118. Vì sao bị sa tử cung (tức sa dạ con)?
Tử cung được dây chằng và các tổ chức cơ của đáy chậu nâng đỡ, nằm giữa chậu hông, giữ cho thân tử cung kéo lên về phía trước, cổ tử cung chúc xuống dưới về phía trước theo đúng vị trí bình thường. Nếu khi sinh con, sau khi đường sản đạo mềm đi, bị tổn thương, hội âm (tức cơ tầng sinh môn) bị rách không được phục hồi chu đáo và không liền sẹo tốt, việc sinh đẻ lại quá nhiều, quá dày, khiến các tổ chức đáy chậu vẫn mang giữ dạ con bị dão hoặc bị rách. Sản phụ lại lao động nặng như gánh nước, ngồi xổm làm việc trong những ngày chưa đầy tháng hoặc trong mấy ngày đầy tháng và sau khi đẻ laị không hoạt động thích hợp hoặc nằm ngửa quá lâu khiến tử cung bị lệch ra đằng sau, hoặc cơ thể phụ nữ sau khi tắt kinh hoặc trong thời gian cho con bú bị suy yếu, các tổ chức đáy chậu bị dão nên việc màng giữ tử cung và âm đạo kém đi. Do dạ con bị lệch về phía sau, áp lực trong bụng ngày càng gia tăng trong một thời gian dài như bị ho mạn tính, bị táo bón đã thành thói quen và thường xuyên làm việc trong tư thế ngồi xổm, lúc bình thường do cơ thể không chịu tập thẻ dục, cơ thịt lỏng nhão v.v… đều dễ dàng làm sa dạ con.
Bệnh sa dạ con được chia thành 3 mức độ: Sa dạ con độ I là chỉ dạ con bị sa xuống cách âm đạo khoảng 4 cm, còn các triệu chứng khác thì không có biểu hiện rõ rệt. Sa dạ con độ II là chỉ cổ tử cung đã hoàn toàn lộ ra ngoài âm đạo, gây cảm giác đau quặn ở nửa dưới cơ thể, lưng mỏi bụng căng, bạch đới ra nhiều. Sa dạ con độ III là chỉ cổ tử cung và thân tử cung đã ra hẳn bên ngoài, do cổ tử cung rơi ra ngoài lâu dài nên thường xuyên bị cọ xát, rất dễ bị tổn thương viêm loét, bị chảy máu hoặc ra bạch đới có mủ và cảm thấy đi lại khó khăn, kinh nguyệt rối loạn, máu hành kinh ra quá nhiều hoặc âm đạo chảy máu bất thường, đồng thời bị các chứng nặng hơn như đi tiểu tiện liên tục, tiểu tiện không tự chủ được, tiểu tiện khó khăn.
119. Phòng chữa bệnh sa dạ con như thế nào?
Cần chú ý mấy điểm sau trong việc phòng chống bệnh sa dạ con. Đó là:
1. Trước tiên phải kết hôn đúng độ tuổi, sinh hoạt tình dục muộn.
2. Trong thời gian hành kinh, mang thai, phải tránh để mệt mỏi quá độ, không nên làm việc nặng và những công việc phải thường xuyên ngồi xổm, khom lưng.
3. Không được kéo dài thời gian cho con bú, thường chỉ cho trẻ bú từ 10-12 tháng là thích hợp nhất.
4. Sau khi đẻ, phải chú ý bồi bổ sức khỏe và giữ gìn vệ sinh cá nhân, ăn nhiều chất giàu dinh dưỡng như thịt, trứng, ăn nhiều hoa quả và rau tươi.
5. Hai, ba ngày sau khi đẻ nên đứng dậy đi lại, hoạt động thích hợp, tuyệt đối không được nằm lỳ trên giường, phải tập thể dục của người đẻ nhằm luyện cho các cơ đáy chậu hông có khả năng mang giữ chắc hơn, tuy vậy không nên làm lao động nặng trong 3 tháng đầu sau khi đẻ.
6. Luyện thành thói quen đi đại tiện vào một giờ nhất định, tích cực chữa khỏi các bệnh hay làm cho áp lực tong bụng gia tăng, chẳng hạn như: chẳng hạn như viêm phế quản mạn, táo bón đã thành thói quen…
Tích cực phòng chống, ta có thể tránh được bệnh sa dạ con. Nếu bị sa thì nên đến bệnh viện khám bệnh, để bác sĩ chữa trị. Các biện pháp chữa trị bệnh sa dạ con thường dùng gồm:
a) Rèn luyện thể dục: Tập nằm sấp chổng mông lên hoặc vận động hậu môn, là có thể tập được cơ hậu môn, có tác dụng đối với việc chữa bệnh sa dạ con ở mức độ nhẹ.
b) Dùng phương pháp Đông y: Có thể uống viên ích khí hoàn của Đông y theo liều lượng mỗi ngày uống từ 2-3 lần, mỗi lần 1 viên, nếu bị viêm loét, có thể uống thuốc viên hoặc thuốc nước long đờm tả can hoàn.
c) Châm cứu: Chủ yếu châm vào các huyệt nối với nhau thai, sẽ giúp bệnh chuyển mạnh ( người bệnh có cảm giác dạ con co lên), kết hợp với châm các huyệt Huyền chung, Tam âm giao, Túc tam lý…mỗi ngày châm một lần.
d) Nâng tử cung (tức dạ con) lên: Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của bác sĩ chọn lấy một dụng cụ nâng tử cung lên, buổi sáng sớm nhét vào, buổi tối lấy ra, kiểm tra định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3, tháng thứ 6, nếu thấy mức độ sa dạ con giảm đi thì đổi lấy dụng cụ nhỏ hơn.
e) Phẫu thuật: Đối với những người có dạ con bị sa ở độ II, độ III hoặc dùng các biện pháp phi phẫu thuật không có hiệu quả, tự cảm thấy bệnh không đỡ, lại không muốn sinh đẻ nữa thì có thể cắt bỏ.
123. Phòng chữa bệnh viêm khoang chậu như thế nào?
Nguyên nhân gây ra bệnh viêm khoang chậu phần lớn là do bị nhiễm vi khuẩn mà có. Hơn nữa, do lúc bình thường không chú ý giữ gìn vệ sinh âm đạo sạch sẽ, khiến vi khuẩn ở cửa âm đạo xâm nhập vào sâu bên trong; hoặc do không khử trùng tốt dụng cụ phẫu thuật khoa sản, sau khi mổ đẻ lại không được chăm sóc đầy đủ, vi khuẩn trực tiếp xâm nhập vào trong bộ máy sinh dục; hoặc do sức đề kháng của cơ thể kém đi sau khi hành kinh, sau khi sảy thai hoặc sau khi đẻ, tạo điều kiện cho vi khuẩn bắt đầu hoạt động đều là những nguyên nhân chủ chốt gây nên căn bệnh viêm khoang chậu.
Vì thế, lúc bình thường cần chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ âm hộ. Khi rửa hậu môn nên dùng ngón tay cọ từ đằng trước ra đằng sau. Nếu bị bệnh trĩ, sau khi đi đại tiện xong, tốt nhất nên xối nước rửa âm hộ và hậu môn, đó là các đề phòng tốt nhất chống vi khuẩn nhiễm vào trong.
Phải thường xuyên thay băng vệ sinh khi hành kinh, nếu lót bằng xô màn thì phải giặt sạch sẽ phơi khô chỗ có nắng gió, phải chú ý giữ vệ sinh khi hành kinh, nhất là tránh sinh hoạt tình dục khi đang hành kinh. Nếu kinh nguyệt ra trước ngày hoặc kinh nguyệt ra thất thường không biết hành kinh vào ngày nào mà lại muốn sinh hoạt tình dục thì phải uống thuốc kháng sinh liền trong 2-3 ngày liền, để chống viêm nhiễm.
Cần chú ý giữ gìn sau khi đẻ và sau khi sảy thai, hàng ngày phải rửa sạch âm hộ, khi tắm không được tắm trong bồn, cấm sinh hoạt tình dục trong một tháng. Ngoài ra, làm tốt công tác tránh thai, giảm tỷ lệ nạo hút thai nhân tạo và các dịch gây tổn thương trong khoang chậu, là hết sức quan trọng chống vi khuẩn xâm nhập vào, chống viêm khoang chậu.
Khi chữa trị bệnh viêm khoang chậu, cần phải chú ý nằm nghỉ trên giường, nằm ở tư thế nửa nằm nửa ngồi khi bị cấp tính để giúp cho khí hư trong âm đạo chảy ra ngoài. Phải bồi bổ thêm chất dinh dưỡng và uống nhiều nước, giữ cân bằng chất điện giải, để cho chứng viêm không bị lan rộng. Đối với những bệnh nhân bị sốt cao còn phải dùng khăn mặt thấm nước hoặc túi nước đá đặt chườm vào những chỗ có động mạch đang căng máu như đầu, nách, háng… để hạ thấp nhiệt độ.
Về thuốc thì có thể dùng các loại thuốc kháng sinh như Penicilin streptomycin… hoặc sắc thuốc Đông y uống gồm ngân hoa, liên kiều, địa đinh, cỏ bại tương, đan bì, xích thược, đương quy, xuyên khung… Cứ dùng thuốc điều trị cho đến khi bệnh khỏi hẳn được 2 tuần thì mới ngừng thuốc, để tránh bị chuyển sang viêm mạn tính.
Đối với chứng viêm mạn tính, khi kỳ kinh bắt đầu thì dùng liên tục từ 3-5 ngày các loại thuốc kháng sinh chống viêm nhiễm như viên chống viêm, viên hoàng liên (cũng có thể dùng thêm thuốc Đông y dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ gồm các vị thuốc như: kim ngân hoa, bồ công anh, hạ khô thảo, xích thược, hạt cải, bồ hoàng sống, ngũ linh chi, hương phụ, tam lăng, nga truật… thì hiệu quả hay hơn.
Nếu có điều kiện, có thể mời bác sĩ chạy lý liệu hoặc dùng liệu pháp thẩm thấu thuốc, ở nhà thì dùng túi cát vàng, muối to sao nóng chườm vào bụng dưới cũng đỡ được một phần. Nếu chữa tổng hợp các cách mà vẫn không khỏi thì có thể điều trị bằng phẫu thuật).