(URL) TRẦN KHẢI THANH THUỶ
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 43 bài trong đề mục
HongYen 27.11.2006 04:40:07 (permalink)
Hồi Ức Buồn  

TRẦN KHẢI THANH THUỶ 
Việt Báo Thứ Năm, 11/9/2006, 12:02:00 AM
http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=97537


Nó đã từng biết nhiều đám tang nhưng chưa thấy đám tang nào đông như của bố nó. Cả khu tập thể và các cơ quan lân cận - nơi gia đình nó sinh sống đều đổ ra đường. Người nào cũng cố đi theo xe tang lấy một quãng. Nhiều người đang dở việc nghe tin đưa tang ông cũng từ trong nhà chạy ra, từ trên gác chạy xuống, không còn chỗ để chen chân trong đoàn người nối đuôi nhau đông như kiến trong một ngày bão rớt. Những người không đi đưa được đành dừng lại bên đường, dõi đôi mắt buồn bã trông theo.

Về địa vị, chức tước bố nó không phải là tướng tá, cũng chẳng phải nhà văn hoá lớn hay nhà bác học. Có lẽ gọi ông là nhà gàn dở, nhà lập dị là chính xác hơn cả. Cái gàn dở của con người sống thoát ly hiện thực, suốt ngày thả đầu óc phiêu diêu trong cõi cao siêu mịt mùng của sách vở. Cuộc đời ông là một chuỗi dài thất bại. Ông chỉ có một điểm tốt làm cho người đòi nhớ ông: ấy là ông luôn luôn chia sẻ với họ những điều hiểu biết của mình một cách vô tư - từ việc viết giúp họ một lá đơn, điền hộ họ một tờ khai lý lịch, là công việc khổ sai đối với nhiều người. Họ đưa chân ông vì thế. Và phần khác là biểu thị mối đồng cảm sâu sắc với người vợ bất hạnh - người đã gánh chịu gần cả cuộc đời nỗi vất vả của gia đình do cách sống gàn dở lập dị của ông đem lại. Cũng có người đưa ông vì thương xót cho số số phận lỡ dở của ông, cũng như của chính họ.

Một đám tang đông đúc mà không ồn ào. Hầu như không có tiếng khóc. Người vợ sụt sùi lấy lệ, hai đứa con chít khăn tang, mắt ráo hoảnh, chỉ có dáng đi hơi cúi và ánh mắt buồn thương. Đám đông còn lại lặng lẽ âm thầm. Người quá cố tuổi đã ngoài 60 lại mắc bệnh cao huyết áp, bị tai biến mạch máu não gây liệt nửa người từ nhiều tháng qua, không ai nói ra nhưng mọi người đều coi việc ông "tắt" đi như thế là tất yếu. Bốn cô em gái của người chết theo sát xe tang than nhiều hơn khóc.

Qua cổng khu tập thể, đám tang lặng lẽ giải tán. Những người đưa tiễn trở về, số còn lại chia làm hai xe, gia đình họ hàng lên xe tang. Bạn bè, chính quyền, công đoàn ngồi xe khách.

Đến nghĩa trang Văn Điển, địa điểm cuối cùng của người Hà Nội, tang chủ nhận đất, quan tài được mấy người phu đòn đỡ từ xe xuống rồi lấy dây thừng ròng xuống huyệt. Đám đàn bà con gái cùng một lúc khóc ré lên như muốn cố gửi gắm cho kịp những lời ân nghĩa sau cùng với người thân nay vĩnh viễn xa lìa. Đám đông vây quanh sụt sùi nhỏ lệ...
Ai đó giúi vào tay con bé một hòn đất: "Khóc đi, khóc to lên, cháu! Bố ơi sao bỏ con mà đi?... Ừ, cứ thế mà khóc... kìa, khóc đi chứ, rồi ném đất xuống mộ. Đấy, ném xuống chỗ đầu quan tài ấy"...

Con bé nắm chặt hòn đất trong tay, nhìn người khuyên mình bằng cặp mắt biết ơn, nhưng không khóc. Nó biết từ nay nó sẽ không bao giờ còn thấy bố nó nữa, nó cảm nhận được sự mất mát, song nó không thể nào khóc được, không biết làm thế nào để có thể khóc.

Cuối cùng rồi nó cũng lặng lẽ ném hòn đất xuống, đúng vào chỗ người ta chỉ cho nó, nơi đầu người chết trong quan tài. Mọi người làm theo nó, đất rơi xuống rào rào. Những tiếng khóc vừa trầm xuống lại một lần nữa ré lên, ảo não.

Mọi người tản dần ra cho gia quyến và những người phu mộ sửa sang lại phần mộ. Vọng đến tai con bé tiếng xì xào của vài người lạ từ những đám tang ở bên cạnh:
- Mới chết à, sao thế?
- Bệnh!
- Thế à? Gia đình đâu?
- Đấy, chỉ có vợ và hai đứa con. Một trai, một gái.
- Cái đứa con gái mặc áo trắng đứng phía đầu phần mộ ấy à?
- Nó đấy!
- Trời, sao nó không khóc gì kìa? Người ta bảo khóc như cha chết, mà mắt nó ráo hoảnh, sao lại có con bé lì lợm đến thế?

Nhiều năm sau, khi đã trở thành thiếu nữ, mỗi khi nhớ lại đám tang bố, con bé lại ân hận vì sự trơ lạnh của mình. Quả thật lúc ấy nó rất muốn khóc, nhưng không hiểu sao nó lại không khóc được. Giữa cảnh đau thương, tang tóc của họ hàng thân tộc của nhiều đám ma trong nghiã trang chiều hôm đó, con bé là nó đứng đó, đôi mắt trống rỗng, vành khăn tang bám hờ trên làn tóc rối.

Người cha ra đi, cuộc sống lại tiếp diễn bình thường. Mẹ nó ngày ngày làm việc nơi cơ quan nhà nước, tối về lo bồi bìa, xén giấy để kiếm thêm tiền nuôi các con.. Mọi người dường như quen với cách suy nghĩ đơn giản của bà mẹ: "Ôi dào, con người ta ai cưỡng được số mệnh... lẽ ra ông ấy còn phải đi sớm hơn nữa cơ".

........
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2006 09:23:12 bởi TTL >
#1
    HongYen 28.11.2006 00:04:23 (permalink)
     
     
    Hồi Ức Buồn  
     
    TRẦN KHẢI THANH THUỶ 
     Việt Báo Thứ Năm, 11/9/2006, 12:02:00 AM
    http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=97537

     

    ......
    Qua những câu chuyện trong nhà con bé biết cả họ nội nhà nó hiếm hoi, đời này sang đời khác đều độc đinh. Kỵ nội lấy hai vợ, đẻ dăm, bảy bận cũng chỉ có duy nhất một con trai. Cụ nội đẻ suýt soát chục đứa, sống được ba mống. Một ông chết từ bé vì sởi, ông thứ hai chết tai nạn ô tô, mới 19 tuổi. Ông cả thọ nhất sống tới năm 39 tuổi. Người cao tuổi nhất còn lại trong dòng họ là 49. Khi sắp 49, ông này cũng lo lắng cho số phận mình lắm. May mà ông có ông anh sang Pháp nên mới cải được số, năm nay đã 55, sống thọ nhất họ còn gì!
     
    Con bé sống trong thời đại mới, duy vật một cách tự nhiên, như thế tất phải thế, không thể không thế, cho nên lớn lên nó nghĩ về cái chết đơn giản như dòng chữ nó tình cờ bắt gặp trong một cuốn sách: "Rồi cát bụi lại trở về với cát bụi". Có ai sống đời đâu?
     
    Cái chết của bố nó là sự giải thoát hai lần. Vừa tránh khỏi nỗi đau đớn khổ sở vì bệnh tật, vừa giảm nhẹ gánh nặng của cả nhà. Nhà có người ốm như nhà vừa mất trộm vừa mất cướp. Mà đằng nào chả thế. Từ lâu rồi bố nó đã như ngọn đèn leo lét vì ruỗng bấc, hết dầu, chỉ còn le lói chút ánh sáng cuối cùng không đủ tỏa sáng cho chính mình. Đến một lúc nào đấy ngọn đèn sẽ tự tắt lịm.
     
    Chỗ bố nằm được cất dọn sạch sẽ. Chiếc phản mục chẻ thành củi đun. Gối và chiếu thả trôi sông cái. Quần áo, chăn màn cho những người ăn xin tội nghiệp. Chiếc ba toong để ông lần giường tập đi sau những ngày co thắt mạch máu - gác trên gác bếp. Riêng sách vở được gom lại thành đống và phát chẩn vô tội vạ.
     
    ***
     
    Thấm thoắt đã đến ngày giỗ lần thứ năm. Theo phong tục, mẹ con bé, nay đã là một cô gái, làm cơm mời bạn bè họ hàng xa gần cùng thắp nén nhang tưởng nhớ người đã khuất. Theo thời gian, hình ảnh ông trong ký ức họ càng mờ nhạt nhỏ nhoi. Ông sống mà không hề hắt bóng... Riêng với cô con gái - lúc này đã tốt nghiệp đại học sư phạm - hình ảnh người cha lại càng ngày càng đậm nét, không biết vì lẽ gì. Mọi dấu vết của ông để lại trong căn nhà này đã bị thời gian tàn phá, xóa nhòa đi rất nhiều, nhưng vẫn gợi nhớ tới sự có mặt của ông trước đó. Ông sống chưa kịp tỏa sáng, nhưng với nó hình ảnh người cha vẫn hắt bóng trong tâm thức đứa con. Đêm đêm ông hiện về trong giấc mơ và ban ngày sống động trong trí óc - hình ảnh một con người đam mê tội nghiệp, suốt đời đeo đuổi sự nghiệp khoa học, luôn thất bại mà không hề nản chí. Như cây khô mọc trên mảnh đất hoang tàn, dẫu bị đốn chết lần này lần khác nhưng từ gốc vẫn bật lên những chồi non.
     
    - Thôi thôi, cô ạ, tôi xin. Cô nói tôi làm quái gì cho mất công?... Phải, trong nhà này tôi là cái thằng vô tích sự.
    Vừa lật giở từng trang sách, bố nó vừa hướng cái nhìn buồn bã, xoa dịu về phía mẹ nó qua đôi mắt kính.
     
    Bỗng nhiên con bé thấy vừa thương, lại vừa giận con người này. Ở ông có một cái gì đến lạ. Vừa quát tháo ầm ĩ, náo động khu tập thể lên, lại có thể dàn hòa ngay được. Suốt cả ngày chỉ biết chúi mũi vào sách. Sách ngổn ngang đầu giường, cuối giường. Chồng lớn, chồng nhỏ trên mặt bàn, mặt ghế, kín bốn xung quanh tường chỗ ông nằm. Ngoài hai bữa ăn ra, dường như niềm vui trong cuộc đời ông chỉ có một thứ là sách.
     
    - Thà là thằng kéo xe, xúc than lại nuôi nổi vợ con, đằng này cứ nửa thằng nửa ông... Suốt đời sống báo cô... hệt như miếng giẻ rách, làm khổ cả nhà. Xem cán bộ người ta kia kìa...
     
    Trong lúc cãi nhau mẹ nó thường nói những câu ấy, và những đứa trẻ đứng về phía mẹ, cũng nhập tâm khẩu ngữ của người mẹ tội nghiệp.
     
    Đứa con gái cằn nhằn:
    - Sao bố cứ chúi mũi vào sách suốt ngày thế? Để làm gì? Cứ tích lũy, tích luỹ mãi, mà nào có sử dụng được gì đâu... Bố hệt con lừa chở đầy sách trên lưng, nhưng có ai gọi con lừa chở sách là nhà bác học, hay nhà hiền triết?
    Những lúc ấy ông ngước đôi mắt buồn bã lên nhìn con:
    - Thây kệ bố, con ạ. Mày mà cũng không hiểu bố thì ở nhà còn ai hiểu bố nữa, hả con?
     
    Câu trách của ông giống như một lời than.
     
    Biết bốn ngoại ngữ và thông hiểu nhiều lĩnh vực khoa học, kinh tế, xã hội, song kiến thức của ông là một mớ hỗn độn hổ lốn. Vào ồ ạt và ra cũng ồ ạt. Như một căn phòng chật hẹp để bừa bãi ngổn ngang các thứ tùm lum không hề được sắp xếp, phân riêng từng loại đúng vị trí, thứ tự. Động chạm đến bất kỳ vấn đề nào ông cũng lôi ra tràng giang, đại hải khoa học, văn học, y học... Dường như cả một suối nguồn tri thức ào ra theo ông.
    Nhiều tham vọng, nhiều mơ ước, hoài bão lớn lao, nhưng tất cả đều đã bỏ ông mà đi. Ông cũng từng làm cán bộ nghiên cứu đấy chứ. Nhưng những gì ông nói ra, viết ra đều bị bác. Nếu không chướng tai gai mắt thì cũng vô tích sự. Người như thế trước sau gì cũng bị gạt ra lề xã hội. Một phần do ông ngoại giao kém, không biết ăn biết ở. Nhưng cái chính là do ông nóng nảy, cương trực và bướng bỉnh.
     
    Hai cụ thân sinh ông đều là những ông thông, bà phán. Cụ ông làm thông ngôn cho Pháp, cụ bà buôn bán vải, gạo tấm, mỗi lần buôn từ vài ba chuyến xe hàng lấy từ các tỉnh về. Mười bốn lần sinh nở, chỉ đậu có sáu con, hai trai và bốn gái, bởi sinh xong, cụ quẳng con cho vú em và người ở nuôi... Quan điểm của hai cụ vẫn là trọng nam, khinh nữ. Vì vậy hai cậu ấm được chiều chuộng đặc biệt, có con sen, thằng ở hầu hạ riêng. Hai anh em giống hệt nhau về khuôn mặt, vóc dáng nhưng tính nết hoàn toàn trái ngược. Suốt ngày kèn cựa, đấm đá nhau như hai con gà trọi, vì thế cứ dắt xe ra khỏi cổng là hai cụ phải sai thằng ở đi theo để xem hễ hai cậu có đánh nhau phải can ngay, có vứt xe, vứt cặp ở đâu thì nhặt về. Đất nước đang loạn lạc, để bảo đảm an toàn tính mệnh con, hai cụ còn thuê riêng một thầy dạy võ cho hai đứa. Con sen, thằng hầu rồi cả bốn cô em gái đều là những thí vật đầu tiên cho cú luyện tập võ nghệ của hai cậu. Hễ đù đờ, chậm chạp, hoặc làm việc gì không vừa ý cậu chủ là lập tức ăn bạt tai, quả đấm hoặc một cú đá móc lộn nhào từ trên cầu thang xuống...
     
    Trong điều kiện sống dưới chế độ xã hội mới, khắc nghiệt hơn, ông đã cố gắng kiềm chế và ít nhiều thay đổi nhưng nét hung hãn hay khùng, dễ nổi loạn vẫn rơi rớt và bám chặt lấy ông như lớp rêu xanh bám chặt vào tảng đá... Suốt những ngày tham gia kháng chiến, từ tấm bằng Thành chung ở trường Bưởi ông tiếp tục hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình bằng con đường tự học. Cả khi nghỉ "hưu non" cũng vậy. Ông luôn coi trọng trí thức và sự hiểu biết. Suốt ngày ông vùi cái đầu đam mê của mình vào cõi mênh mông của khoa học. Kiến thức đối với ông là cái thang không có nấc tận cùng. Càng leo cao càng thấy mình phải vượt lên nấc cao hơn, càng không thỏa mãn với những thứ mình vừa gặt hái được... Có lẽ vì thế mà ông ít chịu phục thiện, luôn tự hào thái quá về bản thân: "Thằng ấy mang tiếng là kỹ sư nhưng không dáng xách dép cho tao!... Học hành ba chữ lem nhem, thấy gái thì thèm như chửa thèm chua"... Kỹ sư gì nó, có ai hỏi đến kiến thức chuyên sâu cũng đành lắc: "Em chịu". Một chữ ngoại ngữ bẻ làm đôi không biết..."
     
    Bình thường ông rất ôn tồn, nói chuyện xởi lởi, vui vẻ, cởi bỏ gan ruột mình, trích dẫn tiếng tàu tiếng tây. Với người hiểu ông, phục tài ông, ông sẵn sàng đặt lên bậc cao của tượng đài,nhường cơm sẻ áo... Nhưng lúc nóng ông trở thành phi lý, chửi tuốt luốt không trừ một ai. Bạn bè sợ xanh mắt bảo nhau: "Thằng ấy nhờ trời được cái trí tuệ hơn người, nhưng tính cách quá cao ngạo, làm sao thích hợp với cõi trần tục được. Nhất là vào thời buổi này, trí thức chẳng là cái đinh gì".
     
    Suốt ngày chúi mũi vào sách vở, ông hoàn toàn thoát ly hiện thực. Bộ bàn ghế tiền nghìn, ông đoán chỉ vài trăm chi đó. Cầm mấy trăm đồng lương hưu về, ông đưa vợ một phần, còn giữ lại tiêu riêng, coi như ông đã đóng góp đầy đủ cả phần mình phần con. Nhu cầu của ông đơn giản, với nhu cầu ấy thì đồng tiền dẫu có mất giá hàng chục lần chăng nữa, ông vẫn sống khỏe. Với suy nghĩ ấy, hết năm này sang năm khác, mặc vợ con vật lộn mưu sinh, ông bảo thủ ý kiến của mình và trốn sâu vào sách vở, với mơ tưởng cao xa, bay bổng tận đâu đâu.
     
    Ông có ba đứa con thì đứa đầu chết đuối trong đợt theo ông đi sơ tán. Đi công tác về, ông vùi đầu ngủ mê mệt. Tỉnh dạy tìm con thì xác đã được dân làng vớt lên bờ rồi... Hai đứa còn lại,ông chỉ thỉnh thoảng mới ngó đến chúng mỗi khi chúng giật áo ông để hỏi điều gì đó trong bài tập, còn thì ông phó mặc vợ.
     
    Những đứa trẻ lớn lên đơn giản như cây khoai,cây chuối, như con lợn, con gà, như những cây mọc hoang trên mảnh đất khô cằn. Bà vợ đi làm nhà nước, ngoài tám giờ vàng ngọc ra còn phải xoay xỏa đủ đường để nuôi chồng khoẻ, dạy con ngoan. Vì chồng, vì con, bà không ngại một việc gì: may vá, cấp dưỡng quét dọn vệ sinh trong khu tập thể, miễn có thêm ít tiền bù vào khoản thu nhập ít ỏi hàng ngày. Phần ông, ông vùi đầu vào sách. Trong hai đứa con còn lại chỉ có con chị là còn thừa hưởng chút ít trí thông minh và sự cần cù sáng tạo của ông, còn tỏ ra ham học, yêu thích sách vở, chứ thằng con trai thì chỉ ham chơi.
     
    Ông cũng thừa nhận là con ông từ những năm thơ ấu đến khi trưởng thành, hoàn toàn được nhờ vào đôi bàn tay tần tảo, tháo vát của vợ... Với ông bố, ký ức tuổi thơ của chúng chỉ ghi nhận vài kỷ niệm loáng thoáng. Chúng nhớ nhất những ngày đầu kỳ lương ông dẫn chúng đi ăn hiệu, mua sách vở, đồ chơi, thật là thoải mái. Sau chúng lớn lên, chi phí cho việc học tăng theo lại mâu thuẫn với đồng lương eo hẹp, đồng tiền mỗi ngày một mất giá, ông không cho chúng đi ăn hiệu nữa mà dành số tiền ấy cho việc mua sách.
     
    ......
    #2
      HongYen 29.11.2006 09:08:08 (permalink)
      Hồi Ức Buồn  
       
      TRẦN KHẢI THANH THUỶ 
       Việt Báo Thứ Năm, 11/9/2006, 12:02:00 AM
      http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=97537
       
      (Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, người phụ nữ 46 tuổi, với những tiểu phẩm: “Hang đá”, “Tự thuật”, và “Đối thoại”....)
       
      ......
       
      Ngày ông mất, khi nhập quan, một người bạn thân của ông từ hồi cả hai còn học trường lục quân Trần Quốc Tuấn, đã trân trọng và thành kính đặt vào tay ông một cuốn từ điển dày cộp và vài ba cuốn khác kê cho ông gối đầu... Ông bạn già lập tức bị cả một đám đông nhao nhao phản đối:
       
      - Ấy chết, sao bác lại làm thế? Người ta kiêng đấy.
      - Bác cháu lúc sống suốt đời khổ vì đam mê sách vở rồi, giờ xuống dưới suối vàng, hãy để cho đầu óc bác cháu được thảnh thơi...
      Thay vào cuốn từ điển, cô em gái đặt vào tay ông một cỗ tổ tôm và hàng xấp tiền âm phủ.
       
      ***
       
      Bạn bè, họ hàng, khách khứa đã đến đông đủ. Cỗ bày chật trên bàn, bàn thờ khói nhang nghi ngút. Mọi người kính cẩn quây tròn lại thắp nén hương để cùng tưởng nhớ ông.
       
      Trong bữa ăn người ta nói chuyện với nhau về người đã khuất. Đó là phép lịch sự. Nhưng cho đến tận lúc này, nói cho đúng, người ta vẫn không hiểu ông. Ông như lạc giữa muôn người. Vợ ông không hiểu ông. Hai đứa trẻ cũng không hiểu ông. Khi chúng không hiểu thì chúng không thể tôn trọng.
      Ông và vợ là cả một sự trái ngược. Giống như hai đầu của sự vơi, đầy, nóng, lạnh. Ông trọng tri thức và lối sống văn hoá. Còn bà, tuy cũng thuộc gốc thành thị, nhưng chỉ được học đến lớp ba, hậu quả của nếp sống trọng nam khinh nữ. Hai con người phải chung sống với nhau dưới một mái nhà, như trong một cái lồng chật hẹp. Sống với nhau gần ba chục năm trời mà chỉ hiểu về nhau một cách lờ mờ. Luôn luôn gằn hắt, xúc phạm và làm tổn thương tới danh dự của nhau...
       
      Đã nhiều lần, ông với tư cách người bạn đời, suy ngẫm, nghĩ ngợi để tìm ra cách cảm hóa, tác động bà, truyền cho bà cả kho báu của lòng mình. Nhưng bà không đủ khả năng thu nhận. Đồng thời, vốn đầu óc chật hẹp, ghét những cái trừu tượng, bà chỉ tìm mọi cách để nhốt cái tư tưởng cứ luôn chu du vào cõi mênh mông, cao siêu của ông vào vòng vây cuốn sổ chi tiêu gia đình. Những lúc xót ruột, bà ngồi hàng ngày, hàng buôỉ kể lể cho ông nghe về số tiền mua đồ dùng, thức ăn trong cả tuần, cằn nhằn, chì chiết ông về lượng tiền đóng góp ít ỏi. Để chấm dứt những lời kể lể dài dòng ấy, thay vì động viên an ủi vợ, mặt ông nhăn nhúm đến tội nghiệp: "Mặc kệ cái trò tính toán chi li với cuốn sổ chi tiêu chật hẹp của cô. Nhu cầu của tôi đơn giản lắm: bốn mươi nghìn tiền gạo, bốn mươi nghìn tiền rau là đủ. Hiểu chưa? Hãy để cho tôi yên"...
       
      Tiếp theo đó là những cuộc cãi vã không bao giờ hết.
       
      Hai con người sống quay lưng lại nhau, vô tình tàn phá cuộc đời nhau, làm ảnh hưởng không ít tới bầu không khí trong lành của hai đứa trẻ. Đứa đầu, đứa bị chết đuối, giống bố như hệt, bộc trực, thẳng thắn, và đều có tính khùng, thích gây sự, ưa bứt phá, nổi loạn. Thằng thứ hai còn hung dữ hơn, một phần do ảnh hưởng trực hệ - thừa hưởng trọn vẹn tính di truyền của bố. Vì không thích nghi nổi để làm người tốt, cũng không xấu hẳn để biến thành kẻ tha hóa, sa đọa; nó đã dùng cái chết đột ngột - một tai nạn xe cộ rất vớ vẩn trên một đoạn đường mà một con chó cũng có thể đi tha thẩn vô sự - để lại cho ông nỗi đau đớn, như một sự trừng phạt, một định mệnh không thể nào thay đổi được của "dòng họ độc đinh".
       
      Niềm hy vọng của bà mẹ bây giờ gửi gắm tất cả vào cậu út giống mẹ như tạc, được coi là "quả lành". Cả cây lành chỉ sinh độc một quả lành.
       
      Đứa con gái, càng lớn càng xa lạ với bà... Và một nỗi lo lắng mơ hồ bóp nghẹt trái tim bà, khi bà thấy nó bắt đầu say sưa với viết lách, sách vở.
      Lúc còn sống ông yêu nó hơn cả bằng vào sự nhạy cảm của người cha, ông vừa quý nó lại vừa ngại nó. Tí tuổi đầu lưỡi nó đã mọc đầy gai. Nó phán xét ông như quan tòa phán xét tội phạm. Cũng ánh mắt ấy, vẻ mặt càu cạu ấy. Ngay cái cười của nó với ông cũng mang ý mai mỉa, bao dung. Thật may, giữa ông và nó chỉ va chạm về mặt kinh tế, xuất phát từ lòng thương mẹ thái quá gây nên... Dưới con mắt nó, hình như ông mới chỉ làm tròn bổn phận mà tạo hóa vốn giành cho những người được coi là đàn ông, nghiã là đã sinh ra chúng nó trên đời. Còn mọi mặt khác ông chẳng là cái gì hết. Những năm cuối đời ông, ông sợ giọng lưỡi nghiệt ngã của nó. Càng về sau nó càng hay kết tội ông là nguồn gốc mọi nỗi bất hạnh trong gia đình.
       
      Tuy vậy, từ sâu trong cõi lòng ông vẫn ấm lên một tia hy vọng rằng: trong hai đứa con còn lại của ông nó sẽ thành đạt hơn cả. Bởi vì nó ham học, tỏ ra hiểu biết, thích sách vở, hay lý luận... Rồi nó sẽ hiểu ông và minh oan cho kiếp sống lầm lạc của ông những năm tháng qua.Tất cả những gì ông chưa kịp làm trên cõi đời trần tục này thì nó sẽ kế tiếp và hoàn thiện. Bao thất bại, thất vọng của ông cũng là nhằm cho nó một sự bù đắp ở đời.
       
      ***
       
      Đám giỗ tan, mọi người tản mát ra về, ồn ào chộn rộn, thật chẳng có không khí của ngày giỗ tí nào.
      Đứa con gái bực bội trước sự vô tâm, vô tình của những người được coi là "lớn" này. Sau nghi lễ xã giao thông thường: thắp hương khấn khứa... hình như là một dịp để cánh đàn ông nhậu nhẹt chuyện trò lai rai, cánh đàn bà chuyện phiếm: "Giá vàng hôm nay đã tăng hơn sáu mươi rồi đấy. Ghê không?" "à này, thịt bò hôm nay có 45 thôi đấy nhé, ngon và nở hơn thịt lợn nhiều"...
       
      Cứ thế, người ta tất bật, người ta ồn ào. Chẳng còn ai chạnh nhớ tới hương hồn người đã khuất.
      Chỉ có một ông khách ngồi im lặng suốt buổi. Đó là người bạn đồng ngũ của cha Nó thời cha nó còn là học viên trường sĩ quan lục quân. Nó tiễn ông ra tận cổng. Ở đó ông còn tần ngần đứng lại hồi lâu. Phút chia tay bịn rịn, ông bảo nó:
       
      - Cháu có hiểu tại sao bố cháu mê sách đến thế không?
      - Bác biết tại sao?
      - Tại bố cháu muốn nghĩ bằng cái đầu của mình, tội nghiệp. Bố cháu không muốn làm kẻ ngu đần để mặc người khác dẫn đi. - ông nói, ngậm ngùi - Thế rồi đọc nhiều bố cháu lại hiểu ra điều không nên hiểu...
      - Là sao ạ?
      - Là cái dốt có quyền lực chính là cái ác. Biết thế mà chẳng làm gì được, bố cháu trở thành bất đắc chí.
       
      Nó không hiểu rõ ông khách muốn gửi gắm điều gì trong những lời ông nói với cô. Cô mơ hồ cảm thấy ông định nói với cô một điều gì đó rõ hơn, rất quan trọng, mà không dám nói. Vì sợ một cái gì đó, mà cũng có thể là sợ cho cô.
       
      Họ hàng khách khứa về rồi, nó thấy mẹ cô ngồi lại một mình trong ngôi nhà vắng vẻ, thắp thêm một chầu hương, rồi ngước đôi mắt thành kính lên tấm ảnh bố cô. Trong đầu bà chắc miên man nhiều tình cảm và ý nghĩ: yêu thương, ân hận, tiếc nuối...
       
      Bỗng bà giật giọng gọi con gái:
      - Con giời đánh đâu rồi?
      - Dạ... - nó ngơ ngác trước giọng nói bỗng dưng gay gắt của mẹ. - Vừa cúng giỗ xong đã biến đâu mất? Ít nhất hôm nay mày cũng ngồi với mẹ một lát mới phải. Nhà chỉ còn hai mẹ con...
      - Con đang dọn đây mà.
      - Bát đũa để đấy đã, rửa sau. Vào đây tao bảo.
       
      ......
      #3
        HongYen 04.12.2006 11:49:29 (permalink)





         
        Hồi Ức Buồn  
         
        TRẦN KHẢI THANH THUỶ 
         Việt Báo Thứ Năm, 11/9/2006, 12:02:00 AM
         
        ......

         

        Nó len lét bước vào nhà.
         

        - Khiếp quá! - mẹ cô ngẩng lên - Mỗi lần tao leo lên gác là mỗi lần tao như thấy bố mày ngồi đấy với đống sách vở của ông ấy... Liệu mà tống táng cái của ấy đi. Cho nhanh. Để đấy mãi mà làm gì? Nhà này không cần đến những thứ ấy. Cái đống thù lù vô tích sự chẳng khác gì bố mày. Chẳng ai cần đến nó. Bán được bao nhiêu thì bán. Cho ai thì cho. Nhưng phải dọn cho sạch sẽ.
         
        Nó bàng hoàng, cô không muốn tin ở tai mình. Đành rằng thời gian gần đây mẹ cô đã nhiều lần bắt cô phải thu xếp, dọn dẹp, bán nốt đống sách vở đi... nhưng chưa bao giờ cô thấy mẹ phán xét bố bằng cái giọng lạnh lẽo cay nghiệt đến thế.
         
        Đèn phụt tắt. Khu tập thể chìm ngập trong bóng tối. Nó cảm thấy chao đảo, hẫng hụt trước đống sách vở ngổn ngang, lòng cô cũng ngổn ngang bao ý nghĩ... Phải! Dù cố tình không đi theo con đường của cha, cố tình tránh cái hố mà ông từng sa xuống, cô nộp đơn thi vào Đại học sư phạm. Những muốn yên phận như mẹ - làm một người vợ chỉ biết công việc nội trợ hoặc một giáo viên không cần gì hơn tấm bảng đen và kỳ lĩnh lương tháng, một viên chức bình thường..., không ngờ cái bản năng ngang bướng, đòi được sáng tạo của bố lại bám rễ chắc và sâu trong tâm hồn cô đến thế. Dù bị cảnh đời nghiệt ngã che lấp, bị cả nhà cả họ chì chiết "tam đại dở hơi", cái bản năng khao khát sáng tạo ấy vẫn lớn lên không ngừng và kiên cường phát triển, giống như bệnh ung thư lớn lên trong các tế bào sống, lan tràn ra khắp cơ thể buộc cô phải hành động, không sao cưỡng lại được.
         
        Bắt đầu những giờ phút thả hồn lên mây gió, vùi đầu vào sách vở, trốn sâu vào cõi phiêu diêu, tưởng tượng để rồi "tự mình ăn thịt mình" thức đêm hôm,chắt lọc, ghi chép, gạch xóa để viết ra những điều tâm huyết - thật nhất với lòng mình. Khác với bố, cô không giữ những hiểu biết, những suy tư riêng cho mình mà nồng nhiệt và hào phóng chia sẻ chúng với mọi người trên những trang giấy. Cô nhận được cả hạnh phúc lẫn khổ đau từ hành động điên rồ ấy. Nhưng cô không ân hận. Bằng công việc ấy cô thấy mình được là mình hơn.
         
        "Nô lệ ý thức cũng không khác gì nô lệ thân xác" - nó ghi trong nhật ký. "Thất bại của bố đã đem lại bài học bổ ích cho con. Cảm ơn bố".
         
        Căn gác xép bé nhỏ, nơi lưu giữ sách vở, giấy tờ của bố trở thành nơi yên tĩnh riêng của cô, ốc đảo thiêng liêng của nó... Sau tất cả những công việc đời thường, nó lại trèo lên gác như con ốc chui vào vỏ của mình. Cứ leo hết các bậc cầu thang, ngồi xuống chiếc bàn gỗ cũ kỹ quen thuộc, cầm lên chiếc bút máy của người cha để lại, nó lập tức chìm đắm trong suy tư... Những lúc ấy, tất cả những gì làm nó đau đớn, lo âu trong tồn tại thế tục đều bị cuốn bay tựa lá khô gặp gió, chỉ còn lại đỉnh cao đầy sức quyến rũ của những ý nghĩ trừu tượng giờ đây dường như đang dần có hình hài cụ thể. Mỗi lần rời cán bút, nó như nhận thấy ánh mắt lấp lánh, tinh anh của bố vây bọc nó, nụ cười hiền dịu, tỏa sáng, động viên, khích lệ nó như muốn nói với nó: "Khá lắm, con gái của bố. Trên đời này không có gì đẹp hơn và có thể làm cho con người trở nên người hơn thế đâu, con ạ. Đó là hạnh phúc chân chính, là niềm vui đích thực."
        Chồng bản thảo của nó cứ mỗi ngày một cao bên cạnh chồng bản thảo dở dang, chắp vá, đứt đoạn của bố. Biết bao nhiêu ý tưởng, chi tiết, số liệu nó nhận được từ trong những trang bản thảo dở dang tưởng chừng vô nghiã của người đã khuất... Lại cũng không biết bao lần nó gần như phát điên lên, hệt như bố nó, khi phát hiện ra những trang bản thảo của bố đã được nó xếp sắp lại gọn ghẽ bị bà mẹ lấy xuống để lót nồi, nhóm bếp.
         
        - Nó ơi, con Nó lại đâu rồi? - tiếng mẹ vọng lên từ dưới nhà, chao chát.
         
        - Dạ, con đây...
         
        - Ối giời ơi, con này điên à? Nóng nực thế này, mày chui lên đấy làm gì? Con này lại dở hơi mất rồi.
         
        Giọng nói gay gắt của mẹ, mùi ẩm mốc từ những trang giấy ố vàng, những giọt mồ hôi lăn tăn trên trán, nhớp nháp ở hai bàn tay, giúp nó nhận ra sự tồn tại có vẻ vô lý của mình bên cạnh những lo toan không bao giờ dứt của mẹ. Nó lò dò xuống gác với vẻ mặt biết lỗi. Giọng sai phái của mẹ níu chân nó lại:
         
        - Ô kìa, tiện thể cô quẳng tất cả cái của nợ ấy xuống đây cho tôi. Tôi đã gọi bà Hiền đồng nát đến đây mua tất tần tật đống giấy ấy đấy. Cô xem liệu có được bốn chục cân không?
         
        - Mẹ để con soạn lại đã nào. - Nó năn nỉ.
        - Còn soạn cái gì nữa?
        - Có nhiều cái còn dùng được cho con. Con còn cần đến.
        - Tôi bán rồi. Không soạn xiếc gì hết. - mẹ dằn giọng - Bán hết đi cho nó thoát nợ.
         
        Kẻo nó ám vào cả mày nữa, con ạ.
        Nó lạnh người. Nó không thể nào hiểu nổi vì sao mẹ lại căm ghét sách vở và những gì liên quan đến hoạt động trí óc đến thế. Dường như bà cho rằng cái đống của nợ còn nằm chình ình trên gác kia chính là cái đã đầu độc cuộc đời chồng bà, làm khổ cả đời bà và nếu bây giờ bà không quét sạch, bán sạch, thì rồi đời đứa con gái bà cũng sẽ bị nó làm hại. Bà muốn cứu con gái bà, giọt máu hiếm hoi của bà.
         
        - Không lôi thôi gì nữa. Bán hết. Vứt hết. Mang ngay xuống đây cho tao. Nhanh lên nào. - Nó nghe tiếng mẹ rít lên, giục giã.
         
        Trong tư thế khốn khổ, nửa nằm, nửa bò trên các bậc cầu thang, nó òa khóc. Bàn tay nó nắm chặt một trang bản thảo đang đọc dở như hôm nào nó tiễn bố đi vào cõi vĩnh hằng nó nắm chặt hòn đất trên tay. Ngày ấy nó không khóc được...
         
        Ở dưới nhà bà mẹ giậm chân thình thịch:
        - Muốn khóc bố sao mày không khóc trong đám tang, đám giỗ? Mày làm cái gì trò gì đấy, hở con kia? Chờ xong xuôi rồi, chui lên đấy mà ăn vạ à? Xuống!
         
        Hà Nội 10/2006



         TRẦN KHẢI THANH THUỶ
        http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=97537
        #4
          sóng trăng 05.12.2006 04:25:44 (permalink)
          góp với chị Hồng Yến
          tiểu sử tác giả
          Trần Khải Thanh Thủy
           
          TRẦN KHẢI THANH THỦY
           
           
           
          Tiểu sử tác giả:

          Tên thật là Trần Khải Thanh Thủy
          Sinh năm 1960, tại miền Bắc Việt Nam.
          Tốt nghiệp Đại Học khoa Văn.
          Sau khi tốt nghiệp, cô là nhà giáo được bổ đi dạy tại Tây Bắc.
          Thân sinh Trần Khải Thanh Thủy là Đại Tá Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
          Nhờ sự quen biết của cha, Trần Khải Thanh Thủy xin được về làm phóng viên của Báo Cựu Chiến Binh.
          Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian, vì không chịu khép mình vào sự khống  chế chỉ huy của Ban Văn Hoá Tư Tưởng nên Trần Khải Thanh Thủy bỏ tờ Cựu Chiến Binh và đi làm nhà báo tự do.

          "Ngòi bút của Trần Khải Thanh Thủy đã tung hoành và rất khỏe khoắn. Trần Khải Thanh Thủy lăn xả vào với quần chúng, ăn nằm cùng với nỗi khổ, nỗi đau đớn của quần chúng và cùng thét lên nỗi căm phẫn nỗi oan ức....." [1]
           
          Hiện cô là Phóng Viên Hà Nội, chuyên phụ trách mạng Dân Oan  cùng nhiều vấn đề xã hội khác tại Việt Nam. 
          Phóng viên Vietnam News Network (VNN)
          Phóng viên trang Web Dân Lên Tiếng
           
          Các bút danh khác củaTrần Khải Thanh Thủy [2]
          1. Nguyễn Thái Bình. 2. Nguyễn Quý Dân. 3. Nguyễn Hải. 4. Võ Quế Dương. 5. Nguyễn thị Hiền 6. Trần thị Thanh Hằng. 7. Phạm Xuân Mai. 8. Mai Xuân Thưởng. 9. Đồ nghệ Việt Nam

          Tác phẩm:
           
          Trần Khải Thanh Thủy viết rất nhiều trên các mạng điện tử khắp thế giới, bài viết của cô dựa trên nhiều sự thực mắt thấy tai nghe, cộng với kiến thức lịch sử sâu sắc và khả năng chuyên văn của một nhà giáo và phóng viên, đã tạo cho cô một chỗ đứng rất được kính trọng trên văn đàn quốc tế.

          Trần Khải Thanh Thủy được Hội Văn Bút Quốc Tế chính thức lên tiếng cảm nhận sự can đảm do ngòi bút cô thể hiện và hứa sẽ bênh vực cô trước mọi áp lực muốn đàn áp ngòi bút này.

           
          [1] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/14/DrThanhGiangTalkAboutTranKhaiThanhThuy_VHung/
          [2] http://www.danchu2006.com/PageHtm/CacTacGiaKhac/TranKhaiThanhThuy.htm
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.12.2006 04:40:25 bởi sóng trăng >
          #5
            HongYen 06.12.2006 08:00:12 (permalink)
            Cú Điện Thoại ‘Oan Nghiệt’
             
            Việt Báo Thứ Sáu, 12/1/2006, 12:02:00 AM

            Như đã thành phản xạ có điều kiện, từ ngày được đảng khoác cho bộ áo "phản động", hôm nào cũng vậy, cứ khoảng 11 giờ đêm, là tôi ngong ngóng chờ một cú điện thoại từ trên trời rơi xuống do những người bạn "phản động" gọi tới. Đêm nay (10/11) cũng vậy.

            Vừa nghe tiếng điện thoại reo lên trong đêm, phá tan bầu không khí yên lặng của bầu trời đêm Hà Nội một ngày đầu đông... tôi vội vàng nhấc máy. Đầu dây tiếng lập cập quen thuộc - vì ngôn ngữ không theo kịp dòng chảy của tư tưởng, của người bạn mới quen từ Đức vọng về:

            - Thuỷ hả, Thy Nga đây.
            - A Xin chào người đẹp!
            - Đẹp cái cóc khô gì, đầu 4, đít 5 rồi đấy, khỉ ạ
            - Thì 45 tuổi vẫn được gọi là nàng, có phải của... dùng rồi như Thuỷ đâu?
            - Nỡm ạ, tuổi tui là tuổi cọp, dữ như hổ lửa vậy đó, nên có thằng chả nào dám rước đâu.
            - Cưỡi lưng cọp thì ai mà chẳng sợ, phải để họ cưỡi bụng, lúc ấy thì hổ nào cũng sẽ thành mèo hết, còn lửa sẽ thành lửa tình yêu.
            - Hí hí - làm mai đi, ở Hà Nội có anh trai nào không?
            - Tất nhiên rồi, đẹp như dối, không có mối không xong mà, lấy công an nhé.

            .......

            Hà Nội 15-11-2006
            TRẦN KHẢI THANH THỦY
             
            http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=114&nid=98644
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2006 08:41:52 bởi HongYen >
            #6
              TTL 07.12.2006 00:52:05 (permalink)
              Nhà  văn Việt Nam và sự hội nhập
              Trần Khải Thanh Thuỷ

               
              1. Thiên chức của nhà văn:
              Kể từ buổi sơ khai dựng nước, nhân loại đã trải qua 5 thời kỳ : văn minh trẩy hái (con người mới xuất hiện, sống ở hang động và hái hoa quả, săn xúc vật quanh hang để sinh sống). Văn minh du mục( trồng cây lấy quả, nuôi súc vật để sống). Văn minh định cư, nông nghiệp (nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu như ăn mặc, ở). Văn minh thương mại( phát minh ra máy hơi nước, máy nổ, điện, điện thoại, computer). Cuối cùng là văn minh trí thức, trí tuệ con người  đóng vai trò quan tro.ng. Sự giàu có của một quốc gia không còn nằm trong lòng đất với hầm mỏ, nhân công đông; mà chính là quốc gia đó có một đội ngũ trí thức, chuyên viên quan trọng hay không, Sự giầu có do ngay chính đầu óc con ngừơi mà ra. có thể trao đổi  học hỏi, nghiên cứu một cách dễ dàng...
              Trong tình hình hội nhập này, không những nhà văn Việt Nam mà cả các nhà văn trên  thế giới đều phải  trang  bị  hành trang kiến thức cho mình, phải đổi  mới tư duy từng ngày mới phát  triển kịp sự tiến bộ của nhân loại , mới không bị xã hội đào thải, bạn đọc lãng quên, muốn thế thì phải đọc phải suy ngẫm, phải lao động hết mình trên từng câu chữ. Trên  thực tế  không có sự lao động khổ sai nào bằng công việc viết văn. Khi ý nghĩ như đuôi chuột vừa lấp ló ra khỏi cửa hang phải lập tức bắt lấy và tìm mọi cách giãi bày, thể hiện trên trang giấy thành dòng, thành chương, hoặc thành một cốt chuyện, cho đến khi ý nghĩ thôi cựa quậy trong đầu mới có quyền được thả lỏng ngòi bút. Nghĩa là chỉ 1% là năng khiếu, còn 99% là lao động khổ sai. Cứ đêm trắng ngọt ngào, báo tử từng tế bào võ não. Khi ý tưởng chín dần thì hàng nghìn nơ ron thần kinh cũng chết đi mà không được tái sinh, hàng nghìn sợi tóc cũng phải bạc theo thời gian, theo con chữ và các tác phẩm lớn nhỏ của nhà văn. Một sự đánh đổi không hề nhẹ nhàng mà ngược lại là một sự mất mát khá ư tàn nhẫn, thậm chí đổi cả nhan sắc mình cho nhan sắc của những câu thơ, bài viết.
              Tất nhiên muốn làm được nhà văn thì trước tiên bạn phải có thiên chức. Một sự biệt hoá cao độ và tầm nhận thức hơn hẳn đám đông vì văn chương ghét những  kẻ gặp may, và ngôi đền văn chương đặc biệt kén người vào. Nếu thiếu một trong  hai thiên chức trên thì bạn chỉ có nước đứng ngoài, bởi vì văn chương  không phải  ruộng rau muống mà ai cũng có thể xắn quần lội ào vào.

              2. Nhà văn và sự đổi mới:
              Để nâng văn chương Việt Nam từ sự sa mạc hoá thành vườn đồi, rừng , muôn hoa đua sắc dưới bầu trời văn chương của toàn thế giới, trước tiên phải đổi  mới chính mình. Đã từ lâu văn học Việt Nam bị đặt trong sự kiểm soát của đảng, chỉ biết ăn theo và nói leo các tư tưởng, chính sách, nghị quyết, chỉ cần hồng mà không cần chuyên, chỉ nói đến ý đảng mà bỏ qua lòng dân, chỉ nói đến những điều đảng cho phép dù vô cùng nhạt nhẽo, mà không dám đề cập đến các lĩnh vực đời sống vốn bị coi điểm nóng, vùng cấm. Văn chương mà đánh đu chính trị, thiên về tụng ca hay minh hoạ cho một chính sách nghị quyết nào đấy là thứ văn chương phải đạo, văn chương vứt đi vì chỉ nói đến tà đạo mà không nói đến đời sống, trong  khi cuộc sống đời thường thì muôn hình vạn trạng, bão động đầy trời mà ngòi bút các nhà văn chẳng dám rung rinh theo. Vì vậy một trong  những chức năng của nhà văn là phải gạt bỏ thói quen nô lệ sợ hãi về mặt tâm lý. Thời kỳ đô hộ 1000 năm của Trung Quốc đã qua lâu rồi, song các nhà văn Việt Nam vẫn giữ thói quen từ hàng nghìn năm về trước: "Tâm hệ nhất xứ, thủ khẩu như bình", nghĩa là tự buộc trái tim lại, bưng kín mồm, kín miệng mình, không dám nói theo những lời trái tim mách bảo. Chúa vẫn bảo: Đi theo tiếng  gọi của con tim là điều hợp lý và đúng đắn nhất, vì đảng cộng sản ở kề cận và hiện hữu bên mình nên nhà văn Việt Nam sợ đảng hơn sợ chúa , chuyên làm ngược lại, theo đúng lời đảng dă.n.
              Sinh thời Tố Hữu đã từng đánh đu với chính trị để viết ra những điều tầm thường giả dối: “ Làm ăn hai tiếng à ra thế ”, hoặc: “ Vui làm sao khi nghe con tập nói, tiếng đầu đời con gọi Sittalin ” ...
              Nhà thơ Chế Lan Viên đã tự nhốt mình trong lăng Hồ Chủ tịch để viết tập thơ "đứng trước lăng người" ca ngợi Hồ Chủ tịch, ca ngợi cả lãnh tụ Bành trướng:   “ Bác Mao nào phải đâu xa. Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao ”... Chính sự nhốt này làm ông không thể nào phát triển hết tầm kích mình, còn gây tai hoạ cho ông khi lịch sử sang trang, chính trị trở nên lỗi thời...Nên nhớ, đặc điểm của thiên tài là sáng tạo, có tự do tư tưởng tự do sáng tác mới cho ra những tác phẩm để đời. Tiếc rằng trong thời đảng trị, đa phần nhà văn Việt Nam không dám vượt qua hàng rào phẩm cách của mình, không dám coi tự do là thước đo chiều cao nhân cách của mỗi người, nên thà làm người lùn trong thời hội nhập toàn cầu, thà để đảng thiến mất nhân cách, thiến mất tư tưởng quan điểm hay chất anh hùng thời đại, còn hơn là cất cao tiếng nói của mình để rồi bị đảng đánh, đồng nghiệp xa lánh. Sự sợ hãi bao giờ cũng chỉ đẻ ra hèn nhát mà đã hèn nhát thì ngòi bút luôn toẽ đôi, khen một tí, chê một tí, văn chương nhợt nhạt dễ dãi, khác xa cuộc đời thực, càng thiếu sự nghệ  thuật hoá cao độ.

               3. Nhà văn và sự xông xáo :
              Một điều mà tất cả chúng ta đều biết là nhà văn phải được quyền xem xét thu lượm tất cả những gì là tài liệu, tư liệu, dữ liệu của đời thường...Ngòi bút của nhà văn được quyền xông xáo vào tất cả mọi ngõ ngách của cuộc đời. Càng biến kho trời là trí tuệ của toàn nhân loại thành kho riêng của mình thì nhà văn càng trở nên giàu có. Nói như người Trung Quốc là: “ Tiểu nhân về đời sống, vĩ nhân về đạo đức, nghèo rớt mồng tơi về kinh tế, nhưng lại là đại phú ông về mặt tinh thần" ...Tất cả những sự việc hiện tượng chi  tiết trong cuộc sống đều là những vụn vàng để nhà văn đúc nên những bông hoa 5 cánh, 7 cánh của mình. Có khi chỉ một chi tiết nhỏ lại phản ánh một nhân cách lớn, vì thế nhà văn phải  tung mình vaò cuộc sống, phải để hơi thở của cuộc sống ùa vào lồng ngực, con tim khối óc, phải đánh giáp lá cà trong từng câu chữ cho đến khi có sự loé sáng ở đầu đao mới thôi, càng bị động, thế thủ càng hạn chế tài năng mình, càng tầm thường hoá bản thân ...
              Trên đây chỉ là vài cảm nghĩ của tác giả trong thời hoà nhập toàn cầu này, rất mong được bạn đọc và các bậc tiên chỉ làng chỉ giáo, và góp thêm ý kiến.


              Hà Nội cuối tháng 10-2006
              TKTT
              Nguồn: Viemarketing [eForum-DFW]
              #7
                HongYen 11.12.2006 11:11:03 (permalink)
                Hang đá

                “… Liệu thế hệ cháu con có phải viết tiếp bản tuyên ngôn độc lập thứ 4 cho nước nhà không nhỉ, và bao giờ sẽ viết? …”

                Trần Khải Thanh Thuỷ
                 
                Từ ngày chuyển nhà sang ngoại ô ở ẩn, tôi cứ thích gọi nhà mình là hang đá, đơn giản vì 11 năm nghe theo tiếng gọi của Đảng, đi khai hoá văn minh cho đồng bào dân tộc, giỏi tiếng Mường ngang tiếng Kinh, cảnh vật núi rừng thật mê hồn, nhưng đời sống tinh thần thì mê mụ... vì nghèo đói cả thân xác lẫn tinh thần. Bây giờ ngoảnh đầu nhìn lại, không hiểu sao mình sống qua được những ngày u uất đó. Thiếu thốn cả bánh mì và hoa hồng. Lương không đủ để về thăm mẹ mỗi tuần một lần, sách báo như quả cấm trên non cao, phải trèo đủ 99 bậc mới mong tìm được (chẳng ai dại mất thời gian hoặc bươu đầu sứt trán chỉ vì mấy con chữ). Thành ra chỉ có bài bạc, "tiến lên" là giết được mọi thời gian rỗi rãi. Cuộc sống cứ lặng lẽ trôi đi như bản năng bất tận, mù quáng. Ánh sáng của Đảng của bộ, của sở, của phòng giáo dục có muốn leo lên, gặp phải dốc Cun dựng ngược 17 km, hay dốc Quy Hậu ngoằn ngoèo hun hút trong bóng lá cũng phải quay đầu trở lại, chạy mất dép. Đã trót nghe theo lời Đảng gọi rồi, muốn về -chỉ là cửa ngõ thủ đô- cũng mất cả bữa cơm thịnh soạn và một chiếc xe đạp cuốc, song ngẫm ra hãy còn may chán, vì nhờ chút quen biết mà được giúp. Nếu không, giáo viên miền xuôi đông như lợn ỉ, có sẵn cám bã, chuồng trại đâu mà chen ?

                Từ khu trại chăn nuôi bò do nông trường nhường lại để các thầy chăn dắt học sinh một cách tạm bợ, được chăng hay chớ, có méo mó hơn không, về được khu vực trường thành chuồng và trò thành bầy nơi “cửa ngõ thủ đô" đã là cả một sự kiện long trời lở đất. Đời sống tinh thần có khá lên, song "cơm vua lộc nước" do Đảng bố thí thì đâu chả rứa. Bao nhiêu "cơm vàng cơm bạc nhà ta" Đảng độc quyền, độc tài một mình một mâm, một mình một chiếu chiếm hết, chỉ chút canh thừa, cơm cặn, cơm hẩm, cháo ôi sót lại Đảng nhường cho dân. Tầng lớp tri thức, lẽ ra phải được trọng vọng, dưới con mắt của Đảng vô học chỉ là cục phân bón cho ruộng cả, ao liền của Đảng. Nào cửa hàng Tôn Đản, Nhà Thờ. Cả một nông trường đặt ở ngoại ô, nuôi toàn gà ri, lợn sữa, tám thơm cung cấp cho Đảng độc tài, vô học... Bù lại Đảng thí cho một nắm cơm chim, ăn bữa nay, lo bữa mai, cố bôi ra cho đủ 30 ngày, dù là rau hay cháo...

                Kiếp sau, nếu được làm người, chỉ xin đừng bao giờ được sống giữa lòng Đảng nữa, có thế mới thoát ra khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, đêm giữa ban ngày, cá lớn nuốt cá bé, bè Đảng ăn thịt lẫn nhau. Hàng triệu người phải nhoài ra khỏi lòng Đảng vốn tối như hũ nút để tìm một cuộc "giãy chết" nơi chân trời xa lắc, đó là các nước Tư Bản chủ nghĩa vốn bất công bóc lột, mà sự "ưu việt" chỉ bằng 1/1 triệu hệ thống xã hội chủ nghĩa(!) Thà chỉ còn một bộ xương giữa biển thẳm do cá mập ăn thịt còn hơn thành một bộ xương bày giưã mâm vàng, chén ngọc của Đảng Cộng sản. Cách mạng có nghiã là cách mẹ cái mạng của chính những đứa con đẻ của mình đi, để vinh thân, phì gia, nuôi thân béo mầm. Loài người muôn đời dã man hơn ác thú, cá mập ăn thịt người xong lửng dạ bỏ đi, còn lòng Đảng Cộng sản Việt Nam thì tham lam vô đáy, ăn thịt con dân không tiếc. Ai thoát được, thành Việt Kiều yêu nước có thân thế- như thanh nam châm để Đảng bám vào, giở trò mị dân, mơi móc bằng những ngôn từ đẹp đẽ: "Liễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Đâu có biết liễu điều hoen ố từ lâu rồi, còn giá gương kia thì tam tứ phen bị họng súng của Đảng đập nát! Nào cải cách ruộng đất, nào chỉnh huấn, chỉnh quân, nào nhóm xét lại chống Đảng v.v và vv. Chỉ tấm gương nào được cấu tạo bằng thuỷ ngân láng sắt thép, hoặc ở ngoài tầm ngắm của Đảng mới may mắn sống sót. Khi nào hết từ tính, hết khả năng lợi dụng moi móc rồi, Đảng tặng ngay cho hai chữ “phản động”, “thối nát”, “bám đít đế quốc”.

                Bao người dân tưởng Đảng làm như Đảng nói, xúm xít vây quanh, như những mẩu sắt bám vào thanh nam châm, nào ngờ Đảng vẩy mạnh một cái, thế là bắn tung toé sứt đầu mẻ trán, suốt đời ôm hận, không hiểu Đảng ra sao? Cả cuộc đời theo Đảng, gối đất, nằm sương, tưởng ngày hoà bình được sống trong ánh hào quang của Đảng, ai ngờ ngắc ngoải dập vùi thế này ư? Còn ảo tưởng, còn coi Đảng như nam châm bám vào, Đảng vẩy càng mạnh, mạnh đến mức hết sạch khả năng bám mới thôi. Hãy nhìn tấm gương của những người dân khiếu kiện của 64 tỉnh thành cả nước đấy. Cả dùi cui, cả xe cứu thương, giơ cao, đập mạnh, cho đến khi dán xuống nền của trại giam mới thôi. Tất cả chỉ vì một tội ảo tưởng, coi Đảng và chính quyền là của mình, thiêng liêng thân thiết như cha mẹ, nên giở thói nhũng nhẽo, quấy rầy (dù là có lý).

                Đến giời bây giờ cũng quay mặt làm ngơ để các con giời ăn hối lộ nữa là Đảng - trung tâm đẻ ra các con giời. Ai bảo dại, cứ có nén bạc là đâm toạc họng Đảng được thôi. Đảng sẽ bày binh, bố trận, theo đúng ý của người chủ cây vàng, việc gì phải biến thành sắt bám vào nam châm của Đảng? Trong khi Đảng lại muốn bám vào thanh nam châm của người khác có giá hơn, làm gì chả bị Đảng vẩy mạnh? Không khéo nát xương, bầm thịt như chơi.

                15 năm theo Đảng ăn cơm cặn, canh thừa, một đồng xu dính túi không có, trong khi cậu em nhờ tiêu chuẩn của mẹ: 38 năm bị Đảng cầm tù, vạc đến trơ xương sọ ra, mới thoát được ra khỏi lòng Đảng, lại còn mò về - chỉ vì nhà con một, dòng họ độc đinh, trong khi những đứa khác ra đến biển là xổ lồng tung cánh, có hoạ ngu mới mò về nếu không muốn bị bố mẹ từ mặt, cấm cửa, bóp cổ, chỉ vì cái tội sướng không biết đường sướng, đã hy sinh đời bố rồi nay lại muốn mất mát luôn cả đời con nữa ư ? Trong khi bố đã đam mê lầm lạc, cả đời phá sản rồi, con vẫn chưa trắng mắt ư? Hoặc lại muốn như bố: Trắng cả mắt lẫn tóc, lẫn tay giữa đêm đen của Đảng tạo dựng... Thế là cái nhà tập thể (phải đổi bằng bao công lao dựng tạo của ông bà ngoại) ở 53 Hàng Gai cũng chẳng có đủ diện tích mà ở. Không lẽ cứ kéo dài kỷ nguyên "chó nằm gầm chạn mãi" trong khi cậu em đang đệm êm, chăn ấm nơi xứ người, trở về phải ra ở ngoài ban công, tổng diện tích chưa đầy 4 mét vuông, kê vừa đủ một cái phản nhỏ để nằm... Còn mẹ, vừa xót con trai, vừa muốn có con dâu... đành phải nhắm mắt bước đi. Đất nội thành còn ối, nhưng một mét đất mấy chỉ vàng như thế tiền đâu mà mua? Bèn trượt chân quá đà sang tận ngoại thành cách Hà Nội mười km ở ẩn, gõ cửa trăm nơi để vay tiền làm nhà, thắt lưng buộc bụng đúng 5 năm mới trả hết nợ, tết nào cũng là tết không xu, vì nhặt nhạnh bòn mót được bao nhiêu đem trả nợ hết cả. Nhà xây xong rồi, chỉ là hang gạch đá rỗng không, ngoài cái giường tha từ bà và cái xe đạp từ tiền quảng cáo bia của chị Nguyễn thị Anh Nhân (tổng giám đốc hãng bia Carlberg) ra, cái bếp để dùng không có. Bà hàng xóm thương tình gọi qua bờ tường dúi cho cái rổ cũ và con dao dùng dở, làm mình cảm động rơi nước mắt, nhưng không có bếp thì lấy rổ, lấy dao làm gì? Đành lí nhí cám ơn rồi quay đi, ruột đau như cắt, ngày ngày hai bữa cơm bình dân hạng xoàng cho xong.

                Người Trung Quốc nói: Nhà đóng cửa hoá núi cao, vực sâu. Nhà mình không cần đóng cửa mà ngược lại "Cổng độc lập tha hồ khép mở, nhà tự do thả sức ra vào" cũng vẫn là hang đá, vì cách sông, cách cầu, xa xôi khuất nẻo chả ai có công lên việc xuống gì mà phải mò tới, ngay trong họ hàng ruột thịt 10 năm nay còn chưa biết nhà anh chị hay cháu ruột cơ mà.

                Dù sao cái hang đá này đã gắn bó bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của đời mình. Người xưa dạy: Công nợ trả dần, cháo nóng húp quanh, còn mình thì ăn đã chả đủ lại còn phải dồn vào trả nợ trước tết. Tuy không bỏng lưỡi, bỏng môi vì buộc phải húp nhanh cho chóng hết nợ, nhưng lâm cảnh tết không xu. Bao nhiêu lương, thưởng, nhuận bút vơ vén, gặt hái được dồn vào trả nợ. Tết 5 triệu, tết 3 triệu. Thế là đành để con ở với bà, coi như còn có hương vị, phong cảnh tết, hai vợ chồng khoá trái cửa, chốn chui trốn lủi trong hang đá, không hoa, không bày vẽ gì hết, bà ngoại có sốt ruột gọi điện thoại sang ăn chực được bữa nào hay bữa ấy... Ấy thế rồi cũng qua tết... Khổ không khác gì những cái tết của thời nghèo đói, bao cấp mà trên giường tầng của khu ký túc xá trường đại học Sư Phạm, mình và cô bạn tên Hà đã từng kể cho nhau nghe (Những cái tết bám sâu vào trí óc non nớt của bọn mình đến chết). Nhà Hà ở Nam Định, bố mẹ đều là công nhân cầu đường, 6 đứa con, cả nhà không còn một hạt gạo, mẹ Hà len lén cầm bao tải, giả bộ như đi đong gạo, song... trông trước, trông sau không thấy ai để ý liền xà vào cửa hàng rau ế, tha về một đống củ xu hào ôi, vừa luộc ăn trừ bữa, vừa thả thêm nhúm gạo vào nấu cháo, còn lại đem muối để làm thức ăn sau tết thay dưa cà. Bánh chưng, thịt mỡ chỉ có ở trong mơ... Nhà mình chỉ có năm người: Bố mẹ và ba con, lại giữa thủ đô nghìn năm văn hiến, lương của cả bố lẫn mẹ cộng vào ngót nghét một trăm nghìn, cũng khổ sở đói nghèo quanh năm, thức ăn thì quanh năm chỉ rau và lạc, cùng lắm là quả trứng, bìa đậu, cá thịt là chuyện hãn hữu. Đêm 28 tết, mẹ len lén ra khu ruộng trước cửa (cũng là đằng sau của bếp ăn trường đại học Thuỷ Lợi) xúc một rổ cuộng dưa đem về, tỉ mẩn suốt đêm tước hết lớp xơ phía ngoài đi, thái ra xào thay rau, coi như đỡ được vài hào (vì cấp dưỡng của trường phục vụ một lúc hàng trăm sinh viên lấy đâu ra thời gian mà nhặt, mà tước).

                Vẫn biết cơm mẹ thì ngọt, cơm thiên hạ mới đắng mà sao mình nghẹn đắng cả cổ họng, không sao mà nuốt nổi, thương mẹ, thương mình và khó hiểu cho cuộc đời này quá. Làm rã phổi, bỏng họng, sao không có lấy một phút an nhàn, sung sướng. Chủ nghĩa xã hội mà như chuồng trại, lợn, bò thế này ư ? Cả cái tết cũng không thoát khỏi cảnh nghèo, cái đói. Bác ơi, bác ở đâu? Liệu thế hệ cháu con có phải viết lại lịch sử cho dân tộc Việt Nam không, khi Đảng Cộng Sản cứ dương dương tự đắc: "Ba keo mèo mở mắt". Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc là do Lý Thường Kiệt viết năm 1017: "Sông núi nước Nam vua Nam ở, Rành rành định phận ở sách trời". Bản thứ 2 là Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trái viết năm 1414: "Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn sinh nền Văn Hiến đã lâu... Và bản thứ ba là do chủ tịch Hồ Chí Minh mượn lời của tuyên Ngôn Pháp và Mỹ viết năm 1945: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Tạo hoá cho họ những quyền đó. Đó là quyền được ăn, mặc ở v.v. Bây giờ nước có độc lập, sao dân khổ như trâu như chó? Đảng cậy mình có trăm tay nghìn mắt, tim sắt, gan đồng, nên cứ vơ được gì cho mình là vơ, trong khi bụng lãnh đạo Đảng thành mồ chôn sơn hào hải vị của khắp 64 tỉnh thành, thì dưới cái máng thức ăn Đảng dành cho dân (dù là kỹ sư hay công, nông, binh sĩ) chỉ có chút cám bã thừa. Những thứ mà Đảng nghẹn họng không nuốt được, mới đến lượt dân. Tử tế lắm vào các ngày kỷ niệm, thành lập, chiến thắng, Đảng vẩy thêm cho một nắm bột cá, ba mẩu bánh thừa... thế là đủ tôn vinh sự vĩ đại của Đảng, đủ để đám "dân ngu cu đen" chổng khu lên mà hát: Đảng là cuộc sống của tôi, mãi mãi... chết theo người (!)... Liệu thế hệ cháu con có phải viết tiếp bản tuyên ngôn độc lập thứ 4 cho nước nhà không nhỉ, và bao giờ sẽ viết?

                Vừa đi làm được vài tháng ở toà soạn báo Văn hoá Văn nghệ công an, vừa ngửi thấy hơi đồng, tưởng "chim khôn chọn được cành cao đậu". "Hết khổ rồi em nhỉ, Hỉ Nhi ơi". Ai ngờ các đồng chí kiếm cớ, dựng vụ để loại bỏ mình ra khỏi túi chứa chính sách. Thế là lại về hang đá làm thơ, viết văn, viết phóng sự, truyện vui bán cho các báo để đắp đổi qua ngày, lòng bừng lên một ý chí cách mạng. Không phải "sáng ra bờ suối, tối vào hang" mà ở lì trong hang. Cứ 5 giờ dạy, "cháo bẹ, rau măng" xong là ngồi vào bàn ghế viết một mạch đến 6 giờ chiều khi chồng con trở về. Cuộc đời nghệ thuật không những không sang trọng như câu thơ người viết mà đầy gian nan bế tắc. Hễ ráo mồ hôi là hết tiền (một ngày từ 15 đến 18 tiếng). Cứ năm ngày một phóng sự, ba ngày một bài viết. Cả tháng ít nhất phải có 10 bài lớn nhỏ mới tạm giật gấu vá vai, trong khi biên chế bị cướp, hợp đồng bị phá. Nếu là người khác, có lẽ đã tự chôn sống mình trong nỗi đau khổ mà chết hoặc tan thành nước mắt rồi, mình trái lại, đóng băng mối giận hờn trong lòng lại mà viết, mà hô khẩu hiệu: "Của xê da phải trả lại cho xê da"... Sở dĩ mình bị mọi người trong toà soạn đố kỵ chỉ vì mình hơn họ một cái đầu, một bộ não đầy vết nhăn, khúc cuộn chứ không phải phẳng lì, nông choèn, đặc bùn lầy, cỏ rả. Những tình cảm "tất yếu" mà người đời thường giành cho một kẻ nữ nhi lại không chịu thường tình như mình...

                 
                 
                #8
                  HongYen 12.12.2006 04:13:54 (permalink)
                  Hang đá.....
                   
                  Chúa dạy: Nếu bị trời đầy thì phải chịu, còn bị người hành thì cố gắng vượt qua. Mình đã vượt qua một cách dũng cảm phi thường, hang đá dần dần ấm lại, vì hơi người, vì ý chí... Đến nay, "từ trong hang đá chui ra" mình bắt đầu tự hào về năng lực, phẩm chất ý chí của mình. 11 năm đi dạy, đời chỉ là con số không, là cau có trong những nghề cau có (từ 1982-1993). 10 năm buộc phải gõ đầu mình, ở lì trong hang đá (1997- 2006), mình không những tự nuôi sống mình và gia đình, còn ra được cả bốn chục đầu sách. Nhờ sách mà bắt đầu tạo dựng uy tín tên tuổi của mình, cả trong nước lẫn ngoài nước. Thế mới biết ở đời khôn trong dại, dại trong khôn, phúc ẩn trong hoạ, rủi ẩn trong may thật. Sự khôn của nhiều người rốt cục cũng chỉ là lèn đầy cái dạ dày ba bữa, vài chục bộ quần áo khoác trên người,thỉnh thoảng vác bụng đi đánh chén, biến bụng thành nấm mồ chôn sơn hào hải vị mà thôi. Mình thoát khỏi sự "mị dân", bắt đầu vượt lên để làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời, không còn phải lệ thuộc vào bất cứ tổ chức, ban bệ thành phần nào trong nước, ra sức mà cày trên cánh đồng tưởng tượng đầy hoa thơm trái ngọt của mình để cải tạo dần hang đá, giúp nó ấm áp có linh khí, sự sống hơn.

                  Thời gian như người buộc xích lôi đi, cứ tưởng năng nhặt chặt bị, hạnh phúc tự tại, không tranh cướp của ai, cũng sẽ không ai tranh cướp với mình, nào ngờ... lại hoá thành ảo tưởng, thành “chán chưa hở trời” hết (!). Hang đá cho đến giờ phút này vẫn chỉ là hang đá, bao nhiêu sinh khí, hơi ấm, đồ đạc của nả dựng tạo được, nhờ tấm lòng của bà con anh em Việt Kiều, thông qua các bài viết về dân oan, về đảng, về bác "chí tôn"* bị đảng cướp sạch. Đầu tiên là xe máy - Chịu cảnh "ngửi khói" thiên hạ gần 2/3 đời người, cuối 2002 mới có được, bỗng không cánh mà bay. Như thể đã có sự tính toán từ trước. Cuối tháng 7, bỗng dưng tên Quý, cán bộ dân phòng của khu, tìm vào xin số xe của hai vợ chồng, hỏi để làm gì? Nó trả lời tỉnh bơ: "Các anh công an phường bảo ghi lại số xe để dễ quản lý". Ngay sau đó là chiến dịch vây ráp, đi một bước bị theo một bước, dù đi bằng chân mình, chân chồng, hay chân ải chân ai trong nhóm dân oan đi chăng nữa cũng có đuôi bám. Mặt đất hằn rõ các vết chân chó. Rất có thể điện thoại bị nghe trộm mà chúng biết kế hoạch mình sang nhà "mẹ mìn"- Đỗ thị Minh Hằng và cùng với mẹ mìn, mượn tay bọn trộm để phá khoá, vì thời gian chỉ diễn ra trong tích tắc. Khi mình dựng xe vào nhà, ông xã còn ngồi canh xe cho vợ cả tiếng đồng hồ, chỉ khi biết mình sắp ra, mới lững thững bỏ đi, ai có ngờ cái dáng của chồng mình lại... tệ nhất khi nhìn từ phía sau lưng như thế (mọi khi - đặc biệt sau mỗi lần cãi nhau) vẫn là đẹp nhất cơ mà?

                  Cả một đêm tê tái, lang thang vô định ở các đồn công an làm thủ tục khai b á o, đến các điểm công cộng như bệnh viện, bãi xe, trường học, hiệu cầm đồ để tìm xem bọn trộm có gửi tạm vào đó trước khi tẩu tán không?... Sáng ra,vừa nhấc điện thoại thông báo tin dữ, đã có tiếng cười khùng khục trong máy: - Vào các đồn công an mà tìm, chắc chắn xe của bà đang bị câu lưu trong kho của một đồn nào đó. Họ muốn chặt tay chặt chân bà đấy bà ạ. Bà không biết đảng ra cả một loạt kế hoạch để đánh lại một người thích nổi loạn như bà, sau khi các bút danh đã bị lộ à? Chính Phạm thị Lộc đã bán đứng bà để lấy lòng cơ quan an ninh, hòng xin lại 80 m2 đât tại ngã 5 thị trấn Kế - Bắc Giang đấy, chả phải bao nhiêu lần nó đã ảnh báo sẽ tố cáo bà với công an để bà chết sặc phân sao ? Trời ơi, có kẻ cầm mạng mình chạy trước công an, đẩy lòng hận thù của công an với mình lên tột đỉnh rồi mà còn không biết. Xe máy đã là cái gì? Cẩn thận không thành tương ớt ngâm trong lọ của bộ công an đấy**...

                  Sau đó là cắt Internet, rồi chặn bắt ở quán Net, tịch thu điện thoại di động (vừa kịp dùng một tháng, biết thế nào là nền văn minh thế giới vì điện thoại có rất nhiều tính năng vận dụng, vừa chụp ảnh, vừa ghi âm), tịch thu ổ USB, và tổ chức khám nhà, moi rỗng mọi thứ trong nhà chất lên xe tải kềnh càng chở đi.

                  Sống giữa lòng đảng, trong cảnh lầm than, tài sản quý nhất là xe máy, compurter, điện thoại di động, ổ USB, máy ghi âm, sách vở, tài liệu v.v thì nay nhờ sự vĩ đại của Đảng, thông qua trăm tay, nghìn mắt của lũ cướp ngày là bộ công an, đứng đầu là Lê Hổng.. anh (Hổng anh em, đồng chí chi hết, cứ đi theo xu hướng dân chủ là oánh bể đầu luôn) oánh cả tư tưởng, oánh cả kinh tế, cho triệt tiêu mầm mống dân chủ, nổi dậy đi. Với những kẻ nghiện ma tuý thông thường chỉ cần triệt cho nó sợ, nhưng vẫn để lại các bố già để nuôi... Riêng với loại ma tuý tư tưởng, chất kích thích, gây nghiện "tự do, dân chủ" trong sinh viên học sinh, dân nghèo Việt Nam như thế này, cần phải theo đúng lời dạy của cha già: Với kẻ thù phải cương quyết, khôn khéo. Những gì bất lợi cho độc tài đều có lợi cho dân chủ và đều là kẻ thù số một của Đảng Cộng sản, nhất là trong lúc "Đảng đã cho dân hấp hối niềm tin, giữa tự do sóng dâng tràn bờ" này.

                  Con rắn độc trước lúc chết, đã kịp oằn cổ giãy giụa và đã đớp mình một phát đau điếng, còn ngoạm đi tất cả những gì quý giá của mình sau gần cả cuộc đời cầm bút, chỉ vì không ăn theo, nói leo tư tưởng độc hại, trái đạo làm người, ngược xu thế dân chủ của Đảng.

                  Ngoài kia, trên mạng Internet, bên kia bờ biển đông, mình tin bão đã động đây trời rồi. Nhất định sẽ có sự kết hợp gắn bó: "nội công, ngoại kích, kích thêm hăng" để mình sớm ra khỏi tình trạng này: một mình trong hang đá âm u, không computer, không điện thoại, không internet, không phương tiện đi lại… Chỉ có lời của Đảng vọng vào: Cấm! cấm cấm, bao gồm:

                  - Cấm không gặp gỡ các nhà dân chủ
                  - Cấm không trả lời đài báo nước ngoài
                  - Cấm không liên lạc bằng điện thoại (dù chỉ là điện thoại bàn) với bất cứ ai về việc bị bắt.
                  - Cấm không được sáng tác những bài viết mang tính chống phá Đảng và nhà nước
                  - Cấm truy cập Internet ở bất cứ đâu trên địa bàn cả nước. Nếu cố tình sẽ có cuộc vây ráp quy mô từ bộ công an (Khoảng 30 người) ập đến bắt sống như hai lần trước (2-9 và 9-9-2006)
                  - Cấm tiếp xúc với các đối tượng dân oan khiếu kiện
                  - Cấm nhận đơn thư, hoặc bất cứ tài liệu nào trên mạng mang tính nói xấu Đảng và nhà nước v.v và v.v

                  Chao ôi, tưởng Đảng chỉ vĩ đại nhờ cái đuôi định hướng dài, nặng và to quá khổ (bắt 83 triệu dân Nam thành khỉ, vượn đười ươi giữa lòng đảng trị, trong thế giới hội nhập toàn cầu), ai ngờ phần "thượng môn" của đảng cũng... to như rứa? Phun ra đầy uế khí. Người sạch sẽ có nhân cách, lương tri như mình làm sao chịu nổi ? Rồi xem văn hoá Đảng và văn hoá truyền thống dân tộc, ai thắng ai? Cho dù có cả triệu triệu công an thực thi công việc truyền bá văn hoá đảng (bao gồm mị dân, tham nhũng, khủng bố) thì 85 triệu người dân Việt Nam trong và ngoài nước (dĩ nhiên có mình) sẽ xé toang tấm vải lịch sử mà đảng dày công xây đắp 76 năm qua. Lúc ấy mọi thứ tạo dựng được từ đôi tay, khối óc, trái tim mình mới thực sự là của mình, mới không bị Đảng giở trò cướp trắng trợn, công khai giữa ban ngày ban mặt như thế này, dù là bất cứ lý do nào đi chăng nữa.
                   
                  Hà Nội 11-9-2006
                  Trần Khải Thanh Thuỷ
                   
                  #9
                    HongYen 13.12.2006 07:45:27 (permalink)
                    Tự thuật
                     
                     Số 563 - Thứ Sáu - Ngày 29.09.2006
                     
                    Anh không chấp nhận, tôi không yên lòng nhắm mắt, xuống suối vàng. Tôi, Tôi họ trần, đệm khải và thanh. Nhiều người thắc mắc vì cái tên dài dằng dặc của tôi. Khi biết tôi có gia đình, lại cho rằng chữ khải ấy là tên người bạn đời của tôi... Quả là sự nhầm lẫn thú vị, vì có đề cao gía trị của hôn nhân đến mấy, tôi cũng không có được ý tưởng lãng mạn đó, huống hồ tôi nhìn nhận hôn nhân ở góc độ hết sức biện chứng và đời thường: Hôn nhân là một sự cộng gộp, sung sướng gấp đôi và đau khổ cũng gấp đôi (Lậy chúa, nếu người ta biết kìm hãm và tự điều tiết mình, ngược lại, để chốt hãm bật tung khỏi van điều tiết thì sự đau khổ, tôi tin là gấp... bội, chứ không thể là gấp bốn, gấp đôi nữa. Không tin bạn hãy thử mà xem(!)

                    Xin quay ngược lại 46 năm về trước, giữa trưa mùa đông lạnh giá tôi cất tiếng chào đời. Sự ra đời của tôi dẫu không phải "tình cờ" cũng không có gì đặc biệt. Xem trong tiểu sử của các vĩ nhân, tôi luôn bắt gặp những dòng chữ: Tôi sinh ra trong một đêm mưa gió. Thay vì những giấc mơ tiên tri báo hiệu sự ra đời của đứa con danh nhân, thần đồng như những bà mẹ may mắn khác, mẹ tôi chỉ có cảm giác đói, bà hoàn toàn không ngờ tôi có thể chào đời nhanh thế, khi 2 ngày trước bà đi khám, bác sĩ bảo ít nhất cũng còn một tháng nữa, tốt nhất nửa tháng sau quay lại mới có thể biết ngày mãn nguyệt khai hoa...

                    Sáng hôm ấy bà đi làm như bình thường và suýt nữa thì đẻ rơi tôi trên những bậc cầu thang nơi bà làm việc (Viện thiết kế Thủy Lợi, bộ Thủy Lợi). Khi dấu hiệu của sự vượt cạn đến gần, bà lâm râm đau bụng, toàn thân là một sự chuyển rung dữ dội, không đứng, không ngồi được, cứ phải cúi lom khom. Một người đồng nghiệp lớn tuổi - cũng là chị em kết nghiã - quả quyết bà sắp đẻ, vội vàng gọi xích lô, ấn bà vào. Nể lời, bà đành phải theo chị bạn đến viện để khám lại, nhưng vẫn đinh ninh theo lời bác sĩ, chỉ là đau bụng thông thường do đói lạnh, hay tối hôm trước ăn phải cái gì không lành, vì tính tháng tính ngày mới được có tám tháng... Vừa kịp trèo lên bàn, một phần cơ thể tôi đã lộ ra... bác sĩ la tá hỏa, ấn luôn bà vào cái bàn định mệnh đó, thế là... đẻ. Đơn giản như gà đẻ trứng vậy, trong khi sáng ra bà chưa kịp gia cố dạ dày, nên đói ngấu, lạnh run người đến mức chính y tá đỡ đẻ phải nhường cơm xẻ áo cho bà (đến bây giờ tôi vẫn không hiểu sao hồi ấy lại có người tốt đến thế, chứ tôi đã hai lần sinh nở, hễ không có tiền lót ổ, thì lương y thành... hà bá, thầy thuốc kiêm mẹ mìn ngay).

                    Bố tôi vốn dòng dõi khoa bảng, khi sinh, ông muốn con cái - không những sao chép trọn vẹn hệ ADN còn phải mang cả dấu ấn tên tuổi của mình, vì thế 4 anh em tôi, dù trai hay gái đều có đệm khải như một dấu ấn nghìn đời của tổ tiên để lại (Trừ khi dòng họ trần khải bị tuyệt diệt hoặc vì một lý do nào đó phải thay tên đổi họ). Vốn là người giản dị, không ưa cầu kỳ, cái tên ...đa âm, đa tạp này làm tôi khốn khổ suốt 30 năm trời.

                    Để đơn giản hóa con người mình, dễ hòa nhập với đám đông cây cỏ, hoa lá, rác rưởi, sình lầy trên dòng sông cuộc đời, tôi thường bỏ rơi chữ khải hoặc thay bằng đệm thị, nào ai ngờ cái tên ấy luôn bị trùng lặp, dễ lẫn với bạn bè cùng trường, lớp nên không được chấp nhận. Đặc biệt trong các kỳ thi vượt rào, vượt tuyến cấp I, cấp II. Hồ sơ lý lịch ghi rõ rành rành, cấm có thay đổi được, đành nén lòng, kìm mình làm lại, để thẻ học sinh trùng với giấy khai sinh trong lý lịch tự thuật. Xét cho cùng, bài thi có lọt qua được hàng rào khắc nghiệt này, điểm thi cũng không được công nhận...

                    12 năm, ứng với 24 kỳ thi, tôi vẫn không thể quen với cái tên quá đặc biệt, phi lô gích của mình. Trong sổ đầu bài bao giờ nó cũng lòi ra cả một đống chữ và là mục tiêu đầu tiên gây sự chú ý của giáo viên, mỗi khi gọi lên bảng kiểm tra miệng đầu giờ. Nếu không, bao giờ cũng gây phản ứng cả nhiều phía giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và lũ học bạn cùng lớp: "Tên gì mà loằng ngoằng thế này?" Hoặc: "Tên với chả tuổi, nghe cứ ngang phè phè". Trong lớp có một cô Trần Thanh Thuỷ khác, vừa điệu vừa học kém, khiến tôi không thể "lẩn khoản" cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình. Nhiều người quen tay đề Trần thị Thanh Thuỷ, khi phát hiện ra vẫn thiếu chữ đệm liền thêm chữ khải vào giữa, khi đọc lên đủ cả năm chữ: Trần Khải thị Thanh Thuỷ hoặc Trần thị Khải Thanh Thuỷ làm tôi đỏ bừng mặt, còn lũ "nhất quỷ nhì ma" thì được dịp cười rũ...

                    Đau lòng hơn, để khỏi gọi tên dài ngoãng lại phân biệt với cô bạn Thuỷ kia, chúng gọi tắt tôi là Khải Thủy. Thật như hai càng nhọn hoắt của con cua chọc thẳng vào hông.

                    17 tuổi tôi không làm nổi chứng minh thư còn vì một lý do tế nhị, động trời hơn. Bố tôi vốn sính chữ, mê anh hùng thế giới hơn cả con mình nên ghép tên các anh hùng vào tên con như tôi là Trần Khải Thanh Thuỷ Zôia, còn em tôi là Trần Khải Ca Tanmal... v.v... Tôi đã khóc nửa ngày khi mọi lý do đưa ra đều không được chấp nhận, dù vẻ mặt hình thể khi ấy, tôi rất đáng thương, song xét về nguyên tắc, nếu tôi không trung thực với cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình thì không thể có quyền công dân - nghiã là được cấp chứng minh thư như bao người khác.

                    Sau một hồi an ủi động viên tôi về ý nghiã cao đẹp của cái tên đặc biệt đó, vừa là đệm Khải và Thanh của cả bố lẫn mẹ, là chiếc cầu xinh bắc ngang hai bờ tình yêu của bố mẹ, lại là nữ anh hùng Liên xô, vẫn không kéo tôi ra khỏi cơn hờn giận tức tưởi, bố tôi chán ngán, nói sẵng: "Thôi thì tùy mày, chờ đủ 18 tuổi có quyền công dân, tự đi mà thay tên đổi họ".

                    Tôi chỉ thực sự bừng tỉnh sau bao lần mất nhuận bút. Tuy tốt nghiệp đại học sư phạm khoa sinh - kỹ thuật nông nghiệp (thường bị gọi chệch là khoa lông gà lông vịt,) song tôi rất thích viết và đã thử sức mình trên mặt báo ngay khi vừa ra khỏi trường. Cái tên Trần Thanh Thuỷ chẳng gợi lên điều gì tốt đẹp, nếu tôi không ghi đầy đủ địa chỉ, số nhà, lập tức số tiền còm bốc bay ngay. Khi tôi đọc báo, biết tin, về tòa soạn lấy thì người ta đã chuyển cho một phóng viên báo Hà Nội hoặc Lao Động từ tám hoánh nào rồi, không ai nghĩ tác giả chỉ là một giáo viên bản, làng như tôi.

                    Hè 1986, tôi vào Nam, đem cả tập bài vào theo, không ngờ chưa đầy hai tuần lại sấp ngửa ra đi, tôi chỉ kịp ném nửa số bài vào tòa soạn báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và nửa còn lại vào báo Khăn quàng đỏ. Với lĩnh vực thiếu nhi, tôi may mắn hơn, gửi bài trực tiếp cho biên tập viên Lê Việt Nga, sau hai ngày đọc một mạch 20 bài của tôi, chị hồ hởi bảo: "Bài của em được lắm, từ ngày làm phóng viên trực trang đến giờ, chị nhận cả nghìn bài, nhưng không bao giờ xài tới phân nửa như của em, thậm chí nếu bí bài, thì xài hết luôn em à".

                    Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, khi tôi tìm ra được địa chỉ báo Phụ nữ để mò đến chỉ được nhân viên ban bạn đọc tiếp, lịch sự nhưng khách sáo. Vì vội, tôi để bài lại tòa soạn rồi theo đoàn lên tàu ra Bắc ngay, không hề biết số phận của những đứa con tinh thần của mình thế nào?

                    Trở về trường, tâm trí tôi còn để cả ở những bài báo. Tôi cứ tự trách mình rằng bản thảo đâu phải đứa con hoang, sao có thể cẩu thả như thế, chỉ ghi tên họ chung chung không hề có địa chỉ ở lại, không biết số phận chúng sẽ ra sao? Sau đó tôi gặp nhà văn Phong Thu, biết ông cũng cộng tác với vài tờ báo phía Nam, trong đó có báo phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh liền nhờ ông hỏi hộ, hóa ra tất cả số bài được in đã chuyển nhuận bút cho tác giả rồi, tra trong các báo họ thấy có một phóng viên nữ là Trần Thanh Thuỷ thường gọi là Thủy đen ở báo Lao Động, họ đã gửi đến. Tôi tất tưởi tìm đến thì ôi thôi, chỉ được một lời giải thích: ừ, mình cũng băn khoăn mãi, không biết ai đã gửi báo kính biếu để mình đọc, lại còn gửi cả tiền cho mình tiêu nữa, lại không chỉ một lần. Hóa ra trên đời này có tới hai bà Trần Thanh Thuỷ bằng xương bằng thịt cơ à? Khéo nhảy?

                    Tiền chị Thủy đã tiêu từ tám hoánh nào rồi, tôi chỉ xin chị những số báo có đăng bài để giữ làm kỷ niệm, chị sốt sắng nhận lời, để rồi bao nhiêu lần sau đó (không chỉ riêng một việc này) đều chỉ là một ngụm nước lã đun sôi để nguội tiếp tôi chứ chẳng có bát nước xáo, hoặc tờ báo nào cả. Đơn giản, chị bảo, lâu ngày quá rồi chị không biết ở đâu mà tìm. Làm một phóng viên như chị, chỉ vài hôm là bài vở tài liệu ngập lên tận mặt, không biết ai đọc lấy đi, cho ai xem, ai mượn hay dúi vào đâu"

                    ...Thành thật suốt cả năm trời làm quen với chị tôi không ngờ chị có thể hứa dễ dãi đến thế, mức siêu cuội như Trần Đăng Khoa với biệt hiệu nhà văn Trung Trung Đỉnh đặt: "Thằng Cuội ngồi gốc cây thơ" cũng không thể bằng. Tiền chỉ là chuyện nhỏ nhưng công sức và thời gian tôi bỏ ra sau đó trong những bài viết về các vụ việc tiêu cực ở trường nơi tôi dạy (Kỳ Sơn B Hà Sơn Bình) đâu phải là chuyện vặt... Thế mà tôi cứ tin ở con người, ở lời hứa rằng hứa là nợ, nợ thì phải trả, không thể quỵt được, rằng một lời đã trót nói ra dẫu rằng 4 ngựa cố mà đuổi theo. Bao nhiêu công sức nhiệt huyết của những ngày đầu cầm bút tôi trao cả cho chị, tiếc thay thời điểm 1986, 1987 ấy lại chưa hề có máy phô tô copy hoặc máy tính, chỉ đơn thuần là viết tay... khi phát hiện ra chị chỉ là một kẻ luôn hứa hão... thì tôi cũng trắng tay vì bản thảo không thể lấy lại được nữa. Có lẽ câu tin bạn mất bò luôn đúng trong trường hợp tôi lúc bấy giờ, chỉ có điều bò mất còn có thể sắm lại được, còn những bản thảo mà tôi đã viết bằng tất cả công sức trí lực tình cảm của mình lúc đó, không thể viết ra được lần thứ hai, dù sau này tôi có là thợ viết, nhai phóng sự rau ráu, điều tra các sự việc tinh thông lão luyện đi chăng nữa, cũng không thể viết lại như cũ được.

                    Vừa không thể để mất "khúc ruột" của mình (đồng tiền liền khúc ruột) vừa không bị đánh đồng với một người dễ dãi như thế trong làng báo, tôi quyết định lấy lại đệm khải của mình trong mọi bài viết (tất nhiên còn cả bút danh là tên chồng và hai cô con gái khi đã lập gia đình nữa). Tên Trần Thanh Thuỷ chỉ xuất hiện ở những bài mà tôi cho là không quan trọng, xoàng xoàng mà thôi. Tuy không làm hàng chợ, hoặc vì mưu sinh, đôi khi tôi buộc phải làm, thì mức độ hàng chợ của tôi cũng luôn cẩn trọng, như các mặt hàng của Trung Quốc vậy, người có kinh nghiệm biết phân biệt thì chọn được hàng loại I, tức trung ương, còn không gặp hàng địa phương loại 2, 3. Bản thân tôi luôn ghét sự cỏ giả. Vì thế tuy rất luộm thuộm trong đời thường nhưng với chữ nghiã luôn là sự lao động nghiêm túc, hết mình. Nếu bài chưa hay, chưa chuẩn, thì do nhận thức vốn sống của tôi chưa tới, chứ không phải do ẩu, do vội vã, tắc trách.

                    Từ ngày lấy lại đầy đủ họ tên, tôi không gặp phải rắc rối nào nữa, chưa kể như một sự "nhất nước". Bao lần bản thảo gửi đi, không địa chỉ, điện thoại tôi vẫn được lĩnh nhuận bút như thường, vì bạn bè đọc được, qua điện thoại mà thông báo cho tôi, khi tôi còn nghi hoặc, bao giờ cũng được khẳng định: "Khổ quá, nhầm làm sao được, đúng là Trần Khải Thanh Thuỷ mà, còn ai có đệm khải ở giữa như bà nữa đâu". Rồi: Ôi giời cái chất giọng cứ tưng tửng như vậy, "ngửi" là ra ngay mà. Thế là tôi gọi điện thoại vào yêu cầu toà soạn gửi nhuận bút hoặc gần thì ung dung đến lấy, trăm lần không chệch. Hồi vừa làm nhà (1996) tôi nhớ lương chỉ 400,000 đồng, mà riêng nhuận bút thơ có tháng lên tới 550,000 đồng nhờ đệm khải ấy, người trong tòa soạn bực mình đố kỵ thấy tôi có giấy báo lĩnh tiền không chịu báo lại, nhưng bưu điện gửi hết lần nầy đến lần khác, cuối cùng châu về hợp phố.
                     
                    Cũng nhờ đêm khải ấy mà tôi gặp may. Bố tôi trước vốn là người thông minh đĩnh ngộ, đẹp về hình thể lại giỏi về chữ nghiã, ông biết 6 ngoại ngữ và am hiểu hầu hết các lĩnh vực văn hoá khoa học, bạn bè cùng lục quân khóa 4, trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn với ông kể: "Chú trưởng thành được là nhờ bố cháu, con nhà nghèo có được học hành gì đâu. Vào bộ đội, thèm chữ như thèm gái. Biết bố mày hay chữ sáng đến, những tưởng cưỡi ngựa xem hoa, học hành ba chữ lem nhem, có méo mó hơn không thôi, ai ngờ bố mày là người hiểu biết thấu đáo, kèm cặp dạy dỗ rất bài bản, chiều nào, tối nào cũng ốp học, ít nhất là 2-3 tiếng, bù lại mọi công việc giặt giũ, gấp chăn màn, chẻ củi, lấy nước là tao lo, mà kỷ luật quân đội đâu có lơ tơ mơ được. Sáng ra, nhảy ào xuống suối, tay trái đánh răng, tay phải khoắng quần áo, hai chân kẹp xô chậu, chăn màn... cuống cà kê lên, cũng may bố mày chỉ cầu kỳ khó tính trong văn chương, chữ nghiã, còn cực kỳ dễ tính trong đời thường, ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong..."
                     
                    ......

                    http://www.namuctuanbao.com/563/563_pg03_02.htm
                     
                    #10
                      HongYen 22.12.2006 09:57:02 (permalink)
                      Trần Khải Thanh Thủy
                       
                       

                    • Sinh 26-11-1960 tại Hà Nội
                    • Tốt nghiệp Khoa sinh Đại học Sư Phạm I- Hà Nội
                    • Dạy Phổ thông trung học hết 1992.
                    • Từ 1993 là phóng viên các báo: Cựu chiến Binh. Người cao tuổi, văn hoá văn nghệ công an, Lao động thủ đô
                    • Từ 2002 tham gia viết báo tại Hải ngoại với nhiều bút danh khác nhau
                    • Hội viên Hội Nhà Văn Hà Nội
                    • Hội viên Câu Lạc Bộ thơ nữ Hà Nội
                    • Hội viên Câu Lạc Bộ các nhà báo vui tính Việt Nam (Hội nhà báo Việt Nam)
                      GIẢI THƯỞNG

                    • Tranh vui– nụ  cười dự thi báo Tiền Phong 1983
                    • Truyện vui báo Văn nghệ (1982 - 1983)
                    • Giải Đặc Biệt QUỐC HẬN 2006 của Phong Trào Hiến Chương 2000.   NGUYỄN THÁI HOÀNG (Hà Nội) (lần 1)
                    • Giải Đặc Biệt QUỐC HẬN 2006 của Phong Trào Hiến Chương 2000. NGUYỄN THÁI HOÀNG (Hà Nội): (lần 2)
                    • Giải Ba Đồng Hạng GIẢI QUỐC HẬN 2006 của Phong Trào Hiến Chương 2000. Trần thị Thanh Hằng (Hà Nội)
                      Thư mục TRẦN KHẢI THANH THUỶ
                       
                      Sáng tác :
                       

                        Sư kiện Trần Khải Thanh Thuỷ :
                       





                      14.09.2006 - RFA phỏng vấn Ts. Nguyễn Thanh Giang :
                      Không thể buộc Trần Khải Thanh Thủy vào một cái tội nào cả
                      12.09.2006 - RFA phỏng vấn Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy [ Phần 2] :
                      Kể lại việc bà bị khám nhà và tra vấn.
                      11.09.2006 - RFA phỏng vấn Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy [ Phần 1] :
                      “Chưa thời nào mà làm dân khổ như thời CS mà cũng chưa thời nào làm quan lại sướng như thời CS.”
                      9.09.2006 - Lê Lâm, sinh viên Cao đẳng Ngân hàng :
                      Công an xách nhiễu nhà văn Trần Khải Thanh Thủy...
                      5.09.2006 - Hà Trung Kiên - Ninh Bình :
                      Công an Việt Nam: những kẻ ngu trung mù quáng
                       4.09.2006 - Thường Dân - Hà Nội :
                      Nếu tôi chết ...
                       




                       http://phusa.free.fr/TK_TThuy/1_ThuMuc.htm
                    • #11
                        HongYen 24.12.2006 08:54:31 (permalink)
                         
                        TKTT
                         
                        Trần Khải Thanh Thuỷ (tên thật)
                        1.    Chết ngoài kế hoạch (truyện vui)
                        2.    Báo về (truyện vui)
                        3.    1001 truyện trong cơn sốt giá( phóng sự)
                        4.    Cơm vua lộc nước( phóng sự)
                        5.    Nhật ký ngục tù (nhiều kỳ -Tản văn )
                        6.    Tự sự về lai lịch một bài thơ (Tản văn)
                        7.    Văn minh thành phố (truyện vui)
                        8.    Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh (phóng sự)
                        9.    Hang Đá (Tản văn )
                        10.   Đôi điều cảm nhận (Tản văn )
                        11.   Đối thoại cùng sông (Tản văn )
                        12.   Hoan hô công an đảng ta vồ ếch
                        13.   Ôi công an nhục mấy cho vừa
                        14.   Bình quân đại láo
                        15.   Đảng buông vạt váy tôi  ra
                        16.   Thư cảm ơn
                        17.   Tiếng  rao đêm Hà Nội (phóng sự)
                        18.    Hồi ức buồn( truyện ngắn )
                        19.    Kỷ niệm hay tưởng liệm?
                        20.    Tượng đài mà biết nói năng ?
                        21.    Chuyện  thường ngày ở đồn (I, II)
                        22.    Đêm chong đèn ngồi hóng chuyện
                        23.    Trò chuyện cùng anh Lưu Ngọc Bang (I. II)
                        24.    Lương y Hà Nội bây giờ
                        25.    Nhà văn Việt Nam và sự hội nhập
                        26.    Chính  trị và chiếc giường
                        27.    Cú điện thoại "oan nghiệt"
                         
                         Nguyễn Thái Hoàng (Bút danh)
                         
                        1.     Thơ Tố Hữu và thơ truyền miệng
                        2.     Một cái chết đầy oan ức (phóng sự điêù tra)
                        3.     Thơ Bút Tre hay một thế hệ Folkclore mới
                        4.     Nước mắt cười (Bình thơ Hà Sĩ Phu)
                        5.     Muốn được hoàn lương cũng khó (phóng sự điêù tra)
                        6.     Việt Nam qua thế giới ca dao hò vè
                        7.     Từ hội nghị trung ương 11 đến 12
                        8.     Phát hiện thêm về Hồ Chí Minh
                        9.     Đôi dòng nhắn gửi
                        10.    Hồ chí Minh- nhân vật trăm mặt, nghìn tên
                        11.    Nguyễn Tất Trung- bi kịch của thời đại
                        12.    Muốn cho thanh cao hay muốn cho đục ngầu?
                        13.    Đọc lại di chúc Hồ Chí Minh.
                        14.    Hãy để ngày ấy lụi tàn
                        15.    Tôi viết Hồ Chí Minh
                        16.     Suy nghĩ về Hồ Chí Minh.
                        17.     Bi kịch những số phận nông dân miền trung
                        18.     Bà Đỗ thị Luyện- một bà mẹ khốn khổ ở Việt Nam
                        19.     Đầu năm mừng Đảng bài thơ
                        20.     Thiên phiếm chuyện dài kỳ I: - Việt Nam có một bác già.
                        21.     Thiên phiếm chuyện dài kỳ II: - Về một bài vè dân gian
                        22.     Thiên phiếm chuyện dài kỳ III: Viết mãi tên người
                        23.     Thiên phiếm chuyện dài kỳ IV: Những vần thơ "ca ngợi" Đảng, Bác
                        24.     Si-đa học đường- nỗi nhục không của riêng ai.
                        25.     Hà Nội mùa này lắm những cha nuôi( phóng sự)
                        26.     Quê hương là chùm khế ngạt (phóng sự)
                        27.     Gởi ngài tổng bí họ Nông
                        28.     Khóc bà Phạm thị Dấn !
                        29.     Vụ trộm cổ vật ở Bắc Giang- tiếng oan dạy đất án ngờ loà mây   (phóng sự điêù tra)
                        30.     Vụ trộm cổ vật ở Bắc Giang: 1001 chuyện cười ra nước mắt (phóng sự điều tra) .
                        31.     Nhà sư Thích Đức Chính - chết chưa phải là đã hết (phóng sự điều tra)
                         
                        #12
                          HongYen 24.12.2006 22:48:21 (permalink)
                          Nước mắt rưng rưng - thư viết giữa đỉnh trời...
                           
                          Cho đến bây giờ, trong tay tôi có tới 50 giấy "mời" của công an phường Đức Giang và phường Trung Liệt, nơi tôi tá túc và tạm vắng suốt 3 tháng trời qua (kể từ đêm 2-9 định mệnh), nghĩa là cứ trung bình hai ngày tôi nhận được một tờ trát, cũng là lệnh truy nã đặc biệt, lệnh bắt khẩn cấp để lên đồn trình diện... trình cả cái cơ thể ốm yếu, bệnh tật vì bao năm vắt mình kiệt quệ để tồn tại trong bối cảnh "cá lớn nuốt cá bé", thằng dốt trị thằng giỏi, "văn chương hạ giới rẻ như bèo" của đảng, cũng là trình cái tư tưởng "trây ì, "nổi loạn" không chịu "bó thân về với triều đình" của mình. Kể từ 2002 khi bị bắt lần thứ nhất, cho đến nay, bị bắt đến lần thứ 3, bị khám nhà, lục lọi, dạy dỗ, đe nẹt, hoạnh hoẹ, sách nhiễu đủ điều, đủ kiểu mà vẫn không chừa, vẫn hô khẩu hiệu:

                           
                          Thà chết đứng còn hơn sống quỳ, thà làm Từ Hải trong vòng vây trùng trùng điệp điệp của lũ khốn mà giữ được khí tiết, phẩm giá mình, còn hơn là Thúc Sinh trong vòng tay của lũ tú bà, đảng quỷ, bị thiến hết tư cách, danh dự, nhân quyền.

                          Ngược lại với sự hoạnh hoẹ sách nhiễu của đảng, là tấm lòng của bà con anh em Hải ngoại, thông qua 50 tấm giấy nhận tiền, lĩnh tiền, biên nhận... Người ít 20 USD, người nhiều 50, 100 USA, thậm chí có cả nhóm bạn, tổ chức gửi về cho tôi 500 USA hoặc 500 UDA. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là đồng đô của Úc, đồng Euruo của Châu Âu, đồng bảng của Anh.
                           
                          Cũng lần đầu tiên trong căn phòng nhỏ của mẹ tôi tập trung đủ chất giọng của ba miền Trung, Nam, Bắc.
                           
                           Từ người miền Bắc di cư 1954, đến người miền Nam gốc Trung hoặc miền Nam thuần tuý. Trong ngày sinh của mình, dù không hề thông báo cho ai biết, chỉ qua bài thơ nhỏ do anh Trúc Lê post trên mạng VietLand, tôi nhận được không dưới 20 cú điện thoại chúc mừng, từ Úc, Mỹ, Đức, Pháp, Anh gọi về...
                           
                          Riêng mảnh đất Úc bé nhỏ, nơi vẻn vẹn 19 triệu dân có đủ cả Nam Úc, Sydney, Melbourne, Úc Đại Lợi v.v...
                           
                          Một vùng đất mà tôi chưa hề đặt chân tới song đã biết đó thực sự là thiên đường của hạ giới, nơi không có người áp bức, bóc lột người, nơi tự do và tri thức ngự trị, nơi bữa ăn của tổng thống và dân thường như nhau, cũng là nơi phong trào đấu tranh dân chủ cho Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, nơi hội tụ những tấm lòng tri âm tri kỷ nhất. Chỉ riêng số tiền mà cả đối tượng công nhân, nông dân, kỹ sư, tiến sĩ, quyên góp đã là 1,500 UDA để tôi có tiền chữa bệnh cho mình, đóng học cho con, thậm chí thuê một chỗ ở mới tại trung tâm thành phố để tránh hoạ đương đại.
                           
                          Bài thơ "đời mình" của tôi vang lên đúng ngày sinh nhật, qua muôn trùng sóng vỗ, qua lớp lớp biển mây, qua trùng trùng sương khói, làm tôi cảm động chảy nước mắt. Vẫn biết thơ 5 chữ dễ làm, giàu nhạc điệu, dễ phổ thơ, song thơ tôi đầy nước mắt, lại trúc trắc, góc cạnh, nặng triết lý nhân sinh, bao nỗi đau thế thái nhân tình, đau cho mình, đau cho đời, sao đôi cánh âm nhạc vẫn tải được? Tâm hồn người nhạc sĩ mông mênh, sâu nặng đến thế sao? Vừa phổ được thơ tôi thành nhạc, vừa tải cả hồn tôi đi chu du bốn bể, năm châu, sáu lục, đến trú ngụ trong tình thương bao la của cộng đồng, những người bạn tôi chưa hề biết mặt, chỉ loáng thoáng biết tên mà chỉ cần nghe giọng nói, những ngôn ngữ mang nặng âm điệu quê hương đã làm tôi ấm lòng, trái tim muốn vỡ ra vì vui mừng, cảm động, khiến tôi không thể không cầm bút: "Nước mắt rưng rưng, thư viết giữa đỉnh trời".

                          Đỉnh trời là căn hộ nhỏ nhoi chật hẹp tận tầng 3 khu tập thể, nơi mẹ tôi phải đổi bằng cả 38 năm trời công tác, cống hiến, cùng gia sản một đời của ông bà để lại tại trung tâm bờ hồ mới có được, cũng là nơi tôi tìm về trú ngụ, sau khi tổ ấm của mình nơi ngoại ô bị xé nát tan tành dưới bàn tay đảng quỷ. 28 ngày trời, phải xa chồng, lìa con, rời bỏ nơi mình đã từng gắn bó thân thiết, nơi trái tim tôi âm thầm ca hát, nơi tâm hồn tôi vật vã, bon chen để viết nên những tác phẩm nghệ thuật cho đời, cho mình... lòng tôi đau như cắt. Bình thường thời gian trôi nhanh như lùa ngựa trên đồng cỏ, một ngày vẻn vẹn 24 tiếng, một tiếng vẻn vẹn 3,600 giây. Tôi chưa kịp tiêu gì ra món, đã hết veo hai phần ba cuộc đời. Bây giờ thời gian như cật nứa, cứa lòng mình nát tan... một mình trong căn phòng 9m2, quay phải là ta, quay trái cũng là ta, trông trước trông sau cũng chỉ một mình, bao nhiêu giọt nước mắt rơi trong cõi lòng sâu thẳm u tịch trước cảnh đời đen tối:
                          Giang sơn chan chứa đôi hàng lệ.
                          Mình vẫn cô đơn giữa đỉnh trời...
                          Giờ nhận được những tấm lòng đồng tình, xẻ chia, nước mắt lập tức lăn nghiêng về phía có nụ cười, rưng rưng nỗi niềm tình cảm, yêu thương, khích lệ, vui mừng, khó bút nào tả được.

                          Lệ thường, sống trong lòng xã hội, người tài không có đất dụng võ. Hoa thường héo, cỏ thường tươi. Đời người phụ nữ ví như đời cây, bao lần oằn mình trước giông gió, tự che chắn cho mình và cho cả đàn con, tích nhựa thành những đường vân xoắn kết trong ruột, tiết hương thơm cho đời. Song thứ hoa nằm trong biên chế, trong guồng quay của nhà nước còn chẳng ăn ai nữa là hoa nằm ngoài danh mục như tôi. Dẫu có là thân quế, thì giữa rừng người, dòng đời ồn ã, ô trọc vẫn là cảnh "Ngát hương ai biết thơm lừng ai hay."

                          Nhờ sự dồn vào tận ngõ cụt của sự sống, cắt internet, cướp trắng computer, giật điện thoại di động hết lần này đến lần khác, xúi đám đầu gấu qúa khích vào phá nhà, đập cửa sổ, làm sập giường, kèm hành hung, lăng mạ, xé giấy tờ, tài liệu, sách vở hai lần, cùng việc đấu tố giữa sân vận động của khu tập thể, mà tôi được cả cộng đồng Hải ngoại biết tới.
                           
                          Ngoài việc chăm chút, yêu thương, đùm bọc, che chắn, còn gửi gắm cả niềm tin lẽ phải, để hương tôi được ngát, mùi thơm của cây đời tôi được lừng... Xung quanh tôi bây giờ hiển hiện những tấm lòng của bà con, anh, em, chú bác, cô, dì... Từ bình ô xy tôi thở, viên thuốc tôi uống, chiếc chiếu tôi nằm (chiếu cũ đã bị cả mấy chục bàn chân thô thiển mang nguyên giày trèo lên hành hung, doạ dẫm)... hoa quả tôi ăn... tất cả đều có nguồn gốc từ số tiền bà con Hải ngoại nhường cơm xẻ áo cho. Người âm thầm góp vào hội bảo vệ của các anh Trúc Lê - Phương Duy - Phùng Mai tại Úc, người tuyên bố trên mạng Internet: "Tôi sẽ gửi tiền về để vợ chồng chị ấy mua thuốc chữa bệnh và sắm giường chiếu mới, xem công an đảng còn giở được trò gì? Thử hỏi có nơi đâu trên thế giới này còn áp dụng lối hành xử man rợ như thế không?

                          Vì vậy dù biết rõ giới hạn của mình, chỉ là một nữ nhi, lại đã qua tuổi "oanh" để đến với tuổi "liệt". Chưa phải tro than, song cũng không còn là lửa. Chỉ là một sự quá độ, lưng chừng, song tôi vẫn quyết làm một hòn than ngậm lửa để toả sáng cho mình, cho đời, vực một phần sự sống và tương lai dân tộc lên trên trang giấy mỏng manh, treo những vần thơ vẫy gọi - như những lá cờ vàng trên đầu ngòi bút... để lớp trẻ hướng đến, tìm về, bước theo, xốc tới...

                          Để làm được điều này, ngoài việc oằn mình che chắn cho hòn than ngậm lửa trong tâm hồn mình không bao giờ tắt (cho dù đảng có xua cả đám công an đem nước bẩn, gió độc đến dập lửa đi chăng nữa) tôi luôn vững tin vào hàng triệu ngôi sao sáng nhấp nháy nơi bầu trời, bởi đó chính là tấm lòng của ba triệu bà con anh em Việt Kiều nơi Hải ngoại -một lòng, một dạ hướng về đất nước quê hương, cội nguồn của dân tộc, để bóng đêm nô lệ không thể tồn tại trên mảnh đất cha ông. Khi mặt đất và bầu trời cùng chung ý, chung lòng, thì hoạ cộng sản làm sao tiếp diễn nổi? Chúng tôi những nhà dân chủ, những người bất đồng chính kiến, những mảnh đời lầm lũi oan khiên, tự thắp lửa cho mình, không cho lửa tắt trên mặt đất. Còn bà con, anh em Hải ngoại - những ánh sao xa hội tụ trên bầu trời, luôn chiếu sáng hỗ trợ, gọi 81.2 triệu người dân trong nước bừng thức để hiểu rằng dân chủ đang gần kề, mặt đất không còn là bóng đêm nô lệ, vì ngoài ngọn lửa của hàng trăm, hàng nghìn người con dũng cảm tự thắp sáng trong đêm, giữa lòng dân tộc, còn hàng triệu ánh sao đang nhấp nháy trên trời cao. Mặt đất sẽ yên bình, hoa tự do sắp nở, gà độc lập gáy sáng...
                           
                          Bài viết nhỏ này cũng là một nén hương muộn tôi bày tỏ trước 850,000 con người vùi mình nơi biển thẳm, những con người với trái tim Đan cô, vì hoạ cộng sản phải đi tìm tự do mà không may bị thần biển vào hùa với đảng vùi sâu dưới đáy mồ oan nghiệt.

                          Cầu xin họ hãy phù hộ độ trì cho tôi và tất cả các nhà dân chủ có đủ sức khoẻ và nghị lực để thực hiện được ước nguyện tự do của đời mình, vực sự sống và tương lai dân tộc lên trang giấy trắng, coi số phận của dân tộc cao hơn số phận đời mình...

                          Đỉnh trời 26-11-2006
                          (Sinh nhật lần thứ 46)

                           
                          http://www.namuctuanbao.com/575_pg03_01.htm
                          #13
                            HongYen 25.12.2006 08:11:01 (permalink)
                            Chính Trị Và Chiếc Giường’ - Đôi Điều Bàn Luận
                            Ba Đình, 19.11.2006
                             
                             
                            Sau khi trang web Phusa.net cho đăng bài "Minh bạch và cáo giác kẻ chủ mưu trò LY GIÁN nội bộ các Chiến sĩ Dân chủ Việt Nam". Kèm dẫn chứng là thư góp ý của Trung tá Đặng Cương - Cục A25 - bộ công an Việt Nam khiến rất nhiều người quan tâm đến "chiếc giường" của tôi do công an và đảng đóng hộ. Vì non tay như thư góp ý của ông Đặng Cương đánh giá nên giường không đủ 4 chân mà chỉ là "..." nghĩa là .... Tên chó chết Ngô Tử Lân đã khiêng chiếc giường này tung lên mạng, hòng bôi nhọ uy tín, thanh danh tên tuổi của tôi và viện sĩ Nguyễn Thanh Giang, không ngờ cả hai chú cháu tôi đều được bạn bè chìa tay đón đỡ nên không hề hấn gì, còn mảnh vụn của giường lại rơi thẳng vào đầu lãnh đạo.

                            Đã biết rõ "xấu đảng thì hổ công an, xấu công an thì nhục đảng,” mà lão già Đặng Cương chả đặng được còn cầm đèn chạy trước mũi công an, viết thư góp ý (thực chất là chê trách trình độ nghiệp vụ quá non tay của cái gọi là công an Việt Nam) đối với người viết chuyên nghiệp như tôi, không viết thì thôi, chứ đã viết là như ném đá ra khỏi bàn tay, bách phát bách trúng.

                            Công an là phương tiện để trấn áp nhân dân, cũng là phương tiện bảo vệ đảng, mà quan điểm đã được quần chúng hoá thành: "Người Việt nào cũng bị hành, nhũng tham nào cũng bỏ qua, kẻ thù nào cũng trốn tránh". Ngược hoàn toàn với câu khẩu hiệu mà cha già đã nêu: "Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Cũng bởi tài thiện nghệ của tôi trong việc bắn trúng, đứa nào đứa nấy- từ thằng già gí... đến thằng "non hột" đều bị tổn thương, gí... thọt lên tận cổ, đau hơn hoạn, bộ dạng nhăn nhó, khó coi, nên chúng đã thổi bùng ngọn lửa chết chóc, tà khí, âm u từ thời cải cách ruộng đất. Dùng cả đám đông phi cá tính để trấn áp tôi. Hai đánh một chả chột cũng què, nữa là đám quần chúng thấp cổ bé họng, đầu đặc bùn lầy cỏ giả xúm vào đả thương vợ chồng tôi, phá sập cả chiếc giường ngủ của con gái tôi.

                            Chừng như "tiếc rẻ" hay thích chơi trò "hình nhân thế mạng" chúng lại hì hụi đóng lại "chiếc giường" cho tôi, không quên thêm hai chữ chính trị vào như một biểu tượng đặc thù. Chiếc giường khênh tới đâu, bà con nhận mặt kẻ thù đến đấy và chửi cho lút mồ ngập mả.
                             
                            http://www.vietnamreview.com/modules.php?name=News&file=article&sid=5333
                            #14
                              HongYen 09.03.2007 10:23:13 (permalink)
                              Hội Văn bút Quốc tế tuyên dương nhà văn Trần Khải Thanh Thủy nhân dịp 8/3
                              Minh Phượng
                              08/03/2007

                               

                              Bản tin trên mạng của Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ cho biết nhà văn Trần Khải Thanh Thủy đã được Ủy ban Văn Bút Quốc tế Bênh vực Nhà văn bị cầm tù tuyên dương nhân dịp ngày Quốc tế Phụ nữ 8 tháng 3 năm nay. Minh Phượng đã nói chuyện qua điện thoại với bà Trần Khải Thanh Thủy và ghi nhận các ý kiến của bà về tình trạng phụ nữ ở Việt Nam.
                               
                              Bà Thủy là một nhà văn được xếp vào thành phần phản kháng và sống trong tình trạng gần như bị quản thúc tại gia ở Việt Nam. Bà nằm trong số các nhân vật đối kháng được giải thưởng Hellman Hammett của Tổ chức Human Rights Watch của Hoa Kỳ và được Ủy ban Văn Bút quốc tế Bênh vực các nhà văn bị cầm tù tuyên dương nhân dịp ngày quốc tế phụ nữ 8 tháng 3 năm nay (2007).
                               
                              Chính bà Trần Khải Thanh Thủy chỉ được biết về vinh dự đó qua mạng Internet và một người bạn văn, vì bà cho rằng có thể Hội Văn Bút đã không liên lạc được với bà qua điện thoại. Bà nói rằng bà đã phải liên tục đổi số điện thoại vì những số điện thoại của bà, thậm chí của cả chồng hay con bà thường xuyên bị cắt.
                               
                              Bà Trần Khải Thanh Thủy cho biết bà chưa chính thức bị tù lần nào, nhưng bắt đầu từ năm 2000, ngay khi bà tiếp cận với dòng văn học trái chiều được gọi là “ngoài luồng,” lúc bà còn đang làm báo “đảng”, bà đã bị theo dõi suốt. Bà nói rằng bà đã bị an ninh Phòng P25 phụ trách văn hóa phản động bám sát từng bước.
                               
                              Bà Trần Khải Thanh Thủy cũng kể lại một diễn biến vào tháng 10 năm 2002, lúc bà đang đi xe đạp ngoài đường và bị một đoàn xe công an vây quanh và bắt bà đưa lên cục phản gián, viện cớ có “quần chúng tố cáo” bà buôn ma túy, và giữ bà đến 1 giờ sáng mới thả về.  Theo bà thì từ đó bà bị đưa vào “sổ đen”, và thường xuyên bị mời lên thẩm vấn.
                               
                              Mời quí vị bấm vào đường dẫn ở trên để nghe hoặc tải xuống toàn bộ bài phỏng vấn:
                               
                              http://www.voanews.com/vietnamese/2007-03-08-voa18.cfm
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 43 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9