cho máu kinh không thông kích thích tử cung co bóp dữ dội mà gây ra đau bụng. Có người do tử cung phát triển không đầy đủ, gây nên sự co bóp không đều đặn nhịp nhàng nên cũng dễ bị chứng thống kinh. Ba là do nhân tố nội tiết. Rất nhiều bác sĩ cho rằng sự phát sinh của chứng thống kinh là do tử cung quá nhạy cảm với chất hoàng thể được tiết ra từ buồng trứng, nên đã co bóp quá mức, khiến cơ tử cung bị thiếu máu mà gây ra đau bụng. Cũng có người lại căn cứ vào chất tiền liệt tuyến của những phụ nữ bị thống kinh cao hơn của những phụ nữ bình thường; hơn nữa cũng trong một người, khi cơ thể đang trong thời gian thống kinh thì tố chất tiền liệt tuyến lại cao hơn lúc bình thường, vì thế mà cho rằng thống kinh có liên quan tới tố chất của tiền liệt tuyến.Các thầy thuốc Đông y cho rằng: người phụ nữ bị thống kinh là do khí huyết khó lưu thông, thậm chí “bất thông tắc thống” (tức “không thông thì sinh ra đau”). Nguyên nhân của nó là sau khi bị nội thương, bị cảm lạnh, và tinh thần bị căng thẳng v.v… Còn chứng thống kinh có tính kế phát phần lớn là do bộ máy sinh dục bị tật bệnh, chẳng hạn như chứng viêm khoang chậu, ung thư v.v… gây ra.

        Điều trị thống kinh, trước hết phải tìm ra nguyên nhân. Những người bị mắc chứng thống kinh có tính nguyên phát, chớ nên quá lo lắng căng thẳng. Việc rũ bỏ được những sợ hãi và lo lắng là vô cùng có lợi. Cần chú ý giữ vệ sinh khi hành kinh, hoạt động thích hợp, ăn nhiều rau, để thông đại tiện, giảm bớt sự xung huyết của khoang chậu. Khi đang hành kinh, không được uống nước lạnh không ăn các chất cay nóng, sẽ giúp giảm bớt phần nào cơn đau. Khi bị đau dữ dội, hãy lấy túi nước nóng chườm vào bụng dưới, có thể làm tăng sự vận hành của máu, khiến bụng bớt đau. Cũng có thể uống một số thuốc giảm đau, chẳng hạn như viên khử đau, Atropin, viên ninh khôn hoàn của Đông y, viên ngọc dịch kim đan. Có thể dùng thuốc điều kinh vào trước thời gian hành kinh mấy ngày, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 8 viên, uống trước bữa ăn, cứ uống như vậy cho đến khi hành kinh xong mà không thấy đau bụng nữa thì ngừng thuốc, hiệu quả khá tốt. Dùng cỏ ích mẫu 31 gam, gừng sống 36 gam, đường đỏ 6 gam hoặc hương phụ 9 gam, lá ngải tươi 9 gam, đường đỏ 63 gam, cho các vị thuốc này vào ấm sắc lấy nước uống; vừa đơn giản vừa công hiệu. Có thể lấy điếu ngải cứu khô châm lửa cứu ở giữa bụng dưới, mỗi lần cứu khoảng 10 phút thường có thể hết đau. Sau khi sử dụng các loại thuốc trên mà bệnh vẫn không chuyển, nên đến bệnh viện để khám và để bác sĩ xác định biện pháp điều trị. Nếu mắc chứng thống kinh có tính kế phát nên tích cực chữa khỏi những bệnh có tính nguyên phát, sau khi chữa khỏi thì chứng thống kinh cũng khỏi theo.

        -------> healthy books <-------
        #49
          Asin 29.08.2004 03:36:37 (permalink)
          94. Thế nào là chảy máu tử cung chức năng? Đặc điểm từng loại như thế nào?

          Có một số phụ nữ hành kinh rất bất thường chu kỳ kinh ngắn, thời gian hành kinh kéo quá dài, lượng máu hành kinh càng ngày càng nhiều lên, hơn nữa lại không tìm ra bệnh tật gì về khí chất của bộ máy sinh dục sau khi đã khám phụ khoa thì đều gọi là chảy máu tử cung có tính chức năng. Căn bệnh này thường xuất hiện trong thời kỳ cơ thể mất cân bằng về nội tiết tố trong tuổi dậy thì, tuổi hết kinh, sau khi đẻ hoặc sau khi sảy thai v.v… Người ta phân loại chảy máu tử cung có tính chức năng ra làm 2 loại gồm chảy máu không phóng noãn và chảy máu có phóng noãn là:

          1. Chảy máu không phóng noãn: Là trường hợp chảy máu thường hay gặp nhất, hay thấy xuất hiện trong tuổi dậy thì và tuổi mãn kinh. Biểu hiện của nó là chu kỳ kinh nguyệt trở nên thất thường, thường có tiền sử bế kinh trong một quãng thời gian nhất định trước khi bị chảy máu tử cung. Phần lớn chu kỳ kinh kéo dài, lượng máu hành kinh ra nhiều hoặc ra dầm dề không dứt. Khi máu ra nhiều, có thể gây ra bệnh thiếu máu. Máu ra nhưng không kèm theo đau bụng, đó là đặc trưng của loại bệnh này. Nhiệt độ cơ bản của cơ thể vẫn giữ nguyên vì không có sự rụng trứng.

          2. Chảy máu có phóng noãn: Thường hay gặp ở những người nạo thai hoặc sau khi đẻ đủ tháng. Ở những người này, chu kỳ kinh nguyệt thường đều đặn hoặc bị rút ngắn lại, thời gian chảy máu bị kéo dài (quá 7 ngày trở lên), lượng máu ra nhiều hoặc ít không đều nhau. Có thể chảy máu trước kỳ kinh, sau kỳ kinh vẫn dầm dề không ngớt, nhiệt độ cơ bản của cơ thể xuống 35 độ C.

          Chữa chảy máu tử cung do rối loạn chức năng như thế nào?

          Sau khi bị chảy máu tử cung do rối loạn chức năng, nên chú ý nghỉ ngơi đúng mức, tránh căng thẳng tinh thần, mệt mỏi quá độ hoặc vận động mạnh. Nếu máu ra nhiều nên nằm nghỉ ngơi để giảm bớt lượng máu chảy ở khoang chậu và phải uống thuốc co tử cung và thuốc cầm máu, ví dụ như uống các loại thuốc cầm máu để cấp cứu ngay như An lạc huyết, Tiên nha thảo và Vitamin K… Bài thuốc bốc sẵn của Đông y (gồm than Đương quy 9 gam, than Đan bì 9 gam, than Ngó sen 9 gam, viên keo ả rập 9 gam, hương phụ nướng 9 gam, than Bồ hoàng 9 gam, than Quán trọng 7 gam, than Trần tông 7,5 gam, Xuyên tục đoán 15 gam), hiệu quả cầm máu cũng rất tốt.

          Nếu thiếu máu, có thể uống thuốc bổ máu. Khi bị thiếu máu nặng, trong tình hình có điều kiện, vẫn nên tiếp máu, sau đó căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng các biện pháp điều trị khác nhau. Chẳng hạn, đối với những người bị chảy máu tử cung trong tuổi dậy thì, thường phải uống thuốc cầm máu trước, sau khi máu cầm sẽ tiến hành chữa theo chu kỳ, làm cho rụng trứng, khôi phục lại chức năng buồng trứng, nhưng phải do bác sĩ chỉ đạo tiến hành. Đối với phụ nữ đã có chồng, việc dùng thuốc viên để chữa khó cầm máu được, có thể phải nạo tử cung. Có khoảng một nửa số phụ nữ sau khi được xử lý xong, máu chảy ở tử cung dần dần được cầm lại.

          Đối với một số phụ nữ đang trong tuổi mãn kinh, việc điều trị bằng uống thuốc, nạo tử cung đều không có hiệu quả, có thể xem xét đến biện pháp cắt bỏ tử cung hoặc làm cho tuyệt kinh bằng cách chiếu tia phóng xạ vào niêm mạc tử cung, nhằm hủy diệt niêm mạc của tử cung, làm mạch máu cứng lại, để đạt được mục đích cầm máu. Hoặc dùng X quang chiếu sâu vào buồng trứng, tiêu diệt chức năng buồng trứng, làm cho tắt kinh vĩnh viễn, nhưng điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình trao đổi chất của toàn cơ thể, do đó bất đắc dĩ lắm mới dùng biện pháp này.

          -----------> healthy books <--------------
          #50
            Asin 31.08.2004 05:08:43 (permalink)
            98. Bạch đới là gì? Trong điều kiện bình thường bạch đới có thay đổi gì?

            Trong điều kiện sinh lý bình thường, huyết tương thấm qua các mạch máu nhỏ li ti, qua tổ chức hạch của thành âm đạo cùng với chất nhầy do dịch hạch và thân tuyến niêm mạc tử cung, thân tuyến cổ tử cung, tuyến lớn tiền đình và tuyến bàng quang niệu đạo… tiết ra, trộn lẫn với tế bào biểu mô tử cung trong âm đạo bong ra, với một ít bạch huyết, tế bào tự do, tạo thành một chất nhầy màu trắng sữa, giống như lòng trắng trứng gà hơi có mùi tanh, chính là bạch đới (ta vẫn gọi là khí hư). Bạch đới không những giúp cho âm đạo giữ được độ ẩm nhất định mà còn có tác dụng chống vi khuẩn của bệnh tật xâm nhập vào.

            Lượng bạch đới tiết ra và tính chất thái của bạch đới lúc bình thường được thay đổi tùy theo hàm lượng oestrogen trong cơ thể phụ nữ nhiều hay ít. Chẳng hạn như khi còn nhỏ bộ máy sinh dục còn chưa phát dục đầy đủ, nhìn chung trong âm đạo, không có các chất nội tiết nên không có bạch đới. Nếu thấy có bạch đới, phải đưa đi khám ngay để tìm nguyên nhân, điều trị kịp thời. Vào độ tuổi dậy thì, buồng trứng dần dần phát triển và tiết ra các chất kích thích, khiến bộ máy sinh dục sản sinh các chất nội tiết, vì thế mới có bạch đới.

            Đến tuổi trưởng thành, buồng trứng phát triển hoàn thiện, hàng tháng đều tiết ra nội tiết tố oestrogen và progesteron, vì thế làm cho bạch đới được thay đổi theo chu kỳ tùy theo hàm lượng nội tiết tố ra nhiều hay ít. Trong chu kỳ kinh nguyệt, khi lượng nội tiết tố oestrogen tăng lên, các tổ chức của thân tuyến cổ tử cung được tiết ra nhiều, hàm lượng nước trong nó cũng tăng lên, cho nên thấy xuất hiện loại chất nhầy như nước, như lòng trắng trứng, có thể kéo thành sợi, đặc biệt là trước đêm rụng trứng, chất nội tiết loại này càng nhiều, vì thế làm cho chị em phụ nữ luôn cảm thấy cửa mình ẩm ướt. Sau khi rụng trứng lượng nội tiết tố progesteron tăng lên, khống chế việc tiết ra chất nhầy của cổ tử cung, lúc này bạch đới có màu trắng sữa, dạng keo dính. Ngoài ra trong thời gian mang thai, ngày nóng, làm lao động nặng và khi bị kích thích tình dục, các chất nội tiết này cũng ra nhiều, khiến lượng bạch đới tăng lên, có lúc còn chảy thành dòng ra ngoài. Cho nên trong điều kiện sinh lý bình thường, bạch đới có lúc nhiều lúc ít, trạng thái của nó cũng có thay đổi, nhưng những hiện tượng này đều là hiện tượng bình thường, không cần để ý đến.

            99. Làm thế nào phân biệt được bạch đới sinh lý và bạch đới bệnh lý?

            Bạch đới sinh lý là loại bạch đới chịu tác động, ảnh hưởng của hàm lượng oestrogen trong cơ thể, thay đổi về số lượng và trạng thái tùy theo hàm lượng đó nhiều hay ít. Còn khi cơ thể mắc bệnh, tính chất của bạch đới cũng bị thay đổi. Vậy thì làm thế nào phân biệt được bạch đới có tính sinh lý hay bạch đới có tính bệnh lý? Thường phải hết sức chú ý theo dõi số lượng, màu sắc, trạng thái, mùi vị và các chứng bệnh kèm theo của bạch đới. Nếu bạch đới ra không nhiều, màu trắng sữa, dạng lòng trắng trứng, hơi có mùi tanh, nhưng cảm giác không có gì khó chịu thì thuộc dạng bạch đới sinh lý.

            Nếu bạch đới ra quá nhiều, thậm chí còn lẫn máu thì thuộc loại bạch đới có bệnh. Nếu bạch đới có màu vàng sạm, dạng bọt, có mùi hôi khẳn đồng thời bị ngứa đau ở âm hộ hoặc khi giao hợp bị đau v.v… phần lớn đều là viêm âm đạo dạng trùng roi. Khi bạch đới có màu trắng đục, thuộc thể bã đậu hoặc như cục sữa đông, có lúc còn có mùi hôi, kèm theo âm hộ bị ngứa, bị đau, phần lớn là viêm âm đạo dạng nấm. Còn nếu bạch đới có màu vàng hoặc màu mủ có mùi hôi thối, giống như nước gạo hoặc mủ, đa số đều thuộc dạng bị nhiễm vi khuẩn mưng mủ gây ra, chẳng hạn như viêm cổ tử cung mạn tính, viêm âm đạo người già và viêm niêm mạc tử cung. Nếu trong bạch đới có lẫn máu thì gọi là bạch đới đỏ hay xích bạch đới, thường thấy ở các bệnh viêm loét cổ tử cung ở mức độ nặng, thịt thừa cổ tử cung, khối u cổ tử cung, u xơ dưới màng nhầy v.v… Bạch đới dạng nước, là bạch đới loãng, có lúc giống như nước gạo, thường phát sinh từ các bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư thân tử cung, ung thư ống dẫn trứng v.v… cũng có lúc là bị chứng viêm hoặc mắc bệnh u xơ dưới màng nhầy cũng có thể ra bạch đới. Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân gây bạch đới có tính bệnh lý, đa số đều là các bệnh viêm nhiễm, cũng có cái là u ác tính, vì vậy cần phải kiểm tra kỹ bạch đới có bệnh, sau khi chuẩn đoán chính xác phải chữa trị kịp thời.

            -------> healthy books <--------
            #51
              Asin 05.09.2004 22:21:59 (permalink)
              100. Bạch đới đỏ thường có ở những bệnh nào?

              Khi thấy ra bạch đới đỏ (hay còn gọi xích bạch đới), phải nghĩ ngay đến các bệnh sau:

              1. U thịt (tức thịt thừa) cổ tử cung: Do bề mặt u thịt bị viêm, bị xung huyết nên máu thấm ra, lẫn vào với bạch đới chảy ra ngoài.

              2. Loét cổ tử cung nặng: Do cổ tử cung bị viêm loét mà máu ứa ra, hòa lẫn vào với bạch đới.

              3. Viêm âm đạo cấp: Chủ yếu là bạch đới dạng mủ, nhưng trong giai đoạn xung huyết cấp, có thể bạch đới lẫn máu.

              4. Viêm âm đạo tuổi già: Thường hay bị sau khi tắt kinh, có lúc bạch đới cũng lẫn máu và cảm thấy nóng bỏng ở âm hộ.

              5. U xơ dưới màng nhầy tử cung: Khi u xơ bong ra khỏi âm đạo, do bề mặt u xơ bị viêm loét, hoại tử nên có thể ra bạch đới lẫn máu.

              6. Ung thư cổ tử cung: Những người mắc bệnh ung thư cổ tử cung, dễ bị chảy máu khi có sự va chạm nếu bề mặt khối u còn bị loét thì sẽ có bạch đới lẫn máu kèm theo cả mùi hôi thối nấm xâm nhập vào, chủ yếu là chứng viêm do khuẩn nấm màu trắng gây ra. Nếu bị cả viêm âm đạo nấm thì gọi là viêm âm đạo, âm hộ dạng nấm.

              7. Viêm cửa mình trẻ em: Do trẻ êm mặc quần quá chật đũng, dễ bị nhiễm bẩn;do không thay tã lót kịp thời, vệ sinh đại tiểu tiện không sạch nên bị hăm, bị viêm da cửa mình; do bị các bệnh truyền nhiễm cấp, sức đề kháng của toàn thân giảm đi, những chỗ không giữ được sạch sẽ sẽ bị viêm nhiễm làm cho cửa mình bị viêm.

              8. Viêm tuyến lớn tiền đình, sưng nang.

              9. Mẩn ngứa cửa mình: Bệnh này thường phát ra ở chỗ tiếp giáp giữa màng nhầy và da. Bệnh làm hỏng bề mặt da, mọc lên nhiều nốt màu hồng bề mặt trở nên lồi lõm, có lúc rộp thành kiểu hoa rau, đây là do nhiễm phải chất độc của căn bệnh mẩn u cục mà dẫn đến tình trạng trên.

              10. Loét âm hộ cấp: Là một loại loét lành tính ở âm hộ không phải do sự tiếp xúc, cọ sát với vật gì đó gây ra. Vết loét có thể xuất hiện ở các bộ phận của âm hộ, phần lớn hay thấy ở mặt trong của môi lớn, môi nhỏ của âm hộ, rồi xuất hiện ở màng nhầy tiền đình và xung quanh cửa âm đạo. Thường phát bệnh cấp, phát triển nhanh, có thể bị sốt và toàn thân bị các chứng bệnh khác rất lạ, có lúc còn chảy ra các cục mủn rữa. Ung thư niêm mạc tử cung thì bạch đới phần lớn đều có dạng nước, có lúc ra lẫn một ít dung dịch máu.

              Do đó có thể thấy, việc ra bạch đới đó, ngoài bị các bệnh u thịt thuộc cổ tử cung, viêm âm đạo ra, phần lớn đều do các khối u, ung thư gây nên, cần hết sức chú ý. Tuy vậy, cũng có lúc do việc đặt vòng hạn chế sinh đẻ ở tử cung, khiến bạch đới có lẫn một ít tia máu, có thể là do vòng cọ sát vào niêm mạc tử cung mà gây ra chảy máu.

              101. Âm hộ phụ nữ dễ bị mắc những bệnh gì?

              Âm hộ phụ nữ có thể bị mắc rất nhiều bệnh. Những bệnh thường hay mắc gồm:

              1) Viêm cửa mình (viêm âm hộ): Do cửa mình phụ nữ là nơi thường xuyên có các chất nội tiết của âm đạo, máu hành kinh, khí hư chảy ra nếu không giữ được vệ sinh sạch sẽ thì có thể bị viêm. Khi bị viêm cấp tính có thể bị sưng to, chảy máu, bị loét hoặc bị mẩn ngứa từng mảng hoặc bị viêm lông hoặc bị viêm xung quanh lông , thậm chí còn mưng mủ cấp ở chân lông hoặc xung quanh tuyến nhầy dưới da. Nếu bị viêm cấp mà không chữa trị kịp thời thì bệnh sẽ chuyển sang mạn tính.

              2) Viêm cửa mình dạng nấm: Là do khuẩn nấm xâm nhập vào, chủ yếu là chứng viêm do khuẩn nấm màu trắng gây ra. Nếu bị nấm thì gọi là viêm âm đạo, âm hộ dạng nấm.

              3) Viêm cửa mình trẻ em: Do trẻ em mặc quần áo chật đũng, dễ nhiễm bẩn, do không thay tã lót kịp thời, vệ sinh đại tiểu tiện không sạch nên bị hăm, bị viêm da cửa mình, do bị các bệnh truyền nhiễm cấp, sức đề kháng của toàn thân giảm đi, những chỗ không được giữ gìn sạch sẽ dễ bị viêm nhiễm.

              4) Viêm tuyến lớn tiền đình, sưng nang.

              5) Mẩn ngứa cửa mình: Bệnh này thường phát ra ở chỗ tiếp giáp giữa màng nhầy và da. Bệnh làm hỏng bề mặt da, mọc lên nhiều nốt màu hồng nhạt , màu đỏ sẫm hoặc màu xám do làm cho bề mặt trở nên lồi lõm, có lúc rộp thành kiểu hoa rau, đây là do nhiễm phải chất độc của căn bệnh mẩn u cục mà dẫn đến tình trạng trên.

              6). Loét âm hộ cấp: Là một loại loét lành tính ở âm hộ không phải là do sự tiếp xúc, cọ sát với vật gì đó gây ra. Vết loét có thể xuất hiện ở các bộ phận ở âm hộ, phần lớn hay thấy ở mặt trong của môi lớn, môi nhỏ của âm hộ, rồi xuất hiện ở màng nhầy tiền đình và xung quanh cửa âm đạo. Thường phát bệnh cấp, phát triển nhanh có thể bị sốt và toàn thân bị các chứng bệnh khác.

              7). Viêm phù nề âm hộ dạng mạn tính: Căn bệnh này phần lớn là do mắc bệnh chân voi mà gây ra, biểu hiện là âm hộ hoăch một bộ phận nào đó của âm hộ bị sưng dày mãi lên, khi bị nặng thì gọi là bệnh da voi âm hộ, hay xuất hiện ở bộ phận âm vật, cũng có thể bị ở môi lớn, môi bé của âm hộ. Ngoài ra cũng có thể bị các bệnh khác như kết hạch ở âm hộ, sưng u cục ở âm hộ.

              --------->healthy books <-----------
              #52
                Asin 15.09.2004 09:31:25 (permalink)
                102. Vân trắng ở âm hộ là biểu hiện của chứng bệnh gì? Phòng chữa như thế nào?

                Vân trắng ở âm hộ thường do bệnh ngứa ở âm hộ gây ra, biểu hiện là xuất hiện từng đám vân trắng trên bề mặt âm hộ, lớp da dày cộp lên, cứng ra hoặc khi lớp da chỗ có vân trắng bị sây sát, nứt nẻ do ngứa gãi thì không những có cảm giác bị ngứa rát mà còn cảm thấy rất đau ở âm hộ. Vân trắng ở âm hộ là thuộc triệu chứng tiền ung thư trong biến chứng của bệnh vân trắng ở âm hộ nhưng không phải mọi biểu hiện của lớp da âm hộ bị chuyển sang màu trắng đều là bệnh vân trắng ở âm hộ.

                Tỷ lệ chuyển sang ác tính của bệnh vân trắng ở âm hộ khá cao, đạt 10-20%, cho nên cần làm tốt công tác phòng chống. Trước hết phải chú ý giữ gìn sạch sẽ vệ sinh âm hộ. Hàng ngày nên dùng nước ấm rửa sạch âm hộ 2 lần, chớ dùng thuốc pha ra để rửa âm hộ. Nếu bị viêm cổ tử cung hoặc viêm âm đạo nên sớm chữa trị, để làm giảm sự tác động của bạch đới đối với lớp da âm hộ. Nếu phát hiện thấy lớp da âm hộ chuyển sang màu trắng, bị ngứa, bạch đới ra nhiều nên kịp thời đi khám, khi cần sẽ làm sinh thiết bệnh lý, để chuẩn đoán chính xác rõ ràng, dù kết quả kiểm tra là âm tính, cũng vẫn phải chú ý theo dõi sự phát triển của bệnh trạng. Muốn theo dõi mức độ âm hộ bị mẩn ngứa tăng lên như thế nào, bản thân có thể lấy gương soi vào âm hộ để xem vết vân trắng có phát triển rộng ra hay không. Nếu phát hiện thấy bệnh tiến triển thì hãy đi khám sinh thiết một lần. Đối với việc điều trị bệnh vân trắng, phải theo chỉ dẫn của bác sĩ. Có thể dùng bài thuốc Đông y gồm các vị sau: kim ngân hoa, sa sàng tử, quả bạch tật lê… sắc lấy nước uống và rửa chỗ ngứa, đồng thời chiếu tia laser vào, điều trị bằng cách làm đông lạnh chỗ ngứa. Nếu bệnh tiến triển ở mức độ trung bình và nặng hoặc tuổi đã cao, qua điều trị vẫn không khỏi thì có thể cắt bỏ phía ngoài âm hộ.

                103. Ung thư ở âm hộ có những biểu hiện gì? Chữa trị như thế nào?

                Ung thư ở âm hộ chiếm vị trí thứ tư sau các bệnh ung thư ở bộ máy sinh dục nữ. Phụ nữ châu Á thường phát bệnh này ở độ tuổi trên dưới 50. Biểu hiện của thời kỳ đầu thường không rõ ràng nên hay bị bỏ qua. Có người chỉ bị một nốt hạch nhỏ và cứng ở âm hộ nên có thể không tự linh cảm thấy bị bệnh một cách rõ ràng. Có lúc chỉ thấy bị loét sau khi bị sây sát ở bề mặt lớp da âm hộ, không thấy đau thấy ngứa. Nếu đó là bệnh vân trắng ở âm hộ chuyển thành bệnh ung thư âm hộ thì triệu chứng nổi bật nhất là mẩn ngứa âm hộ, từng chỗ có thể nhìn thấy rõ vết cào xước. Nếu bệnh tình phát triển thì bệnh sẽ tiến triển hình thành hoa, hình vết loét, háng sưng hạc lùn, pha to và cố định, cửa mình chảy ra nhiều mủ hoặc chất có lẫn máu. Nếu bị viêm nhiễm kế phát hoặc do khối u sưng ăn sâu vào bên trong đè vào dây thần kinh âm hộ thì thường cảm thấy đau, mệt, đi đái nhiều, đái đau, đi đái khó khăn, táo bón.

                Để sớm phát hiện ra ung thư âm hộ và kịp thời chữa trị, nếu thấy có hạch cứng ở bộ phận âm hộ, có vết loét hoặc sưng thành cục, phải lập tức đến bệnh viện khám, có thể cắt lấy một miếng da hoặc một ít tổ chức dưới da ở chỗ nghi ngờ, đưa vào xét nghiệm sinh lý. Sau khi chuẩn đoán chính xác, phẫu thuật cắt bỏ là biện pháp chữa trị đầu tiên. Nếu khối u sưng to ăn sâu vào niệu đạo, khi tiểu tiện khó khăn, có thể điều trị bằng tia phóng xạ, nhưng do bề mặt lớp da âm hộ ẩm ướt, sức chịu đựng tia phóng xạ kém, dễ bị bỏng và hoại tử, hơn nữa tế bào ung thư lại rất phân tán, không nhạy cảm với tia phóng xạ nên ít dùng đến. Việc điều trị bằng chất hóa học cũng có tác dụng nhất định, có thể kết hợp điều trị.

                ----------> healthy books <----------
                #53
                  Asin 15.09.2004 09:34:34 (permalink)
                  104. Vì sao âm hộ lại mẩn ngứa? Khi âm hộ bị mẩn ngứa nên làm thế nào?

                  Phụ nữ ở bất cứ độ tuổi nào cũng có thể bị mẩn ngứa âm hộ, nhưng đa số hay bị ở những phụ nữ đang độ tuổi mãn kinh. Khi bệnh còn nhẹ thường hay ngứa về đêm, ngứa rất khó chịu, thoắt ngứa thoắt hết. Do ngứa không chịu được nên phải gãi vào chỗ ngứa, thậm chí gãi xước cả da mà vẫn không hết ngứa, vì vậy ảnh hưởng đến sự nghỉ ngơi và giấc ngủ cá nhân.

                  Có rất nhiều nguyên nhân làm cho âm hộ bị ngứa. Chẳng hạn như mặc quần lót ẩm và dày, khiến âm hộ luôn bị ẩm, làm cho da bị ngâm mềm ra mà bị hăm. Những phụ nữ mập béo, hai bên đùi hay cọ sát vào nhau, mồ hôi lại ra nhiều, chất nhờn dưới da cũng tiết ra nhiều, cũng có thể là nguyên nhân gây ngứa ngáy ở âm hộ. Bạch đới ra quá nhiều do bị các chứng viêm như viêm âm đạo thể trùng roi, viêm âm hộ thể nấm, viêm cổ tử cung, u thịt thừa cổ tử cung hoặc có thai hoặc bị ung thư khoang chậu hoặc thể chất suy yếu… đều có thể làm âm hộ bị ngứa. Những phụ nữ trong các trường hợp này, do bạch đới ra quá nhiều, làm âm hộ luôn luôn ẩm ướt kích thích đến da khiến âm hộ bị ngứa.

                  Còn các nguyên nhân khác như sự kích thích của nước tiểu, ảnh hưởng của bệnh ngứa hậu môn, các bệnh ở âm hộ (ví dụ như bệnh căng phòng tĩnh mạch âm hộ, bệnh vân trắng ở âm hộ, bệnh ngoài da…), ảnh hưởng của các bệnh như thiếu vitamin A và B, bệnh đái đường, bệnh hoàng đản; hoặc cơ thể quá mẫn cảm (với các chất sợi hóa học, vòng tránh thai hoặc thuốc tránh thai, thuốc uống…). Đó đều là những nguyên nhân gây ngứa âm hộ.

                  Khi bị ngứa ở âm hộ, phải đi khám tìm ra nguyên nhân ngay, trị đúng nguyên nhân gây bệnh, đồng thời phải mặc loại quần áo rộng, mềm, mỏng, không được mặc quần áo quá dày; phải vệ sinh âm hộ sạch sẽ, hàng ngày dùng khăn mặt bông thấm nước ấm lau nhẹ, không được lấy xà phòng sát mạnh, càng không được dùng nước nóng để làm cho đỡ ngứa, vì việc dùng nước nóng làm cho đỡ ngứa chỉ giải quyết được cảm giác ngứa trong chốc lát. Khi âm hộ bị xung huyết quá độ, có thể làm cho mút dây thần kinh hưng phấn cao, khiến bệnh nặng thêm. Sau khi tắm rửa xong, âm hộ mềm mại ra, không còn bị bất cứ một chất nào xâm nhập vào, như trẻ sơ sinh được thoa lên mình một lớp phấn tắm. Muốn giữ cho âm hộ sạch sẽ, khô ráo, không được dùng các loại thuốc linh tinh, để tránh làm tổn thương làn da âm hộ, thậm chí làm âm hộ bị sưng mọng lên, chảy nước, viêm nhiễm tiếp.

                  105. Khi bị viêm tuyến lớn tiền đình, thường có những biểu hiện lâm sàng nào? Việc chữa trị nên tiến hành như thế nào?

                  Tuyến lớn tiền đình nằm ở phía sau môi lớn âm hộ. Với những đặc điểm của vị trí này, tuyến lớn tiền đình rất dễ bị viêm nhiễm. Khi bị cấp tính, ống tuyến bị viêm do vi khuẩn xâm nhập vào, có chỗ đỏ lên, sưng, nóng, đau, có thể gây sốt toàn thân. Do màng nhầy của thân tuyến mọng lên xung huyết, ấn nhẹ vào thân tuyến có lúc có thể có dịch mủ từ trong miệng ống tuyến chảy ra.Khi ống tuyến sưng to bít chặt cửa ống lại, các chất nội tiết từ bên trong tiết ra không thoát được ra ngoài, thành mủ và nhanh chóng lan rộng, có chỗ mưng thành cục mủ to rõ rệt. Có người bệnh, vết mưng nủ có thể vỡ ra, chẳng hạn như vết vỡ khá to, có thể dẫn lưu được các chất khác ra ngoài, khiến bệnh nhanh chóng rút đi và khỏi hẳn. Nếu vết vỡ nhỏ, việc dẫn lưu không thông, bệnh có thể tái phát. Cũng có người sau khi điều trị đã khỏi chứng viêm cấp, dịch mủ tiêu đi thành bọng nước trong, có cái to có cái nhỏ, thông thường bọng nước này không to hơn quả trứng gà, có thể tồn tại trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài trong nhiều năm, không có bệnh gì, nhưng cũng có thể bị viêm lại nhiều lần.

                  Sau khi phát hiện ra mình bị viêm tuyến lớn tiền đình, phải chú ý nghỉ ngơi, uống thuốc kháng sinh và đi khám bệnh, làm phẫu thuật cắt bỏ hoặc thông ống tuyến tùy theo tình trạng mưng mủ ở tuyến như thế nào. Sau khi làm phẫu thuật xong sẽ bình phục nhanh chóng

                  --------> healthy books <---------
                  #54
                    Asin 15.09.2004 09:36:12 (permalink)
                    106. Thế nào là viêm âm đạo thể nấm? Việc chữa trị ra sao?

                    Có rất nhiều loại khuẩn nấm. Viêm âm đạo thể nấm chủ yếu là bệnh viêm âm đạo do khuẩn nấm trắng gây ra. Loại bệnh này có thể lây trực tiếp thông qua giao hợp, cũng có thể lây gián tiếp qua việc tắm chung ở các bể tắm công cộng, bể bơi, ngồi hố xí bệt, mặc chung quần áo hoặc dùng chung dụng cụ khám bệnh… Căn bệnh này thường hay gặp ở những phụ nữ có thai, những người bị mắc bệnh đái đường hoặc những người sử dụng kháng sinh lâu dài, cũng có khi bệnh này có liên quan với bệnh “nấm ở chân”. Đặc biệt là đối với bé gái và người già, do lượng nội tiết tố oestrogen tiết ra ít nên sức đề kháng của âm đạo kém, rất dễ bị viêm chứng bệnh này. Triệu chứng chủ yếu của căn bệnh này là bạch đới ra nhiều, ra giống như bã đậu, có màu trắng sữa, âm hộ hoặc âm đạo rất ngứa, có lúc cảm thấy nóng rát, đi đái liên tục, đi đái cảm thấy buốt, khi giao hợp thì bị đau…

                    Bệnh viêm âm đạo thể nấm làm cho âm đạo ngứa ngáy khó chịu, ảnh hưởng đến giấc ngủ và công tác, vì thế phải tích cực đề phòng. Trước hết, với người trong gia đình, phải dùng riêng chậu, riêng khăn. Chậu, khăn rửa chân, lau chân của mình cũng phải dùng riêng ra với chậu, khăn để rửa, lau âm hộ phải thường xuyên khử trùng bằng nước sôi, phải thường xuyên thay giặt quần lót. Ngoài ra phải tắm theo kiểu múc nước dội, ngồi hố xí xổm, cách ly hẳn với các nguồn truyền bệnh. Những người mắc bệnh đái đường phải luôn luôn rửa sạch âm hộ, giữ âm hộ sạch sẽ. Điều trị chủ yếu bằng canxi bicar - bonat loại 4% và dung dịch per manganat kali 1:5000, dùng thuốc này để rửa âm đạo, ở âm hộ thì bôi loại thuốc chống nấm, trong âm đạo thì đặt thuốc viên chống khuẩn hoặc chống nấm hoặc dùng bài thuốc Đông y gồm các vị sà sàng tử 30 gam, hoàng bá 15 gam, sâm (khổ sẩm) 15 gam, phèn khô 15 gam, hoắc hương 15 gam, đại hoàng 15 gam, đem đun kỹ, lấy nước xông rửa âm hộ, mỗi ngày 1 lần. Phải hết sức kiên trì khi dùng thuốc, không được vừa thấy bệnh đõ đã ngừng chữa ngay, bởi loại bệnh này có thể lây qua đường ình dục nên trong thời gian chữa bệnh tốt nhất không được giao hợp hoặc cả hai vợ chồng cùng chữa bệnh, để bệnh khỏi triệt để.

                    107. Viêm âm đạo thể trùng roi được phát sinh như thế nào? Phòng chữa ra sao?

                    Viêm âm đạo thể trùng roi là một loại bệnh viêm âm đạo thường gặp do loại trùng roi có lông gây nên. Phương thức của bệnh này gồm:

                    - Một là lây trực tiếp qua việc cọ xát, tức là trong bộ máy sinh dục nam (trong đường tiết niệu) có trùng roi sống ký sinh nên khi giao hợp thì truyền cho phía nữ.

                    - Hai là tắm chung trong bể tắm công cộng, dùng chung khăn tắm, chậu rửa, hố xí bệt đã bị nhiễm bẩn, đều có thể bị lây gián tiếp mà sinh ra mắc bệnh. Sau khi bị bệnh, thành âm đạo bị xung huyết, các chất tiết ra trong âm đạo nhiều lên nên bạc đới ra nhiều, có màu vàng nhạt, có lúc giống như màu mủ xanh vàng, đặc điểm của nó là thường có bọt ra theo có mùi thối, lúc nặng có thể ra lẫn máu. Loại bạch đới này chảy ra âm hộ, gây cảm giác bỏng rát hoặc ngứa ngáy như có dòi bọ ở âm hộ và âm đạo hoặc cảm thấy đau đớn. Khi trùng roi xâm nhập vào đến niệu đạo, tuyến bàng quang niệu đạo thì sẽ đi đái liên tục, bị chứng niệu cấp. Khi cả bàng quang cũng bị viêm thì sẽ bị đi đái buốt. Nếu đến bệnh viện khám bệnh, có thể tìm thấy trùng roi âm đạo trong các chất tiết ra từ âm đạo.

                    Bệnh viêm âm đạo thể trùng roi hơi khó chữa vì thế phải tích cực phòng chống, chữa bệnh triệt để. Phương pháp phòng chống là phải tắm theo kiểu múc nước dội hoặc tắm vòi hoa sen, dùng hố xí xổm, không dùng chung khăn tắm, chậu rửa, khăn lau chân v.v…Khăn tắm, chậu rửa của bản thân mình phải thường xuyên phải được khử trùng bằng nước sôi (ngâm khoảng 20 phút). Ngoài ra, cũng có một số người tuy có trùng roi, nhưng lại không bị bệnh cho nên phải cách ly hẳn với những nguồn có khả năng gây bệnh, phải làm tốt công tác kiểm tra thường xuyên, kịp thời tìm ra những người có loại khuẩn này, để sớm điều trị. Việc chữa trị căn bệnh này, thường dùng thuốc uống để diệt khuẩn hoặc cũg có thể đặt thuốc vào trong âm đạo, có thể dùng dung dịch Acid acetic loại 0,5% để rửa. Và sau khi hành kinh xong,có thể đặt thuốc vào trong âm đạo, mỗi chu trình điều trị là 10 ngày.Cũng có thể dùng bài thuốc Đông y gồm sà sàng tử 30 gam, khổ sâm 15 gam, phèn khô 15 gam, bách bộ 15 gam, hoàng bá 15 gam, bạc hà 15 gam cho vào sắc lấy nước xông rửa âm hộ, mỗi ngày 1 lần, 10 ngày là một chu trình điều trị. Khi bệnh đã đỡ nhiều, phải đi kiểm tra lại, dù kết quả kiểm tra là am tính, cũng vẫn phải kiên trì điều trị tiếp 3 vòng kinh nữa, để bệnh khỏi hẳn.

                    --------->healthy books <---------
                    #55
                      Asin 15.09.2004 09:37:49 (permalink)
                      108. Viêm cổ tử cung là thế nào?

                      Viêm cổ tử cung là một trong những loại bệnh thường gặp của các loại bệnh phụ khoa của phụ nữ, được chia ra thành hai loại là viêm cấp và viêm mãn tính. Phần lớn những người bị viem cổ tử cung cấp đều là những người do bị rách, bị tổn thương cổ tử cung sau khi đẻ hoặc sau khi tổn thương tử cung sau khi sảy thai, khiến vi khuẩn xâm nhập vào mà gây ra, biểu hiện là cổ tử cung bị xung huyết từng chỗ, bị sưng mọng, lớp biểu mô bong ra; người bị nặng thì cổ tử cung có thể bị loét, bị hoại tử, chảy ra khá nhiều loại bạch đới có mủ, bụng dưới căng lên, nhưng do cảm giác ở cổ tử cung chậm nên khó phát triển, thường bệnh hay chuyển sang mạn tính. Viêm cổ tử cung mạn là căn bệnh do bệnh viêm cổ tử cung cấp chuyển sang, cũng có trường hợp do sử dụng các loại thuốc có tính kiềm, tính acid lâu dài hoặc do nội tiết khác thường, tiết ra trong âm đạo nhiều chất có tính bệnh lý làm mềm cổ tử cung, làm lớp biểu mô cổ tử cung bị ngâm trong các chất nhầy, rồi bị bong ra, khiến vi khuẩn có thể xâm nhập vào mà gây nên bệnh.

                      Trong số những phụ nữ đã sinh bình thường, cứ khoảng 8-9 người trong số 10 người bị viêm cổ tử cung có mức độ do viêm nhiễm khác nhau. Biểu hiện của viêm cổ tử cung mạn là cổ tử cung bị loét trợt, cổ tử cung sưng to, cổ tử cung có u thịt thừa và có bọng nước ở thân tuyến cổ tử cung. Trong đó, chứng loét trợt cổ tử cung là chứng bệnh hay bị nhất. Triệu chứng chính của bệnh viêm cổ tử cung mạn là bạch đới ra nhiều, trong bạch đới có chất nhầy màu trắng hoặc có mủ vàng nhạt. Khi có kèm theo u thịt thừa thì sẽ ra bạch đới lẫn máu hoặc ra máu sau khi giao hợp. Khi chứng viêm ăn dọc dây chằng đáy tử cung lan đến khoang chậu, có thể làm vùng thắt lưng xương cụt bị đau, khiến khoang chậu đau quặn và gây đau buốt khi giao hợp. Cũng có người còn bị đi giải liên tục và bị chứng niệu cấp.

                      109. Thế nào là bệnh loét trợt cổ tử cung?

                      Loét cổ tử cung là một loại bệnh của viêm cổ tử cung, là căn bệnh do bề mặt cổ tử cung bị viêm đã tiết ra khá nhiều mủ, dung dịch mủ này làm lớp biểu mô của cổ tử cung mềm nhũn ra, chết đi rồi bong ra từng mảng, bề mặt cổ tử cung sau đó lại mọc lên một lớp biểu mô mới, nhưng do lớp biểu mô mới này khá mỏng và trong suốt, làm nổi rõ mạch máu và các tổ chức ở trong, nhìn giống như một vật bị thối rữa, bóng đỏ, cho nên gọi là bệnh loét trợt cổ tử cung. Bệnh loét trợt cổ tử cung thường phân ra làm 3 mức, nếu diện tích bị loét nhỏ hơn 1/3 diện tích cổ tử cung, thì gọi là loét nhẹ; nếu diện tích bị loét chiếm 1/2 diện tích cổ tử cung thì gọi là loét vừa (tức loét trung bình); nếu diện tích bị loét vượt quá 1/2 diện tích cổ tử cung thì gọi là loét nặng.

                      110. Phòng chống bệnh viêm loét cổ tử cung như thế nào?

                      Để phòng chữa bệnh viêm loét cổ tử cung được tốt phải hết sức chú ý giữ vệ sinh nửa cơ thể dưới. Mỗi tối đều phải rửa sạch cửa mình, giữ sạch sẽ bộ phận hội âm, thường xuyên thay giặt quần lót. Chú ý giữ vệ sinh trong thời kỳ kinh nguyệt và khi sinh hoạt tình dục. Xin chớ tự phá thai, nạo thai. Khi sinh đẻ, cố gắng tránh không để rách cổ tử cung. Nếu phát hiện thấy cổ tử cung bị rách thật sự, phải nhanh chóng khâu lại ngay. Khi kiểm tra lại cơ thể sau khi đẻ, càng phải chú ý xem cổ tử cung đã bình phục hay chưa. Nếu phát hiện thấy cổ tử cung bị viêm, phải chữa ngay. Kịp thời chữa khỏi chứng viêm đường âm đạo cũng là một mắt xích quan trọng để phòng tránh chứng viêm cổ tử cung.

                      Nếu không kịp thời, tích cực chữa trị chứng viêm cổ tử cung, không những có thể bị chuyển sang viêm mạn tính mà lớp mủ đặc dính do cổ tử cung tiết ra còn ngăn không cho tinh trùng đi qua, khiến người mẹ không thụ thai được, vì thế phải rất tích cực chữa trị. Khi chữa bệnh, phải đặt loại thuốc kháng sinh đặc trị vào chính chỗ bị viêm và uống cả kháng sinh dùng cho toàn thân, đồng thời phải tạm ngứng sinh hoạt tình dục. Có rất nhiều phương pháp chữa bệnh viêm cổ tử cung mạn. Có thể bôi các loại thuốc như Nitrat bạc 25 - 50%, Permanganat ka-li loại 40% hoặc kết tinh acid crôm nguyên chất vào chỗ loét, kết quả điều trị khá tốt. Các phương pháp chữa trị khác như đốt điện, là điện, phẫu thuật lạnh, chiếu laser, cắt bỏ,v.v…đều có thể áp dụng được. Phương pháp đốt điện va là điện là phương pháp dùng dòng điện cực nóng đốt vào lớp biểu mô bị viêm, để giúp cho lớp da non mọc tốt hơn. Phương pháp phẫu thuật lạnh là phương pháp lợi dụng dung dịch ni-tơ đặc, chế tạo ra luồng nhiệt độ thấp từ 600 đến 1900, phun luồng nhiệt độ thấp đó vào chỗ bị loét, làm ngưng mạch máu ở chỗ bị viêm, khiến tổ chức bị viêm đông cứng lại, bị chết mà bong ra. Phương pháp chiếu tia laser là phương pháp dùng chùm tia laser phá hoại thân tuyết, lớp biểu mô của ổ bệnh. Đối với những người phải làm các phẫu thuật trên, chỉ cho phép tiến hành phẫu thuật sau khi họ đã sạch kinh được 3 ngày. Phương pháp phẫu thuật khoét chóp là phương pháp cắt bỏ lớp biểu mô bị viêm theo hình chóp. Hiệu quả của phương pháp này rất đảm bảo. Còn về việc áp dụng cách chữa trị nào cho thật thích hợp với từng người, đều phải do bác sĩ khám xét, tùy theo tình hình bệnh trạng cụ thể của mỗi cá nhân mà xác định lựa chọn cho phù hợp. Đối với bệnh loét trợt cổ tử cung, để phân biẹt và loại trừ bệnh ung thư cổ tử cung, trước tiên phải làm sinh thiết cổ tử cung.

                      ---------> healthy books <--------
                      #56
                        Asin 20.09.2004 04:56:05 (permalink)
                        111. Thế nào là ung thư cổ tử cung? Ung thư cổ tử cung có những biểu hiện lâm sàng nào?

                        Ung thư cổ tử cung là khối u thường thấy ở phụ nữ, hay phát bệnh nhiều nhất ở độ tuổi 35 - 55 tuổi. Hiện vẫn chưa khẳng định được nguyên nhân gây nên ung thư cổ tử cung xuất phát từ đâu. Căn cứ vào một số tài liệu lâm sàng, có thể liên quan đến một số nhân tố khác sau:

                        1) Tảo hôn: Rất nhiều tài liệu thống kê đã chứng minh rằng, tuyệt đại đa số những người bị ung thư cổ tử cung đều là những phụ nữ đã lập gia đình, trong đó tỉ lệ phát bệnh ở những phụ nữ do tảo hôn, đẻ sớm, đẻ nhiều và đẻ quá dày lại khá cao. Điều này có thể có liên quan nhiều đến việc sinh hoạt tình dục quá nhiều cổ tử cung và những lần bị viêm nhiễm cổ tử cung ở những người đẻ sớm.

                        2) Rách cổ tử cung và loét trợt cổ tử cung: Việc cổ tử cung bị rách, bị nứt, nhất là những vết nặng, thường hay kèm theo viêm nhiễm, làm lớp biểu mô của cổ tử cung tăng sinh, thậm chí hình thành u thịt thừa mà chuyển thành ung thư.

                        3) Ảnh hưởng của việc đầu bao cao su bẩn: Đầu bao cao su bẩn cũng có tác động nhất định đối với việc phát bệnh ung thư: tỷ lệ phát bệnh ung thư ở những phụ nữ có chồng sử dụng bao cao su quá dài, đầu bao cao su bẩn là khá cao.

                        4) Do nhiễm virus: Người ta đã tìm thấy virus trong ung thư cổ tử cung của một số người, chứng tỏ khả năng gây bệnh ung thư cổ tử cung có liên quan tới virus.

                        5) Các nguyên nhân khác: Thần kinh căng thẳng, u uất làm ảnh hưởng tới một số quá trình trao đổi chất nào đó mà biến thành ung thư. Việc không chú ý giữ gìn vệ sinh khi sinh hoạt tình dục, chẳng hạn như giao hợp khi đang hành kinh, sinh hoạt tình dục quá sớm sau khi đẻ, đều là những nhân tố có liên quan nhất định gây nên bệnh ung thư.

                        Những người mắc bệnh ung thư cổ tử cung phần lớn đều không cảm thấy có triệu chứng gì trong giai đoạn đầu. Khi kiểm tra sức khỏe chung cho mọi người, quá nửa số người này mới được phát hiện. Thường hay thấy bạch đới ra nhiều, nhất là sau khi đã hết kinh. Vì vậy nếu thấy bạch đới ra nhiều lên, phải hết sức cảnh giác, định kỳ khám và làm xét nghiệm sinh thiết cổ tử cung. Trong giai đoạn đầu mới bị bệnh, bạch đới (tức khí hư) trông giống như bạch đới bình thường, không có gì khác biệt. Nhưng cùng với sự phát triển của bệnh, bạch đới ra càng ngày càng nhiều, trông giống như nước vo gạo, có lúc còn lẫn ít máu. Nếu các tổ chức ung thư bị hoại tử thì bạch đới có mùi thối khẳn.

                        Song song với việc bạch đới ra càng ngày càng nhiều, triệu chứng đầu tiên của bệnh này là âm đạo ra máu, lúc đầu thường ra máu khi có sự tiếp xúc với âm đạo (ví dụ: vợ chồng sinh hoạt tình dục với nhau, táo bón phải rặn, khám phụ khoa…) lượng máu ra khá ít, thời gian cách quãng khá lâu. Khi bệnh tiến triển hơn, máu lại ra tiếp, số lần ra máu tăng lên, có trường hợp vì thế mà thành thiếu máu mạn tính. Đến giai đoạn cuối, máu ra nhiều hơn, có lúc còn làm cho bị hôn mê và bị sốc choáng.

                        Ở những bệnh nhân bị ung thư ở giai đoạn cuối, do khối u to lên ăn vào đến thành xương chậu và gần vào dây thần kinh, thường bị cơn đau liên tục ở vùng xương ống và xương cùng. Nếu khối u đè vào mạch máu của khung chậu, máu về không lưu thông được, sẽ làm cho chi dưới bị phù và đau đớn. Nếu khối u đè vào ống dẫn nước tiểu, sẽ làm cho bể thận hoặc ống dẫn nước tiểu tích nước tiểu lại, ống dẫn nước tiểu bị co giật, có thể gây ra những cơn đau bụng bị co giật ghê gớm.

                        Do tế bào ung thư ăn lan ra các nơi nên còn gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như: đi tiểu tiện liên tục, niệu cấp, đau quặn trực tràng… Do bị đau đớn và ra máu lâu dài, những bệnh nhân ung thư ở giai đoạn cuối thường gày tọp, đuối sức, ăn uống sút kém, đó chính là “cái chất của bệnh ác tính”.

                        ---------> healthy books <---------
                        #57
                          Asin 20.09.2004 04:57:37 (permalink)
                          112. Phòng chữa bệnh ung thư cổ tử cung như thế nào?

                          Việc không lập gia đình sớm, khi sinh đẻ có kế hoạch, tránh để rách cổ tử cung và bị loét trợt, chú ý giữ vệ sinh tình dục… đều là những biện pháp có ý nghĩa tích cực đối với việc phòng tránh bệnh ung thư cổ tử cung. Không những thời gian ủ bệnh của căn bệnh này khá dài mà quá trình tiến triển của bệnh sau khi đã hình thành tế bào ung thư cũng diễn ra chậm chạp. Nếu sớm phát hiện, kịp thời đều có thể chữa khỏi. Cho nên những phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, phải thường xuyên kiểm tra theo định kỳ và quan trọng nhất là phải xét nghiệm sinh thiết tế bào cổ tử cung.

                          Các phương pháp chữa bệnh ung thư cổ tử cung gồm: điều trị bằng tia phóng xạ, phẫu thuật cắt bỏ, điều trị bằng chất hóa học và bằng thuốc Đông y… Việc chữa bệnh bằng thuốc gì, cách gì, phải do bác sĩ sau khi khám xét, chẩn đoán rồi mới xác định. Nếu cổ tử cung và âm đạo của bệnh nhân chưa bị nặng bị teo tóp, bị hẹp, sự tiến triển của khối u tử cung vẫn giới hạn khoang chậu thì có thể điều trị bằng phóng xạ. Khi ung thư mới ở giai đoạn đầu, ung thư chưa bị di căn và ung thư cổ tử cung độ I thì có thể làm phẫu thuật bóc tách. Việc điều trị bằng chất hóa học, có thể áp dụng cho ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối hoặc kết hợp phẫu thuật và chiếu tia phóng xạ nhưng cách chữa này hiện vẫn còn đang thăm dò. Việc chữa ung thư bằng thuốc Đông y, đang có hiệu quả nhất định đối với điều trị ung thư ở giai đoạn cuối và điều trị các phản ứng xuất hiện sau khi đã phẫu thuật đã chiếu tia phóng xạ, đã điều trị hóa chất đối với các tế bào ung thư.

                          113. U xơ tử cung là căn bệnh gì?

                          U xơ tử cung là căn bệnh ung thư lành tính thường có trong bộ máy sinh dục nữ. Căn bệnh này ít thấy ở các cô gái đang tuổi dậy thì, phần lớn thường phát bệnh trong độ tuổi từ 30 - 50 tuổi. Đến nay người ta vẫn chưa rõ nguyên nhân gây bệnh, cũng có thể liên quan tới việc chất nội tiết tố oestrogen có quá nhiều và kích thích lâu dài trong cơ thể. Do vị trí u xơ tử cung nằm ở nhiều chỗ khác nhau nên có thể chia thành u dưới màng nhầy, u giữa thành cơ, u dưới màng dịch. Biểu hiện lâm sàng của u xơ tử cung thể hiện ở mấy phương diện sau:

                          1) Chảy máu tử cung: Chảy máu tử cung là triệu chứng hay gặp nhất của u xơ tử cung, biểu hiện là hành kinh ra quá nhiều, kỳ kinh kéo dài chu kỳ rối loạn, thường hay thấy nhất ở u xơ dưới màng nhầy và u xơ giữa thành cơ.

                          2) Nổi u cục ở bụng: U xơ dưới màng dịch thường không có triệu chứng gì rõ rệt. Khi u xơ lớn nhanh, có thể sờ thấy u cục ở bụng dưới nhất là vào lúc sáng sớm hay sẩm tối. Khi vị trí tử cung được đẩy lên, càng thấy rõ khối u.

                          3) Bạch đới ra nhiều: Do thân tuyến niêm mạc tử cung tiết ra nhiều chất nội tiết, khiến bạch đới tăng lên hoặc khi u xơ dưới màng nhầy bong ra khỏi của tử cung hoặc cửa âm đạo, do bề mặt bị loét, bị hoại tử, đã tiết ra một lượng lớn bạch đới có máu hoặc có mủ.

                          4) Có triệu chứng đè vào các tổ chức: Khi u xơ tử cung to lên, đè vào bàng quang có thể làm cho đi tiểu liên tục, bí đái, thậm chí sỏi thận. Nếu khối u đè vào trực tràng, có thể gây táo bón; nếu đè vào ống dẫn nước tiểu có thể làm cho bể thận, ống dẫn nước tiểu tích nước lại; đè vào dây thần kinh và tĩnh mạch trong và tĩnh mạch ngoài của xương cánh chậu, khiến máu về tĩnh mạch không thông, gây phù chi dưới.

                          5) Không có con được: Do u xơ ngăn cản trứng thụ tinh làm tổ trong dạ con hoặc làm ảnh hưởng đến tinh trùng, đến sự di chuyển của trứng đã thụ tinh, khiến 25 - 35% số người mắc bệnh không thụ thai được.

                          6) Các triệu chứng về hệ thống tuần hoàn: Do kinh nguyệt ra nhiều trong thời gian dài, thường dẫn đến bệnh thiếu máu, gây choáng, tim hồi hộp, đuối sức…

                          ----------> healthy books <--------
                          #58
                            Asin 09.11.2004 06:26:00 (permalink)
                            114. Nên làm thế nào khi phát hiện thấy u xơ tử cung?

                            U xơ tử cung là một loại u lành tính, chỉ bị biến chứng sang ác tính khoảng 1 -5%. Có người sau khi tắt kinh, u xơ thường teo đi, do đó không nên quá lo lắng căng thẳng khi thấy mình bị u xơ. Sau khi qua khám xét hội chuẩn, khối u, triệu chứng lâm sàng để xét xem liệu có cần duy trì chức năng sinh đẻ nữa hay không và căn cứ vào tình hình u xơ phát triển cùng các triệu chứng kèm theo để xác định biện pháp điều trị. Những người bị u xơ nếu gần đến độ tắt kinh hoặc các triệu chứng đã giảm đi sau khi tắt kinh hoặc nếu tuổi còn trẻ đã bị u xơ mà không thấy có bệnh trạng gì hoặc u xơ còn nhỏ không to hơn bào thai 3 tháng, không có gì đặc biệt hoặc tuy lượng máu kinh ra nhiều nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe, hơn nữa lại mắc bệnh có tính toàn thân, không phù hợp với phẫu thuật thì có thể điều trị bằng thuốc hoặc chiếu tia phóng xạ. Có thể uống Methyl testosteron. Có thể sử dụng các loại thuốc co tử cung và thuốc cầm máu như thuốc thúc đẻ nhanh và an lạc huyết, viêm cầm máu nhạy…

                            Dùng thuốc Đông y viên như quế chi, phục linh hoặc viên hoạt huyết hóa ứ hoặc viên làm tan u cục (âm Hán Việt là: nhuyễn kiện tán kết dược), cũng có tác dụng hoặc chữa trị nhất định. Đối với những bệnh nhân tuổi đã quá cao, sức khỏe không tốt hoặc bị kèm thêm các bệnh tim, thận không thể phẫu thuật được thì có thể xem xét điều trị bằng tia phóng xạ như chiếu phóng xạ ỏ bên ngoài cơ thể hoặc chiếu tia ra-di-um vào trong tử cung. Nếu kinh nguyệt ra quá nhiều, âm đạo ra máu thất thường, đã qua điều trị bằng thuốc mà không có hiệu quả, khối u sưng to kèm theo các triệu chứng đau đớn và bị chèn ép, u lớn hơn thai 3 tháng, lớn với tốc độ nhanh hoặc nghi ngờ có thể bị biến chứng thành u ác tính thì phải xem xét cẩn thận khi quyết định cắt bỏ tử cung. Có một số bệnh nhân trẻ, chỉ bị một u, lại muốn vẫn đảm bảo được khả năng sinh đẻ thì có thể làm phẫu thuật nạo bỏ khối u.

                            115. Thế nào là chứng mọc niêm mạc tử cung hay không đúng chỗ? Thường có những triệu chứng gì?

                            Các tổ chức dạng niêm mạc tử cung mọc ở trong các bộ phận và các tổ chức nằm ngoài khoang tử cung, các tổ chức dạng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ này cũng giống như niêm mạc tử cung bình thường, đều chịu sự kích thích của các nội tiết tố tiết ra từ buồng trứng, cũng tăng sinh tiết ra các chất chảy máu theo chu kỳ, từ đó gây nên hàng loạt về bệnh lý và triệu chứng lâm sàng được gọi là chứng mọc viêm niêm mạc tủ cung không đúng chỗ. Triệu chứng thường thấy của căn bệnh mọc niêm mạc tử cung không đúng chỗ gồm:

                            1) Đau bụng dưới theo chu kỳ: Chứng này có quan hệ mật thiết tới kinh nguyệt. Ban đầu, bụng luôn luôn chướng đầy và đau khi đến kỳ kinh và thường đau kéo dài đến khi sạch kinh. Sau đó, lượng máu tiết ra ở chỗ mọc niêm mạc không đúng chỗ ngày càng nhiều lên, khiến bụng đau dữ dội hơn. Báo chí nước ngoài cho biết: tỷ lệ thống kinh do niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ gây ra chiếm khoảng 50%. Nếu các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ở vùng dây chằng xương hông, xương cùng nó còn làm đau mỏi thắt lưng, xương hông rồi truyễn xuống hậu môn và làm người ta bị đau khi giao hợp.

                            2) Kinh nguyệt ra nhiều: Nếu các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ăn sâu vào trong cổ tử cung, nó có thể làm cho tử cung to ra, gây ảnh hưởng lớn đến chức năng co bóp của tử cung khiến máu ra nhiều hơn, cũng có thể do các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ở buồng trứng tạo thành các bọc nang, phá hoại kết cấu tổ chức của buồng trứng, làm ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng, khiến máu ra nhiều hơn cũng có trường hợp do máu ứ xung huyết trong khoang chậu, khiến kinh nguyệt ra quá nhiều máu.

                            3) Không thụ thai được: tỷ lệ không thụ thai được do chứng niêm mạctử cung mọc không đúng chỗ gây ra cũng rất cao. Có tài liệu của nước ngoài cho biết, có khoảng nửa số bệnh nhân mắc chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ, đồng thời cũng là những người không có con. Điều này là do khi các tổ chức dạng niêm mạc tử cung này mọc ở khoang chậu chảy máu theo chu kỳ, tạo thành chỗ sưng chảy máu bên trong, sau đó thì xơ hóa, dính liền với các tổ chức xung quanh, làm ống dẫn trứng bị bít chặt không thông được hoặc do buồng trứng bị lấn mất chức năng mà không điều hóa được, đều dẫn đến tình trạng không thụ thai được

                            116. Chữa bệnh niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ như thế nào?

                            Có hai cách chữa bệnh niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ là uống thuốc và phẫu thuật.

                            1) Về việc điều trị bằng thuốc

                            Do các tổ chức dạng niêm mạc mọc lung tung cũng cùng chịu sự chi phối, tác động của các nội tiết tố oestrogen và progesteron, tạo ra sự tăng sinh, tiết dịch, bong ra theo chu kỳ, nhưng lại không thể thải ra ngoài được, nên dẫn đến một loạt thay đổi bệnh lý và triệu chứng lâm sàng. Vì vậy, dùng nội tiết tố giống đực và nội tiết tố progesteron đối kháng với nội tiết tố oestrogen đã trở thành phương thuốc chính chữa chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ hiện nay. Những loại thuốc này phải do bác sĩ chỉ đạo sử dụng. Đông y có phương thuốc hoạt huyết khứ ứ khá hiệu nghiệm. Những phụ nữ bị mắc chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ nếu có thể thụ thai được một lần thì triệu chứng này có thể biến mất trong thời gian có thai và sau khi đẻ nhưng đây chẳng qua là sự trì hoãn tạm thời. Thường vẫn có thể tái phát lại bệnh cũ sau một thời gian tương đối dài.

                            2) Về việc chữa trị bằng phẫu thuật

                            Nếu chữa bằng thuốc không có hiệu quả, triệu chứng bệnh lý nặng hơn, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, công tác và học tập hoặc có chỗ bị biến chứng hoặc buồng trứng bị sưng mọng v.v… thì nên nghiên cứu xem xét dùng phẫu thuật cắt bỏ. Nếu có trường hợp do bệnh biến chứng trong một thời gian dài, bệnh tình lại phát triển nặng hơn, khiến các tổ chức trong khoang chậu dính chặt lại với nhau, không thể dùng phẫu thuật cắt bỏ hoặc do thể chất suy yếu hoặc còn mắc thêm các bệnh khác mà không thể phẫu thuật được, vẫn có thể chiếu tia X quang hoặc chiếu tia cô-ban vào buồng trứng, phá hủy chức năng buồng trứng, làm cho tuyệt kinh, hạn chế được căn bệnh.

                            117. Tử cung bị di lệch ra đằng sau hoặc ngả quá về phía trước thường có những biểu hiện gì? Chữa như thế nào?

                            Tử cung nằm ở giữa khoang chậu. Khi đứng thẳng tử cung chếch lên về phía trước, âm đạo chếch xuống phía dưới, cả hai tạo thành một góc vuông còn thân tử cung hợp với cổ tử cung tạo thành một góc tù 170 độ. Vị trí của tử cung là do cơ của đáy chậu, màng gân và dây chằng mang giữ, nhưng hay bị thay đổi do tử thế, cơ thể thay đổi và do sự biến đổi của các khí quan xung quanh. Trường hợp tử cung bị lệch khỏi vị trí hay gặp nhất là tử cung bị lệch về phía sau, trong đó lại chia ra thành tử cung bị ngả ra sau và tử cung bị gập ra sau. Nếu quan hệ giữa thân tử cung và cổ tử cung không có gì thay đổi, toàn bộ tử cung bị lệch ra xa nhau, khiến thân tử cung tạo thành một góc tù lớn hơn 90 độ với âm đạo thì là tử cung bị ngả ra phía sau. Nếu góc giữa thân tử cung và cổ tử cung bị lật ra phía sau thì là tử cung bị gập ra sau. Khi tử cung bị gập ra sau, thường có thể do khoang chậu xung huyết khiến các chất nội tiết từ thân tuyến cổ tử cung được tiết ra nhiều hơn, lượng bạch đới (tức khí hư) ra nhiều, lượng máu kinh nguyệt cũng tăng lên, nếu lượng máu này không thoát được ra ngoài một cách dễ dàng thì có thể gây nên thống kinh. Nếu tử cung bị di lệch ra sau làm cho buồng trứng sa xuống đến lỗ trực tràng tử cung thì có thể gây đau lưng hoặc đau quặn hậu môn, nếu nặng thì buồng trứng bị chạm mỗi khi sinh hoạt tình dục. Còn một trường hợp nữa là tử cung quá gập về phía trước. Điều đó có nghĩa là: thân tử cung và cổ tử cung nối với nhau thành một góc nhỏ hơn 90 độ, trường hợp này có nghĩa là tử cung quá sa về phía trước. Việc tử cung quá sa về phía trước, phần lớn là do sự biến chứng của các bệnh bẩm sinh gây nên. Do cửa cổ tử cung chọc vào thành âm đạo nên thường gây ra thống kinh, thậm chí còn dẫn đến không có con.

                            Khi tử cung bị lệch ra khỏi vị trí, nếu không có triệu chứng gì, thì không cần xử lý. Nếu có triệu chứng bệnh tật thì có thể chữa trị theo mấy phương pháp sau:

                            1) Chữa tử cung bị lệch về phía sau: Trước tiên áp dụng biện pháp nằm úp sấp, rèn luyện mỗi ngày, tức là hàng ngày sau khi đã đi đại tiện, tiểu tiện xong thì nằm úp sấp xuống giường, hai tay ôm lấy đầu, áp sát ngực xuống giường, mông nhổm lên, tạo thành một góc vuông với đùi và chân, nằm ở tư thế như vậy khoảng 15-20 phút. Qua cách tập này, nếu tử cung bị lệch nhẹ về phía sau thì có thể dễ dàng trở lại đúng vị trí. Nếu lệch quá nhiều nên đến bệnh viện dùng thủ pháp kéo tử cung trở lại đúng vị trí, sau đó lại tập theo kiểu này, kiên trì tập luyện sẽ có hiệu quả. Nếu tử cung bị lệch quá nặng, đã nhiều lần dùng thủ pháp mà vẫn không trở lại đúng vị trí, ngày càng thể hiện rõ triệu chứng bệnh tật, hơn nữa lại không tìm ra được các nguyên nhân khác có thể gây ra những triệu chứng này thì phải nghiên cứu xem xét dùng phẫu thuật đưa tử cung về đúng vị trí.

                            2) Chữa chứng tử cung quá sa về phía trước: Khi tử cung quá sa về phía trước, trước tiên nên đến bệnh viện phẫu thuật mở rộng cổ tử cung, khi máu kinh nguyệt lưu thông thì khỏi bệnh thống kinh. Hơn nữa, do thay đổi được góc độ giữa thân tử cung với cổ tử cung nên dễ có thai. Nếu có thai, vị trí không bình thường này của tử cung có thể chữa khỏi.
                            #59
                              Asin 09.11.2004 06:27:11 (permalink)
                              118. Vì sao bị sa tử cung (tức sa dạ con)?

                              Tử cung được dây chằng và các tổ chức cơ của đáy chậu nâng đỡ, nằm giữa chậu hông, giữ cho thân tử cung kéo lên về phía trước, cổ tử cung chúc xuống dưới về phía trước theo đúng vị trí bình thường. Nếu khi sinh con, sau khi đường sản đạo mềm đi, bị tổn thương, hội âm (tức cơ tầng sinh môn) bị rách không được phục hồi chu đáo và không liền sẹo tốt, việc sinh đẻ lại quá nhiều, quá dày, khiến các tổ chức đáy chậu vẫn mang giữ dạ con bị dão hoặc bị rách. Sản phụ lại lao động nặng như gánh nước, ngồi xổm làm việc trong những ngày chưa đầy tháng hoặc trong mấy ngày đầy tháng và sau khi đẻ laị không hoạt động thích hợp hoặc nằm ngửa quá lâu khiến tử cung bị lệch ra đằng sau, hoặc cơ thể phụ nữ sau khi tắt kinh hoặc trong thời gian cho con bú bị suy yếu, các tổ chức đáy chậu bị dão nên việc màng giữ tử cung và âm đạo kém đi. Do dạ con bị lệch về phía sau, áp lực trong bụng ngày càng gia tăng trong một thời gian dài như bị ho mạn tính, bị táo bón đã thành thói quen và thường xuyên làm việc trong tư thế ngồi xổm, lúc bình thường do cơ thể không chịu tập thẻ dục, cơ thịt lỏng nhão v.v… đều dễ dàng làm sa dạ con.

                              Bệnh sa dạ con được chia thành 3 mức độ: Sa dạ con độ I là chỉ dạ con bị sa xuống cách âm đạo khoảng 4 cm, còn các triệu chứng khác thì không có biểu hiện rõ rệt. Sa dạ con độ II là chỉ cổ tử cung đã hoàn toàn lộ ra ngoài âm đạo, gây cảm giác đau quặn ở nửa dưới cơ thể, lưng mỏi bụng căng, bạch đới ra nhiều. Sa dạ con độ III là chỉ cổ tử cung và thân tử cung đã ra hẳn bên ngoài, do cổ tử cung rơi ra ngoài lâu dài nên thường xuyên bị cọ xát, rất dễ bị tổn thương viêm loét, bị chảy máu hoặc ra bạch đới có mủ và cảm thấy đi lại khó khăn, kinh nguyệt rối loạn, máu hành kinh ra quá nhiều hoặc âm đạo chảy máu bất thường, đồng thời bị các chứng nặng hơn như đi tiểu tiện liên tục, tiểu tiện không tự chủ được, tiểu tiện khó khăn.

                              119. Phòng chữa bệnh sa dạ con như thế nào?

                              Cần chú ý mấy điểm sau trong việc phòng chống bệnh sa dạ con. Đó là:

                              1. Trước tiên phải kết hôn đúng độ tuổi, sinh hoạt tình dục muộn.

                              2. Trong thời gian hành kinh, mang thai, phải tránh để mệt mỏi quá độ, không nên làm việc nặng và những công việc phải thường xuyên ngồi xổm, khom lưng.

                              3. Không được kéo dài thời gian cho con bú, thường chỉ cho trẻ bú từ 10-12 tháng là thích hợp nhất.

                              4. Sau khi đẻ, phải chú ý bồi bổ sức khỏe và giữ gìn vệ sinh cá nhân, ăn nhiều chất giàu dinh dưỡng như thịt, trứng, ăn nhiều hoa quả và rau tươi.

                              5. Hai, ba ngày sau khi đẻ nên đứng dậy đi lại, hoạt động thích hợp, tuyệt đối không được nằm lỳ trên giường, phải tập thể dục của người đẻ nhằm luyện cho các cơ đáy chậu hông có khả năng mang giữ chắc hơn, tuy vậy không nên làm lao động nặng trong 3 tháng đầu sau khi đẻ.

                              6. Luyện thành thói quen đi đại tiện vào một giờ nhất định, tích cực chữa khỏi các bệnh hay làm cho áp lực tong bụng gia tăng, chẳng hạn như: chẳng hạn như viêm phế quản mạn, táo bón đã thành thói quen…

                              Tích cực phòng chống, ta có thể tránh được bệnh sa dạ con. Nếu bị sa thì nên đến bệnh viện khám bệnh, để bác sĩ chữa trị. Các biện pháp chữa trị bệnh sa dạ con thường dùng gồm:

                              a) Rèn luyện thể dục: Tập nằm sấp chổng mông lên hoặc vận động hậu môn, là có thể tập được cơ hậu môn, có tác dụng đối với việc chữa bệnh sa dạ con ở mức độ nhẹ.

                              b) Dùng phương pháp Đông y: Có thể uống viên ích khí hoàn của Đông y theo liều lượng mỗi ngày uống từ 2-3 lần, mỗi lần 1 viên, nếu bị viêm loét, có thể uống thuốc viên hoặc thuốc nước long đờm tả can hoàn.

                              c) Châm cứu: Chủ yếu châm vào các huyệt nối với nhau thai, sẽ giúp bệnh chuyển mạnh ( người bệnh có cảm giác dạ con co lên), kết hợp với châm các huyệt Huyền chung, Tam âm giao, Túc tam lý…mỗi ngày châm một lần.

                              d) Nâng tử cung (tức dạ con) lên: Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của bác sĩ chọn lấy một dụng cụ nâng tử cung lên, buổi sáng sớm nhét vào, buổi tối lấy ra, kiểm tra định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3, tháng thứ 6, nếu thấy mức độ sa dạ con giảm đi thì đổi lấy dụng cụ nhỏ hơn.

                              e) Phẫu thuật: Đối với những người có dạ con bị sa ở độ II, độ III hoặc dùng các biện pháp phi phẫu thuật không có hiệu quả, tự cảm thấy bệnh không đỡ, lại không muốn sinh đẻ nữa thì có thể cắt bỏ.

                              123. Phòng chữa bệnh viêm khoang chậu như thế nào?

                              Nguyên nhân gây ra bệnh viêm khoang chậu phần lớn là do bị nhiễm vi khuẩn mà có. Hơn nữa, do lúc bình thường không chú ý giữ gìn vệ sinh âm đạo sạch sẽ, khiến vi khuẩn ở cửa âm đạo xâm nhập vào sâu bên trong; hoặc do không khử trùng tốt dụng cụ phẫu thuật khoa sản, sau khi mổ đẻ lại không được chăm sóc đầy đủ, vi khuẩn trực tiếp xâm nhập vào trong bộ máy sinh dục; hoặc do sức đề kháng của cơ thể kém đi sau khi hành kinh, sau khi sảy thai hoặc sau khi đẻ, tạo điều kiện cho vi khuẩn bắt đầu hoạt động đều là những nguyên nhân chủ chốt gây nên căn bệnh viêm khoang chậu.

                              Vì thế, lúc bình thường cần chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ âm hộ. Khi rửa hậu môn nên dùng ngón tay cọ từ đằng trước ra đằng sau. Nếu bị bệnh trĩ, sau khi đi đại tiện xong, tốt nhất nên xối nước rửa âm hộ và hậu môn, đó là các đề phòng tốt nhất chống vi khuẩn nhiễm vào trong.

                              Phải thường xuyên thay băng vệ sinh khi hành kinh, nếu lót bằng xô màn thì phải giặt sạch sẽ phơi khô chỗ có nắng gió, phải chú ý giữ vệ sinh khi hành kinh, nhất là tránh sinh hoạt tình dục khi đang hành kinh. Nếu kinh nguyệt ra trước ngày hoặc kinh nguyệt ra thất thường không biết hành kinh vào ngày nào mà lại muốn sinh hoạt tình dục thì phải uống thuốc kháng sinh liền trong 2-3 ngày liền, để chống viêm nhiễm.

                              Cần chú ý giữ gìn sau khi đẻ và sau khi sảy thai, hàng ngày phải rửa sạch âm hộ, khi tắm không được tắm trong bồn, cấm sinh hoạt tình dục trong một tháng. Ngoài ra, làm tốt công tác tránh thai, giảm tỷ lệ nạo hút thai nhân tạo và các dịch gây tổn thương trong khoang chậu, là hết sức quan trọng chống vi khuẩn xâm nhập vào, chống viêm khoang chậu.

                              Khi chữa trị bệnh viêm khoang chậu, cần phải chú ý nằm nghỉ trên giường, nằm ở tư thế nửa nằm nửa ngồi khi bị cấp tính để giúp cho khí hư trong âm đạo chảy ra ngoài. Phải bồi bổ thêm chất dinh dưỡng và uống nhiều nước, giữ cân bằng chất điện giải, để cho chứng viêm không bị lan rộng. Đối với những bệnh nhân bị sốt cao còn phải dùng khăn mặt thấm nước hoặc túi nước đá đặt chườm vào những chỗ có động mạch đang căng máu như đầu, nách, háng… để hạ thấp nhiệt độ.

                              Về thuốc thì có thể dùng các loại thuốc kháng sinh như Penicilin streptomycin… hoặc sắc thuốc Đông y uống gồm ngân hoa, liên kiều, địa đinh, cỏ bại tương, đan bì, xích thược, đương quy, xuyên khung… Cứ dùng thuốc điều trị cho đến khi bệnh khỏi hẳn được 2 tuần thì mới ngừng thuốc, để tránh bị chuyển sang viêm mạn tính.

                              Đối với chứng viêm mạn tính, khi kỳ kinh bắt đầu thì dùng liên tục từ 3-5 ngày các loại thuốc kháng sinh chống viêm nhiễm như viên chống viêm, viên hoàng liên (cũng có thể dùng thêm thuốc Đông y dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ gồm các vị thuốc như: kim ngân hoa, bồ công anh, hạ khô thảo, xích thược, hạt cải, bồ hoàng sống, ngũ linh chi, hương phụ, tam lăng, nga truật… thì hiệu quả hay hơn.

                              Nếu có điều kiện, có thể mời bác sĩ chạy lý liệu hoặc dùng liệu pháp thẩm thấu thuốc, ở nhà thì dùng túi cát vàng, muối to sao nóng chườm vào bụng dưới cũng đỡ được một phần. Nếu chữa tổng hợp các cách mà vẫn không khỏi thì có thể điều trị bằng phẫu thuật).
                              #60
                                Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 4 của 6 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 79 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9