Bùi Diễm - Trong Gọng Kềm Lịch Sử
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục
sóng trăng 02.12.2006 06:54:27 (permalink)
.
 
Chương 15
Tình Hình Sau Đảo Chánh


Vào thời gian đảo chánh thì tôi đã đứng ngoài chính trường được 9 năm. Tôi đã mục kích ông Ngô Đình Diệm cùng gia đình giết chết dần những hoài bão của các phần tử quốc gia về việc mang lại đoàn kết và dân chủ cho Miền Nam. Khi đảo chánh thành công tôi cảm thấy hy vọng tràn trề. Tôi nghĩ rằng biết đâu những năm tháng lãng phí vừa qua vẫn chưa làm tiêu tan mọi sự. Lúc này chúng tôi vẫn có thể bắt đầu những kế hoạch dự định như đầu năm 1954. Việc tướng Kim tham khảo chúng tôi đã mang lại cho tôi nhiều khích lệ. Nếu chánh phủ mới được thiết lập thì bác sĩ Quát và những phần tử quốc gia khác sẽ có một môi trường căn bản để dựa vào đó mà hoạt động. Mặc dầu chúng tôi chưa có đủ thời giờ để chánh thức sắp đặt các kế hoạch cho giai đoạn sau đảo chánh, chúng tôi đã dành nhiều thời giờ suy nghĩ kỹ lưỡng về những vấn đề này. Theo chúng tôi được biết thì vào lúc này có lẽ chưa có ai thực sự chú tâm suy xét những kế hoạch tương tự. Hơn nữa, khi bác sĩ Quát còn là Tổng Trưởng Quốc Phòng, tôi và tướng Kim đã có tham dự những buổi đàm phán với Pháp ở Élysée. Lúc đó, đề tài của những cuộc đàm phán với Pháp cũng là những vấn đề thiết lập chánh phủ dân chủ cho Việt Nam chẳng khác gì lúc này. Tôi tin rằng tướng Kim khó thể quên được những đề tài mà chúng tôi đã cùng nhau bàn bạc trong các cuộc đàm phán khi trước.

Khi đến gặp tướng Kim vào buổi ăn tối trong ngày đảo chánh tôi đã ôm ấp rất nhiều hy vọng. Theo lời tướng Kim thì máy bay đặc biệt đã được gửi đi Vĩnh Long để đón bác sĩ Quát. Tôi đã nghĩ rằng đây là lúc chúng tôi có thể bắt đầu nghĩ đến những kế hoạch đã bàn trước đây. Tuy nhiên, lúc gặp tướng Kim thì việc xảy ra lại khác hẳn những điều tôi dự định trước. Tôi hỏi ai là người mà các tướng lãnh nghĩ sẽ đứng vào cương vị thủ tướng? Tướng Kim trả lời rằng các tướng định đề cử ông Nguyễn Ngọc Thơ phó tổng thống dưới thời ông Diệm làm người đứng ra chấp chưởng quyền hành. Nghe xong tôi không khỏi sững sờ. Tôi hỏi tướng Kim: "Chúng ta đang có một cơ hội lịch sử. Nhưng chúng ta cần những người hoàn toàn phù hợp với tình trạng mới. Tại sao ông lại có thể nghĩ đến chuyện mang ông Thơ trở lại?" "À," tướng Kim trả lời, "Theo tôi biết thì tướng Minh đã đề nghị. Ông Thơ chắc sẽ phải nhận lãnh."

Câu trả lời làm tôi mất cả bình tĩnh. Tôi lớn tiếng với tướng Kim: Nếu họ đảo chánh chỉ để mang những người trong nhóm họ vào thì cả cuộc cách mạng còn có ích lợi gì chứ? Tướng Kim cố gắng khuyên tôi bình tĩnh. Ông trình bày những vấn đề phức tạp của nội tình hiện tại và nhắc thêm rằng chính bác sĩ Quát cũng sẽ được mời vào làm Bộ Trưởng Y Tế. Tôi nói với tướng Kim rằng đây là chuyện không tưởng: Mời ông Quát - với kiến thức và kinh nghiệm đó,- làm Bộ Trưởng Y Tế thì có khác gì là ném cho chó một khúc xương thừa? Tôi cũng nói thêm rằng chẳng cần phải bàn luận gì nữa. Đương nhiên ông Quát sẽ khước từ không chút đắn đo.

Tuần lễ sau đó tôi đã nhiều lần gặp tướng Kim. Theo tôi nhận định thì tướng Kim đã quyết tâm cộng tác với bác sĩ Quát, tôi và những phần tử quốc gia khác để cùng thiết lập guồng máy chính trị. Đây là việc đã quá rõ ràng, bất kể các tướng tá khác có dự định gì khác. Tôi cho rằng nếu chúng tôi không thể chánh thức tham dự vào chánh phủ thì có thể chúng tôi sẽ tham dự dưới nhiều hình thức khác. Chẳng hạn như tham gia các cơ quan nghiên cứu các phương pháp thành lập những cơ cấu dân chủ.

Tuy rất thất vọng về những quyết định của các tướng tá, nhất là về vấn đề bè đảng hiển lộ rõ rệt trong cung cách của họ, tôi vẫn cho rằng việc soạn thảo một hiến pháp mới là một trong những bước tối quan trọng của chế độ mới. Tôi nghĩ rằng dù có ngờ vực chánh quyền tới mức độ nào đi chăng nữa thì việc hoạch định hiến pháp vẫn không phải là vấn đề chúng tôi có quyền lựa chọn.

Kể từ đó, trong những buổi gặp gỡ với tướng Kim, chúng tôi bàn luận tìm cách mở rộng chánh phủ để mời những người từ mọi phía tham gia chánh phủ. Lúc này bản Hiến Pháp thời ông Diệm đã bị phế bỏ, hội đồng tướng lãnh đang điều hành chánh phủ bằng luật nhà binh. Tôi hiểu rằng cuộc đảo chánh đã bắt buộc các tướng lãnh phải tạm dùng thể thức này, và việc tổ chức bầu cử là việc không thể làm ngay vì chẳng có nguyên tắc nào khả dĩ có thể áp dụng được tức thời. (Tự do bầu cử là việc chưa từng có trong lịch sử Việt Nam từ trước tới nay.) Tuy vậy, tôi chủ trương rằng phải có một diễn đàn cho phép mọi người tự do tranh luận về tất cả các vấn đề và cũng để chánh phủ thể hiện những quyết tâm đeo đuổi đường lối dân chủ.

Những cuộc tranh cãi dẫn đến việc thiết lập Hội Đồng Nhân Sĩ bao gồm vào khoảng 70 chánh trị gia danh tiếng ở trong gần như mọi đoàn thể quốc gia. Gần như tất cả mọi người trong nhóm Caravelle cũng như những người Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và những người mà ông Diệm đã đàn áp đều gia nhập.

Mặc dù Hội Đồng Nhân Sĩ không có quyền hành gì, nhưng đây là một cơ quan có tính cách dân chủ nhất từ trước đến nay ở Việt Nam. (Đương nhiên khỏi cần nhắc đến Miền Bắc.) Dưới chánh quyền ông Diệm Quốc Hội thật sự chỉ là bù nhìn. Hội Đồng Nhân Sĩ, ngược lại, đầy những thành viên bộc trực, những người có quan niệm chánh trị hoàn toàn khác biệt. Họ không hề có chút đắn đo về việc phê bình chánh phủ bằng những lời lẽ thẳng thắn nhất. Họ cũng có thễ tìm đến những cơ quan ngôn luận và báo chí lúc này đã hoạt động trên những diễn đàn có tầm vóc quốc gia. Chẳng bao lâu sau các tướng lãnh hiểu rõ việc gạt bỏ tư tưởng của họ không phải là một việc dễ dàng.

Riêng cá nhân thì tôi rất hài lòng về việc đã đóng góp thiết lập Hội Đồng Nhân Sĩ. Đối với tôi Hội Đồng Nhân Sĩ là một phương tiện ngăn cản các tướng lãnh khỏi lạm dụng quyền thế. Tuy tôi hết sức sốt sắng làm mọi việc để bảo vệ hội đồng, nhưng tôi cũng rất ngần ngại khi thu hút tất cả sự chú ý về phía riêng mình. Chính bản thân tôi vốn là một người Bắc sống tại Miền Nam và những người tôi gần gũi trong lãnh vực chính trị phần nhiều lại là người Nam. Gia tăng những đụng chạm ngấm ngầm giữa Bắc Nam là một việc hoàn toàn bất lợi. Nhất là khi tôi lại đang cố thiết lập một chánh phủ liên hiệp. Sau cùng tôi quyết định ứng cử chức phó tổng thư ký Hội Đồng và cùng làm việc với ông Trần Văn Văn, một người Miền Nam giữ chức Tổng Thư Ký. Nước cờ này đã loại trừ tất cả những nghi ngờ về bè cánh các miền. Đây là một trong những lần tôi thành công trong việc xóa bỏ những nghi kỵ Bắc Nam. Tuy thế, về sau này, những nỗ lực của tôi không phải lúc nào cũng hoàn toàn như ý.

Khi Hội Đồng bắt đầu hoạt động, tôi vẫn thúc đẩy tướng Kim về việc cần thiết phải đề cử những người từ phía ngoài vào những chức vụ quan trọng cũng như việc cần phải tiến đến một chánh phủ hợp hiến càng nhanh càng tốt. Tuy cuộc đảo chánh ông Diệm đã mang lại nhiều phấn khởi, những khó khăn trong chánh phủ vẫn còn đầy dẫy. Lúc này, cách hữu hiệu nhất để giải tán những khó khăn là thiết lập một chánh phủ dân sự.

Thật sự thì uy thế của các tướng tá đang ngày càng giảm dần vì nhiều lý do. Thứ nhất: Việc giết ông Diệm và ông Nhu đã khiến họ phải gặp nhiều điều bất lợi. Hai anh em ông Diệm và ông Nhu đã cầm đầu chính phủ suốt 9 năm và đã bổ nhiệm rất nhiều chân tay cốt cán vào chánh quyền. Việc ám sát hai ông đã tạo ra những chống đối sâu xa và dai dẳng giữa những người cũ và những người mới. Những sự chống đối của các nhân viên chính quyền đã làm tê liệt một phần guồng máy chính phủ trung ương và địa phương. Lúc này, ngoài các cơ quan quân sự, dường như toàn thể guồng máy chính quyền đều tê liệt.

Thứ hai: Cuộc đảo chánh đã vô tình gia tăng cuộc xung đột tôn giáo. Cuộc cách mạng vốn dĩ khởi đầu do thái độ đàn áp Phật Giáo. Hơn nữa, vì các tướng Lê Văn Kim và Trần Văn Đôn đều là những người theo phật giáo, cuộc cách mạng có vẻ là một hành động để giải cứu các phật tử cũng như để trả thù sự phân biệt tôn giáo dưới chính quyền ông Diệm. Chuyện những người công giáo cảm thấy thù nghịch những vị tướng lãnh cũng là chuyện dễ hiểu, nhất là khi họ mục kích sự đối đãi bất nhẫn của những người này đối với ông Diệm và ông Nhu.

Tuy vậy, những khó khăn căn bản là do từ chính các vị tướng lãnh mà ra. Những quân nhân trong Hội Đồng tướng lãnh chẳng những đã không có quan niệm rõ rệt về chính phủ hoặc xã hội, mà cũng chẳng hề có những suy nghĩ thiết thực về việc xây dựng lại quốc gia. Khung cảnh của các vị tướng lãnh lúc này thật đúng như lời tục ngữ: "Đồng Sàng Dị Mộng", họ quả thật là những người cùng chung giường nhưng lại chẳng cùng giấc mơ. Và ngay cả đến những giấc mơ của họ cũng không rõ ràng cụ thể. Kết quả là các vị tướng tá đã đồng ý bỏ mặc guồng máy chính quyền.

Tướng Lê Văn Kim lúc nào cũng phẫn nộ về tình trạng buông lơi của các tướng lãnh. Vốn dĩ là một người cương quyết và có khả năng; ông không thể chịu được sự lười biếng của tướng Dương Văn Minh. Tướng Kim nói với tôi rằng: Trong Hội Đồng có nhiều phe nhóm quá mà lại thiếu đường lối tổng quát cho nên vẫn chưa có gì đáng gọi là thành quả. Lúc này, việc cần thiết là phải tìm những người đứng ra để lãnh đạo. Mọi việc đều qua tướng Minh, người đã đặt tay chân của riêng mình vào những cương vị chủ chốt. Tuy thế, chính cướng Minh lại không hề có một chút khả năng nào dù là khả năng thúc đẩy những người do chính ông đưa vào.

Sau cùng, vì đã quá chán nản, tướng Kim xin từ bỏ những trách nhiệm chính trị để có thể trở về phục vụ quân đội. Kết quả là vào giữa tháng giêng ông được cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội. Khốn thay, ngay cả việc này cũng làm gia tăng nhiều sự ngờ vực. Đã có vài người cho rằng ông Kim đang cố gắng củng cố quyền lực. Hơn nữa, chỉ ít lâu sau đó, tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng Tham Mưu Trưởng trước khi ông Kim nhậm quyền, lại còn tạo ra một hiềm khích làm vấn đề càng thêm phức tạp. Mặc dầu Hội Đồng Nhân Sĩ vẫn là một điểm sáng, nhưng khung cảnh đất nước lúc này thật là tăm tối và cho đến cuối năm 1963 thì mọi sự đã rõ ràng rằng những tiến triển trong giai đoạn đầu của cuộc đảo chánh chẳng có gì đáng gọi là cách mạng. Tất cả chẳng qua chỉ là việc giao chuyển quyền hành mà thôi. Lại thêm một cơ hội nữa bị lãng phí. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của chúng tôi.

Sau cuộc đảo chánh, ba tháng trôi qua tay các vị tướng tá hững hờ như nước. Lúc này, những hy vọng của các phần tử quốc gia vào lúc đầu đảo chánh mới thành công đã chuyển thành những nghi ngờ, lãnh đạm. Tuần trăng mật của chánh phủ mới trôi qua thật là ngắn ngủi và chưa ai tiên đoán được đất nước sẽ phải chấp nhận cuộc lênh đênh buông thả trong bao lâu nữa. Sự thiếu sáng kiến của giới lãnh đạo trong ba tháng cầm quyền đầu tiên đã đủ để mọi người có linh cảm rằng hiểm họa sắp xuất hiện.

Vào ngày 30-11-1964, tai họa mở màn bằng hành động của tướng Khánh. Sáng sớm hôm đó, tướng Nguyễn Khánh và một nhóm tướng lãnh khác - kể cả tướng Trần Thiện Khiêm, cựu Tổng Tham Mưu Trưởng - đứng ra làm một cuộc chỉnh lý lật đổ nhóm tướng lãnh đã đảo chánh ông Diệm không cần đến một phát súng. Tuy không làm gì hại đến nhóm tướng lãnh, sau khi chỉnh lý ông Khánh đã cầm tù họ rồi tự mình đứng ra nắm quyền lãnh đạo.

Cuộc chỉnh lý lần này đã thay thế luật nhà binh của nhóm tướng lãnh lúc trước bằng những hành động hài hước của một nhân vật hoàn toàn thiếu đứng đắn. Nếu các tướng tá trước ông Khánh chỉ là những người thiếu kiến thức chính trị và thiếu tháo vát thì tướng Khánh lại chính là một người lãnh đạo với khả năng không quá khuôn khổ của những việc toa rập. Theo tôi nhận xét thì Tướng Khánh là một nhân vật len lỏi vào cuộc đời chính trường phức tạp Miền Nam với những quan niệm bấp bênh đã làm bẽ mặt cả đất nước. Khi ông Khánh ra cầm quyền, tôi nghĩ có lẽ đã đến lúc tôi nên rời chính trường để trở lại với cuộc sống bình thường. Trong thời ông Diệm, ở Sài Gòn đã có một tờ báo Anh Ngữ là tờ Times of Vietnam. Tờ Times được coi là cơ quan ngôn luận của chính phủ và thường xuyên đăng những mục chửi bới chống Hoa Kỳ. Tờ báo này lúc trước vẫn được ông bà Ngô Đình Nhu đứng sau làm hậu thuẫn. Sau khi các tướng tá đảo chánh, những văn phòng của nhà xuất bản bị lục soát và tờ báo phải đóng cửa.

Lúc này tôi cảm thấy dường như thị trường Sài Gòn vẫn còn đủ chỗ cho một tờ báo Anh Ngữ. Tôi có biết sơ về công việc báo chí vì đã có lần làm chủ bút cho một tờ báo ở Hà Nội năm 1951, và đã gom đủ tiền để bắt đầu một tờ báo mới là tờ Saigon Post. Bắt đầy xây dựng một tờ báo từ phút ban đầu là một việc vô cùng khó nhọc. Việc đã thâu hết tất cả công sức của tôi trong nhiều tháng trời. May thay, đây cũng là một sự khó nhọc tôi chẳng nề hà. Thời giờ của tôi được chia đều để viết bài bình luận, chọn các tiết mục, xem xét vấn đề thương mãi và trông coi cả đến việc sắp chữ. Thông thường thì khoảng 3 hoặc 4 giờ đêm mỗi ngày tôi bắt đầu duyệt lại lần chót tờ báo trước khi cho lên khuôn để xuất bản vào ngày hôm sau, rồi sau đó về nhà vật ra ngủ vùi một giấc ngắn trước khi một ngày mới bắt đầu.

Tuy lại một lần nữa tôi xa rời chính trường, tôi vẫn chưa bỏ hẳn được mọi hoạt động chính trị. Có lẽ chỉ ngoại trừ việc bị buộc phải nghỉ mát bất đắc dĩ như lần đưa nhà tôi sang Pháp dưỡng bệnh lúc trước thì chẳng còn việc gì khác có thể khiến tôi từ bỏ được tất cả những hoạt động chính trị. Chính trị chính là mạch sống của những người mang nghiệp chủ bút hoặc viết bình luận như nghề mới chọn của tôi. Cơ nghiệp điện ảnh ngắn ngủi của tôi trước đây cũng có liên quan một phần đến chính trị trong phần chủ đề. Ngay cả khi tôi đi dạy, thì thời gian đó cũng là vào giữa lúc những phong trào chống đối đang hoạt động mạnh trong giới các giáo sư và rồi nghề giáo của tôi cũng bị những biến cố chính trị làm cho khuất lấp mất đi. Vào thời gian này tôi đã gia nhập chính trường được 20 năm và có lẽ chẳng còn bất cứ cách nào có thể làm tôi dứt bỏ được nghiệp chính trị. Về riêng phương diện này, cuộc sống của tôi cũng chẳng khác gì cuộc sống của nhiều người Việt Nam khác. Từ khoảng giữa thập niên 1940 về sau, lịch sử đất nước không hề để bất kỳ ai an hưởng trọng vẹn hòa bình hoặc bất kỳ gia đình nào an nhiên không bị đụng chạm. Tất cả chúng tôi đã trở thành những nạn nhân chính trị bằng cách này hay cách khác. Có lẽ vào lúc này, ấn tượng đó còn phù hợp với hoàn cảnh hơn là vào năm 1964. Nếu nhìn lại với những biến cố lịch sử đã trôi qua, thì chính chánh quyền Nguyễn Khánh đã xóa tan những hoài bão của các phần tử quốc gia khi họ cố tìm cách xây dựng một Miền Nam Dân Chủ mạnh mẽ để có thể đương đầu hữu hiệu với Cộng Sản. Theo tôi thấy thì cho đến giai đoạn này đã có rất nhiều cơ hội có thể cho phép Việt Nam thiết lập một chánh phủ dân chủ như những phần tử quốc gia đã từng ước mơ. Cơ hội đầu tiên là năm 1948, khi Pháp đưa ra "Giải Pháp Bảo Đại." Cơ hội thứ hai là năm 1954, khi hiệp định Geneva tạo thành một Miền Nam Việt Nam độc lập. Cơ hội thứ ba là năm 1963, khi các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm. Nhưng trong cả ba cơ hội vừa kể, giới lãnh đạo Miền Nam đã phá hủy tất cả mọi triển vọng của các phần tử quốc gia và không đáp ứng được nguyện vọng của người dân Việt Nam. Nếu ân sủng may mắn đã đến cho giới lãnh đạo Miền Bắc bao nhiêu thì nghịch cảnh đã khiến giới lãnh đạo quốc gia phải chịu đựng khốn khó bấy nhiêu.

Khi suy luận dựa trên quan điểm này thì chính người Việt Nam đã tự chuốc lấy những khốn khó cho cuộc sống của mình. Chẳng có gì khó hiểu về những người như Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Big Minh và Nguyễn Khánh. Điều khó hiểu có chăng là ở vào câu hỏi: Tại sao Hoa Kỳ khởi đầu vào Việt Nam với mục đích xây dựng một Miền Nam Dân Chủ và vững mạnh mà lại có thể khiến Việt Nam đi đến những thất bại sâu xa đến thế? Vì rằng mỗi cơ hội dành cho những phần tử quốc gia cũng là một cơ hội dành cho Hoa Kỳ. Nuôi dưỡng ý thức dân chủ tại Việt Nam không phải chỉ là một vấn đề liên hệ đơn thuần đến Việt Nam, mà cũng là vấn đề liên hệ đến Hoa Kỳ. Vì vậy, một khi Việt Nam đã thất bại thì Hoa Kỳ cũng đã thất bại.

Nếu những thất bại của Việt Nam là do thiếu lãnh đạo thì những thất bại của Hoa Kỳ, theo tôi, là do thiếu chính sách. Qua con mắt những người Việt Nam thì chính sách của Hoa Kỳ lúc nào cũng đầy mâu thuẫn. Nói một cách chi tiết hơn thì Hoa Kỳ lúc nào cũng đi dây giữa hai vấn đề can thiệp và không can thiệp. Chính phủ Hoa Kỳ dường như vĩnh viễn chẳng bao giờ có thể khẳng định vấn đề liệu có nên can thiệp hay không. Hậu quả của thái độ đi dây là Hoa Kỳ đã đưa cả mình lẫn đồng minh Việt Nam vào một tư thế bất lợi hơn cả.

Cuộc đảo chánh ông Diệm là một phần thất bại điển hình đã ám ảnh cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài Gòn. Các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm đã cố hết sức thận trọng tránh để cho cuộc đảo chánh có vẻ không phải là "do người Mỹ tổ chức." Nhưng dù các tướng lãnh có cố gắng đến mức nào đi nữa thì biến cố đảo chánh vẫn khó thể xảy ra nếu không có sự đồng ý của Hoa Kỳ. Trong nhiều tháng trước khi họ dự định đảo chánh, các tướng lãnh đã hết sức thận trọng dò dẫn thái độ của Hoa Kỳ. Các tướng tá cần - hoặc ít ra là cảm thấy cần - được Hoa Kỳ nói rõ với họ rằng dù cho ông Diệm có bị lật đổ, thì Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam. Sau cùng Hoa Kỳ đã bật đèn xanh cho họ. Mới đầu là những dấu hiệu ngầm từ Hoa Thịnh Đốn và rồi rõ ràng hơn qua trung gian Lucien Conein, người của CIA.

Mặc dầu những người âm mưu và Hoa Kỳ đã cẩn trọng che dấu tất cả mọi việc, khi biến cố đảo chánh xảy ra, tất cả những người Việt Nam có để ý đến vấn đề chính trị đều nhận định rằng sự dính líu của Hoa Kỳ là chuyện nghiễm nhiên. Do vậy, khi đảo chánh thành công và cả Việt Nam đều vui mừng khi chánh phủ ông Diệm bị lật đổ thì Hoa Kỳ đã được xem là đồng minh của dân chủ. Đối với Việt Nam, chuyện Hoa Kỳ can thiệp là chuyện hoàn toàn có tính cách tự nhiên. Sự can thiệp được ủng hộ là vì hành động này đi đôi với mong mỏi chung của dân chúng.

Cuộc đảo chánh của các tướng lãnh là việc can thiệp trực tiếp đầu tiên của Hoa Kỳ vào nội bộ Việt Nam. Tuy vậy, như tôi đã trình bày, chính sách của Hoa Kỳ đã ảnh hưởng đến tình hình chính trị Việt Nam qua rất nhiều năm. Sự can thiệp của Hoa Kỳ bắt đầu từ khi Pháp còn đô hộ Việt Nam cho đến khi ông Diệm bị lật đổ. Ở mọi thời điểm, Hoa Kỳ đều không lộ rõ vai trò. Tuy thế, tất cả các phần tử quốc gia Việt Nam đều xem Hoa Kỳ là đồng minh. Kể từ ngày thế chiến thứ hai kết liễu Hoa Kỳ đã giúp đỡ, cố vấn và cũng đã nhiều phen cản trở hành động của các phần tử quốc gia.

Vào thời Bảo Đại, Hoa Kỳ đã liên tiếp chối bỏ một giải pháp quốc gia cũng như đã ủng hộ trò chơi của Pháp khi Pháp cố trì hoãn việc nhượng quyền cho các phần tử quốc gia và như thế Hoa Kỳ đã vô tình làm giảm uy tín các phần tử quốc gia rất nhiều. Trong thời ông Diệm, Hoa Kỳ đã ủng hộ nhân vật độc tài này suốt một thập niên cho tới khi ông Diệm công khai chống đối việc mở rộng chính phủ. Hơn nữa, khi chánh phủ ông Diệm đang ráo riết đàn áp các phần tử quốc gia Hoa Kỳ còn dùng chiêu bài "Hợp Pháp" để cắt đứt liên lạc với họ. Những chánh sách của Hoa Kỳ chẳng khác nào những nhát giáng đã cướp đi cả những khích lệ lẫn các điểm tựa mà các phần tử quốc gia có thể dựa vào để hoạt động.

Kể từ lúc đó cho đến nay, tôi vẫn nhận xét rằng chánh sách "đi dây" của Hoa Kỳ chứng tỏ họ hoàn toàn không hiểu rõ chủ định của chính mình. Một mặt thì thực tế về sách lược toàn cầu đòi hỏi Hoa Kỳ phải ủng hộ chánh sách thực dân của Pháp và giúp đỡ ông Diệm củng cố chánh quyền. Nhưng mặt khác, lý tưởng lại đòi hỏi Hoa Kỳ phải chống lại thực dân và bồi đắp cho một nền quốc gia dân chủ. Giữa hai sách lược phải chọn, Hoa Kỳ dường như không thể cả quyết được rằng họ sẽ phải đi theo sách lược nào.

Tôi tự hỏi liệu vào lúc đó hoặc về sau này, Hoa Kỳ có thể nhận thức được rằng bất kỳ chọn lựa cách nào thì họ cũng vẫn phải can thiệp trực tiếp hay chăng? Vấn đề phải can thiệp là một vấn đề Hoa Kỳ khó thể tránh khỏi! Sau thế chiến thứ hai, cương vị nổi bật của Hoa Kỳ đã khiến họ ảnh hưởng trầm trọng đến chính trị nội bộ Việt Nam bất kể họ hành động ra sao. Chính vì lý do này nên trong giai đoạn ông Diệm nắm quyền, khi Hoa Kỳ cắt đứt liên lạc với chúng tôi dưới chiêu bài "hợp pháp" và "không can thiệp" tôi vẫn thấy rằng hành động của họ cũng có phần đúng. Ngoài cách bịt mắt không can thiệp, Hoa Kỳ chẳng còn cách nào khác để tránh khỏi đương đầu với vấn đề Việt Nam. Vì bất cứ khi nào những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ còn tin rằng số phận của các quốc gia tùy thuộc lẫn nhau, bất cứ khi nào họ còn tin rằng những quyền lợi quan trọng của Hoa Kỳ luôn luôn phải đi đôi với một thế giới quân bằng ổn định thì lúc đó dù muốn dù không, Hoa Kỳ vẫn phải vương mình vào cuộc. Một khi đã chấp nhận điều này thì điều quyết định còn lại là phải can thiệp như thế nào. Câu hỏi chính, vì vậy, chính là: "Phải can thiệp như thế nào?" Chứ không phải, "Liệu có nên can thiệp hay không?"

Mãi cho đến khi các tướng tá đảo chánh, Hoa Kỳ vẫn giữ vững chủ trương "không can thiệp." Tuy vậy, vào mùa hè 1963, chủ trương không can thiệp đã khiến Miền Nam rơi vào tình trạng tai hại đến nỗi dường như Hoa Kỳ bị buộc phải đi ngược lại các chính sách về trước và trực tiếp can thiệp. Nhưng dù bị buộc phải can thiệp, Hoa Kỳ vẫn vào cuộc đầy vẻ ngần ngại, đắn đo. Sau khi đồng ý để cho những người mưu mô đảo chánh bắt tay vào việc, họ coi như việc can thiệp đã kết liễu. Hoa Kỳ hành động như thể cố nói lên tâm tư ngần ngại của họ rằng: "Tình thế đã bắt buộc chúng tôi can thiệp, nhưng chúng tôi sẽ cố giảm thiểu mức độ can thiệp và nếu cần chúng tôi sẵn sàng chối bỏ sự can thiệp."

Nhưng vấn đề can thiệp, thật chẳng khác nào vấn đề thụ thai. Một khi đã thụ thai thì dĩ nhiên chẳng thể có vấn đề thụ thai nửa chừng. Khi Hoa Kỳ nỗ lực giới hạn các hành động can thiệp thì chánh phủ Hoa Kỳ nói chung - và ông Henry Cabot Lodge nói riêng - đã không chú ý đến vấn đề lãnh đạo sau khi ông Diệm bị lật đổ. Họ chẳng hề chú tâm đến những vấn đề khó khăn của tương lai. Hoa Kỳ quyết định đổi ngựa mà không cần biết rõ con ngựa mới như thế nào. Hậu quả là một nhóm quân nhân đã đứng ra đảo chánh và rồi tiếp sau đó là một nhân vật hài hước Nguyễn Khánh lên thay. Cuối cùng chính Hoa Kỳ phải lãnh nhận mọi hậu quả của cuộc đảo chánh. Hậu quả này bao gồm cả những thành công lẫn những thất bại của các nhân vật thiếu khả năng đã nắm quyền tại Việt Nam. Cách vào cuộc của Hoa Kỳ thật là vụng về vô kể.

Thật ra những diễn biến kể trên không phải là những vấn đề chẳng thể tránh khỏi. Nếu Hoa Kỳ có đủ can đảm nêu rõ lý tưởng dân chủ thì những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ có thể sẽ có những giải pháp khác. Hoa Kỳ có thể dùng thời giờ để tìm hiểu kỹ xem mục đích thực sự của họ đối với Việt Nam là gì và tìm những giải pháp thiết thực để chuyển Việt Nam về một hướng thuận lợi hơn thay vì chỉ dùng thời giờ tranh luận về vấn đề làm thế nào để trực tiếp can thiệp vào Việt Nam mà vẫn tránh được vẻ lộ liễu.

Trong diễn biến đảo chánh, đại sứ Lodge đã nhờ nhân viên Conein của CIA chuyển lời với những người âm mưu đảo chánh rằng Hoa Kỳ "không hề toan tính ngăn cản" cuộc đảo chánh. Nhưng ông Lodge cũng có thể nói khác. Ông có thể bàn luận với những người mưu mô qua những lời kín đáo khác chẳng hạn như: "Thực sự, chúng tôi không ủng hộ ông Diệm. Nhưng ủng hộ các ông có thật là một giải pháp hoàn hảo hơn chăng? Chúng tôi không muốn biết rõ chi tiết về việc đảo chánh của các ông. Nhưng các ông sẽ làm gì sau đó? Các ông đang bàn luận về tương lai đất nước các ông. Tất nhiên sự việc cũng có liên hệ đến chúng tôi." Các tướng lãnh không phải là những người không thông hiểu vấn đề. Họ sẽ phải nghe theo giải pháp hòa nhã và trực tiếp này. Vì rằng họ chẳng thể lựa chọn.

Cho dù lịch sử đã trôi qua và chúng tôi đang nhìn lại vấn đề, việc phán xét liệu có nên đảo chánh ông Diệm hay không vẫn là việc khó nói. Tuy chẳng ai có thể tiên đoán được những diễn biến tại Việt Nam nếu ông Diệm và gia đình vẫn tiếp tục nắm quyền, nhưng bất kỳ ai cũng có thể nhận định rằng nếu không nỗ lực tiến hành những nhu cầu thiết thực của Miền Nam sau đảo chánh thì những thành công của cuộc đảo chánh quả không đáng kể. Khi nhóm tướng tá nắm quyền thì lại có một sự mâu thuẫn tương tự hệt như trước đây giữa họ và Hoa Kỳ. Một mặt, đại sứ Lodge đã tiếp tục thái độ không can thiệp khi các tướng lãnh đi từ sự vụng về này qua sự vụng về khác. Mặt khác, tuy đã quyết không can thiệp, Hoa Kỳ vẫn tỏ vẻ phẫn nộ vì kém nhẫn nại. Họ có cảm giác như một người anh lớn lúc đứng nhìn em mình hành động một cách hoàn toàn vô trách nhiệm. Những tướng lãnh chẳng những đã không có chính sách và kế hoạch rõ rệt mà còn thiếu cả người lãnh đạo chủ chốt. Vào tháng 12 năm 1963, McNamara trong cơn giận dữ đã bước vào phòng họp với các tướng lãnh đạo nhìn quanh từng người và đặt câu hỏi: "Ai trong nhóm các ông đây là người lãnh đạo?" Các tướng tá đều ngậm miệng căm hờn. Hành động của McNammara biểu hiện rõ rệt khuynh hướng của Hoa Kỳ là dùng sức mạnh áp chế thay vì giúp đỡ các đồng minh bằng những phương pháp tốt đẹp khác.

Đã không chịu đưa ra những chủ trương hướng dẫn rõ rệt mà lại tức giận và thất vọng về những hành động vụng về và thiếu kế hoạch của giới lãnh đạo Việt Nam, những người lập chính sách Hoa Kỳ quả thật đã chơi trò phù thủy đầy bí hiểm. Những xung khắc rõ rệt của Miền Nam khi đi đôi với những chủ trương thật mơ hồ của Hoa Kỳ đã dẫn đến cuộc chỉnh lý của Nguyễn Khánh. Mặc dầu chính bản thân đại sứ Lodge không hề có dính líu gì đến cuộc đảo chánh, khi nhóm tướng lãnh bị lật đổ, ông đã phát biểu: "Thế là thoát nợ!"

Có thể điều đại sứ Lodge phát biểu đã chứng tỏ ông cảm thấy ngờ vực, bất an khi phải gắn liền uy tín của Hoa Kỳ vào những nhân vật lãnh đạo Miền Nam. Nhưng chẳng những đại sứ Lodge mà ngay cả đến ông Johnson cũng chưa hề chú tâm đến vấn đề tìm tòi những người lãnh đạo. Vì chính sách của Hoa Kỳ lúc nào cũng mong mỏi sự ổn định ở Việt Nam nên họ sẵn lòng chấp nhận bất kỳ ai trông có vẻ hứa hẹn. Họ chẳng cần đoái hoài gì tới vấn đề phải cải cách để biến chánh quyền Miền Nam thành một chính quyền mà họ thực sự muốn ủng hộ. Lại một lần nữa họ quyết định đổi ngựa mà chưa hề biết rõ tính nết của một con ngựa lạ.

Những hành động vô ý của Hoa Kỳ dẫn đến hậu quả là ngay từ phút đầu, ông Khánh đã được tiếp đón như một người hùng được Hoa Kỳ ủng hộ triệt để. Để chứng tỏ sự ủng hộ của Hoa Kỳ với vị lãnh tụ mới, Hoa Kỳ đã gửi cả Bộ Trưởng Quốc Phòng sang Việt Nam để vận động ủng hộ ông Khánh. (Cách vận động này vốn không phải là một sách lược tự nhiên đối với McNamara. Có lần ông nắm tay ông Khánh tung hô: "Việt Nam Muôn Năm." Khốn thay, người dạy McNamara khẩu hiệu tung hô lại quên không dạy ông phải đặt dấu nhấn cho đúng nên thay vì tung hô: "Việt Nam Muôn Năm," ông ta lại hô trệch đi thành "Việt Nam Muốn Nằm!") Thật ra, bề mặt mạnh mẽ của tướng Khánh chỉ có thể che dấu được những nhược điểm to lớn của chánh phủ Miền Nam được nhất thời. Những nhược điểm của chánh quyền tướng Khánh bao gồm nhiều điểm. Nhược điểm thứ nhất là chánh phủ không có một chánh sách tổng quát rõ rệt. Nhược điểm thứ hai là chính bản thân tướng Khánh cũng không đủ khả năng để nhận thấy tầm mức cần thiết của vấn đề này. Khi McNamara giơ tay cùng Nguyễn Khánh, mọi người đều thấy rõ cả Tổng Trưởng Hoa Kỳ lẫn tướng Khánh đều khép chặt những ngón tay xen kẽ. Hình ảnh này có thể được xem như một biểu tượng đánh dấu mối liên hệ chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng nếu quả những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lúc đó đã nhận định được vấn đề một cách tường tận thì họ phải kết luận khác. Họ chẳng thể kết luận rằng chỉ cần hình ảnh của biểu tượng liên kết là đủ để giải tỏa mọi khó khăn.




Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
 Phan Lê Dũng
#16
    sóng trăng 02.12.2006 06:57:31 (permalink)
    .
     
    Chương 16
    Chánh Quyền Tướng Khánh


    Vào mùa xuân năm 1964, tướng Khánh vẫn chưa hề hoàn thành được điều gì đáng kể. Ông chỉ hô hào những câu vô nghĩa về mục đích của mình và thay đổi vòng vòng các bộ trưởng, chẳng theo một phương sách hoặc thứ tự nào cả. Một trong những hành động khác của ông là giải tán Hội Đồng Nhân Sĩ vào tháng sáu. Một hôm, Hội trưởng Trần Văn Văn cùng tôi được triệu vào gặp ông Khánh để nghe ông tuyên bố: "Hội Đồng Nhân Sĩ thực sự chẳng có ích lợi gì. Tôi đã có những ý kiến khác." Sau đó chúng tôi được mời ra. Sự việc gần như thể chúng tôi chánh thức được báo cáo rằng chính mình đã chết.

    Một trong những điểm sáng sủa hơn là tờ Saigon Post đã đi qua giai đoạn lục đục bấp bênh ban đầu và chuyển thành một tờ báo khá vững. Dù rằng đam mê báo chí vẫn còn, những ngày tờ báo đòi hỏi tôi phải chú tâm đã thật sự đi qua.

    Lúc này, gia đình chúng tôi đã giải quyết được những khó khăn về vấn đề tài chánh. Hơn nữa, ở Sài Gòn cũng chẳng có điểm hy vọng nào đáng gọi là sáng sủa trong tình hình chính trị. Tình trạng thật là bế tắc và tôi cho rằng có lẽ phải rời bỏ quốc gia, thì đầu óc mới có thể nghỉ ngơi và nhận định được tình hình Việt Nam rõ hơn qua một lăng kính khác. Qua ông Barry Zorthian, người điều khiển, hướng dẫn các dịch vụ tin tức, tôi biết rằng thỉnh thoảng phòng thông tin Hoa Kỳ USIS có mời người ngoại quốc đến viếng thăm Hoa Kỳ dưới một chương trình gọi là Leadership Program. Tôi đã hỏi ý kiến ông Zorthian thử xem mình có thể đủ tiêu chuẩn được tuyển hay không. Ông Zorthian trả lời rằng chẳng có vấn đề gì khó khăn cả. Tôi chỉ cần nộp đơn là xong.

    Mọi việc được sắp xếp thật nhanh chóng. Chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, tôi nhận được hai bức thư, một của Đại sứ Lodge mời sang Hoa Kỳ và một của British Council mời sang thăm Anh Quốc. Khi chương trình hoạch định xuất dương đã thành tựu, tôi mới thực sự nhận ra mình đã nôn nóng đến độ nào. Tôi chưa hề có dịp du lịch kể từ năm 1954, khi tôi bị buộc phải hủy bỏ chuyến trở lại Thụy Sĩ và kể từ năm đó cho đến nay cuộc sống của tôi lúc nào cũng đầy ắp những chuyện khó khăn và những thất vọng chính trị. Đây sẽ là chuyến du lịch lý thú. Hơn nữa, tôi còn có thể quan sát tận mắt đất nước và cuộc sống của Hoa Kỳ.

    Nhìn từ một khía cạnh nào đó thì đây là một điều mong ước đang biến thành sự thực. Thực sự thì chẳng phải tôi mong được du lịch Hoa Kỳ, nhưng cuộc sống và lý tưởng của người dân Hoa Kỳ đã xâm chiếm tâm hồn tôi từ lâu rồi. Từ khi còn cắp sách đến trường tôi đã say mê đọc tiểu sử của Tổng Thống Franklin Delano Roosevelt và những chánh sách ông đề ra để bảo vệ các đồng minh của Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến. Tổng thống John F. Kennedy cũng là một nhân vật khác đã khích lệ rất nhiều những điều tôi ấp ủ. Tôi đã theo dõi cuộc bầu cử khi ông ra ứng cử và rất ngưỡng mộ bài diễn văn ông đọc trong buổi lễ nhậm chức. Trong bài diễn văn đó, Tổng Thống Kennedy tuyên bố Hoa Kỳ sẽ là một quốc gia "mang bất cứ gánh nặng nào, trả bất cứ giá nào để bảo vệ tự do dân chủ ..." câu nói đó tôi vẫn còn nhớ mãi. Tôi cho rằng bài diễn văn nhậm chức của tổng thống Kennedy là một bài diễn văn đã diễn tả trọn vẹn được cả vai trò quả cảm lẫn lý tưởng của Hoa Kỳ. Có lẽ bài diễn văn của tổng thống Kennedy đã khích lệ những hoài bão của tất cả các phần tử quốc gia ở những nước hãy còn kém phát triển và đầy đe dọa vào thời đó.

    Bởi thế, tuy ấn tượng tốt đẹp của tôi về Hoa Kỳ trong quá khứ đã bắt đầu bị lu mờ khi tôi mục kích những thực tế chính trị tại Việt Nam, tôi vẫn bị những lý tưởng của Hoa Kỳ thu hút. Tôi hồi hộp mong mỏi cho đến nỗi khi máy bay bay qua California, về hướng Cựu Kim Sơn, tôi đã cảm thấy thất vọng. Khi nhìn xuống thấy những ngọn đồi, những cánh đồng và những thảm cỏ, tôi đã nhủ thầm: "Ừ, dường như cũng chẳng có gì khác, quang cảnh nói chung cũng không lấy gì làm ly kỳ cho lắm."

    Tại Cựu Kim Sơn, tôi lập tức thay đổi máy bay và bay thẳng về Hoa Thịnh Đốn. Tôi xin được đi thăm Nghĩa Trang Quốc Gia tại Arlington trước tiên. Khi đứng trước mộ cố tổng thống Kennedy trong cái nóng mùa hè vùng Hoa Thịnh Đốn tôi cho rằng ông chính là người đã thể hiện những lý tưởng sáng suốt và những khuôn mẫu đạo đức của Hoa Kỳ. Ngay khi đó, tôi cũng suy nghĩ về một khuôn mặt khác của Hoa Kỳ, một khuôn mặt mà tôi mục kích đã quá nhiều lần tại quê nhà.

    Trong những tuần lễ sau đó tôi ở lại thủ đô, thăm viếng các nhà báo và bạn bè tôi đã quen biết tại Việt Nam, rồi mướn xe cùng với một người bạn Việt Nam khác chu du băng ngang nước Mỹ. Tôi được mời đến dự đại hội của đảng Cộng Hòa tại Cow Palace ở Cựu Kim Sơn. Đây quả là một cơ hội lưỡng toàn. Tôi sẽ có cơ hội vừa được xem xét, gần gũi toàn thể nhân dân lại vừa được chính mắt quan sát những hoạt động chính trị của Hoa Kỳ.

    Chúng tôi cùng lái chiếc Chevrolet mướn đi ngược lên phía Bắc Hoa Thịnh Đốn, đến thác Niagara rồi quay ngang trở về hướng Tây, trực chỉ Detroit, băng ngang những vùng đồng bằng bát ngát. Những tia nắng ngày hè lấp loáng trên những cánh đồng tạo thành những ảo ảnh trông chẳng khác nào nước trên những mặt đường trải nhựa. Hai bên là cảnh những ruộng ngô và lúa mạch trải dài tít tắp đến tận chân trời. Khung cảnh thật là bao la. Thời tiết vào thời gian này vô cùng nóng nực. Chúng tôi đã đi suốt cả 12, 13 ngày đường, chỉ ngừng lại để ngắm cảnh và trú ngụ qua đêm ở những khách sạn nhỏ bé.

    Nhưng vấn đề thực phẩm còn quan trọng hơn là vấn đề thời tiết. Vì ăn liên tục toàn Hamburger và Hotdog ở các quầy dọc đường, bụng cả hai chúng tôi đều cồn cào, quặn thắt. Chúng tôi tự hỏi không hiểu làm cách nào để có thể tìm lấy một bát cơm trong suốt một vùng bao la, gần như chỉ gồm toàn những khuôn mặt Mỹ và thực phẩm Mỹ này. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi tìm ra một cách hữu hiệu có thể dùng trong mọi trường hợp. Không cần biết là đang ở đâu, hễ cứ bắt đầu nghỉ tối là chúng tôi đến ngay chỗ điện thoại công cộng, lật những trang màu vàng trong quyển điện thoại niên giám ra tìm các quán ăn Tàu. Đôi khi chỉ có một quán độc nhất ở vùng kế cận. Nhưng gần như lúc nào chúng tôi cũng tìm được một chỗ trong vùng.

    Tuy đã theo phương pháp thập toàn này mà khi đến phía Tây Denver chúng tôi vẫn gặp khó khăn. Vùng này vốn là một vùng xa xôi hẻo lánh. Quyển điện thoại niên giám đã không có tên các quán ăn Tàu mà cũng chẳng có bất kỳ tên họ người Tàu nào trú ngụ trong các vùng lân cận. Chẳng có họ Tchang, không có họ Fong mà cũng không có cả họ Lee. Một lần, sau khi đã nhiều ngày vất vả với Hamburger, bột khoai tây và nước sốt, sau khi đã thất vọng vì quyển điện thoại niên giám và đang lủi thủi đi bộ về khách sạn bỗng chúng tôi trông thấy một chú bé Tàu chạy ngang qua đường. Chúng tôi vội đi theo cậu bé vào đến một tiệm giặt ủi. Khi nghe tình cảnh của chúng tôi, cha mẹ cậu bé lập tức làm ngay hai dĩa cơm chiên và chúng tôi sung sướng thưởng thức hương vị thơm ngon của bữa cơm chiên chẳng khác nào hai kẻ lỡ đường bỗng vớ được một thứ thức ăn hiếm có. Chúng tôi đến California trước tiên qua ngả Bakersfield rồi đi ngược bờ biển qua Carmel, Big Sur và đến Cựu Kim Sơn vừa đúng lúc Đại Hội Đảng Cộng Hòa bắt đầu. Đây chính là nơi tôi học hỏi những kinh nghiệm đầu tiên về các hoạt động thực tiễn của nền dân chủ Hoa Kỳ. Nếu bảo rằng quá trình bầu cử của Hoa Kỳ rất phức tạp thì đây chỉ là nói một cách nhẹ nhàng nhất. Ngay chính tôi cũng không biết rõ mình đang mong đợi gì khi nhìn những đảng viên Cộng Hòa đi quanh đang đề cử ứng cử viên Barry Goldwater ra ứng cử tổng thống. Theo như tôi suy nghĩ thì đây chắc hẳn phải là một buổi bầu cử thật nghiêm trọng. Nhưng sự việc lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi vô cùng bỡ ngỡ giữa cảnh những đám đông mang mũ, cầm cờ, tụ họp ở các sảnh đường Hoa Kỳ, cứ chốc chốc lại cuồng nhiệt cổ võ những thiếu nữ nhảy múa thoắt biến, thoắt hiện chẳng hiểu từ đâu. Khi tôi nói với người hướng dẫn viên rằng dường như khung cảnh có vẻ thiếu nghiêm trang ông đã trả lời rằng khung cảnh lúc này chẳng qua chỉ là những màn kịch bao gồm những phần bên ngoài có thể trông thấy được mà thôi. Những quyết định thực thụ vào thời gian này đang diễn ra sau những cánh cửa đóng kín và những việc đó tất nhiên là tôi chẳng thể nào xem được. Tôi rời cuộc họp thầm nhủ rằng cho dù những đảng viên Cộng Hòa có thực sự chọn ứng cử viên của họ bằng cách nào đi nữa thì những điều tôi vừa được mục kích thấy vẫn là những hoạt động chính trị rất lạ lùng.

    Khi tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn thì trời đã vào tháng 8. Đài truyền hình và báo chí đang rầm rộ về việc Bắc Việt tấn công hai chiến hạm Mađox và Turner Joy tại vịnh Bắc Việt. Lúc này quốc hội đang vội vã soạn thảo một nghị quyết gọi là Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt (Tonkin Resolution) và đang gia tăng quyền hạn chiến tranh Đông Dương cho Tổng Thống Lyndon Johnson. Tôi đã lắng nghe bài diễn thuyết của Tổng Thống Johnson khi ông diễn tả những biến cố và trình bày vấn đề cần thiết phải trả đủa. Tại Cựu Kim Sơn tôi cũng đã lắng nghe ứng cử viên Barry Goldwater tuyên bố lập trường của ông đối với Cộng Sản. Ngay sau khi nghe xong bài diễn thuyết, tôi đã gửi một mục tường thuật về tòa soạn tờ Saigon Post và tự phong cho mình chức phóng viên đặc biệt. Tôi viết rằng: "Dường như toàn thể Hoa Kỳ, kể cả những đảng viên Dân Chủ lẫn những đảng viên Cộng Hòa đều chấp thuận một chính sách chống cộng sản ở Việt Nam."

    Vào cuối tháng 8, tôi rời Hoa Kỳ sang Anh Quốc lòng tin tưởng mãnh liệt vào nghị quyết Vịnh Bắc Việt. (Nghị quyết Vịnh Bắc Việt thông qua Hạ Viện với trọn vẹn số phiếu và thông qua Thượng Viện chỉ với vẻn vẹn 2 phiếu bất đồng ý kiến.) Rõ ràng là chánh quyền Johnson đã quyết tâm đi sâu vào cuộc. Hơn nữa, về riêng vấn đề này họ còn được đảng cộng hòa ủng hộ.

    Khi tôi đến Luân Đôn thì British Council đã sắp đặt sẵn một chương trình viếng thăm đầy đủ cho tôi. Tuy vậy, chỉ sau một hai ngày đầu tôi đã cảm thấy rằng những thời khắc du lịch sắp sẵn trong thời khóa biểu có phần quá khắt khe. Cảm giác này lại còn có phần mạnh mẽ hơn nhất là khi tôi vừa mới được phép chu du tự do ở Hoa Kỳ. Kết cục, người hướng dẫn phải nới rộng thời gian trong chương trình đã sắp để tôi được dịp viếng thăm Anh Quốc như một du khách thực thụ.

    Nhưng chẳng bao lâu sau, khi tôi mới ở Luân Đôn vừa được 4 ngày, thì đã có một bức điện tín khẩn của tờ Saigon Post báo rằng tôi nên về Sài Gòn gấp. Tờ báo đã đăng một loạt bài bình luận chỉ trích chính phủ Nguyễn Khánh. Những người viết không hề nhẹ tay và tướng Nguyễn Khánh đang sửa soạn đóng cửa tòa báo.

    Lúc trở lại Việt Nam tôi thấy mình đang nằm trong thế phải đấu tranh toàn lực để giữ tờ Post khỏi bị đóng cửa. Ông Khánh không chút ủng hộ những bài bình luận. Hơn nữa, việc ông biết rõ tôi suy nghĩ về ông ra sao lại còn khiến mọi việc thêm phần phức tạp. Tuy tôi đã cố gắng hết mình mà tờ báo vẫn phải tạm thời đình bản. May thay lúc này ông Khánh đang tối tăm mặt mũi vì phải đối phó với những khủng hoảng khác trong chánh quyền. Nếu không thì có lẽ tòa soạn tờ Post đã phải đóng cửa vĩnh viễn.

    Tuy chính tờ Post đang gặp khó khăn dữ dội, nhưng những khó khăn của tờ Post vẫn chỉ là những cơn gió so với những cơn lốc xoáy đang xoay chuyển làm hỗn loạn Sài Gòn. Suốt từ tháng 9 cho đến tháng 11 chánh phủ tướng Khánh theo nhau thay đổi vùn vụt trong khi biểu tình làm xáo trộn đường phố Sài Gòn mỗi ngày. Biểu tình của gần như tất cả mọi tổ chức thay nhau bùng ra khắp nơi. Công giáo, Phật giáo, Học sinh, Hòa Hảo, Cao Đài, các Hội Lao Động. -Ông Khánh đã gây mối bất hòa với mọi đoàn thể và tất cả đang phẫn nộ đòi ông phải thỏa thuận theo những điều họ yêu cầu. Tình cảnh hỗn loạn lúc này còn dữ dội hơn cả tình hình những tháng cuối lúc ông Diệm còn tại chức. Tình cảnh xáo trộn của Sài Gòn đã khiến ông Khánh phải khốn đốn, lúc thì ông phải trốn tránh đương đầu với nhóm này, khi thì ông phải cố giữ vững lập trường với nhóm nọ. Ông Khánh vừa phải ngăn ngừa, đề phòng Hoa Kỳ, lại vừa phải cố gắng chống chỏi với những mưu mô đảo chánh đang làm rung chuyển chánh quyền.

    Toàn thể Miền Nam hầu như đắm chìm trong khủng hoảng -Khủng hoảng dân sự, hỗn loạn chính trị và nguy hiểm hơn cả là hỗn loạn quân sự. Trong thời gian này các lực lượng cộng sản đã lợi dụng nhược điểm của Sài Gòn để tung ra những cuộc tấn công ăn khớp nhằm mục đích làm chủ lãnh thổ, cũng như làm chủ các trung tâm dân cư và chia rẽ đất nước. Vào năm 1964, vốn đã gặt hái được một số kết quả, du kích cộng sản ở Miền Nam lại được tăng cường thêm bằng quân đội chính qui Bắc Việt đổ xuống theo những đường mòn Hồ Chí Minh đã được sửa sang kể từ năm 1959.

    Tại nhiều vùng, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang anh dũng chiến đấu nhưng những hỗn loạn chính trị và những rối ren ở cấp chỉ huy đã biến những chiến sĩ thành những người chiến đấu trong những tình cảnh bấp bênh khó khăn. Lúc này nếu quân đội du kích Bắc Việt biết lợi dụng khó khăn thì có lẽ cộng sản có thể làm đảo loạn quân bằng của quân đội Miền Nam.

    Những mâu thuẫn xung khắc của tình cảnh trái ngược đã khiến tôi phải bàng hoàng. Khi Hoa Thịnh Đốn vừa chuẩn bị sẵn sàng nhập cuộc thì Sài Gòn lại hoàn toàn hỗn loạn. Ngay khi tổng thống Lyndon Johnson vừa quyết định đứng ra vận động để ủng hộ Việt Nam thì ông Nguyễn Khánh lại đưa chánh phủ Việt Nam vào vòng đình trệ và hỗn loạn.

    Những mâu thuẫn lúc này đã hẳn chẳng phải hoàn toàn do sự tình cờ. Nếu Việt Nam không đủ khả năng điều động chiến cuộc thì dĩ nhiên Hoa Kỳ bị buộc phải hứng lấy gánh nặng. Nhưng nếu nhìn kỹ nguyên nhân của những biến chuyển tai hại đã làm xáo trộn Việt Nam, tôi qui trách nhiệm một phần về phía Hoa Kỳ. Nếu nhìn từ một phương diện nào đó thì cũng có thể nói rằng chính Hoa Kỳ đã gây ra mọi chuyện. Kể từ khi họ bắt đầu can thiệp, Hoa Kỳ đã không hoàn toàn ủng hộ những lý tưởng dân chủ. Họ chưa bao giờ đặt nặng vấn đề cần phải xây dựng một chánh phủ đoàn kết các thành phần quốc gia ở Việt Nam. Họ cũng chẳng ủng hộ những mục tiêu của một chánh thể dân chủ trên những phương diện khác chẳng hạn như cải cách xã hội, kinh tế. Trái lại, dường như họ chỉ vui lòng ủng hộ những nhân vật độc tài và các tướng lãnh để đổi lấy những ổn định giả tạo nhất thời. Hậu quả là thay vì đưa ra chính sách để giúp Việt Nam đạt được những quân bằng như họ mong muốn, Hoa Kỳ lại vô tình đưa ra những chính sách khiến chánh phủ Việt Nam ngày càng chia rẽ và yếu đuối thêm.

    Quá trình dẫn đến sự thất bại của chánh phủ Việt Nam kéo dài suốt một thập niên -Ông Diệm đắc cử vào năm 1954. Lúc này là mùa thu 1964- nhưng tình hình Việt Nam lại vẫn ở vào một trong những giai đoạn tồi tệ nhất. Khung cảnh rối ren và hỗn loạn tại Việt Nam đã khiến Hoa Kỳ thất vọng. Rồi thì những nhân viên lãnh đạo Hoa Kỳ bắt đầu đặt câu hỏi: Liệu có nên can thiệp hay không? Một trong những nguyên nhân chính khiến Hoa Kỳ phải đặt lại câu hỏi về vấn đề can thiệp là do Bắc Việt đã tăng cường áp lực quân sự, nhưng một lý do khác sâu xa hơn chính là do chánh phủ Sài Gòn lúc này đã hoàn toàn rối ren. Mâu thuẫn thay, tình trạng hỗn loạn của Việt Nam phát sinh lại chính là do các chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ (hoặc do sự thiếu thốn các chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ.) Trong suốt một thập niên Hoa Kỳ chỉ ủng hộ những nhân vật độc tài và quân phiệt. Họ đã vui lòng ủng hộ bất kỳ nhân vật nào tình cờ nắm được chánh quyền để đổi lại những quân bằng nhất thời tại Việt Nam. Giờ đây chính họ phải gánh chịu những hậu quả của việc đánh đổi đó. Vào mùa thu năm 1964 sau những cơn bão làm xáo trộn nội bộ Việt Nam, nếu quả có một chiều hướng nào đó rõ rệt thì chiều hướng đó chính là sự xuất hiện của một nhóm tướng tá trẻ gọi là Tướng Trẻ. Trong nhóm Tướng Trẻ, nổi bật nhất là ông Nguyễn Cao Kỳ, một tư lệnh không quân mới 35 tuổi. Nhưng tướng Nguyễn Văn Thiệu cũng là một nhân vật nổi bật khác được cho là trầm tĩnh và già dặn hơn. Vì là người gần gũi với chính trị nên cũng như các bạn khác tôi cũng có nghe về nhóm các tướng trẻ. Tuy vậy, tôi không hề quen biết thân thiết với riêng bất kỳ người nào trong nhóm các Tướng Trẻ cả. Nhóm Tướng Trẻ nguyên là một lực lượng mới xuất hiện. Tuy thế, vào lúc này những thế hệ tướng tá đàn anh như tướng Kim, tướng Trần Văn Đôn, tướng Dương Văn Minh và những người khác đã lui dần vào phía sau, và tôi nghe rằng những tướng trẻ đang làm áp lực bắt ông Khánh loại trừ tất cả những tướng lãnh già để đưa vào những lớp lãnh đạo có tính cách đại diện cho thế hệ mới của họ.

    Tuy những Tướng Trẻ không trực tiếp đương đầu với tướng Khánh, nhưng sự hiện diện của họ vẫn là một trong những yếu tố chính tạo nên khó khăn cho chánh quyền tướng Khánh. Vào tháng 12, các tướng trẻ đã gây ra một biến cố trực tiếp làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của tướng Khánh. Biến cố bắt nguồn từ vấn đề mất uy tín đã từ lâu qua các hành động tùy hứng, không thể nào tiên liệu trước được của tướng Khánh đối với Hoa Kỳ. Lúc này đại sứ của Hoa Kỳ tại Việt Nam là tướng Maxwell Taylor. Ông là đại sứ đến để thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge. Đại sứ Taylor nguyên là người lúc nào cũng quan tâm rất nhiều đến vấn đề cần phải thúc đẩy tướng Khánh thiết lập một chính phủ dân sự. Khi đã thúc đẩy trong một thời gian rất lâu mà vẫn chẳng có tiến triển nào đáng kể, đại sứ Taylor ngày càng nóng nảy và đòi hỏi liên tục. Cuối cùng, vào tháng 9, ông đã nói thẳng với tướng Khánh rằng Việt Nam cần phải soạn thảo một bản hiến pháp để làm căn bản pháp lý cho việc điều hành chính phủ. Cảm thấy cùng đường, ông Khánh đưa ra một hội đồng mà ông gọi là Thượng Hội Đồng gồm một nhóm nhỏ bao gồm những chánh khách già nua được triệu tập để soạn thảo một bản hiến pháp. Một đảng viên quốc gia trọng tuổi đã tham gia hoạt động trong nhóm Caravelle lúc trước là ông Phan Khắc Sửu được cử làm quốc trưởng.

    Chẳng bao lâu sau, khi hội đồng đã được thiết lập, nhóm tướng tá trẻ bắt đầu làm áp lực với tướng Khánh. Họ bắt ông chánh thức ra lệnh buộc các tướng lãnh lớn tuổi hơn đang làm họ khó chịu phải về hưu. Tuy tướng Khánh đồng ý, theo thủ tục thì mệnh lệnh phải được ông Phan Khắc Sửu, nguyên là quốc trưởng lúc này phê chuẩn. Khốn thay, ông Sửu lại khước từ, không chịu phê chuẩn.

    Vì sợ rằng ông Khánh chưa hoàn toàn làm chủ được tình hình khó khăn, đại sứ Maxwell Taylor đã mời các tướng trẻ đến dùng bữa tối ở tư thất của tướng Westmoreland, tư lệnh điều hành toàn thể lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong buổi họp đó, đại sứ Taylor cố trình bày với các tướng trẻ rằng Hoa Kỳ sẽ tìm cách thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa mãn những điều yêu cầu của các tướng trẻ, nhưng dù sao đi nữa thì Việt Nam vẫn cần phải duy trì được một mức độ ổn định tối thiểu nào đó. Trước sự hiện diện của cả tướng Westmoreland và Phó Đại Sứ Alexis Johnson, đại sứ Taylor đã ngấm ngầm đe dọa các tướng trẻ rằng nếu chính phủ Việt Nam không hoàn toàn ổn định thì Hoa Kỳ khó có thể tiếp tục ủng hộ Việt Nam.

    Nhưng những lời can gián trước của đại sứ Taylor hoàn toàn vô hiệu. Hành động ngoan cố của ông Sửu đã khiến những tướng trẻ quyết định thực thi một giải pháp quyết liệt. Vào ngày 20 tháng 12, họ bắt cóc các nhân viên của Thượng Hội Đồng và áp giải họ cùng một số chính khách dân sự khác về giam lỏng ở Pleiku.

    Được tin đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Ông triệu tập ông Kỳ, ông Thiệu và các tướng trẻ khác đến tòa đại sứ để than phiền về việc làm loạn. Ông mở đầu buổi họp bằng cách hỏi các tướng tá có hiểu tiếng Anh hay không? (Trước đây, ở tư thất tướng Westmoreland ông đã nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp.) Khi ông Kỳ chua chát trả lời rằng tiếng Anh của họ cũng đủ để hiểu, ông Taylor nói tiếp rằng buổi ăn tối tại nhà tướng Westmoreland khi trước thực là lãng phí. (Sau đó ông Kỳ có nói lại với tôi rằng khi ông Taylor phát biểu như vậy, ông và ông Thiệu đã tưởng rằng ông Taylor có ý nói rằng họ đã lãng phí thực phẩm trong bữa ăn tối đó.) Đại sứ Taylor than thở: Hành động của các ông thật đã quá tầm mức chịu đựng! Các ông hãy tự xem các ông đã gây ra những hỗn loạn trong chánh phủ nặng đến độ nào? Trong cơn giận dữ và thất vọng đại sứ Taylor đã nhiều lần lớn tiếng.

    Chẳng biết đại sứ Taylor đã hy vọng gặt hái được gì sau khi than phiền, nhưng một hậu quả tức thời là hành động của ông đã làm nhục ông Kỳ, ông Thiệu và các tướng lãnh khác cùng hiện diện nơi đó. Tướng Nguyễn Khánh lúc này đang ngập đầu với những khó khăn vì phải đối phó với các nhóm quân nhân khác đã chụp ngay lấy cơ hội. Tướng Khánh lợi dụng ngay cách đối xử của đại sứ Taylor với các tướng trẻ để hô hào cảm tình của các phần tử quốc gia. Ông Khánh ra mặt bảo vệ các tướng trẻ. Ông công khai chống đối việc Hoa Kỳ đã can thiệp vào nội bộ của Việt Nam. Ông đã đi xa đến mức độ lên tiếng đòi hỏi Hoa Kỳ phải triệu hồi đại sứ Taylor vì đại sứ Taylor đã xen vào nội bộ của Việt Nam.

    Khi nghe tin, đại sứ Taylor, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Tòa Bạch Ốc đều vẫn giữ lập trường cũ. Những điều ông Khánh phát biểu công khai đã vượt sức tưởng tượng của họ. Tuy việc ông Khánh thiếu khả năng điều hành các chính sách Việt Nam để giữ vững mối bang giao giữa hai nước đã là một việc bất lợi, việc ông tuyên bố lần này quả là việc họ chưa hề nghĩ tới. Hoa Kỳ thông báo với ông Khánh rằng nếu đại sứ Taylor nhất định phải bị triệu hồi thì sự ủng hộ của họ cũng lập tức chấm dứt. Bằng vào thực tế chính trị thì việc này có nghĩa là chánh quyền Nguyễn Khánh phải sụp đổ lập tức. Trong khi tấn bi hài kịch Nguyễn Khánh tiếp diễn thì một cuộc chiến tranh khủng khiếp đang lan dần ra khắp cả Việt Nam và các lực lượng Cộng Sản càng ngày càng trở nên một mối đe dọa trầm trọng.

    Cho tới giữa tháng 2 năm 1965 mà tướng Khánh vẫn chưa hề bị đẩy khỏi cương vị quyền hành. Sau khi những cố gắng vận động cảm tình của các tướng trẻ đã thất bại hoàn toàn, ông Khánh lại mưu toan cố gắng củng cố quyền hành thêm một lần cuối. Vào ngày 14 tháng 2, ông giải tán chánh phủ đương thời và nhờ bác sĩ Quát thành lập một chánh phủ mới mà trong đó ông sẽ là người nắm giữ quyền hành quân đội. Đây là nước cờ cuối cùng của ông Khánh. Nếu ông Quát có thể thành lập được một chánh phủ uy tín thì có thể chính phủ này sẽ giúp ông Khánh thoát khỏi những chống đối của Hoa Kỳ, của Phật giáo, Công giáo và những người Việt Nam khác đang hô hào đả đảo ông ta.

    Nhưng vào lúc này, những hành động của ông Khánh đã quá trễ. Một ngày sau khi bác sĩ Quát nhậm chức thủ tướng thì một cuộc đảo chánh quân sự chống lại tướng Khánh được phát động. Những đơn vị do tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo đã bao vây cả tư thất ông Khánh, những cơ quan tổng hành doanh, lẫn đài phát thanh. Trong lúc hỗn loạn ông Khánh chạy thoát đến được tổng hành doanh không quân của ông Nguyễn Cao Kỳ và được ông Kỳ nhận lời bảo vệ.

    Dưới sự hòa giải của Hoa Kỳ, ông Kỳ và những lãnh tụ nổi loạn cùng đến gặp gỡ trong một cuộc họp mặt. Sau cuộc họp mặt, tướng Phát và đại tá Thảo đã đồng ý hủy bỏ cuộc đảo chánh để đổi lại việc trục xuất tướng Khánh ra nước ngoài. Những điều kiện mà Hoa Kỳ đề nghị dĩ nhiên đối với ông Kỳ rất hấp dẫn vì những tướng trẻ phục vụ dưới quyền ông lúc này đang là nhóm quân nhân mạnh mẽ nhất trong chánh quyền mới của ông Quát. Về phía Hoa Kỳ thì việc trục xuất ông Khánh đã khiến tất cả hoàn toàn nhẹ nhõm. Lúc này, đại sứ Taylor và nhiều người khác, Việt cũng như Mỹ, đều không chịu nổi sự hiện diện của tướng Khánh.

    Ngay buổi sáng hôm đảo chánh -đây cũng là ngày đầu tiên mà bác sĩ Quát làm thủ tướng- ông Quát đã mời tôi gặp ông ở văn phòng và cả hai chúng tôi đều đã bỏ ra rất nhiều thời giờ bàn bạc kế hoạch. Trưa đó, ông Quát được mời về tổng hành doanh không quân để gia nhập buổi họp đang diễn ra bên trong. Khi ông trở lại, vào lúc khoảng 8 giờ tối, thì tin tức về việc ông Khánh được cử đi ngoại quốc được loan ra.

    Ngày hôm sau, tướng Khánh đến Phủ Thủ Tướng để chánh thức từ giã Ông Quát. -Ông Khánh đòi hỏi một nghi lễ tiễn biệt. Bác sĩ Quát đã tổ chức nghi lễ nhưng lại từ chối không chịu đi cùng tướng Khánh xuống phía trước văn phòng thủ tướng để duyệt hàng lính bồng súng chào. Tôi được lệnh đảm đương việc này thay ông. Sau khi xem xét, tôi dẫn ông Khánh lên lầu chào sơ bác sĩ Quát rồi trở xuống xem xét binh lính lần cuối. Lúc nghi lễ hoàn tất, ông Khánh đã nhìn tôi nói: "Maintenant les carted c'est a vous de jouer" - "Hiện thời thì cả cỗ bài đều hoàn toàn tùy ông sắp xếp." Cho đến giây phút chót, ông Khánh vẫn xem chuyện điều hành chính phủ như một trò chơi. Tôi chỉ trút bớt được phần nào cơn giận ngùn ngụt lúc ông Khánh đã xoay người đi khuất. Tuy việc ông Khánh ra đi đã khiến tất cả nhẹ nhõm, vẫn chưa ai dám quả quyết rằng những khó khăn do ông Khánh gây ra có thể được giải quyết trong một thời gian ngắn ngủi.




    Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
    Phan Lê Dũng
    #17
      sóng trăng 02.12.2006 07:03:45 (permalink)
      .
       
      Chương 17
      Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ



      Bác sĩ Quát là một chính khách có kinh nghiệm chánh trị kỳ cựu, có chí quyết tâm, có những xét đoán sâu sắc và những suy nghĩ mẫu mực, đứng đắn. Ông đã là từng là Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ Trần Trọng Kim và đã hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Nếu Nguyễn Khánh thiếu lập trường và kinh nghiệm chính trị bao nhiêu thì bác sĩ Quát lại tháo vát và vững chắc bấy nhiêu.

      Bác sĩ Quát có lẽ là người có thể đảm đương được trách nhiệm khi Nguyễn Khánh bị trục xuất. Nhưng dù ông có khả năng mấy chăng nữa thì tình hình lúc đó cũng hết sức khó khăn và khả năng của ông chưa chắc đã làm thay đổi được tình hình.

      Dĩ nhiên chính bác sĩ Quát không hề cảm thấy điều này. Ông là một chính trị gia hết sức tự tin. Trong suốt những năm dài dằng dặc, kể cả những năm bị gạt ra khỏi chính trường, bác sĩ Quát vẫn không hề thối chí trong việc cố gắng tranh đấu để có thể phục vụ ở một cương vị nào đó trong chính quyền. Lúc này, cơ hội đã đến ông nhất định không chịu bỏ lỡ. Hơn nữa, ông tin rằng ông có thể củng cố chính phủ và tạo được cho đất nước một sự ổn định cần thiết cho việc kiến tạo dân chủ và độc lập. Bác sĩ Quát nhận định rằng: Vấn đề chính là tìm cách giải quyết hết những khó khăn quân sự, nhất là vấn đề của các tướng trẻ. Ông cho rằng ông có thể khắc phục được họ.

      Nhưng lần này những khó khăn đang chờ đợi bác sĩ Quát thật là khủng khiếp. Nếu vấn đề bắt đầu làm lại từ đầu là việc dễ dàng vào năm 1954 và năm 1963 thì vào năm 1965 các biến cố đã thay đổi hoàn toàn khung cảnh chính trị của đất nước. Cơ hội dung hòa những khác biệt giữa các đoàn thể tôn giáo và chính trị bằng một chánh sách đoàn kết trước đây đã hoàn toàn mất hẳn. Đất nước lúc này đang chìm đắm trong tình trạng chia rẽ và xáo trộn. Những tư lệnh cao cấp của quân đội, nguyên là những nhân viên nhận lệnh trực tiếp từ chánh phủ, giờ đây đã xem chánh trường như một vùng chiến địa đòi hỏi những nỗ lực đấu tranh chẳng khác nào những đấu tranh ngoài chiến trường. Lúc này, những tướng tá đã tự chia bè, kết phái chống đối lẫn nhau. Dù họ đồng lòng khinh miệt những nhân viên dân sự, chính bản thân các tướng tá cũng nghi kỵ lẫn nhau. Mặt khác, chính những nhân viên dân sự cũng khinh miệt các tướng tá và các nhân viên quân đội. Công giáo nghi ngờ phật giáo. Phật giáo nghi ngờ công giáo. Những người Miền Nam không còn tin tưởng những người miền Bắc đang chung sống với họ. Có lẽ tệ hơn cả là trong khoảng một năm rưỡi kể từ khi ông Diệm bị lật đổ thì ý kiến thiết lập một chánh phủ đoàn kết các tầng lớp quốc gia đã bị bôi nhọ hoàn tòan.

      Bác sĩ Quát bắt tay vào việc giữa bầu không khí chính trị phức tạp của năm 1965 trong một môi trường không hề có lấy một điểm sáng nào để có thể hy vọng thành công. Tuy ông là một nhà chính trị có nhiều kinh nghiệm, bác sĩ Quát vẫn không có uy quyền gì thiết thực để làm hậu thuẫn. Về điểm này, trường hợp của ông cũng giống như trường hợp của những phần tử quốc gia khác. Tất cả đều phải gánh chịu những hậu quả tai hại của một thập niên độc tài ở Việt Nam. Trong suốt thời gian ông Diệm cầm quyền, chưa có bất kỳ nhân vật quốc gia nào có được cơ hội cho phép họ đóng góp hoặc cổ động dân chúng ủng hộ cho các chương trình của họ. Thực ra, vì cố tránh việc các đảng viên quốc gia có thể vận động ủng hộ, ông Diệm đã ra lệnh cấm nhóm họp đảng phái. Còn các tướng lãnh thì dĩ nhiên chẳng bao giờ lại có mảy may suy nghĩ về những vấn đề dân chủ như vậy. Kết quả là mặc dù đã nỗ lực nhưng vì không có uy quyền thiết thực để hành động nên bác sĩ Quát vẫn không giải quyết được khó khăn. Ảnh hưởng thực sự của ông chỉ hoàn toàn nằm trong phạm vi kinh nghiệm và một số người ủng hộ ông.

      Trong số những người ủng hộ ông, tôi là người đã từng làm việc với ông lâu nhất. Vì mối liên hệ chặt chẽ từ lâu giữa hai chúng tôi, tôi sẵn lòng đóng góp mọi đề nghị và ý kiến riêng của tôi với bác sĩ Quát. Nhưng vào ngày 14 tháng 2, khi bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi cộng tác với ông trong chính phủ mà ông đang thành lập, tôi đã cảm thấy vô cùng ngần ngại. Tôi đã thấy rõ những yếu đuối thực thụ của chánh quyền ông Quát, nhưng tôi lại bị lương tâm thúc đẩy và cho rằng mình nên nỗ lực hết sức bất kể thành đạt hay không.

      Biết rõ những ý nghĩ của tôi về những sự khó khăn và phức tạp của tình hình lúc đó, bác sĩ Quát cố thuyết phục tôi. Ông Quát nói rằng ông đã có nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết các vấn đề khó khăn trong quân đội vì ông đã hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Khi giải quyết xong các khó khăn trong quân đội, ông sẽ đứng ra đương đầu với những khó khăn đang xâu xé các đoàn thể tôn giáo và các đoàn thể chính trị. Hơn nữa, chúng tôi còn có thể soạn thảo một bản hiến pháp phản ảnh những lý tưởng mà chúng tôi đã từng ôm ấp, hoài bão từ lâu.

      Tuy rằng lý luận của bác sĩ Quát vô cùng hấp dẫn, những linh tính của tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Mặc dầu vậy, khi ông Quát đã đi đến mức tận cùng, tôi biết mình chẳng còn đường chọn lựa. Ông Quát than rằng: "Vào giờ phút này mà anh còn bỏ tôi à?" Hết phương lựa chọn, tôi đành chấp nhận cộng tác với chánh phủ của bác sĩ Quát. Chiếu theo chức vụ lúc này thì tôi là Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ ông Quát.

      Chính quyết định tham gia chánh phủ của tôi lúc này đã khiến hàng loạt biến cố dồn dập đẩy tôi bước vào một thập niên sôi động nhất trong đời tôi. Đây là một giai đoạn mà tôi phải tiếp xúc với những nhân vật trong cả chánh trường Việt Nam lẫn chánh trường quốc tế. Đây cũng là giai đoạn tôi có dịp mục kích vấn đề bè phái ở Việt Nam, cũng như vấn đề bè phái trong những đoàn thể Hoa Kỳ phục vụ ở Việt Nam. Lúc tôi nhậm chức thì chánh phủ của bác sĩ Quát đã vô cùng bấp bênh, không chút hy vọng có thể thành công hoặc trường tồn lâu dài. Cùng những đồng nghiệp khác tôi chia xẻ một cảm giác quyết tâm "cắn răng" làm hết sức mình. Lúc này, tôi chưa hề đoán trước được rằng rồi đây tôi sẽ có dịp mục kích những biến cố lịch sử to tát và bi thảm của Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi chưa hề biết rằng tôi sẽ có dịp mục kích tấn thảm kịch Việt Nam-Hoa Kỳ, và mục kích gần như trọn vẹn từ buổi đầu, từ lúc hy vọng còn manh nha, cho đến tận những màn bi kịch rụng rời lúc cuối. Khi nhậm chức tôi cũng chưa biết trước được rằng quyết định mấu chốt nhất, quyết định đáng được đặt vấn đề nhất đã được đưa ra ở Hoa Thịnh Đốn rồi. Tôi lại càng không biết trước rằng sau này, vì tôi là mối dây liên lạc giữa bác sĩ Quát với người Hoa Kỳ, nên chính tôi lại được mời vào để chánh thức hóa những quyết định đã được Hoa Thịnh Đốn đưa ra từ trước.

      Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề can thiệp vào Việt Nam có thể được xem là biến cố quan trọng nhất của họ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Đối với Việt Nam thì đây quả là một trong những biến cố quan trọng nhất cho toàn thể Việt Nam. Tuy vấn đề Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam quan trọng, lớn lao là thế mà chính sách đó lại được thực thi trong một khung cảnh thật hỗn loạn và vào giữa lúc cả hai chánh phủ gần như hoàn toàn không hiểu nhau. Khoảng thời gian giữa tháng 12 năm 1964 và tháng 6 năm 1965 là một giai đoạn của những quyết định phức tạp và khó hiểu. Trong giai đoạn này, cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều quyết định thỏa thuận những chính sách gần như mâu thuẫn hẳn với những mục tiêu về lợi ích quốc gia và uy tín cho cả hai. Về phía Hoa Kỳ, tuy đã có những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến tranh Đại Hàn, Hoa Kỳ vẫn quyết định lao mình vào chiến tranh lục địa ở Á Châu. Về phía Việt Nam, mặc dù việc đổ quân vào Miền Nam hoàn toàn đi ngược những suy xét của các nhà lãnh đạo Việt Nam, và mặc dù mới chỉ thoát ách 100 năm đô hộ của người ngoại quốc, mà Việt Nam vẫn chấp nhận để một quốc gia ngoại quốc đổ quân trấn đóng ngay trên lãnh thổ. Tại sao những quyết định mâu thuẫn như vậy lại có thể xảy ra?

      Đây là một câu hỏi phức tạp có thể được trả lời bằng nhiều cách giải thích hợp lý khác nhau. Một trong những lời giải thích minh bạch nhất từ phía Hoa Kỳ là những tài liệu chưa in của ông William Bundy. Ông Bundy nguyên là Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á và Thái Bình Dương Sự Vụ và cũng chính là người đã tham dự vào tất cả những cuộc thảo luận đã dẫn đến những quyết định can thiệp của Hoa Kỳ vào cuối năm 1964 ở cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lẫn tòa Bạch Ốc. Hơn nữa, ông đã tham dự phần lớn các cuộc thảo luận được tổ chức trong giai đoạn Hoa Kỳ sắp đưa ra quyết định can thiệp. Về phía Việt Nam, kể từ khi những cuộc tấn công không lực vừa mới bắt đầu, nhân vật chính là bác sĩ Quát và tôi. Ông Quát không hề để lại bất cứ tài liệu nào nói về các biến cố can thiệp (Bác sĩ Quát chết trong nhà tù thành phố Hồ Chí Minh năm 1981.) Vào thời gian này tôi đang giữ chức bộ trưởng tại phủ thủ tướng và cũng là mối dây liên lạc chánh phủ của bác sĩ Quát với tòa đại sứ Hoa Kỳ. Những tài liệu chánh thức dùng giải thích những sự kiện sau đây phần nhiều trích ra từ những tài liệu của ông Bundy và tài liệu của riêng tôi tích trữ từ các giấy tờ điện tín, nhật ký, chú thích... cũng như từ những tài liệu riêng do chính tôi thu thập. Những tài liệu khác cũng phần nhiều được trích từ những tài liệu đã được xuất bản như Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Pentagon Papers), tài liệu của Gareth Porter, hồi ký của tổng thống Lyndon Johnson, của đại sứ Maxwell Taylor và Phó đại sứ Alexis Johnson và của các nhân vật khác của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, tôi đã phỏng vấn hầu hết những người Hoa Kỳ tham gia cũng như những người Việt Nam đã ở vào những cương vị hiểu biết trong quá khứ.

      Những diễn biến lịch sử dẫn đến việc Hoa Kỳ quyết định can thiệp tường thuật dưới đây phản ảnh suy tư của cả những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lẫn những nhân viên trong chánh phủ Việt Nam. Khung cảnh toàn cuộc được dựng lại bằng nhiều nguồn tin khác biệt từ nhiều khía cạnh. Khi tổng kết những khung cảnh so le và nhìn rõ được sự thiển cận của các chính sách can thiệp, chẳng hạn như thái độ quá tự tin của Hoa Kỳ, như tình trạng hiểu lầm giữa hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam, hoặc tình cảnh bất lực của chánh phủ Việt Nam, khung cảnh có lẽ khó thể khiến người quan sát tránh khỏi sững sờ. Nếu đem so sánh tầm mức quan trọng của quyết định can thiệp và cách thức Hoa Kỳ can thiệp thì khung cảnh quả là một tấn thảm kịch hãi hùng. Biến cố đánh dấu sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu khi các cố vấn Hoa Kỳ được gửi sang để giúp đỡ quân đội mới thành hình của ông Diệm vào năm 1954. Giữa năm 1961 và năm 1964, số lượng nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã nhảy vọt từ 900 lên đến 23,000. Nhưng mặc dầu sự giúp đỡ có phần đáng kể, các huấn luyện viên và các cố vấn Hoa Kỳ chỉ đóng một vai trò giảng dạy nhỏ hẹp trong các hoạt động quân sự của Miền Nam. Vì Hoa Kỳ chỉ đóng vai cố vấn nên bất kỳ lúc nào con số nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng có thể tăng hoặc giảm. Sự hiện diện của các nhân viên Hoa Kỳ chỉ đáp ứng đơn thuần những đòi hỏi "cố vấn và giúp đỡ," hoàn toàn khác hẳn với những can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ về sau.

      Nếu không kể những cuộc oanh tạc trả đủa của Hoa Kỳ đối với Hà Nội sau biến cố vịnh Bắc Việt thì hành động can thiệp trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu vào tháng 2 năm 1965. Nếu chỉ nói riêng về các kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ thì ngay cả từ trước năm 1964 Hoa Kỳ đã có sẵn những kế hoạch để đối phó với trường hợp leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Tuy thế, những kế hoạch của Hoa Kỳ lại chỉ là những kế hoạch soạn sẵn để đề phòng những trường hợp bất trắc khẩn cấp chứ không phải là những kế hoạch được soạn thảo để áp dụng ngay trong thực tế nếu chiến cuộc kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ vẫn chưa có lập trường rõ rệt về vấn đề liệu có nên can thiệp bằng quân sự hay không thì Bắc Việt lại gia tăng những cuộc khủng bố ở Miền Nam Việt Nam nhằm thẳng vào các nhân viên và quân đội của Hoa Kỳ. Trong một cuộc khủng bố ở khách sạn Brink trong Lễ Giáng Sinh năm 1964, Việt Cộng đã đặt chất nổ khiến hai nhân viên của Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 58 nhân viên khác bị thương. Rồi vào tháng 2, năm 1965 Việt Cộng lại đặt chất nổ ở một trại lính Hoa Kỳ là trại Holloway khiến 8 binh sĩ Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 100 binh sĩ khác bị thương. Cuộc khủng bố xảy ra ngay giữa lúc cố vấn an ninh của Hoa Kỳ là ông McGeorge Bundy đang ở Việt Nam quan sát tình hình. Để trả đủa lại những sự khiêu khích trắng trợn của Việt Cộng, Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder . Chiến dịch này chánh thức mở màn sự can thiệp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc bác sĩ Quát bước vào nhậm chức thì chiến dịch Rolling Thunder đang trên đà phát động. Máy bay của Hoa Kỳ đang dội bom vào những mục tiêu của Bắc Việt ở những đường mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt từ Bắc vào Nam.

      Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder vào khoảng tháng 12-1965, khi chánh quyền Nguyễn Khánh đang đi vào giai đoạn khủng hoảng cuối cùng. Mục tiêu chính của chiến dịch oanh tạc là cắt đứt những đường giao thông của cộng sản và tiêu diệt những căn cứ Bắc Việt đã thiết lập khi chuyển quân vào Miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, vẫn chưa ai có thể tiên đoán được rằng chiến dịch oanh tạc chính thật là bước đầu tiên của một kế hoạch đang biến dần thành kế hoạch can thiệp quân sự lớn lao của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

      Riêng về phương diện ngoại giao thì những nhân viên ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đã thảo luận vấn đề dùng không lực của Hoa Kỳ để đối phó với Bắc Việt từ trước cả khi có biến cố vịnh Bắc Việt. Khi cân nhắc những ưu và khuyết điểm của kế hoạch can thiệp bằng không lực, những người trong nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ vẫn phân vân chẳng hiểu họ có nên can thiệp hay không? Sở dĩ nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ phân vân là vì họ vẫn chưa cân nhắc được ảnh hưởng của những yếu tố phức tạp khác trên trường chính trị quốc tế.

      Nếu đứng trên phương diện chiến lược mà luận thì Việt Nam quả thật là một sự thử thách của chính sách ngăn chận thế lực cộng sản và bảo vệ tự do dân chủ ở tất cả các quốc gia trong khối đồng minh trên thế giới (containment policy). Dĩ nhiên, khi Việt Nam không thể chống chọi được với Bắc Việt mà Hoa Kỳ vẫn muốn chính sách containment thành công thì họ phải can thiệp bằng quân sự ở Việt Nam. Mặt khác, Hoa Kỳ vẫn sợ rằng sự can thiệp của họ có thể bị Nga và Tàu cho rằng họ có ý muốn khiêu khích các thế lực cộng sản. Nói rõ hơn thì họ sợ rằng sự can thiệp của họ ở Việt Nam có thể khiến cuộc chiến Việt Nam bành trướng thành một cuộc thế chiến.

      Vì đã thấy rõ những yếu tố phức tạp của sự can thiệp nên Hoa Kỳ muốn giảm thiểu sự can thiệp của họ đến mức tối đa. Có lẽ họ cho rằng giải pháp vẹn toàn nhất là giúp chánh phủ Việt Nam cải thiện và củng cố quân đội Việt Nam để Miền Nam Việt Nam có thể tự đối phó với Bắc Việt thì họ có thể vẫn áp dụng được chính sách containment mà không cần phải can thiệp bằng quân sự. Chính vì thế nên lúc nào Hoa Kỳ cũng muốn tình hình chánh phủ của Việt Nam ổn định để họ có thể áp dụng được giải pháp can thiệp nửa vời như một giải pháp vẹn toàn.

      Mặc dầu trong năm 1964, nhóm soạn thảo kế hoạch do ông Bundy đứng đầu có đề ra nhiều giải pháp khác nhau, cho tới hạ tuần tháng 11 năm 1964 vẫn chưa hề có giải pháp nào đáng được gọi là quyết định. Lúc đó, đại sứ Taylor Maxwell vừa từ Sài Gòn trở về Hoa Thịnh Đốn. Ông đã trở lại để thuyết trình cho nhóm soạn thảo kế hoạch làm việc dưới quyền ông Bundy. Lúc này nhóm soạn thảo đang làm việc trong giai đoạn cuối và những giải pháp của họ sắp được đệ trình lên tổng thống.

      Vì đại sứ Taylor vừa mới từ Sài Gòn trở về và nhóm soạn thảo kế hoạch lại đang ở vào giao đoạn chót, tình hình đã khiến đại sứ Taylor đứng vào cương vị chủ chốt và tại thời điểm này, quan niệm của ông thật vô cùng quan trọng. Vào ngày 27 tháng 11, bản báo cáo của ông vừa thành thật lại vừa vô cùng bi quan. Đại sứ Taylor viết rằng tình trạng xáo trộn ở Việt Nam có thể được coi như một "chứng bệnh kinh niên" của chánh phủ. Ông cho rằng đây là một "yếu điểm trầm trọng." "Nếu chánh phủ Việt Nam không đủ khả năng để tiếp tay với những nỗ lực của Hoa Kỳ thì những nỗ lực tiếp trợ của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những nỗ lực vô ích, chẳng khác nào những nguồn năng lực có thể khiến một chiếc bánh xe quay tròn, nhưng lại không thể truyền đi được sức mạnh của những vòng quay." Đại sứ Taylor cho rằng "Nếu muốn thúc đẩy tình hình biến chuyển thì phải thiết lập ngay một chánh phủ vững chãi ở Việt Nam."

      Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk trực tiếp hỏi phải theo phương pháp cụ thể nào để chánh phủ Việt Nam có thể hoạt động khả quan hơn thì đại sứ Taylor trả lời rằng giới lãnh đạo Việt Nam phải được loan báo những "tin tức thiết thực," họ cần phải biết rõ giải pháp của Hoa Kỳ cùng với những dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng "nói chuyện nghiêm chỉnh về vấn đề thực sự đương đầu với Miền Bắc." (Ông nhấn mạnh điều này.) Đại sứ Taylor cho rằng những tin tức thiết thực có thể khích lệ chánh phủ Việt Nam điều hành hữu hiệu hơn. Giữa lúc đại sứ Taylor đang trình bày ý kiến thì Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara lại nêu câu hỏi: Nếu ngay cả khi những tin tức cần thiết đã được loan báo rồi mà chánh quyền Sài Gòn vẫn không thay đổi thì liệu Hoa Kỳ có đủ lập luận để oanh tạc miền Bắc hay không? Rồi chính ông McNamara đã trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ có đủ lập luận để oanh tạc. Đại sứ Taylor cũng đồng ý với ông McNamara và cho rằng khi tình thế đã tuyệt vọng thì những hành động mạnh mẽ có thể sẽ khiến Việt Nam đoàn kết lại với nhau.

      Khi rút tỉa từ những ý kiến phát biểu trong cuộc trao đổi giữa hai ông McNamara và ông Taylor, ông William Bundy đã diễn tả những hành động mạnh mẽ kêu gọi Việt Nam đoàn kết có thể ví như một hiện tượng "chạm điện." Theo ông Taylor thì "ý kiến về nỗ lực cuối cùng -chữa trị bằng phương pháp 'giật dây,' tương tự như phương pháp giật dây một động cơ cho nổ máy có thể là một giải pháp thích nghi."

      Bốn ngày sau, vào ngày 1 tháng 12, Tổng Thống Lyndon Johnson chánh thức chấp nhận đề nghị của nhóm soạn thảo chính sách. Chủ trương của chính sách mới đòi hỏi Hoa Kỳ phải gia tăng áp lực với Bắc Việt. Nếu cần, cách gia tăng áp lực sẽ bao gồm cả việc tấn công bằng không lực vào những căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Việt. Nhưng theo ý tổng thống Johnson thì trước tiên đại sứ Taylor nên cố gắng dùng hết sức tạo sự đoàn kết giữa những người quốc gia Việt Nam. Tổng thống Johnson nhắn nhủ đại sứ Taylor: "Nếu muốn thực thi chánh sách oanh tạc không lực thì ông phải tìm cách nối kết toàn thể các lãnh tụ chánh trị hiện thời." Đây là những lời nhắn nhủ đại sứ Taylor vẫn ghi nhớ khi trở về Sài Gòn, nhưng chỉ một tháng sau ông đã gửi một bức điện tín rất dài về Hoa Thịnh Đốn, báo cáo rằng những cố gắng của ông đã hoàn toàn thất bại. Đại sứ Taylor quay lại Việt Nam để thực thi chỉ định của tổng thống Johnson vào giữa lúc chánh quyền tướng Khánh đang ở trong tình trạng khủng hoảng. Lúc này các tướng trẻ đang nổi loạn và vụ bắt cóc các nhân viên Thượng Hội Đồng vừa xảy ra. Tuy đã cố hết sức hàn gắn và hô hào đoàn kết, những nỗ lực của đại sứ Taylor vẫn hoàn toàn vô hiệu. Việt Nam chẳng hề có bất kỳ ý niệm nào về việc cần phải đoàn kết cả. Trái lại, thái độ mạnh ai nấy sống lộ rõ ở khắp các nẻo đường Sài Gòn. Đại sứ Taylor cho rằng Việt Nam có thái độ này vì họ đã có một cảm giác chung rằng đất nước đã đến hồi bỉ vận và Hoa Kỳ có lẽ cũng chỉ đến khoanh tay đứng nhìn mà thôi. Ông Bundy còn nhớ đại sứ Taylor đã phát biểu: "Kể cả những thang thuốc mạnh nhất cũng không đủ hiệu lực. Giờ đây chẳng còn cách nào khác hơn là phải giải phẫu con bệnh." Những suy luận của đại sứ Taylor đã khiến ông Bundy nhận định: "Nếu theo chủ kiến của đại sứ Taylor thì cả vấn đề củng cố tinh thần lẫn vấn đề củng cố những hoạt động chính trị của Việt Nam đều lệ thuộc rất nhiều vào việc thực thi những chương trình oanh tạc không lực."

      Vào ngày 1, tháng 12-1964, ngoài những yếu tố vừa kể, những yếu tố khác còn lại có ảnh hưởng đến việc tổng thống Johnson chấp thuận quyết định thực thi chương trình oanh tạc là: Vấn đề cần phải trả đủa những cuộc tấn công của Việt Cộng và thể hiện sự quyết tâm của Hoa Kỳ, nhất là vấn đề cần phải gia tăng áp lực để buộc Bắc Việt phải thu nhỏ tầm hoạt động. Tài liệu cho thấy quyết định oanh tạc cũng lệ thuộc rất nhiều vào lập luận "hà hơi tiếp sức" của đại sứ Taylor vào cuối tháng 11, khi ông đưa ý kiến lần đầu và rồi sau đó vẫn tiếp tục giữ vững quan điểm trong những buổi thuyết trình tương tự kế tiếp vào đầu tháng giêng. Tất cả những buổi thuyết trình đều nhấn mạnh vào vấn đề cần phải có một động cơ cấp thiết thúc đẩy những người Việt Nam đoàn kết lại với nhau.

      Điều cuối cùng đáng chú ý trong lập luận của đại sứ Taylor về việc đề nghị chương trình oanh tạc Bắc Việt là: Tuy ủng hộ chính sách tấn công bằng không lực, đại sứ Taylor đã chấp thuận một phần cũng là vì đây còn là một phương sách giữ cho Hoa Kỳ khỏi phải đi sâu vào những vấn đề quân sự phức tạp. Phó Đại Sứ Alexis Johnson đã phát biểu: "Thật ra, vì là những người làm việc ở tòa đại sứ, chúng tôi còn mong mỏi một điều khác. Chúng tôi hy vọng rằng chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder sẽ xoa dịu những yêu cầu, đòi hỏi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ phải trực tiếp can thiệp." Họ nghĩ rằng chương trình oanh tạc sẽ khiến những người hiếu chiến giảm bớt áp lực đòi hỏi Hoa Kỳ phải đổ quân. Vào tháng 2, cả đại sứ Taylor lẫn các phụ tá của ông đều bị áp lực về vấn đề phải đổ quân Hoa Kỳ vào Việt Nam.

      Tuy thế, những suy nghĩ cẩn trọng của Hoa Kỳ lại chẳng hề đi đôi với bất kỳ nỗ lực nào của chính quyền Việt Nam. Vì nằm trong trạng huống của một chánh phủ đầy những rối ren trong nội bộ, ông Nguyễn Khánh làm gì còn có thời giờ suy nghĩ về biến chuyển của những chương trình oanh tạc. Ông Khánh không hề ở vào cương vị có thể đồng ý hoặc chối từ -Ở vào thời điểm này, ông Khánh gần như không còn nói chuyện được với đại sứ Taylor. Hơn nữa, các tướng lãnh lại suy nghĩ ngược hẳn với ý kiến của đại sứ Taylor. Họ không hề thấy việc đâu lưng đoàn kết là cần thiết. Thật ra, vào những ngày tàn tạ của chánh quyền Nguyễn Khánh, các tướng lãnh chia rẽ chẳng phải do những nguyên nhân xuất phát từ thái độ mạnh ai nấy sống như đại sứ Taylor đã xét đoán mà là do những mâu thuẫn và xung khắc phát xuất từ những đố kỵ và tham vọng cá nhân. Đối với các nhóm quân nhân đang chú tâm vào việc tranh quyền thì chương trình oanh tạc chỉ là một chuyện tự nhiên Hoa Kỳ phải làm và chẳng ai cần thắc mắc cả. Do đó, nỗ lực tiếp sức mạnh mẽ của Hoa Kỳ vào lúc này là một việc làm đơn phương, không thể nào có thể gọi là quyết định hỗn hợp của cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam.

      Tuy quyết định oanh tạc ảnh hưởng đến vấn đề can thiệp trầm trọng là thế mà khi bắt đầu nắm quyền vào ngày 18 tháng 2-1965, chánh phủ Việt Nam vẫn chẳng duyệt lại tình hình. Tôi tin chắc rằng ông Khánh cũng chẳng quan tâm gì đến việc báo cáo với bác sĩ Quát về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi còn nhớ một cuộc đàm thoại ngắn ngủi trong tuần đầu lúc tôi bắt đầu làm việc, khi bác sĩ Quát lưu ý rằng đại sứ Taylor sẽ ghé qua tường trình với chúng tôi về những chương trình oanh tạc. Sau đó, cứ hai tuần một lần, đại sứ Maxwell Taylor và ông Alexis Johnson lại đến phủ thủ tướng mang theo một xấp bản đồ để chỉ cho chúng tôi những mục tiêu đang bị oanh tạc. Vai trò hoạt động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ được coi là chuyện tự nhiên cho đến nỗi chính phủ Việt Nam không thèm đưa cả vấn đề vào chương trình nghị sự ở mỗi kỳ họp hàng tuần. Vấn đề can thiệp chẳng những đã không nằm trong chương trình nghị sự của chính phủ Việt Nam mà cũng chẳng hề được nhắc nhở gì đến trong bất kỳ chương trình nghị sự hỗn hợp Mỹ-Việt nào của tôi và cố vấn tòa đại sứ Melvin Manfull. Lúc này, tôi và ông Melvin Manfull là hai nhân viên cùng nhận lãnh trách nhiệm soạn thảo các chương trình nghị sự cho bác sĩ Quát, đại sứ Taylor và các phụ tá chính của họ.

      Quyết định về việc xử dụng không lực Hoa Kỳ trên lãnh thổ Việt Nam (khác với quyết định oanh tạc) cũng được tiến hành rập khuôn như trường hợp trước, không hề có sự thỏa thuận hoặc thảo luận đặc biệt nào trước với chánh phủ Việt Nam. Thực thi một chính sách có ảnh hưởng hệ trọng đến toàn thể dân chúng mà lại không cần đếm xỉa gì đến vấn đề thương thảo, nhận định chung của cả hai chánh phủ thật là một việc ngoài mức tưởng tượng. Tuy thế, áp lực của tình hình đã khiến những người lãnh đạo của cả hai quốc gia cùng đồng ý rằng: Thực ra, vấn đề vẫn chưa nghiêm trọng đến mức cần phải thảo luận với chính phủ Sài Gòn chứ đừng nói tới việc phải liệu xem mức độ cần thiết thực sự đã đến độ nào! Một bên thì các nhà chức trách quân sự Hoa Kỳ, dưới áp lực của tình hình chiến sự, có lẽ đã nghĩ rằng vấn đề không quan trọng và chưa cần phải thảo luận với chánh phủ Việt Nam. Và một bên thì còn đang lặn ngụp, trăn trở với những vấn đề cấp bách, không có đủ thời giờ mà nghĩ quá xa đến những vấn đề phức tạp. Lúc này, chánh phủ Việt Nam đang xoay sở khốn đốn vì thiếu thốn phương tiện chỉnh đốn lại các hỗn loạn di lại từ trước. Tư thế lặn hụp, trăn trở, cố ngoi đầu lên khỏi mặt nước đã khiến Việt Nam phải để các tổ chức quân sự tự đương đầu với chiến cuộc trong mọi vấn đề.

      Dù rằng việc quyết định dùng các lực lượng không quân Hoa Kỳ đã là một vấn đề đáng lưu tâm, việc đổ bộ của Hải Quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 3-1965 lại còn đáng chú tâm hơn. Đối với Hoa Kỳ thì quyết định đổ bộ hải quân là một quyết định đánh dấu giai đoạn khởi đầu nhập cuộc chiến tranh lục địa Á Châu. Đối với dân chúng Việt Nam thì vấn đề đổ bộ cho thấy quân đội ngoại quốc lại chiếm đóng ở Việt Nam thêm một lần nữa. Vào thời gian này, mối liên hệ giữa tôi và bác sĩ Quát đã vượt xa quan hệ đơn thuần giữa cấp trên và cấp dưới. Mười lăm năm tình nghĩa đã biến chúng tôi thành thân thiết gần như "anh em." Chúng tôi vẫn thường bàn luận với nhau về những vấn đề khúc mắc, khó xử. Riêng về vấn đề hiện diện của quân đội ngoại quốc ở Việt Nam thì chúng tôi cùng đồng quan điểm đã từ lâu. Bất kể tầm mức cần thiết về vấn đề quân sự có quan trọng tới mức nào, cả hai chúng tôi đều dứt khoát cho rằng để quân đội ngoại quốc nhập cuộc là tự chuốc lấy một vấn đề khó khăn vô tả. Vào năm 1953, chúng tôi đã từng ở vào một tình trạng hết sức khó xử khi tham gia vào chánh quyền của ông Bảo Đại. Chính kinh nghiệm của những việc khó xử đó đã khiến chúng tôi phải ngần ngại. Chúng tôi sợ rằng rồi đây những người không ở trong tình trạng của chúng tôi sẽ lại rơi vào bộ máy tuyên truyền của cộng sản để kết án chúng tôi là bù nhìn. Nếu bị kết án bù nhìn chẳng những cá nhân chúng tôi phải chịu đựng chỉ trích mà cả chính nghĩa của Miền Nam Việt Nam cũng vì thế mà bị suy tổn. Chúng tôi cho rằng chỉ có thể để Hoa Kỳ can thiệp bằng quân sự nếu quả thật đã đến đường cùng và chẳng còn biện pháp nào khác hơn.

      Vào tháng 3 năm 1965, tuy trong bụng lo lắng nhưng tôi vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có lẽ sẽ chánh thức yêu cầu chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho họ đổ quân vào Việt Nam. Lúc này, có thể việc Hoa Kỳ yêu cầu đổ quân là một việc hợp lý vì họ có thể xin chánh phủ Việt Nam chánh thức cho phép họ bảo vệ các căn cứ của Hoa Kỳ đã được thiết lập ở phía bắc bờ biển Đà Nẵng. Tuy đã biết trước vấn đề yêu cầu, nhưng thời khóa biểu chất chồng đã khiến tôi chẳng thể dành hết mọi thì giờ mà nghĩ tới chuyện này. Tôi chỉ tự nhủ thầm rằng sẽ có lúc tôi tìm cách đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của các buổi họp hỗn hợp hàng tuần giữa đại sứ Taylor và bác sĩ Quát. Như tôi đã trình bày khi trước, phần lớn các chương trình nghị sự đều do tôi và ông Manfull soạn thảo.

      Nhưng biến cố đã đi ra ngoài sự tiên liệu của tôi. Rạng ngày mùng 8 tháng 3, tôi bỗng nhận được điện thoại của bác sĩ Quát mời đến nhà ông lập tức vì có việc cần. Khi tôi đến nơi thì ông Melvin Manfull đã có mặt. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ trông có vẻ bình thản nhưng bác sĩ Quát thì có vẻ căng thẳng trông thấy. Chưa mời tôi ngồi, bác sĩ Quát đã nói rằng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ vào Đà Nẵng. Tình hình đòi hỏi tôi và ông Manfull phải viết một bản báo cáo hỗn hợp để xác nhận là chánh phủ Việt Nam đồng ý cho phép Thủy Quân Lục Chiến của Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam. Bác sĩ Quát nhắn tôi: "Biên càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi."

      Vì tôi đã đoán trước việc tướng Westmoreland sẽ yêu cầu đổ quân, nên những tin tức mới nhất này không hề làm tôi ngạc nhiên, nhưng khung cảnh bất ngờ và thiếu chuẩn bị đã làm tôi bực mình. Tôi nắm tay bác sĩ Quát, dẫn ông vào phòng kế cận, hỏi: "Có việc gì đặc biệt xảy ra mà chúng ta chưa biết không? Tại sao họ lại hành động bất ngờ như vậy?"

      Bác sĩ Quát cố giữ bình tĩnh, nhưng giọng ông vẫn thật căng thẳng: "Anh ơi, họ đang đổ bộ vào bờ biển. Họ đã lên bờ rồi. Anh hãy thảo ngay bản thông cáo rồi chúng ta sẽ bàn luận chuyện này sau!"

      Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi và ông Manfull đã soạn thảo xong bản thông cáo hỗn hợp thông báo việc hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ "với sự thỏa thuận của chánh phủ Việt Nam." Khi nhà ngoại giao Hoa Kỳ vừa đi khỏi, tôi lại trở lại ngay vấn đề và hỏi bác sĩ Quát. Ông Quát cho biết nhiều ngày trước đây, ông và đại sứ Taylor có "trao đổi ý kiến" về vấn đề cần phải gia tăng việc phòng thủ Việt Nam. Trong cuộc trao đổi ý kiến sơ khởi, đại sứ Taylor có đề cập đến vấn đề Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ. Theo lời bác sĩ Quát thì đây chỉ mới là vấn đề trao đổi ý kiến tổng quát. Ông cũng cho biết rằng lúc thảo luận ông đã đưa ý kiến rằng ông rất ngần ngại nếu người Mỹ phải trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc thảo luận tuy bác sĩ Quát chưa yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân nhưng ông cũng chưa tỏ ý chống đối. Bác sĩ Quát cho biết đại sứ Taylor đã "đồng ý với phần lớn các quan điểm của ông."

      Khi tôi hỏi tại sao chúng tôi lại phải đương đầu với một biến chuyển đột xuất như vừa rồi thì bác sĩ Quát trả lời rằng: "Tôi nghĩ chính đại sứ Taylor cũng phải ngạc nhiên. Khi sáng ông ta có viện lẽ rằng đây chẳng qua chỉ là một vấn đề do tình hình ở các căn cứ không lực bắt buộc vào lúc này."

      Hôm sau, các tờ báo Sài Gòn đã đăng tải những hình ảnh khác hẳn những biến động bất ngờ đã đến với chúng tôi ngày hôm trước. Hình ảnh các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được các thiếu nữ mặc áo dài mang vòng hoa đón tiếp nồng nhiệt được đăng ngay trong những trang đầu. Theo các hình ảnh đăng tải thì đây có vẻ là một cuộc đón tiếp chánh thức và trọng thể. Mấy ai biết rõ sự thật ẩn sau những vòng tay chào đón rộng mở và những khuôn mặt hớn hở tươi vui? Theo tài liệu của ông Bundy, và hồi ký của các ông Alexis Johnson, Taylor và Westmoreland thì chính bản thân đại sứ Taylor cũng "vô cùng ngần ngại" khi đồng ý việc đổ quân. Vào ngày 22 tháng 2-1965, ông Taylor cũng đã trình bày quan điểm "dè dặt" của ông Quát với bộ ngoại giao. Ông Bundy viết rằng: "Đại sứ Taylor dứt khoát khước từ vấn đề Hoa Kỳ đổ quân. Ông chống đối tất cả mọi cuộc đổ quân bất kể quân số và chỉ đồng ý có thể để một lực lượng an ninh [dùng vào việc phòng thủ các căn cứ Không Lực ở Đà Nẵng.]"

      Theo lời tường thuật của ông Bundy thì đại sứ Taylor đã suy luận rất minh bạch về những bất lợi gây ra khi quân đội Hoa Kỳ nhập cuộc. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 2, chỉ 2 ngày sau, tướng Westmoreland đã gửi riêng một đề nghị về Hoa Thịnh Đốn đòi hỏi 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến phải đổ bộ cấp tốc vào Đà Nẵng để bảo vệ các căn cứ không lực. Tướng Westmoreland cũng nhắn thêm rằng đại sứ Taylor đã đồng ý với ông về việc này.

      Đề nghị của tướng Westmoreland được chuyển đến Bộ Tổng Tham Mưu rồi Bộ Tổng Tham Mưu lại nhân cơ hội yêu cầu một lữ đoàn viễn chinh gần 5000 binh sĩ bao gồm cả pháo binh và chiến đấu cơ yểm trợ. Theo lời Phó đại sứ Johnson thì khi nghe tin cả đại sứ Taylor cùng ông đều "kinh ngạc." Kế hoạch đổ quân của Bộ Tổng Tham Mưu lần này vượt xa tầm mức quân sự cần thiết và là điều họ chưa hề tưởng đến bao giờ. Họ nhất định bác bỏ đề nghị đổ quân. Đêm đó, một giải pháp dung hòa được thông qua. Trong giải pháp này, cả Phó đại sứ Johnson lẫn đại sứ Taylor đều đồng ý cho phép 3500 Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam. Họ quyết định thật "lưỡng lự" và chỉ thỏa thuận với điều kiện đây là con số tối đa. Hơn nữa, họ còn nhấn mạnh khi những đội quân Việt Nam đã đủ sức thay thế thì những đội quân Hoa Kỳ phải rút lui ngay. Vào ngày 26 tháng 2 Bộ Quốc Phòng chuyển lời đề nghị lên tổng thống trong một bữa ăn trưa. Trong bữa ăn trưa, tổng thống Johnson đã đồng ý chấp thuận lời yêu cầu. Theo ông Bundy thì vào lúc này chánh phủ Hoa Kỳ chưa hề tham khảo ý kiến Bộ Ngoại Giao.

      Diễn biến cho thấy ngay trong nội bộ Hoa Kỳ đã có một hố ngăn cách lớn lao. Những cơ quan quân sự không hề ngần ngại khi cần hành động ngược lại với quan niệm của các cơ quan dân sự hoặc tự ý liên lạc với tổng thống. Việc đổ bộ hiển nhiên là việc đại sứ Taylor không hề hay biết. Các nhân viên tham mưu chẳng thèm đoái hoài gì đến việc thông báo trước với ông. Khi việc đổ quân xảy ra bất ngờ, đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Cuộc cãi vã giữa ông và tướng Westmoreland găng cho đến mức ông đã nhắc nhở tướng Westmoreland về vấn đề ai giữ chức vụ quan trọng hơn ai. Đại sứ Taylor còn phẫn khích hơn khi khám phá được rằng lúc đổ quân, những đội quân Thủy Quân Lục Chiến đã mang theo cả xe tăng, đại pháo lưu động và nhiều khí cụ nặng khác mà nếu đem dùng vào việc "phòng thủ căn cứ" thì quả là một điều hoàn toàn vô lý.

      Có lẽ đại sứ Taylor đã cảm thấy mình bị qua mặt. Ông đã bác bỏ giải pháp quân sự, rồi lại gượng gạo đồng ý cho phép một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến phòng vệ đóng ở Đà Nẵng vào lúc đầu. Sau đó lại cho phép một tiểu đoàn thứ hai đổ vào để bảo vệ tiểu đoàn thứ nhất. Chỉ mới thoáng một cái mà quân số hai tiểu đoàn đã lên đến 3500. Chẳng những thế, cả đại sứ Taylor lẫn Phó đại sứ Alexis Johnson đều cho là mình hãy còn may mắn đã giới hạn được con số quân nhỏ như vậy. Chỉ vẻn vẹn hai ngày sau, tin tức về việc đổ quân lại lan ra khiến cho các đồng nghiệp của đại sứ Taylor ở Bộ Ngoại Giao không tài nào có đủ thời giờ hoặc cơ hội xem xét lại những đề nghị của các viên chức tham mưu quân sự. Để kết thúc quá trình, các tham mưu trưởng đã không báo trước với ông về việc đổ bộ. Hơn nữa, khi các đội binh thủy quân lục chiến đổ bộ, họ đã ào ạt ùa vào chẳng khác nào cuộc đổ bộ vào bãi biển Iwo Jima hồi Đệ Nhị Thế Chiến thay vì chỉ đổ bộ một cách kín đáo như đại sứ Taylor đã nghĩ.

      Theo các tài liệu thì dù rằng ở giai đoạn nào, đại sứ Taylor cũng rất ngần ngại khi phải để Hoa Kỳ đổ quân chánh thức tham dự chiến cuộc. Tuy vậy, ý kiến của ông đã bị Hoa Thịnh Đốn bác bỏ và cuối cùng, vì không còn đường chọn lựa, đại sứ Taylor đành phải miễn cưỡng đi theo. Việc đại sứ Taylor đột ngột thay đổi quan niệm chính là vì ý kiến của ông đã bị bác bỏ. Và cũng vì vậy mà ông đã phải yêu cầu bác sĩ Quát chấp thuận quyết định của Hoa Kỳ, trong khi trên thực tế thì quyết định đã được chấp hành trước cả lúc ông bắt đầu ngỏ lời yêu cầu. Hậu quả tai hại của những biến cố bất ngờ ngày càng lộ rõ. Vấn đề liệu bác sĩ Quát có thể trì hoãn hoặc bác bỏ được cuộc đổ quân hay không lại là một vấn đề khác. Bản thân bác sĩ Quát cũng là người mới nắm quyền và quyền lực của ông còn phụ thuộc rất nhiều vào quân đội. Thực sự thì tuy bác sĩ Quát chưa chính thức bác bỏ việc đổ quân mà đã bị đặt vào một tình trạng của sự đã rồi. Đại sứ Taylor đã trình bày thành thực rằng quân Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng một vai trò phòng vệ hạn hẹp. Hơn nữa, vấn đề đóng quân chẳng qua chỉ là một vấn đề tạm thời. Bác sĩ Quát đã đồng ý thỏa thuận việc đổ quân. -Ít ra cũng là đồng ý thỏa thuận vào giai đoạn này. Có lẽ bác sĩ Quát nên hành động khác, nhưng nhìn lại tình hình lúc đó, tôi không thể tự dối mình mà bảo rằng nếu bác sĩ Quát có hỏi thì tôi đã cho ý kiến khác. Trong tình cảnh chánh phủ mới lúc đó vừa nắm quyền và hãy còn mơ hồ, hẳn nhiên việc chúng tôi có thể chống đối khi Hoa Kỳ tự ý hành động đã hẳn là một việc không hề thực tế.

      Tuy nhiên một khi quyết định can thiệp đã được thực thi thì những diễn biến tuần tự kế tiếp chỉ là những bước cố định nằm trong một tiến trình bắt buộc. Vấn đề can thiệp quân sự và can thiệp chính trị thật chẳng khác nào việc thụ thai. Vấn đề có "thụ thai nửa chừng" chỉ là một vấn đề lệch lạc và ảo tưởng. Chỉ mới hai tuần sau khi 3500 Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Đà Nẵng thì Tư Lệnh quân đội Harold K. Johnson đã gửi lời yêu cầu tổng thống Johnson xin phép cho thêm ba sư đoàn bao gồm hai sư đoàn Hoa Kỳ và một sư đoàn Đại Hàn đổ vào Việt Nam để tăng viện. Đại sứ Taylor lại bác bỏ. Khi trót thỏa thuận việc cho phép Thủy Quân Lục Chiến Đổ Bộ, đại sứ Taylor đã bị viễn ảnh can thiệp lớn rộng của Hoa Kỳ ám ảnh dằn vặt và phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Tuy tôi không rõ đích thực bác sĩ Quát cùng ông Taylor bàn luận ra sao nhưng bác sĩ Quát đã nhiều lần cho biết rằng ông và đại sứ Taylor cùng đồng quan điểm về vấn đề phải giới hạn vai trò của Thủy Quân Lục Chiến ở Đà Nẵng.

      Đại sứ Taylor đã trả lời những yêu cầu của tướng Harold Johnson bằng cách đánh điện tín về Tòa Bạch Ốc rằng ông nhất định không đi xa hơn con số Thủy Quân đang đóng ở Đà Nẵng. Vào tháng ba, khi được triệu hồi về Hoa Thịnh Đốn, ông vẫn khăng khăng, một mực quyết định giữ vững lập trường. Hiển nhiên là lúc này đại sứ Taylor đanh tranh luận kịch liệt cùng tướng Westmoreland và các nhân viên tham mưu quân sự về vấn đề đổ quân bành trướng các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tuy thế, đại sứ Taylor không phải là người duy nhất ra mặt chống đối. Gần như tất cả những nhân viên dân sự ở Hoa Thịnh Đốn cũng đều chống đối như ông.

      Vào ngày 1, tháng 4, trong một cuộc họp hội đồng an ninh quốc gia, tổng thống Johnson đã cho cả hai bên, các cố vấn quân sự cũng như các cố vấn dân sự một phần những điều họ đòi hỏi. Thay vì 2 sư đoàn như những sĩ quan tham mưu đã yêu cầu, tổng thống chỉ thỏa thuận cho phép hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam mà thôi. Theo ông Bundy thì việc giới hạn quân số là do đại sứ Taylor cùng nhiều nhân viên dân sự khác đã hết lòng can gián. Tuy thế, để đổi lại vấn đề cắt giảm quân số, những đội quân Hoa Kỳ đóng ở Đà Nẵng lại được phép nới rộng hoạt động thay vì chỉ được phép "phòng vệ căn cứ" như đã đề ra lúc đầu. Lúc này các đội quân được phép đóng một vai trò "chủ động hơn" trong cuộc chiến. Hơn nữa, những đội thủy quân lục chiến mới sẽ được hai mươi ngàn nhân viên binh nhu và quân cụ đi theo yểm trợ. Đây tuy là giải pháp dung hòa nhưng đại sứ Taylor vẫn giữ được thế thượng phong. Ít nhất ông cũng đã trì hoãn được phần nào các cuộc đổ quân khổng lồ của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong tất cả các quyết định kể trên, quyết định quan trọng nhất là quyết định cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến nới rộng và bành trướng phạm vi hoạt động. Quyết định này đã khiến quan niệm "phòng vệ căn cứ," nguyên là yếu tố chính của cuộc đổ quân lúc đầu chuyển thành "chiến lược bao bọc," một chiến thuật cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến được phép chiến đấu trong phạm vi 80 cây số quanh căn cứ. Hơn nữa, khi tình hình khẩn cấp, các đội quân của Hoa Kỳ còn có thể chiến đấu nếu có lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Đây là lần đầu tiên các lực lượng Hoa Kỳ được phép đóng một vai trò chủ động trên chiến trường Việt Nam.

      Vào thượng tuần tháng 4, đại sứ Taylor trở lại Sài Gòn để yêu cầu bác sĩ Quát "cùng thỏa thuận" với quyết định của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ về việc gia tăng các đội quân tiếp tế và tăng cường trách nhiệm của các đội quân Hoa Kỳ. Đầu tiên bác sĩ Quát chưa hiểu rõ được tình hình. Lúc này chúng tôi hoàn toàn mù tịt về việc Hoa Kỳ sắp mang thêm 20,000 quân yểm trợ và sắp bành trướng cả quân số lẫn nhiệm vụ của các đội quân Hoa Kỳ. -Chỉ mới hai tuần lễ trước, chúng tôi đã ngạc nhiên về việc hai tiểu đoàn Hoa Kỳ đổ bộ và đã biết rất rõ đại sứ Taylor không hề hưởng ứng vấn đề đổ quân, thế mà giờ đây chính ông lại đưa ra những chính sách hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm khi trước.

      Đại sứ Taylor là người già giặn kinh nghiệm ngoại giao, nhưng dĩ nhiên ông vẫn không cho chúng tôi biết những mâu thuẫn đã đưa đến giải pháp dung hòa của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ. Hơn nữa, chính chúng tôi cũng chẳng biết đây là giải pháp dung hòa. Tất nhiên đại sứ Taylor khó thể tiết lộ rằng: "Thật ra, chúng tôi cũng bối rối như các ông về việc lo liệu cho tình hình được khả quan hơn. Chúng tôi cũng chẳng biết nên làm gì và cũng đang bàn cãi sôi nổi. Đây có lẽ là giải pháp hoàn hảo nhất của chúng tôi tuy rằng riêng tôi vẫn không ủng hộ giải pháp này." Vì vừa mù tịt về những quá trình dẫn đến kế hoạch của Hoa Kỳ, lại vừa chẳng biết gì về những dự định, toan tính thực tiễn của giải pháp cuối cùng nên chúng tôi khó thể lượng định đúng mức hoặc hợp lý được giá trị của những kế hoạch do Hoa Kỳ đưa ra.

      Tuy vậy, chúng tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang hành động theo một kế hoạch khéo léo kiện toàn nào đó mà họ không muốn thố lộ. Chúng tôi đã chẳng biết rõ chi tiết việc Hoa Kỳ lượng định tình hình ra sao mà cũng chẳng rõ những nhóm cố vấn đã xét đoán tầm mức cần thiết của chúng tôi là thế nào mặc dù hơn ai hết chúng tôi biết rất rõ những nhu cầu của chính mình. Điều chúng tôi cần nhất là ổn định tình hình chính trị nội bộ để có thể có cơ hội đóng góp vào những cố gắng chiến tranh. Đây là điều kiện tiên quyết căn bản dẫn đến việc giải quyết những vấn đề khác như kinh tế, chính trị, xã hội và quân sự trong việc xây dựng tương lai lâu dài của đất nước. Chúng tôi phải tìm cách vượt qua những vấn đề đang đe dọa bao trùm lấy tất cả chúng tôi, chẳng hạn như những lủng củng, hỗn loạn nội bộ, do ông Ngô Đình Diệm và các tướng tá đã gây ra. Dĩ nhiên chúng tôi rất cần những giúp đỡ quân sự. Nhưng vào tháng 3 và tháng 4 năm 1965, câu hỏi liệu Hoa Kỳ nên thực thi những chánh sách giúp đỡ ra sao chính là câu hỏi mà chúng tôi vẫn chưa thể tự mình trả lời. Cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều không đồng ý việc phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam nhưng vấn đề phải làm thế nào để có thể xử dụng đúng cách những nỗ lực giúp đỡ của một đồng minh khổng lồ là quả là vấn đề mà cho đến lúc này chúng tôi mới bắt đầu suy nghĩ. Vào giữa lúc đang suy xét vấn đề thì chúng tôi đã phải đương đầu với những quyết định chuyển quân ào ạt của Hoa kỳ.

      Lúc đó chúng tôi không tài nào hiểu được trọn vẹn mục đích thực thụ của những yêu cầu do Hoa Kỳ đưa ra. Mặc dầu tin tưởng vô biên vào khả năng của đồng minh Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn muốn biết họ đang suy nghĩ thế nào, nhất là trong việc tìm hiểu cho rõ ràng, mạch lạc những lời yêu cầu đổ quân ăn khớp ra sao với những kế hoạch lớn lao của toàn cuộc. Bác sĩ Quát cũng đã khổ tâm không kém gì đại sứ Taylor vì việc phải cùng lúc đối phó với cả những rối ren của việc đổ quân lẫn những khó khăn xuất phát từ việc Hoa Kỳ thiếu thành thật. Trong cơn bối rối, ông đã nhờ tôi tìm hiểu dự định của Hoa Kỳ.

      Lúc này tuy Việt Nam đã có đại sứ ở Hoa Kỳ, đại sứ lại là tướng Trần Thiện Khiêm, người đã giúp tướng Khánh đảo chánh và cũng chính là người đã đưa ông Khánh sang Hoa Kỳ sau khi chánh quyền tướng Khánh bị lật đổ. Tướng Khiêm nguyên là một nhân vật có nhiều thủ đoạn nhưng lúc đó ông vừa mới tới Hoa Kỳ và lại là một quân nhân nên sự hiểu biết của ông về chính trị Hoa Kỳ thật là giới hạn. Bởi thế, tôi bị buộc phải tìm hiểu từ những nguồn tin phía trong Sài Gòn. Tôi liên lạc với tất cả. Từ các nhân viên Ngoại Giao như đại sứ Taylor, phó đại sứ Alexis Johnson, những bạn bè đang phục vụ trong các chương trình Hoa Kỳ cho đến những nguồn tin từ phía báo chí, nhất là những phóng viên am hiểu tình hình của cả hai phía Mỹ Việt chẳng hạn như phóng viên Jerry Rose của báo The Saturday Evening Post. Tuy vậy tôi vẫn thấy mình chẳng khác nào một con ếch ngồi đáy giếng trong chuyện ngụ ngôn, chỉ nhìn thấy một phần phiến diện, nhỏ bé của thế giới bên ngoài và đến ngay cả những phần này cũng bị méo mó, thiên lệch.

      Dù sao đi nữa thì ngay khi tôi còn đang dự định mở cuộc thăm dò rộng rãi thì tòa đại sứ Hoa Kỳ ngỏ ý muốn chánh phủ Việt Nam trả lời về lời yêu cầu đổ bộ thêm quân. Hậu quả là vào ngày 6 tháng 4 năm 1965, vì chẳng còn làm cách nào khác hơn được, bác sĩ Quát đã bị buộc phải đồng ý thỏa thuận việc để Hoa Kỳ đổ quân thêm và mở rộng tầm hoạt động của các đội quân đã trấn đóng. Khi chánh phủ hai bên đã đồng ý thỏa thuận thì quyết định tối quan trọng được thông qua: Quân đội Hoa Kỳ sẽ đóng một vai trò độc lập trong cuộc chiến Việt Nam. Đây chính là quyết định mà ông William Bundy gọi là "một bước ngoặt" của toàn cuộc. Trong nội bộ Hoa Kỳ thì yếu tố chính dẫn đến quyết định này là do cả thất vọng lẫn bối rối. Thất vọng vì không biết phải làm gì và bối rối vì chẳng thể để mặc tình hình bấp bênh như hiện tại. Lúc này Hoa Kỳ đang phải đương đầu với những đòi hỏi phải có hành động thiết thực và giới lãnh đạo quân sự -Các tướng William Westmoreland, Harold Johnson và các tư lệnh tham mưu- đã cho rằng vấn đề phải can thiệp quân sự là việc dĩ nhiên. Ngược lại, các lãnh đạo dân sự lại cho rằng để quân đội Hoa Kỳ can thiệp không phải là một giải pháp đúng để giải quyết vấn đề. Tuy thế các nhà lãnh đạo dân sự lại chẳng biết làm gì hơn là tự nhủ thầm phải canh chừng hết sức thận trọng để khi cần thì đánh đổi những nguyên tắc căn bản ban đầu mà chọn lấy những giải pháp dung hòa. Trong khi đó thì chánh phủ Việt Nam lại là một chánh phủ mới vừa nắm quyền, chưa thể củng cố được nội bộ và chẳng thể làm gì khác hơn là nhắm mắt đi theo. Chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ thiếu thốn cả từ quyết tâm cho đến khả năng để có thể chịu đựng được áp lực của Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề cần phải có sự hiểu biết song phương có lẽ là chuyện không cần thiết, trong khi đối với chúng tôi là những đồng minh nhỏ bé thì việc đòi hỏi phải có sự thông cảm và hiểu biết song phương lại là việc hoàn toàn nằm ngoài tầm với.

      Những tiến trình của các kế hoạch do Hoa Kỳ đặt ra cứ nối tiếp theo nhau trong một khung cảnh gần như áp đặt, Hết "Oanh Tạc Không Lực," rồi "Tấn Công Để Phòng Thủ," và rồi cuối cùng "Trực Tiếp Can Thiệp Bằng Quân Sự." Chỉ khoảng chín tháng sau, các đội quân Thủy Quân Lục Chiến ban đầu đã chuyển thành một quân đội với tổng số 200,000 quân bao gồm cả các binh lính Hoa Kỳ lẫn những binh lính từ những đồng minh khác. Tất cả đều đến Việt Nam vì những lý do tương tự như những lý do vừa kể. Mục đích chính của quyết định do tổng thống Lyndon Johnson đưa ra vào ngày 1 tháng 4 là tiếp trợ quân nhu, khí cụ, gia tăng quân số và phạm vi hoạt động của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến để yểm trợ Việt Nam. Nếu đây quả là một giải pháp dung hòa thì cách giải quyết này cũng vẫn không phải là một giải pháp vĩnh cửu. Vào ngày 11 tháng 4, vì không bằng lòng với lời yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu, tướng Westmoreland đã điện thoại cho Thủy Sư Đô Đốc Ulysses Grant Sharp, Jr., tổng tư lệnh của hạm đội Thái Bình Dương, nói rằng ông vẫn cần thêm ít ra là một lực lượng vào cỡ sư đoàn không lực 173 của quân đội Hoa Kỳ lúc đó. Sau những cuộc bàn bạc giữa những nhân vật lãnh đạo quân sự cao cấp, vào ngày 14 tháng 4, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh cho sư đoàn không lực 173 đóng quân ở Việt Nam.

      Khi trở lại Sài Gòn sau những cuộc tranh cãi quyết liệt ở Hoa Thịnh Đốn, đại sứ Taylor cho rằng tổng thống Johnson đã đồng ý giảm thiểu và giới hạn những can thiệp quân sự. Tuy thế, khi nhìn thấy rõ rằng trong thực tế vấn đề lại khác hẳn, đại sứ Taylor cảm thấy vô cùng khó chịu. Trong một bức điện gửi đến Ngoại Trưởng Dean Rusk tuy với lời lẽ nhẹ nhàng, đại sứ Taylor vẫn không dấu hết được cảm giác bực tức. Ông điện rằng: "Gần đây, những hành động liên quan đến việc đổ quân đã khiến tôi có ấn tượng về thái độ nóng nảy của một vài cơ quan về vấn đề cần phải đổ quân vào Việt Nam. Đây quả là một thái độ thật là khó hiểu... Hành động của các cơ quan này hoàn toàn tương phản với những chính sách Hoa Thịnh Đốn đã đề ra [vào ngày 1 tháng 4]."

      Hôm sau, đại sứ Taylor nhận được điện tín trả lời của Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng John McNaughton. Lời lẽ của bức điện chẳng hề làm ông suy giảm phẫn nộ: "Giới lãnh đạo tối cao tin rằng tình hình Miền Nam Việt Nam đang tan rã. Để hỗ trợ cho những cuộc tấn công Miền Bắc, chúng ta phải có một hoạt động nào đó giúp Việt Nam đạt được thắng lợi. Ngoài những đề nghị khác bản điện tín còn có kèm theo cả những lời đề nghị yêu cầu đại sứ Taylor thỏa thuận việc chuyển quân nhanh chóng của sư đoàn không lực 173. Sau này phó Đại Sứ Alexis Johnson đã viết thêm rằng: "Chúng tôi hoàn toàn tối tăm mặt mũi vì những hồ sơ đề nghị. Cuộc đổ quân ồ ạt, gần như thể một con đê đã vỡ toang hoác khiến những người 'chậm chạp' như chúng tôi chẳng thể sửa chữa hoặc ngăn chận kịp thời."

      Vào ngày 17 tháng 4, để đối phó với những biến chuyển không hoàn toàn như ý, đại sứ Taylor đã gửi một bức thư dài cho cả hai ông Dean Rusk ở Bộ Ngoại Giao và ông McGeorge Bundy ở tòa Bạch Ốc. Trong bức điện tín, ông tường trình những biến chuyển nhanh chóng và phức tạp của tình trạng lúc này. Một trong những vấn đề ông Taylor đã đề cập đến là việc bác sĩ Quát có thể phản đối việc đóng quân. Ông đã viết rằng: "Việc minh xác tầm mức cần thiết trong vấn đề đổ quân thật vô cùng quan trọng. Trước khi đặt vấn đề của chúng ta ra với chánh phủ Việt Nam, tôi phải biết rõ ràng vấn đề là gì và lý do ra sao. Việc thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho phép một lực lượng với quân số lớn lao đến đóng ngay trong lãnh thổ Việt Nam nhất định sẽ phải gặp nhiều khó khăn trừ khi lý do cần thiết đã trở nên rõ ràng và minh bạch."

      Những khác biệt trong quan niệm của đại sứ Taylor và bộ tham mưu đã đưa đến một cuộc họp căng thẳng vào ngày 19 tháng 4 ở Honolulu. Cuộc họp do Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara chủ tọa và bao gồm nhiều nhân vật lãnh đạo như đại sứ Taylor, ông William Bundy và ông McNaughton. Sau hai ngày bàn cãi "quyết liệt", đại sứ Taylor đã bị thuyết phục ngả theo ý kiến chung về việc đề nghị gia tăng quân số (tới 82,000) và về sự thỏa thuận đề nghị một số quân khoảng 7250 binh sĩ từ "một đệ tam quốc gia." Theo ông Alexis Johnson thì đây là một sự "đồng ý miễn cưỡng." Lại thêm một lần nữa đại sứ Taylor đã nhượng bộ những ý kiến riêng của ông để đổi lại một giải pháp dung hòa. Theo như sự thỏa thuận thì những lực lượng Hoa Kỳ không được phép tự do tấn công và chỉ có thể hoạt động trong những vùng ven biển quanh căn cứ. Lúc này theo ông Bundy thì những quân nhân Hoa Kỳ tin rằng việc giới hạn tầm hoạt động của các đội quân sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng ông Bundy cũng nói thêm: "Những giới hạn bắt buộc quân đội phải tự khống chế các hoạt động có thể sẽ khiến những viên chức quân sự phục vụ trong quân đội [Hoa Kỳ] mang một quan niệm bi quan hơn (và thực tiễn hơn) về những gì có thể xảy ra." Đối với những người Việt Nam thì tháng 4 là tháng của những yêu cầu liên tiếp từ phía Hoa Kỳ. Theo như nghị định do Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đưa ra, bác sĩ Quát đã chấp thuận việc đóng quân của những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 20,000 quân tiếp trợ. Một tuần lễ sau đó, dư luận lại đồn đãi về việc đòi hỏi các đồng minh khác phải thêm quân tiếp trợ. Trong khi đại sứ Taylor nỗ lực giới hạn những kế hoạch lớn lao đang lũ lượt gởi đến từ Hoa Thịnh Đốn thì tâm trạng bác sĩ Quát ngày càng lo âu. Cho tới lúc này, tuy vẫn vô cùng ngần ngại, ông vẫn bị buộc phải ngả theo tình thế. Theo tôi thấy thì bác sĩ Quát cũng đã biết rõ ràng sự can thiệp của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến là một sự can thiệp chỉ có tính cách tạm thời. Tuy chỉ có rất ít binh sĩ Hoa Kỳ hiện diện ở Việt Nam vào lúc này, việc đòi hỏi gia tăng thêm quân lực hiển nhiên là việc sắp đến. Nhưng ngoài cách thỏa thuận ra chúng tôi còn có thể phản ứng bằng cách nào khác hơn chăng? Trước tiên thì câu trả lời dường như phụ thuộc vào việc lượng định tình hình quân sự của các giới chức quân sự Việt Nam. Nếu vòng đai phòng vệ của Việt Nam đang tan vỡ vì những cuộc tấn công của cộng sản Bắc Việt thì hẳn nhiên chúng tôi không còn đường chọn lựa. Mặt khác, nếu các giới chức quân sự nghĩ rằng tình thế vẫn còn khả quan hơn vậy thì chúng tôi sẽ có cơ hội chống trả lại áp lực của Hoa Kỳ một cách hữu hiệu hơn.

      Khi đại sứ Taylor từ Honolulu trở về Việt Nam thì tôi đã bắt đầu tham khảo ý kiến của các tướng lãnh Việt Nam. Vào ngày 24 tháng 4, đại sứ Taylor tường thuật cho bác sĩ Quát những ý kiến chung rút ra từ những cuộc tranh cãi ở Hawaii. Lúc này bác sĩ Quát đã hiểu rõ sự nghiêm trọng của những biến chuyển sắp tới. Thật sự thì từ nhiều tuần trước đây, ông đã dành rất nhiều thời giờ để suy nghĩ. Khi đại sứ Taylor đến gặp ông Quát để nâng số quân Hoa Kỳ ở Việt Nam lên đến 82,000, bác sĩ Quát đã trả lời rằng ông cần thời giờ để đo lường những ảnh hưởng chính trị và quân sự nếu Hoa Kỳ gia tăng quân số ở Việt Nam. Ngay sau khi đại sứ Taylor vừa đi khỏi, ông Quát chạy ngay đến văn phòng tôi. Lúc gặp tôi, dường như ông không còn dấu được vẻ hốt hoảng. Ông hỏi ngay như thể cố trút cả nỗi lo âu vào câu hỏi: "Có chuyện gì ngoài chiến trường mà chúng ta không biết rồi sao?" Vào lúc này, bác sĩ Quát không còn tìm được bất cứ lý do nào khác để giải thích lời yêu cầu đổ quân của Hoa Kỳ với quân số to lớn như vậy vào Việt Nam.

      Những suy nghĩ của tôi cũng chẳng lấy gì làm khác bác sĩ Quát. Mặc dù vừa mới hội họp với các sĩ quan trước đấy mấy hôm, hiển nhiên chúng tôi lại phải tham khảo với họ chi tiết hơn thêm một lần nữa trước khi có thể quyết định bất cứ chuyện gì.

      Cuối tuần đó, tôi và bác sĩ Quát liền bắt đầu ngay những buổi họp liên tục với tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Việt Nam. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của riêng từng người về việc lượng định tình hình quân sự về cả các giai đoạn ngắn hạn cũng như dài hạn. Ngoài ra chúng tôi còn trình bày thêm những nghi ngờ của riêng chúng tôi cũng như tham khảo ý kiến của các tướng lãnh về vấn đề này. Vì chánh quyền Việt Nam lúc này vẫn chưa có cơ quan nào có thể ví như Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để xem xét những vấn đề quan trọng nên những những cuộc thảo luận của chúng tôi không mang tính cách chánh thức. Nhưng dù sao đi nữa thì những quan niệm của chúng tôi vẫn phản ảnh trung thực ý kiến chung của các chính trị gia và các tư lệnh Việt Nam lúc này. Tuy chẳng có gì đáng gọi là thủ tục chánh thức về những cuộc tham khảo, cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều đã biết rằng dù có nhìn tình hình bằng một nhãn quan chánh trị hoặc quân sự đi chăng nữa thì việc gạt bỏ những quan niệm của các tướng lãnh vẫn không phải là việc dễ dàng. Hơn nữa, chính bản thân chúng tôi cũng có những sự ngần ngại riêng đối với vấn đề để cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam. Với tư cách là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, tôi thường phải đối phó với những vụ khiếu nại và kiện tụng mỗi khi có những vụ rắc rối hoặc tai nạn xe cộ liên quan đến quân đội Hoa Kỳ. Vì thế, tôi đã biết rất rõ những khó khăn đi đôi với vấn đề gia tăng quân đội Hoa Kỳ. Tầm hiểu biết của tôi bao gồm từ những vụ tai nạn đơn giản như những tai nạn do xe nhà binh cán người cho đến những vụ vi phạm luật lệ xảy ra hàng ngày. Hơn nữa, từ khi Pháp còn chiếm đóng, tôi đã từng phải đối phó với những khó khăn cũng liên quan đến những vấn đề tương tự như vấn đề phàn nàn Mỹ-Việt lúc này. Trước đây, trong những cuộc đàm phán ở Élysée với Pháp vào đầu thập niên 1950, trách nhiệm của tôi lúc đó là tìm cách giải quyết những vấn đề khó khăn khi phải thiết lập một lực lượng Việt Nam để Pháp có thể giao trả dần độc lập. Những cuộc thảo luận lúc đó cũng là những phàn nàn Pháp-Việt gần giống như vấn đề của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam lúc này. Mặt khác, bác sĩ Quát vốn vừa là Bộ Trưởng Quốc Phòng, vừa là thượng cấp của tôi lúc trước nên cũng nhạy cảm không kém gì tôi. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi thì có lẽ cả hai chúng tôi đều quá nhạy cảm, có thể việc chúng tôi ráo riết tham khảo ý kiến chẳng qua cũng chỉ là do những kích động của sự nhạy cảm mà thôi.

      Việc tìm hiểu những câu trả lời của các giới chức quân sự là việc mà chúng tôi có thể đoán trước được phần nào. Theo tình hình lúc này thì những giới chức quân sự nhận định rằng: Tuy những trận chiến lớn sắp sửa mở màn, Việt Nam không hề ở vào bất kỳ tình cảnh ngặt nghèo nào đáng kể. Nhưng những nhận định của họ về tình hình lâu dài của chiến cuộc lại hoàn toàn khác hẳn. Lúc này đã có những đơn vị của ít nhất là hai sư đoàn (sư đoàn 324 và 304) chính qui Bắc Việt đang tấn công ráo riết vào Miền Nam và mức độ xâm nhập đang ngày càng tăng. Hơn nữa, vì thiếu thốn nhân lực và thời gian để huấn luyện các binh sĩ, việc tăng cường quân đội để chống lại những lực lượng mới của Việt Cộng là một việc vô cùng khó khăn. Sau khi thẩm định tình hình các tướng lãnh đã kết luận rằng: Bất kể sự hiện diện của những đội quân Hoa Kỳ có tạo ra khó khăn gì đi nữa thì việc gia tăng quân đội Hoa Kỳ vẫn là một lợi điểm lớn lao đối với Việt Nam.

      Lạ lùng thay, phản ứng của các chính trị gia cũng không khác các tư lệnh quân sự là mấy. Một vài người quá khích đã lấy làm thích thú về viễn ảnh của một cuộc chiến tranh chống cộng quốc tế. Vài người khác lại dễ dãi bỏ qua tất cả những vấn đề thuộc mặt trái của cuộc đổ quân.

      Khi lượng định những vấn đề khó khăn bác sĩ Quát đã cho rằng những sĩ quan cao cấp đều chịu ảnh hưởng của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Và vì vậy nên nếu ý kiến của họ có trùng hợp với ý kiến chung của các viên chức quân sự Hoa Kỳ thì cũng là một việc dễ hiểu. Chẳng khác gì những đồng nghiệp Hoa Kỳ, các tướng lãnh Việt Nam cũng chỉ quan sát mọi việc qua ống kính quân sự hạn hẹp. Sự huấn luyện và kinh nghiệm quân sự nghề nghiệp đã làm giảm khả năng suy nghĩ của họ về những vấn đề khác, chẳng hạn như ảnh hưởng xã hội hoặc tâm lý của việc gia tăng quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam. Nhưng nếu lấy tiêu chuẩn an ninh quốc gia làm chuẩn để suy xét thì việc bác bỏ quan niệm của họ là một việc vô cùng khó khăn. Và nếu lấy những suy xét chính trị làm chuẩn thì việc bác bỏ những suy xét của họ lại còn là việc viễn vông hơn nữa.

      Khi phải đương đầu với quyết định cuối cùng, bác sĩ Quát hoàn toàn đơn độc. Vì là thủ tướng của một quốc gia đang giữa lúc chiến tranh, ông đã phải xử dụng uy quyền từ một chỗ đứng mong manh và đầy đe dọa. Đã có lúc bác sĩ Quát nói với tôi rằng ở vào những giây phút hiểm họa, ông chỉ còn biết trông chờ vào "lương tâm cùng những linh tính chánh trị của riêng bản thân ông." Có thể ông đã bác bỏ những đề nghị của Hoa Kỳ trên phương diện lý thuyết, nhưng những thực tế chính trường đã khiến ông chẳng thể thoát khỏi những áp lực khủng khiếp của Hoa Kỳ. -Đây là một điều mà những giới chức quân sự phục vụ dưới quyền ông cũng cùng đồng quan điểm.

      Ở những giai đoạn cuối, bác sĩ Quát đã thực sự hành động theo linh tính. Ông vẫn ôm ấp hy vọng rằng rồi đây tình hình sẽ khả quan hơn và lúc đó ông sẽ có khả năng để thay đổi. Lúc đó, ông sẽ có một khả năng khác hẳn trường hợp yếu thế lúc này. Vì suy nghĩ như thế nên vào ngày 28 tháng 4, bác sĩ Quát thông báo với đại sứ Taylor rằng Việt Nam đã thỏa thuận lời yêu cầu mới của Hoa Kỳ. Những cánh cửa ngăn chận giờ đây đã được mở rộng. Công bằng mà luận thì ngay cả cho đến lúc những gia tăng quân sự đã khởi đầu, Tổng Thống Lyndon Johnson và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn muốn đàm phán với Bắc Việt. Nhưng đối với chánh quyền Việt Nam thì vấn đề bàn bạc những giải pháp hòa bình cũng mờ mịt chẳng kém gì những ý định của Hoa Kỳ về phương diện quân sự. Nếu nhìn từ một cương vị nhất định nào đó thì quyết định không tham khảo ý kiến Việt Nam của Hoa Kỳ chẳng qua cũng dễ hiểu. Những quá khứ hỗn loạn và những tương lai mờ mịt của Việt Nam đã khiến chánh phủ Sài Gòn chẳng thể đóng trọn vai trò của một đồng minh mà Hoa Kỳ có thể tham khảo ý kiến về phương diện ngoại giao. Tuy rằng những chánh sách của Hoa Kỳ có liên hệ chặt chẽ đến vấn đề sinh tử của Việt Nam mà vì hoàn toàn mù tịt về mọi vấn đề, nên chánh quyền Việt Nam vẫn không đóng góp được gì nhiều vào việc soạn thảo những giải pháp chính trị cũng như quân sự.

      Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn thông báo về những tiến triển của các giải pháp hòa bình đang diễn ra công khai ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn như tin tức về những bài diễn văn của tổng thống Johnson ở đại học John Hopkins vào ngày 7 tháng 4, hoặc những tin tức về quyết định ngưng dội bom vào ngày 10 tháng 5. Ngay cả vào những lúc sớm hơn, như vào khoảng tháng ba, ông Alexis Johnson cũng đã thông báo cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ về những dự định trong việc kêu gọi một cuộc hội nghị khác ở Geneva do Anh Quốc và Liên Xô đứng ra làm chủ tọa. Nhưng chúng tôi chỉ biết rất ít về những việc bí mật quan trọng, chẳng hạn như những vụ thăm dò Bắc Việt, những điều mà Hoa Kỳ đã ngầm đưa ra với đại sứ J. Blair Seaborn của Gia Nã Đại, nguyên là nhân viên của phái đoàn kiểm soát quốc tế, hoặc những tiếp xúc của Hoa Kỳ với đại sứ Trung Hoa ở Warsaw, và Mai Văn Bộ, đại diện của Bắc Việt ở Ba Lê. Chúng tôi biết rằng Hoa Kỳ vẫn còn cố gắng tìm tòi, dọ dẫm qua nhiều sự móc nối khác nhau, nhưng chúng tôi chỉ có thể cho rằng những móc nối bí mật chẳng qua chỉ là một trong những giải pháp vận động thông thường mà thôi. Tuy chúng tôi chẳng nghi ngờ gì Hoa Kỳ nhưng vấn đề thiếu hiểu biết dường như lúc nào cũng dẫn đến sự nghi kỵ.

      Trong những diễn biến vừa kể, mặc cho Hoa Kỳ hết sức dùng cả những biện pháp công khai lẫn các biện pháp bí mật, Hà Nội vẫn lạnh lùng ngoảnh mặt. Rốt cuộc, vì chẳng thể ảnh hưởng gì được Hà Nội nên dư luận lại trở về các đề tài chính trị hoặc quân sự của chánh phủ Sài Gòn. Vào mùa thu 1965, khi Hoa Kỳ đã quyết định Mỹ Hóa Chiến Tranh Việt Nam thì họ trực tiếp vào cuộc bằng cách áp đặt chính sách can thiệp dưới một khung cảnh đột xuất và cao ngạo. Cách can thiệp khác thường của họ đã khởi nguồn một câu chuyện lịch sử thật dài và vô cùng quan trọng. Họ vào cuộc với những mục tiêu rõ rệt: Giúp đỡ đồng minh và cố gắng nuôi dưỡng, phát triển một nền dân chủ độc lập ở Việt Nam. Giúp Việt Nam ổn định và củng cố để chống lại cộng sản. Nhưng một khi những chánh sách mang mục đích cao đẹp của họ thất bại thì hậu quả đã di lại những tổn thương trầm trọng và vĩnh cửu. Tôi không có ý kết án rằng Hoa Kỳ phải một mình chịu nhận tất cả mọi trách nhiệm và hậu quả. Đúng ra thì những người lãnh đạo Việt Nam phải chịu phần lớn trách nhiệm. Ngoài những nhân vật lãnh đạo ra, trách nhiệm thất bại có thể được qui một phần về những phần tử quốc gia đã chia rẽ quá mức trong thời gian chiến tranh. Hậu quả của sự chia rẽ đã khiến các đoàn thể quốc gia suy nhược đến độ họ chẳng còn có thể tiếp tục tự vệ khi họ bị buộc phải tự mình đối phó với cuộc chiến.

      Nhưng qua suốt 11 năm Hoa Kỳ can thiệp, nếu đứng trên phương diện ngoại giao mà luận thì những chính sách của Hoa Kỳ quả đã gây ra rất nhiều hậu quả đáng tiếc. Đầu tiên, trong thời gian vào khoảng đầu thập niên 1950, thì người Hoa Kỳ nhất định nhắm mắt không can thiệp. Họ đã an nhiên mục kích số phận thăng trầm của cả hai giới độc tài dân cũng như quân sự của Việt Nam. Khi ông Diệm nắm quyền thì tòa đại sứ Hoa Kỳ đã đưa ra những chiêu bài "hợp pháp", "chưa hợp thời" và cố tình để mặc những phần tử quốc gia tự mình xoay sở trong khung cảnh bất lực. Rồi vào năm 1963, khi các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm thì Hoa Kỳ gần như vẫn nhắm mắt làm ngơ và tuy đã chấp thuận với đề nghị đảo chánh của các tướng lãnh, nhưng nếu cần, Hoa Kỳ vẫn vui lòng chối bỏ sự can thiệp. Trong suốt cả một thập niên dường như họ đã cố tình bưng mắt đứng ngoài, hoặc chỉ can thiệp nhẹ nhàng cho có lệ. Cuối cùng, vào năm 1965, ngay giữa khi Việt Nam đang gặp những khủng hoảng chính trị và đang ở vào lúc xáo trộn thì họ lại quyết định rằng đó là lúc họ cần can thiệp trực tiếp. Họ ào ạt đổ quân. Họ ra sức thiết lập các căn cứ và tự đưa ra những chiến dịch oanh tạc. Họ hành động một cách bất chợt và đơn phương, không thèm đếm xỉa gì đến việc tham khảo ý kiến của chánh phủ Việt Nam. Những hành động quyết đoán và chủ quan của họ đã khiến họ tự dồn mình vào một phương vị bế tắc. Rồi họ tự đi đến kết luận: Phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam. Và khi chính sách của họ thất bại thì họ lại tháo lui thật phũ phàng. Họ tự tìm lấy những giải pháp hòa bình dễ dàng cho họ và bỏ mặc đồng minh -bất kể đồng minh của họ là quốc gia nào- phải tiếp tục ở lại chịu trận.

      Vốn đã tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố tự tròng lấy trách nhiệm vào người, tôi cũng lại tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố cởi bỏ những trách nhiệm họ đã tự tròng vào khi trước. Có lẽ ngoại trừ phương pháp can thiệp khác thường này, Hoa Kỳ chẳng thể còn bất cứ cách thức can thiệp nào khác có thể hủy hoại đồng minh khốc liệt hơn!




      Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
      Phan Lê Dũng
      #18
        sóng trăng 02.12.2006 07:10:28 (permalink)
        .
         
        Chương 18
        Bác Sĩ Quát và Các Tướng Lãnh



        Vào mùa xuân 1965 tuy những biến chuyển chính trị đã chuyển chiến cuộc Việt Nam nguyên là một cuộc nội chiến, thành một mâu thuẫn có tính cách quốc tế, đây vẫn không phải là biến cố độc nhất chiếm lĩnh tất cả những chú ý của bác sĩ Quát. Khi bác sĩ Quát bắt đầu nhậm chức thì ảnh hưởng của các tướng lãnh và các hội đồng quân sự hãy còn rất mạnh do đó ông đã chủ trương rằng phải nỗ lực cầm cự vào lúc ban đầu. Ông đã cố ổn định tình hình quân sự, cố đương đầu với những vấn đề chia rẽ đảng phái ở Sài Gòn, cố bắt đầu những cuộc ứng cử địa phương và soạn thảo hiến pháp. Tuy bác sĩ Quát đã cố chuyển những nỗ lực đầu tiên về những điều cơ bản trên, tình hình phức tạp và hỗn loạn của chánh phủ dân-quân sự lúc đó đã rối ren đến mức mọi chuyện gần như xảy ra cùng một lúc. Tầm mức lớn lao của diễn biến đã vượt khỏi cả phạm vi chiến cuộc lẫn phạm vi của những hoạt động mà Hoa Kỳ đã tính toán lúc đó.

        Những biến chuyển lúc này dập dồn chẳng khác nào như tất cả mọi chuyện đều xảy ra cùng một lúc. Bác sĩ Quát nhậm chức đã được bốn tháng mà tôi vẫn có cảm tưởng như ông vừa mới nhậm chức chỉ có vài ngày trước. Có lẽ ông Henry Kissinger đã diễn tả đúng hệt tâm trạng chúng tôi khi nói rằng chính trị gia là những người luôn luôn bị buộc phải lựa chọn vào những lúc họ không những chỉ mù tịt về tương lai mà còn mù tịt cả về tình trạng hiện tại nữa." Vào thời gian này, gần như tôi chưa bao giờ có dịp để nhận định cho rõ được những phương hướng tổng quát để làm việc cho hữu hiệu. Gần như tôi chẳng bao giờ có đủ thời giờ, dù chỉ là những khoảng thời giờ thật ngắn cho phép tôi suy nghĩ thấu đáo về căn nguyên của những vấn đề khó khăn.

        Tuy tình cảnh rối ren, bận rộn và khó nhọc là thế mà bác sĩ Quát vẫn quyết tâm giữ vững những chủ định ban đầu. Ông Quát nhận định rằng vấn đề khó khăn chính của chính phủ trong thời gian này là vấn đề của các tướng lãnh trẻ. Nếu ông có thể thuyết phục các tướng trẻ chú tâm vào tình hình chiến cuộc thay vì chính trị thì ông cho rằng đã tiến được nửa bước. Và nếu ông có thể hô hào khiến họ làm hậu thuẫn thì đây quả là một bước vẹn toàn. Tuy thế, vấn đề đối phó với các tướng trẻ chẳng phải là nỗi lo âu duy nhất của bác sĩ Quát. Ngoài vấn đề này ra ông còn phải tìm cách xoa dịu những lực lượng chánh trị đang hăm he gạt phắt chính phủ của ông ra ngoài.

        Khi đương đầu với các tướng lãnh, bác sĩ Quát đã có rất nhiều lợi điểm. Lợi điểm đầu tiên của bác sĩ Quát là uy tín của chính ông. Vì đã từng là Bộ Trưởng Quốc Phòng, ông đã giữ được mối giao hảo với nhiều sĩ quan chủ chốt và rất quen thuộc với những vấn đề quân sự khó khăn. Những kinh nghiệm đặc biệt về quân sự của bác sĩ Quát đã khiến các tướng lãnh coi ông khác hẳn các thành viên dân sự khác. Họ xem ông là một người đáng tin cậy và họ sẵn lòng cộng tác. Lợi điểm thứ hai của bác sĩ Quát là kể từ tháng 2 năm 1965, đại sứ Taylor và ông Alexis Johnson đã nói thẳng với các tướng lãnh rằng các tướng lãnh chẳng thể vừa phục vụ quân đội, vừa hoạt động chính trị được. Họ chỉ có thể chọn một trong hai, nếu họ muốn làm chính khách thì cũng chẳng có gì khó khăn, chỉ cần họ cởi bỏ quân phục và gia nhập hàng ngũ của những chính khách là xong. Lợi điểm thứ ba và có lẽ cũng là lợi điểm quan trọng nhất của bác sĩ Quát là việc các tướng lãnh vẫn chống đối lẫn nhau. Bất kỳ họ suy nghĩ về một chánh phủ dân sự ra sao, các tướng lãnh cũng nhất định không để những nhóm quân sự khác nắm được thực quyền. Vì muốn tránh vấn đề phải để một nhóm quân sự khác nắm quyền, họ đã đồng ý để bác sĩ Quát đứng ra điều hành mọi chuyện.

        Với ba lợi điểm vừa kể, vào đầu tháng 5 bác sĩ Quát cùng tôi đã hội họp với những sĩ quan cao cấp để thuyết phục họ giải tán Hội Đồng Quân Lực. Hội Đồng Quân Lực nguyên là một tổ chức mà những quân nhân đã dùng làm khí cụ nhằm gây áp lực từ khi tướng Nguyễn Khánh nắm quyền. Tuy giải tán Hội Đồng chưa hẳn đã là chấm dứt hoàn toàn những ảnh hưởng của quân sự vào chính trị nhưng việc này cũng có thể xem là một bước trong tiến trình đó.

        Khi đương đầu với những khó khăn trong các đoàn thể dân sự thì bác sĩ Quát ít thành công hơn. Có thể vì ông đã giải tán được Hội Đồng Quân Lực và thành công phần nào khi giải quyết những khó khăn quân sự nên bác sĩ Quát đã trở nên lạc quan và do đó thiếu thận trọng. Tuy chẳng ai chỉ trích bác sĩ Quát khi ông đặt trọng tâm vào vấn đề quân sự, nhưng lúc đó có vài người cho rằng bác sĩ Quát có ý xem thường các đoàn thể dân sự đối lập có ảnh hưởng đáng kể. Họ cho rằng bác sĩ Quát cần phải để ý ông Phan Khắc Sửu nhiều hơn. Trước đây, ông Sửu chính là vị quốc trưởng già đã từ chối không chịu ký sắc lệnh chấm dứt nhiệm vụ một vài vị tướng và vì vậy đã góp phần thúc dục, đẩy mạnh cuộc bắt cóc các thành viên của Thượng Hội Đồng hồi tháng 11, 1964.

        Vào tháng 5, ông Sửu già nua vẫn là quốc trưởng và vẫn khó tính giống hệt trước đây. Khoảng cuối tháng 5, ông Sửu lại bắt đầu khởi sự một cuộc khủng hoảng chánh phủ thứ hai. Lúc này nạn thiếu gạo đang bắt đầu hoành hành. Nạn khan hiếm gạo phát sinh là do Việt Cộng đã làm gián đoạn đường liên lạc giữa Sài Gòn và các tỉnh. Giá gạo tại thủ đô bỗng nhiên nhảy vọt và nhiều ngày sau, chánh phủ đã bị buộc phải can thiệp. Tuy thế, trong suốt một tuần và rồi hai tuần mà chánh phủ vẫn không đưa ra được giải pháp nào thiết thực. Vào lúc này những người có trách nhiệm trực tiếp là Tổng Trưởng Nội Vụ và Tổng Trưởng Kinh Tế vẫn chẳng hề quan tâm đến bổn phận của mình. Vào tuần lễ thứ ba, tình trạng thiếu khả năng của họ đã khiến bác sĩ Quát vô cùng phẫn nộ khi ông lại phải bắt tay vào việc. Bác sĩ Quát hành động dứt khoát bằng cách thay thế một lúc hai Bộ Trưởng. Đây là một sự chọn lựa có tính cách quyết định ảnh hưởng đến sự sống còn của chính phủ của ông.

        Nhưng không may, trong những tháng trước đây, ông Quát lại chưa có dịp nào để xoa dịu các chính khách đối lập khác. Những chính khách đối lập với ông Quát đa số là những chính khách của các phe nhóm địa phương, một trong những người đối lập nguy hiểm nhất là những chính khách Miền Nam. Thường thì những chính khách người Nam vẫn cảm thấy rất khó chịu khi phải để những chính khách người Bắc nắm quyền và lúc nào họ cũng cố tìm cách đảo ngược tình hình. Việc bác sĩ Quát yêu cầu hai bộ trưởng từ chức đã đem lại cho họ một dịp may hiếm có và con người khó tính của ông Sửu đã khiến họ có được một khí cụ tuyệt vời. Theo nguyên tắc thì sắc lệnh chỉ có hiệu lực sau khi đã được ông Sửu ký. Nhưng lúc này, vì ông đang được những đoàn thể "Người Nam" cùng những đoàn thể công giáo ngấm ngầm khuyến khích nên ông Sửu lại không chịu ký. Chẳng bao lâu sau hành động của ông Sửu đã khiến chánh phủ ông Quát sa vào một cuộc khủng hoảng chính trị không có đường giải quyết.

        Khi chánh quyền bị rơi vào tình thế tiến thối lưỡng nan, bác sĩ Quát đã cố xoay sở để giải quyết vấn đề, nhưng vì không có hiến pháp nên ông chẳng thể vận động cách nào khác hơn. Còn ông Sửu thì lại một mực khăng khăng nhất định không chịu ký. Trước đây ông đã chẳng để Nguyễn Khánh lay chuyển, lúc này ông Sửu cũng nhất định chẳng để ai lay chuyển. Đã thế, sau lưng ông Sửu, những chính khách Miền Nam còn mượn dịp để triệt hạ bác sĩ Quát bằng mọi giá. Ông Quát đã phải tìm đến Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ là một người Nam để nhờ giảng hòa. Tuy cụ Đỗ đã cố gắng thuyết phục nhưng vì cụ đã từng sống tại Miền Bắc khá lâu nên lại bị coi như người thân Bắc và những lời cụ đưa ra hoàn toàn bị bỏ ngoài tai.

        Có lẽ khi cuộc khủng hoảng tiếp diễn và tình hình chuyển thành tấn thối lưỡng nan thì việc các tướng lãnh tự bước vào giải quyết vấn đề là việc khó thể tránh khỏi. Thật ra thì trong khi cố gắng xoay sở tháo gỡ tình hình, bác sĩ Quát cũng có nói chuyện với vài tướng tá nhưng ông vẫn không thuyết phục được họ ủng hộ. Các tướng tá đã lập luận rất rõ ràng: "Đấy, các ông xem, chúng tôi đã rời bỏ chính trường rồi. Vậy mà một khi chúng tôi đi khỏi thì các ông lại không thể điều hành được mọi chuyện." Có thể bác sĩ Quát cũng có khả năng thuyết phục một vài tướng tá và vận động họ cùng về phe với ông nhưng sau lưng các tướng tá trẻ lại còn các tướng tá khác trẻ hơn. Họ là những cấp tá đầy tham vọng và những tư lệnh trẻ chưa hoàn toàn hài lòng với những chân trời nhỏ hẹp của mình. Đối với họ thì đây quả là lúc thời cơ hành động đã chín mùi. Những tướng tá trẻ hẳn nhiên là một đoàn thể mà các tướng lãnh khác khó thể bỏ qua.

        Vào ngày 11 tháng 6, trong một buổi họp kéo dài tại Phủ Thủ Tướng, tình trạng tấn thối lưỡng nan chấm dứt. Độ khoảng 40, 50 các tướng lãnh, ông Sửu, bác sĩ Quát và các phụ tá đều hiện diện tại cuộc họp. Tất cả chen chúc trong một căn phòng nhỏ hẹp ở Phủ Thủ Tướng. Tuy bác sĩ Quát vẫn cố toan tính thay đổi hai vị Bộ Trưởng vào lúc cuối, các tướng tá đã đòi hỏi chánh phủ phải giải quyết tình trạng khó xử ngay tại phòng họp. Họ tuyên bố sẽ không khoanh tay nhìn chính phủ bế tắc. Biết rằng việc gì phải đến đã đến, giữa những lời phát biểu ý kiến sôi động, bác sĩ Quát tuyên bố sẽ từ chức và giải tán chánh phủ. Quyết định từ chức của bác sĩ Quát đã buộc ông Sửu cũng phải từ chức theo. Chính trường lúc này đã được dọn sạch để cho các tướng lãnh và các quân nhân bắt đầu nhập cuộc. Chẳng bao lâu họ đã thiết lập hai ủy ban quân sự: Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và quốc trưởng và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương do tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch và Thủ Tướng. Đây quả là một màn kết thúc cay đắng cho cuộc thí nghiệm chính phủ dân sự ở Miền Nam Việt Nam. Ngay sau khi chánh phủ sụp đổ, ông Alexis Johnson đã than rằng ông thật "vô cùng thất vọng!" Vào lúc này Hoa Kỳ đã đặt rất nhiều hy vọng vào bác sĩ Quát. Họ bắt đầu tin rằng ông Quát là người có khả năng ổn định những khó khăn chính trị tại Việt Nam. Khi ông Quát thất bại, Hoa Kỳ đã thất vọng sâu xa. Nỗi thất vọng của họ dường như bao gồm thêm cả cảm giác khó chịu khi họ thấy mình hoàn toàn bất lực. Họ giống như những người phải đứng ngoài nhìn tận mắt những việc ngang tai trái ý mà chẳng thể làm gì khác hơn. Lúc này họ lại phải đương đầu với một tầng lớp lãnh đạo quân nhân mới. Trước đây, khi tiếp xúc với các tướng trẻ, đại sứ Taylor đã gặp nhiều khó khăn. Chính ông Taylor cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc phải đương đầu với các tướng tá trẻ khi họ đứng vào cương vị lãnh đạo quốc gia. Trong hồi ký ông đã ghi lại một cách khô khan rằng: "[Hoa Kỳ] chẳng có lý do gì đáng để chào mừng việc [ông Kỳ] nhậm chức thủ tướng cả."

        Nhưng cho dù là tương lai đang chờ đón những nhóm người mới nhậm chức có là gì đi nữa thì lúc đó tôi cũng đã sắp sửa kiệt sức. Tôi đã trải qua suốt bốn tháng khủng hoảng và căng thẳng liên tục. Tuy lúc này, cả thể xác lẫn tâm thần đều kiệt quệ, tôi vẫn cảm thấy an ủi là đã trút được gánh nặng. Đã đến lúc tôi cần một thời gian nghỉ ngơi dài hạn và xa rời mọi chuyện.

        Nhân dịp niên học của các con tôi sắp hết, tôi quyết định cùng toàn thể gia đình ra nghỉ tại bãi biển Nha Trang. Lúc nhìn những bờ cát Nha Trang trắng mịn, tôi thầm nghĩ có lẽ đây cũng là một dịp tốt để nghỉ ngơi cùng gia đình và tạm thời quên đi cả chiến tranh lẫn chính trị.

        Khung cảnh Nha Trang lúc này thật tuyệt vời hơn tất cả. Buổi sáng chúng tôi thư thả băng qua con vịnh dẫn đến một hòn đảo ngoài khơi, nơi cư ngụ của những dân chài. Khi đến nơi, chúng tôi lang thang dọc theo bờ biển, thả bộ dưới những hàng dừa đong đưa, nhìn những người thợ chài đi lưới vào lúc rạng đông khi mặt trời nhẹ tỏa ra những tia sáng linh động, lấp loáng trên mặt biển. Lúc này tôi sống hoàn toàn tự do, chẳng khác nào một kẻ đang thung dung an hưởng những vẻ đẹp tao nhã của đất trời. Niềm phấn khởi dào dạt dâng cao đến mức tôi quên hết mọi sự và chỉ nghĩ đến việc tổ chức lại Ban Điều Hành của tờ Saigon Post. Tôi đã có ý tổ chức lại tờ báo từ hồi tháng 2, trước cả khi bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi vào làm việc với chánh phủ của ông.

        Lúc này có lẽ tôi chẳng bao gìờ có thể ngờ là mình sẽ lại được mời cộng tác với chính quyền mới. Tuy thế chỉ một, hai ngày sau khi đang cùng gia đình nghỉ mát tại Nha Trang, tôi lại nhận được lời yêu cầu của chính quyền mới. Đây là lời yêu cầu của thủ tướng mới là tướng Nguyễn Cao Kỳ, yêu cầu tôi lập tức trở về thủ đô. Vì đã quá gần gũi bác sĩ Quát -gần gũi đến mức nhiều người đã cho rằng tôi với ông chẳng khác gì hình với bóng- nên việc ông Kỳ đứng ra mời tôi cùng về làm việc là chuyện tôi chẳng thể nào tin được. Thật sự thì tôi vô cùng ngờ vực. Trong quá khứ tôi đã từng gặp ông Kỳ và cũng có thảo luận đôi lần về các vấn đề quân sự nhưng mối liên hệ giữa tôi và ông Kỳ thật chẳng khác gì mối liên hệ giữa tôi và đồng nghiệp của ông là ông Nguyễn Văn Thiệu; một mối liên hệ tuy thân mật và đứng đắn nhưng vẫn chẳng thể gọi là gần gũi. Hơn nữa, theo những biến cố vừa xảy ra thì sự hiện diện của tôi đối với chánh phủ lúc này có thể coi như một bất lợi chính trị rõ rệt. Thứ nhất, tôi không phải là người trong nhóm quân nhân. Thứ hai, tôi đã phục vụ trong một chính quyền dân sự vừa mới sụp đổ. Theo lẽ, thì tôi nên được "cho phép" chìm vào quên lãng trong cuộc sống của một cá nhân với đời sống an bình.

        Vì vậy, khi trở về Sài Gòn tôi đã sững sờ khi nghe ông Kỳ ngỏ lời mời tôi cộng tác. Ông đề nghị tôi làm Phụ Tá Đặc Biệt đặc trách các vấn đề kế hoạch có liên quan đến ngoại viện. Ông Kỳ đã "nói chuyện" với bác sĩ Quát và theo lời ông thì chắc chắn bác sĩ Quát cũng sẽ liên lạc với tôi về việc này. Ông Kỳ bàn luận về tình hình chính trị đang căng thẳng và nhấn mạnh vấn đề cần tiếp tục giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ. Đây vốn là việc mà tôi vẫn làm trước đây. Ông Kỳ cho biết ông muốn tôi tiếp tục nhiệm vụ giữ vững mối giao hảo với Hoa Kỳ. Ông cũng chẳng đoái hoài hỏi xem tôi có nhận lời hay không.

        Tôi dùng khoảng thời gian còn lại trong ngày để liên lạc với bạn bè trong chính giới và bàn bạc với bác sĩ Quát. Đúng như ông Kỳ đã nói trước. Bác sĩ Quát khuyên tôi nhận lời. Cũng như ông Kỳ, bác sĩ Quát nêu ra những vấn đề cần thiết trong việc giữ vững liên lạc với Hoa Kỳ "vững chừng nào tốt chừng đó." Ông cho rằng việc các tướng lãnh tỏ ra chú tâm vào vấn đề này là một điều khả quan. Theo ý kiến riêng ông thì: "Mọi việc sẽ khả quan hơn nếu chúng tôi có thể theo dõi hành động của các tướng lãnh." Lời phát biểu của bác sĩ Quát cho thấy ông vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ tất cả sự nghiệp chính trị. Tuy bác sĩ Quát chưa hề phát biểu rõ ràng, tôi cũng đã mơ hồ cảm thấy ông vẫn muốn giữ vững mối dây liên lạc với quân đội. Đây chính là một trong những lý do khiến ông muốn tôi nhận lời. Tôi biết rằng trong thâm tâm các biến cố đã làm ông cay đắng. Có lẽ ông vẫn không thật sự muốn tôi hợp tác với chính phủ mới. Dầu sao đi nữa thì ông cũng đã quyết định tự rút lui cho các ông Thiệu, Kỳ; ông cũng đã từ chức và giữ được mối giao hảo tốt đẹp với cả hai. Nếu ông còn có bất kỳ tia hy vọng nào về vấn đề trở lại chính trường thì tia hy vọng đó cũng phụ thuộc một phần vào mối dây liên hệ giữa ông và hai ông Thiệu, Kỳ. Vào lúc này, kinh nghiệm cho thấy rằng chính phủ mới có thể sẽ không đứng vững được lâu. Và ai có thể đoán trước được những việc xảy ra về sau? Bác sĩ Quát nói thêm: "Hơn nữa, sau khi gia nhập chính phủ, nếu anh cảm thấy không thể phục vụ được thì vài tháng sau lúc nào cần anh cũng có thể từ chức với lý do sức khỏe."

        Tuy cho rằng mình hiểu bác sĩ Quát, tôi cũng đã tự suy xét kỹ lưỡng. Trước hết, tôi vô cùng ngần ngại về việc phải đứng ra hợp tác cùng với các tướng lãnh không hề có chút quan niệm cơ bản thế nào là chính phủ. Thứ hai, tôi biết rằng dù bác sĩ Quát có nói gì đi nữa thì sự kiện người cộng tác gần với ông nhất trong chánh phủ cũ, nay lại làm việc cùng chánh quyền mới vẫn là một việc khó thể chấp nhận. Sự việc này sẽ khiến dư luận hành lang Sài Gòn bàn bạc phê bình suốt một đời và tôi sẽ phải chịu đựng rất nhiều điều tiếng vì những lời nói ra, nói vào của các giới chính trị tại Sài Gòn. Mặt khác, tôi vừa mới lấy lại được phần nào sức lực khi được nghỉ mấy ngày vừa qua ở Nha Trang. Tham gia chánh phủ mới là một ý kiến vô cùng hấp dẫn. Tôi mới 42 tuổi, còn quá trẻ để tự nguyện rút lui vào bóng tối của quên lãng. Sau khi trằn trọc thâu đêm về việc lựa chọn, sáng hôm sau tôi đến văn phòng ông Kỳ chấp nhận lời mời hợp tác. Những tuần đầu làm việc với ông Kỳ thật là khó chịu. Tuy ông và tất cả những người trong nhóm của ông đều cố đối xử thân thiện với tôi, nhưng việc tôi là một "người ngoài," là một "kẻ xâm nhập" vào vòng thân hữu của họ là việc đã rõ rành rành. Giữa bầu không khí khó chịu này, tôi cố chú tâm vào những trách nhiệm nằm trong lãnh vực riêng của công việc, cố soạn thảo những vấn đề có tính cách cấp thiết trong lãnh vực ngoại giao. Tôi chỉ gặp ông Kỳ khi có lời yêu cầu.

        Nhưng tình trạng này không kéo dài được lâu. Tôi được mời hợp tác chính là vì kinh nghiệm nghề nghiệp trong việc giao dịch với Hoa Kỳ. Vì quen thuộc nên những nhân viên Hoa Kỳ vẫn muốn tìm hiểu mọi việc qua tôi trong lúc tình hình đang lộn xộn. Do đó, những vấn đề tòa đại sứ Hoa Kỳ trình bày với tôi toàn là những vấn đề hệ trọng cần được thủ tướng lưu tâm. Mặt khác, ông Kỳ cũng cảm thấy thuận tiện khi dùng tôi làm mối dây liên lạc để dò dẫm, tìm hiểu phản ứng của Hoa Kỳ đối với những chính sách do ông đề ra. Ở giữa tình thế lúc này, vị tân thủ tướng vốn dĩ chẳng hề quen thuộc với cả những cách điều hành chánh phủ lẫn những phương pháp ngoại giao bắt đầu tham khảo ý kiến tôi. Khi vấn đề hợp tác đã khiến chúng tôi gần gũi nhau hơn thì vào những lúc tôi phải thuyết trình, ông Kỳ thường mời tôi cùng ăn trưa tại Phủ Thủ Tướng.

        Thật trái hẳn với sự dự liệu của tôi, ông Kỳ hiểu vấn đề rất nhanh và cũng rất chịu khó lắng nghe. Mặc dù ông chưa có kiến thức chính trị sâu sắc và vẫn chưa hẳn là một chính khách chững chạc, ông Kỳ rất có duyên và có tính chân thật tự nhiên bẩm sinh dễ gây thiện cảm. Tuy ông Kỳ có một cái tật là hay phát biểu ẩu tả và tuy lối sống đặc biệt của ông hoàn toàn đi ngược với quan niệm riêng của tôi về tư cách của một nhà chính trị cầm đầu chính phủ, tôi vẫn cảm thấy ông Kỳ, dù có tật bộp chộp và thiếu thận trọng, nhưng nói chung thì vẫn là người có tâm địa tốt và thật thà.

        Tôi đã tường trình với ông Kỳ về những biến cố của việc Hoa Kỳ đổ quân trong những tháng về trước. Tôi cũng đã trình bày những quan niệm của bác sĩ Quát về việc đổ quân của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Một mặt ông Kỳ tỏ vẻ nhận biết những nghi ngờ của bác sĩ Quát. Mặt khác, ông lại bị áp lực nặng nề vì những loạt tấn công của các đơn vị Bắc Việt to lớn vào tháng 7 năm 1965 và những tổn thất do các vụ nổ bom gây ra, chẳng hạn như vụ nổ bom ở nhà hàng Mỹ Cảnh trên bến Sài Gòn. Ông Kỳ lập luận rằng việc quan trọng nhất là việc ổn định tình hình quân sự và một khi muốn chu tất việc này thì chúng tôi phải cần những lực lượng bộ binh của Hoa Kỳ.

        Chúng tôi không hề biết rằng ngay trước cả khi thay đổi chánh phủ, tướng Westmoreland đã yêu cầu tiếp viện thêm một số quân vượt xa con số mà cả hai chánh phủ đã thỏa thuận vào tháng 4. Vẫn như thường lệ, chúng tôi hoàn toàn mù tịt về những cuộc tranh luận ở Hoa Thịnh Đốn lúc này. Cuộc bàn cãi chia làm ba phe gồm những người ủng hộ việc leo thang quân sự như Bộ Trưởng McNamara, những người muốn tiếp tục chánh sách trung dung và Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball. Tuy đơn độc một mình, Thứ Trưởng George Ball là một nhân vật có ảnh hưởng rất mạnh. Ông đã khởi xướng những cuộc thảo luận về vấn đề cần phải giảm dần những can thiệp quân sự và từ từ rút ra khỏi Việt Nam. Từ trước tới nay, cả chánh quyền của ông Thiệu, ông Kỳ lẫn chánh quyền của bác sĩ Quát đều cho rằng Hoa Kỳ biết rất rõ những chính sách của họ và đang hoạch định kế hoạch để chu toàn mục đích. Dĩ nhiên đây là một quan niệm hoàn toàn sai lầm. Quan niệm này đã trở thành yếu tố nổi bật trong mối bang giao giữa hai quốc gia và dần dà chuyễn thành một yếu tố chủ chốt dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại đối với chiến cuộc.

        Trong khi đó, quân đội Hoa Kỳ đã thực sự thay đổi tất cả bộ mặt cuộc chiến Việt Nam. Trong những ngày cuối tháng 7, chúng tôi biết rằng sư đoàn không lực 173 của Hoa Kỳ đã tấn công vào những căn cứ của Việt Cộng ở chiến khu Đ, một vùng rừng núi rậm rạp phía Tây Bắc, Sài Gòn. Đây là cuộc tấn công đầu tiên của các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ. Ngoài ra còn một vấn đề khác quan trọng không kém là cuộc tấn công đã được những phi đoàn B-52 cất cánh từ Guam oanh tạc trước dọn đường. Những quyết định quan trọng về việc Hoa Kỳ đổ quân trong nhiều tháng trước giờ đây đang được thi hành. Nếu nhìn từ một phương vị nào đó thì những hoạt động tấn công có vẻ thiếu phần hứng khởi. Những đội quân Hoa Kỳ rất ít khi có dịp đụng độ với đối phương. Hơn nữa, vì chiến khu Đ chỉ là nơi dân cư thưa thớt nên chẳng ai để ý đến những cuộc oanh tạc chiến lược khổng lồ. Tuy vậy, một khi đã biết về những hoạt động của Hoa Kỳ thì tất cả Miền Nam đều cảm thấy vững tâm. Chiến dịch oanh tạc cho thấy đồng minh Hoa Kỳ đã chánh thức tham dự chiến cuộc và chúng tôi có thể tin tưởng vào họ. Sự vững tâm đã làm trôi tất cả mọi e dè về việc cho phép người Ngoại Quốc đổ quân vào Việt Nam. Chiến dịch oanh tạc đã phá tan những viễn tượng đe dọa thất bại quân sự do các cuộc tấn công lớn rộng và ráo riết của Bắc Việt trước đây.

        Mặt khác, các vấn đề khó khăn đi đôi với việc đổ quân Hoa Kỳ bắt đầu xuất hiện. Những đồ tiếp tế và vật dụng lũ lượt đổ vào Việt Nam làm ứ nghẽn các hệ thống phân phối trong nước. Cảng Sài Gòn đầy dẫy những tàu đợi chờ rỡ hàng trong khi các thuyền trưởng xôn xao tranh cãi về quyền ưu tiên. Những công trình xây cất vĩ đại dường như mọc ra khắp nơi đi liền với những khó khăn không thể nào tránh được chẳng hạn như vấn đề khó khăn luật pháp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam khi cùng hợp tác.

        Trong hạ tuần tháng 7, trong khung cảnh những hoạt động nhộn nhịp để sửa soạn cho chiến tranh thì có tin rằng Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara sẽ ghé Sài Gòn vào ngày 16. Để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng, ông Kỳ nhờ tôi soạn thảo một bản ghi chú bao gồm những câu hỏi cần thiết để ông có thể đưa ra khi gặp Bộ Trưởng McNamara. Đây là một công việc tôi chú hết tâm sức để làm ngay. Theo tôi thì Bộ Trưởng McNamara là một trong những ngôi sao sáng của chánh phủ Hoa Kỳ. Ông có lẽ là cố vấn quan trọng nhất của tổng thống Johnson. Khi suy nghĩ đến bộ trưởng McNamara và những ấn tượng sắp đến của ông về chúng tôi, tôi cảm thấy hơi căng thẳng. Chuyến thăm viếng của bộ trưởng McNamara là một dịp quan trọng để ông Kỳ có thể xem xét toàn thể chánh sách chiến lược của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam. Đương nhiên chúng tôi biết rõ rằng lúc này đang có gần 80,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng tại Việt Nam và ít nhất thì Hoa Kỳ cũng đang dò dẫm thử nghiệm các chiến thuật tấn công. Nhưng thực sự mục đích quân sự của họ là gì? Họ muốn chiếm được những gì và họ có thể hài lòng khi đoạt được những kết quả nào? Họ toan tính chiến lược ra sao? Rút tỉa từ những kinh nghiệm từ tháng 3 và tháng 4 -Từ cuộc đổ quân gia tăng tiếp liền sau đó- Tôi đã soạn thảo một bản ghi chú cho ông Kỳ vào ngày 14, bao gồm những câu hỏi về chính sách như sau: * Mục đích chung của Hoa Kỳ về cuộc chiến là gì: Thắng lợi quân sự? Đốc thúc đàm phán? * Nếu là đốc thúc đàm phán thì cương vị và mục đích của cuộc đàm phán là gì? * Nếu mục đích là thắng lợi quân sự thì thắng lợi này được định nghĩa ra sao? Chánh thức bắt Việt Cộng đầu hàng? Chánh thức bắt Miền Bắc phải đầu hàng? Tấn công chiếm Miền Bắc? Hay chỉ ngăn chận những cuộc xâm lăng của Việt Cộng và Miền Bắc? * Mục đích của Hoa Kỳ về vấn đề chỉ huy quân sự hỗn hợp hoặc chỉ huy quân đội hợp nhất là gì? * Hoa Kỳ sẽ đổ bao nhiêu quân vào Việt Nam? Thời hạn chiếm đóng là bao lâu?

        Những câu hỏi trên và những câu hỏi khác liên quan đến vấn đề liên hệ tới những dự định của Hoa Kỳ, nhất là những dự định có ảnh hưởng đến những biến chuyển kinh tế và chính trị Việt Nam ra sao được soạn thảo nhằm mục đích tạo dịp cho ông Kỳ có thể duyệt xét một cách tổng quát tình hình chung với vị Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Nếu nhìn bằng quan điểm lịch sử thì có lẽ điểm ly kỳ nhất là chính những câu hỏi mà tôi soạn thảo cho ông Kỳ đã tự diễn tả rõ rệt chiều hướng chính của những nỗ lực quân sự liên hiệp. Vào mùa hạ năm 1965, Việt Nam hoàn toàn mù tịt về những chiều hướng này. Tôi đề nghị ông Kỳ nên thúc dục mạnh mẽ để tìm những câu trả lời mà tôi cho là tối cần thiết trong việc hoạch định đường hướng cho những hoạt động của chúng tôi lúc bấy giờ.

        Trong chuyến viếng thăm, Bộ Trưởng McNamara đã sang Sài Gòn cùng ông Henry Cabot Lodge, vị đại sứ mới đến để thay thế đại sứ Taylor. Chúng tôi đã biết ông Lodge từ khi ông bắt đầu cầm quyền tại Sài Gòn vào năm 1963-1964. Bộ Trưởng McNamara cũng đã từng đến Việt Nam năm 1964 khi tổng thống Johnson yêu cầu ông cùng vận động với tướng Khánh. Tuy vậy, vào lúc này uy danh của Bộ Trưởng McNamara đã lừng lẫy đến độ gần như khuất lấp cả con người ông. Ông nổi tiếng là người thông minh xuất chúng với một bộ óc gần như bộ óc của máy điện toán và được xem là nhân vật có ảnh hưởng nhất trong chánh quyền Hoa Kỳ. Vì vậy, lúc đến văn phòng ông Kỳ để bàn bạc, tôi đã ra công chuẩn bị, tiên liệu rất nhiều.

        Khi cuộc họp với phái đoàn Hoa Kỳ bắt đầu, chúng tôi ngồi thành hai phía đối diện: Bên Hoa Kỳ là Bộ Trưởng McNamara, Phó đại sứ Alexis Johnson, ông Lodge và các viên chức phụ tá khác. Phía Việt Nam là ông Kỳ, ông Thiệu, tôi và những tư lệnh quân sự. Tôi được xếp ngồi ở một vị trí thuận lợi để có thể đưa những bản ghi chú cho ông Kỳ khi cuộc họp tiếp diễn.

        Tuy vừa mới trải qua một cuộc hành trình dài mà tổng trưởng McNamara dường như vẫn vô cùng sáng suốt. Mới mở màn ông đã chuyển trọng tâm cuộc họp cuộc họp về những điều chính do ông soạn thảo. Những lập luận của tổng trưởng McNamara vừa thân thiện lại vừa rất chính xác. Khi cuộc họp bắt đầu kéo dài, ông luôn luôn ghi chép vào những tờ giấy ghi chú vàng nho nhỏ. Ông đã đưa ra hàng loạt câu hỏi về những con số, tổ chức, chánh trị, quân nhu, quân cụ... như thể ông đang cố thâu thập dữ kiện và yếu tố cho một phương trình toán học khổng lồ. Hiển nhiên vì đắm chìm trong những suy nghĩ riêng tư, bộ trưởng McNamara chẳng hề để ý gì đến những người xung quanh. Theo tôi thấy thì dường như ông không hề cảm thấy cần phải lượng định nhân vật đang ngồi đối diện thẳng với ông là ông Nguyễn Cao Kỳ. Tôi tự hỏi phải chăng ông Kỳ đối với ông cũng chẳng có gì khác lạ?

        Khi cuộc họp kết thúc, tuy đã có đề cập đại cương đến các kế hoạch phòng vệ, xây dựng nông thôn, tuy đã có khẳng định phần nào rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ, tổng trưởng McNamara vẫn không đả động gì đến những câu hỏi tôi đã ra công soạn thảo. Có lẽ ông Kỳ còn quá nhút nhát và thiếu kinh nghiệm về cách đưa ra câu hỏi. Theo như diễn biến thì có lẽ bộ trưởng McNamara và phái đoàn của ông chỉ có ý muốn thâu thập dữ kiện hơn là trình bày rõ hơn về những chánh sách và kế hoạch của họ. Sau buổi họp, tôi đã đề nghị rằng ông Kỳ nên gặp riêng Bộ Trưởng McNamara để khung cảnh nói chuyện được thuận lợi hơn. Tuy ông Kỳ có ngồi lại với Bộ Trưởng McNamara, những câu hỏi trong bản ghi chú của tôi vẫn chẳng có giải đáp nào rõ rệt cả. Khi Bộ Trưởng McNamara rời Việt Nam, chúng tôi gần như chẳng biết gì hơn thêm trước khi ông đến.

        Tuy vậy, sau này chúng tôi được biết thêm rằng ngay khi ông còn ở Việt Nam, Bộ Trưởng McNamara đã nhận được một bức điện tín do phụ tá của ông là ông Cyrus Vance từ Hoa Thịnh Đốn gửi sang, báo rằng Tổng Thống Johnson đã đồng ý thỏa thuận lời yêu cầu của tướng Westmoreland về vấn đề nâng quân số lên đến 125,000. Vào ngày 28 tháng 7, trong một cuộc họp báo tại tòa Bạch Ốc, Tổng Thống Hoa Kỳ thông báo quyết định gia tăng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam. Và đây cũng là một hình thức thông báo chánh thức đối với chúng tôi.




        Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
         Phan Lê Dũng
        #19
          sóng trăng 02.12.2006 07:19:48 (permalink)
          .
           
          Chương 19
          Con Đường Dẫn Đến Hiến Pháp


          Ngày 28 tháng 7, tổng thống Johnson mở cuộc họp báo. Đúng hai ngày sau thì Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu đổ quân với số quân 193,300. Con số yêu cầu vượt quá con số tổng thống đã đồng ý hồi tháng 4 gần 70,000. Chẳng bao lâu sau, lời yêu cầu này lại được chấp thuận. Thế là đà đổ quân ào ạt như thác tích tụ từ tháng 2 không còn chuyển hướng được nữa. Kể từ lúc này, tại Hoa Thịnh Đốn, cuộc xung đột dữ dội giữa phe chủ trương ôn hòa và phe chủ trương trực tiếp can thiệp đã bắt đầu ngã ngũ. Trong cuộc xung đột ý kiến đó, những người ủng hộ chính sách "hòa hoãn, trung dung" và "từng bước thận trọng" ở Hoa Thịnh Đốn đã hoàn toàn rớt vào thế hạ phong.

          Khi nhìn lại vấn đề lúc đó thì quả thật những quyết định đổ quân của Hoa Kỳ cũng không lấy gì làm khó hiểu. Vào tháng 6, Hoa Kỳ đã bắt đầu thất vọng. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Việt Nam và vào rồi khi những khó khăn chính trị vừa mới được giải quyết thì những khó khăn khác lại bùng ra. Chánh phủ mới của những "Tướng Trẻ" lại xuất hiện. Đây là một chánh phủ của những người không có gì bảo đảm cả. Sau này, ông Bill Bundy đã nhận xét rằng: "Tình thế thật là đen tối và ảm đạm. Nếu vấn đề [Việt Nam] lúc này đơn thuần chỉ là vấn đề bảo vệ một đồng minh mà thôi, thì tôi cam đoan Hoa Kỳ sẽ rút lui vì cho rằng họ 'đã chịu đựng hết sức rồi.'" Tuy thế những cân nhắc về vấn đề chiến lược đã loại bỏ cách lựa chọn này. Về sau Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng McNaughton có cho tôi biết rằng khi Hoa Kỳ quyết định can thiệp vào Việt Nam thì 90% của quyết định đó được đặt căn bản trên vấn đề chiến lược. Nếu quả thật 90% của quyết định can thiệp được đặt trên vấn đề chiến lược của Hoa Kỳ thì rõ ràng là chiến cuộc Việt Nam đã chuyển thành một vấn đề của riêng Hoa Kỳ.

          Vào tháng 7, chánh phủ Sài Gòn đã đóng một vai trò gần như thụ động trong những biến động đổ quân lớn lao. Hoa Kỳ mang quân ồ ạt vào Việt Nam như thể vào chỗ không người. (Vào lúc sau này ông Dean Rusk nói với tôi: "Hễ chúng tôi muốn làm điều gì, chắc chắn chúng tôi sẽ làm được điều đó!"), và Việt Nam đã để Hoa Kỳ mặc nhiên dìu dắt không một lời phản kháng. Đến sau tháng 7 năm 1965 thì những cuộc đổ quân của Hoa Kỳ đã ồ ạt và nhanh chóng đến mức chẳng ai còn đủ thời giờ để đặt vấn đề hoặc suy nghĩ sâu xa gì thêm.

          Cuộc biểu dương lực lượng của một cường quốc lớn nhất thế giới quả là một khung cảnh đặc biệt gây nhiều ấn tượng cho người mục kích. Cảnh tượng đổ quân đã khiến Việt Nam hoàn toàn vững tâm. Mới vài tuần trước đây thì cuộc tấn công phối hợp của Việt Cộng và quân đội chính qui Bắc Việt vào lúc giao mùa Xuân Hạ vẫn còn đe dọa. Nhưng giờ đây, trước ấn tượng của cuộc đổ quân, những lo âu đó bỗng nhiên tan biến. Một cảm giác tự tin mới mẻ khác thường thình lình bùng ra và rồi đất nước lại chuyển mình để đối phó với những khó khăn khi phải tiếp nhận cuộc đổ quân đó.

          Những trại lính thiết lập bằng lều cho quân nhân Hoa Kỳ mọc ra khắp nơi chẳng khác gì những khu phố nhỏ. Xung quanh những khu trại là những người Việt Nam trong giới kinh doanh và tiểu thương cạnh tranh lẫn nhau lập những dịch vụ thương mãi và lợi dụng hàng ngàn cơ hội do tình hình đưa đến. Công trình xây cất bùng ra khắp nơi. Dường như Hoa Kỳ muốn làm tất cả cùng một lúc. - Nhà kho, trại, đường, cầu, bãi đáp trực thăng, hải cảng, phi trường. Họ muốn thay đổi cả bộ mặt Việt Nam. Các công ty thầu khoán Hoa Kỳ đến Việt Nam giữa lúc quân đội Hoa Kỳ đổ quân đã tuyển mộ một lúc cả hàng ngàn nhân công, thu hút hết tất cả năng lực của giới lao động. Xe cộ lũ lượt như thắt nút trên đường phố, đĩ điếm tràn ngập ở khắp mọi nơi. Phi cơ vận tải và phản lực cơ chiến đấu rầm rĩ đáp xuống phi trường với một nhịp độ đinh tai nhức óc.

          Mâu thuẫn thay, nếu tất cả những hoạt động náo nhiệt đã làm phấn khởi toàn dân Sài Gòn thì chính những hành động này cũng là những hành động đã chuyển hướng nhìn của họ ra khỏi khung cảnh chiến cuộc. Ngoại trừ những tiếng phản lực tại phi trường Tân Sơn Nhất và những binh lính mang đồng phục xanh ngoài đường phố, không còn dấu hiệu nào khác có thể chứng tỏ rằng Việt Nam đang giữa lúc chiến tranh. Sài Gòn lúc này giống như một thành phố đang tràn ngập các vật dụng trợ cấp và đang mất phần chủ động. Những dự trình xây cất liên tục còn được tăng cường thêm bằng những chuyến hàng hóa ồ ạt, trong số có nhiều thứ mà người dân Sài Gòn chưa hề thấy qua bao giờ. Họ nhìn những kho hàng PX khổng lồ chứa đầy những vật liệu mà họ chưa hiểu cả cách dùng và rồi tự hỏi không hiểu đây là những quân đội thế nào mà lại có thể kéo theo những thứ xa hoa đến vậy? Dĩ nhiên người dân vẫn được nhắc nhở về chiến cuộc. - Bằng những bảng cáo phó đóng khung viền đen đăng tải thường xuyên trên báo chí và bằng những đám tang thỉnh thoảng lại diễn hành quanh co trên những nẻo đường lưu thông của phố thị. Nhưng chẳng hiểu bằng cách nào đó, người ta vẫn có cảm tưởng rằng chẳng có sự liên hệ nào giữa những cuộc đụng độ dữ dội ở nông thôn và những đời sống thịnh vượng tại thủ đô thành thị.

          Trong khung cảnh đó, có lẽ chánh phủ Sài Gòn đã được hưởng lợi lộc nhiều nhất. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều cảm thấy vững tâm ẩn sau tấm khiên chống đỡ của Hoa Kỳ. Khi nhìn thấy tương lai trước mặt, họ cảm thấy phấn khởi và vô cùng tự tin. Đây là lần đầu tiên họ cảm thấy chánh phủ của họ thật là vững chãi. Ông Thiệu và ông Kỳ nguyên là những nhân vật lãnh đaọ đứng trong một chính thể bấp bênh. Trong vòng chỉ mới hai năm chính thể này đã sáu lần thay đổi chính phủ. Thế mà giờ đây họ lại biến thành những người lãnh đạo đã giải tỏa được những khó khăn quân sự và có uy tín đối với quốc tế. Bỗng dưng họ trở nên có uy tín đối với quốc dân, bỗng dưng họ trở thành những người có thể nhìn thấy tương lai Việt Nam qua những cuộc viện trợ binh nhu của Hoa Kỳ.

          Nhờ vào những thời gian rảnh tay hiện tại, khi các lực lượng quân sự của Việt Cộng đang bị đẩy lui, ông Thiệu và ông Kỳ bắt đầu bắt tay vào một chương trình tăng cường và cải tổ các lực lượng quân đội Việt Nam. Những viện trợ về khí cụ và tài chánh đã đưa đến việc thiết lập những trung tâm đào tạo khổng lồ tại Nha Trang và Vũng Tàu. Những trung tâm này đã tuyển mộ hàng ngàn người để huấn luyện. Quân đội Việt Nam bắt đầu tiến tới một quân số gần bằng quân số Bắc Việt.

          Trong khi đó, Hoa Kỳ tự đảm nhận lấy tất cả các trách nhiệm điều hành trận chiến. Họ tuần tự đổ quân và phối trí các lực lượng, tấn công vào các lực lượng chính qui của Cộng Sản và dành cho quân đội Việt Nam nhiệm vụ bình định và xây dựng lại nông thôn. Trong nhiều trận đụng độ lớn, các lực lượng Hoa Kỳ đã cắt tỉa các lực lượng Việt Cộng, buộc đối phương phải chuyển đổi chiến lược và rút lui về quanh biên giới Cam Bốt và những vùng rừng già rậm rạp, hiểm trở. Tướng Westmoreland, tổng tư lệnh chiến trường Hoa Kỳ đã soạn thảo một chiến thuật gồm ba điểm "truy nã, tiểu trừ" rồi "quét sạch, giữ vững" và cuối cùng là "bình định nông thôn," nhằm mục đích dành cho quân đội Sài Gòn cơ hội thiết lập chánh quyền địa phương cho những khu vực an toàn.

          Nếu đứng trên quan điểm chiến thuật mà luận thì gần như mọi hoạt động trong giai đoạn đầu do những vị tư lệnh cao cấp Hoa Kỳ chủ trương có thể được coi là chiến thắng. Họ đụng độ, gây thương vong và buộc địch quân phải rút lui về căn cứ. Tuy nhiên những thành công này vẫn chưa phải toàn diện. Thường thường, những đội quân chính qui của địch quân vẫn tránh né được những cuộc đụng độ và ngay cả khi phải thực sự đụng độ, những đội quân Bắc Việt vẫn có một khả năng lẩn tránh hữu hiệu. Hơn nữa, vì chính sách của Hoa Kỳ không cho phép quân đội Hoa Kỳ hoạt động ngoài ranh giới Việt Nam nên quân đội của tướng Westmoreland bị cấm không được phép truy kích vào những căn cứ của quân đội Bắc Việt tại Lào và Cam Bốt. Đây là những nơi các đội quân Bắc Việt có thể nghỉ ngơi, tụ họp lại và nhận thêm tăng cường từ Miền Bắc.

          Vì vậy, tính cách lưu động và hỏa lực khổng lồ của quân đội Hoa Kỳ chưa bao giờ nắm phần quyết định chủ chốt. Vì quân đội Bắc Việt vẫn có thể vượt khỏi tầm phát hiện, vẫn có thể tản mác vào rừng rậm, vẫn còn có những căn cứ bất khả xâm phạm dọc theo biên giới nên chính họ - chứ không phải là những người Hoa Kỳ - mới là những người có khả năng điều khiển nhịp độ và cường độ của những cuộc chiến tranh. Đối với Cộng Sản thì cả bán đảo Đông Dương đều là chiến trận, trong khi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ chỉ được phép loay hoay trong phạm vi Miền Nam Việt Nam.

          Nhược điểm lớn lao và tự tạo của Hoa Kỳ đã cho phép kẻ thù giữ thế tiên cơ chiến lược. Nhìn lại 20 năm vừa qua, những chiến lược gia Hoa Kỳ hiện thời cho rằng vào năm 1965 quân đội Hoa Kỳ không nên đổ hàng trăm ngàn quân vào Việt Nam để chiếm lấy chiến trường. Thay vào đó, theo ý những người như đại tá Harry Summers, tác giả quyển Chiến Lược Luận (On Strategy), một tác phẩm được xem như một công trình nghiên cứu chiến tranh thì những lực lượng Hoa Kỳ nên giới hạn tầm hoạt động của họ trong phạm vi giúp đỡ Việt Nam trước hết trong việc ổn định quân sự và rồi sau đó trong việc thiết lập một hàng rào hữu hiệu để cắt đứt những cuộc đổ quân và khí cụ từ Miền Bắc vào.

          Những cách làm việc quyết đoán của Hoa Kỳ đã khiến các tư lệnh cao cấp Việt Nam vô cùng hoài nghi. Nhưng trên lãnh vực này, cũng hệt như trên mặt trận chính trị, người Việt Nam hoàn toàn chẳng làm gì cả, hoặc nói đúng hơn thì chẳng thể làm gì cả. Riêng về phía Việt Nam thì tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, là một trong những người độc nhất ủng hộ việc chặt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Vốn là người có kinh nghiệm đã tham gia các hoạt động tại Lào trong chiến tranh Pháp, ông đã hiểu tường tận các lực lượng Cộng Sản có thể lợi dụng những căn cứ địa hữu hiệu đến mức độ nào. Sau cuộc chiến tôi hỏi tướng Viên tại sao những viên chức quân sự Việt Nam không đẩy mạnh quan điểm của họ với Hoa Kỳ? Câu trả lời của ông đã phản ảnh rõ rệt sự suy nghĩ của các tư lệnh Việt Nam lúc đó. Tướng Viên trả lời rằng: "Chúng tôi không đủ sức mạnh để có thể tự mình quét sạch các căn cứ địa và lời nói của chúng tôi dĩ nhiên chẳng hề có chút ảnh hưởng nào vào việc điều động các lực lượng Hoa Kỳ." Đã vậy, chúng tôi còn lệ thuộc nặng nề vào Hoa Kỳ trên mọi phương diện. Ý kiến của chúng tôi đối với Hoa Kỳ gần như không đáng kể."

          Thật ra thì mặc dù cuộc chiến là cuộc chiến của chính chúng tôi và đất nước là đất nước của chính chúng tôi mà khi đất nước lâm vào vòng nguy hiểm thì chúng tôi chỉ được phép đóng một vai trò thụ động nhỏ nhoi đến nỗi tiếng nói của chúng tôi hoàn toàn vô hiệu lực. Dĩ nhiên, một trong những lý do khiến vấn đề này có thể xảy ra là do mặc cảm của chúng tôi với đồng minh. Một lý do khác nữa là do chúng tôi đã tin tưởng vào Hoa Kỳ một cách mù quáng. Lúc nào chúng tôi cũng cho rằng dù chánh sách của Hoa Kỳ có thế nào chăng nữa thì khi nhìn từ phương vị toàn cuộc, những kế hoạch thực thi nhất định cũng sẽ ăn khớp khít khao. Đối với chúng tôi thì Hoa Kỳ nắm giữ những tài nguyên và uy quyền to lớn đến mức họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn. Bất chấp mọi sự, chúng tôi tin rằng họ sẽ thành công.

          Sự thật thì tuy chiến thuật của tướng Westmoreland có bị hoài nghi, nhưng chiến thuật đó vẫn mang lại chút ít thành công. Cứ mỗi khi bị buộc phải đụng trận, địch quân lại bị tổn thất nặng nề và bị buộc phải tháo lui. Diễn biến này cho phép chúng tôi có được những giây phút quý giá để tăng cường các lực lượng và mở rộng ảnh hưởng của chánh phủ Việt Nam vào những vùng ngoài tầm với trước đây. Tầm mức hiệu quả tuy không lớn lao nhưng thật là đều đặn. Và khi tình hình quân sự đã khả quan hơn thì tình hình chính trị cũng chuyển hướng khả quan theo. Đúng vào giữa lúc tình hình khả quan và đã có một vài thành công rõ rệt thì Tổng Thống Johnson quyết định mời các tướng Thiệu, Kỳ đến tham dự một cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu. Đây là cuộc họp đầu tiên giữa những vị lãnh đạo Hoa Kỳ và Việt Nam. Lúc đó các cơ quan ngôn luận và giới báo chí đã tỏ vẻ nghi ngờ thiện chí của chánh phủ Hoa Kỳ. Nhiều cơ quan ngôn luận Hoa Kỳ cho rằng cuộc họp thượng đỉnh chỉ là một ngón đòn của tổng thống Johnson nhằm đánh lạc hướng và khiến dân chúng ít chú tâm đến cuộc hội thảo sắp được truyền hình của Ủy Ban Ngoại Giao ở Thượng viện Hoa Kỳ. Ủy Ban Ngoại Giao nguyên là một ủy ban có tầm ảnh hưởng rất rộng lớn do Thượng Nghị Sĩ phản chiến William Fullbright lãnh đạo. Những thông báo về cuộc họp thượng đỉnh được chánh phủ Johnson đưa ra chỉ vẻn vẹn một tuần trước khi buổi hội thảo bắt đầu đã cho thấy đây là một sự ngẫu nhiên đáng ngờ. Nhưng dù là do động lực nào thúc đẩy đi chăng nữa thì đối với chánh quyền Sài Gòn và nhất là đối với hai ông Thiệu, Kỳ có lẽ thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh chẳng thể đến vào một thời điểm nào khác tốt hơn được.

          Vào tháng 2, năm 1966, ông Nguyễn Văn Thiệu và ông Nguyễn Cao Kỳ chỉ mới nắm quyền có 6 tháng. Trước sáu tháng này vẫn chưa ai biết rõ về họ. Họ nguyên là những lãnh đạo của nhóm Tướng Trẻ và là những người đã đóng góp một phần vào việc đẩy tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chính trường. Rồi sau đó họ lại là người thừa hưởng chính quyền từ chính phủ dân sự của bác sĩ Phan Huy Quát. Mặc dù ông Thiệu và ông Kỳ đã có một số uy tín quân sự, nhưng họ vẫn chưa chứng tỏ được khả năng lãnh đạo chính trị. Vậy mà chỉ mới sau nửa năm nắm chính quyền, họ đã thành công đáng kể, nhất là trong việc củng cố vững mạnh quân đội và thiết lập những chương trình bình định nông thôn. Hơn nữa, vào lúc này tuy các đoàn thể chánh trị và tôn giáo vẫn chưa bỏ hẳn những ý định chống đối nhưng ít ra họ cũng không còn biểu tình ngoài đường phố hoặc tổ chức bạo động để chống chánh phủ. Đối với Việt Nam thì đây quả là một thành công đáng kể. Kết quả là sự nghiệp của ông Thiệu và ông Kỳ bỗng tiến sang một bước ngoặt mới. Họ là những tướng lãnh nhà binh đang trở thành những nhân vật lãnh đạo chính trị chánh thức. Bởi vậy, cuộc họp thượng đỉnh đối với họ thật sự là một biến cố quan trọng đặc biệt. Cuộc họp đã khiến hai ông Thiệu, Kỳ có cơ hội trực tiếp tìm hiểu ý muốn của Hoa Kỳ qua giới lãnh đạo cao nhất. Đây là một cơ hội hiếm hoi từ trước đến nay Việt Nam vẫn chưa bao giờ có được. Cuộc họp thượng đỉnh đã khiến cương vị của hai ông Thiệu, Kỳ trở nên vững vàng. Chính cuộc họp cũng đã góp phần tạo nên hình ảnh của họ như những nhân vật lãnh đạo của đất nước.

          Dĩ nhiên, phản ứng của họ đối với biến chuyển này hoàn toàn khác biệt. Mặc dù từ trước đến nay, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn là hai người thông minh và xuất sắc nhất trong nhóm các tướng trẻ, họ vẫn gần như hai nhân vật không có điểm gì chung. Vào năm 1966 thì ông Thiệu, người Nam, mới có 42 tuổi và ông Kỳ, người Bắc, mới có 35 tuổi. Họ đã không phải là bạn cùng học lại cũng chẳng phải là bạn thân thiết với nhau. Từ nhân cách, tính tình cho đến cách suy luận vấn đề, họ đều hoàn toàn khác biệt. Những người Việt Nam thường kháo nhau rằng: Nếu có thể bỏ hai ông Thiệu, Kỳ vào cái cối mà giã thì có lẽ chất hỗn hợp này sẽ hoàn hảo hơn tính tình riêng của hai người cộng lại rất nhiều.

          Vì bị buộc phải đấu lưng hợp sức, chánh phủ của hai ông Thiệu, Kỳ và các tướng tá đồng nghiệp đã thiếu luật bầu cử mà lại cũng chẳng có hiến pháp. Trong chánh phủ thì ông Kỳ đóng một vai trò nổi bật. Ông là thủ tướng, người đứng đầu Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và là người điều hành công việc hàng ngày trong nước. Tuy vậy, quyền lực thật sự lại thuộc về một nhóm quân sự gọi là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do ông Thiệu làm chủ tịch.

          Vốn là người trầm lặng và từng trải hơn ông Kỳ, ông Thiệu đã phục vụ lâu năm hơn và có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn. Vì đã mục kích nhiều cuộc thay đổi chính phủ, ông Thiệu cảm thấy rõ ràng hơn ông Kỳ những nguy hiểm của một cương vị nổi bật quá sớm khi tình hình chưa được hoàn toàn ổn định. Ngược lại, ông Kỳ lại thiếu thận trọng. Ông không chút e dè khi thu hút tất cả những sự chú tâm về phía mình. Chẳng hạn như việc ông Kỳ đã đi làm bằng trực thăng, mặc dù chỉ sống cách Phủ Thủ Tướng có 3 ki-lô-mét. Mỗi sáng khi ông đến thì cả Phủ Thủ Tướng đều bị chấn động vì tiếng trực thăng. Đến nơi ông Kỳ lập tức nói chuyện ngay với bất kỳ nhà báo nào đang có mặt tại đó, không hề sửa soạn gì trước. Trong khi ông Kỳ điều hành chánh phủ và được đa số quần chúng chú tâm thì ông Thiệu lại vận động ở hậu trường, củng cố thực quyền và nỗ lực cố đem những ảnh hưởng của mình vào việc hoạch định chính sách. Việc liên minh giữa ông Thiệu và ông Kỳ đã hẳn chỉ là một việc liên minh tạm thời. Ngay từ lúc đầu, họ đã xem nhau như đối thủ và luôn luôn vận động để tranh đoạt ngôi thứ. Tuy vậy, khi tranh ngôi đoạt thứ, họ cũng ngấm ngầm đồng ý rằng ngày nào chiến cuộc còn khốc liệt thì ngày đó họ còn cần phải cùng nhau giữ vững chính phủ. Đối với cả hai nhân vật vừa mới bước chân vào cương vị lãnh đạo thì Honolulu là một biến cố trọng đại. Vào ngày nhận được giấy mời, họ đã huy động toàn thể chánh quyền để chuẩn bị cho cuộc họp. Bộ Tổng Tham Mưu được ủy nhiệm phân tích tình hình quân đội và liệt kê những nhu cầu cấp thiết cần viện trợ. Tướng Nguyễn Đức Thắng, Bộ Trưởng đặc trách xây dựng nông thôn, được lệnh thảo một bản báo cáo tường tận về những chương trình bình định nông thôn. Riêng tôi phải lao mình vào việc xếp đặt toàn thể chương trình. Khó khăn hơn nữa, tôi còn được ủy nhiệm thảo một bản diễn văn chánh thức để Thủ Tuớng Kỳ đọc tại hội nghị thượng đỉnh.

          Trong một thời gian ngắn ngủi, và đang trong hoàn cảnh phải xếp đặt những việc cần phải làm khác thì việc soạn diễn văn cho ông Kỳ quả là một thử thách lớn lao. Tuy thế, tôi vẫn cho đây là một cơ hội. Lúc này, tôi đã hoàn toàn hòa mình vào làm việc với một chánh phủ quân nhân. Trong những tháng vừa qua, tôi đã nhận thấy ông Thiệu và ông Kỳ có lẽ là những người có thiện chí. Tuy có đố kỵ và theo đuổi những tham vọng cá nhân, họ vẫn chưa tệ đến nỗi quên cả chánh phủ. Hơn nữa, nhờ có Hoa Kỳ can thiệp, họ đang thành công rực rỡ. Lúc này, họ đang lợi dụng cơ hội. Nhất là những cơ hội để củng cố quân đội quốc gia.

          Tuy nhiên, mặc dù đang có nhiều lợi điểm, chánh phủ vẫn thiếu một đường hướng chính trị rõ rệt. Họ vốn là những quân nhân chưa hề suy nghĩ sâu xa về các vấn đề chính trị hoặc xã hội. Nhưng theo tôi thấy thì họ cũng rất cởi mở và ít nhất là ở một mức độ nào đó, họ cũng là những người còn có thể sửa đổi được. Và về riêng phương diện này thì ông Kỳ có vẻ dễ dàng thay đổi hơn ông Thiệu. Thật sự thì tôi đã âm thầm bắt đầu làm những việc trong phạm vi khả năng để chuyển hướng chú ý của ông Kỳ vào những quan niệm cải cách xã hội, kinh tế và những vấn đề của một chánh phủ hợp hiến. Tôi đã cố xoay chuyển sự chú tâm của ông về những vấn đề liên quan đến hoài bão của bác sĩ Quát và hoài bão của những người trong nhóm chúng tôi trong suốt gần hai thập niên khi trước. Trong những bài diễn văn soạn thảo cho ông Kỳ, tôi đã nhấn mạnh những chủ đề như cố mang lại công bằng trong xã hội, cố tạo ra những cơ hội phát triển giáo dục, kinh tế, tự do tín ngưỡng và các quyền lợi bất khả xâm phạm của người dân. Tôi cũng đã mạnh dạn đưa ra vấn đề cần phải chuyển hướng chánh phủ để dẫn đến một chánh phủ dân chủ hợp hiến. Đứng vào cương vị của một người soạn thảo diễn văn, tôi đã cố không che đậy những sự thật ác nghiệt rằng chế độ Việt Nam lúc này là một chế độ chưa được gọi là dân chủ. Tôi đã cố không phủ nhận rằng cải cách đang ở một mức độ quá chậm và những căn bệnh quá khứ quả đã gần như nan y. Nhưng theo như một trong những lời viết của bài diễn văn thì tiền đề quan trọng hơn cả là: "[Chúng tôi đã] có một mục tiêu xứng đáng để tranh đấu không những chỉ để chống lại Cộng Sản mà còn để phát triển một quốc gia yêu chuộng tự do cá nhân và đang ở vào một tình trạng đang cần phải cải tiến."

          Đối với tôi thì đây không phải chỉ là vấn đề ngôn từ mà chính là những mục tiêu thực thụ cần phải đạt được nếu Việt Nam muốn có những nỗ lực đoàn kết cần thiết để chống cự lại cuộc tàn sát của các kẻ thù hung hiểm giáo điều. Phần lớn ý kiến của tôi vẫn chưa được chuyển thành những chương trình có kế hoạch hẳn hòi, nhưng đây chẳng qua chỉ vì ông Thiệu và ông Kỳ cũng vừa mới bắt đầu chú tâm đến các vấn đề mà thôi.

          Lạ lùng thay, ông Kỳ lại có vẻ hưởng ứng những cuộc thảo luận về vấn đề cải cách. Có lẽ ở một mức độ nào đó, ông đã bị những quan niệm dân chủ ảnh hưởng. Tầm mức ảnh hưởng có lẽ vừa đủ để ông có thể đề cập thẳng thắn và tự dấn thân dần vào việc. Mỗi lần ông đưa vấn đề ra trước công luận là mỗi bước ông xa rời cương vị độc đoán và tiến gần đến những mục tiêu dân chủ hơn. Những gì ông đưa ra trước công luận không phải là những điều có thể dễ dàng rút lại hoặc có thể dễ dàng xem thường.

          Trong tình trạng vừa kể, tôi bắt đầu thảo bài diễn văn mà ông Kỳ sẽ đọc tại Honolulu. Mặc dù ông Kỳ rất cởi mở với những quan niệm cách mạng xã hội, cả tôi lẫn các cộng sự viên của tôi đều không rõ ông sẽ vui lòng tranh đấu đẩy mạnh việc thực thi những quan niệm đó đến mức độ nào với các tướng trẻ. Vả chăng nếu Việt Nam công khai hứa sẽ cải cách và công khai đưa ra một thời hạn nhất định với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ tại cuộc họp thượng đỉnh thì hẳn nhiên các biến chuyển về sau không dễ gì thay đổi được.

          Vì trong tâm suy nghĩ như thế nên tôi đã thảo một bài diễn văn hết sức đầy đủ và thiết tha đưa vấn đề cải cách đi xa đến mức tột cùng cởi mở của ông Kỳ. Trong những vấn đề đưa ra, song song với vấn đề cần thiết phải đạt được chiến thắng trong chiến cuộc tôi cũng đề cập đến những lý tưởng xây dựng quốc gia, thiết lập hiến pháp và quay về với chánh phủ dân sự. Tôi đã hòa hợp rất khéo những điều tôi muốn nói và những điều ông Kỳ nghĩ là ông có thể sẽ theo. Bài diễn văn vừa đưa ra những khuynh hướng mạnh dạn của ông Kỳ, vừa nêu lên tầm mức cần thiết của những dự định đã được đưa ra. Trong khi đó tôi cũng tránh liên lạc với những người trong nhóm ông Thiệu, những người mà tôi biết sẽ quan niệm lệch lạc khi nhìn thấy những hoạt động của tôi vào lúc này.

          Nỗ lực của tôi quả thật mong manh vô độ. Trước đây, ông Thiệu đã nhiều lần xem xét cẩn thận những bài diễn văn tôi soạn thảo cho ông Kỳ. Vốn là người thận trọng, ông Thiệu lúc nào cũng tránh những việc hứa hẹn. Trước đây, trong những bài diễn văn tôi soạn, ông đã không hài lòng với rất nhiều đoạn. Thường thường, phụ tá của ông gọi tôi để bàn luận nếu không về vấn đề này thì cũng về vấn đề khác. Họ nêu rõ cả những thay đổi và những đoạn cần phải cắt bỏ. Những lúc như vậy tôi thường tìm đến ông Kỳ, nhờ ông thảo luận lại với ông Thiệu để chúng tôi có thể giữ được những điểm chính. Đôi khi ông Kỳ chấp nhận, có lúc ông chối từ, và một khi ông Kỳ đã khước từ thì tôi đành phải nhượng bộ. Phần lớn những điều tôi đưa ra đều tùy thuộc vào những liên hệ phức tạp giữa ông Kỳ và ông Thiệu, vì thế kết quả thường rất khó đoán. Nhưng kết cục thì trong bài trình bày ở Honolulu, những vấn đề mấu chốt chẳng hạn như vấn đề kinh tế và vấn đề cần phải có một chánh phủ dân sự đã được giữ lại y nguyên.

          Ngoài những bản diễn văn, tôi còn sửa soạn thêm một bản ghi chú và đã liệt kê tất cả những câu hỏi quan trọng mà tôi nghĩ ông Kỳ nên đưa ra khi nói chuyện với Tổng Thống Johnson. Tương tự như bản ghi chú tôi đã viết cho chuyến thăm viếng Bộ Trưởng McNamara trước đây, bản ghi chú tôi viết cho ông Kỳ lại nhấn mạnh một lần nữa vấn đề chúng tôi cần phải hiểu rõ những chiến lược trường kỳ cũng như phải hiểu rõ những vấn đề Hoa Kỳ cho là hệ trọng. Nói chung thì sau một tuần lễ tích cực chuẩn bị, tôi đã cảm thấy hài lòng và tự tin rằng những nỗ lực của chúng tôi sẽ giúp Việt Nam ứng đối trôi chảy trong cuộc họp sắp đến tại Honolulu. Tôi cũng hài lòng và hồi hộp vì trong cuộc hội thảo chung bàn luận về những diễn tiến của cuộc họp thượng đỉnh, tòa đại sứ Hoa Kỳ đã không làm áp lực gì mạnh với chúng tôi. Tôi đã cho cả hai người bạn thân tại tòa đại sứ là ông Edward Lansdale và vị cố vấn chính trị mới là ông Philip Habib rõ về nội dung của những bài diễn văn. Tuy cả hai đều rất hài lòng vì những hứa hẹn dự định dân chủ của chúng tôi, họ vẫn có vẻ chú tâm vào các chương trình bình định nông thôn. Họ khuyên rằng chúng tôi nên chuẩn bị kỹ lưỡng để đương đầu với các cơ quan báo chí quốc tế tại cuộc họp thượng đỉnh.

          Giám đốc phòng thông tin Hoa Kỳ là ông Barry Zorthian đã bỏ ra rất nhiều thời giờ bàn luận với tôi về cách chuẩn bị trả lời những câu hỏi của các phóng viên báo chí. Ông nhấn mạnh sự bạo dạn của họ khi săn tin và nhắc nhở chúng tôi phải chuẩn bị. Vấn đề phải hội kiến với toàn thể các cơ quan báo chí tại cuộc họp thượng đỉnh là một trong những điều làm tôi hồi hộp. Ngoài những trường hợp tiếp xúc cá nhân với riêng từng ký giả, từ trước tới nay tôi chưa hề phải đương đầu với các ký giả của Hoa Kỳ. Tôi vẫn chưa tin tưởng hoàn toàn vào khả năng Anh Ngữ của mình. Khả năng Anh Ngữ của ông Kỳ lại còn tệ hơn. Tôi đã nhắc đi nhắc lại ông Kỳ rằng nếu bất cứ khi nào gặp khó khăn, ông nên hỏi để tôi có thể nhảy vào sửa chữa hoặc bổ sung chi tiết. Tuy thế, tôi biết ông Kỳ không hề sợ hãi. Nhất là đối với phóng viên báo chí thì lúc nào ông cũng phát biểu thẳng thừng.

          Vào ngày 6 tháng 2, chúng tôi rời sân bay Tân Sơn Nhất trên chiếc máy bay đặc biệt của Tổng Thống Johnson. Tất cả chúng tôi đều cùng nửa hồi hộp, nửa hy vọng. Cùng đi với chúng tôi là đại sứ Henry Cabot Lodge và những nhân viên của tòa đại sứ. Chúng tôi cho đây là một cuộc hội kiến lịch sử. Vì là người mới bắt tay vào việc, tôi rất thán phục cách dự liệu kỹ lưỡng của Hoa Kỳ. Tôi còn hồi hộp hơn khi xem bản liệt kê danh sách những nhân vật trong phái đoàn Hoa Kỳ. Ngoài Tổng Thống Johnson, danh sách bao gồm cả Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, các ông Rostow, Harriman, Wheeler và những nhân vật lừng danh khác. Đây là một cuộc hội tụ của gần hết những người mà về sau ký giả David Halberstam đã gọi là: Những nhân vật kiệt xuất và lừng danh nhất (The Best and The Brightest). Khi đọc qua tên tuổi các đại biểu Hoa Kỳ, bạn thân của tôi là Ngoại Trưởng Trần văn Đỗ đã nửa đùa nửa thật nói rằng: "Tụi mình là những đám người tí hon đang phiêu lưu vào vùng đất Guilliver huyền thoại đây!"

          Ấn tượng của chúng tôi còn mạnh hơn khi máy bay đáp xuống phi trường quân sự ở Honolulu. Ngay giữa con đường trải nhựa mênh mông là một khán đài chào mừng sừng sững cắm đầy quốc kỳ. Quang cảnh phía hông cho thấy vị Tổng Thống Hoa Kỳ khổ người to lớn vượt hẳn lên khỏi hai vị tướng Việt Nam đứng cạnh trông lồ lộ chẳng khác nào biểu tượng rõ rệt về vai trò thực thụ của hai chánh phủ. Nhưng nếu khổ người của tổng thống Johnson vượt khổ bao nhiêu thì diễn văn chào mừng của ông lại thân mật và hiền hòa bấy nhiêu. Chẳng những ông nói về "chiến thắng chống xâm lược" và ông còn nói đến "khắc phục đói kém, bệnh hoạn và thất vọng." Ông đề cập đến vấn đề "y tế, giáo dục, nông nghiệp và kinh tế," và về "một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân." Hẳn nhiên đây là một bài diễn văn chính trị, nhưng những cảm quan diễn tả dường như phát ra tự đáy lòng và lời lẽ bài diễn văn đã khích lệ tất cả những người mang tâm hoài bão việc tạo dựng một tương lai tốt đẹp cho Việt Nam sau chiến cuộc.

          Thực sự thì vào lúc này tôi chẳng có bao nhiêu thời giờ để suy nghĩ sâu thêm. Vì là người giữ vai trò phối hợp phái đoàn, tôi phải xem xét kỹ lưỡng mọi vấn đề đâu vào đấy cho phiên họp ngày hôm sau. Trời mới vừa chớm tối tôi đã nhập bọn cùng những đồng nghiệp người Hoa Kỳ để cùng soạn thảo một bản thông cáo chung nhằm đưa ra khi cuộc họp thượng đỉnh kết thúc vào ngày hôm sau. Bất cứ ai đã là người tham gia vào những cuộc họp có tính chất quốc tế cũng đều biết việc soạn thảo là một công việc đã đòi hỏi rất nhiều công phu và lại chỉ mang lại những kết quả thật nhỏ nhoi. Tuy thế đây là việc những người tổ chức bắt buộc phải làm. Nhất là vì bản thông cáo phải được soạn ngay trước khi buổi họp bắt đầu, nhưng vì trước đây tôi chưa bao giờ có dịp tham gia những công việc soạn thảo tương tự nên lúc này chẳng những tôi đã lao hết mình vào cuộc với tất cả nhiệt huyết mà còn thực sự tin tưởng rằng tôi quả đang đóng góp vào việc tạo dựng lịch sử.

          Không có điều gì trong bản tin có thể khiến tôi suy nghĩ khác hơn. Khi việc hoàn tất thì một bản thảo được gọi là bản tuyên ngôn Honolulu đã bao gồm rất nhiều điều tổng quát. Trong bản tuyên ngôn Hoa Kỳ và Việt Nam cùng cam kết "sẽ bảo vệ Việt Nam chống xâm lược, tranh đấu cải cách xã hội, tạo dựng một chánh phủ tự do, độc lập và xây dựng hòa bình." Đối với Việt Nam thì vấn đề khó nhất là vấn đề phải cam kết "soạn thảo một bản hiến pháp dân chủ vào những tháng sắp tới, đưa ra cho dân chúng Việt Nam thảo luận và bổ túc rồi hợp thức hóa bản hiến pháp đó bằng phương pháp bỏ phiếu kín và thiết lập chánh phủ dân chủ qua thể thức bầu cử." Việc phải mang bản soạn thảo về cho ông Thiệu và ông Kỳ ký kết đối với tôi quả là một việc ngại ngùng. Những phát biểu hỗn hợp Mỹ-Việt về việc bảo vệ đất nước thoát khỏi ách xâm lược và ngay cả những đề nghị cải cách xã hội có lẽ cũng chẳng gặp khó khăn gì, nhưng đòi hỏi ông Thiệu và ông Kỳ phải công khai hứa hẹn soạn thảo hiến pháp và chuẩn bị bầu cử lại là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn.

          Tuy thế thật là ngạc nhiên và sung sướng cho tôi, việc lại diễn ra khác hẳn như tôi dự liệu. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều chẳng để ý gì đến nội dung của bản soạn thảo mặc dù lời lẽ các điều kiện trong bản soạn thảo thật là chi tiết. Họ đã quá hân hoan vì các biến cố trong ngày. Việc họ hứa rõ sẽ cải tổ trên giấy trắng mực đen trong một tài liệu quốc tế mà chính họ không thể nào từ bỏ được đã khiến tôi cảm thấy vui mừng vô hạn.

          Cuộc họp chánh thức mở màn vào ngày kế tiếp, trong một hội trường tại nơi đặt bản doanh Tư Lệnh Thái Bình Dương. Hai phái đoàn tản ra quanh một chiếc bàn bầu dục khổng lồ, nhưng đối với những người trong phòng thì rõ ràng chỉ có một nhân vật đáng kể. Tổng thống Johnson hoàn toàn chế ngự buổi họp. Phong thái lãnh đạo rõ rệt của ông nổi bật qua khổ người to lớn và sự chú tâm nhất loạt của các cố vấn của ông. Mỗi lần ông nghiêng người về phía đối diện để nhấn mạnh những điều muốn nói là mỗi lần ông tạo ra những ấn tượng khó quên cho những đại biểu Việt Nam.

          Tổng thống Johnson chú tâm lắng nghe bài diễn văn của ông Kỳ và rồi lại chú tâm nghe tướng Thắng trình bày các chương trình bình định nông thôn. Thỉnh thoảng ông lại ngắt lời tướng Thắng để đưa ra câu hỏi hoặc ra lệnh cho những phụ tá ngồi phía sau. Những lời ông nghị luận vừa mạch lạc lại vừa đi rất sát vấn đề. Đôi khi cũng có vài câu văn vẻ. Có lúc ông ngỏ ý "muốn xem Bộ Da Chồn treo trên tường." Đây là một thành ngữ mà cả phái đoàn đều mù mờ. Lúc đó, vì coi tôi như một chuyên viên Anh ngữ nên nhiều người đã quay lại hỏi tôi rằng: "Ông ấy nói cái gì thế?"

          Nhưng việc Tổng Thống Johnson dùng chữ thế nào để diễn tả tư tưởng không phải là vấn đề chính. Đại ý toàn thể bản thông cáo đã được trình bày quá rõ ràng. Ông muốn nhìn thấy những kết quả thực tiễn từ cả hai phiá Mỹ Việt. Qua thái độ quả quyết của tổng thống Johnson chẳng ai có thể nhầm lẫn những điều ông mong mỏi. Về phía phái đoàn Việt Nam thì ông Thiệu có lẽ vì lý do gì riêng muốn ông Kỳ đóng vai trò lãnh đạo nên đã phát biểu rất ít. Ông Rusk cũng ngồi yên lặng với khuôn mặt nghiêm trang như Phật trong khi Tổng Trưởng McNamara vẫn hí hoáy ghi chép trên những mảnh giấy vàng như bao giờ.

          Khi chúng tôi nghỉ trưa, tất cả đều cảm thấy mình đã bắt đầu một hội nghị hết sức hứng khởi. Chiều đó, lúc hai phái đoàn chia thành từng nhóm để tiến hành công việc thì ông Thiệu và ông Kỳ đến họp riêng cùng tổng thống Johnson.

          Theo tôi nhận định thì dường như vị tổng thống Hoa Kỳ vừa mới tái đắc cử và đang đứng trên đỉnh cao uy quyền gần như chẳng có điểm nào giống với hai vị tướng lãnh Việt Nam -ngoại trừ một điểm hiển nhiên là cả ba đều cùng cam kết chống lại một kẻ thù chung.- Tuy thế, những phù hợp cá nhân đã khiến cả ba đều mỉm cười tươi vui, mãn nguyện sau suốt hai giờ gặp gỡ. Những cử chỉ thật tâm và thân thiện của tổng thống Johnson đã hoàn toàn thuyết phục được hai nhân vật lãnh đạo của Việt Nam. Ông đã gây được thiện cảm của cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Có lúc tổng thống Johnson và ông Kỳ cùng châu đầu bên những tách cà phê như thể họ là đôi bạn thân đã từ lâu.

          Mặc dầu các vấn đề tại cuộc họp vẫn chưa được duyệt lại kỹ lưỡng, tất cả chúng tôi đều cho đây là một cuộc họp thành công. Buổi họp ở Honolulu đã cho Tổng Thống Johnson cơ hội gặp gỡ các tư lệnh quân sự cùng các cố vấn cao cấp của ông và nhấn mạnh với họ về tầm quan trọng của vấn đề bình định nông thôn. Ông đã có dịp gặp gỡ và thẩm định các tướng tá lãnh đạo Việt Nam. Ông còn được họ hứa sẽ soạn thảo hiến pháp và tiến hành bầu cử.

          Có lẽ yếu tố quan trọng nhất là cuộc họp Honolulu đã giúp tổng thống Johnson tránh được những lời chỉ trích rằng ông chỉ dựa vào bạo lực quân sự để giải quyết vấn đề. Để trả lời cho những chỉ trích của giới phản chiến lên án ông đã dựa vào bạo lực quân sự để giải quyết vấn đề chính trị, tổng thống Johnson đã nhấn mạnh y tế, giáo dục, sách vở, phân bón và điện hóa những vùng thôn quê. Cuộc thảo luận đã khẳng định những cam kết xây dựng nông thôn và đã nhận định lại rằng: Nếu không có những chương trình hữu hiệu để dân chúng có thể ủng hộ thì dù có tất cả sức mạnh uy quyền trên thế giới cũng chẳng thể nào thành công.

          Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều hân hoan tột độ. Họ đã được chánh quyền Hoa Kỳ tận lực ủng hộ. Hoa Kỳ chẳng những chỉ giúp đỡ họ bằng viện trợ quân sự mà còn giúp đỡ cả đến việc củng cố chính phủ của Việt Nam. Ông Kỳ đã vui mừng vượt mức. Ông đã làm bạn được với tổng thống Hoa Kỳ và được giới báo chí triệt để chú ý. Nỗi vui mừng dào dạt đến nỗi ông Kỳ chẳng còn để ý đến chuyện đặt câu hỏi với những đề tài tôi đã soạn thảo trong bản ghi chú. Khi tôi hỏi ông về các vấn đề trong bản ghi chú thì ông gạt phắt đi rằng: "Ông xem đấy, lão già ấy đã thật thà quá mức rồi, làm sao mà mình còn nghi ngờ gì lão ta được nữa?"

          Mặc dù ông Kỳ chưa hỏi đến những vấn đề tôi đã liệt kê, tôi cũng vẫn cảm thấy có đủ lý do để hài lòng. Không những bài diễn văn đưa ra đã buộc chặt chánh phủ của hai ông Thiệu, Kỳ phải giữ lời hứa thực hiện những cải cách xã hội như tôi mong mỏi mà cả tổng thống Johnson cũng đặc biệt chú tâm đến nội dung của bản trình bày. Khi gặp riêng ông Kỳ, ông đã ngỏ lời hỏi ông Kỳ cho biết rõ chi tiết hơn về "cuộc cách mạng xã hội" mà ông Kỳ đã đề cập đến trong bài diễn văn. Vì bản diễn văn trùng đúng với ý tổng thống Johnson, ông Kỳ còn nhận ra rằng thực sự chính tôi là nhân vật chính đã giúp ông nâng cao uy tín với vị tổng thống Hoa Kỳ. Từ nay trở đi, giữa những nhóm cộng sự của ông Kỳ, tôi không còn là người ngoài nữa. Những biến chuyển khả quan đã khiến tôi cảm thấy lâng lâng trên đường trở lại. Lúc này tôi không còn phải bận tâm với những nỗi lo lúc nào cũng canh cánh về việc chánh phủ Việt Nam có thể lại xáo trộn như những năm 1963-1964 trước đây. Sau các cơn biến động của những năm về trước, giờ đây tôi đã tình cờ bước vào một khúc giao lưu của lịch sử. Đây là một thời điểm hết sức đặc biệt vì mục tiêu của Hoa Kỳ và những tiến trình của một nền dân chủ đang được cả hai dân tộc ủng hộ. Cuối cùng các biến cố đã chuyển theo khuynh hướng qui tụ và ổn định thay vì suy sụp và tan rã.




          Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
          Phan Lê Dũng
          #20
            sóng trăng 02.12.2006 07:25:19 (permalink)
            .
             
            Chương 20
            Bước Thứ Hai


            Vào lúc hội nghị Honolulu kết thúc, chúng tôi còn hân hoan hơn vì được biết Tổng Thống Johnson sẽ cử Phó Tổng Thống Hubert Humphrey sang Việt Nam cùng lúc phái đoàn Việt Nam trở về. Tuy Phó Tổng Thống Humphrey không đến dự hội nghị Honolulu, Tổng Thống Johnson vẫn cho rằng nếu gửi ông sang Việt Nam thì Hoa Kỳ có thể tiếp tục nâng cao được tinh thần chính phủ Việt Nam. Vì vậy Phó Tổng Thống Humphrey đã được ủy nhiệm sang Á Châu. Ông dự định đến Sài Gòn trước tiên và sau đó sẽ ghé thăm những nước lân cận. Tuy Việt Nam lúc này đang ở vào giai đoạn chiến tranh, vị Phó Tổng Thống Hoa Kỳ vẫn nhìn tình hình với đôi mắt khả quan. Chẳng những thế, quan niệm cấp tiến của ông Humphrey lại còn trùng đúng với chủ trương nhấn mạnh cải cách xã hội, kinh tế của Tổng Thống Johnson. Sự hiện diện của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ trên chuyến bay trở về đã khiến phái đoàn chúng tôi vô cùng phấn khởi. Những tin tưởng khởi xuất từ cuộc họp thượng đỉnh lại càng vững vàng thêm.

            Khổ thay, cả những uy tín của cuộc họp thượng đỉnh cũng vẫn chưa đủ để ông Thiệu và ông Kỳ thoát khỏi được tất cả những khủng hoảng nội bộ đã nhiều phen lật đổ các chánh quyền Việt Nam trước đây. Ít nhất thì cũng là một lần nữa, những phong trào đảo chánh của đời sống chính trị Việt Nam lúc đó lại khiến hai tướng lãnh phải dùng đến áp lực quân sự. Vào tháng 3 năm 1966, chỉ mới chưa tròn một tháng sau cuộc họp Honolulu thì những âm mưu đảo chánh lại được phát động. Lần này mưu toan đảo chánh lại do các đoàn thể Phật Giáo. Họ đã hợp tác cùng với một tư lệnh quân đội có nhiều thế lực và tham vọng đang trấn ở quân đoàn I giáp giới Miền Bắc là tướng Nguyễn Chánh Thi.

            Sự thật thì cuộc đụng độ đã ngấm ngầm từ nhiều tháng trước. Tướng Thi là một người háo động đã tham gia rất nhiều vụ dấy động trong suốt cuộc đời binh nghiệp, kể cả những vụ đảo chánh lẫn chống đảo chánh. Ông chính là một trong những người đã cầm đầu cuộc đảo chánh hụt ông Diệm lần đầu vào năm 1960. Cuộc đảo chánh đầu tiên của tướng Thi đã mở màn cho những ý tưởng đảo chánh về sau này. Năm 1964, ông hỗ trợ Tướng Nguyễn Khánh truất phế những tướng tá đã lật đổ ông Diệm. Rồi ông lại liên kết với nhóm Tướng Trẻ để trục xuất tướng Khánh năm 1965. Thành tích quá khứ và oai quyền lãnh chúa Miền Bắc đã khiến tướng Thi tự coi mình thừa khả năng điều hành chính phủ. Hoặc giả ít nhất ông cũng cho rằng nếu đem so sánh với ông Thiệu và ông Kỳ thì khả năng của ông cũng chẳng kém gì.

            Thủ đô của vùng một là Huế, nguyên là một thành phố thuộc vùng tướng Thi cai quản và cũng là nơi lãnh tụ Phật Giáo Thích Trí Quang cùng các lãnh tụ Phật Giáo khác cư ngụ. Tuy kể từ khi ông Thiệu và ông Kỳ nắm quyền, các phái đoàn Phật Giáo đã khá im lặng, họ vẫn chưa thực sự hài lòng. Vì các đoàn thể Phật Giáo vẫn không có chỗ đứng nào trong chánh phủ nên giờ đây thái độ chống quân nhân của họ còn mãnh liệt hơn. Ông Thiệu là người công giáo. Ông Kỳ tuy là người Phật Giáo nhưng vẫn không đủ kiên nhẫn để xoa dịu những đoàn thể Phật Giáo.

            Vào đầu tháng 3-1966, hai nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng nội bộ của Việt Nam là nỗi bất bình của Tướng Thi và những thất vọng chánh trị của các đoàn thể Phật Giáo. Cuộc khủng hoảng bắt đầu trong một chuyến ông Kỳ đến Huế. Khi ông Kỳ đến Huế, một lãnh chúa tại đây đã quay lại hỏi thuộc hạ: "Ê, anh chàng này đến làm gì ở đây vậy?" Trong cơn phẫn nộ, ông Kỳ không chỉ xem đây là một sự nhục mạ cá nhân. Ông lên án hành động của vị tư lệnh miền Trung là một hành động thách thức chánh quyền. Ít nhất thì đây cũng là nguyên nhân của mọi việc hỗn loạn vào lúc ban đầu. Cũng có thể ông Kỳ đã cố tình tìm dịp đương đầu trực tiếp với tướng Thi để giải quyết cho xong vấn đề của một vị tướng hay la lối ầm ỹ. Dù thế nào đi nữa thì khi quay về Sài Gòn, tất cả những người trong giới lãnh đạo ở Sài Gòn cũng hoan nghênh việc ông Kỳ đã đứng ra đương đầu trực tiếp với tướng Thi. Chính những hành động của ông Kỳ với tướng Thi đã khiến các đoàn thể Phật Giáo ở Huế khởi đầu những cuộc biểu tình đòi hỏi chánh phủ quân nhân phải từ chức. Đây là những cuộc biểu tình quái dị do những ám ảnh đảo chánh điên cuồng thôi thúc.

            Vào ngày 26 tháng 3 năm 1966, những chuyện xung đột cá nhân mở đầu đã chuyển thành một cuộc nổi loạn toàn bộ ở miền Trung. Những đoàn biểu tình và các chánh quyền địa phương đã chiếm giữ những đài truyền thanh ở Huế và Đà Nẵng. Họ tuyên bố trung lập, không về phe nào cả. Nếu ông Kỳ không gửi đại diện đến để hứa rõ với những đoàn thể Phật Giáo rằng chánh quyền sẽ tổ chức một quốc hội lập hiến và sẽ thiết lập một chánh phủ dân sự vào cuối năm thì có lẽ đã có một cuộc đụng độ quân sự.

            Mặc dầu ông Kỳ đã thành công trong việc xoa dịu nổi loạn, những cuộc biểu tình còn sót lại vẫn chỉ bớt dần ở một mức độ rất chậm. Đã vậy, việc đại sứ Lodge ủng hộ ông Kỳ lúc cuộc khủng hoảng phát động đã khiến sự phẫn nộ của Phật Giáo chuyển hướng thẳng vào Hoa Kỳ. Vào ngày 4 tháng 5, màn cuối của tấn kịch bắt đầu do một lời tuyên bố thiếu cân nhắc điển hình của ông Kỳ. Khi được hỏi về thủ tục của cuộc họp quốc hội mà ông đã hứa với các đoàn thể Phật Giáo, ông Kỳ trả lời rằng: Tuy cuộc họp sẽ tiến hành như ông hứa, nhưng chánh quyền sẽ tiếp tục nắm chánh quyền cho đến khi hiến pháp chánh thức được đưa ra. Trong khi chưa ai biết rõ chi tiết những điều ông Kỳ đã hứa trước đây thì các lãnh tụ Phật Giáo bỗng công khai lên án ông Kỳ đã nuốt lời hứa. Những biến cố xuống đường lại phát động.

            Lần này thì xô sát quân sự là việc khó thể tránh khỏi. Ở Đà Nẵng, ông Kỳ đã lẹ làng chuyển những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến để đàn áp. Sau nhiều ngày chiến đấu, đa số Phật Tử và những quân nhân chống đối đã bị đè bẹp. Tuy thế, một tình trạng nguy hiểm đã diễn ra khi tướng Lewis chống đối cách dùng Không Quân oanh tạc những toán nổi loạn. Ông dọa sẽ bắn hạ những máy bay đàn áp nếu ông Kỳ phát động oanh tạc. Cuối cùng ông Kỳ đồng ý nhượng bộ và hứa sẽ chỉ dùng Bộ Binh để dẹp những cuộc xuống đường mà thôi. Sau một tuần lễ nghiêm trọng, tình hình Đà Nẵng trở lại bình thường.

            Mặc dầu vậy, Huế lại là một câu chuyện khác hẳn. Tại đây những cuộc đụng độ vẫn tiếp tục dâng cao khi một nhóm phật tử xuống đường thiêu hủy tòa thư viện vào ngày 26 tháng 5 và rồi đã thiêu hủy cả tòa lãnh sự Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 5. Trước đây đã có đôi lúc những cuộc biểu tình bắt đầu với những giọng điệu chống Mỹ nên việc hai tòa Bin-Đinh của Hoa Kỳ bị thiêu hủy cũng chẳng có gì ngạc nhiên. Tuy sau biến cố Đà Nẵng những nhóm xuống đường không còn hy vọng gì thành công, cho mãi tận đến tháng 7, những sôi sục ở Huế mới tạm ổn định. Khi mọi sự đã qua thì người gây ra mọi sự là tướng Thi đã bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, tưởng cũng không cần phải nói thêm rằng ông bị trục xuất sang Hoa Kỳ.

            Tuy cuộc nổi loạn ở Huế quả có kéo dài với nhiều cường độ khác nhau trong hơn ba tháng, nhưng sau khi những biến động nổi loạn đã qua thì giai đoạn có thể gọi nôm na là giai đoạn bạo động của Việt Nam đã thật sự kết liễu. Trong suốt ba năm kể từ sau khi ông Diệm bị đảo chánh thì nội bộ Việt Nam càng ngày càng lũng đoạn. Sự suy sụp của chánh phủ Việt Nam lúc này phát xuất là do hậu hoạn của một thập niên độc tài và đàn áp di lại. Tuy vậy, khi những giai đoạn khủng hoảng Phật Giáo kết liễu thì một giai đoạn ổn định mở đầu và đã kéo dài cho đến những ngày cuối của chánh quyền Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975. Dĩ nhiên vào lúc này, chưa ai biết rõ rằng đây là điểm khởi đầu của một giai đoạn mới. Ngược lại tất cả đều cho rằng đây là một giai đoạn cần phải cố gắng nỗ lực mà không được quyền đòi hỏi gì ở tương lai. Cũng vào thời gian này, các biến chuyển phức tạp khác lại xuất phát ngoài chiến trường.

            Lúc này, quân đội Việt Nam đã có dịp mục kích cách Hoa Kỳ điều hành quân đội. Chẳng hơn gì dân chúng, các quân nhân Việt Nam cũng thấy rõ những số lượng quân nhu đang được chuyển vào để phục vụ các quân nhân Hoa Kỳ. Họ nhìn thấy những kho hàng PX khổng lồ với hàng dẫy đồ lạ lùng, nhằm xoa dịu những nỗi khốn khó của các binh lính viễn chinh Hoa Kỳ đang ở 10,000 dặm xa rời quê hương. Những quân nhân Việt Nam đã mục kích một giòng quân nhu vô tận được chuyển tới các đội quân Hoa Kỳ. Họ biết Hoa Kỳ đang sử dụng những số lượng mìn và bom khổng lồ. Chẳng những thế, họ còn biết Hoa Kỳ đang sử dụng một cách phí phạm. Cách phí phạm đạn dược của Hoa Kỳ gây cho họ nhiều ấn tượng đặc biệt. Một mặt họ lấy làm tức giận, mặt khác họ lại bắt đầu tin rằng đây có thể là một phương pháp hữu hiệu để dẫn đến thắng lợi. Chỉ ít lâu sau họ đã quen ngay. Chính thói quen này là một thói quen chết người về sau, khi Hoa Kỳ thình lình rút bỏ viện trợ.

            Hơn nữa, khi quân đội Hoa Kỳ ráo riết phát động chiến thuật truy kích và tiểu trừ (Search and Destroy Operation), họ đã gây ra nhiều khó khăn ở miền quê. Thường thì nguyên tắc của quân đội Hoa Kỳ là "dùng đạn dược để giảm thiểu tổn thất cho binh sĩ." Một trong những thí dụ điển hình là tất cả các cuộc hành quân bất kể lớn nhỏ, đều được các đội pháo binh hoặc thủy quân dùng B-52 hoặc những loại yểm trợ tương tự để "bắn dọn đường." Một hậu quả tai hại của chiến thuật này là yếu tố bất ngờ gần như mất hẳn. Những cuộc hành quân lớn thường chỉ đụng độ với một vài toán bắn tẻ của địch quân hoặc tấn công vào những căn cứ địa tàn dư còn sót lại. Quan trọng hơn nữa là vấn đề lãng phí đạn dược còn gây ra tổn thất lớn lao cho dân quê và các nông dân trú ngụ trong phạm vi của các cuộc hành quân.

            Đã đành rằng trong bất kỳ cuộc chiến nào cũng phải có những tổn thất dân sự nhưng có lẽ chiến thuật của Hoa Kỳ đã làm tăng thêm tầm mức thương vong. Đầu tiên thì chiến thuật của Tướng Westmoreland là tìm cách di chuyển lực lượng về những vùng cao nguyên hẻo lánh hoặc dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt. quân đội Hoa Kỳ cũng có soạn thảo chi tiết những luật lệ chiến đấu (ROEs - Regulation Of Engagement) cùng chánh quyền Việt Nam để có thể giảm thiểu những tổn thất tài vật và nhân mạng cho dân chúng.

            Tuy những nỗ lực của Tướng Westmoreland cũng có ích nhưng trên thực tế, vấn đề áp dụng những nguyên tắc được đề ra quả là nan giải. Việc phải truy kích địch quân lẩn trốn trong các làng mạc không phải là việc dễ dàng. Một trong những chiến thuật chính của quân đội du kích là trà trộn chung vào với dân quê để ẩn nấp. Biết được tật thường xuyên dội pháo mỗi khi đụng trận của Hoa Kỳ, du kích Bắc Việt cố chuyển hướng pháo hoặc oanh tạc vào dân chúng để vận động lòng căm phẫn của họ đối với binh lính Hoa Kỳ. Đã vậy, tuy trên mặt thủ tục tất cả những cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ đều cần phải có các chức trách địa phương cho phép mà trên mặt thực tế vấn đề lại hoàn toàn khác hẳn. Những nhà chức trách quân sự của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều ít để ý đến các nơi dân chúng địa phương trú ngụ. Hậu quả là những cuộc dội bom lệch lạc và không phân biệt đã gây ra vô số thương tổn đáng tiếc.

            Đối với một cuộc chiến như cuộc chiến Việt Nam, vì không phân biệt rõ ràng được ranh giới và hơn nữa, vì du kích Bắc Việt lại cố ý trà trộn vào với thường dân nên những tư lệnh quân sự khó thể ngăn ngừa những tổn thất đáng tiếc. Tôi và nhiều người khác đã gặp tướng Westmoreland nhiều lần để trình bày các vấn đề khó khăn của tình hình. Chúng tôi biết rằng hậu quả của tấn bi kịch thương vong dân sự thật vô cùng lớn lao và những ảnh hưởng xấu đang lan tràn trong dư luận thế giới, nhưng chúng tôi đang tham gia một cuộc chiến mà cả chiến địa lẫn cường độ đều do địch quân định đoạt. Tình cảnh quả thật mâu thuẫn đến độ khó tưởng: Tuy Việt Cộng và Miền Bắc đang lãnh đạo cái mà họ gọi là Chiến Tranh Nhân Dân, nhưng khi chiến cuộc lôi kéo dân chúng vào vòng máu lửa thì mọi trách nhiệm lại bị đổ hất lên đầu Hoa Kỳ và Việt Nam Việt Nam. Đây là một gánh nặng mà chúng tôi đã phải mang trong suốt khoảng thời gian còn lại của chiến cuộc.

            Vào năm 1966 những tổn thất dân sự và những hủy hoại ở miền quê đã khiến dư luận thế giới ngày càng chống đối Hoa Kỳ. Kể từ trước tháng 7, chỉ có những chỉ trích nhẹ nhàng nhưng trong tháng 7, những các đồng minh Âu Châu bỗng nhiên chỉ trích dữ dội, nhất là sau khi máy bay Hoa Kỳ dội bom tấn công vào những khu vực kỹ nghệ và các khu vực xăng gần Hà Nội và Hải Phòng. Thủ tướng Harold Wilson tuyên bố: Người dân Anh Quốc "không ủng hộ" các chiến dịch oanh tạc và Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle lên án những cuộc dội bom là "một cuộc leo thang thiếu suy xét trong chiến tranh ở Việt Nam."

            Rồi đây, trong nhiều năm tới, khi đề tài dư luận bắt đầu đặt câu hỏi "đúng", "sai", khi các cuộc dội bon về sau này thường hướng thẳng vào những vùng đông dân cư và khi dân chúng bị buộc phải tản cư trong những chuyến tản cư đầy bi thảm thì thế giới lên án gắt gao hơn. Dĩ nhiên khi phải trực diện với những hậu quả kinh hoàng và tình cảnh khốn khổ của dân chúng các ký giả khó thể hiểu rằng chiến thuật và chiến lược của Cộng Sản được đặt căn bản trên những lý thuyết sắt máu của bạo động cách mạng. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu được rằng đây là một phương sách chủ trương lợi dụng yếu tố nhân sự để làm bàn đạp tiến đến thắng lợi chiến cuộc. Nếu những phóng viên và ký giả đã không nhìn thấy điểm này thì những độc giả và khán thính giả của họ còn mù mịt hơn. Hậu quả là giữa năm 1966, những cuộc tranh luận khốc liệt, và những chỉ trích có tính cách đạo đức một chiều của những người phản chiến ở Hoa Kỳ đã bắt đầu có tiếng vang.

            Trong năm 1966, những khuyết điểm điển hình của chiến cuộc Việt Nam đã bắt đầu lộ rõ. (Chẳng hạn như những tổn thất đáng tiếc xảy ra khi Hoa Kỳ áp dụng chiến thuật truy kích và tiêu diệt, những chỉ trích ngày càng nhiều của thế giới khi Hoa Kỳ dội bom vào những vùng đông dân cư). Tuy thế, nếu nhìn từ một khía cạnh khác thì vẫn có những biến chuyển khả quan. Đã đành rằng lúc này quân đội Hoa Kỳ vẫn chưa tiêu diệt hết được Việt Cộng nhưng tình hình quân sự tạm được ổn định và vào tháng 7, khi khủng hoảng Phật Giáo kết liễu, chánh phủ Việt Nam đã có thể tiến hành việc bầu cử quốc hội lập hiến như đã hứa vào lúc trước.

            Có lẽ đối với các quốc gia có truyền thống dân chủ từ lâu thì bầu cử chỉ là một vấn đề hết sức đơn giản nhưng đối với Việt Nam thì đây quả là một ý niệm hãy còn rất mới mẻ. Vì vậy, vấn đề đầu tiên cần được thảo luận là làm thế nào để phổ biến quan niệm bầu cử và cho dân chúng thấy đây là một vấn đề quan trọng. Để vận động bầu cử, chánh phủ đã huy động sự đóng góp của các nhà văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cũng như ở nhiều địa phương khác. Ý kiến bầu cử được phổ biến khéo léo vào những bài hát để cổ động dân chúng đi bầu. Đài truyền thanh lúc nào cũng đầy những chương trình nhạc cùng những chương trình phác họa đại cương những chủ đề liên quan đến vấn đề bầu cử. Những đoàn kịch nghệ và những gánh hát đã đi khắp các vùng quê, vừa dựng kịch, vừa lập những chương trình văn nghệ nhằm cổ động bỏ phiếu. Theo tôi thì những nỗ lực này vừa vui lại vừa có hiệu quả. Theo lời điệp khúc của một bài hát mà ai cũng đã nghe đi nghe lại thì: "Tương lai chúng ta tùy thuộc vào nền dân chủ." Trong nhiều tháng ròng rã lời nhắn nhủ bầu cử đã lan ra khắp cả Việt Nam.

            Vào lúc các chiến dịch vận động bầu cử đang phát động mãnh liệt thì một Ủy Ban đặc biệt lo việc soạn thảo các luật lệ bầu cử đã được lựa chọn từ nhiều đoàn thể chính trị và tôn giáo khác biệt. Chẳng bao lâu sau, Ủy Ban đã bắt đầu thảo luận dữ dội về vấn đề xác định những tiêu chuẩn cho các ứng cử viên. Tuy vấn đề loại trừ hoàn toàn các thành phần Cộng Sản là vấn đề không có gì rắc rối, nhưng lại có cả những ứng cử viên có khuynh hướng "trung lập." Sau cùng thì cán cân ngả về phía những người mang lập trường cứng rắn: Bất cứ ai công khai ủng hộ "giải pháp thiên cộng" đều không đủ tiêu chuẩn làm ứng cử viên. Đây là một cách giải quyết vấn đề thật đơn giản, nhưng tôi hoàn toàn chẳng để tâm vì thật ra cũng chẳng có khó khăn gì nhiều liên quan đến vấn đề này. Đây chỉ là một quốc hội tạm thời được ùy nhiệm soạn thảo hiến pháp. Sau khi hiến pháp hoàn tất, tất cả quốc hội lập hiến sẽ tự động giải tán. Cuối cùng những ứng cử viên tự nguyện đã tụ tập thành một cử tri đoàn đông đảo. Họ bao gồm luật sư, giáo sư, nông gia, các cựu quân nhân, và các nhà báo cùng với những chính trị gia và đại biểu của các đoàn thể tôn giáo.

            Ngày 11 tháng 9 năm 1966 là ngày bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Mặc dù Việt Cộng đe dọa sẽ có bạo động và các đoàn thể Phật Giáo cảnh cáo rằng cuộc bầu cử có thể bị tẩy chay, dân chúng vẫn hưởng ứng vô cùng nhiệt liệt. Họ đi lũ lượt hàng đoàn đến nơi bỏ phiếu, phần đông đều mặc quần áo thanh lịch như thể quần áo dùng vào mỗi dịp hội hè. Trong một cuộc bầu cử với 630 ứng cử viên và 7 triệu người đăng ký đi bầu, đã có hơn 5 triệu người bỏ phiếu và 117 ứng cử viên đắc cử được tuyển làm đại biểu cho quốc hội lập hiến. Tuy vẫn có một vài trường hợp bất hợp lệ nhưng nói chung thì cuộc bầu cử vẫn là một thành công đáng kể. Đối với một quốc gia đang lúc chiến tranh và chưa hề có truyền thống bầu cử thì đây đúng là một biến cố lớn lao có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai về sau. Theo lời một người Hoa Kỳ bạn tôi thì: "Quang cảnh [của người Việt Nam] vui vẻ, hội hè vững tin vào tương lai tỏa ra khắp nơi đã mang cho chúng tôi [những người Hoa Kỳ] rất nhiều hy vọng."

            Quang cảnh bầu cử cũng đã khiến tôi vô cùng phấn khởi. Một khi tiến trình dân chủ đã bắt đầu thì đà cải tiến thường một ngày một tăng. Khi mọi người đã biết họ có thể đóng góp tiếng nói của mình vào chánh phủ, khi họ đã thấy rằng những chính trị gia bị buộc phải chú tâm đến họ thì việc họ tự tạo một guồng máy chính quyền dân chủ là việc không thể nào tránh khỏi. Những nhu cầu cần thiết sẽ khiến quần chúng lấy ý kiến chung làm khuôn mẫu áp dụng. Chính trị sẽ chuyển hướng thành những cuộc tranh luận công khai để cùng tìm giải pháp thay vì chỉ là những vận động áp dụng bạo lực và thủ đoạn dùng vào việc theo đuổi những tham vọng cá nhân.

            Cuộc bầu cử là một trong những bước khởi đầu của tiến trình dân chủ đó. Tuy đây chỉ là một quốc hội lập hiến và chánh phủ quân nhân vẫn giữ quyền thỏa thuận hoặc bác bỏ hiến pháp vào lúc chót, nhưng ông Thiệu và ông Kỳ không dễ gì bác bỏ được các tiến trình dân chủ. Những tiến trình này đã bắt đầu và rồi đây chánh phủ quân nhân sẽ chẳng còn đường nào chọn lựa. * * * * *




            Vào mùa thu năm 1966 Sài Gòn đã thực sự tiến được một bước dài. Đây là lần đầu tiên trong rất nhiều năm đất nước có được một chánh phủ hoàn toàn không phải lo lắng sợ sệt vì những cuộc đảo chánh sắp tới hoặc vì những cuộc nổi loạn phe nhóm. Đây là lần đầu tiên đất nước có được một chánh phủ có thể hoạt động bình thường trong công việc quản trị cũng như trong công việc điều hành chiến cuộc. Chúng tôi đã đi qua giai đoạn đầu của những tiến trình nhằm chuyển đổi chính phủ Việt Nam thành một chính phủ dân chủ hợp hiến.

            Qua nhiều năm cơ cực và thất vọng, giờ đây những thành quả dân chủ đã được cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài Gòn nhiệt liệt hoan nghênh. Tổng Thống Lyndon Johnson đã quyết định lợi dụng tình thế để làm giảm bớt ảnh hưởng của các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ và Âu Châu đang ngày càng gia tăng.

            Trong những tháng trước, những nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã thành công trong nỗ lực tạo dựng một khối liên minh gồm nhiều nước ở Á Châu và Thái Bình Dương. Tất cả các quốc gia trong khối liên minh này đều đồng ý cùng tham gia tiếp trợ Việt Nam chung với Hoa Kỳ. Thái Lan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Úc và Tân Tây Lan đã gửi cả binh lính hoặc những đơn vị tiếp trợ giúp đỡ Việt Nam. Thành quả Ngoại Giao của Hoa Kỳ đã đến đúng vào lúc tinh thần dân chúng Việt Nam đang phấn khởi. Những niềm phấn khởi phát sinh là do những cuộc bầu cử quốc hội lập hiến vừa xong. Tuy chiến cuộc vẫn chưa hoàn toàn đến hồi ngã ngũ, Tổng Thống Johnson đã nhận thấy đây là một cơ hội tốt để tỏ cho thế giới rõ Hoa Kỳ đã có đồng minh trong cuộc chiến. Hơn nữa, ông muốn nhấn mạnh rằng công cuộc bảo vệ độc lập của Việt Nam đang mang lại thành quả và Hoa Kỳ không phải là quốc gia duy nhất ủng hộ Việt Nam.

            Trước sự thúc đẩy của tổng thống Johnson, Tổng Thống Phi Luật Tân là Ferdinand Marcos đã đồng ý đứng ra tổ chức một hội nghị thượng đỉnh ở Manila vào cuối tháng 10. Tại đó hầu hết các giới lãnh đạo của các quốc gia có gửi binh sĩ sang Việt Nam đều được mời tham dự. Sự thực, trong nỗ lực gom góp thêm viện trợ, Tổng Thống Johnson còn sửa soạn chương trình thăm viếng các quốc gia này. Do một sự tình cờ, Manila lại rơi đúng vào vị trí trung tâm của cuộc hành trình dài 17 ngày mà Tổng Thống Johnson đã dự định. Manila vì vậy đã trở thành một nơi hội họp thuận tiện nhất.

            Mặc dầu cuộc hội họp thượng đỉnh của 7 quốc gia ở Manila rõ ràng là một trong vận động nằm trong một chánh sách thuyết phục dân chúng lớn lao hơn của Tổng Thống Johnson, đối với chúng tôi đây cũng là một công việc tự nó không kém phần quan trọng và chúng tôi hoan nghênh cổ võ hết mình cho buổi họp. Vì là một quốc gia đang bị uy hiếp ở tầm mức sinh tử, Việt Nam cần được quốc tế công nhận và bảo đảm. Tình trạng ổn định mới mẻ ở Sài Gòn và những tiến triển gần đây về vấn đề tự do bầu phiếu đã khiến chúng tôi cho rằng lúc này đúng là lúc để mở màn giai đoạn nâng cao uy tín trên lãnh vực ngoại giao cho chánh phủ Việt Nam. Chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh tính cách quốc tế của chiến cuộc Việt Nam. Vì bị buộc phải chấp nhận để cho các đơn vị người ngoại quốc đóng quân ở Việt Nam, chúng tôi cảm thấy rằng một lực lượng quốc tế sẽ được xem là ít đe dọa đối với chủ quyền và tự ái của chúng tôi hơn là quân đội của chỉ một quốc gia. Chúng tôi nhận xét rằng: Nếu phải để cho quân đội ngoại quốc đóng quân ở Việt Nam thì chính phủ Việt Nam vẫn có thể giữ được nhiều uy tín hơn nếu những lực lượng trấn đóng là những lực lượng quốc tế. Đã đành rằng dù chọn cách nào thì vấn đề chọn lựa của chúng tôi chẳng qua cũng chỉ là những sự chọn lựa bất đắc dĩ, nhưng giữa hai điều bắt buộc phải chọn chúng tôi cho rằng cho phép một lực lượng quốc tế đóng quân ở Việt Nam vẫn là một điều dễ chấp nhận hơn.

            Kể từ sau ngày hội nghị Honolulu trở đi thì càng ngày tôi càng đi sâu vào các quyết định ngoại giao. Vào thời gian này nội các lại cải tổ và tôi được bổ nhiệm làm Phụ Tá Ngoại Trưởng kiêm Phụ Tá Đặc Biệt của Thủ Tướng. Việc thay đổi là do những sự xung đột giữa hai phe quân nhân và dân sự trong chánh phủ của hai ông Thiệu-Kỳ. Một trong những nhân viên dân sự là Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ người mà lúc nào tôi cũng kính trọng và coi như bậc đàn anh của tôi. Cụ Đỗ là một người ôn hòa và ít đồng ý với những ý kiến táo bạo của giới quân nhân. Nhiều phần tử trong giới quân nhân lại cho là cụ ôn hòa quá. Vào tháng ba, nhân có dịp cải tổ chánh phủ, nhiều quân nhân không ưa cụ đã vận động để thay thế cụ.

            Tuy thế, ông Phillip Habib (cố vấn Bộ Trưởng ở tòa đại sứ Hoa Kỳ lúc bấy giờ) lại rất trọng cụ Đỗ. Khi nghe dư luận Sài Gòn đồn đãi về việc chính phủ dự định thay thế cụ Đỗ, ông Phillip Habib chạy đến văn phòng tôi để tìm hiểu thêm. Tôi nói với ông Phillip Habib rằng ông Kỳ và những người trong nhóm quân nhân có dò hỏi tôi xem tôi có thể thay thế cụ Đỗ không nhưng tôi đã trả lời là không thể được.

            Khi cả hai chúng tôi bàn luận chi tiết thêm thì ông Habib lại còn lo lắng hơn. Cụ Đỗ là người được các giới ngoại giao kính trọng và tôi là một người có tiếng đã hợp tác chung với Hoa Kỳ nhiều năm. Nếu cả hai chúng tôi đều không chịu nhận trách nhiệm ở Bộ Ngoại Giao thì còn ai có thể làm việc được? Biết đâu nhân vật mới chẳng là một nhân vật hội đủ tiêu chuẩn cần thiết của các quân nhân nhưng sẽ khiến tòa đại sứ Hoa Kỳ phải gặp nhiều khó khăn? Ông Habib có vẻ chống đối việc cải cách. Cuối cùng thì tất cả những người tham gia đề xướng cải cách đều thỏa thuận như sau: Ông Đỗ vẫn là Ngoại Trưởng nhưng tôi sẽ là Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách những vấn đề đặc biệt. Tuy những tướng lãnh mang lập trường cứng rắn vẫn không hoàn toàn hài lòng nhưng vì tòa đại sứ đã bằng lòng nên họ vẫn phải gật đầu chấp nhận. Đối với tôi thì đây là một thắng lợi đáng kể. Trong cuộc tranh chấp với các thành phần quân nhân, lần này tôi đã giữ thêm được một đồng nghiệp cùng đồng quan điểm với tôi mà lại có tầm hiểu biết thấu đáo về những chính sách ngoại giao. Ảnh hưởng của tôi trong việc thiết lập chánh sách lại gia tăng thêm. Đây quả là một thắng lợi quý giá trong những cố gắng tiến dần đến để thiết lập một chánh phủ hợp hiến.

            Kể từ ngày sau cuộc họp thượng đỉnh ở Honolulu trở đi, tôi đã làm việc ở Bộ Ngoại Giao, cố gắng cải tiến mối bang giao với các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á và tìm cách nâng cao hình ảnh Việt Nam trên thế giới. Vì thế, việc chuẩn bị cho cuộc họp ở Manila lại chất chồng lên vai tôi cũng là chuyện tự nhiên.

            Ngoài mặt thì 4 vấn đề chính của chương trình nghị sự ở Manila là: Nhận xét tổng quát về tình hình chiến sự, duyệt lại những đề nghị hòa bình từ trước tới nay, nhận định những chiến lược nhằm kết thúc chiến cuộc và soạn thảo chương trình an ninh cho các vùng. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi sửa soạn cho cuộc hội nghị tôi đã thấy rõ ràng những vấn đề ưu tiên của 7 quốc gia hoàn toàn khác biệt và những vấn đề quan trọng lại quá nhiều, không thể sắp xếp tất cả mọi vấn đề vào hai ngày hội nghị được. Những vấn đề tiệc tùng, nghi lễ, thủ tục hội họp và những thủ tục khác đã choán hết phần lớn thì giờ. Khoảng thời gian còn sót lại chỉ vừa đủ để 7 quốc gia có thể bày tỏ tinh thần đoàn kết. Thật sự thì chỉ riêng sự có mặt của 7 vị nguyên thủ quốc gia cùng ngồi lại với nhau để cứu xét các vấn đề khó khăn cũng đủ khiến cuộc họp biến thành quan trọng.

            Cuộc họp thượng đỉnh ở Manila cũng chẳng khác gì các cuộc họp thượng đỉnh những lần trước đây, nhân vật nổi bật nhất vẫn là tổng thống Johnson. Ông bàn luận hăng say về chánh sách của Hoa Kỳ ở Á Châu, về vấn đề kêu gọi hòa bình và việc cần phải thể hiện quyết tâm chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Tổng thống Johnson tuyên bố: "Đối với những người ủng hộ tự do, đối với những người có trách nhiệm, đối với những người có lương tâm, ngoài cách phải đứng lên chống lại những hành động xâm lược có lẽ chẳng còn cách nào khác." Tuy không phải tất cả các vị nguyên thủ quốc gia đều là những người có tài hùng biện trôi chảy, nhưng tất cả đều đồng ý với tổng thống Johnson. Trong cuộc họp vị thống chế đầu bạc Kittikachorn của Thái Lan rất ít khi lên tiếng. Tổng thống Phác Chánh Hy của Nam Hàn lại còn im lặng hơn nữa. Nhưng cả Thủ Tướng Úc Đại Lợi Harold Holt (Thủ Tướng Harold Holt đã có tiếng là người ủng hộ lập trường của Tổng Thống Johnson.) lẫn Thủ Tướng Tân Tây Lan Keith Holyoake đều mạnh dạn phát biểu ý kiến rằng hai quốc gia Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan sẽ dốc lòng ủng hộ. Về phần Tổng Thống Ferdinand Marcos thì vui mừng trông thấy trong vai trò chủ tọa. Ông lăng xăng chạy từ vị lãnh đạo này sang vị lãnh đạo khác, cố làm cho sự hiện diện của mình được mọi người chú ý.

            Sau hai ngày hội họp, tất cả những vị nguyên thủ tham dự đều ký kết vào một bản tuyên ngôn. Có lẽ đã có nhiều nhân vật phản chiến cho rằng bản tuyên ngôn chỉ chứa đầy những ngôn từ rỗng tuếch và khiếm khuyết những chất liệu thực tiễn, nhưng riêng chúng tôi vẫn lấy làm hài lòng, ít nhất thì cũng là hài lòng do cả những khẳng định hậu thuẫn mới mẻ lẫn những lời hứa rút lui của Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh một khi Cộng Sản Bắc Việt chấm dứt xâm lược.

            Tiếp theo nghi lễ ký kết là một cuộc diễn hành từ khách sạn Manila tới Phủ Tổng Thống là Malacan Palace. Đây là một nghi lễ long trọng. Dẫn đầu là các vị quốc trưởng đi chung một hàng. Khổ người của Tổng Thống Johnson cao vượt hẳn lồ lộ trong hàng quốc trưởng. Sau lưng các quốc trưởng là các Bộ Trưởng và sau chót là những nhân viên tùy tùng của các phái đoàn. Xung quanh là những đám đông hoan hô. Hàng trăm ký giả, nhiếp ảnh gia tới lui nhộn nhịp biến đoàn người thành một cuộc diễn hành của 7 quốc trưởng. Hiển nhiên phía Hoa Kỳ đã vô cùng hân hoan. Thật ra cũng chẳng có vị quốc trưởng nào tỏ ý than phiền về việc dư luận quốc tế đã chú ý quá nhiều đến họ trong buổi diễn hành.

            Trong buổi tiệc tối đó, gần như tất cả mọi người đều vui vẻ hòa mình trong bầu không khí hội hè thoải mái. Tuy thế riêng tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Ngày hôm trước, những chuyện lủng củng dai dẳng giữa tôi và những tướng lãnh Việt Nam đã diễn ra trong một khung cảnh căng thẳng không mấy tốt đẹp. Chuyện xảy ra khi ông Thiệu, ông Kỳ và tôi đang dùng bữa tối cùng Tướng Nguyễn Hữu Có và tướng Cao Văn Viên. Tướng Có, nguyên là một trong những người có lập trường quân sự cứng rắn trước đây đã vận động để thay thế cụ Trần Văn Đỗ. Trong một phút đùa cợt ông Có đã nói: "Lần này khi về Sài Gòn chúng ta phải cắt gân Bùi Diễm mới được." Tôi đã giận dữ trả lời đại khái rằng: "Tôi đang làm việc cho quốc gia, tôi không thích nghe những lời chỉ trích vô lối cho dù rằng những lời chỉ trích đó chỉ là đùa cợt." Nghe tôi trả lời, Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên đã nửa đùa nửa thật: "Phải rồi, thằng nào mà đụng đến anh thì tôi dùng Dù tôi đánh bỏ mẹ nó đi." Tướng Có đã nhượng bộ và nói nhỏ rằng đây chỉ là chuyện nói giỡn cho vui. Tuy thế, hành động của Tướng Có vẫn khiến tôi cảm thấy buồn bã. Lời ông đùa bỡn là một dấu hiệu rõ rệt cho thấy những áp lực của giới quân nhân mà tôi đã mơ hồ cảm thấy vào lúc trước chẳng phải hoàn toàn do ảo tưởng.

            Khi buổi tiệc tối sắp kết thúc, tất cả những người khác trong phái đoàn Việt Nam cũng cảm thấy căng thẳng chẳng kém gì tôi nhưng lý do khiến họ căng thẳng lại hoàn toàn khác hẳn.

            Sáng sớm ngày đó, ông Phil Habib đã sang chỗ trú ngụ của chúng tôi xin phép được nói chuyện với riêng hai ông Thiệu và Kỳ. Ông Habib cho biết Tổng Thống Johnson đã quyết định đích thân đến thăm căn cứ của Hoa Kỳ ở vịnh Cam Ranh ngay sau cuộc họp. Nhưng vì lý do an ninh, ông sẽ không ghé Sài Gòn.

            Chúng tôi đã hiểu những lý do an ninh quá rõ: Chỉ riêng những diễn biến khủng bố thường xuyên ở Sài Gòn cũng đã đủ lý do khiến Hoa Kỳ phải đề cao cảnh giác. Tuy thế, chúng tôi vẫn cảm thấy nhục nhã vì việc này. Quyết định bất ngờ của Tổng Thống Johnson đã khiến chúng tôi không có đủ cả thời giờ để chuẩn bị cuộc tiếp đón cho đúng nghi lễ tiếp tân. Bởi vậy, vào ngay cả những khi buổi tiệc của tổng thống Marcos đang đến hồi vui nhộn nhất, chúng tôi vẫn lo lắng triền miên về chuyện phải cố gắng trở về để kịp thời sắp đặt những nghi lễ tiếp tân tối thiểu cho Tổng Thống Johnson vào ngày hôm sau.

            Mặc dầu chúng tôi đã cố giữ thể diện mà chuyến viếng thăm Cam Ranh của Tổng Thống Johnson vẫn làm cho chúng tôi phải bẽ mặt. Vị Tổng Thống Hoa Kỳ đã có thời giờ thăm viếng cả 6 thủ đô Á Châu mà lại không hề bước chân đến Sài Gòn, thủ đô của một đồng minh nơi hơn 300,000 binh lính Hoa Kỳ đang chiến đấu. Dĩ nhiên chúng tôi hiểu rằng lúc này đang giữa lúc chiến tranh và Hoa Kỳ không thể để bất kỳ sơ hở nào có thể ảnh hưởng đến việc an nguy của vị Tổng Thống của họ. Nhưng việc Hoa Kỳ công khai ngờ vực khả năng bảo vệ của chúng tôi thật quả đã làm chúng tôi mất mặt. Những người lãnh đạo Việt Nam đã phải cố gắng âm thầm nuốt liều thuốc đắng. Họ vẫn không hề hay biết rằng rồi đây trong những năm tới sẽ còn có những liều thuốc khác đắng hơn đang đợi chờ họ. Đây là một phần của cái giá Việt Nam phải trả cho sự lệ thuộc vượt mức của Việt Nam vào Hoa Kỳ.

            Tổng Thống Johnson đã đến Cam Ranh vào ngày 26, tháng 10-1966. Ông chỉ ghé đây khoảng nửa ngày. Khi nói chuyện với những binh lính tụ họp để hoan hô ông, ông đã tuyên bố: "Chúng tôi xin hứa sẽ không bao giờ để các anh, các chiến hữu của các anh, 15 triệu dân Việt Nam và hàng trăm triệu người Á Châu khác đang tin tưởng vào Hoa Kỳ phải thất vọng. Chúng ta phải chứng minh rằng ngay tại nơi này -tại Miền Nam Việt Nam- ý đồ xâm lược của cộng sản chắc chắn không thể thành tựu."




            Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
            Phan Lê Dũng
            #21
              sóng trăng 02.12.2006 07:43:03 (permalink)
              .
               
              Chương 22
              Hiến Pháp Dân Chủ


              Ở Sài Gòn lúc này bản Hiến Pháp đã được soạn thảo xong. Đây là bản Hiến Pháp đầu tiên, đánh dấu những nỗ lực dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc Hội Lập Hiến đã bỏ ra rất nhiều thời giờ soạn thảo bản hiến pháp. Nếu nhìn vào cả phạm vi lai lịch lớn rộng của các thành phần trong ban soạn thảo lẫn thời gian họ cùng nhau thảo luận trước khi đưa ra bản dự thảo hiến pháp thì có lẽ ai cũng có thể thấy rằng bản dự thảo của quốc hội lập hiến lúc đó là quả là một công trình đáng kể. Bản dự thảo Hiến Pháp đề nghị một chánh phủ bao gồm ba cơ quan chính là Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp. Cơ quan Lập Pháp gồm hai viện là Thượng Viện và Hạ Viện. Cơ quan Hành Pháp gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng. Nhìn vào quá trình chính trị của Việt Nam suốt trong khoảng hai thập niên 1950-1960 thì quả thật nét nổi bật nhất là đảo chánh và xáo trộn. Hết chế độ độc tài này cho đến chế độ độc tài khác thay phiên nhau đưa ra những chính sách chẳng có căn bản gì nhất định. Hết ông Diệm lật đổ Bảo Đại lại đến các tướng tá đảo chánh ông Diệm. Sau đó chính các tướng tá đảo chánh lại bị chỉnh lý để mở đường cho một chính phủ dân sự đầu tiên chỉ nắm quyền được trong vòng năm tháng. Cuối cùng thì chính phủ của Miền Nam Việt Nam lại được những người quân nhân đứng ra lãnh đạo. Bản Hiến Pháp lúc này có lẽ phản ảnh rõ hơn bao giờ hết sự quan tâm của những người soạn thảo Hiến Pháp đối với tình trạng xáo trộn của Việt Nam trong quá khứ. Guồng máy chính phủ do bản Hiến Pháp đề ra cho thấy những người soạn thảo Hiến Pháp đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải tìm cách để ngăn ngừa những trường hợp độc tài. Hiến Pháp đề nghị một guồng máy chính phủ bao gồm Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng và cơ quan Lập Pháp. Vào lúc này thì câu hỏi chính là: Liệu những người trong chánh phủ quân nhân có đồng ý hay không? Đây có lẽ là lý do họ triệu tôi về để tham khảo ý kiến. Họ muốn biết rõ Hoa Kỳ suy nghĩ ra sao về vấn đề Hiến Pháp của Việt Nam.

              Thật ra đây là một câu hỏi tôi có thể trả lời ngay. Việc Hoa Kỳ quan niệm ra sao đối với vấn đề thành lập một chánh phủ hợp hiến là một việc tôi đã rõ từ lâu. Quan niệm này mọi người cũng đã thấy rõ ở hội nghị Honolulu. Tuy thế, trước giờ khởi hành để về lại Việt Nam, tôi vẫn đến gặp ông Walt Rostow để duyệt lại tình hình tổng quát ở cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Ông Rostow khẳng định rằng chính phủ Hoa Kỳ chắc chắn đã đồng ý chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp và vấn đề công bố bản Hiến Pháp quả là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với tổng thống Johnson. Ông Rostow cho rằng tổng thống Johnson mong Việt Nam chấp thuận bản hiến pháp vì hai lý do. Thứ nhất, đây là một hành động để chứng tỏ rằng những quân nhân lãnh đạo Việt Nam là những người biết trọng lời hứa. Thứ hai là ông có thể dùng thành quả này để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ rằng việc Hoa Kỳ can thiệp là hoàn toàn xác đáng.

              Kể từ năm 1967, Hoa Kỳ đã bắt đầu giảm dần những sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam. Nguyên do của vấn đề giảm thiểu là vì nỗ lực can thiệp của họ chẳng mang lại thành quả nào cụ thể. Lúc này, tuy đã có khoảng 400,000 binh sĩ Hoa Kỳ đóng ở Việt Nam mà vẫn chưa ai nhìn thấy sự thành công nào rõ rệt. Vì thiếu những thành quả trên lãnh vực quân sự nên Hoa Kỳ thấy cần phải có những tiến triển trên lãnh vực chính trị. Những tiến triển này có thể cho phép chánh phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng: "Tuy chúng tôi vẫn chưa thể khẳng định được những thành công về mặt quân sự nhưng vẫn có những tiến triển khả quan trên những phương diện khác."

              Nếu muốn có những thành quả chính trị ở Việt Nam thì dĩ nhiên Hoa Kỳ phải đẩy mạnh việc chấp thuận hiến pháp. Trước khi tôi lên đường, ông Robert Komer cũng tiết lộ rằng chính vấn đề này đã khiến chánh phủ Hoa Thịnh Đốn đang dự định một cuộc họp thượng đỉnh khác. Lần này thì cuộc họp được dự trù ở Guam, một hòn đảo ở Thái Bình Dương.

              Tôi trở lại Sài Gòn vào ngày 6 tháng 3-1967, khi thành phố đang trong bầu không khí lạc quan. Lý do chính của sự lạc quan là do hai yếu tố: Thứ nhất: Bất kể cuộc chiến nghiêng ngửa ra sao thì mọi người vẫn có cảm tưởng là cuộc chiến vẫn còn ở xa. Thứ Hai: Việt Nam vẫn được một đồng minh vĩ đại đấu lưng giúp sức. Tình trạng này khiến Bắc Việt không thể nào đoạt được thắng lợi. Nhưng niềm lạc quan của Sài Gòn một phần khác cũng còn là vì bản Hiến Pháp lúc này đã được hoàn tất. Đây là một công việc đã chiếm lĩnh phần lớn tâm trí của nhiều đoàn thể chính trị trong suốt nửa năm trời.

              Nhưng lúc này, ở Hoa Thịnh Đốn những người đang chỉ trích chiến cuộc lại gạt bỏ tất cả những tiến triển dân chủ ở Sài Gòn sau cuộc bầu cử. Đối với họ thì những phong trào dân chủ chẳng hạn như -Bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, soạn thảo hiến pháp mới và những cuộc bầu cử sau khi có hiến pháp chẳng qua chỉ là những bức họa trang trí mà Hoa Kỳ đang nóng lòng đắp điếm để cố giúp Việt Nam thể hiện phần nào bộ mặt dân chủ. Thật sự thì chánh quyền Johnson quả có lợi dụng những nỗ lực ở Việt Nam để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ cho những chánh sách của họ, nhưng chính người dân Việt Nam cũng có chủ trương hẳn hoi về vấn đề dân chủ. Đây là việc khó thể chối cãi.

              Sau 100 năm chung đụng với người Pháp, người dân Việt đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Một mặt thì họ bị tiêm nhiễm những ảnh hưởng xấu của người Pháp, chẳng hạn như về vấn đề bè phái, nhưng mặt khác họ cũng thấm nhuần được những ảnh hưởng có lợi cho vấn đề áp dụng dân chủ. Một trong những ảnh hưởng đáng kể là chính trị đã nhiễm vào tập quán của người dân Việt và nếu môi trường cho phép thì chắc chắn quan niệm dân chủ sẽ có dịp phát triển ở Việt Nam. Nếu chỉ nói riêng về khả năng tiếp nhận những quan niệm dân chủ thì người dân Việt quả hoàn toàn không khác gì những dân tộc khác. Khi đã có cơ hội để tìm hiểu và áp dụng những quan niệm dân chủ, người dân Việt Nam sẽ học hỏi vô cùng nhanh chóng. Hơn nữa, một khi tiến trình dân chủ đã bắt đầu thì đà cải tiến thường tự phát xuất mỗi ngày một nhanh.

              Kết quả là ở Sài Gòn chẳng ai là người không tranh luận về vấn đề hiến pháp. Những đoàn thể chính trị đã bàn cãi sôi nổi, nhưng các giới lãnh đạo quân nhân lại còn bàn cãi sôi nổi hơn vì lúc này quyền quyết định chấp thuận hay không là ở trong tay họ. Đây là lúc các tướng lãnh sẽ phải chấp nhận hoặc bác bỏ thể thức dân chủ ngay trước dư luận trong nước và ngoài nước.

              Dĩ nhiên các tướng lãnh không lấy gì làm vui vẻ chấp nhận bản hiến pháp mới này, nhất là những vị tư lệnh vùng chiếm đóng ở 4 quân khu. Họ sẽ bị mất mát rất nhiều quyền lợi. Nếu chính phủ Việt Nam là một chính phủ dân chủ thì những tư lệnh vùng sẽ phải phụ thuộc vào những người lãnh đạo chính trị. Hơn nữa, đối với những người sắp được bầu ra, họ hoàn toàn không có chút gì ảnh hưởng. Đây là vấn đề chính mà họ quan tâm. Những tư lệnh vùng lý luận rằng họ là những người đang điều động chiến cuộc và họ chẳng thể hao tổn thời giờ để đối phó với những sự rối ren, bất trắc của một chính phủ hợp hiến. Họ hoàn toàn không tin vào việc thành lập một chánh phủ dân sự.

              Vừa đặt chân về tới Sài Gòn tôi đã bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận sôi nổi trong cả hai giới quân sự lẫn dân sự. Bất kỳ nơi nào tôi đến, câu hỏi đầu tiên vẫn là: "Người Hoa Kỳ phản ứng ra sao về vụ này?" Lúc nào tôi cũng trả lời: "Đương nhiên Hoa Kỳ hoàn toàn ủng hộ việc chấp thuận bản hiến pháp, nhưng đối với tôi đây không phải là vấn đề quan trọng. Vấn đề quan trọng chính là chúng ta phải tự hỏi xem liệu hiến pháp có cho chúng ta thêm phần sức mạnh nào trong công cuộc tranh đấu chống cộng hay không?" Câu trả lời mạnh dạn của tôi là: "Có."

              Tôi dùng hết cả thì giờ vào việc góp ý kiến với các ông Thiệu, ông Kỳ và các vị tướng lãnh khác. Tôi nói với họ rằng chúng ta phải hành động đi đôi với lời đã hứa trước kia ở Honolulu. Không có lý do gì có thể khiến chúng ta hành động trái nghịch lại với lời nói của chính mình. Hơn nữa, chúng ta phải tiến hành mọi việc cho kỹ càng, minh bạch càng sớm càng tốt.

              Khi nói chuyện với ông Thiệu và ông Kỳ tôi thấy dường như mình đang đẩy vào một cánh cửa đã hé. Mặc dù ông Thiệu và ông Kỳ chưa quyết tâm đồng ý, tôi cho rằng họ đã ngấm ngầm chấp nhận ý kiến hiến pháp và bầu cử. Trước hết họ hiểu được tư thế của Hoa Kỳ. Họ cũng hiểu được tầm quan trọng của những lời họ phát biểu trước đây. Thứ hai là họ còn biết rằng Hiến Pháp vẫn không tước đoạt quyền lãnh đạo của họ. Nhất là khi chính họ sẽ giữ thế thượng phong trong việc điều hành các cuộc bầu cử tổng thống. Vì vậy, vấn đề đối với họ hoàn toàn khác hẳn đối với những vị tướng lãnh khác. Chẳng có gì đáng chống đối và hơn nữa lại có rất nhiều lý do chính đáng để họ được thêm uy tín khi tiến đến một chánh thể dân chủ. Theo cách nhìn của tôi thì rõ ràng tất cả mọi yếu tố đều là những yếu tố khả quan. Nếu ông Thiệu và ông Kỳ càng có nhiều lý do riêng để chấp thuận Hiến Pháp bao nhiêu thì việc chấp thuận lại có triển vọng càng nhiều bấy nhiêu. Vấn đề chính là làm thế nào để phát động mọi việc.

              Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 3-1967, ông Thiệu và ông Kỳ đã triệu tập một buổi họp chánh thức ở dinh độc lập. Cuộc họp bao gồm tất cả Bộ Trưởng và các Tư Lệnh quan trọng trong giới lãnh đạo quân sự. Sau khi đã tranh luận kỹ lưỡng và đề cập tất cả mọi khía cạnh cũng như chi tiết của vấn đề Hiến Pháp, ông Thiệu thúc dục tôi bày tỏ ý kiến. Khi giới thiệu tôi, ông Thiệu có ý thầm nhắc rằng những điều tôi sắp trình bày sẽ là ý kiến của Hoa Kỳ. Ông giới thiệu tôi là: "Một nhân vật của Hoa Thịnh Đốn."

              Tôi trình bày ý kiến của tôi một cách ngắn gọn và nhắc lại rằng tôi đã ủng hộ việc soạn thảo bản hiến pháp kể từ lúc đầu. Sau đó tôi nói thêm: "Những kinh nghiệm trên chính trường quốc tế đã cho tôi thấy chánh quyền Việt Nam phải tỏ rõ quyết tâm tiến tới một chánh thể dân chủ hợp hiến. Hơn nữa, nếu không chấp thuận bản hiến pháp thì cũng chẳng còn giải pháp nào khác hơn." Khi tôi dứt lời, cuộc bỏ phiếu bắt đầu. Tất cả đều đồng lòng chấp thuận bản hiến pháp. Vài ngày sau, khi hiến pháp đã được công bố, thì ông Bill Bundy đến Sài Gòn và thông báo rằng Tổng Thống Johnson đã dự định một cuộc họp Thượng Đỉnh vào ngày 20 tháng 3-1967 ở Guam. Vì đã quen với những thủ tục tổ chức qua hai cuộc họp thượng đỉnh ở Manila và Honolulu lúc trước, tôi lại được đề cử sắp xếp mọi việc lần này. Nhờ đã có chút kinh nghiệm nên công việc sắp xếp lần này không còn hấp tấp và bỡ ngỡ như những lần trước. Tuy vậy, công cuộc sắp xếp lại gặp rắc rối vì một biến chuyển bất ngờ ở Liên Hiệp Quốc vào ngày 14 tháng 3-1967.

              Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant là một người phản chiến. Ông ít có kinh nghiệm về những đòn phép của Bắc Việt và tin tưởng thật thơ ngây rằng Hà Nội sẽ vui lòng đàm phán Hòa Bình. Trước đây ông đã gặp các đại biểu của Hà Nội và sau khi cùng họ thảo luận các vấn đề đàm phán hòa bình, ông Thant có gửi một bản văn thư đến cho ông Arthur Goldberg, đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc. Trong bản văn thư đó, ông Thant chánh thức đề nghị việc đàm phán đình chiến và tạo dựng hòa bình giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Bắc Việt.

              Nói chung thì Hoa Kỳ vẫn xem thường ông U Thant và có vẻ nghi ngờ các đề nghị đàm phán của ông, nhưng với bản tính nghi kỵ cố hữu của người Việt Nam thì sự trùng hợp ngẫu nhiên về thời điểm mà ông U Thant đưa ra các đề nghị và thời điểm của cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đúng là do Hoa Kỳ ngấm ngầm xếp đặt. Tại Việt Nam, tin đồn bắt đầu vang động rằng cuộc họp thượng đỉnh đã được dàn xếp để đẩy phần lợi về phía Hoa Kỳ và ép buộc Việt Nam vào thế yếu trong chiến cuộc. Hậu quả là chúng tôi đã phải bỏ ra rất nhiều thời giờ để trả lời ông U Thant và làm tất cả những gì chúng tôi có thể làm để đánh tan dư luận.

              Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam lần này là lần hội kiến thứ ba của Hoa Kỳ và các lãnh tụ MNVN. Lần này cả hai phái đoàn đều cố gắng đi thẳng vào vấn đề. Tổng Thống Johnson vẫn đi cùng những nhân vật quan trọng như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara, ông Walt Rostow và những tư lệnh quân sự tối cao khác. Ông Thiệu, ông Kỳ cũng cùng đi với các Bộ Trưởng cao cấp của Việt Nam.

              Cuộc họp tiến hành vào ngày thứ hai, 20 tháng 3-1967. Ngoài việc duyệt lại tổng quát tình hình chiến sự, chương trình nghị sự còn bao gồm cả ba vấn đề chính: Những đề nghị đàm phán hòa bình của Tổng Thư Ký U Thant, những tiến triển chính trị ở Việt Nam và những nỗ lực đàm phán hòa bình. Tuy thế, khi mọi người vừa an vị thì Tổng Thống Johnson lại đưa thêm một vấn đề nữa vào chương trình nghị sự. Ông giới thiệu hai nhân vật mới của Hoa Kỳ là ông Ellsworth Bunker và ông Robert Komer. Ông Ellsworth Bunker sẽ là đại sứ ở Việt Nam thay thế đại sứ Henry Cabot Lodge và ông Robert Komer sẽ đến Việt Nam để điều hành chương trình xây dựng nông thôn trên cả hai lãnh vực quân và dân sự.

              Chúng tôi đã biết về việc đề cử từ trước nhưng gần như tất cả phái đoàn Việt Nam đều tò mò về ông đại sứ mới. Đây chỉ là nói một cách nhẹ nhất. Ở thời điểm này cương vị đại sứ chẳng những đã ảnh hưởng các thể thức điều động chiến cuộc mà còn ảnh hưởng cả đến tình hình nội bộ của Việt Nam nữa. Những tháng kế tiếp sẽ là những giai đoạn chính trị tối quan trọng của Việt Nam vì cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam đã được dự định vào mùa thu năm đó. Giữa lúc này bỗng nhiên một nhân vật hoàn toàn mới lạ lại bước vào chính trường Việt Nam.

              Ông Ellsworth Bunker ngồi im tại bàn, không hề phát biểu gì nhiều. Khổ người ông dong dỏng cao và tuy đã nhiều tuổi mà trông ông vẫn có vẻ quắc thước và rõ ràng đầy ắp nghị lực. Ông vươn cổ về phía chúng tôi như thể muốn thu gọn tất cả các khuôn mặt Việt Nam vào một cái nhìn. Phong thái nghiêm trang của ông khiến người đối diện phải có đôi phần dè dặt. Chỉ ít lâu những người Việt Nam đã gọi ông là "Ông Già Tủ Lạnh." Lúc đó, chẳng một ai trong chúng tôi lại có thể ngờ rằng ông Bunker lại chính là một người bạn hết sức thành thực của Việt Nam về sau này.

              Khi phần giới thiệu đã qua, hai phái đoàn bắt đầu chính thức thảo luận theo chương trình nghị sự. TT Johnson vẫn chủ tọa cuộc họp như thường lệ. Phong cách của ông thật linh hoạt. Nếu quả thật ông không còn tin tưởng hoàn toàn vào các nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam thì trong buổi họp hôm đó vẫn chưa ai nhận thấy có bất kỳ cử chỉ nào đáng ngờ. Ông quay về hướng các cố vấn và phụ tá vây quanh, đưa ra những câu hỏi, hỏi sâu thêm vào chi tiết và ra lệnh trong vẻ vững vàng của một vị nguyên thủ hoàn toàn tự chủ. Tuy lần này ông không còn dùng những câu thành ngữ khó hiểu như lần họp trước, TT Johnson vẫn đòi hỏi những thành quả cụ thể và cấp tốc.

              Chỉ có một người duy nhất dường như không bị những cách trình bày cả quyết của Tổng Thống Johnson ảnh hưởng tí nào là Bộ Trưởng McNamara. Ông im lặng một cách vô cùng lạ kỳ và quên cả ghi chép vào những tờ giấy ghi chú màu vàng nho nhỏ như thường lệ. Thái độ trầm tư của ông thật là khó hiểu. Thực sự thì lúc đó tôi cũng không để ý nhiều đến thái độ trầm tư của ông. Mãi về sau này chúng tôi mới biết vị Bộ Trưởng Quốc Phòng đã nghi ngờ những nỗ lực can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.

              Ở Guam, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều có vẻ tự tin và hòa nhập dễ dàng với những người lãnh đạo Hoa Kỳ hơn bất kỳ lúc nào trước đây. Họ đã nắm quyền trong suốt hai năm trời và ở một mức độ nào đó đã trưởng thành trong khi làm việc. Hơn nữa, chỗ đứng của họ lại vững vàng hơn trước. Dĩ nhiên là vững vàng hơn nhiều so với lúc còn ở Honolulu, khi họ vẫn còn đang phải nỗ lực để tự tạo uy tín riêng. Hiện giờ, mới chỉ hơn một năm sau, họ đã có thể tuyên bố rằng mình đã chu tất lời hứa khi công bố hiến pháp và dàn xếp sửa soạn cho cuộc bầu cử toàn quốc. Đây là một giây phút hãnh diện cho họ nói riêng và cho toàn thể Việt Nam nói chung.

              TT Johnson đón nhận những thành quả của Việt Nam thật nồng nhiệt. Ông có vẻ vẫn chú tâm vào cả hai phương diện: Về yếu tố nhân sự cũng như về chính trị toàn cầu. Ông thật khác với những người như Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng McNamara. Những người này chỉ chú tâm đến những sách lược toàn cầu hơn là về bất cứ điều gì khác. Theo tôi thấy thì có lẽ trong thâm tâm tổng thống Johnson, những vấn đề có liên quan đến yếu tố nhân sự vẫn chiếm lĩnh phần lớn. Ở Honolulu ông đã tiếp xúc với ông Thiệu và ông Kỳ mặt đối mặt và kết cục đã quyết tâm giúp đỡ người Việt.

              Cá tính này bộc lộ rõ rệt ở cuộc họp thượng đỉnh ở Guam khi quan hệ giữa ông và hai ông Thiệu, Kỳ ngày càng tiến triển. Cả chính cá nhân tôi cũng đã có lần được tổng thống Johnson chú tâm. Một lần, trong khi đang dùng bữa trưa, ông đã hỏi tôi có liên hệ gì với đặc sứ Bùi Viện, một đặc sứ được vua Tự Đức gửi sang Hoa Kỳ vào thời gian Tổng Thống Ulysses S. Grant hay không. Đầu tiên tôi không nhận rõ được là ông Johnson đang nói về ai nhưng sau ba bốn lần lập lại, tôi đã trả lời rằng giữa tôi và đặc sứ Bùi Viện thật chẳng có liên hệ gì cả. Đặc sứ Bùi Viện được Tổng Thống Ulysses S. Grant tiếp đón nhưng không được ủng hộ. Tôi cũng nói thêm rằng tôi là chắt nội của đặc sứ Bùi Dỵ, còn có tên là Bùi Ân Niên, cũng là đặc sứ cùng thời với đặc sứ Bùi Viện nhưng lại được cử làm đặc sứ sang Trung Hoa vào thời đó. Tổng thống Johnson có vẻ thất vọng nhưng cũng đề cập ngay trong buổi họp rằng chắc chắn tôi sẽ được nhiều may mắn hơn vị đặc sứ khi trước.

              Điều làm tôi chú ý là việc Tổng Thống Johnson đã bỏ thời giờ cho lệnh các nhân viên thuộc cấp xem xét lai lịch của cả đến những nhân viên phụ tá của ông Thiệu và ông Kỳ để thiết lập những mối liên hệ cá nhân. Đây là cá tính nổi bật của Tổng Thống Johnson. Khi bàn luận với ông, tôi biết rằng mình đang bàn luận với một người nhìn vấn đề đặt trên quan niệm nhân sự. Bất kể ông thành bại ra sao, lúc nào tổng thống Johnson cũng quan niệm thất bại dựa trên phương diện nhân sự. Dù cho tầm mức cần thiết của quyết định thực sự quan trọng đến mức nào, ông vẫn bị ám ảnh nếu những quyết định này đưa đến hậu quả đau khổ cho người khác. Khi đã hiểu rõ cá tính của Tổng Thống Johnson, tôi cảm thấy có cảm tình với ông. Ngay cả sau khi ông đã rời Tòa Bạch Ốc, tôi vẫn giữ mối giao hảo với ông.

              Trong suốt cuộc họp, chỉ có một tin xấu làm lệch lạc các chính sách xây dựng nông thôn là vấn đề khó khăn trong nỗ lực kiểm soát miền quê và kêu gọi nông dân hợp tác với chính phủ. Tại những vùng ở miền Trung, phẫn uất đối với chánh quyền Sài Gòn vẫn còn nhiều. Vì thế Việt Cộng đã tìm được cơ hội lợi dụng ở rất nhiều nơi. Tại những miền này và vài nơi khác Cộng Sản đã cố mở rộng ảnh hưởng và cố nắm phần chủ động, mặc dù mỗi lần chạm mặt, Việt Cộng vẫn bị đập tan không còn manh giáp.

              Những tiến triển về xây dựng nông thôn không được khả quan cho lắm vì một phần lỗi lầm dẫn đến tình trạng này là do những hành động sai lầm của quân đội MNVN. Tuy quân số của quân đội Việt Nam đã tăng cường rất nhiều vào năm trước đây, việc huấn luyện những tân binh vào quân đội vẫn chưa hoàn toàn thành công. Một yếu tố quan trọng khác là do sự phân định trách nhiệm không được rõ rệt giữa quân đội chính qui và các lực lượng địa phương quân, nhất là giữa các đơn vị Hoa Kỳ và các đơn vị Việt Nam. Thường thì quân đội Việt Nam được lệnh phối hợp với quân đội Hoa Kỳ, nhưng khi đi vào chi tiết thì mọi việc hoàn toàn lộn xộn. Theo ông Robert Komer thì: "[Tình trạng khó khăn là] do hậu quả của sự thiếu phối hợp. Thay vì phối hợp thì các đoàn thể lại tranh chấp những phương tiện khan hiếm cho riêng tổ chức của mình. Thế là thay vì tìm cách hợp tác các đoàn thể lại tìm cách tranh chấp, cản trở lẫn nhau."

              "Cản trở lẫn nhau" quả là cách diễn tả xác thực tình trạng ở Việt Nam lúc đó. Những công chức Việt Nam chưa hiểu rõ nhiệm vụ của mình thường được thượng cấp cho lệnh phối hợp hoạt động cùng các nhân viên Hoa Kỳ. Nhưng phối hợp với những nhân viên Hoa Kỳ nào? Có quá nhiều các cơ quan Hoa Kỳ cùng hoạt động ở miền quê. MACV, USAID, JUSPAO, CIA, DIA. Đó chỉ mới là danh sách sơ lược của một vài cơ quan. Thường thì các hoạt động cứ chồng chất lên nhau và lập lại y khuôn những hoạt động trước. Rồi thì các cơ quan bỏ ra hầu hết thời giờ để đối phó với nhau. Xây Dựng Nông Thôn là bổn phận và trách nhiệm của mọi người, nhưng rút cục chẳng phải là bổn phận và trách nhiệm của ai cả.

              Cuộc họp thượng đỉnh ở Guam đương đầu với vấn đề cản chân dây chuyền bằng cách đề cử ông Robert Komer điều hành trông coi toàn thể mọi nỗ lực Xây Dựng Nông Thôn. Ông và tướng Nguyễn Đức Thắng được giao phó nhiệm vụ xếp đặt cho có qui củ những chương trình khác biệt. Lúc này, chương trình Xây Dựng Nông Thôn được soạn thảo để áp dụng ngay sau khi cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam chấm dứt. Chương trình Xây Dựng Nông Thôn nhằm mục đích tạo cho Việt Nam một thế đứng trong tương lai để có thể tự lực cánh sinh, khỏi cần đến quân đội Hoa Kỳ. Và nếu có cần thì cũng chỉ cần viện trợ kinh tế mà thôi.

              Trên phương diện này, cuộc họp ở Guam đã khởi đầu chính sách "Việt Nam Hóa Chiến Tranh", một chánh sách mà hai năm sau Tổng Thống Nixon sẽ chánh thức áp dụng. Tuy thế, vào tháng 3 năm 1967, vẫn chưa ai nghe gì đến danh từ "Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Lúc này, tên của các chương trình có liên quan đến chiến cuộc vẫn là "Chiến Tranh Ăn Mòn" ("war of attrition") hoặc "Tia Sáng Cuối Đường Hầm." Vì vẫn chưa ai biết rõ thời điểm kết thúc của chiến cuộc Việt Nam mà chính quyền Johnson lại muốn có thành quả rõ rệt nên Hoa Kỳ đã chuyển viện trợ cho Việt Nam cả về chính trị, kinh tế lẫn quân sự. Nỗ lực viện trợ của Hoa Kỳ thay đổi là vì họ muốn thấy thành quả một cách rõ rệt. Nếu chưa thể có những thành quả đáng kể về mặt quân sự thì ít ra chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn thấy rằng sự ủng hộ của họ đã mang lại thành quả trên những lãnh vực khác chẳng hạn như kinh tế hoặc chính trị. Nói một cách rõ hơn thì Hoa Kỳ đã bắt đầu sốt ruột.

              Chúng tôi cũng đã bàn bạc riêng với nhau về các vấn đề khó khăn. Mặc dù chưa có dấu hiệu gì rõ rệt cho thấy rồi đây Hoa Kỳ sẽ rút lui, tôi đã cố khuyên nhủ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ về việc cần thiết phải sửa soạn trước tình trạng nội bộ của Việt Nam để phòng bị trường hợp phải đối phó với sự rút lui của Hoa Kỳ.

              Nếu bảo rằng đây là những vấn đề đã chiếm lĩnh đầu óc chúng tôi khi đến họp ở Guam thì cũng không hoàn toàn đúng hẳn. Những suy nghĩ của chúng tôi, hoặc ít ra là của riêng tôi, hoàn toàn được dựa trên những điều mà tôi cho là thận trọng tối thiểu và hữu lý. Sau cuộc họp tất cả đều cho rằng đây là một cuộc họp với kết quả khả quan, tuy rằng nhận xét này vẫn có vẻ đúng cho phái đoàn Việt Nam hơn là cho phái đoàn Hoa Kỳ. Hoa Kỳ hứa sẽ tiếp tục viện trợ và tham khảo ý kiến Việt Nam trong mọi biến chuyển liên quan đến những đề nghị đàm phán hòa bình của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant. Chúng tôi vô cùng hài lòng khi thấy Hoa Kỳ có ý nhấn mạnh các chương trình Xây Dựng Nông Thôn. Nếu chúng tôi có lo lắng thì cũng chỉ là lo lắng cho những cuộc bầu cử sắp đến của Việt Nam mà thôi. Tại Việt Nam lúc này cuộc bầu cử đã đi đến giai đoạn tổng tuyển cử toàn quốc. Chỉ còn vẻn vẹn 5 tháng trước khi cuộc tổng tuyển cử bắt đầu. Đây là lần đầu tiên Việt Nam được tự do bầu cử Tổng Thống. Khi cuộc họp ở Guam kết thúc, ông Thiệu và ông Kỳ đã bắt đầu sửa soạn các chiến dịch vận động. Vì đã quen với sự hiện diện của tôi sau nhiều năm cộng tác ròng rã, hai ông Thiệu, Kỳ đã quên rằng tôi nay đã làm đại sứ và không còn là một nhân vật trong chánh phủ Sài Gòn nữa. Họ mời tôi cùng lên đường về nước. Vào lúc đó, tôi cũng vừa nhận được một lời mời khác của Tổng Thống Johnson. Ông muốn tôi cùng bay chung chuyến bay với ông về Hoa Thịnh Đốn. Đây là một cử chỉ thân thiện của ông. Do đó vào ngày 21-3, tôi chia tay các bạn bè VN để tháp tùng đoàn tùy tùng của TT Johnson trên chuyến bay riêng của ông ngược về hướng đông.

              Chiếc phi cơ phản lực Air Force One được trang trí một cách hết sức tỉ mỉ. Con dấu Tổng Thống dường như được khắc vào tất cả mọi vật, kể cả từ khăn tay, gạt tàn thuốc cho đến những bộ dao nhỏ. Tôi vừa an vị trên chuyến bay thì một nhân viên đến mời tôi đến khu dành riêng của Tổng Thống để cùng ông xem phim. Tôi đến Cabin vào lúc Tổng Thống Johnson đang nằm dài trên chiếc ghế nghỉ cùng với các ông Rusk, McNamara và Rostow ngồi quanh chiếc Sofa bao quanh. Tôi ngồi chung vào với họ và chúng tôi cùng xem một cuốn phim tài liệu ngắn.

              Cuốn phim trình bày vấn đề Trung Quốc đang sửa soạn để trở thành một cường quốc nguyên tử, nhưng tôi thấy mình không quan tâm vào màn ảnh bằng quan tâm đến những người đang ngồi xem phim. Tổng Thống Johnson ngồi xem thật trầm tư và phát biểu rất ít. Tôi tự hỏi không hiểu ông đang nghĩ gì và đoán rằng nếu ông đang suy tư về "yếu tố Trung Hoa" trong phương trình chiến cuộc Việt Nam thì có lẽ ông cũng không xem nhẹ Trung Hoa cho lắm. Tôi cũng suy nghĩ về những giới hạn Tổng Thống Johnson tự đặt ra khi cho lệnh phát động chương trình oanh tạc Bắc Việt. Giới hạn chương trình oanh tạc được đưa ra chẳng qua cũng chỉ để tránh khiêu khích Trung Hoa nhảy vào cuộc. Lúc này, chưa một ai trong chúng tôi có thể đoán trước được rằng chỉ độ vài năm sau, hai nước Xã Hội Chủ Nghĩa đang đậm đà trong một tư thế liên minh chính họ đã gọi là "Môi với Răng" lại có thể trở thành thù địch.

              Chín giờ sau, máy bay đáp xuống căn cứ không lực Andrew bên ngoài Hoa Thịnh Đốn. Từ nơi này, chúng tôi lên trực thăng để đáp xuống bãi cỏ phía sau Tòa Bạch Ốc. Tại tòa đại sứ, vào ngày hôm sau, đúng với lệ thích lưu lại kỷ niệm của người Hoa Kỳ, tôi nhận được một tấm khung lồng bản ghi rằng tôi đã cùng Tổng Thống Johnson bay qua biển Thái Bình Dương trên chuyến bay Air Force One.




              Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
              Phan Lê Dũng
              #22
                sóng trăng 02.12.2006 13:09:35 (permalink)
                .
                 
                Chương 23
                Khung Cảnh Hậu Trường


                Khung cảnh yên tĩnh ở Hoa Thịnh Đốn vào cuối tháng 3 năm 1967 thực là phù hợp với tâm trạng phấn khởi của chúng tôi khi từ Guam trở về. Ở Hoa Kỳ lúc này những phong trào phản chiến vẫn tiếp diễn và ngày càng lan rộng, nhất là ở các khuôn viên đại học. Những Thượng Nghị Sĩ chống đối chiến tranh Việt Nam điển hình nhất trong lúc này là những Thượng Nghị Sĩ của đảng dân chủ như các Thượng Nghị Sĩ Morse, Church, McGovern và Fullbright. Tuy các cuộc chống đối đang lan rộng nhưng trong cuộc bầu cử quốc hội Hoa Kỳ năm 1966 đa số các dân biểu và thượng nghị sĩ của đảng Dân Chủ vẫn thắng cử ở cả Hạ lẫn Thượng Viện và thời hạn nhiệm kỳ của Tổng Thống Johnson hãy còn dài. Vào thời gian này vẫn chưa ứng cử viên nào khác có đủ uy tín để có thể đứng ra tranh cử với Tổng Thống Johnson. Riêng về vấn đề ủng hộ Việt Nam thì tuy Hoa Kỳ không còn ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ như những lúc trước đây nhưng tầm mức ủng hộ lúc này vẫn đủ để tổng thống Johnson có thể thuyết phục quốc hội đổ thêm quân vào Việt Nam, lần này với con số 470,000.

                Những bản lượng định tình hình chính trị tôi gửi về Sài Gòn vào lúc này bao gồm tất cả những điều tôi tổng kết sau những buổi thảo luận của tôi với cả giới báo chí lẫn chính quyền Hoa Kỳ. Gần như chẳng ngày nào là ngày tôi không bàn luận với các ký giả kỳ cựu của giới báo chí. Trong thời gian này, tôi đã tiếp xúc với các ký giả Joseph Kraft và Murray Marder, ký giả của tờ Washington Post; Tom Wicker, Hedrick Smith và Neil Sheehan, ký giả của báo New York Times; Crosby Noyes, ký giả của Washington Star và anh em ký giả Kalb, lúc đó đang làm việc cho CBS. Quan niệm của họ phản ảnh một phạm trù ý kiến chính trị thật là bao quát. Những cuộc gặp gỡ với các ký giả thật là có ích. Trong số những ký giả tôi đã tiếp xúc cũng có vài người bị chỉ trích rằng họ đã chú tâm quá đáng vào các vấn đề của Hoa Thịnh Đốn và vì vậy những cái nhìn của họ đôi khi thiển cận, nhưng phần nhiều thì những nhận xét của các ký giả vẫn thật là vô giá đối với tôi.

                Dư luận thường cho rằng nếu cứ chú ý đến các ý kiến của các ký giả thì người nghe thường khó tránh khỏi bị chủ kiến của họ ảnh hưởng. Chuyện thật không hẳn là vậy. Đã đành rằng các ký giả quả có chủ kiến, nhưng người nghe vẫn có thể phân tích vấn đề để tránh bị các chủ kiến đó ảnh hưởng. Hơn nữa, những câu chuyện của giới báo chí biết lại thường là những tin tức ít người biết đến. Đã nhiều lần những câu chuyện của họ khiến tôi phải suy nghĩ những việc tôi chưa hề biết đến, hoặc phải duyệt lại những điều mà tôi cho là đúng chắc rồi.

                Đối với những ký giả có thiên kiến hoàn toàn lệch lạc với cuộc chiến Việt Nam chẳng hạn như các ký giả Anthony Lewis và Mary McGrory thì tuy tôi vẫn nhận định rằng họ cũng là một phần quan trọng của cuộc sống chính trị, nhung tôi không hề thấy có nhiệm vụ phải tiếp xúc với họ bao giờ. Dĩ nhiên chẳng phải tất cả các phóng viên báo chí đều phải chống chiến tranh, nhưng đa số họ đều là những người lúc nào cũng nghi ngờ tất cả những tin tức của các chánh phủ bất kể là chánh phủ Hoa Kỳ hay chánh phủ Việt Nam. Bản tính đa nghi thường khiến họ tự nhìn vấn đề qua lăng kính riêng của họ và tự bỏ qua những điều họ cho là không đi đôi với những điều họ thấy. Đôi khi họ còn tự xem mình là những nguồn tiên tri cho cuộc chiến Việt Nam. Tôi thường tự hỏi chẳng hiểu sao họ lại có thể quá chủ quan đến mức như vậy? Đa số các đại sứ ngoại quốc ở Hoa Thịnh Đốn rất ít khi được tiếp xúc với Tổng Thống Hoa Kỳ. Những dịp gặp gỡ nếu có cũng thường chỉ là vào khi có một vài buổi tiệc hàng năm. Chính ngay cả trong những dịp gặp gỡ này, cuộc tiếp xúc cũng không vượt qua khuôn khổ của những cái bắt tay. Phần nhiều các đại sứ đều làm việc thường xuyên với các nhân viên phụ tá Ngoại Trưởng. Tuy thế, vì chiến cuộc Việt Nam là một vấn đề trầm trọng nên trường hợp của tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Tôi đã có dịp bàn luận với Tổng Thống Johnson ở cuộc họp thượng đỉnh, sau đó lại có dịp tiếp xúc với ông nhiều hơn khi tôi cùng bay với ông về Hoa Thịnh Đốn.

                Vào ngày 19 tháng 4, mới chỉ vẻn vẹn bốn tuần sau hội nghị thượng đỉnh ở Guam, tôi lại được gặp tổng thống Johnson thêm một lần nữa. Lần này tôi được mời tham dự cuộc họp SEATO, một cuộc họp kín mời hầu hết các ngoại trưởng và đại sứ của Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Hồi Quốc, Thái Lan, Phi Luật Tân, Anh Quốc và Việt Nam. Cuộc họp cấm hẳn các phóng viên báo chí. Tôi đã biết đây chỉ là một buổi họp nặng phần nghi lễ và chỉ nhằm mục đích nhấn mạnh sự quan tâm của Tổng Thống Johnson về các vấn đề Á Châu. Vì vậy tôi cho rằng đây là một buổi họp không quan trọng.

                Trong buổi họp ở Tòa Bạch Ốc hôm đó, trông Tổng Thống Johnson hoàn toàn phấn khởi. Ông mới trở về sau chuyến du hành Nam Mỹ. Chuyến đi thoải mái đã mang lại cho ông nhiều sinh lực. Ông đề cập đến những vị trí quan trọng trong chiến lược Đông Nam Á. Tuy tổng thống Johnson chưa đi thẳng vào vấn đề nhưng hẳn nhiên ông đã gián tiếp nói về Việt Nam. Cũng vào chiều đó, tôi đã sắp xếp một buổi họp khác ở sứ quán Việt Nam và cần phải quay về để sửa soạn. Lúc này tôi chỉ mong cuộc họp sớm chấm dứt nên những lời bình luận tổng quát của Tổng Thống Johnson đã khiến tôi cảm thấy vô cùng sốt ruột.

                Bỗng nhiên, khi cuộc họp gần kết thúc thì lại có một tùy viên đến đưa cho tôi mảnh giấy nhỏ nói rằng Tổng Thống có ý muốn gặp tôi và Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ ngay sau cuộc họp. Trên đường đến văn phòng tổng thống, cả cụ Đỗ lẫn tôi đều vừa bỡ ngỡ, vừa tò mò lại vừa lo lắng chẳng hiểu có chuyện gì. Chúng tôi đoán chắc đã hẳn sẽ phải có chuyện gì khác thường! Khi cụ Đỗ hỏi tôi, tôi đã than rằng: "Lẽ ra đây phải là câu hỏi của tôi mới đúng! Ông vừa từ Sài Gòn sang, ông có thấy chuyện gì khác thường bên đó không? Có thể lại có biến chuyển gì rắc rối về vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant nữa không?"

                Chúng tôi vào văn phòng tổng thống đúng lúc Tổng Thống Johnson đang đàm đạo cùng Ngoại Trưởng Dean Rusk. Chúng tôi vừa vào thì Ngoại Trưởng Rusk kéo ngay ông Đỗ về một bên và Tổng Thống Johnson dẫn tôi đi về phía bàn giấy của ông. Ông quàng vai tôi chẳng khác nào đang khuyên nhủ một người bạn thân. Ông cúi xuống như để cố giảm bớt phần nào khoảng cách giữa chiều cao vượt khổ của ông và chiều cao của tôi rồi nói nhỏ rằng ông đã được báo cáo về cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam và cả về ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Tổng Thống Johnson phân trần: "Ông xem, dĩ nhiên tôi nào phải là người có quyền phán đoán liệu xem ông Thiệu hoặc ông Kỳ mới là ứng cử viên xứng đáng. Theo tôi thì cả hai đều xứng đáng, nhưng xin ông nhắn họ rằng dù thế nào đi nữa, họ phải cố gắng giữ cho được sự ổn định chính trị ở trong nước. Vấn đề này vô cùng quan trọng."

                Sự quan tâm của Tổng Thống Johnson về những vấn đề tranh chấp giữa ông Thiệu và ông Kỳ thật đã rõ rành rành. Ông Già (biệt danh của Tổng Thống Johnson) đã có quá nhiều gánh nặng trên vai rồi. Thế mà giờ đây ông lại phải quàng thêm một gánh nặng nữa tuy việc hoàn toàn không phải do lỗi nơi ông. Tôi cảm thấy cực kỳ hổ thẹn khi Tổng Thống Johnson trình bày vấn đề. Tuy vậy tôi cũng nói rằng tôi hiểu rõ những điều ông lo và sẽ cố hết sức chuyển lời nhắn của ông về Sài Gòn.

                Trên đường quay về Tòa Đại Sứ, lúc đi xe chung với cụ Đỗ, chúng tôi lại cùng nhau bàn luận. Tôi hỏi cụ Đỗ chẳng hiểu tình hình Sài Gòn đã thật sự gay đến độ phải đặt vấn đề như Tổng Thống Johnson hay chưa, cụ Đỗ trả lời rằng theo ý cụ thì chưa. Cụ Đỗ cho biết rằng ở Sài Gòn lúc này dư luận đã đồn đãi rất nhiều về vấn đề những tướng lãnh nào sẽ ra tranh cử Tổng Thống. Có thể trong số các tướng lãnh đã có người có hành động khả nghi khiến cho Hoa Kỳ nghi rằng sẽ có đảo chánh. Cụ Đỗ cho rằng cho dù ông Thiệu và ông Kỳ có tranh chấp dữ dội đến độ nào đi nữa thì cả hai cũng đều hiểu rõ những trách nhiệm của mình. Vấn đề có đảo chánh ở Việt Nam thật khó thể xảy ra.

                Nhưng những nhận định của cụ Đỗ vẫn chẳng làm tôi an tâm thêm chút nào. Tôi biết Tổng Thống Johnson chỉ mang vấn đề ra khi ông đã nhận được tin tức rõ rệt qua những cơ quan của Hoa Kỳ. Tuy thế ngoài cách nhắm mắt chuyển tin về Sài Gòn chúng tôi chẳng còn biết làm gì hơn. Chúng tôi cùng đồng ý rằng khi trở về Việt Nam, cụ Đỗ sẽ trình bày rõ ràng tất cả những điều Tổng Thống Johnson nhắn nhủ. Mặt khác, vì những liên hệ gần gũi giữa tôi và hai người lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam, tôi sẽ cố gắng gặp riêng họ để tường trình khi có dịp trở về Sài Gòn. Ít lâu sau, cụ Đỗ trở lại Sài Gòn. Hẳn nhiên là những lời tường trình của cụ đã có ảnh hưởng lập tức, vì ngay sau khi cụ trở lại tôi có nhận được một bức điện tín của Thủ Tướng Kỳ mời tôi về nước để tham khảo ý kiến. Tuy thế nhưng vì lời mời đến ngay giữa lúc tôi đang dở dang thiết lập những mối liên lạc ở Hoa Thịnh Đốn nên tôi chưa thể lập tức trở về. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng lời yêu cầu của ông Kỳ cũng không lấy gì làm khẩn thiết. Vả lại, biết đâu cứ để thời gian cho ông Kỳ và ông Thiệu suy nghĩ lại chẳng là một ý kiến hay? Trong khi đó, Tướng Westmoreland đã đến Hoa Thịnh Đốn để tường trình trước quốc hội. Tôi viện vào biến cố này để ở lại Hoa Thịnh Đốn lâu hơn. Tôi nói với Sài Gòn rằng tôi cần ở lại quan sát phản ứng của quốc hội cùng dân chúng khi tướng Westmoreland chánh thức trình bày các bản báo cáo của ông. Tôi cũng muốn xem liệu Ngũ Giác Đài sẽ phản ứng ra sao với lời yêu cầu đổ quân tăng viện mới đây của tướng Westmoreland.

                Khi tôi trở lại Sài Gòn thì trời đã vào cuối tháng năm. Lúc này mọi người đã biết rõ rằng cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều đứng ra tranh cử Tổng Thống. Lúc này chỉ còn một tháng nữa là hết hạn bầu cử nên cả các chính trị gia lẫn dân chúng ở Việt Nam đều hết sức chú tâm vào cuộc bầu cử. Ngoài hai ông Thiệu, Kỳ, còn có nhiều chính khách dân sự khác tuyên bố tranh cử. Nếu cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều tranh cử, số phiếu bị chia rẽ có thể sẽ đưa phần thắng đến cho một ứng cử viên dân sự. Lúc này, mọi người quan tâm đến cuộc bầu cử đến độ gần như chẳng ai để ý đến những biến chuyển quân sự đang diễn ra ngoài chiến trường. Dường như chẳng ai buồn để ý đến những cuộc đụng độ đang diễn ra dọc theo suốt mạn biên giới miền Trung.

                Hầu hết ở khắp mọi nơi, đề tài bàn tán dường như chỉ là những vấn đề mâu thuẫn của hai giới dân-quân sự. Trong số những chính khách dân sự ra tranh cử có cả cựu quốc trưởng Phan Khắc Sửu và cựu Thủ Tướng Trần Văn Hương. Bác sĩ Quát không ra tranh cử; vì là người Bắc mà lại chẳng có thế lực nào làm hậu thuẫn nên ông cảm thấy mình không có đủ cơ hội thắng cử. Tuy rằng danh tiếng của những chính khách dân sự đứng ra tranh cử vào lúc này đã bị mất đi phần nào vì những sự xích mích và thất bại của giới dân sự trong quá khứ, nhưng ảnh hưởng của họ đối với những người đi bầu chưa chắc đã hoàn toàn mất hẳn. Hơn nữa, tuy đất nước đã có được một sự sự ổn định tương đối trong hai năm qua khi hai ông Thiệu, ông Kỳ nắm quyền nhưng nhiều người vẫn cho rằng không nên bầu một vị tướng vào chức vị Tổng Thống. Và tuy giới quân nhân đang nắm quyền điều động cuộc bầu cử nhưng lúc này quân đội lại chia rẽ vì cả hai ông Thiệu, Kỳ cùng đều ra tranh cử. Tôi về Sài Gòn vào đúng giữa lúc dư luận đang sôi nổi về vấn đề bầu cử.

                Vào cuối tháng 5, những nhóm ủng hộ ông Thiệu và những nhóm ủng hộ ông Kỳ đã bắt đầu đụng độ một cách gay cấn. Ngoài mặt thì uy tín của ông Thiệu vẫn kém xa ông Kỳ. Vì là một nhân vật trẻ tuổi, ông Kỳ được một nhóm tướng tá trẻ đầy năng lực ủng hộ. Nhiều người trong nhóm các tướng tá trẻ cũng là người Bắc như ông Kỳ. Hơn nữa, vì là Thủ Tướng, ông Kỳ đã nắm gọn trong tay hầu hết mọi đầu dây uy quyền. Chẳng hạn như chính ông là người điều hành tất cả các cơ quan điều hành Bộ Nội Vụ và Bộ Thông Tin, trông coi việc phát thanh, truyền hình, điều hành các guồng máy cảnh sát, Công An, các lực lượng quân đội quanh thành phố. Ông Kỳ lại còn là Tư Lệnh Không Quân đứng đầu điều động cả toàn bộ không quân.

                Trái lại, lực lượng của ông Thiệu lại gần như chẳng có gì cả. Ông tỏ ra là một nhân vật đứng đắn, vô cùng tự chủ và đối nghịch gần như hoàn toàn với cá tính hay chơi trội và phát biểu ẩu tả của ông Kỳ. Vì tôi là người Bắc nên nhiều người đã cho rằng tôi đứng về phe ông Kỳ. Chính ông Kỳ lại là người đã đưa tôi vào chính phủ. Hơn nữa, tôi đã từng là phụ tá đặc biệt của ông Kỳ trong gần suốt cả hai năm vừa qua. Đối với những dư luận hành lang đang sôi sục của Sài Gòn thì tuy là đại sứ của Việt Nam, tôi chính là một người thân tín của riêng ông Kỳ. Những người đồn đãi cho rằng tôi trở về Sài Gòn lúc này không nhằm mục đích gì hơn là để cố vấn và chuyển những lời ủng hộ của Hoa Thịnh Đốn về cho ông Kỳ.

                Việt Nam thật không thể tin rằng Hoa Kỳ lại đứng vào cương vị trung lập trong cuộc bầu cử Tổng Thống lúc này. Họ nghĩ rằng Hoa Kỳ chắc chắn đang nỗ lực vận động ngấm ngầm sau hậu trường để ủng hộ cho ứng cử viên của riêng họ (Lại có "Bàn Tay Lông Lá của CIA" nhúng vào vụ này). Sự hiện diện của tôi ở Sài Gòn đã cho thấy rõ rệt ứng cử viên nào được Hoa Kỳ ủng hộ.

                Riêng tôi vẫn cố giữ những ý nghĩ cá nhân cho riêng chính mình. Việc tôi quả thật một phần nào có hy vọng ông Kỳ thắng cử tuy đúng nhưng hoàn toàn là do những lý do khác hẳn những lý do mà dư luận đã buộc cho tôi. Vì đã có thời gian cộng tác gần gũi với ông Kỳ trong những hoạt động chính quyền, tôi tin rằng ông Kỳ là người chịu nghe lời thuyết phục. Ông Kỳ vốn là một nhân vật trẻ, háo động, dễ mến và ít kinh nghiệm về những hoạt động của chính phủ trên nhiều phương diện, nhưng ông cũng học hỏi rất nhanh và chịu khó nghe những ý kiến mới. Hơn nữa ông lại có cá tính can trường; ông có vẻ có tư phong của một người hùng. Thành ngữ ta có câu: "Điếc không sợ súng." Về một phương diện nào đó thì có lẽ ông Kỳ quả là "người điếc không sợ súng". Ông có thể chấp nhận thử thách mà không cần suy nghĩ nhiều về những hậu quả của sự thất bại. Chính ông Kỳ đã chấp nhận những quan niệm Hiến Pháp và cải cách xã hội trong những bài diễn văn đọc ở cuộc họp Thượng Đỉnh tại Honolulu, trong khi ông Thiệu lại là người luôn luôn trì hoãn đòi sửa đổi hết khoản này đến khoản khác.

                Trong hai người thì ông Thiệu là người khó đối phó hơn. Ông Thiệu là người đa nghi và hay ngấm ngầm tính toán. Rất ít người có thể tin tưởng hoặc cộng tác gần gũi với ông Thiệu. Nếu đại sứ Bunker và tướng Westmoreland cho rằng những cá tính của ông Thiệu là những cá tính của một người tự chủ và biết suy xét thì tôi lại cho rằng những cá tính đó là những nhược điểm vì thiếu quyết đoán và do dự. Ông Thiệu có thể gật đầu khi trong bụng ông nghĩ trái lại. Tuy là người vô cùng kiên nhẫn và chịu khó, ông Thiệu không phải là một người có tầm mắt rộng lớn, có thể vượt được lên trên những mưu mô của một người làm chính trị tầm thường để trở thành một nhân vật cái thế. Bẩm chất của ông là thận trọng. Lúc nào ông cũng tìm hiểu mọi khía cạnh của vấn đề. Lúc nào ông cũng lý luận với đầy đủ mọi chiều hướng và lúc nào ông cũng tránh né để khỏi phải giải quyết trực tiếp các vấn đề.

                Đã đành rằng ông Kỳ có tật phát biểu không thận trọng và hay hành động thất thường nhưng những lý do khiến tôi mong mỏi ông Kỳ thắng cuộc phần nhiều là do những nhận định kể trên. Tuy thế, ngoài mặt tôi vẫn hoàn toàn im lặng, đồng ý để mọi người bàn ra tán vào tất cả những điều họ để tâm suy nghĩ. Khi về Sài Gòn, tôi tường thuật lại với ông Kỳ về cuộc nói chuyện với Tổng Thống Johnson và về tình hình ở Hoa Thịnh Đốn nói chung. Một trong những điều tôi đề cập là vấn đề khuynh hướng ủng hộ của người dân Hoa Kỳ đã bắt đầu đi xuống. Tôi tường thuật lại những cuộc biểu tình, những cuộc trưng cầu dân ý và những chống đối của các sinh viên đại học ở Hoa Kỳ và những cuộc thăm dò của tôi với các nhân viên ngoại giao. Tôi cũng trình bày thật rõ rằng Hoa Thịnh Đốn đang lo những biến chuyển tranh cử ở Việt Nam có thể đưa đến những diễn biến bất lợi khiến quân đội Việt Nam chia rẽ và trở thành hai nhóm thù nghịch.

                Tối đó ông Kỳ dẫn tôi đến Bộ Tư Lệnh không lực ở Biên Hòa để cùng dùng bữa tối với những nhân vật uy tín đang ủng hộ ông. Những nhân vật ở Bộ Tư Lệnh của ông Kỳ hôm đó bao gồm: Tướng Nguyễn Đức Thắng, Bộ Trưởng đặc trách chương trình Xây Dựng Nông Thôn; Tướng Nguyễn Bảo Trị, Bộ Trưởng Thông Tin; và tướng Lê Nguyên Khang, Tổng Tư Lệnh vùng thủ đô Sài Gòn. Tôi đã biết ông Kỳ nhất quyết đứng ra tranh cử và đối với ông và những người ủng hộ ông thì vấn đề chính chỉ là làm sao cho ông Thiệu phải bỏ cuộc.

                Tôi cũng biết rằng sau nhiều cuộc tranh luận dằng co giữa hai phe, vài ngày trước đây tướng Thắng đã được chỉ định đứng ra làm áp lực khiến ông Thiệu phải tự mình bỏ cuộc. Tướng Thắng được chỉ định làm đại diện vì ông là một trong những người được Hoa Kỳ ủng hộ. Hơn nữa, hai ông Lansdale và Bob Komer, lại là đồng nghiệp của ông trong chương trình xây dựng nông thôn. Lời tướng Thắng do đó sẽ có tiếng vang hơn cả. Đã vậy, tướng Thắng lại còn có khả năng đặt vấn đề một cách ngắn gọn và trực tiếp.

                Bởi vậy tướng Thắng đến gặp ông Thiệu và lạnh lùng nói thẳng với ông Thiệu rằng ngoài cách rút lui, ông Thiệu quả không còn cách nào khác để chọn lựa. Dĩ nhiên đây là một cuộc đụng độ gay cấn. Nhưng rút cục thì bất chấp những lời lẽ cộc lốc, rõ rệt của tướng Thắng, ông Thiệu đã trả lời rằng ông nhất định không chịu rút lui. Kể từ lúc đó, cục diện đã thay đổi rõ ràng thành hai phe và chẳng ai trong nhóm ông Kỳ biết phải hành động thế nào với phe đối nghịch. Đây là lý do chính khiến họ phải tham khảo ý kiến của tôi. Họ không trực tiếp nhờ tôi làm sứ giả giảng hòa, nhưng đứng trên cương vị của một đại sứ vừa từ Hoa Thịnh Đốn trở về, việc đã rõ ràng là dù sao đi nữa thì tôi cũng phải tới nói chuyện với ông Thiệu. Biết đâu tôi lại thuyết phục được ông trong cuộc nói chuyện cũng không chừng.

                Ngày 25 tháng 5-1966, chỉ mới vài ngày sau đó, tôi đến gặp ông Thiệu nơi bàn giấy của ông ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lúc này, ông Thiệu đang làm việc ở một văn phòng riêng nhỏ nhoi trông thật đơn độc. Đa số đồng nghiệp của ông đã về phe với ông Kỳ. Tôi báo cáo lại với ông Thiệu hệt như đã báo cáo với ông Kỳ trước đây. Tôi thuật lại cuộc nói chuyện giữa tôi và Tổng Thống Johnson và đưa ra nhận định của tôi về quan niệm của Hoa Thịnh Đốn, nhất là quan niệm sau khi Tướng Westmoreland đã báo cáo với quốc hội Hoa Kỳ vào cuối tháng 4. Chắc chắn ông Thiệu biết rõ thế nào tôi cũng đề cập đến những vấn đề khác nữa nên khi tôi vừa mới tường trình chung chung mọi việc xong thì ông đã bắt đầu nói về việc tranh cử.

                Ông Thiệu nói rằng ông đã suy nghĩ kỹ càng mọi việc và đã tham khảo ý kiến của tất cả bạn bè. Ông đã quyết định đứng ra tranh cử và nhất định không chịu từ bỏ ý định. Ông Thiệu nói rằng đã đành tranh cử là vấn đề cam go, nhưng ông là người yêu nước và ông có quyền đứng ra tranh cử cũng như bao nhiêu người yêu nước khác. Ông nhất quyết không từ bỏ quyền tranh cử. Ông Thiệu nói rằng dù chỉ có hai phiếu bầu cho ông là của ông và bà Thiệu đi chăng nữa ông cũng vẫn đứng ra tranh cử. Ông đã quyết không thay đổi ý kiến.

                Khi việc đã rõ ràng rằng chẳng có gì để nói thêm, tôi đứng dậy kiếu từ. Ông Thiệu bắt tay và ngỏ lời cám ơn tôi đã đến thăm ông. Ông nói thêm: "Ít nhất anh cũng không phải như hai thằng Thắng, thằng Trị." Đây là lời bình luận không mấy dấu diếm của ông Thiệu đối với những người ủng hộ ông Kỳ.

                Sau khi đã thấy rõ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều đứng ra tranh cử, tôi nán lại Sài Gòn thêm vài ngày, cố liên lạc với những đoàn thể chính trị khác để lượng định ảnh hưởng của toàn cuộc tranh cử. Tình hình chính trị ở Sài Gòn lúc này thật là hỗn loạn. Đây chỉ là mới nói một cách nhẹ nhàng. Ngoài hai viên tướng, còn có cả thảy 7 ứng cử viên dân sự. Những ứng cử viên dân sự lúc này cực kỳ phấn khởi vì những xích mích của các ứng cử viên quân nhân. Họ đang cố hết sức ngồi lại với nhau để làm tăng thêm uy tín. Đã có cả ứng cử viên ra tranh cử với lá phiếu hòa bình, ông Trương Đình Dzu vận động với những chủ trương mơ hồ rằng nếu thắng cử ông sẽ điều đình với Việt Cộng để xây dựng hòa bình. Ông Dzu nguyên là một nhân vật bướng bỉnh, một tay chạy chọt và là một tay buôn có tầm ảnh hưởng rộng chưa hề đứng ra tranh cử cho bất cứ chức vụ gì trước đây. Tuy không phải là một chính khách chuyên nghiệp, ông Dzu chính là một nhân vật thời cơ đã nhìn thấy một số phiếu hòa bình đang chờ đợi ông hay những ứng cử viên cổ võ hòa bình khác.

                Lúc này ông Kỳ đã vận động đẩy mạnh những hoạt động tranh cử sơ khởi. (Mãi đến tận tháng 7 cuộc bầu cử chánh thức mới thực sự bắt đầu). Những chiến dịch vận động của ông Kỳ là do ông Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc cảnh sát đứng ra điều hành. Ở bất cứ nơi nào cũng có khẩu hiệu của ông Kỳ sơn trên khắp các bức tường: "Chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ là chánh phủ của người nghèo." Ông Thiệu, trái lại, vẫn âm thầm xa rời, luôn luôn đi cùng những cố vấn riêng. Hình như ông Thiệu đang ra công đợi chờ ông Kỳ phạm phải một lỗi lầm nặng nề nào đó bằng những hành động thiếu suy nghĩ cách này hay cách khác.

                Khi đã nhìn thấy rõ tình hình tranh chấp trong giới quân sự, tôi bắt đầu đi gặp thêm các chính trị gia khác. Một trong những ý kiến tôi được nghe khi đến gặp các chính trị gia trong chánh giới Sài Gòn là một liên danh của hai ông Thiệu, Kỳ sẽ là con đường chắc chắn dẫn đến một chánh phủ vững vàng. Bởi thế trước khi lên đường trở về Hoa Thịnh Đốn tôi có đến gặp lại ông Kỳ và hỏi thẳng thừng rằng liệu ông Kỳ có thể đứng chung một liên danh với ông Thiệu hay không? Ông Kỳ trả lời rằng không, chắc chắn chuyện vận động chung cùng với ông Thiệu là chuyện không bao giờ có thể xảy ra. Ông Kỳ cũng nhờ tôi nhắn với chánh phủ Hoa Kỳ là ông bảo đảm sẽ không có bất kỳ chuyện xáo trộn nào xảy ra và cuộc thay đổi từ chính quyền này sang chính quyền khác ở Việt Nam sẽ hoàn toàn êm đẹp.

                Tôi trở về Hoa Thịnh Đốn, lòng tin tưởng vào lời hứa thành thật của ông Kỳ. Ông Kỳ đã hứa sẽ cố hết sức giữ đúng cả thể thức bầu cử lẫn sự đoàn kết trong quân đội. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa hoàn toàn chắc liệu ông có còn giữ được những ý định này khi phải thực sự đối phó với ông Thiệu vào ba tháng sắp tới hay không? Kết cục tôi chỉ biết chuyển lời hứa của ông Kỳ đến Bộ Ngoại Giao và Tòa Bạch Ốc. Một khi Hoa Kỳ đã nhận được lời nhắn của ông Kỳ thì có lẽ cả Tổng Thống Johnson lẫn Ngoại Trưởng Dean Rusk đều rất hài lòng, nhưng nếu nhìn vào những gì mới xảy ra ở Sài Gòn vào những thời gian gần nhất, tôi biết rằng lời hứa của ông Kỳ chưa chắc đã bảo đảm được tình trạng ổn định của Sài Gòn trong giai đoạn sắp tới. Vì vậy, lúc này tôi chỉ còn biết hy vọng hoặc nói đúng hơn là chỉ còn biết nguyện cầu cho mọi việc được hoàn toàn êm đẹp.




                Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                Phan Lê Dũng
                #23
                  sóng trăng 02.12.2006 13:13:19 (permalink)
                  .
                   
                  Chương 24
                  Cuộc Bầu Cử 1967


                  Đối với giới báo chí Hoa Kỳ thì tháng 6 và tháng 7, 1967 là những tháng chiến cuộc ở Việt Nam tương đối trầm lặng. Từ trước đến nay gần như lúc nào tin tức trong các trang đầu của những tờ báo Hoa Kỳ cũng là về cuộc chiến Việt Nam, nhưng lúc này những tin tức đăng trong trang nhất lại là những tin tức khác hẳn. Các tờ báo Hoa Kỳ bắt đầu đăng tin tức về Six Day War (Sáu Ngày Đụng Độ) của Trung Đông và tin tức về một cuộc họp bất ngờ của Tổng Thống Johnson với Thủ Tướng Nga Alexei Kosigin ở Glassboro, một tỉnh thuộc tiểu bang New Jersey. Kể từ lúc tôi bắt đầu làm đại sứ ở Hoa Kỳ cho đến nay thì có lẽ đây là khoảng thời gian nhàn nhất. Đã lâu lắm rồi tôi mới lại có dịp được tạm nghỉ và không phải đối phó với những sự khó khăn thường xuyên. Có lẽ đây là một trong những cơ hội hiếm hoi cho phép tôi có được chút ít thời giờ để sinh hoạt bình thường như những đại sứ của các quốc gia khác.

                  Gia đình tôi đã dời căn apartment chật chội và dọn về một căn nhà nhỏ phía sau công viên Rock Creek của Hoa Thịnh Đốn. Lúc này vì nhà cửa đã có chỗ tiếp khách nên tôi và nhà tôi đã bắt đầu bắt tay vào việc tổ chức những buổi tiếp tân cần thiết cho công việc ngoại giao của tôi ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi thường tổ chức những buổi ăn trưa và ăn tối nho nhỏ ở tòa đại sứ rồi mời các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ của cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đến tham dự. Lúc này, ở Hoa Thịnh Đốn, các dân biểu vẫn tranh luận sôi sục về cuộc chiến Việt Nam. Một số các dân biểu cho rằng Hoa Kỳ nên ủng hộ Việt Nam, nhưng một số khác lại cho rằng Hoa Kỳ không nên ủng hộ. Trong các buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam, tuy các dân biểu vẫn chưa nhất loạt cho rằng Hoa Kỳ nên ủng hộ Việt Nam, nhưng nếu chỉ nói riêng về vấn đề thức ăn Việt Nam thì họ lại nhất loạt ủng hộ. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã nhận thấy ngay rằng tất cả các dân biểu đến sứ quán bất kể là dân biểu của đảng Dân Chủ hay dân biểu của đảng Cộng Hòa hình như cũng đều tận tình chiếu cố cho các món ăn Việt Nam.

                  Danh sách tiếp tân của sứ quán Việt Nam lúc này bao gồm Thượng Nghị Sĩ, dân biểu, nhân viên của các ủy ban, phóng viên báo chí, truyền thanh và những nhân viên trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Vì quốc hội Hoa Kỳ thường có những phiên họp bất thường nên những dân biểu và Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ là những người đến đi thất thường nhất. Ngoài những giờ giấc bất thường của quốc hội ra thì thỉnh thoảng những buổi tiếp tân của chúng tôi cũng bị các biến chuyển bất ngờ trên trường chính trị quốc tế làm gián đoạn, chẳng hạn như vào tháng 8, năm 1968 khi nghe rằng Nga đem xe tăng vào Tiệp Khắc để đàn áp những đoàn thể chống đối, Tướng Westmoreland và Thứ Trưởng Bill Bundy cùng nhiều nhân viên điều hành khác đã phải trở về nơi họ làm việc trước khi dùng món tráng miệng.

                  Tuy vấn đề tiếp tân ở sứ quán Việt Nam bao gồm cả xã giao lẫn chính trị, nhưng thường thì xã giao vẫn chiếm phần nặng hơn. Những buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam là những dịp cho phép những nhân viên trong nhiều nhóm khác biệt hoặc đối lập trong chính trường Hoa Thịnh Đốn có dịp tiếp xúc với nhau. Họ thường đến dự các buổi tiếp tân ở sứ quán Việt Nam với tinh thần thân hữu hoặc ít ra thì họ cũng chào nhau để cố giữ lấy một mức lịch sự tối thiểu. Trong các cuộc tiếp tân ở sứ quán, đôi khi cũng có nhiều chuyện đáng nhớ. Chẳng hạn như có một đêm hai nhân viên Hoa Kỳ gốc Irish là ông Tom Corcoran đã cùng chơi dương cầm và hát chung một bản dân ca Irish với ông William Sullivan. Trong những lúc như vậy, dường như các dân biểu đều tạm rũ bỏ được những ám ảnh của chiến cuộc Việt Nam và tất cả đều cảm thấy áp lực thường xuyên dường như mất hẳn.

                  Lúc này, vì tôi vừa phải có mặt ở những cuộc tiếp tân do chính tôi tổ chức, lại vừa phải có mặt ở các buổi tiếp tân ở những nơi khác khi cần nên cuộc sống của tôi trở thành vô cùng bận bịu. Tôi cảm thấy dường như lúc nào mình cũng phải cố gắng cười duyên, hoặc nói chuyện. Nhưng đây là một công việc cần thiết. Tôi bắt đầu thấy rằng chính những buổi nhàn đàm và chuyện phiếm thường xuyên với các nhân viên ngoại giao đã giúp ích rất nhiều cho sự hiểu biết của tôi. Nếu không có những cuộc gặp gỡ qua các dịp tiếp tân như những dịp tiếp tân ở sứ quán thì có lẽ chẳng ai có thể hoạt động một cách có hiệu quả trong chính trường Hoa Thịnh Đốn được.

                  Tuy tôi đã cố gắng hết sức để thâu thập tin tức và tất cả những mẩu tin dù là tin tôi chánh thức nhận được hoặc tin tôi nghe được qua các câu chuyện, tôi cũng đều viết cả vào những bức điện văn gởi về Sài Gòn. Vậy mà đôi khi chính quyền Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn hài lòng, nhất là khi những đầu óc giàu tưởng tượng của MNVN phong phanh nhìn thấy ở một vài điểm nào đó, Hoa Kỳ có thể áp đặt những kế hoạch của họ vào Việt Nam và không cần tham khảo ý kiến. Cuộc họp thượng đỉnh của Hoa Kỳ và Thủ Tướng Nga ở Glassboro đã góp phần thúc đẩy những cảm giác nghi ngờ của Việt Nam. Tuy trong những bản báo cáo gửi về tôi đã nói rõ rằng cuộc họp thượng đỉnh của Hoa Kỳ và Nga ở Glassboro chỉ thảo luận những vấn đề toàn cầu của hai thế lực siêu cường mà Bộ Ngoại Giao Việt Nam vẫn đòi hỏi tôi phải nói rõ những tin tức liên quan đến Việt Nam.

                  Sau này tôi được biết những yêu cầu kỳ quặc của Việt Nam một phần cũng là do những biến chuyển chính trị ở Sài Gòn. Trong giai đoạn này, các cuộc vận động bầu cử ở Việt Nam đang tiến đến giai đoạn chót. Chỉ còn một tuần nữa là hết hạn đăng ký ứng cử. Những ứng cử viên dân sự đang cố lượng định tình hình sau cuộc họp thượng đỉnh ở Glassboro để có thể áp dụng vào các cuộc vận động tranh cử sơ khởi và cuộc bầu cử sắp tới của họ. Cùng lúc đó, tin đồn về những xích mích giữa hai ông Thiệu, Kỳ đang ngày càng lan rộng. Một số dư luận cho rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có đảo chánh, một số khác lại cho rằng hai ông Thiệu, Kỳ, chắc chắn sẽ cùng đứng vào một liên danh.

                  Vào ngày 25 tháng 7-1967 thì cuộc họp của Tổng Thống Johnson và Thủ Tướng Nga Kosygin kết thúc. Lúc này tôi đang cố gắng trả lời những loạt câu hỏi của Sài Gòn về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi còn đang tìm cách để trấn an dư luận Sài Gòn thì một loạt câu hỏi khác lại chỉa thẳng vào tôi, lần này thì từ Hoa Thịnh Đốn. Cả Tòa Bạch Ốc lẫn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đều đã nghe được những tin đồn về việc sắp có đảo chánh ở Việt Nam. Họ hỏi tôi những tin đồn này có đúng hay không?

                  Những tin đồn mà Hoa Kỳ nghe được là những tin đồn phát xuất khi quân đội Sài Gòn bắt đầu tổ chức một buổi họp cho tất cả các tướng lãnh cao cấp của quân đội ở Việt Nam. Mục đích của cuộc họp này là để giải quyết ổn thỏa cho xong luôn một lần những xích mích giữa ông Thiệu và ông Kỳ. Người đứng ra tổ chức cuộc họp là Tướng Cao Văn Viên, lúc đó đang là Tổng Tham Mưu Trưởng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Tôi nói chuyện được với ông Kỳ vào đúng giữa lúc cuộc họp đã tiến hành được một ngày và còn đang được tiếp tục vào ngày thứ hai. Ông Kỳ nhận được điện thoại của tôi trước khi ông đi dự buổi họp ngày hôm đó. Theo ban tổ chức dự định thì cuộc họp sẽ kéo dài ba ngày. Khi tôi nói với ông Kỳ rằng Hoa Kỳ đang nghi Việt Nam sắp có đảo chánh thì ông trả lời rằng chắc chắn sẽ không có đảo chánh. Ông còn nói thêm rằng: "Quân đội vẫn tin tưởng vào tôi. Chúng tôi hoàn toàn chủ động mọi chuyện và tôi vẫn tiếp tục vận động tranh cử."

                  Tôi nói chuyện với ông Kỳ ngày 29-7, vào lúc 8:00 giờ tối, giờ Hoa Thịnh Đốn (tức là khoảng 8:00 giờ sáng ngày 30 tháng 7 ở Sài Gòn.) Sau khi trấn an các nhân viên ngoại giao và chánh phủ Hoa Kỳ thì tôi sửa soạn đi ngủ. Tuy tôi không được biết chi tiết về cuộc họp của ở Sài Gòn nhưng thái độ quả quyết của ông Kỳ đã khiến tôi nghĩ rằng ông có vẻ hết sức tự tin. Tôi cho rằng có lẽ ông Kỳ đang vượt hơn hẳn ông Thiệu và sẽ là ứng cử viên độc nhất của quân đội.

                  Sáng 30 ngày 7, một người bạn gọi điện thoại đánh thức tôi dậy sớm để xem ngay tin tức. Tôi bật cái TV nhỏ đặt cạnh đầu giường và nghe rằng ở Sài Gòn đã có một biến chuyển bất ngờ mà người Pháp thường miêu tả là coup de théâtre. Tin tức loan báo rằng ông Thiệu và ông Kỳ sẽ cùng đứng chung vào một liên danh. Ông Thiệu sẽ là ứng cử viên tranh cử chức vụ Tổng Thống và ông Kỳ sẽ là ứng cử viên tranh cử chức vụ Phó Tổng Thống. Vì đã tiếp xúc với ông Thiệu khi trước, tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi ông Thiệu đã không để các tướng lãnh thuyết phục ông phải lui bước. Nhưng việc ông Thiệu đã vận động khéo léo để qua mặt được ông Kỳ quả là một thành tích đáng kể.

                  Ba ngày trước Sài Gòn đã đánh điện gọi tôi về để tham khảo ý kiến, vì thế tôi không cần phải đợi lâu để tìm hiểu thêm về những diễn biến của cuộc bầu cử ở Việt Nam. Đây là lần thứ ba tôi trở lại Sài Gòn trong vòng sáu tháng. (Lần thứ hai mới vừa cách khoảng độ hơn tháng), mỗi chuyến bay kéo dài 24 tiếng một chiều. Hoa Kỳ vẫn thường dùng danh từ "shuttle" để diễn tả những chuyến bay liên tục rất ngắn và không dự định trước. Trên chuyến bay về Sài Gòn lẫn đó, tôi tự nhủ có lẽ phải có thêm một định nghĩa mới nữa cho danh từ "Shuttle" mới đủ để diễn tả hết ý nghĩa của những chuyến bay vừa bất thường, vừa liên tục và lại vừa dài như những chuyến bay của tôi vào lúc này.

                  Trước đây, khi cuộc bầu cử tổng thống của Việt Nam còn chưa bắt đầu thì đã có rất nhiều người trong cả chính trường Hoa Kỳ lẫn chính trường Việt Nam cho rằng ông Kỳ sẽ là ứng cử viên độc nhất của quân đội. Và khi liên danh Thiệu, Kỳ xuất hiện thì gần như tất cả đều cùng ngạc nhiên. Tuy thế, khi tôi tìm ra câu giải đáp thì sự việc cũng chẳng lấy gì làm khó hiểu. Theo tình hình của cuộc bầu cử mà nói thì liên danh Thiệu-Kỳ đã hẳn là một liên danh có rất nhiều lợi điểm. Thứ nhất: Trong những năm vừa qua hai vị tướng lãnh đã mang lại được phần nào ổn định cho Việt Nam và nếu so với những tình trạng xáo trộn hoặc vô chính phủ của Miền Nam Việt Nam trước đây thì chính phủ của họ rất đáng được ủng hộ. Thứ hai: Hai ông Thiệu, Kỳ đã quen tiếp xúc và cộng tác với Hoa Kỳ. Thứ ba: Đa số dư luận đều cho rằng nếu hai vị tướng có thể đứng chung vào một liên danh thì cá tính bất thường của ông Kỳ sẽ được bổ khuyết bằng sự cẩn thận của ông Thiệu.

                  Đương nhiên là lại một lần nữa dân chúng Việt Nam tin rằng những biến chuyển bất ngờ của cuộc bầu cử là hoàn toàn do cơ quan tình báo CIA đứng sau sắp đặt. Người dân Sài Gòn cho rằng đã có rất nhiều tướng tá bị CIA "dụ dỗ" hoặc ít ra thì cũng bị CIA ảnh hưởng ít nhiều. Trên thực tế thì chính Hoa Kỳ cũng ngạc nhiên chẳng kém gì những người Việt Nam và cũng phải đối phó với một sự đã rồi chẳng khác gì những người Việt Nam. Sự thật có thể đơn giản, nhưng vì nghi kỵ quá độ, mọi chuyện trở nên phức tạp.

                  Theo giới báo chí tường trình thì trong buổi họp của các tướng lãnh đôi khi cũng có một vài giây phút gay cấn. Theo các tin tức đăng tải thì cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều trình bày trường hợp của mình trước hội đồng tướng lãnh rồi chờ đợi quyết định -Nhiều tờ báo đăng rằng ông Thiệu không nén được cảm xúc và đã có lần không cầm được nước mắt. Thật sự thì câu chuyện tướng Viên kể cho tôi nghe lại có nhiều phần khác hẳn. Tướng Viên kể rằng đa số các tướng lãnh đều tin rằng nếu hai ứng cử viên của quân đội đều ra ứng cử thì số phiếu ủng hộ giới quân nhân sẽ bị phân đôi và đưa phần thắng về cho những ứng cử viên dân sự. Nếu biến cố này xảy ra thì chẳng mấy chốc chính quyền lại quay ngược trở lại những ngày đen tối, tê liệt lúc trước. Nếu cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều nhất quyết cùng ra ứng cử thì Hội Đồng Tướng Lãnh tin rằng chỉ còn một cách duy nhất là buộc cả hai cùng ra ứng cử trong một liên danh.

                  Vì muốn ý kiến của họ phải được tuyệt đối thi hành, Hội Đồng Tướng Lãnh nói rằng họ sẽ không ủng hộ bất kỳ ứng cử viên nào không chịu thỏa thuận. Đầu tiên, Hội Đồng Tướng Lãnh áp dụng chủ trương của họ bằng cách tuyên bố sẽ loại bỏ tất cả những tướng lãnh không chịu thuận theo quyết định của Hội Đồng Tướng Lãnh. Sau đó, họ làm áp lực bắt ông Thiệu và ông Kỳ phải cùng đứng chung vào một liên danh. Đã có lúc cuộc họp căng thẳng đến nỗi cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều bị mời ra khỏi phòng họp. Lại có cả lúc Tổng Tư Lệnh vùng một là Tướng Hoàng Xuân Lãm đã tháo bỏ huân chương đặt trên bàn. Tướng Lãm quay nhìn ông Thiệu, ông Kỳ rồi nói rằng nếu họ không chịu đứng chung vào một liên danh thì tất cả các tướng lãnh khác đều cùng phải rút lui. Hai ông Thiệu, Kỳ chẳng còn đường nào khác để chọn lựa.

                  Khi vấn đề liên danh đã được hai ông Thiệu, Kỳ chấp thuận thì việc tranh cử được giải quyết theo hệ thống quân giai. Ông Thiệu là người phục vụ lâu hơn trong quân đội (Ông là tướng ba sao trong khi ông Kỳ là tướng hai sao.) và giữ chức vụ cao hơn nên đã chiếm được chỗ đứng đầu tiên. Để xoa dịu phần nào những ấm ức của ông Kỳ và các tướng tá trẻ, Hội Đồng Tướng Lãnh đã thiết lập một hội đồng gọi là Quân Ủy Hội. Họ bổ nhiệm ông Kỳ làm thủ tướng và các tướng trẻ trong nhóm ông nắm giữ các chức vụ quan trọng trong Quân Ủy Hội. Mục đích của Quân Ủy Hội là dùng những quyền lực ở hậu trường để khống chế bớt quyền lực của ông Thiệu nhưng chỉ ít lâu sau, thay vì kềm chế ông Thiệu, chính Quân Ủy Hội lại bị ông Thiệu kềm chế và giải thể (Lúc đó giới báo chí Hoa Kỳ gọi ông Thiệu là Sly Fox [một con cáo quỉ quyệt]). Nhưng đó là những chuyện tương lai về sau này. Vào ngày 7 tháng 7, khi đến Sài Gòn được ít lâu, tôi đã quyết định tự mình lượng định tình hình Việt Nam. Mặc dầu kể từ tháng giêng cho đến lúc đó, tôi đã quay lại Sài Gòn liên tiếp bốn lần nhưng chuyến đi nào của tôi cũng chỉ rất ngắn, chưa kể là tôi còn phải bận rộn vì có quá nhiều những việc phải làm. Lúc này, tôi muốn tự mình lượng định những biến chuyển của Việt Nam thay vì nhìn mọi việc qua lăng kính của chánh phủ. Tôi tự mình đi thăm mọi nơi và bắt đầu tiếp xúc rộng rãi với các chính trị gia và giới trí thức trong từng khu vực quận.

                  Đây là một chuyến đi vội vã. Tôi đi qua cả thảy 8 tỉnh trong vòng hai tuần lễ. Dĩ nhiên vì hoàn cảnh hạn hẹp, tôi không có đủ thời giờ để xem xét kỹ lưỡng mọi việc, nhưng đi qua đâu tôi cũng đều hỏi han và quan sát những cuộc tranh luận, cố gắng tìm hiểu xem người dân Việt Nam suy nghĩ thế nào về kết quả của cuộc bầu cử. Trong giới trí thức và trong trường chính trị thì câu hỏi lúc nào cũng là: "Hoa Kỳ thật sự đang muốn gì?" Trong giới thương gia và thường dân thì chỉ có một số rất ít để ý đến tình hình chính trị. Họ thường chú ý đến những vấn đề thực tế hơn của thương trường, nhất là khi cuộc sống đang ở tầm mức đắt đỏ và tệ nạn tham nhũng đang đầy rẫy ở khắp mọi nơi. Đối với những nông dân và những người ở miền quê thì những câu thắc mắc chiếm lĩnh đầu óc họ lại còn cụ thể hơn. Họ cần được bảo vệ để tránh khỏi các cuộc xô sát giữa quân đội quốc gia và cộng sản. Họ cũng muốn giá phân bón hạ thấp thêm.

                  Trong các cuộc đi tôi cũng thấy rằng các chiến dịch đi bầu trong năm 1967 tiến hành rất khả quan. Vì đã có kinh nghiệm với những cuộc bầu cử của Quốc Hội Lập Hiến trước đây nên lúc này Bộ Thông Tin lại vận động những nghệ sĩ thúc đẩy dân chúng đi bầu. Ở một vài nơi, cuộc bầu cử đã tự chuyển thành sôi nổi. Nhất là ở các thành phố, nơi những người tụ tập đi bầu có thể tranh luận, bàn cãi, khung cảnh chẳng có vẻ gì giữa lúc chiến tranh. Trong các cuộc thảo luận dân chúng thường xuyên chỉ trích chánh quyền thật công khai. Nhưng riêng ở những vùng miền quê hẻo lánh thì bầu không khí lại có vẻ trầm lặng. Dân chúng ở những miền này thường dè dặt và thận trọng hơn. Một trong những lý do khiến họ không dám trực tiếp hoan hô cuộc bầu cử là vì lúc nào Việt Cộng cũng đe dọa. Tuy thế, ngay cả ở những vùng này bầu không khí vẫn sinh động. Khung cảnh cho thấy số người tham gia vẫn thật đông đảo.

                  Công bằng mà luận thì hẳn nhiên cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1967 ở Việt Nam chưa phải là một cuộc bầu cử hoàn hảo và vẫn còn có rất nhiều khuyết điểm có thể bị dư luận chỉ trích. Chẳng hạn như chánh quyền hoàn toàn nắm quyền tổ chức bầu cử. Các vấn đề như - thiết lập các văn phòng bỏ phiếu, thúc dục dân chúng đi bầu, soạn thảo thể thức bầu cử và tổng kết số phiếu bầu đều do chính phủ quyết định. Dĩ nhiên những ứng cử viên khác chẳng thể có đủ người để trông coi kỹ lưỡng các văn phòng bầu cử trên toàn quốc. Và do vậy, tình trạng thiếu người kiểm soát có thể khiến chánh quyền lạm dụng số phiếu bầu cử. Hơn nữa, còn có một số khá đông dân chúng cư ngụ ở các vùng Cộng Sản chiếm đóng bị ngăn cấm không được phép tham gia các cuộc đi bầu. Nhưng nói chung thì khi chuyến đi kết thúc, tôi cảm thấy đây là một cuộc bầu cử có thể tạm gọi là dân chủ. Nếu đứng trên phương diện phân tích ưu khuyết điểm mà nói thì tổng kết con số ưu điểm hoàn toàn vượt xa khuyết điểm. Dù gì đi nữa thì cuộc bầu cử năm 1967 vẫn là một điểm khởi đầu, và một khi sự cải cách đã phát động thì dù cho những người phát động hãy còn do dự, phong trào cải cách cũng sẽ tự phát triển. Tuy công cuộc tranh đấu để tiến đến dân chủ vẫn còn đầy dẫy gian truân và trắc trở, tôi cho rằng cuộc bầu cử năm 1967 là một bước khởi đầu tốt đẹp của tiến trình đó.

                  Vào cuối tháng 7, tôi trở về Hoa Thịnh Đốn vừa kịp lúc để có thể sửa soạn cho chuyến thăm viếng của một phái đoàn Hoa Kỳ sắp sang Việt Nam. Mục đích của phái đoàn Hoa Kỳ là đến Việt Nam để có thể trực tiếp quan sát những diễn tiến của cuộc bầu cử trong ngày 3, tháng 9 sắp đến. Khi còn ở Sài Gòn, tôi cũng có bàn luận cặn kẽ trước với ông Thiệu và ông Kỳ về chuyến viếng thăm của phái đoàn Hoa Kỳ lần này. Do đó, khi trở về Hoa Thịnh Đốn tôi đưa ý kiến với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ rằng chính quyền Việt Nam sẽ trực tiếp hướng dẫn chuyến thăm viếng. Tuy chánh phủ Hoa Kỳ vẫn có thể giúp đỡ chúng tôi ở Hoa Thịnh Đốn nhưng chúng tôi cho đây là công việc của Việt Nam chứ không phải của Hoa Kỳ.

                  Đại sứ Bunker cũng đồng ý với tôi về vấn đề này. Tôi đã bàn luận với ông Bundy ở Bộ Ngoại Giao Hoa Thịnh Đốn và ông Jorden ở Tòa Bạch Ốc, nhưng dường như là vì một thói quen bắt buộc, những nhân viên Tòa Bạch Ốc vẫn tự tay dàn xếp mọi chuyện. Họ quên cả việc phải thông báo danh sách của những người có tên trong phái đoàn cho tôi. Khi tin tức công bố nêu rõ danh sách của những người trong phái đoàn thăm viếng bao gồm các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ và nhiều vị lãnh đạo tinh thần, tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Trước đó, tôi đã dự định gửi cho mỗi người trong phái đoàn một bức thư mời họ sang thăm Việt Nam, nhưng danh sách của họ đã được thông báo trước cả khi tôi có đủ thời giờ để gửi giấy mời. Có lẽ đây chỉ là một chuyện nhỏ nhưng cũng là một chuyện điển hình về việc Hoa Kỳ lúc nào cũng náo nức, tự tìm cách chu toàn mọi việc theo cách của họ. Hành động của họ đôi khi trở thành tự đại.

                  Ngoài những khi làm việc ở tòa đại sứ, tôi dùng khoảng thời gian còn lại của tháng 8 để tổ chức những buổi thuyết trình tổng quát cho những người trong phái đoàn sắp sang Việt Nam. Lúc này tôi đã biết quá rõ về kết quả của cuộc bầu cử; chỉ nội nhìn con số ứng cử viên dân sự cũng đủ để đoán được rằng liên danh của ông Thiệu và ông Kỳ sẽ đánh bạt tất cả. Tuy vậy tôi vẫn vô cùng lo lắng chẳng hiểu liệu những quan sát viên Hoa Kỳ với những quan niệm chủ quan của họ dựa trên 200 năm truyền thống dân chủ Hoa Kỳ sẽ suy nghĩ ra sao về những diễn biến của cuộc bầu cử sắp đến ở Việt Nam.

                  Chẳng những thế, lúc này những tờ báo phản chiến ở Hoa Kỳ lại còn đăng nhiều mục để chỉ trích cuộc bầu cử ở Việt Nam. Những tin tức đó còn làm cho phái đoàn quan sát của Hoa Kỳ thêm phần thiên lệch. Vào thời gian này gần như tất cả những biến chuyển khả quan ở Việt Nam đều bị giới báo chí và giới học giả thiên kiến vặn vẹo hoặc hoàn toàn bác bỏ. Ngay chính cuộc bầu cử cũng chẳng phải là một ngoại lệ. Tôi đã phải chứng kiến nhiều cảnh khó chịu khi những cơ quan thông tin của Hoa Kỳ cố tình làm lệch lạc những tiến triển dân chủ ở Việt Nam. Những sự thay đổi đáng kể trong trường chính trị Việt Nam lúc này là kết quả của cuộc tranh đấu mà tôi và những phần tử quốc gia khác đã nỗ lực xây dựng kể từ năm 1950 cho đến nay. Chúng tôi đã tranh đấu cho những tiến trình này từ trước cả khi có cuộc họp Honolulu. Tuy thế, đối với những người chỉ trích thì cuộc bầu cử chẳng qua chỉ là một tấn kịch do Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ làm đạo diễn chung với ông Thiệu và ông Kỳ. Vì họ đã nặng thành kiến ngay từ đầu nên những quan sát viên khó thể đo lường các biến chuyển bằng một tầm mắt khách quan. Đây thiết tưởng cũng là việc chẳng cần phải nói.

                  Những sự lo lắng của tôi còn nặng nề thêm một phần vì các nỗi lo cứ canh cánh bên mình, chẳng hiểu liệu cuộc bầu cử có tiến hành hoàn hảo hay không. Tôi đã nói với ông Thiệu và ông Kỳ rằng Việt Nam đang cần một cuộc bầu cử trong sạch. Họ thật sự không cần phải vận động mờ ám phía sau hậu trường. Hơn nữa, trong cuộc bầu cử năm 1967, khi thắng thế đã ngả quá rõ về họ, việc họ vận động bất hợp lệ là một việc chẳng ai có thể tha thứ được. Nhưng ông Kỳ và ông Thiệu không phải là những người hiểu biết tường tận những quan niệm dân chủ. Đã vậy, tôi lại không có mặt ở Việt Nam. Tình thế không khỏi làm tôi bồn chồn.

                  Vào ngày 3 tháng 9 năm 1967, khi cuộc bầu cử bắt đầu, chánh quyền Việt Nam tuyên bố đây là một ngày nghỉ lễ cho toàn thể Việt Nam. Vào ngày đó, dân chúng ăn bận quần áo như những dịp hội hè và đi bầu từng đoàn lũ lượt. Trong tổng số 6 triệu người đi bầu, hơn 5 triệu người thực sự bỏ phiếu. Con số đi bầu vượt quá 80% tổng số ghi tên. Hai ngày sau số phiếu được tổng kết và kết quả cuối cùng thật là một sự bất ngờ. Liên danh của hai ông Thiệu, Kỳ đắc cử, nhưng tuy đây là liên danh của hai nhân vật đang nắm quyền, mà chỉ có 35% số phiếu bầu cho họ. Trong khi đó, 17% số phiếu là phiếu bầu cho ông Trương Đình Dzu, vận động dưới nhãn hiệu hòa bình.

                  Những tình trạng tương tự cũng xảy ra trong cuộc bầu cử các Thượng Nghị Sĩ, nguyên là một cuộc bầu cử khác cũng diễn ra cùng lúc với cuộc bầu cử Tổng Thống. Trong số 60 Thượng Nghị Sĩ đắc cử, hơn một phần ba là những người tự mình đứng ra vận động hoặc tuyên bố rằng họ sẽ có chính sách ngược lại với chánh phủ.

                  Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ dều có vẻ thất vọng về việc họ chỉ đắc cử với một kết quả thấp đến như thế. Nhưng chỉ ít lâu sau, ông Kỳ đã đưa ý kiến rằng: "Ít nhất thì kết quả cũng cho thấy rằng chẳng hề có bất kỳ hành động nào bắt buộc dân chúng phải bầu ngược lại với ý định riêng của họ. Ông Kỳ phát biểu: "Nếu quả có vận động thầm lén, ắt hẳn chúng tôi phải có một số phiếu vượt xa số phiếu mà chúng tôi đã có."

                  Lời tuyên bố của ông Kỳ được Hoa Kỳ và các quan sát viên quốc tế khác góp phần xác nhận. Nhận định khả quan của các quan sát viên quốc tế đã khiến tòa đại sứ Hoa Kỳ thêm phần tin tưởng khi nhận định rằng cuộc bầu cử hoàn toàn trong sạch. Các diễn biến khả quan của cuộc bầu cử đã khiến chánh phủ Hoa Kỳ hết sức hài lòng. Tuy rằng cuộc bầu cử không thay đổi được chiều hướng chiến cuộc, đối với tôi đây vẫn là một bước tiến quan trọng. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đã nỗ lực để tổ chức được một cuộc bầu cử dân chủ thực sự. Chẳng những vậy, mà cuộc bầu cử lại được tổ chức trong một thời điểm khó khăn, khi đất nước đang bị phân đôi và chánh phủ Việt Nam vẫn phải đối phó với vấn đề chiến tranh. Trong khi Bắc Việt đang tiến hành những chiến dịch xâm lược vào Miền Nam và những nhân vật lãnh đạo ở Miền Nam Việt Nam lại là những quân nhân mà Việt Nam vẫn có thể tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ. Tôi coi đây là một thành công đáng kể của người quốc gia Việt Nam.






                  Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                  Phan Lê Dũng
                  #24
                    sóng trăng 02.12.2006 13:18:55 (permalink)
                    .
                     
                    Chương 25
                    Sự Chuyển Đổi của Thời Cuộc



                    Những cuộc bầu cử ở Việt Nam tuy sôi nổi là thế mà vẫn chỉ là một phần của toàn thể khung cảnh Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đang trải qua một giai đoạn chính trị tương đối ổn định so với hai năm về trước và những đe dọa của Cộng Sản không còn rõ rệt, nhưng cũng vẫn còn rất nhiều khó khăn ở khắp mọi nơi đang tiềm ẩn phía dưới bề mặt yên tĩnh. Nhiều người Việt Nam đã tỏ vẻ thắc mắc khi nhận thấy Hoa Kỳ hiện diện gần như trong tất cả mọi lãnh vực của đời sống hàng ngày. Họ cảm thấy bất bình khi Việt Nam phải lệ thuộc ngày một nhiều hơn vào đồng minh Hoa Kỳ. Tuy những nhân viên Hoa Kỳ hoàn toàn khác hẳn với những thực dân Tây về trước, người dân vẫn không thể tránh tự hỏi làm sao Việt Nam lại có thể vẫn giữ được chủ quyền và độc lập nếu người Hoa Kỳ lúc nào cũng đứng đầu điều hành mọi chuyện, từ cách hướng dẫn những phát triển kinh tế cho đến cách điều động chiến cuộc?

                    Nỗi lo lắng của họ còn tăng thêm vì những thói quen "tự mình hành động" của Hoa Kỳ. Chẳng hạn như tại các quận lị, người Hoa Kỳ đã nóng lòng thi hành các chính sách cho đến nỗi họ tự mình làm lấy mọi chuyện. Khi làm việc họ chỉ thông báo gọi là với các quận trưởng mà thôi. Ngoài ra, khi soạn thảo các kế hoạch quân sự, các sĩ quan Hoa Kỳ rất ít khi thông báo chi tiết cho các sĩ quan Việt Nam về những kế hoạch qui mô. Phần lớn Bộ Tham Mưu Việt Nam không hề được thông báo rõ những hoạt động thường nhật của các lực lượng Hoa Kỳ.

                    Chẳng những vậy, đến ngay cả những vấn đề đại cương về chiến lược cũng là một vấn đề tranh luận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Các tướng lãnh Việt Nam tin rằng chính sách tiêu diệt hiệu lực nhất là "tấn chiếm Bắc Việt," tấn công mạnh vào tận sào huyệt hoặc ít ra là phải tạo được một khí thế hăm dọa vượt lên trên vĩ tuyến 17. Nhưng những cố vấn Hoa Kỳ lại cho rằng đây là những ý kiến thiếu thực tế. Họ nói với những sĩ quan Việt Nam, dĩ nhiên với một cung cách rất lễ phép, rằng Việt Nam còn chưa giải quyết ổn thỏa được những việc khó khăn ngay trong nội bộ thì làm sao lại có thể dự định đến việc thôn tính Bắc Việt? Thật ra thì Hoa Kỳ vẫn còn bị những kinh nghiệm đau thương ở Đại Hàn ám ảnh. Họ vẫn cố dàn xếp để tránh khỏi bị nghi rằng họ có ý khiêu khích những người Trung Hoa hiếu chiến. Chánh sách của họ ở Việt Nam đã bị những bài học của chiến tranh Đại Hàn ảnh hưởng rất nhiều.

                    Nếu đứng trên quan niệm quốc tế mà luận thì có lẽ việc Hoa Kỳ tuyên bố rõ họ sẽ không tấn công Bắc Việt cũng dễ hiểu, nhưng dù sao đi nữa thì những người Việt Nam vẫn cho rằng việc Hoa Kỳ quyết định tuyên bố thẳng cho Bắc Việt biết rõ những dự định của Miền Nam Việt Nam cũng là một hành động hoàn toàn vô lý. Một khi Hoa Kỳ bị buộc phải hành động theo những họ lời tuyên bố thì dĩ nhiên những hoạt động quân sự của họ bị quản thúc trong những vòng đai của "một cuộc chiến tranh giới hạn." Khi tuyên bố không tấn chiếm Bắc Việt, Hoa Kỳ đã tự ép mình vào những quy ước đơn phương và rồi hành động như thể tin rằng khi họ tự đưa mình vào khuôn khổ như vậy thì Bắc Việt cũng sẽ tự động ép mình chung vào những quy luật họ đã đề ra. Dĩ nhiên Hoa Kỳ là một thế lực siêu cường và vì vậy những hành động của họ phải được phân tích qua một tầm nhìn tổng quát, bao gồm cả những yếu tố khác như phản ứng của Sô Viết và những ý định can thiệp của Trung Hoa. Nhưng đối với Việt Nam thì việc lại hoàn toàn khác hẳn. Đất nước Việt Nam lúc này đang đắm chìm trong chiến cuộc. Lãnh thổ Việt Nam đang bị xâm lấn. Việt Nam đang phải đối diện với những hiểm họa sinh tử. Tuy Hoa Kỳ vẫn tuyên bố rằng đây là cuộc chiến của Việt Nam, nhưng mỗi khi cần quyết định thì họ lại gạt bỏ hẳn những suy xét của Việt Nam ra ngoài.

                    Dĩ nhiên cũng có rất nhiều lý do chánh đáng khác cho phép Hoa Kỳ giải thích vấn đề vì sao họ lại hay tự mình hành động. Chẳng hạn như vấn đề khác biệt về tầm vóc của hai đồng minh, cá tính thụ động của người Việt, khuynh hướng cố tránh né những vấn đề cần trực diện của người Á Châu và khuynh hướng dễ đồng ý hoặc tỏ vẻ đồng ý của người Việt trong mọi vấn đề. Chẳng những thế, ấn tượng xấu của Hoa Kỳ về những người Việt Nam còn sâu đậm hơn vì phần đông các nhân viên Hoa Kỳ đều tin rằng đa số công chức và sĩ quan của Việt Nam đã làm việc không có hiệu quả mà lại còn tham nhũng nữa. Mặt khác, thì những người Việt Nam lại cho rằng người Hoa Kỳ không hiểu những tập tục và quan niệm của dân chúng Việt Nam. Hậu quả là việc hợp tác hữu hiệu giữa người Hoa Kỳ và Người Việt rất ít khi đạt được tới mức mọi người chờ đợi. Chẳng những vấn đề khó khăn đang đầy dẫy ở Việt Nam mà ngay cả ở Hoa Thịnh Đốn, bầu không khí cũng bắt đầu căng thẳng. Chiến cuộc vào mùa hạ năm 1967 có vẻ tương đối yên tĩnh, nhưng ở quốc hội một người bạn đã bảo tôi: "Ngoài mặt khung cảnh tuy mang vẻ an bằng phẳng lặng của mặt nước triều nhưng hãy coi chừng những giòng nước ngầm phía dưới." Lúc này Hoa Kỳ đã chịu rất nhiều tổn thất trong nỗ lực can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam. Tuy thế, họ vẫn chưa hề gặt hái được những kết quả như ý. Những khó khăn mà Hoa Kỳ đang phải đối phó đã tạo nên một bầu không khí căng thẳng ngấm ngầm chưa hề thấy trong mấy năm về trước.

                    Tôi đã biết rõ rằng những nhân vật phản chiến lúc nào cũng chỉ biết chống chiến tranh một cách cực đoan và một chiều, nên lúc này, khi cần phải nhận định rõ tình hình thay đổi thực sự ra sao, tôi đã để hết tâm trí vào việc tìm hiểu ý kiến của những nhân vật từ trước đến nay vẫn ủng hộ chiến cuộc. Những người tôi đặc biệt chú tâm đến là Thượng Nghị Sĩ John Stennis của tiểu bang Mississippi, Thượng Nghị Sĩ Henry Jackson của Hoa Thịnh Đốn và Thượng Nghị Sĩ Strom Thurmond của tiểu bang South Carolina. Đây là những Thượng Nghị Sĩ vừa được nhiều người biết đến lại vừa có tầm ảnh hưởng lớn rộng đối với Ủy Ban Quân Sự (Arm Service Committee). Mặc dù những Thượng Nghị Sĩ kể trên vẫn tiếp tục ủng hộ chiến cuộc Việt Nam, càng ngày họ lại càng thất vọng hơn khi thấy Hoa Kỳ không hề có kế hoạch nào khác hơn ngoài chiến lược No-Win Limited Strategy (Giới Hạn Chiến Tranh và không lấy chiến thắng làm mục tiêu.)

                    Cả ba Thượng Nghị Sĩ vừa kể và nhiều nhân vật khác tôi đã tiếp xúc đều tỏ vẻ quan tâm đến những ảnh hưởng bất lợi và những phí tổn mà Hoa Kỳ phải gánh chịu ở Việt Nam. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1967, TT Johnson đã đưa ra một bản dự thảo luật thuế đánh thêm 10% vào những nguồn lợi tức tư nhân và các công ty. Trước đây, những nhân viên chánh phủ lúc nào cũng bảo tôi rằng chắc chắn quốc hội sẽ thông qua đạo luật mới của tổng thống. Vậy mà lúc này họ lại tỏ ra lo lắng. Một chuyên viên trong quốc hội phục vụ trong Bộ Ngoại Giao đã bảo tôi: "Lại sắp bắt đầu một năm mới và chúng ta phải cẩn thận đề phòng."

                    Lúc đầu tôi tưởng việc nhận định rõ tình hình chắc cũng không lấy gì làm khó khăn, nhưng càng đi sâu vào vấn đề tôi lại càng nhận rõ tầm mức phức tạp của công việc. Cả Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài Gòn đều thay đổi gần như liên tục. Giữa những khung cảnh xoay chuyển đó, tôi vừa phải đối phó với các biến cố đang xoay chuyển lại vừa phải cố dung hòa những khác biệt giữa hai cách nhìn vấn đề ở hai thủ đô. Tôi đã tiếp xúc với những phụ tá của các Thượng Nghị Sĩ. Những nhân viên phụ tá mà tôi tiếp xúc thường là những người trực tiếp đối phó với những vấn đề tỉ mỉ trong thực tế nên họ thường có tầm nhìn chi tiết hơn là thượng cấp của họ. Công việc lượng định và tái lượng định vấn đề diễn ra tưởng chừng như chẳng bao giờ dứt. Những đòi hỏi của công việc thật là vô bờ. Đã hơn một lần tôi tự hỏi liệu mình có thực sự đủ sức hay không?

                    Giữa những khung cảnh biến chuyển của cả hai thủ đô, chính tổng thống Johnson cũng đã cảm thấy chỗ đứng của mình bị lay chuyển. Khi giới báo chí và truyền thanh bắt đầu tuyên bố rằng Hoa Kỳ đang sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam và những dân biểu ở quốc hội Hoa Kỳ càng ngày càng chống đối gắt gao thêm, TT Johnson cho rằng đã đến lúc ông phải tích cực đối phó với tình thế. Để trình bày rõ thiện chí của mình đối với những người đang đòi hỏi phải có một giải pháp hòa bình, vào ngày 29 tháng 9, trong một buổi diễn văn chiếu khắp toàn quốc, tổng thống Johnson tuyên bố: Hoa Kỳ "sẽ ngưng tất cả các cuộc dội bom nếu đàm phán hòa bình giữa hai phe có hy vọng tiến triển." Lần này đề nghị của tổng thống Johnson đã có phần mềm mỏng hơn những đề nghị của ông khi trước. Trong lần đề nghị lần trước hai nhân viên trong Bộ Ngoại Giao của Pháp là ông Raymond Aubrac và ông Herbert Marcovich đã cố đứng ra làm môi giới để Hoa Kỳ có thể đàm phán với Bắc Việt. Lần này tuy hai nhân viên Pháp có báo trước rằng Hà Nội sẽ mềm dẻo hơn mà lời đề nghị của tổng thống Johnson vẫn bị Bắc Việt bác bỏ. Cuộc oanh tạc lại chuyển thành dữ dội.

                    Khi cuộc oanh tạc Bắc Việt ngày càng leo thang khốc liệt thì phản ứng của giới phản chiến ở Hoa Kỳ cũng trở nên khốc liệt theo. Vào tháng 10, đã có những cuộc chống đối rất lớn ở Ngũ Giác Đài bao gồm cả những nhân vật lừng danh ở Hoa Kỳ như hai văn hào Norman Mailer và Arthur Miller. Cùng lúc này, tờ Life, một tạp chí từ trước tới nay vẫn ủng hộ các chính sách của tổng thống Johnson đã lên án cuộc chiến trong mục bình luận. Khi quốc hội Hoa Kỳ mở đầu phiên họp mùa thu thì những cảnh tượng chống đối ồ ạt diễn ra ngay trước mắt các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ. Lúc này, các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ vừa mới trở lại quốc hội và những chuyến nghỉ mát thoải mái trong mùa hạ của họ vừa kết thúc. Khung cảnh căng thẳng của quốc hội đã khiến bầu không khí của buổi họp chuyển thành trầm trọng.

                    Kể từ đầu mùa thu năm 1967, tôi đã bỏ ra hầu hết thời giờ để lượng định những biến cố đang diễn ra ở Hoa Thịnh Đốn. Càng ngày tôi càng lo lắng vì thấy những phong trào phản chiến đang mỗi lúc một tăng. Những người bạn Hoa Kỳ vẫn bảo tôi rằng sự thiên kiến của giới truyền thông và những phong trào chống đối ở Hoa Kỳ lúc này chỉ phản ảnh một phần ý kiến của dân chúng Hoa Kỳ trong vùng Hoa Thịnh Đốn mà thôi, tôi vin vào ý kiến của họ để tự trấn an lấy mình. Và rồi để thử xem liệu những ý kiến của bạn bè có thực sự đúng hay không, tôi cũng bắt đầu tham gia những chuyến bay liên tục qua khắp hai vùng miền Tây và miền Nam Hoa Kỳ để thảo luận vấn đề chiến cuộc Việt Nam. Ngoài ra, tôi còn gia tăng thêm thì giờ đến nói chuyện ở các đại học.

                    Không phải lúc nào những buổi thuyết trình của tôi ở các đại học cũng như ý muốn. Tại một đại học ở tiểu bang Massachuusetts tôi đã bước lên khán đài để đối mặt với một đám đông đang hung hăng hò hét khẩu hiệu và reo hò: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh." Khi họ bắt đầu ném trứng lên khán đài, những người tổ chức buổi nói chuyện nói rằng có lẽ tôi nên rút lui. Nhưng tôi vẫn quyết định ở lại. Tôi đứng im giữa hội trường cho đến khi những tiếng reo hò lắng xuống rồi mới cầm Micro. Nhìn lá cờ Mặt Trận Giải Phóng của Việt Cộng phất phơ bay lượn trong đám khán giả, tôi đã nói một cách hết sức bình tĩnh rằng: "tôi đến đây với một lòng tin. Tôi tin vào truyền thống Hoa Kỳ trong việc cho phép tất cả những người có ý kiến được phép tự do phát biểu. Đây là điều duy nhất tôi chờ đợi ở các quí vị." Sau khi tôi lên tiếng, đám đông bắt đầu yên lặng dần và tôi bắt đầu nói chuyện. Dĩ nhiên chấp nhận nhục nhã quả không phải là một chuyện dễ dàng nhưng tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Lúc này, tôi còn có được một vài cơ hội để trình bày ý kiến của phía Việt Nam với dư luận Hoa Kỳ. Cho đến những năm 1967-1968, khi các phong trào phản chiến đã tiến đến cao điểm thì những cơ hội đó hoàn toàn mất hẳn.

                    Vào ngày 17 tháng 9-1967, tôi lại trở về Việt Nam để tường trình với ông Thiệu và ông Kỳ về những biến chuyển mới nhất ở Hoa Kỳ. Trước đây, tôi cũng đã có trình bày vấn đề những chính sách của TT Johnson đang mất dần sự ủng hộ của dân chúng, nhưng lần này tôi cố đi trực tiếp vào chi tiết. Tôi đưa rõ chi tiết của những biến chuyển trong quốc hội, trong giới báo chí và tường thuật rõ những sự chống đối trên các nẻo đường phố, trong khuôn viên đại học. Tôi đưa ra cả những suy luận của riêng tôi lẫn những suy luận của nhiều nhân vật cao cấp khác trong giới quân sự Hoa Kỳ. Tôi có nói rõ rằng Hoa Kỳ sẽ rút lui trong vòng năm năm nữa. Việt Nam phải sửa soạn trước để đối phó với vấn đề này.

                    Cách ông Thiệu và ông Kỳ nhận những lời bình luận riêng của tôi đã khiến tôi không mấy hài lòng. Cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ có vẻ xem những điều tôi nói chỉ là những việc xa xăm. Tuy tôi không được biết tường tận mọi chi tiết xảy ra trong nội bộ Việt Nam, nhưng tôi vẫn thấy rằng đầu óc của ông Thiệu và ông Kỳ đã bị những khó khăn nội bộ chiếm lĩnh. Những khó khăn đó chắc hẳn là có dính dáng đến vấn đề tranh chấp nội bộ. Chẳng những vậy, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều không hiểu rõ những mấu chốt phía sau hệ thống chánh phủ Hoa Kỳ. Họ chẳng thể hiểu rõ những áp lực của các khối nghiệp đoàn (interest groups) vào việc chính phủ kiến tạo chính sách trầm trọng đến độ nào. Tuy lần nào quay về Sài Gòn tôi cũng ra công trình bày những điểm đặc biệt của chính trị Hoa Kỳ, chưa lần nào tôi thấy rõ lời nói của mình có được chút hiệu lực nào thiết thực.

                    Trong khí đó thì ở Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống Johnson lại hết mực chú tâm vào các biến chuyển đang diễn ra ở Hoa Kỳ. Tên tuổi và chính sách của Tổng Thống Johnson gần như lúc nào cũng đi đôi với vấn đề chiến tranh. Chiến cuộc Việt Nam đối với ông thật là một yếu tố thập phần quan trọng. Ông luôn luôn tuyên bố rằng tình thế vẫn vững vàng, nếu không muốn nói là tiến triển khả quan. Vào ngày 2 tháng 10, ông đã bỏ thời giờ mời tôi cùng những đại sứ của Úc, Indonesia, Mã Lai, Đài Loan và Lào tới dùng bữa trưa ở Tòa Bạch Ốc. Tại đây ông lại trình bày thêm một lần nữa những chính sách đã công bố ở San Antonio về việc ngưng dội bom và quyết tâm kiến tạo hòa bình ở Đông Dương. Một tuần sau đó, để chứng tỏ rằng ông thực sự chú tâm đến vấn đề Đông Nam Á, ông lại bỏ thời giờ mời những giáo sư, viện trưởng của nhiều viện đại học Việt Nam đến Tòa Bạch Ốc để bàn luận vấn đề "kiến thiết quốc gia." Đây là một kế hoạch nằm trong chương trình xây dựng Việt Nam. Một trong những nhà tu được mời là Thượng Tọa Thích Minh Châu, nguyên là người đứng đầu viện đại học Vạn Hạnh. Tôi phải nhận rằng trong bộ áo tăng màu, ông Thích Minh Châu đã hiện diện như để nhắc nhở rằng không phải tất cả Miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn nhuộm màu chiến tranh.

                    Cả đại sứ Bunker lẫn Tướng Westmoreland đều cùng bay về Hoa Kỳ để cổ võ cho những chính sách thuyết phục dân chúng của Tổng Thống Johnson. Việc cả hai nhân vật kể trên đều có thể rời Việt Nam cùng một lúc đã chứng tỏ rằng tình hình Việt Nam không đến nỗi ảm đạm như lời tường thuật của giới truyền thông. Trong một buổi nói chuyện với chương trình Meet The Press (Gặp Gỡ với Giới Báo Chí), Tướng Westmoreland còn tuyên bố rằng: "Chỉ trong vòng hai năm nữa, các lực lượng Bắc Việt sẽ suy đồi đến mức chúng ta có thể rút dần các lực lượng quân sự về nước." Thật ra thì chỉ độ hơn một năm sau, TT Richard Nixon đã ra lệnh rút quân.

                    Nhưng tất cả mọi nỗ lực thuyết phục dư luận của Tổng Thống Johnson đều thất bại khi có tin Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara từ chức. Bỗng dưng Tòa Bạch Ốc tuyên bố thật bất ngờ rằng Bộ Trưởng McNamara đã từ chức và được đề cử làm giám đốc Ngân Hàng Quốc Tế. Không hiểu vì lý lẽ gì mà giới báo chí ở Hoa Thịnh Đốn lại chẳng mảy may hay biết gì trước về quyết định của Bộ Trưởng McNamara. Tuy đã có vài lời đồn đại rằng Bộ Trưởng McNamara đã bắt đầu thất vọng với chiến cuộc Việt Nam, nhưng vẫn chưa ai tiên đoán được rằng ông sẽ từ chức. Lời tuyên bố từ chức của ông đến chẳng khác nào một biến chuyển khác thường và bất ngờ trong chính giới ở Hoa Thịnh Đốn.

                    Quan hệ giữa tôi và Bộ Trưởng McNamara chỉ là những quan hệ thông thường giữa một người đại sứ và một Bộ Trưởng trong chính phủ Hoa Kỳ. Nói chung thì người Việt Nam vẫn coi ông là con người điện toán, lúc nào cũng đặt nặng tầm quan trọng của các dữ kiện thống kê lên trên những khía cạnh có liên quan đến vấn đề nhân sự. Dĩ nhiên ông chẳng quan tâm gì mấy đến vấn đề cần xây đắp các mối liên hệ tốt đẹp với người Việt Nam. Ngược lại, trong một xã hội như xã hội Việt Nam vốn đã có truyền thống xem trọng nhân cách và những sự giao thiệp cá nhân, thì dĩ nhiên chẳng ai lại đặt trọng tâm vào những con số thống kê của ông McNamara. Quan niệm của Bộ Trưởng McNamara do vậy quả là một quan niệm khác thường. Cũng có thể quan niệm chung của các nhân viên Việt Nam về ông hoàn toàn lệch lạc, nhưng dù sao đi nữa, kể từ khi ông buông ra câu hỏi "Ai là người cầm đầu?" với các tướng tá Việt Nam vào năm 1964 thì người Việt Nam vẫn cho rằng ông là một người lạnh lùng và kiêu ngạo.

                    Nhưng dù có thế nào đi nữa thì Bộ Trưởng McNamara vẫn là nhân vật chủ chốt điều hành chiến cuộc. Việc từ chức bất ngờ của ông đã khiến Sài Gòn vô cùng hoang mang. Thông thường thì những thay đổi, dù có là những thay đổi ở các cấp cao nhất trong chánh phủ Hoa Kỳ, vẫn khó có thể làm Việt Nam xôn xao, nhưng trường hợp của Bộ Trưởng McNamara lại hoàn toàn khác hẳn. Việc ông từ chức đã gây ra hàng loạt câu hỏi. Bất kể mọi người nhìn ông bằng quan niệm nào, Bộ Trưởng McNamara cũng vẫn là hiện thân của những nỗ lực của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam nói chung. Do đó, nhiều người Việt Nam đã tự hỏi phải chăng nỗi thất vọng của ông phản ảnh đích thực những chán chường của dư luận Hoa Kỳ? Và nếu đây là sự thực thì những nhà lãnh đạo trong chính quyền Hoa Thịnh Đốn đã bị nỗi thất vọng này ảnh hưởng đến độ nào? Nói một cách chi tiết hơn: Phải chăng việc Bộ Trưởng McNamara từ chức có nghĩa là chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu đổi chiều?

                    Khi các bạn bè ở Hoa Thịnh Đốn và Bộ Ngoại Giao đưa lời trấn an, tôi cũng có gửi lời trấn an về Sài Gòn. Tuy thế, trong thâm tâm, tôi vẫn thắc mắc, tự hỏi chẳng hiểu nếu ngay cả những người như Bộ Trưởng McNamara mà còn quyết định bỏ cuộc thì viện trợ cho chiến cuộc còn tiếp tục được bao lâu nữa? Tôi cũng biết rằng chỉ còn vài tháng nữa là những cuộc vận động tranh cử tổng thống lại bắt đầu ở Hoa Kỳ.

                    Trong khi đó thì ở Việt Nam chiến cuộc vẫn tiếp diễn và không còn ở một mức độ rời rạc lẻ tẻ như trong mùa hạ trước đây. Vào giữa lúc Hoa Thịnh Đốn bắt đầu cố rũ bỏ can thiệp thì Bắc Việt lại gia tăng tấn công ào ạt. Trong một cuộc họp báo ở Hoa Thịnh Đốn, Tướng Westmoreland tuyên bố: "Tôi hy vọng Bắc Việt đang thử thách một kế hoạch nào đó, vì chính chúng tôi cũng đang cố dàn xếp cho cuộc đụng độ." Các biến cố vào cuối tháng cho thấy ông không cần phải đợi lâu.

                    Vào tháng 10 Bắc Việt đã gia tăng hoạt động rõ rệt trông thấy. Không khí yên tĩnh mùa hè năm 1967 dường như mất hẳn vì những chiến dịch phát động phối hợp các lực lượng du kích và các lực lượng chính qui của Bắc Việt. Những hoạt động của du kích Bắc Việt chỉ lẻ tẻ vào lúc trước đột nhiên gia tăng dữ dội. Chẳng những vậy, Bắc Việt còn huy động các lực lượng chính qui và dùng những đơn vị lớn lao để đánh chiếm những mục tiêu đã được chọn lựa. Vào ngày 29 tháng 10, hai trung đoàn của sư đoàn 9 Bắc Việt tấn công vào quận lị thành phố Lộc Ninh, một thành phố cách biên giới Cam Bốt khoảng vài ki-lô-mét. Lộc Ninh chỉ được những lực lượng địa phương của quân đội Việt Nam bảo vệ. Tuy các lực lượng địa phương ở Lộc Ninh vẫn còn thiếu kinh nghiệm chiến trường và không được trang bị đầy đủ, khi được các đơn vị Việt Nam cùng sư đoàn I Hoa Kỳ hỗ trợ, quân đội Lộc Ninh đã chiến đấu anh dũng, đẩy lui và bắt các đội quân Việt Cộng phải chịu nhiều tổn thất.

                    Một tháng sau, 4 Trung Đoàn Bắc Việt tấn công vào Dakto, một thị trấn hẻo lánh gần biên giới Lào. Các cuộc đụng độ trên vùng đất Dakto hiểm trở thật là dữ dội. Cuộc đụng độ đã khiến Sư đoàn Dù 173 của Hoa Kỳ phải chịu 100 tổn thất. Ngược lại các lực lượng đối phương bị tiêu diệt và lại phải rút về những căn cứ ở Lào. Tuy trong các trận đụng độ qui mô, quân đội Việt Nam vẫn thắng thế nhưng khả năng và tinh thần chiến đấu của những đơn vị Bắc Việt quả một điềm bất tường đáng ngại.

                    Tin tức tình báo cho thấy Bắc Việt đang chuyển quân vào Nam qua các đường mòn Hồ Chí Minh và hai trận đụng độ ở Lộc Ninh, Dakto đã khiến những chuyên viên phân tích tình báo ở Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn tiên đoán rằng Bắc Việt đang tổ chức một cuộc tấn công cực kỳ qui mô. Nhìn những căn cứ đổ quân của Việt Cộng gia tăng dọc theo các vùng Phi Quân Sự và Thung Lũng Khe Sanh, Tướng Westmoreland tiên đoán cuộc tấn công sẽ diễn ra ở miền Trung. Ông chuyển các đơn vị về miền Trung và tăng cường Thủy Quân Lục Chiến dữ dội cho các căn cứ đóng ở Khe Sanh.

                    Khi đã kết luận về những mục tiêu tấn công của Bắc Việt, những chuyên viên tình báo quyết định bỏ qua những tin tức nằm trong các tài liệu tịch thu được. Tài liệu tịch thu cho thấy Bắc Việt sắp mở một cuộc tổng tấn công khác hẳn cuộc tấn công các chuyên viên tiên liệu. Kế hoạch được mô tả trong các tài liệu tịch thu diễn tả một cuộc tổng tấn công đại qui mô vào khắp nơi trong suốt toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam phối hợp với cuộc tổng nổi dậy của toàn thể quần chúng, nhất loạt chiếm lấy các tỉnh và thành phố. Chiến lược diễn tả trong tài liệu tịch thu táo bạo và liều lĩnh đến mức chẳng ai có thể tin đây là sự thực. Cho đến mãi tận vài ngày trước Tết âm lịch những chuyên viên phân tích tình hình mới nhận chân được giá trị của những tài liệu họ đang nắm trong tay lúc này.




                    Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                    Phan Lê Dũng
                    #25
                      sóng trăng 02.12.2006 13:21:29 (permalink)
                      .
                       
                      Chương 26
                      Tết Mậu Thân


                      Trong giai đoạn thời tiết chuyển mùa từ thu năm 1967 sang đông thì tôi vẫn tiếp tục lượng định những chiều hướng của Hoa Kỳ về chiến cuộc Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn. Tôi cố theo dõi những cuộc vận động của Tổng Thống Johnson. Những cố gắng của tổng thống Johnson lúc này nhằm mục đích giữ vững sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ đối với chiến tranh ở Việt Nam. Trong lúc tôi đang cố gắng quan sát xem các cuộc thuyết phục của Tổng Thống Johnson ảnh hưởng dân chúng Hoa Kỳ ra sao thì ở Sài Gòn cuộc bầu cử Tổng Thống của Việt Nam đã kết thúc. Sài Gòn đang bắt đầu thiết lập chính phủ. Ông Thiệu đã giữ đúng lời hứa. Ông đồng ý để ông Kỳ chọn thủ tướng và sau đó hoàn toàn nhường quyền thiết lập chánh phủ lại cho ông Kỳ. Vì đã có thực quyền trong tay, ông Thiệu đã trở nên phần nào dễ dãi.

                      Kết quả là sau cuộc bầu cử, ông Kỳ cùng vị tân Thủ Tướng đã bận rộn tiếp xúc với nhiều đoàn thể chính trị và tôn giáo vì sự tham gia của các đoàn thể này vào chính phủ mới là một việc vô cùng cần thiết. Tôi được triệu hồi về nước vào tháng 9 cũng chính là để góp phần vào việc này.

                      Khi đang ở Sài Gòn thì vào ngày 17-10-1967, tôi nhận được một bức điện từ Hoa Thịnh Đốn báo rằng nhà tôi hạ sinh con trai ở bệnh viện của trường đại học George Washington. Ngày hôm sau tôi lên đường về Hoa Thịnh Đốn. Khi về Hoa Thịnh Đốn tôi lại tiếp tục những buổi nói chuyện. Tôi cũng suy nghĩ thêm về việc từ chức của Tổng Trưởng McNamara và cảm thấy lo lắng nhiều hơn khi thấy cuộc chiến ngày càng dữ dội. Từ trước đến nay, trong chiến cuộc Việt Nam, Tết không những chỉ là ngày nghỉ mà còn là giai đoạn tượng trưng cho hòa bình và hy vọng. Tết thường là những giai đoạn làm mốc để đánh dấu những thay đổi mới. Đã nhiều năm, Tết là một một dịp đình chiến được cả hai miền Nam, Bắc cùng chấp thuận. Tết là những dịp binh sĩ có thể về thăm gia đình và tề tựu cùng những người thân trong họ. Tết chính là giai đoạn nghỉ ngơi hiếm hoi cho cả hai chánh phủ giữa lúc giao tranh. Tôi đã nghĩ rằng Tết năm 1967 sẽ là một cơ hội tốt để gia đình tôi có thể quây quần, tạm quên mọi sự.

                      Vì vậy, nhân một mùa nghỉ ngắn, tôi và gia đình đã quyết định cùng đi trượt tuyết ở vùng Camelback, tiểu bang Pennsylvania. Camelback tuy không xa Hoa Thịnh Đốn là mấy nhưng cũng đủ xa để chúng tôi có thể thoát được sự căng thẳng của những vấn đề hàng ngày. Ngày đầu tiên ngay lúc đang còn trượt tuyết ở những con dốc, tôi đã nghe loa phóng thanh gọi tôi và thông báo rằng tôi phải về lập tức vì có điện thoại của tòa đại sứ. Khi tôi liên lạc được với tòa đại sứ thì những nhân viên ở tòa đại sứ cho tôi biết Sài Gòn đang bị các lực lượng Cộng Sản tấn công và chính quyền Hoa Kỳ đang cần gặp tôi gấp. Trong vòng một tiếng đồng hồ, tôi tụ họp gia đình, sửa soạn đồ đạc và lên xe hối hả trở về Hoa Thịnh Đốn.

                      Khi tôi về đến Tòa Đại Sứ thì trời vào khoảng 6,7 giờ tối. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 31 tháng giêng. Khi tôi về đến sứ quán thì những nhân viên ở tòa đại sứ đã có đầy đủ những báo cáo thâu được từ những nguồn tin của Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại Giao. Theo những Bản Báo Cáo thì hiển nhiên Việt Cộng đã phát động một cuộc tổng tấn công lớn vào Sài Gòn. Cuộc tấn công dữ dội cho đến mức đã có những đơn vị Cộng quân xâm nhập vào những một vài nơi cư trú ngay cạnh tòa đại sứ. Tuy chưa vào được tòa đại sứ nhưng những đơn vị Việt Cộng đã có lúc chiếm giữ được cả đài phát thanh. Đây quả là một cuộc tổng tấn công phối hợp với các cuộc nổi dậy ở tất cả các vùng. Cuộc tổng tấn công hoàn toàn bất ngờ cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Cả tòa Bạch Ốc đều sửng sốt vào lúc đầu. Cơn bàng hoàng sợ hãi kéo dài. Đến ngay cả khi Hoa Kỳ đã biết đại sứ Bunker hoàn toàn vô sự mà ông Rostow, ông Bill Jorden và các nhân viên tòa Bạch Ốc cũng chưa dám quả quyết liệu Việt Nam có thể chống giữ được hay không?

                      Lúc cuộc tấn công phát động thì ông Thiệu đang thăm viếng quê ngoại ở vùng đồng bằng Cửu Long nhưng ông Kỳ vẫn ở Sài Gòn để điều động mọi việc. Tôi đã cố gắng liên lạc với ông Kỳ bằng điện thoại. Lúc tôi liên lạc được với ông Kỳ thì tình hình đã khá ổn định. Ông Kỳ cho biết rằng chánh phủ Việt Nam đã làm chủ tình hình. Những đơn vị Việt Cộng gần tòa đại sứ Hoa Kỳ đã bị quét sạch. Hơn nữa, sự tiên liệu đề phòng an ninh của chính phủ ở đài phát thanh đã ngăn ngừa được mọi mưu toan của Việt Cộng trong việc lợi dụng đài phát thanh để kêu gọi cuộc tổng nổi dậy. Ông Kỳ nói thêm rằng có lẽ phải thêm một thời gian nữa quân đội Việt Nam mới có thể đẩy lui được toàn thể địch quân nhưng rõ ràng là cuộc tổng tấn công đã thất bại hoàn toàn. Mặc dầu có sự bất ngờ, tình thế đã được ổn định và địch quân đã bị tổn thất nặng nề.

                      Đang khi tôi hãy còn tổng kết vấn đề thì màn ảnh truyền hình Hoa Kỳ đã loan báo tin tức về các biến cố ở Sài Gòn. Những cuốn phim hình được chiếu vào lúc này tường trình những cảnh thật là kinh khiếp. Đài truyền hình chiếu cảnh đại sứ Bunker đang xem xét lại tòa đại sứ khi những xác chết Việt Cộng vẫn còn ngổn ngang trên mặt đất, cảnh Việt Cộng và binh lính Hoa Kỳ đang đánh xáp lá cà. Trong những cuốn phim chiếu có cả tiếng các viên sĩ quan chỉ huy hò hét ra lệnh vang lên ầm ỹ bên cạnh các phóng viên đang đổ xô vào nhau núp ngay gần sát cạnh chỗ giao tranh. Đến cả những người chuyên xem phim chiến tranh cũng chưa hề được mục kích những cảnh tương tự bao giờ.

                      Hai ngày sau đó, những nhân viên sứ quán cùng những tùy viên báo chí và quân sự của chúng tôi làm việc liên tục suốt hai mươi bốn giờ. Tôi tổng kết tất cả những bản báo cáo cùng những nguồn tin của cả Tòa Bạch Ốc lẫn Sài Gòn và đã có thể phác họa được khá đúng tình hình. Những lực lượng Việt Cộng đã phát động cuộc tấn công mở rộng ở khắp mọi nơi nhằm mục đích chiếm lấy thành phố và bắt đầu một cuộc tổng nổi dậy nhằm gây hoang mang cho những trung tâm dân cư và kêu gọi binh lính Việt Nam gia tăng đào ngũ.

                      Cuộc tấn công đã được Việt Cộng tổ chức bằng cách lợi dụng tất cả những yếu tố bất ngờ của ngày Tết. Cuộc giao tranh bắt đầu theo những tiếng pháo Tết. Vì thông lệ đốt pháo vào những dịp tết, đầu tiên chưa ai nhận rõ được rằng giao tranh đã xảy ra giữa hai phe. Hơn nữa, chiến thuật tấn công vào thẳng thành phố giữa ngay trung tâm hỏa lực của Việt Nam và Hoa Kỳ táo bạo đến độ những chuyên viên tình báo đã xem những tin tức thâu lượm được chẳng khác nào một chuyện đùa chơi. Tuy thế sự thể cho thấy đây hoàn toàn không phải một trò đùa. Trước khi cuộc tổng tấn công phát động Việt Cộng đã xâm nhập và chuyển vận được những vũ khí nặng vào các thành phố lớn. Mượn cơ hội hiếm có nhờ những ngày bận rộn của không khí trước Tết lúc mọi người đang sửa soạn cho ngày lễ lớn nhất năm, Việt Cộng đã chuyển các đơn vị vào thành phố bằng nhiều cách ngụy trang khéo léo. Vào lúc sau này, dân chúng nhớ lại rằng trước ngày Tết bỗng có những đám ma đông đảo khác thường len lỏi qua đường phố Sài Gòn. Những cuộc thẩm vấn tù nhân về sau cho thấy đã có rất nhiều đám ma giả: Những người đưa tang là du kích Việt Cộng trá hình và những quan tài họ khiêng chứa đầy vũ khí cùng chất nổ.

                      Vào đêm 31 tháng 1, Cộng Sản ra lệnh tấn công vào các mục tiêu đã chọn trong thành phố. Những mục tiêu họ chọn bao gồm: Dinh Độc Lập, những Bộ Tư Lệnh của cảnh sát và hải quân, Bộ Tổng Tham Mưu và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Vào lúc rạng đông, những cuộc tấn công phối hợp này được quân đội chính qui Bắc Việt tăng cường tấn công yểm trợ ở các khu vực ngoại ô phía Bắc và phía Nam thành phố. Kết quả của những kế hoạch do Việt Cộng sắp xếp thật là ác liệt. Một thành phố từ trước tới nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm trong cuộc chiến tranh bỗng nhiên chìm trong hỗn loạn giao tranh ở khắp các nẻo đường. Địch quân đã chọc thủng được phòng tuyến ở nhiều nơi nhưng lại không giữ được những vị trí đã chiếm. Vào lúc tảng sáng những đơn vị Việt Cộng tấn công vào tòa đại sứ đã bị tiêu diệt. Đến giữa trưa thì viên lính du kích cuối cùng bị triệt hạ.

                      Tuy những chỉ huy cao cấp của Việt Cộng đã lợi dụng được yếu tố bất ngờ nhưng Tướng Nguyễn Ngọc Loan đã huy động quân cảnh Sài Gòn phản ứng kịch liệt và ngăn chận kịp thời tất cả những tai họa lớn lao. Sau đó, những binh lính tăng cường của cả quân đội Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đã tập trung và chặn đứng các cuộc tấn công của quân đội chính qui Việt Cộng, buộc Cộng Sản phải rút lui.

                      Sài Gòn cũng là trường hợp điển hình cho các tỉnh khác. Ở những nơi như Cần Thơ, Bến Tre, Vĩnh Long, Châu Đốc, Mỹ Tho và các thành phố khác, những thành công đầu tiên của Việt Cộng lập tức tiêu tan. Những đơn vị cộng sản đã chịu nhiều thiệt hại nặng nề do những hỏa lực tập trung của Hoa Kỳ và Việt Nam.

                      Chỉ có một nơi khung cảnh hoàn toàn khác hẳn là Huế. Tại đây địch quân chiếm giữ phần lớn thành phố và chiếm đóng suốt ba tuần. Những thương tổn của cả hai bên đều vô cùng trầm trọng. Khi bị buộc phải tháo lui khỏi những tỉnh lị khác, Cộng Sản đã quyết tâm giữ vững những tiền đồn ở cổ thành. Huế cũng chính là nơi những thương tổn dân sự lên cao hơn tất cả những nơi khác. Tại Huế, ngay sau khi cộng sản chiếm đóng thì Ủy Ban Nhân Dân và những đơn vị quân sự đặc biệt của cộng sản bắt đầu diệt trừ những thành phần mà họ cho là phản cách mạng. Khi giao tranh kết thúc, đã có gần 3000 người bị tàn sát kể cả những tu sĩ công giáo, những bác sĩ ngoại quốc, những ký giả và tất cả những người từ mọi tầng lớp vì lý do này hay lý do khác đã vô tình có tên trong sổ đen của cộng sản. Nhiều người bị đánh đập cho đến chết, nhiều người khác bị bắn và rất nhiều người khác nữa bị chôn sống. Đây là một trong những thí dụ điển hình về sự man rợ cùng tột của chính sách cộng sản. Nhưng được cái may là Huế lại là vùng duy nhất Việt Cộng chiếm đóng lâu được đến mức họ có thể áp dụng được uy quyền của họ.

                      Tuy những tin tức ông Kỳ cho tôi biết thật là khả quan và đây là những tin tức trong vòng 36 giờ đầu nhưng những tin tức của các giới báo chí, truyền thông Hoa Kỳ loan báo về Tết Mậu Thân lại hoàn toàn khác hẳn. Nhất là trên đài truyền hình, những cảnh tượng được chọn lựa nhằm gây cho người xem ấn tượng rằng Việt Nam đang phải đối phó với một hiểm họa có tầm vóc sinh tử. Các phóng viên đã bị những khung cảnh ác liệt của các cuộc giao tranh ám ảnh. Hàng đêm ống kính của họ trình bày những trận đánh nảy lửa khiến người xem chẳng thể quyết định rõ rệt bên nào đang thắng thế. Ngay cả những khi những bình luận gia đã nhìn vấn đề hoàn toàn chính xác mà họ vẫn tỏ ra nghi ngờ khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam.

                      Mặc dù tòa đại sứ Việt Nam chẳng thể làm cách nào để lấn át được những tin tức của giới truyền thông Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn thu thập tài liệu để soạn thảo các chương trình nói chuyện với báo chí và với những nhân viên trong các ủy ban của quốc hội có nhiệm vụ lượng định tình hình chiến cuộc Việt Nam. Trong dịp này, tôi thường tổ chức những bữa cơm trưa và mời đại diện các báo tới tới dùng bữa trưa để có dịp thảo luận chi tiết và làm sáng tỏ phần nào các tin tức và giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc tấn công. Tôi nhấn mạnh rằng tình thế chiến cuộc hoàn toàn khả quan, Việt Cộng đang bị tổn thất nặng nề. Sau đó tôi đưa ý kiến với các ký giả báo chí rằng vấn đề chính chẳng phải nằm ở câu hỏi liệu cuộc tấn công có thành công hay không mà thực sự là ở câu hỏi liệu cuộc tấn công có ảnh hưởng gì đến chiều hướng chính sách của Hoa Kỳ hay không?

                      Cuộc tấn công Mậu Thân sẽ ảnh hưởng dân chúng Hoa Kỳ ra sao? Đây là một câu hỏi làm tôi lo lắng không cùng. Dĩ nhiên vào lúc đầu tôi cũng bàng hoàng chẳng khác nào những nhân viên khác ở Tòa Bạch Ốc, nhưng ngay cả khi đã biết rõ rằng cuộc tấn công là một thất bại rõ rệt của Cộng Sản, những nỗi lo âu của tôi vẫn không hề suy giảm. Tôi hiểu rõ tầm ảnh hưởng tai hại của những tin tức và hình ảnh mà giới báo chí đã đưa ra. Những bức hình chụp, chẳng hạn như bức hình của ký giả Eđie Adams khi chụp tướng Loan bắn vào đầu một tên Việt Cộng thật là một cảnh tượng hãi hùng. Những bức hình này tuy phác họa thật khốc liệt những sắc thái man rợ nhất của chiến cuộc nhưng lại chẳng thể phơi bày được nội dung những cảnh chụp. Chẳng hạn như nếu chỉ nhìn vào bức hình thì không ai lại có thể biết được tên Việt Cộng bị Tướng Loan bắn chính là một tên sát nhân trong đội ám sát của Việt Cộng và chính hắn vừa mới hạ sát vô số thân nhân của các nhân viên cảnh sát. Hậu quả là khi khán giả vừa trông thấy bức hình, họ đã có ngay ấn tượng rằng đây là một cuộc chiến man rợ, đã hoàn toàn vượt qua giới hạn của những lý luận bình thường hoặc suy luận sâu xa. Tuy chẳng ai có thể định rõ tầm ảnh hưởng của giới báo chí khi họ trình bày những tin tức và hình ảnh chẳng hạn như tấm hình của Eđie Adams nhưng đây vẫn là một trong những điều khiến tôi lo ngại.

                      Ngay sau khi cuộc tấn công Tết Mậu Thân chấm dứt, quốc hội và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn chưa bị ảnh hưởng gì nhiều. Những người có trách nhiệm vẫn tỏ vẻ lạc quan và tin tưởng. Việt Nam đã đánh bại một kế hoạch do Bắc Việt hoạch định cẩn mật và đẩy lui được những cuộc tấn công bất ngờ ở khắp mọi nơi trong nước. Không những chỉ đẩy lui mà Việt Nam còn đè bẹp cả cuộc tổng tấn công. Khi những tổn thất được tổng kết, con số thiệt hại của Bắc Việt lên từ khoảng 35,000 cho đến 40,000 binh lính. Đây là phân nửa binh lực của toàn thể quân đội Bắc Việt. Mặc dầu địch quân đã gọi cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một cuộc "Tổng Tấn Công, Tổng Nổi Dậy" kỳ thật thì vẫn chưa hề có một cuộc nổi dậy nào cả. Tất cả những gì Cộng Sản huênh hoang gọi là "tình cảm cách mạng chứa chất trong tim người dân Miền Nam" chỉ là những điều hoàn toàn bịa đặt. Hy vọng khuấy rối và gây loạn bên trong quân đội Việt Nam cũng hoàn toàn thất bại. Ngược lại quân đội Việt Nam đã chứng tỏ rõ rệt khả năng phản công thật nhanh chóng và hiệu lực.

                      Tuy những thắng lợi quân sự quả hoàn toàn rõ rệt là thế mà những giới báo chí lại trình bày tin tức dưới một khía cạnh khác. Những ảnh hưởng tai hại của giới báo chí đã biến cuộc tấn công thất bại của Bắc Việt thành một biến cố làm mất uy tín của Việt Nam và Hoa Kỳ. Nói một cách chi tiết thì khi đối chiếu các phong trào vận động của Tổng Thống Johnson và khả năng thực sự của Bắc Việt thì những mâu thuẫn đã khiến dân chúng Hoa Kỳ dao động và không còn tin tưởng vào uy tín của chánh quyền Johnson nữa. Tuy mới đây, trong chuyến trở lại thăm viếng Hoa Kỳ cả Tướng Westmoreland lẫn đại sứ Bunker đều lạc quan mà lúc này ở Hoa Kỳ gần như tất cả đều mất hết lạc quan. Nghi vấn đã làm cả Quốc Hội lẫn giới báo chí sôi sục: Tại sao tình báo Hoa Kỳ lại có thể tiên đoán sự kiện sai lệch đến mức như vậy? Tại sao ngay giữa trung tâm hỏa lực, nơi cả nửa triệu quân Hoa Kỳ đang trấn đóng mà địch quân vẫn có thể tiến vào những thành phố và bao vây cả tòa đại sứ?

                      Các biến cố cho thấy rằng bất kể kết quả quân sự ra sao, cuộc tấn công đã ăn mòn dần uy tín của chánh phủ Johnson về mặt tinh thần. Cuộc tấn công đã khiến nhân dân Hoa Kỳ nghi ngờ uy tín của chánh quyền Johnson. Rồi từ đó, người dân Hoa Kỳ đã bắt đầu nghi ngờ cả toàn thể cuộc chiến Việt Nam.

                      Vào lúc ban đầu thì vẫn chưa có bất kỳ sự thay đổi chính thức nào quan trọng trên phương diện chính sách. Ít ra thì cũng chưa có thay đổi nào trầm trọng ở các cơ quan hành pháp. Ngược lại, trong những tuần lễ sau Tết, Tổng Thống Johnson lại tuyên bố rõ rệt rằng chánh quyền Hoa Kỳ hết lòng ủng hộ Việt Nam. Tuy thế, tôi đã bắt đầu nghe phong phanh nhiều điều đồn đại từ nhiều phía khác nhau. Có tin đồn rằng Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford, người thay thế Bộ Trưởng McNamara, cố vấn thân tín nhất của Tổng Thống Johnson không còn ủng hộ cuộc chiến nữa. Những bạn bè của tôi trong giới quân sự Hoa Kỳ đã bảo tôi rằng vào lúc này, những phụ tá của Bộ Trưởng McNamara còn tại chức chẳng hạn như các nhân viên Paul Warnke, Leslie Gelb, Morton Halperin và nhiều nhân viên khác cũng có ý ủng hộ chính sách rút lui tuy họ vẫn chưa chánh thức tuyên bố công khai.

                      Tuy nhiên việc làm tôi lo lắng nhất là đề tài của một câu chuyện giữa tôi và phóng viên Hedrick Smith, một phóng viên của tờ New York Times. Vào khoảng cuối tháng 2, lúc phóng viên Hedrick Smith đang phụ trách một mục báo viết về lời yêu cầu đổ thêm quân của tướng Westmoreland thì ông có nhờ tôi dùng những liên lạc riêng để xác định xem liệu những mục tiêu trong lời yêu cầu của tướng Westmoreland có thiết thực hay không? Tôi đã thú thật với phóng viên Hedrick rằng tôi thật sự chẳng giúp đỡ được gì nhiều vì những viên chức Việt Nam rất hiếm khi được biết rõ ngọn ngành những kế hoạch của Hoa Kỳ, nhất là về những vấn đề như vấn đề quân số.

                      Nhưng câu chuyện chưa kết thúc tại đây. Câu hỏi của ông Smith đã khiến tôi linh cảm sẽ có việc khác thường xảy ra. Chẳng bao lâu sau tôi lại được tin rằng những lời yêu cầu của Tướng Westmoreland đã khiến hai phe bồ câu lẫn diều hâu của Hoa Kỳ tranh luận sôi nổi trong cả quốc hội lẫn chánh phủ. Đây quả là một biến chuyển đáng ngại. Lúc này uy tín chánh phủ Johnson đang bị sút giảm và cuộc tấn công Tết Mậu Thân cũng vừa mới xảy ra. Hơn nữa, chỉ còn vài tuần nữa là đến giai đoạn đầu của cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Những cuộc vận động sơ khởi để sửa soạn cho cuộc bầu cử lại sắp diễn ra ở tiểu bang New Hampshire. Tôi có linh cảm rằng yêu cầu đổ quân sẽ khơi sâu thêm các mâu thuẫn và ảnh hưởng đến các chính sách điều động chiến cuộc của Tổng Thống Johnson. Nếu đứng trên phương diện tâm lý và chính trị mà luận thì lời yêu cầu đổ thêm quân của Tướng Westmoreland đến vào một thời điểm thật là bất lợi.

                      Riêng đối với tôi thì vào giai đoạn này tôi vẫn thường tự hỏi: Phải chăng những biến chuyển ở Hoa Thịnh Đốn đã khiến Việt Nam bước qua một bước ngoặt giai đoạn? Câu hỏi này đã khiến tôi khắc khoải không cùng. Tôi cố hết sức thăm dò cho chính xác những biến chuyển bên trong chánh phủ Hoa Kỳ và báo cáo chi tiết về Việt Nam. Sau đó tôi bắt đầu vận động bằng cách ngỏ lời xin ông Thiệu và ông Kỳ gọi tôi về để tham khảo. Sau khi đã gửi điện yêu cầu được gọi về, tôi lại viện vào lý do sắp về Sài Gòn để yêu cầu được gặp Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng Clark Clifford và nhiều nhân viên khác trong cả chánh phủ lẫn quốc hội Hoa Kỳ. Giữa lúc tôi còn đang trong giai đoạn gặp gỡ đầu tiên thì bản tin của phóng viên Hedrick được tờ New York Times đăng tải. Đề mục hiện rõ ngay trên trang đầu của tờ báo ngày 10 tháng 3 với hàng tít 8 cột to lớn: "Tướng Westmoreland yêu cầu gửi thêm 206,000 quân sang Việt Nam."

                      Quả nhiên phản ứng đối với lời yêu cầu tăng viện quân đến vừa nhanh chóng, vừa dữ dội thật chẳng khác gì những điều tôi linh cảm. Tại Quốc Hội, các Thượng Nghị Sĩ Fullbright, Mansfield, Robert Kennedy, cùng hàng loạt thượng nghị sĩ khác ở ngay trong đảng của Tổng Thống Johnson đồng nhất loạt lên tiếng chỉ trích. Ngoại Trưởng Rusk bị gọi đến để điều trần trước Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện. Buổi điều trần được trực tiếp truyền hình trên các đài Ti Vi. Cảnh tượng điều trần cho thấy một sự bất đồng ý kiến rõ rệt về chính sách giữa quốc hội và chánh phủ Hoa Kỳ.

                      Vào đúng lúc mọi việc đang xảy ra thì cuộc bầu cử sơ khởi ở New Hampshire lại bắt đầu. Trong cuộc bầu cử sơ khởi nhân lúc quốc hội đang chỉ trích chính phủ, Thượng Nghị Sĩ Eugene McCarthy đã mượn luôn diễn đàn báo chí và truyền hình để công kích kịch liệt các chính sách của chính phủ Johnson. Khi cuộc bầu cử sơ khởi kết thúc thì kết quả được đăng tải vào ngày 14 tháng 3. Tổng số phiếu cho thấy Thượng Nghị Sĩ McCarthy chỉ thiếu vẻn vẹn có 300 phiếu nữa là có thể thắng được Tổng Thống Johnson.

                      Giữa khi Hoa Thịnh Đốn đang xôn xao vì các diễn biến thì tôi vẫn tiếp tục cố gắng lượng định tình hình quốc hội. Đầu tiên tôi đến gặp một người bạn đang phục vụ ở quốc hội là Thượng Nghị Sĩ Aiken. Ông Aiken nguyên vừa là người hiểu biết, có nhận định hết sức chính xác và lại vừa hiểu rõ tình cảnh của tôi. Vào một sáng lạnh lẽo đầu tháng 3, tôi cùng dùng điểm tâm với Thượng Nghị Sĩ Aiken ở phòng ăn quốc hội để được nghe lời ông nghị luận. Nhận định của Thượng Nghị Sĩ Aiken còn làm tôi lo lắng thêm. Tôi có ghi lại nhận định đã được nghe trong buổi điểm tâm hôm đó: "Tuy Tổng Thống Johnson vẫn tin tưởng mãnh liệt vào các chính sách đã đề ra, ông ta không còn được những đảng viên khác trong đảng ủng hộ. Tôi không những chỉ nói đến các nghị viên phản chiến, hẳn ông cũng đã hiểu rõ ý kiến của họ! Ý tôi muốn nói những người từ trước đến nay vẫn ủng hộ TT Johnson, chẳng hạn như ông Stennis và ông Jackson. Lúc này Tổng Thống cũng chẳng còn được họ ủng hộ. Vài năm trước ông có thể đề cập đến "sự đồng thuận" của Hoa Kỳ về chiến cuộc Việt Nam, nhưng giờ đây việc đã hoàn toàn khác hẳn. "Sự đồng thuận" không còn nữa. Vả lại, nếu có còn sự đồng thuận chăng nữa thì sự đồng thuận cũng đang tan rã." Ngưng một chút ông nói thêm: "Tôi đoán rằng Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy cũng sắp ra ứng cử tổng thống. Lúc đó thì việc còn rõ ràng hơn."

                      Từ trước đến nay tôi thấy những nhận định của ông Aiken lúc nào cũng rất thành thật và chánh xác. Chắc chắn những nhận định của ông lần này cũng chuẩn xác chẳng khác gì những lần trước. Sau khi đã tiếp xúc với ông Aiken, tôi cho rằng có lẽ chẳng còn tin tức gì cần tìm hiểu thêm ở quốc hội nữa. Vì vậy tôi lại xoay sang tìm tin tức ở Tòa Bạch Ốc. Cuối cùng, khi duyệt lại tất cả những cuộc thảo luận với cả ông Aiken lẫn những nhân viên ở Tòa Bạch Ốc tôi kết luận rằng có lẽ trong giai đoạn khủng hoảng của các chánh sách Hoa Kỳ lúc này tôi nên gặp thẳng Tổng Thống Johnson, Ngoại Trưởng Rusk và Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford. Tôi không hề nghĩ gì đến chuyện có thể ảnh hưởng tổng thống Johnson, nhưng tôi cho rằng nếu có cơ hội gặp riêng với ông, biết đâu tôi chẳng hiểu được phần nào những điều ông suy nghĩ. Vì suy nghĩ như thế nên khi đến gặp các ông Walt Rostow và Bill Jorden tôi đã hỏi họ chẳng hiểu tôi có thể gặp riêng tổng thống Johnson hay không. Cả hai đều trả lời rằng được. Thế là vào sáng ngày 18 tháng 3, ông Jorden gọi điện thoại báo cho tôi biết rằng tôi có thể gặp Tổng Thống Johnson tối đó.

                      Chiều đó tôi đến gặp ông Jorden để đánh lạc hướng giới báo chí. Rồi chúng tôi cùng đi bộ sang Tòa Bạch Ốc. Khi chúng tôi đến nơi thì Tổng Thống Johnson vẫn tiếp tôi thật là niềm nở chẳng khác gì những lần gặp trước. Lúc ngồi xuống, đối diện với tổng thống Johnson, tôi thấy dường như mình đang nhìn vào một người nào đó khác hẳn. Trông ông thật là mệt mỏi và tiều tụy. Người ông toát ra một vẻ ưu tư và trầm lặng khác hẳn trước đây. Dường như gánh nặng chiến cuộc Việt Nam đang vượt quá sức chịu đựng của ông. Có lẽ đây chẳng phải là lần thứ nhất tôi cảm thấy thông cảm với nỗi khổ tâm của ông.

                      Tôi mở đầu buổi họp bằng cách trình bày sơ lược quan điểm và những nhận định của Việt Nam. Tôi nói rằng dĩ nhiên ở Việt Nam lúc này vẫn còn rất nhiều khó khăn nhưng chúng tôi tin là Việt Nam đang nắm phần chủ động khi phải đối phó với những thử thách vừa qua trong Tết Mậu Thân. Bắc Việt đã phải chịu nhiều tổn thất và Việt Nam đang cố ổn định lại cuộc sống bình thường ở các vùng thôn quê để gây thêm tin tưởng cho dân chúng. Chiến thắng Mậu Thân đã khiến người dân Việt Nam thấy rõ rằng quân đội Miền Nam Việt Nam có thể đánh bại Cộng Sản và nhờ vào những niềm lạc quan đó, Việt Nam đã bắt đầu một cuộc tổng động viên tuyển mộ tất cả những thanh niên 18 tuổi. Đây là một cuộc tổng động viên mà trước đây Việt Nam vẫn cho rằng chẳng thể nào có thể thực hiện được. Riêng về vấn đề quân sự thì tôi nói rằng Việt Nam sẵn sàng nhận thêm những trách nhiệm mới. Nhưng quân đội Việt Nam vẫn còn đang thiếu khí giới, nhất là các súng ống có thể dùng vào cuộc tấn công. Chẳng có bao nhiêu đơn vị của Việt Nam được trang bị súng M-16, trong khi đó thì Bắc Việt lại được trang bị bằng những khẩu AK-47 tối tân của Trung Hoa.

                      Tổng Thống Johnson lấy làm ngạc nhiên khi tôi đưa ra điểm khác biệt về khí giới giữa quân đội Việt Nam và Bắc Việt. Ông quay sang nhờ ông Jorden ghi nhận điểm này. Ngoại trừ việc nhờ ông Jorden ghi nhận, Tổng Thống Johnson chỉ ngồi yên lặng trong suốt buổi họp, tay ông chống cằm, thỉnh thoảng ông lại rướn mắt nhìn qua vòng viền của chiếc tách như thể cố nhìn tôi cho rõ hơn. Tôi có cảm tưởng rằng phần lớn những điều tôi nói ông đều không nghe. Ông ngồi yên thả hồn theo những suy tưởng riêng.

                      Khi tôi dứt lời Tổng Thống Johnson ngồi yên khoảng một hoặc hai phút và phát biểu thật từ tốn: "Nếu chúng ta không thắng thì rắc rối to. Tôi đã cố hết sức rồi mà vẫn không nổi." Tôi phải cố nén ngạc nhiên mà lòng vẫn chưa thể tin được rằng đây là sự thật. Tôi không ngờ một người như Tổng Thống Johnson mà lại có thể thú nhận rằng ông không đủ sức. Tôi thầm suy nghĩ lời nói của ông và rồi kết luận rằng có lẽ ông chưa nói thẳng với tôi nhưng ông muốn tôi trình bày với ông Thiệu và ông Kỳ rằng ông không thể giữ được những lời ông đã cam kết với Việt Nam. Tuy vậy Tổng Thổng Johnson lại chẳng nói gì chi tiết thêm mà lại đổi sang đề tài cần trang bị M-16 cho các đơn vị Việt Nam. Ông nói rằng ông sẽ xem xét cẩn thận vấn đề này.

                      Trong suốt buổi họp hôm đó tôi chỉ ngồi với Tổng Thống Johnson có 40 phút. Tuy thế sau cuộc họp tôi đã biết rằng Hoa Kỳ đã quyết định thay đổi chính sách. Trong khi hai phía bồ câu và diều hâu tranh luận thì lần này phía bồ câu đã ảnh hưởng được tổng thống Johnson thay đổi chính sách về một chiều hướng mới. Tôi rời tòa Bạch Ốc vào lúc cuối ngày. Khung cảnh ban công ở Tòa Bạch Ốc vào lúc hoàng hôn vắng lặng chẳng khác nào một nơi bỏ hoang. Tôi bước đi mà lòng đầy ắp những suy tư, lo lắng. Đầu óc tôi quay cuồng vì những viễn ảnh tương lai mù mịt của Việt Nam.

                      Hai ngày sau tôi đến gặp ông Clark Clifford ở Ngũ Giác Đài. Trước đây tôi đã có gặp ông Clifford trong những buổi họp ở Sài Gòn. Bộ Trưởng Quốc Phòng Clifford nguyên vừa là bạn thân, lại vừa là người lúc nào cũng ủng hộ chính sách của tổng thống Johnson. Ở những buổi họp tôi gặp ông lúc trước ông Clifford thường trình bày vấn đề rất mạch lạc. Lời lẽ của ông đã chu đáo, khéo léo lại gọn ghẽ và chính xác chẳng khác nào ngôn ngữ của một luật sư quốc tế. Tôi vẫn nghĩ rằng cách ông diễn tả tư tưởng có lẽ còn khéo léo hơn cả những nhà ngoại giao chuyên nghiệp.

                      Đó là những ấn tượng của tôi về ông trong quá khứ, nhưng khi tôi gặp ông vào ngày 20-3-67 thì ông Clifford lại là một con người khác hẳn. Ông đã chẳng dùng những lời lẽ khéo léo hoa mỹ mà lại còn có vẻ thiếu kiên nhẫn trông thấy. Ông bảo tôi rằng ông đã được Tổng Thống Johnson cho biết chúng tôi yêu cầu Hoa Kỳ trang bị M-16 cho các đơn vị Việt Nam và ông sẽ cố gắng hết sức về việc này. Sau đó ông trực tiếp trình bày vấn đề thay đổi chính sách của chính phủ Hoa Kỳ: "Chúng tôi không còn thời giờ để nói chuyện ngoại giao nữa." Rồi ông lại ngầm ám chỉ những loạt tranh chấp triền miên giữa ông Thiệu và ông Kỳ: "Chúng tôi đã ngán nghe những chuyện xích mích đến tận cổ rồi. Dân chúng Hoa Kỳ đã chán chường lắm rồi và sức ủng hộ của chúng tôi cũng chỉ có giới hạn thôi." Khi chúng tôi chấm dứt buổi họp khó chịu đó, ông Clifford còn phát biểu một câu thất vọng gần giống như lời Tổng Thống Johnson khi trước: "Chúng ta phải tìm ra một giải pháp nào đó, nếu không thì rắc rối to!"

                      Cuối cùng, tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rusk trước khi lên đường về Sài Gòn. Khi nói chuyện với ông Rusk tôi có cảm tưởng rằng cả ba nhân vật Hoa Kỳ -Tổng Thống Johnson, Ngoại Trưởng Rusk và Bộ Trưởng Quốc Phòng Clifford- đều đang cố nói rõ lập trường của Hoa Kỳ cho tôi biết. Mới chỉ một năm trước đây, ông Rusk đã từng nói: "Nếu người Hoa Kỳ quyết định làm việc gì thì chắc chắn họ sẽ làm được việc đó", vậy mà giờ đây ông lại nói rằng: "Chúng tôi không còn đường chọn lựa. Mục tiêu của chúng tôi giờ đây không phải là thắng lợi quân sự mà là Hòa Bình trong danh dự." Đây là lần đầu tiên tôi được nghe một danh từ đặc biệt như vậy. Trên chuyến bay về Sài Gòn năm 1968, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về câu "Hòa Bình trong danh dự" của ông Rusk. Lúc đó, tôi vẫn chưa biết được rằng sau này, vào tháng 10, năm 1972 tôi còn có dịp được nghe lại danh từ đặc biệt này một lần nữa khi ông Kissinger tuyên bố Hoa Kỳ đã đạt được "Hòa Bình trong danh dự" qua hiệp định Ba Lê.




                      Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                      Phan Lê Dũng
                      #26
                        sóng trăng 02.12.2006 13:25:31 (permalink)
                        .
                         
                        Chương 27
                        Cuộc Đàm Phán Bắt Đầu



                        Sau khi chia tay ông Rusk, tôi trở về để thông báo cho Sài Gòn biết rằng lập trường của Hoa Kỳ về cuộc chiến Việt Nam đã bắt đầu lung lay. Vừa về Sài Gòn được một ngày tôi đã thông báo ngay các tin tức thật chi tiết với ông Thiệu và ông Kỳ. Tôi nói rằng Việt Nam phải đối diện với thực tế về việc rút quân của Hoa Kỳ ngay lúc này. Tuy tôi chưa chánh thức được nghe chánh phủ Hoa Kỳ tuyên bố những thay đổi trong tương lai nhưng qua các cuộc đàm luận với các ông Johnson, Clifford, và Rusk, tôi đã biết rất rõ những khuynh hướng thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Đã đành rằng Hoa Kỳ khó thể rút quân lập tức, nhưng việc rút quân của Hoa Kỳ trong tương lai là việc không thể nào tránh khỏi. (Đã có khoảng nửa triệu binh lính Hoa Kỳ trấn đóng ở Việt Nam vào thời gian đó.)

                        Khi nghe tôi tường trình, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ có lẽ đều cho rằng đây là những âu lo hãy còn xa xăm. Tuy Hoa Kỳ rút quân là việc quan trọng, họ cho rằng vẫn còn nhiều thời giờ để lo liệu. Lúc này, đầu óc của cả hai còn đang bận rộn tìm cách khẩn cấp đối phó với những cuộc tấn công lẻ tẻ đợt hai của Việt Cộng. Mặc dù lúc tôi đặt vấn đề, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều tỏ vẻ quan tâm, tôi vẫn thấy rõ ràng là họ chưa chú ý đúng mức. Tuy tôi cố trình bày vấn đề hết sức tỉ mỉ và tường tận mà khi cuộc tường trình kết thúc tôi vẫn có cảm tưởng có lẽ cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều chưa hiểu rõ những điều tôi muốn nói. Tôi tự hỏi phải chăng muốn thấu đáo ảnh hưởng của những biến cố đang xảy ra ngoài cách phải sống ở Hoa Kỳ không còn cách nào khác?

                        Đây không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần cuối tôi thất bại trong việc dung hòa quan điểm của hai bên Hoa Kỳ và Việt Nam. Tôi còn nhận ra rằng vì ở Hoa Kỳ quá lâu, tôi đã bị những nhận thức thực tế ở thủ đô Hoa Kỳ chi phối.

                        Tết Mậu Thân là một thí dụ điển hình. Bầu không khí bi quan của Hoa Thịnh Đốn đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy Sài Gòn có thể vượt qua cuộc tấn công hoàn toàn lạc quan và vô sự. Gần như tất cả mọi người Việt Nam đều thấy rõ bầu không khí tin tưởng phấn khởi sau Tết Mậu Thân. Tuy giao tranh vẫn còn rải rác đó đây trong những vùng lân cận quanh thành phố và Huế chỉ mới bắt đầu hồi sinh sau những cuộc tàn sát đẫm máu vừa qua, ở khắp nơi bầu không khí phấn khởi vẫn lộ rõ nét. Cuộc tấn công của Bắc Việt lúc Tết Mậu Thân chẳng những đã không lật đổ được chánh quyền Sài Gòn mà còn khiến quân đội Việt Nam tự tin hơn vì những kinh nghiệm vừa trải qua.

                        Những cuộc tấn công bất ngờ của Việt Cộng tuy ác liệt nhưng cuối cùng những viên chức quân sự và ngay cả đến dân chúng cũng đã thấy rõ rằng du kích quân chẳng phải thần thánh như lời đồn đãi. Hơn nữa, niềm phấn khởi tinh thần cùng những kết quả cụ thể hầu như ở khắp cả mọi nơi. Một trong những kết quả trông thấy là con số nhập ngũ nhảy vọt của quân đội Việt Nam, sự hình thành những đoàn thể tự nguyện nhằm mục đích giúp đỡ làng xóm chống lại những hoạt động xâm nhập của Cộng Sản. Những biến chuyển khả quan ở Việt Nam thật rõ rành rành. Nhưng rủi thay, những biến chuyển khả quan đó lại đến vào giữa lúc Hoa Thịnh Đốn bắt đầu thối chí.

                        Vào ngày 31 tháng 3-1968, Việt Nam đã cảm thấy những nỗi chán chường của Hoa Kỳ. Trong một buổi diễn văn được chiếu khắp nơi trên toàn cõi Hoa Kỳ (và ở cả Sài Gòn) Tổng Thống Johnson tuyên bố rằng ông sẽ không ra tranh cử. Tối đó, tôi cùng xem Ti Vi với ông Kỳ. Cả hai chúng tôi đều biết rất rõ ý nghĩa của lời tuyên bố. Chẳng bao lâu nữa, TT Johnson, người bạn thân tín nhất của Việt Nam sẽ bước ra khỏi chính trường. Những thế lực mới sẽ bước vào thay thế, sẽ lại có TT mới và những chính sách mới. Dù cho chính phủ mới có hoạt động dưới thể thức nào đi nữa thì chúng tôi cũng sắp sửa phải bắt đầu những bước gian truân, trắc trở trong tương lai.

                        Trước đây, Hoa Kỳ vẫn ít khi tuyên bố ngưng dội bom, nhưng tối đó, Tổng Thống Johnson lại tuyên bố hủy bỏ một cuộc dội bom khác. Mỗi lần Hoa Kỳ tuyên bố ngưng dội bom là mỗi lần Hoa Kỳ cố tình tính toán để nhử Hà Nội đến bàn đàm phán. Từ trước đến nay, tất cả những tính toán của Hoa Kỳ đều bị Bắc Việt khinh miệt bác bỏ, nhưng lần này chẳng hiểu sao Trung Ương Đảng Bộ Hà Nội bỗng nhiên lại hưởng ứng. Ba ngày sau Hà Nội tuyên bố sẵn sàng đàm phán. Lời tuyên bố khiến cả tướng Westmoreland lẫn đại sứ Bunker đều phải trở về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến. Theo tình hình lúc đó thì có lẽ chỉ độ vài ngày nữa là chánh quyền Sài Gòn sẽ phải đối phó với một tình thế hoàn toàn khác hẳn.

                        Trong những năm làm việc ở Hoa Thịnh Đốn, tôi vẫn thường nghe dư luận Hoa Kỳ nói rằng lý do tồn tại của chánh phủ Việt Nam chính là cuộc chiến tranh. Vì lẽ đó, Sài Gòn lúc nào cũng khước từ tất cả những nỗ lực đàm phán hòa bình. Sự thật thì trong cả trong cuộc chiến cũng như trong lúc mưu cầu hòa bình, chánh quyền Việt Nam chẳng hề có cơ hội để chọn lựa. Tuy chính Việt Nam đang nằm trong vòng hiểm họa sanh tử mà gần như trong cả toàn thể chiến cuộc Hoa Kỳ lúc nào cũng dành phần chủ động. Hoa Kỳ thường tự mình định nghĩa thế nào là những ưu điểm thuận lợi và thường ít khi chú ý đến những mong mỏi hoặc nhu cầu của Việt Nam. Lúc này, khi bị những ý kiến lạc quan ngây thơ của dân chúng Hoa Kỳ thúc đẩy, chánh quyền Hoa Kỳ lại nóng lòng cố đàm phán bằng mọi giá. Họ tin rằng đàm phán là cơ hội cho phép họ chính thức kết thúc những can thiệp quân sự ở Việt Nam.

                        Hầu hết tất cả những người Việt Nam có kinh nghiệm về chiến thuật và chiến lược của Cộng Sản đều biết rõ việc Bắc Việt tuyên bố đàm phán là chuyện hoàn toàn giả dối. Đây không phải là một nhận định quá đáng. Những người Việt Nam hiểu rõ thủ đoạn của Bắc Việt đều nhận chân được rằng lúc này Bắc Việt đang áp dụng những chiến thuật của giai đoạn "vừa đánh vừa đàm," "đánh rồi đàm, đàm rồi đánh."

                        Trên nguyên tắc thì "đánh và đàm" là chiến thuật Bắc Việt chuyên dùng đối phó với các đối phương mạnh hơn. Chiến thuật này sẽ được áp dụng khi đối phương của họ bắt đầu chán chường và mệt mỏi. -Chiến thuật "đánh và đàm" là chiến thuật họ dở ra chỉ vào khi thời cơ đã thuộc về họ. Trong giai đoạn này, đàm phán không phải là một chính sách để đưa đến thỏa ước mà chỉ là một đòn phép tâm lý nhằm khêu gợi hy vọng của đối phương rồi từ đó chia rẽ nội bộ đối phương. Chiến thuật chính, theo Cộng Sản là: "Khuyến khích và nuôi dưỡng những mâu thuẫn nội bộ đối phương." Đàm phán sẽ không đi đôi với việc giảm thiểu những nỗ lực đấu tranh mà trái lại sẽ đi đôi với những cuộc tấn công ráo riết để tạo áp lực khiến đối phương bị buộc phải đi đến đàm phán.

                        "Đánh và Đàm" không phải là những chiến thuật bí mật. Ngay cả các kế hoạch gia và các chính khách Hà Nội cũng đã bàn luận chiến thuật đánh và đàm thật cụ thể ngay trong những tờ tạp chí quan trọng của họ. Khi nhìn các chính khách Hoa Kỳ ùn ùn kéo nhau sang Ba Lê tôi đã thấy rõ họ chẳng hề hiểu biết tường tận những nhân vật họ đang nóng lòng đối diện trên bàn đàm phán. Chẳng những vậy, chúng tôi còn khó chịu hơn khi Hoa Kỳ vẫn không hề tham khảo ý kiến hoặc cho phép Việt Nam chánh thức góp phần vào cuộc đàm phán. Đàm phán dường như chỉ là công việc của riêng Hoa Kỳ và Bắc Việt. Tình trạng này vừa khiến chúng tôi phải lo lắng về những dự định của Hoa Kỳ lại vừa làm tăng thêm uy tín cho Việt Cộng. Hơn thế nữa, tình trạng này còn góp phần chứng thực thêm lời tuyên truyền: "chiến đấu chống lại quân xâm lược Hoa Kỳ" của Bắc Việt và làm giảm thiểu uy tín của chánh phủ Việt Nam.

                        Tuy biết rõ việc xảy ra là thế mà chúng tôi vẫn phải bó tay chịu đựng. Trên lý thuyết thì chúng tôi vẫn có thể phản đối hành động của Hoa Kỳ, nhưng hành động như vậy chẳng qua sẽ chỉ khiến dư luận Hoa Kỳ chống đối thêm và cho rằng Việt Nam lúc nào cũng hiếu chiến. Dư luận Việt Nam lại là một vấn đề khác. Những câu hỏi trong dư luận đã khiến chúng tôi bị buộc phải giải thích tại sao Hoa Kỳ lại nói chuyện với Bắc Việt. Chúng tôi đã nhấn mạnh rằng đây chỉ là những cuộc đàm phán mở đầu. Thực sự vấn đề chỉ là thủ tục và chẳng có gì quan trọng. Việc giải thích quả là một việc rắc rối và khó khăn vô kể. Vả lại vấn đề đàm phán hoàn toàn do Hoa Kỳ khởi đầu và do Bắc Việt hưởng ứng nên dù chúng tôi có nói gì đi nữa thì cuộc họp vẫn tiếp diễn. Vì chẳng còn đường chọn lựa, chúng tôi đành ráng sức chiều theo để giữ tình thân thiện giữa hai nước đồng minh.

                        Vào lúc này tình hình chính trị Hoa Kỳ đang ngày càng phức tạp và căng thẳng. Hoa Kỳ đang bước vào giai đoạn đầu tiên của cuộc bầu cử Tổng Thống. Các ứng cử viên (kể cả Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy) đang cố gắng vận động. Vào giữa lúc chính phủ Hoa Kỳ đang phải đối phó với cuộc đàm phán ở Ba Lê thì những biến chuyển ở Hoa Kỳ lại hết sức dồn dập. Giữa lúc tình hình đang thay đổi ào ạt như lúc này, tôi nghĩ rằng chỉ riêng một việc theo dõi được những biến chuyển ở Hoa Thịnh Đốn cũng đã chiếm hết cả thì giờ, nhưng ông Thiệu và ông Kỳ lại cảm thấy khác hẳn. Thay vì thông cảm những giới hạn thiết thực của tôi trong công vụ, họ lại nhìn tôi bằng con mắt khác. Vì thấy tôi có thể làm việc và tiếp xúc dễ dàng với người Hoa Kỳ nên ngoài những công việc chính ở Hoa Thịnh Đốn trong lúc này, họ còn cử tôi làm "quan sát viên chính thức" theo dõi những cuộc đàm phán hòa bình.

                        Không còn đường chọn lựa, tôi ở lại Sài Gòn để sửa soạn chương trình hành động rồi bay sang Hoa Thịnh Đốn để gặp những chính khách sắp đàm phán cùng Bắc Việt: Hai chính khách được Hoa Kỳ chọn lựa để đàm phán cùng Bắc Việt là ông Averell Harriman và Cựu Thứ Trưởng Quốc Phòng Cyrus Vance. Khi đến nơi tôi rất vui mừng vì được biết rằng hai người bạn cũ của tôi là ông William Jorden và ông Phillip Habib đều được cử vào phái đoàn đàm phán.

                        Ông Harriman, người có biệt danh là "con cá sấu già," cũng không phải là một nhân vật tôi hoàn toàn xa lạ. Ông là một nhà ngoại giao lão thành của đảng dân chủ nên khi mới đến Hoa Thịnh Đốn tôi vẫn thường đến thăm ông ở GeorgeTown. Mối liên hệ giữa hai chúng tôi thật tốt đẹp. Bất kỳ khi nào có dịp đi công du Việt Nam ông Harriman cũng đến gặp tôi để cùng bàn bạc.

                        Tuy chưa gặp Cựu Thứ Trưởng Cyrus Vance bao giờ, tôi đã nghe nhiều người đồn đãi về ông. Ông Cyrus Vance được rất nhiều người trong chính giới Hoa Thịnh Đốn kính trọng. Vừa về đến Hoa Thịnh Đốn tôi đã dàn xếp để cùng ăn trưa với ông Vance. Tôi mong gặp ông Vance để biết rõ hơn về người phó trưởng đoàn của phái đoàn đàm phán. Khi đã tiếp xúc với Cựu Thứ Trưởng Vance, tôi vô cùng phấn khởi vì thấy ông là người tôi có thể cùng hợp tác dễ dàng. Ông Vance là một người cực kỳ sáng suốt và có thể phân tích rành rẽ gần như tất cả mọi vấn đề. Ông có tầm nhìn bao quát của một luật sư quốc tế và hình như sinh ra chỉ để giải quyết những vấn đề phức tạp của thế giới. Khi bữa ăn trưa kết thúc, chúng tôi đã cùng đồng ý về các thể thức phối hợp hành động mà Hoa Kỳ và Việt Nam có thể áp dụng vào những cuộc đàm phán sắp tới. * * * * *




                        Vào tháng 5, bầu trời mùa xuân ở Ba Lê thật đẹp. Tuy thế, cương vị quan sát viên của tôi ở đó lại có phần gượng gạo. Sự hiện diện của tôi rõ ràng chỉ là một sự chắp nối để cố giữ được một phần nào hình ảnh đoàn kết của Hoa Kỳ và Việt Nam. Trên thực tế thì có lẽ mọi người đều cũng biết rõ rằng tương lai Việt Nam sẽ được quyết định trên bàn đàm phán. Khung cảnh đàm phán ở Ba Lê lộ rõ hình ảnh của hai thành phần chính: Hoa Kỳ đang ở bên này, Bắc Việt bên kia, còn tôi thì lại lảng vảng mãi tận phía ngoài. Cảnh tượng gần như đập thẳng vào mắt mọi người và gây cho người xem một cảm tưởng rõ rệt rằng: "Đây là một cuộc chiến của Hoa Kỳ."

                        Tuy khung cảnh khó chịu là thế, tôi vẫn cho rằng đây là một dịp may và đã dự định cố hết sức lợi dụng cơ hội. Trong thâm tâm tôi tin chắc cuộc đàm phán sẽ chẳng giải quyết được gì. Bắc Việt đến đây không phải với mục đích hòa bình. Họ chỉ cố hòa hoãn, kéo dài thì giờ và gây chia rẽ cho nội bộ Hoa Kỳ. Khi đã nhận chân được rằng đây chỉ là những đòn phép của một nước cờ hoãn binh, tôi quyết định rằng chẳng có lý do gì khiến mình phải đứng khoanh tay bàng quan mặc cho Bắc Việt độc quyền tự tung tự tác. Lúc này, ngoài các thành phần đàm phán, ở Ba Lê còn có cả trăm ký giả đến để tường thuật các cuộc đàm phán nên tôi cho rằng nếu biết cách điều động mọi việc tôi có thể tạo ảnh hưởng đáng kể với báo chí quốc tế.

                        Khi tôi bắt đầu xoay sở để lợi dụng tình thế thì giai đoạn đàm phán đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt diễn ra ở Majestic Hotel. Dĩ nhiên chẳng có kết quả gì thực tiễn. Những người Bắc Việt trình bày ý kiến chẳng khác nào những cuộn băng đang được máy thu thanh phát lại. Họ chẳng phát biểu gì ngoài việc lập đi lập lại những câu tuyên truyền cứng ngắc rằng: Hoa Kỳ phải chịu tất cả mọi trách nhiệm; Hoa Kỳ phải ngưng tất cả các cuộc dội bom. (Khi ra lệnh ngưng dội bom, Tổng Thống Johnson không hề ra lệnh ngưng những cuộc dội bom phía dưới vĩ tuyến 20); Hoa Kỳ phải rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam. Những người Hoa Kỳ, trái lại, có vẻ đứng đắn hơn. Dù sao thì họ cũng đến Ba Lê để đàm phán. Họ tránh chửi rủa, chịu khó lắng nghe và dò dẫm cố gắng tìm dịp để kéo Bắc Việt vào cuộc đàm phán thật sự. Họ có vẻ hy vọng và cho rằng chỉ nội việc hai bên có thể cùng ngồi vào bàn thương thuyết với nhau cũng đã là một điểm đáng kể rồi. Họ cho rằng vẫn còn rất nhiều thì giờ để tìm hiểu, vận động và giải quyết các vấn đề khó khăn giữa hai bên.

                        Những diễn biến trong những tuần lễ đầu của cuộc đàm phán hoàn toàn đi đôi với dự đoán của tôi. Đứng ở cương vị quan sát viên tôi chẳng hề có trách nhiệm nào thiết thực. Cứ hai hoặc ba lần một tuần, tôi lại rời khách sạn Claridge ở Champs-Élysée và đến tòa đại sứ hoặc để nghe tường trình về một buổi họp vừa chấm dứt, hoặc để cùng soạn thảo chương trình cho các buổi họp sắp đến. Trong cả hai trường hợp, cuộc gặp gỡ chỉ là thường lệ. Tất cả chẳng qua chỉ là những vấn đề trao đổi ý kiến hơn là bàn luận về những biến chuyển trong các cuộc đàm phán. Vì làm gì có biến chuyển để mà bàn bạc? Những bản báo cáo tôi gởi về Sài Gòn chẳng chứa đựng điều gì đáng chú tâm hoặc quan trọng. Nhờ vậy tôi có thể dùng tất cả thời giờ vào việc vận động báo chí và dư luận quốc tế.

                        Nếu đang lúc cần công khai phổ biến tư tưởng mà lại được gặp giới ký giả thì quả là tìm được một cơ hội bằng vàng. Tôi dành hầu hết tất cả thì giờ của tôi cho các cuộc phỏng vấn. Khi thì tôi gặp các phóng viên Andre Fontain, Claude Julien của báo Le Monde, lúc thì tôi gặp các ký giả Roger Massif, Nicholas Chatelain, và Max Clos của tờ Le Figaro. Tôi nhận lời để cho tờ Times của Luân Đôn, Đức cùng các tạp chí khác và cả đài truyền hình của Ý Đại Lợi phỏng vấn. Gần như ngày nào tôi cũng tường trình với các ký giả Hoa Kỳ. Trong số những phóng viên đã gặp lúc đó, tôi nhớ rõ nhất là các ký giả Stanley Karnow, Marvin Kalb, Peter Kallisher, James Wilde, Takashi Oka và Jessie Cook.

                        Trong các cuộc phỏng vấn tôi đã phải trả lời những câu hỏi đặt tôi vào những tình trạng lúng túng: Tại sao chúng tôi lại đến Ba Lê với tư cách quan sát viên? Tại sao Hoa Kỳ lại thay mặt chúng tôi bàn bạc mọi việc? Tuy thế, tôi vẫn tìm được cơ hội để nói rõ cương vị Việt Nam. Tôi khẳng định là Việt Nam quả thật mong mỏi hòa bình. Những mong mỏi này đã khiến Việt Nam hết lòng ủng hộ đàm phán, cho dù là phải chấp nhận một cuộc đàm phán song phương chỉ gồm Hoa Kỳ và Hà Nội mà thôi. Việc chúng tôi chẳng hề phản đối đàm phán song phương đã chứng tỏ mãnh liệt rằng Việt Nam đang mong mỏi hòa bình. Mặc dầu Việt Nam đã chấp nhận đàm phán song phương, tôi minh xác là Việt Nam vẫn nắm quyền quyết định vận mệnh của chính mình. Hơn nữa, nếu cần Việt Nam sẽ tự giữ quyền chủ động và sẽ tham dự bất kỳ cuộc đàm phán quan trọng nào có liên quan đến tương lai quốc gia. Sau đó tôi đề nghị một cuộc đàm phán trực tiếp giữa chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa và Bắc Việt để đàm phán có thể ngắn gọn và dễ dàng hơn.

                        Quả nhiên Bắc Việt lập tức khước từ đề nghị đàm phán trực tiếp hai miền như tôi đã tiên đoán. Khi những phóng viên hỏi Bắc Việt tại sao họ lại không chịu đàm phán với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, họ đã trả lời: Vì đàm phán với Việt Nam là việc hoàn toàn vô nghĩa. Hiển nhiên một khi Hoa Kỳ đã đồng ý nói chuyện với họ thì không bao giờ họ lại đồng ý đàm phán thẳng với Miền Nam Việt Nam.

                        Vài ngày sau, khi tôi đã công bố đề nghị đàm phán trực tiếp với Bắc Việt thì tôi lại có dịp gặp Đức Khâm Mạng của giáo hoàng. Đức Khâm Mạng nguyên là người nổi tiếng quen biết và có liên lạc với mọi phía. Vì không tiện trực tiếp nhờ một vị lãnh đạo tinh thần làm người hòa giải các vấn đề chính trị nên lúc cùng Đức Khâm Mạng đàm đạo tôi đã nhẹ nhàng tỏ ý nhờ ông liên lạc với Bắc Việt. Tôi nói rằng nếu quả còn có cơ hội đàm phán nào mà chánh phủ Việt Nam vẫn còn chưa biết thì chúng tôi nhất định sẽ chẳng bỏ lỡ. Giải pháp này cũng bị Bắc Việt lạnh lùng bác bỏ. Thỉnh thoảng, khi có dịp gặp Đức Khâm Mạng, tôi vẫn hỏi thăm tin tức. Ông cho biết rằng phản ứng của Bắc Việt dù là trước dư luận hoặc trong những lúc gặp gỡ riêng tư cũng vẫn cứng ngắc không hề thay đổi. Hành động của họ lại khẳng định thêm một lần nữa rằng Hà Nội đến Ba Lê chỉ để thử thách tầm kiên nhẫn của những người Hoa Kỳ nóng lòng chớ không phải để bàn bạc những giải pháp hòa bình bất kể do ai đề ra.

                        Dù sao đi nữa thì những hoạt động của tôi cũng đã mang lại một vài thành quả. Nỗ lực của tôi đã khiến Việt Nam được báo chí thế giới thông cảm phần nào. Những vận động của tôi cũng đã mở đường khiến tôi có có dịp tiếp xúc với cộng đồng Việt Nam ở Pháp. Cộng đồng Việt Kiều ở Pháp là một cộng đồng có ý thức chính trị rất cao và cộng đồng này vẫn thường chỉ trích chính quyền Việt Nam.

                        Từ trước đến nay, giới Việt Kiều sinh sống ở Pháp đã có truyền thống ủng hộ các phong trào tranh đấu chính trị của Việt Nam. Rất nhiều nhà cách mạng Việt Nam đã chung sống với họ hoặc lấy những ý tưởng của họ làm mục tiêu tranh đấu. Trong số có cả cụ Phan Chu Trinh và ông Hồ. Trong thời gian kháng Pháp, những Việt Kiều cư ngụ ở Pháp đã hoạt động vô cùng hữu hiệu. Họ đã cấp dưỡng tài chánh cho Việt Minh và đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng dư luận chống chiến tranh ở Việt Nam.

                        Tuy những đoàn thể ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong cộng đồng là những đoàn thể ủng hộ Cộng Sản, ngoài những đoàn thể này vẫn có những đoàn thể quốc gia đang hoạt động. Những phần tử quốc gia trong các cộng đồng Việt Kiều ở Pháp ủng hộ rất nhiều các thành phần quốc gia nằm trong những nhóm có lập trường khác biệt, nhưng ngay cả những phần tử quốc gia này cũng không ủng hộ ông Thiệu và ông Kỳ. Mục tiêu của tôi là cố tìm cách chuyển đổi những phẫn khích thù nghịch của những người Việt Nam ở đây thành sự ủng hộ.

                        Để hoàn thành mục tiêu, tôi tổ chức một buổi họp và mời rất nhiều phần tử nổi bật cùng đến tham dự. Tôi đã biết trước họ đến hoàn toàn với mục đích đối đầu. Trong cuộc họp, tôi vẫn dùng phương pháp đối diện trực tiếp với vấn đề như thường lệ. Tôi mở lời rằng: "Tôi biết các anh đang nghi ngờ chánh quyền Việt Nam nhưng chính tôi cũng đã từng là một sinh viên có hoạt động chính trị khi còn đi học. Bởi vậy tôi tin là tôi có thể hiểu được các anh phần nào. Tôi muốn các anh tạm quên cương vị đại sứ của tôi và chỉ xem tôi như một cựu sinh viên mà thôi. Ít nhất thì tất cả chúng ta cũng cùng là những người quốc gia. Chúng ta hãy cùng bàn luận về cả vấn đề quốc gia lẫn về vấn đề ông Thiệu, ông Kỳ. Tôi biết các anh đang gặp khó khăn với cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ. Nhưng tôi muốn biết thật rõ ràng. Xin cho tôi được nghe chính các anh phát biểu những vấn đề các anh không đồng ý. Đích thực các anh chống đối vấn đề gì?

                        Họ cũng trả lời câu hỏi của tôi rất thẳng thắn. Họ nói rõ rằng có hai điều họ không đồng ý. Thứ nhất là những chuyện tham nhũng dư luận đã đồn đãi. Thứ hai là chuyện ông Thiệu và ông Kỳ đã hành động chẳng khác nào tay sai của Hoa Kỳ.

                        Tôi đưa ra một quan niệm thật đơn giản để trả lời họ. Tôi trình bày rằng tuy chính tôi cũng là một nhân viên làm việc cho chánh quyền, việc này không có nghĩa là tôi có thể tự ý nói chuyện thẳng với ông Thiệu và ông Kỳ về mọi chuyện và cũng chẳng có nghĩa là tôi hoàn toàn không gặp khó khăn. Tôi nói với họ: "Các anh có thể nhìn ông Thiệu, ông Kỳ, phán rằng đây là những nhân vật tham nhũng rồi tiếp tục ngồi ngoài khoanh tay chẳng làm gì cả. Trong trường hợp này các anh phải đợi chờ cho đến lúc tự mình nắm quyền các anh mới có thể quét sạch, làm lại từ đầu như chính các anh mong mỏi."

                        "Nhưng tôi xin nói với các anh rằng nếu các anh tiếp tục đợi chờ những giây phút đó, các anh sẽ phải đợi chờ không biết đến bao giờ. Nếu các anh chỉ đợi chờ thì rồi đây Cộng Sản sẽ chiếm dần tất cả. Đối với chế độ độc tài Cộng Sản thì các anh chẳng có cơ hội gì cả. Với chánh quyền Việt Nam lúc này, thì ít ra các anh còn có cơ hội. Dĩ nhiên ai cũng muốn giữ cho mình trong sạch, nhưng trên lãnh vực chính trị những chuyện này có bao giờ là sự thực? Nếu các anh muốn chánh quyền Sài Gòn không còn tham nhũng thì các anh phải tự mình nhập cuộc. Các anh có cơ hội để làm việc này. Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận. Tôi đang nằm trong chăn nên tôi hiểu rất rõ chánh quyền hiện thời. Chính bản thân tôi cũng nhiều lúc không đồng ý với ông Thiệu và ông Kỳ, nhưng nếu theo về bên kia thì chúng ta chẳng còn bất kỳ cơ hội nào cả."

                        "Tôi biết rằng cũng có thể có vài người trong nhóm các anh đây sẽ báo cáo những chuyện tôi vừa nói về với ông Thiệu hoặc ông Kỳ. Chuyện đó đối với tôi chẳng có gì quan trọng. Chúng ta đều là những người trong nhóm quốc gia. Chúng ta cùng chung một lý tưởng. Ngoài cách cùng ngồi lại với nhau, chúng ta chẳng còn cách nào khác để chọn lựa. Nhưng việc này hoàn toàn tùy thuộc các anh."

                        Cuộc họp diễn ra gần trọn vẹn một ngày và rồi từ từ cách thuyết phục của tôi đã làm giảm dần những sự chống đối. Đây quả là những điều tôi có thể chuyển đạt dễ dàng đến các anh chị em sinh viên. Thật ra tôi đã có rất nhiều điểm chung với họ. Ít ra là cũng có những điểm tổng quát chung. Điều khác biệt duy nhất giữa chúng tôi là do những cách suy xét tôi đã học hỏi được từ những kinh nghiệm trong chính trường nhiều năm về trước. Có lẽ nhiều nhất là những sự suy nghĩ của tôi trong những năm tôi bị gạt ra khỏi chính trường. Bất kể đúng sai, tôi đã tin rằng mình lúc nào cũng phải tự đặt tay vào những chuyện có thể làm. Đây là con đường duy nhất để tránh những tai họa sâu xa. Tôi quan niệm rằng chẳng ai có thể đợi chờ một cơ hội hoàn toàn -Vì nếu cứ đợi chờ thì hoàn cảnh có thể buộc người đợi phải đi vào một hướng khắc nghiệt hơn. Trong khi đó thì nhập cuộc tức là đã tóm được một phần của cơ hội. Và nếu đã có được cơ hội thì dù rằng mới chỉ có được một phần của cơ hội, người đợi vẫn có thể cố gắng chuyển mọi việc về một hướng tốt đẹp hoặc ít ra cũng là một hướng tương đối khả quan hơn. Những khó khăn mà người vào cuộc phải chấp nhận sẽ được đền bù bằng những hy vọng trong tương lai. Nếu những người làm chánh trị chịu khó tìm cách lợi dụng tất cả mọi cơ hội khi nhập cuộc thì tôi tin rằng nỗ lực của họ có thể giúp họ thành công. Ngược lại, nếu họ chỉ khoanh tay đợi chờ, chắc chắn chẳng bao giờ họ có thể đoạt được mục đích.

                        Đây là những lời nhắn nhủ tôi đã cố gắng chuyển đến các sinh viên trẻ trong buổi gặp gỡ. Khi cuộc họp kết thúc -và bầu không khí đã khả quan hơn- Tôi nói rằng tôi không hề đến đây để vận động cho ông Thiệu hoặc ông Kỳ. Tôi đến đây chỉ để bàn luận vấn đề liên kết những phần tử quốc gia và tìm cách khiến họ cùng đâu lưng chống lại Cộng Sản. Tôi không đòi hỏi các anh phải hứa hẹn mà tôi cũng chẳng đòi hỏi bất cứ điều gì khác. Tôi cũng chẳng cần biết sau đó các anh sẽ làm gì, nhưng bất kể các anh quyết định ra sao, tôi vẫn mong rằng giữa chúng ta hãy còn một mối cảm thông của những người cùng đi chung một đường. Tôi muốn các anh hiểu rõ rằng lúc nào tôi cũng sẵn lòng ủng hộ các anh.

                        Buổi nói chuyện tương đối dai dẳng này chỉ là một trong những buổi tranh luận sôi nổi giữa tôi và những người hoạt động chính trị ở ngoại quốc. Trong suốt mùa hè năm 1968, thời khóa biểu của tôi từ thứ hai đến thứ sáu đầy dẫy hàng loạt những buổi họp tương tự, những cuộc phỏng vấn, những buổi tiếp xúc, những lần họp cùng các đoàn thể Hoa Kỳ, các đoàn thể Ngoại Giao Pháp, những lần phát biểu trên radio, trên đài truyền hình. Vào chiều thứ sáu, tôi ra phi trường Orly cố bắt kịp chuyến bay TWA lúc 4:30 về Hoa Thịnh Đốn. Tại đây, tôi làm việc cùng các nhân viên sứ quán cho tới thứ hai hoặc thứ ba, cố gắng tìm hiểu những tin tức thời sự và chiều hướng của cuộc bầu cử sắp tới ở Hoa Kỳ. Lúc này các chiến dịch vận động tranh cử của Hoa Kỳ đã đến giai đoạn sôi sục. Vào ngày thứ tư, tôi lại hối hả trở lại Ba Lê trên những chuyến bay Shuttle tốc hành nối liền Hoa Thịnh Đốn-Ba Lê của hãng Air France. Tôi bay nhiều đến độ gần như phi hành đoàn đã thuộc lòng tất cả những thói quen của tôi.

                        Nếu ở những giai đoạn bình thường khác thì chắc chắn những chuyến hành trình liên tục vượt Đại Tây Dương đã làm tôi kiệt sức, nhưng lúc này những chuyến tốc hành chỉ là những thói quen không hơn không kém. Tình thế đang sôi sục ở cả Pháp lẫn Hoa Kỳ. Biểu tình lúc nào cũng đầy đường phố. Cứ thỉnh thoảng lại có những cuộc ẩu đả giữa những người biểu tình và cảnh sát. Tại Hoa Kỳ, học sinh, sinh viên xuống đường để chống chiến tranh, nhưng ở Âu Châu phẫn khích lại chuyển thẳng ngay vào "chính quyền." Tại Pháp, nơi chúng tôi đáng nhẽ phải bàn bạc hòa bình mà cảnh tượng lại có vẻ thất thường đến độ gần như đang ngay giữa giai đoạn đầu của một cuộc cách mạng. Đã có lần những người chống đối buộc chúng tôi phải đáp xuống phi trường quân sự Bretigny thay vì phi trường Orly như thường lệ. Một lần khác máy bay chẳng thể đáp xuống Ba Lê mà lại phải cất cánh từ Brussels ngược về lại Hoa Thịnh Đốn. Tôi còn nhớ chuyến bay đó khá rõ. Ngày đó trùng vào ngày tôi trở về Hoa Kỳ để dự đám tang Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy. Vài ngày trước, ngay sau khi giai đoạn tranh cử vừa kết thúc thì ông bị ám sát.

                        Ngay giữa lúc tình hình đang cực kỳ xáo trộn tôi còn được gặp ông Richard Nixon ở New York. Lúc này ông đã là ứng cử viên tranh cử Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon dần dà kết thành những liên hệ chính trị phức tạp vô tưởng. Hậu quả là tôi đã bị kết án cố mưu toan vận động bất hợp lệ để chuyển hướng kết quả của cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Cũng theo dư luận thì chính bà Anna Chennault là người đã đứng ra làm trung gian.




                        Nguồn: Bản Dịch:Đặc Trưng
                         Phan Lê Dũng
                        #27
                          sóng trăng 02.12.2006 13:33:40 (permalink)
                          .
                           
                          Chương 28
                          Vụ Anna Chennault


                          Sau khi Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy bị ám sát thì cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ chuyển thành một cuộc tranh cử giữa hai ông Hubert Humphrey và Richard Nixon. Tôi đã biết ông Humphrey từ nhiều năm trước. Chúng tôi quen nhau kể từ khi ông còn là Thượng Nghị Sĩ và mối giao hảo đó kéo dài cho đến khi ông làm Phó Tổng Thống. Kể từ khi ông đắc cử Phó Tổng Thống cho đến nay, lúc nào ông Humphrey cũng hết lòng ủng hộ những chính sách chiến tranh của Tổng Thống Johnson. Ông Humphrey ủng hộ các chính sách phát triển nông thôn của Tổng Thống Johnson một phần cũng vì là những chính sách đó rất hợp với khuynh hướng dân chủ cấp tiến của ông. Vì thế, khi Tổng Thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử, thì Phó Tổng Thống Humphrey bị đặt vào một tình thế khó xử. Tuy ông Humphrey biết rõ rằng cách vận động tranh cử hữu hiệu nhất vào lúc này là tạm lánh xa những chính sách chiến tranh, nhưng ông lại không thể đi ngược lại những chủ trương của chính ông và Tổng Thống Johnson, nhất là khi Tổng Thống Johnson vẫn là người dẫn đầu trong đảng và hãy còn là đương kim Tổng Thống. Cương vị khó khăn của ông Humphrey là phải dung hòa tất cả mọi mâu thuẫn khi ra tranh cử.

                          Còn về phần ông Nixon thì tôi đã gặp ông từ năm 1953 khi ông đến viếng thăm Việt Nam. Lúc đó ông còn là Phó Tổng Thống dưới thời Eisenhower. Vào năm 1960, khi ông Nixon ra ứng cử tổng thống thì những hiểu biết của tôi về ông có rõ rệt hơn một chút. Tuy vậy, trong cuộc tranh cử năm 1960, tôi không ủng hộ ông Nixon mà lại ủng hộ một vị Thượng Nghị Sĩ trẻ khác cũng ra ứng cử lúc đó là Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy. Lúc Thượng Nghị Sĩ Kennedy đắc cử tôi đã cảm thấy hết sức vui mừng. Tôi đã hết lòng ủng hộ các đảng viên dân chủ kể từ năm 1960, nhưng vào năm 1968, vì chính quyền Johnson không được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ và các đảng viên dân chủ lại đang vận động tranh cử bằng cách cố né tránh vấn đề Việt Nam nên tôi bắt đầu cảm thấy mình bắt đầu chú ý ứng cử viên Nixon nhiều hơn.

                          Vào giữa tháng sáu năm 1968, khi các vận động tranh cử đang ngày càng sôi nổi thì bà Anna Chennault bỗng đề nghị tôi đến gặp riêng ứng cử viên Nixon. Bà Chennault nguyên là vợ của Tướng Không Quân Claire Chennault, người đã chỉ huy đội bay lừng danh Flying Tigers ở Miến Điện trong thế chiến thứ hai. Sinh trưởng trong một gia đình Trung Hoa, sau khi thế chiến chấm dứt, bà trở thành một trong những người Hoa Kỳ gốc Á nổi bật. Bà đã hoạt động kêu gọi ủng hộ cho Trung Hoa và tham gia nhiều đoàn thể chính trị ở Hoa Thịnh Đốn.

                          Bà Chennault rất chú tâm đến vấn đề Việt Nam. Bà thường xuyên thăm viếng Việt Nam nhiều lần trước đây và cũng có một người chị sống ở Sài Gòn. Hơn nữa, công ty máy bay vận tải Flying Tigers của chồng bà sáng lập sau chiến cuộc cũng đã chuyên chở rất nhiều quân nhu và quân cụ cho cả Bộ Quốc Phòng Việt Nam lẫn Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Tôi gặp bà Chennault lần đầu ở Sài Gòn vào năm 1965, khi còn là phụ tá đặc biệt cho ông Kỳ. Lúc đó, ông Kỳ có tiếp xúc với bà Chennault rất nhiều. Tôi quen với bà Chennault là vì chúng tôi vẫn thường trò chuyện. Trong những cuộc nói chuyện với bà Chennault khi còn ở Việt Nam, tôi thường hỏi bà để biết rõ thêm về những tin tức ở Hoa Thịnh Đốn. Sau này, khi tôi sang làm việc ở Hoa Kỳ thì chính bà cũng là người đã giúp đỡ tôi làm quen với các hoạt động chính trị của Hoa Kỳ. Một trong những người mà bà Chennault giới thiệu với tôi là ông Tom Corcoran. Ông Corcoran nguyên là một chính trị gia nổi tiếng thuộc đảng dân chủ. Lúc chính sách New Deal, một chính sách nổi tiếng của đảng dân chủ, được tổng thống Roosevelt đưa ra để đối phó với những khó khăn về kinh tế của Hoa Kỳ trong thập niên 1930 thì ông Corcoran cực lực ủng hộ chánh sách đó. Những sự ủng hộ nồng nhiệt của ông Corcoran đối với chính sách New Deal đã khiến chính giới Hoa Kỳ gọi ông là New Dealer (Nhân vật New Deal) và gán cho ông biệt danh là Mr. Democrat. Chính ông Corcoran là người đã đưa bà Chennault vào những hoạt động chinh trị ở Hoa Thịnh Đốn. Sau này, ông Corcoran trở thành một trong những người bạn thân và cố vấn quan trọng của tôi. Bà Chennault cũng chính là người đã giới thiệu tôi với Thượng Nghị Sĩ Everett Dirksen, lãnh tụ Cộng Hòa ở Thượng Viện Hoa Kỳ. Lời giới thiệu của bà đã khiến ông Dirksen hưởng ứng vô cùng niềm nở và cho phép tôi tìm đến cầu viện ông Dirksen rất nhiều về sau.

                          Vào tháng sáu năm 1968, thì dư luận ngày càng chú ý đến cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ. Khi tôi, Thượng Nghị Sĩ John Tower của đảng Cộng Hòa và bà Chennault đang cùng dùng bữa tối ở Câu Lạc Bộ Georgetown thì bà Chennault bỗng đề nghị rằng tôi nên đến gặp vị ứng cử viên của đảng Cộng Hòa. Lúc này, bà Chennault đang vận động cho ứng cử viên Nixon. Bà cho biết rằng bà có thể dàn xếp cho tôi tiếp xúc với ứng cử viên Nixon rất dễ dàng. Đề nghị của bà Chennault quả là một đề nghị khác thường. Tôi hứa sẽ cho bà biết ý kiến sau khi suy nghĩ chín chắn lại vấn đề. Lúc này, những nhân viên phụ tá của tôi cũng đang nỗ lực vận động để chuyển vấn đề chiến tranh Việt Nam thành một đề tài cần được dư luận chú ý trong cuộc bầu cử Tổng Thống của Hoa Kỳ. Chính tôi cũng đang tìm cách đem vấn đề Việt Nam vào cuộc tranh cử. Thật không ngờ lúc này tôi lại có cơ hội được đích thân gặp mặt đối mặt với một trong những ứng cử viên.

                          Vấn đề gặp ông Nixon đã khiến tôi do dự là vì lúc này cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn còn tiếp diễn. Trong cuộc đàm phán đó, tôi là quan sát viên và được biết tường tận các chi tiết đàm phán của đảng dân chủ [Tổng Thống Johnson là người thuộc đảng Dân Chủ]. Trong khi đó thì ông Nixon lại là người của đảng Cộng Hòa. Cứ theo tình hình mà luận thì cơ hội gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon là một trong những cơ hội vô cùng hấp dẫn nhưng cũng lại là một trong những trường hợp vô cùng tế nhị đối với tôi. Vì thế, nếu không thận trọng khi đến gặp ông Nixon, tôi có thể gây những sự hiểu nhầm và có thể bị mang tiếng rằng tôi cố mưu toan để vận động sau lưng đảng Dân Chủ. Đây là một trong những điều tôi muốn tránh hoàn toàn. Tổng Thống Johnson là một người bạn tốt của Việt Nam. Hơn nữa, ông Humphrey lại có thể thắng cử. Tôi thực tình không muốn làm hại đến tình hữu nghị giữa Việt Nam và những người trong đảng Dân Chủ. Nhưng làm sao tôi có thể chối từ không gặp gỡ với ứng cử viên của đảng Cộng Hòa cho được? Khi đã cân nhắc mọi việc, tôi quyết định sẽ đến gặp ứng cử viên Nixon nếu bà Chennault nhận dàn xếp. Tuy thế, đây là sáng kiến của riêng cá nhân tôi chứ không hề có bất cứ chỉ thị nào của chính phủ Việt Nam cả. Tôi định sẽ tự mình làm hết mọi việc, không thông báo với Sài Gòn. Nếu về sau có gì trắc trở thì ông Thiệu có thể chối bỏ mọi sự và đổ lỗi cho riêng cá nhân tôi.

                          Vào đầu tháng 7, năm 1968, khi từ Ba Lê trở về Hoa Thịnh Đốn, tôi được thông báo rằng bà Chennault có thể dàn xếp cho tôi gặp ông Nixon. Theo như dự liệu thì tôi sẽ gặp ứng cử viên của đảng Cộng Hòa vào ngày 12 tháng 7. Theo quyển Kẻ Giữ Bí Mật và quyển Những Kẻ Mại Quyền thì vào lúc này tôi đã bị mật vụ CIA theo dõi. Hơn nữa, văn phòng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ cũng đã dò xét tất cả những bức điện tôi gửi về Sài Gòn. Nếu đây là sự thực thì quả tình lúc đó tôi hoàn toàn không hề hay biết. Nhưng lúc này tôi cho rằng việc tôi định gặp ứng cử viên Nixon là một việc khó có thể dấu diếm. Tôi cho rằng dù tôi có dấu diếm cách nào đi nữa thì rồi đây chính quyền Johnson cũng sẽ biết rõ cuộc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon.

                          Lúc này, tôi vẫn thường xuyên đến gặp ông William Bundy và ông Walt Rostow để tham khảo những vấn đề liên quan đến cuộc đàm phán hoà bình ở Ba Lê và cũng để sửa soạn cho cuộc hội nghị thượng đỉnh sắp đến giữa tổng thống Johnson và ông Thiệu. Vì thế, tôi đã mượn dịp để mang vấn đề tôi định gặp ứng cử viên Nixon ra thảo luận với ông William Bundy. Vì vừa là bạn thân, lại vừa là một trong những nhà Ngoại Giao kỳ cựu, ông Bundy hiểu rõ hoàn cảnh của tôi. Khi nói chuyện với ông Bundy, tôi có hứa là khi gặp ứng cử viên Nixon, những vấn đề thảo luận của chúng tôi sẽ chỉ là những vấn đề tổng quát. Chúng tôi sẽ không đi sâu vào chi tiết hoặc nội dung của những cuộc đàm phán hòa bình ở Ba Lê.

                          Sau khi đã nói chuyện với ông Bundy và vững tâm rằng mình đã tìm được lối thoát cho một vấn đề khó khăn, vào ngày 12, tôi bay về Nữu Ước để gặp ông Nixon tại văn phòng nơi ông dùng điều động cuộc bầu cử ở khách sạn Pierre. Khi tôi đến nơi thì bà Chennault đã có mặt trong phòng đợi từ trước. Vài phút sau tôi được gặp cả ông Nixon lẫn ông John Mitchell, nguyên là luật sư và cố vấn riêng của ông Nixon. Tuy trước đây tôi có nghe lời đồn rằng ông Nixon là một người rất khó tính, nhưng hôm đó ông tiếp đãi tôi thật là niềm nở. Ông chăm chú nghe tôi tường trình đại cương tình hình Việt Nam và về việc cần thiết phải trang bị những binh sĩ Việt Nam bằng M-16 cùng những khí giới khác tối tân hơn. Trong khi bàn luận, ông Nixon đã hỏi tôi về mức độ lệ thuộc trầm trọng của Bắc Việt vào Liên Xô cũng như Trung Hoa và về các áp lực mà cả hai đại đồng minh của Bắc Việt có thể ảnh hưởng trực tiếp với chánh quyền Bắc Việt.

                          Khi cuộc bàn luận kết thúc, tôi có đề cập đến vấn đề các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ đang ngày càng dâng cao. Tôi nói thẳng với ông Nixon những linh cảm của tôi về vấn đề Hoa Kỳ sẽ rút quân và đề nghị rằng Hoa Kỳ nên có những chương trình huấn luyện cho quân đội Việt Nam để họ có thể tự mình gánh vác mọi sự. Ông Nixon đồng ý tức thời. Vào lúc này, tôi chưa hề biết rõ rằng ứng cử viên Nixon đã bắt đầu suy nghĩ về việc thi hành cùng một lúc cả kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh lẫn đàm phán, nhưng chỉ trong vòng một năm sau đó, những kế hoạch này đã trở thành rường cột của chánh quyền Nixon. Sau cùng ông Nixon ngỏ lời cám ơn tôi đã đến gặp ông. Ông cũng nói thêm rằng nhân viên phụ tá của ông sẽ liên lạc với tôi qua ông John Mitchell và bà Anna Chennault. Tôi ra về khi cuộc họp kết thúc, lòng vô cùng phấn khởi, chẳng những vì những tiến triển tốt đẹp của cuộc họp mà còn là vì tôi đã giữ đúng lời hứa với ông Bundy và đã không động chạm gì tới việc đàm phán.

                          Sau đó, những chuyến bay liên tục qua Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã khiến tôi quên hẳn cuộc họp với ứng cử viên Nixon. Tuy thế, chỉ vài tháng sau, buổi họp này lại thình lình trở lại ám ảnh tôi. 
                           
                          *


                          Vào ngày 18 tháng 7 Tổng Thống Johnson đến gặp ông Thiệu ở Honolulu. Tại đây, cuộc họp chẳng có gì khác hơn là những điểm tổng quát xác định lại sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và nhắc lại những cố gắng nhằm đem lại hòa bình. Trong khi đó đàm phán ở Ba Lê vẫn tiếp tục cứng nhắc, chẳng hề có dấu hiệu gì tiến triển và thời khóa biểu của tôi vẫn đặc nghịt giờ giấc những chuyến bay và những buổi thảo luận cần thiết. Một hôm, khi tôi từ Hawaii bay ngược về Hoa Thịnh Đốn để sửa soạn tham dự một buổi thảo luận thì bỗng nhà tôi chợt hỏi rằng liệu tôi đã biết mình đang lên đường đi đâu và đã biết rõ mình sắp sửa ăn nói ra sao chưa? Tôi trả lời rằng tài xế đã biết rõ địa điểm nhưng tôi thì lại chưa. Trả lời xong, tôi mới thấy rằng thời khóa biểu chất chồng đã khiến tôi không còn đủ sức để đối phó với tất cả những vấn đề khó khăn được nữa. Tôi đã bắt đầu kiệt lực vì những chuyến bay từ Ba Lê qua Hoa Thịnh Đốn cộng thêm những chuyến bay ở khắp Hoa Kỳ để thuyết trình. Bởi thế tôi nhất định yêu cầu Sài Gòn phải tìm người thay thế tôi làm việc ở Ba Lê. Vào ngày 28 tháng 8, tôi qua Ba Lê lần cuối để giới thiệu đại sứ Phạm Đăng Lâm với Thống Đốc Harriman và phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ. Ông Lâm là nhân vật mới mà chính quyền Việt Nam gửi sang để thay thế tôi làm quan sát viên ở Ba Lê.

                          Hôm sau, tôi trở lại Hoa Thịnh Đốn. Tại Hoa Kỳ, cuộc bầu cử tổng thống đã thực sự phát động và chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những đề tài tranh luận sôi nổi nhất của cuộc bầu cử. Về phía đảng Cộng Hòa thì ứng cử viên Nixon tuyên bố rằng ông đã có một kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh. Trong khi đó thì đảng Dân Chủ đang phải đối phó với những chống đối chiến tranh ngày một gắt gao và ông Humphrey đang cố vận động để có một thái độ không quá trùng hợp với lập trường và những chính sách của chánh phủ Johnson khi trước. Riêng đối với tôi thì đây chính là giai đoạn để trình bày tất cả mọi vấn đề của Việt Nam với tất cả những nhân vật có ảnh hưởng trong chính giới Hoa Kỳ. Tôi bắt đầu tiếp xúc thẳng với các Thượng Nghị Sĩ, các dân biểu của hai đảng, các nhà báo, các bình luận gia và tất cả những nhân vật mà tôi có thể liên lạc. Lúc này, vì đảng Dân Chủ đang cố tránh xa vấn đề chiến cuộc Việt Nam, tôi thấy mình càng ngày càng bị kéo hẳn về hướng đảng Cộng Hòa. Chỗ thuận lợi nhất để vận động các đảng viên Cộng Hòa là chỗ ở của bà Chennault. Vì giàu có, bà Chennault luôn luôn tổ chức những buổi họp mặt gặp gỡ hoặc tiệc tùng. Những buổi tiếp tân do bà tổ chức thường bao gồm gần như tất cả các nhân vật trong giới chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Vào tháng 10-1968, tôi đã liên lạc lại với bà Chennault. Lúc này bà là một trong những người đứng đầu Ủy Ban Gây Qũy nhằm mục đích vận động cho cuộc bầu cử của Ứng Cử Viên Nixon. Tôi cũng liên lạc với Thượng Nghị Sĩ John Tower, chủ tịch Ủy Ban soạn thảo chương trình Nghị Sự của đảng Cộng Hòa. Trong lúc vận động tôi đã gặp cả ông George Bush và nhiều đảng viên Cộng Hòa khác. Đây là một giai đoạn căng thẳng đối với các đoàn thể chính trị ở Hoa Kỳ. Thống kê cho thấy số phiếu của ứng cử viên Hubert Humphrey đang dẫn đầu.

                          Trong khi ở Hoa Kỳ cuộc tranh cử ngày càng dữ dội thì ở Ba Lê đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn tiếp diễn. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1968, khi trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến, ông Phil Habib đã đến gặp tôi và cho biết Bắc Việt đang hưởng ứng lời đề nghị ngừng thả bom ở những khu vực ở trên vĩ tuyến 17. (Lệnh ngưng dội bom của Tổng Thống Johnson không bao gồm mạn Nam Miền Bắc. Tại những khu vực mạn Nam, Cộng Sản vẫn tấn công những đội quân của Hoa Kỳ và Việt Nam tại vùng I) Để đổi lại, Bắc Việt vui lòng mở rộng đàm phán ở Ba Lê để có sự tham dự của chính phủ Việt Nam ở Sài Gòn -Những người mà họ cho là "tay sai" và "bù nhìn"- và đồng thời của cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, những người mà họ gọi là "Những đại biểu chân chính của Miền Nam Việt Nam."

                          Tôi đã biết những biến chuyển này từ trước qua những bức điện của Sài Gòn. Theo tôi thì ông Thiệu cho rằng sự nhượng bộ của Bắc Việt thật ra chỉ là những thủ đoạn dùng để ảnh hưởng cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ về một hướng có lợi cho ông Humphrey. Bắc Việt hưởng ứng đề nghị của tổng thống Johnson vào lúc này là vì họ đã thấy rõ quá trình chống cộng của ông Nixon. Khi nhận lời đàm phán với Hoa Kỳ, Bắc Việt vừa tránh được những cuộc dội bom của Hoa Kỳ lại vừa ảnh hưởng được cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ theo ý họ. Để đổi lại, họ bằng lòng bắt đầu một đợt đàm phán mới. Tầm mức quan trọng của đợt đàm phán này cũng lại do họ hoàn toàn quyết định. Nói tóm lại thì họ vẫn chẳng mất mát gì.

                          Khi Hoa Kỳ quyết định chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng như một thành viên trong cuộc đàm phán thì ông Thiệu vô cùng phẫn nộ. Những phẫn nộ của ông không phải hoàn toàn vô cớ. Thật ra, vì được báo cáo riêng từ nhiều tháng trước, ông Thiệu đã biết rõ Hoa Kỳ sẵn sàng chấp thuận yêu cầu của Bắc Việt về vấn đề bao gồm cả MTGP vào cuộc đàm phán. Khi chấp nhận MTGP, Hoa Kỳ đã trình bày rằng họ vẫn xem cuộc đàm phán là một cuộc đàm phán của hai phe là phe Bắc và phe Nam và vì vậy dù Bắc Việt có đưa thêm bất kỳ đoàn thể nào vào đi nữa thì cuộc đàm phán tựu trung vẫn chỉ là một cuộc đàm phán giữa hai phe Nam, Bắc. Trước đây, vì bị áp lực của Hoa Kỳ nên dầu vẫn nghi ngờ và do dự, ông Thiệu có lẽ đã đồng ý điều kiện này vào tháng 7. Khi nhận lời, ông Thiệu nghĩ rằng Bắc Việt sẽ không bao giờ đồng ý đàm phán. Nhưng lúc này họ lại đồng ý, nhất là lại đồng ý vào một thời điểm khắc nghiệt: Chỉ trước thời gian bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Đây là một thời điểm mà Hoa Kỳ đang phải đối phó với các vấn đề khác bên trong nội bộ chẳng hạn như tình trạng kinh tế, nạn thất nghiệp, vấn đề an sinh xã hội. Áp lực của cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ đã khiến vấn đề chiến tranh Việt Nam biến thành một vấn đề nhỏ hơn những vấn đề to lớn khác mà Hoa Kỳ cần phải giải quyết. Lúc này đảng dân chủ bị buộc phải hành động ngay để giải quyết vấn đề chứ chẳng thể bỏ thêm thời giờ để xem xét kỹ càng mọi chuyện.

                          Tôi rất thông cảm với những sự lo lắng của ông Thiệu. Chính tôi cũng muốn Hoa Kỳ nói rõ rằng họ không công nhận Mặt Trận Giải Phóng dưới mọi hình thức. Hơn nữa, tôi cũng muốn Bắc Việt phải thảo luận trực tiếp với Miền Nam Việt Nam vì nếu không thì chúng tôi vẫn chỉ là những kẻ đứng ngoài nhìn kẻ khác định đoạt số phận của chính mình.

                          Đã năm tháng qua, Bắc Việt liên tục đòi hỏi Hoa Kỳ phải ngưng các cuộc dội bom, rút hết quân về và giải tán chánh quyền ông Thiệu. Càng ngày chúng tôi càng mục kích rõ ràng việc Hoa Kỳ mất kiên nhẫn. Tuy Hoa Kỳ đang mong mỏi Bắc Việt giữ đúng những nguyên tắc cơ bản khi đàm phán, chẳng hạn như: "Nếu chúng tôi hành động thế này thì các anh sẽ phải hành động thế kia." thế nhưng, những điều họ mục kích lại hoàn toàn khác hẳn. Họ thấy mình đã bị vướng vào các chính sách tuyên truyền và lý do duy nhất khiến họ vẫn còn trong cuộc là hy vọng của chính họ.

                          Theo tôi nhận xét thì chắc chắn các cuộc đàm phán còn kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ đang bị những khó khăn trong nước xâu xé thì Cộng Sản chỉ cần giữ đúng quy tắc kiên nhẫn đợi chờ và nhất định không chịu nhượng bộ để thắng cuộc. Đây là những nguyên tắc căn bản của chính sách "Đánh và Đàm." Nếu họ áp dụng nguyên tắc này thì Hoa Kỳ nhất định sẽ phải chịu đựng những áp lực chính trị và những áp lực của dân chúng Hoa Kỳ, trong khi chính họ lại thảnh thơi và hoàn toàn không phải chịu đựng áp lực nào cả. Giữa lúc tình thế đang diễn ra như vậy thì chúng tôi lại được mời vào ngồi chơi xơi nước, chứng kiến mọi sự. Đây là những lý do đã khiến chúng tôi đòi hỏi rằng nếu Việt Nam vào cuộc thì đàm phán bắt buộc phải có những biến chuyển rõ rệt thực thụ.

                          Lúc này chúng tôi đòi hỏi Bắc Việt phải trực tiếp đàm phán và Hoa Kỳ phải tuyên bố không công nhận MTGP. Chúng tôi cũng biết hai điều kiện mà Việt Nam đòi hỏi là hai điều kiện khó khăn. Hơn nữa, vì Hoa Kỳ đã chấp nhận đàm phán với Bắc Việt rồi nên vấn đề đòi hỏi của Việt Nam lúc này sẽ khiến chúng tôi phải đối diện với một áp lực vô cùng khủng khiếp. Bởi vậy, tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đụng độ nảy lửa sắp đến. Lúc này, tôi đã nhận được nhiều bức điện từ Sài Gòn cho tôi biết những cuộc điều đình giữa ông Thiệu và đại sứ Bunker. Sài Gòn cũng cho tôi những chỉ thị rõ rệt để hàng ngày thảo luận vấn đề với Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao. Hơn nữa, Sài Gòn còn cho lệnh tôi phải bỏ thì giờ thảo luận với ông Bundy, ông Rostow và gửi báo cáo thường xuyên về Việt Nam.

                          Sau cùng, sau không biết bao nhiêu bản ghi chú, diễn giải và minh xác giữa Hoa Thịnh Đốn, Sài Gòn và Ba Lê, ông Thiệu và đại sứ Bunker đã cùng thỏa thuận một bản thông cáo chung. Một trong những điều khoản chính của bản thông cáo chung là lời hứa mơ hồ của Hoa Kỳ về việc không công nhận MTGP như một thành phần độc lập cũng như bảo đảm rằng Bắc Việt sẽ "đàm phán trực tiếp và thực sự với Việt Nam." Một khi nguyên tắc này đã được chấp thuận thì Tổng Thống Johnson và ông Thiệu cùng tuyên bố ngừng dội bom, và cùng công bố bắt đầu một giai đoạn mới cho các cuộc đàm phán đang diễn ra ở Ba Lê.

                          Tôi nhận được một bản thảo của tờ thông cáo chung qua điện văn vào ngày 29 tháng 10, chỉ bảy ngày trước khi bầu cử. Một phần của bản thông cáo chung là: "Cuộc gặp gỡ đầu tiên sẽ diễn ra tại Ba Lê vào [ngày, giờ ]. Những phái đoàn của Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ cùng đến tham dự buổi họp... Tôi nhấn mạnh sự chú ý của ông vào câu 'trực tiếp và thực sự đàm phán với Việt Nam'" Lúc này, cuộc tranh cử gay go ở Hoa Kỳ vẫn tiếp diễn, thống kê cho thấy số phiếu của ứng cử viên Humphrey đang ngang ngửa với số phiếu của ứng cử viên Nixon, đó là chưa kể đến vấn đề sai số trong khi thống kê được thiết lập. Vì thế khi Hoa Kỳ và Việt Nam tuyên bố ngưng dội bom thì đảng Dân Chủ hết sức vui mừng. Họ hy vọng rằng tin tức này sẽ làm thay đổi cục diện.

                          Rồi bỗng nhiên mọi diễn biến bất chợt dừng lại. Vào lúc 4 giờ sáng ngày 30 tháng 10, tôi giật mình tỉnh giấc vì tiếng chuông điện thoại của ông Hoàng Đức Nhã, bí thư của ông Thiệu. Ông Nhã nhắn rằng ông Thiệu đã duyệt lại tình hình và nhất định khước từ bản thông cáo chung của cả hai chánh phủ lúc trước. Ông Thiệu khước từ là vì những tin tức mới nhất của đại sứ Lâm vừa gửi về. Ông Nhã nói rằng ông Lâm đã điện về rằng: Hai ông Harriman và ông Vance cho biết Hoa Kỳ sẽ không chánh thức đòi hỏi vài điều khoản như đã đề ra trong bản dự thảo. Một trong những trường hợp điển hình là ông Harriman nói với đại sứ Lâm rằng Hoa Kỳ không thể nào bắt buộc Bắc Việt "đàm phán trực tiếp và thật sự" với Việt Nam được. Do đó, Hoa Kỳ khó thể bảo đảm chuyện này. Khi được tin, ông Thiệu quyết định bác bỏ lệnh gởi phái đoàn sang Ba Lê. Ông Lâm đã được triệu hồi về Sài Gòn để tham khảo ý kiến.

                          Sáng sớm hôm đó, thể theo những chỉ thị trực tiếp từ Sài Gòn, tôi tới Bộ Ngoại Giao yêu cầu ông Bundy minh xác những điều đại sứ Lâm đã thông báo với Sài Gòn. Tôi đã chuẩn bị kỹ lưỡng để đón nhận thái độ của Hoa Kỳ đối với vấn đề thay đổi ý kiến của ông Thiệu vào giây phút chót. Tuy thế, tôi vẫn chưa chuẩn bị đủ để tránh khỏi những kinh ngạc đang đón chờ tôi ở văn phòng ông Bundy.

                          Khi tôi đến, ông Bundy, người tôi vẫn coi là một người bạn tốt quên cả mời tôi ngồi. Ông nói với tôi một cách cộc lốc và lạnh lùng rằng không hề có bất kỳ sự liên lạc nào giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ và những nỗ lực đàm phán ở Ba Lê. Nói xong ông đứng thẳng lên, xoay lưng về phía tôi như thể không muốn đối diện với tôi. Tôi vừa nhìn vào phía sau lưng ông vừa nghe những tiếng gằn giọng liên tiếp nối nhau. Qua những tiếng gằn, tôi nghe rõ một vài chữ như "thiếu đứng đắn" và "không thể chấp nhận được." Rồi vẫn quay lưng về phía tôi, ông bắt đầu phát biểu gần xa về việc gặp gỡ giữa tôi và ứng cử viên Nixon.

                          Toàn thể diễn biến làm tôi sững người. Nhưng tôi nhất định không chịu để bị tấn công dù ông Bundy có là bạn tôi hay không phải là bạn tôi. Tất nhiên ông Bundy đang hiểu lầm trầm trọng về những chuyện xảy ra giữa ứng cử viên Nixon và tôi. Bởi vậy, vừa lấy lại được bình tĩnh, tôi đã nói một cách quả quyết rằng tôi chưa hề làm bất cứ điều gì có thể đáng gọi là thương tổn đến mối liên hệ của cả hai quốc gia. Tôi nhắc nhở ông Bundy rằng vào ngày 1 tháng 7 tôi đã hứa sẽ không thảo luận chi tiết những cuộc đàm phán ở Ba Lê khi gặp ứng cử viên Nixon. Tôi chưa làm điều gì đi ngược lại với lời hứa đó. Những liên hệ giữa tôi và đảng Cộng Hòa chỉ là những liên lạc bình thường. Tôi hoàn toàn không đồng ý với những ám chỉ gần xa rằng tôi đã làm điều gì mờ ám.

                          Ông Bundy không tấn công tôi trực tiếp. Ông khó thể tiết lộ rằng chính phủ Hoa Kỳ đã bí mật rút tỉa tin tức từ những bức điện của tôi gửi cho chánh phủ Sài Gòn. Tôi cũng không muốn đôi co tranh luận cho tới đường cùng với ông. -Chẳng hạn như tự vệ bằng cách trực tiếp đòi hỏi ông cụ thể đưa ra việc ông cho là tôi và ứng cử viên Nixon đã cùng nhau thảo luận và nguyên do gì đã khiến ông suy luận như vậy. Kết quả là hai bên đều cố đè nén. Khi đã bắt đầu bình tĩnh, chúng tôi cùng sửa soạn tìm cách gỡ rối cho thế bí hiện tại. Vấn đề thật phức tạp vô kể và tuy chúng tôi đã cố gắng vượt mức, (Tại Sài Gòn, cả đại sứ Bunker cũng đã đến gặp ông Thiệu) việc giải quyết vấn đề vẫn thất bại. Ngày hôm sau, 31 tháng 10- 1968, trong một buổi diễn văn được chiếu trên khắp toàn quốc, Tổng Thống Johnson đã hành động thật quyết liệt. Ông tuyên bố rằng: "Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn đàm phán thực sự." Ông sẽ cho lệnh ngưng toàn thể các chiến dịch dội bom và mở rộng thảo luận ở Ba Lê. Những đại biểu của Việt Nam có quyền tham dự. Những đại diện của Mặt Trận Giải Phóng cũng có quyền tham dự tuy sự tham dự của họ không có nghĩa là Hoa Kỳ đã công nhận họ.

                          Một ngày sau đó, ông Thiệu tuyên bố mặc dù Việt Nam không hề chống đối việc ngưng dội bom, nhưng vì những lý do đặc biệt, Việt Nam sẽ không gửi phái đoàn nào sang Ba Lê tham dự đàm phán. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chánh phủ của hai đồng minh đã công khai tuyên bố rằng họ không cùng quan điểm. Thống kê cho thấy Phó Tổng Thống Humphrey được ủng hộ đông đảo sau khi Tổng Thống Johnson tuyên bố ngưng dội bom, nhưng lại mất ủng hộ sau khi ông Thiệu tuyên bố Việt Nam không hưởng ứng cuộc đàm phán. Như số phận oái oăm đã định, những sự xích mích và bất đồng ý kiến giữa hai chánh phủ lại xảy ra công khai vào ngày 1-11, ngày Lễ Quốc Khánh của Việt Nam. Việc này có nghĩa là vào ngay khi những đàm phán đang ở vào giai đoạn quyết liệt giữa Hoa Kỳ với Việt Nam và đúng vào lúc tòa đại sứ Việt Nam phải đối phó với báo chí và dư luận Hoa Kỳ thì tòa đại sứ lại phải sửa soạn một cuộc tiếp tân lớn với với hơn một ngàn quan khách. Số quan khách đó bao gồm những người của quốc hội Hoa Kỳ, của các cơ quan trong chính phủ Hoa Kỳ, của các phái đoàn Ngoại Giao và tất cả các tổ chức chính trị khác ở Hoa Thịnh Đốn.

                          Tuy thế, mọi diễn biến trong ngày lễ vẫn xảy ra chẳng khác gì thường lệ. Theo Hoa Thịnh Đốn thì đây là một buổi tiếp tân hết sức thành công. Trong buổi lễ, chánh phủ Hoa Kỳ đã cố tỏ ra vô cùng hòa nhã. Tất cả những người bạn của Miền Nam Việt Nam đều cùng hiện diện, kể cả các ông Rusk, Rostow, Bundy và các nhân viên cao cấp khác. Họ có mặt ngay trước giới truyền thanh, truyền hình như để xác nhận rõ ràng những chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là những xích mích nhỏ nhoi, không đáng kể.

                          Tuần lễ quốc khánh kết thúc thật vất vả và bận rộn. Tôi đã dùng cả hai ngày thứ hai và thứ ba để bàn luận cùng ông Bundy và ông Rostow. Tổng Thống Johnson đọc diễn văn vào thứ tư. Toà đại sứ phải sửa soạn tiếp rước một buổi tiếp tân trọng thể vào thứ năm. Ông Thiệu khước từ không tham gia đàm phán vào ngày thứ sáu và rồi tòa đại sứ lại phải tiếp hơn 1000 quan khách cũng vào ngày thứ sáu. Chưa bao giờ tôi thấy cần một ngày nghỉ như lúc này nhưng tình cảnh dĩ nhiên không hề cho phép.

                          Sáng hôm sau đó là ngày 2 tháng 10, một ngày thứ bảy mát mẻ và tràn đầy nắng ấm. Chỉ còn đúng ba ngày nữa là cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ bắt đầu. Mới sáng sớm, nhân viên trực ở tòa đại sứ đã điện thoại báo cho tôi biết có hai bức điện mật và khẩn của tổng thống Thiệu, tôi vội vã phóng xe trên con đường vắng vẻ tự hỏi chẳng hiểu lại có thêm khủng hoảng gì nữa đây. Khi đến nơi thì trong cả hai bức điện đều chẳng chứa đựng điều gì quan trọng. Dĩ nhiên những bức điện cũng chẳng chứa đựng điều gì có thể giúp tôi giải quyết những vấn đề nan giải lúc này. Tôi đang chuẩn bị về thì lại có một cú điện thoại khác của ông Saville Davis, một trong những ký giả kỳ cựu của tờ Christian Science Monitor. Ký giả Saville Davis cho biết ông cần gặp tôi về một việc tối quan trọng. Trước đây, thỉnh thoảng tôi vẫn ăn cơm trưa cùng ký giả Davis và vì vậy tuy đây là sáng thứ bảy tôi vẫn chẳng thể từ chối lời yêu cầu của ông được.

                          Vài phút sau ký giả Davis đã đến văn phòng tôi và cho tôi xem một bức điện dài ông nhận được của Beverly Deepe, một ký giả của tờ Monitor ở Sài Gòn. Theo như nguồn tin của cô Deepe cho biết thì đại sứ Bùi Diễm đã gửi điện cho Tổng Thống Thiệu khuyên ông không nên gửi phái đoàn đàm phán Việt Nam sang Ba Lê. Sau đó phóng viên Beverly chú thích thêm rằng dư luận đang ồn ào trong giới báo chí về việc ứng cử viên Nixon và Việt Nam đã cùng nhau thỏa thuận một kế hoạch cho cuộc chiến Việt Nam. Nội dung của kế hoạch này là Việt Nam sẽ trì hoãn các cuộc đàm phán ở Ba Lê nhằm làm giảm uy tín của ông Humphrey và dồn số phiếu bầu cử về phía ứng cử viên của đảng Cộng Hòa. Để đổi lại ân huệ này, khi đắc cử tổng thống Nixon sẽ ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ hơn các đảng viên dân chủ khi trước.

                          Tin tức làm tôi chết sững. Tôi âm thầm đọc lại lần thứ hai lòng nhủ thầm rằng đây chắc hẳn là những tin tức đã khiến ông Bundy tiếp đón tôi một cách phẫn nộ vài ngày trước. Tuy đã biết rõ rằng không có kế hoạch thầm kín nào cả, tôi vẫn không hiểu nổi tại sao một chuyện hiểu nhầm như vậy lại có thể xảy ra. Tôi không biết phải nói gì với ký giả Saville Davis, người đang nhờ tôi xác nhận những câu chuyện của Beverly Deep. Cả ông Saville lẫn tôi đều hiểu rõ rằng nếu được đăng tải câu chuyện sẽ chuyển thành một vụ sì- căng-đan có ảnh hưởng trầm trọng đến những kết quả của cuộc bầu cử.

                          Tôi biết đây không phải là chuyện có thể dễ dàng xác nhận qua một cuộc bàn luận ngắn gọn cho dù tôi biết rõ tất cả mọi câu trả lời. Hơn nữa, tất cả những câu tuyên bố của tôi đều vô cùng nguy hiểm. Ngay cả việc chối cãi thẳng thừng cũng sẽ đưa đến những lời đồn đãi bất lợi một khi câu chuyện được đăng tải và khiến tôi phải chịu một gánh nặng về việc can thiệp vào một cuộc bầu cử ngang ngửa, một cuộc bầu cử mà chỉ cần một sự đổi ý nhẹ nhất cũng có thể xoay chuyển cán cân trong việc quyết định ai là vị tổng thống kế tiếp của Hoa Kỳ. (Nên nhớ rằng ông Nixon đã thắng cử với số phiếu hơn không quá 1% tổng số phiếu.) Dĩ nhiên tôi vẫn có thể tránh né vấn đề bằng cách viện lẽ rằng về phương diện chính thức tôi không thể nói hết được, nhưng điều khiến tôi suy nghĩ nhiều nhất là phải làm cách nào để tránh cho những tin tức sai lầm này ảnh hưởng vào cuộc bầu cử tổng thống của Hoa Kỳ. Tôi cũng không muốn bất kỳ ai dồn tôi phải quyết đoán trước khi tôi có đủ cơ hội suy nghĩ chín chắn về mọi việc. Tôi nói với ông Davis rằng: "Tôi không thể xác nhận mà cũng không thể cải chính bất kỳ điều gì. Vì là đại diện của một quốc gia, công việc của tôi là liên lạc với mọi chi nhánh của xã hội Hoa Kỳ và thông báo với chánh phủ Việt Nam những việc đang xảy ra tại đây. Những lời bình luận tôi gửi cho tổng thống Thiệu là những vấn đề tối mật và tôi sẽ không có lời tuyên bố gì cả về những vấn đề này."

                          Ông Davis rời tòa đại sứ đầu óc rối bời, không biết phải làm gì với bức điện. Theo như tôi biết thì tờ Monitor không hề đăng tải câu chuyện. Vì không thể biết rõ sự thật phía sau và cũng biết rõ tầm mức quan trọng khác thường của bức điện, họ đã hành động theo lương tâm. Việc khẳng định rằng ứng cử viên Nixon có thể thắng hay không một khi tin tức lan tràn về việc ông có ý phá hỏng những đàm phán hòa bình là một việc vô cùng khó nói. Về sau, ông William Safire, người soạn thảo diễn văn cho ông Nixon trong giai đoạn bầu cử đã viết trong quyển Before The Fall rằng "Nếu không có ông Thiệu thì có lẽ ứng cử viên Nixon khó thể thắng cử." Có thể câu xét đoán đã đặt quá nặng vấn đề đàm phán Ba Lê cũng như vấn đề Việt Nam, nhưng trong một cuộc bầu cử xít xoát như cuộc bầu cử năm 1968 thì việc gì cũng có thể xảy ra được.

                          Khi tiễn ông Davis xong, tôi ngồi xuống, cố suy nghĩ về những vấn đề ẩn phía sau câu chuyện của tờ Monitor. Vì ký giả Beverly Deepe viết rằng tôi đã khuyên Sài Gòn đừng gửi phái đoàn, tôi bắt đầu xem xét lại những bức điện đã gửi về cho ông Thiệu trong thời gian hai tuần lễ từ khi vấn đề bàn luận chi tiết khởi đầu. Trong những bức điện đã gửi, tôi tìm thấy một bức điện từ ngày 23 tháng 10, sáu ngày trước bức điện ngày 29 tháng 10 gửi từ Sài Gòn, cho tôi biết là đã có sự thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về việc Việt Nam gia nhập cuộc đàm phán ở Ba Lê ngày 28. Trong đó tôi ghi rằng: "Nhiều bạn bè thuộc đảng Cộng Hòa đã liên lạc với tôi và khuyên rằng chúng ta phải giữ vững thái độ cứng rắn. Từ những bản tường trình của báo chí, họ thấy rằng tổng thống (ông Thiệu) đã trở nên có phần kém cương quyết rồi." Trong một bức điện khác vào ngày 27-10 tôi viết: "Tôi vẫn thường xuyên liên lạc với những nhân vật phụ tá của ông Nixon," khi viết như thế, ý tôi muốn nói đến bà Anna Chenault, ông John Mitchell và Thượng Nghị Sĩ Tower.

                          Đây cũng là những lời nhắn có liên quan đến những việc liên lạc mà tôi gửi về Sài Gòn. Rõ ràng là tin tức chẳng hề cho thấy rõ rệt tôi có âm mưu gì với đảng Dân Chủ. Nhưng khi đặt hai mảnh tin lại với nhau và nhìn từ khung cảnh của một cuộc bầu cử căng thẳng, tôi đã thấy rằng những mảnh tin có đủ chứng cớ để cho bất kỳ ai sẵn sàng tin vào những gì mờ ám nhất. (Tôi chẳng hề biết tại sao những bức điện văn của tôi lại bị chánh phủ Hoa Kỳ hoặc Beverly Deepe biết rõ, nhưng tôi vẫn thấy khó chịu về việc họ đã biết rõ cả.) Mặt khác, việc đã quá rõ ràng là ông Thiệu có rất nhiều lý do để chống đối những cuộc đàm phán mở rộng mà chẩng cần phải bàn luận với bất kỳ ai. Hơn nữa, vào ngày 28 tháng 10, Ông Thiệu đã đồng ý ký bản thông cáo chung với Hoa Kỳ. Sau đó, ông khước từ ý định chỉ vì đại sứ Phạm Đăng Lâm đã báo cáo về những diễn biến không thực sự đi sát với những điều Hoa Kỳ đã đề ra khi trước. Nếu ông Thiệu đã quyết định không đồng ý thì lẽ nào ông còn phải trì hoãn cho đến phút chót để đổi ý?

                          Mặc dù đã biết rằng mình không hề có âm mưu gì mờ ám, tôi vẫn cảm thấy dường như có điều gì bí ẩn, nhất là vai trò của bà Anna Chennault. Tôi có cảm tưởng rằng bà đã tự mình có sáng kiến thúc đẩy phía Việt Nam Cộng Hòa và ông Nixon vào con đường cứng rắn đối với cộng sản để thủ lợi cho đảng Cộng Hòa. Chính bà là người đã liên lạc với ông John Mitchell và ông Richard Allen (Ông Allen là cố vấn ngoại giao của ông Nixon và rồi nhiều năm sau lại là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng Thống Reagan). Và chính bà cũng đã liên lạc với tôi cũng như đã tự liên lạc thẳng với ông Thiệu qua anh ông Thiệu là ông Nguyên văn Kiểu lúc đó đang là đại sứ ở Đài Loan. Trong giai đoạn phức tạp và hỗn loạn này, chẳng ai có thể khẳng định được những tin tức nào đã được chuyển cho những ai, vì thế tuy những diễn biến vừa kể có thể đưa đến những hậu quả lớn lao trên chính trường Hoa Kỳ, những gì được gọi là mưu toan của bà Anna Chennault sẽ chỉ mãi mãi là bí ẩn của lịch sử. Dù sao đi nữa thì vào ngày 5 tháng 11, chỉ ba ngày sau đó, ứng cử viên Nixon đã được bầu làm tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ. Biến cố này đã khiến tôi cho những diễn biến khó chịu lui luôn vào quá khứ. Vào ngày 9 tháng 11, khi tôi đang một mình làm việc trong văn phòng thì chuông cửa reo vang. Vì chẳng có tùy viên nào ở cạnh, tôi nhìn ra cửa sổ để xem ai nhấn chuông. Bên ngoài, một người đứng tuổi đang đứng cạnh cửa co ro tránh gió. Khi xuống đến nơi để hỏi xem ông ta cần gì, tôi đã giật nảy người vì nhận ra Thượng Nghị Sĩ Everett Dirksen. Tôi mời ông vào. Ông ngỏ ý xin lỗi về việc ghé tòa đại sứ bất ngờ mà không thông báo trước. Ông Dirksen cho biết sở dĩ ông đích thân đến gặp tôi là vì có một tin "tối quan trọng" cần cho tôi biết.

                          Khi chúng tôi vừa an vị thì ông Dirksen mở lời rằng: "Tôi đến đây nhân danh cả hai vị tổng thống, tổng thống Johnson và tổng thống Nixon." Tôi im lặng lắng nghe trong kinh ngạc. Lời nhắn tin thật là ngắn ngủi: "Việt Nam phải gửi ngay phái đoàn đại biểu tới Ba Lê trước khi việc trở nên quá trễ." Tôi chưa kịp hỏi rằng vì sao lại "quá trễ" thì ông Dirksen đã tiếp tục: "Tôi cũng cần khẳng định rõ rệt với ông rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ công nhận sự hiện diện của Mặt Trận Giải Phóng như một thành phần hoàn toàn biệt lập. Tôi xin xác nhận một cách tuyệt đối rằng Hoa Kỳ không bao giờ chủ trương ép buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận giải pháp chính phủ liên hiệp."

                          Ông Dirksen đã giúp tôi rất nhiều trong quá khứ. Cách viếng thăm khác thường của ông đã khiến tôi hết sức chú tâm đến vấn đề ông đang trình bày. Hơn nữa, tầm mức kính trọng của tôi đối với ông khiến tôi chẳng chút nghi ngờ gì về điều ông nói. Lòng vẫn còn kinh ngạc, tôi cám ơn ông đã đến cho biết tin và cũng nói rằng tôi sẽ chuyển ngay tin tức về cho ông Thiệu. Vài phút sau khi chào ông Dirksen, chuông điện thoại lại reo vang. Ký giả Joseph Alsop, một ký giả và bình luận gia nổi tiếng của Hoa Kỳ ngỏ lời xin được gặp tôi gấp. Tôi ngồi lặng trên ghế đợi ký giả Alsop và phân vân tự hỏi chẳng hiểu lại có chuyện gì nữa đây?

                          Ký giả Alsop là bạn thân của tôi đã từ lâu. Tôi đã biết ông từ những năm của thập niên 1960, khi ông đến thăm Việt Nam và gặp Bác sĩ Quát. Kể từ khi tôi đến Hoa Thịnh Dốn, chúng tôi vẫn liên lạc với nhau thường xuyên. Tôi vẫn thường mua cả nước mắm cho ông. Ký giả Alsop và ông Dirksen là hai người tôi tin tưởng nhất trong nhóm bạn ở Hoa Thịnh Đốn. Cứ theo tình hình mà luận thì có lẽ chánh phủ Hoa Kỳ đang cố tạo ấn tượng về mức trầm trọng của tình hình với tôi bằng cách chọn những sứ giả hữu hiệu nhất.

                          Mười lăm phút sau ký giả Alsop lại ngồi đúng vào chiếc ghế mà ông Dirksen vừa mới rời khỏi. Khi tôi vừa bắt đầu lên tiếng về việc ông Nixon thì ký giả Alsop đã cắt lời: "Ông bạn ơi, tổng thống của ông bạn đang chơi một trò chơi nguy hiểm. Tôi mới gặp Ông Già hôm qua. Ông Già đang điên cuồng vì giận." Ký giả Alsop đã dứt câu mà tôi vẫn chưa liên tưởng được "Ông Già" là ai. Tuy thế, chỉ một phút sau tôi nhận ra là ông đang nói về tổng thống Johnson. Nhớ lại những lời ông Dirksen vừa nói nửa giờ trước đây, tôi hỏi ký giả Alsop: "Phải chăng Ông Già nhờ ông đến gặp tôi?"

                          "Không đúng hẳn," ông Alsop trả lời. Thực ra chính ký giả Alsop đã nói chuyện với Tổng Thống Johnson hôm trước. Hiển nhiên là TT Johnson đã mất hết kiên nhẫn vì những hành động bất ngờ của ông Thiệu. Sự khích động của TT Johnson đã khiến ký giả Alsop cảm thấy gần như bắt buộc phải cho tôi biết tin. Ký giả Alsop hút thuốc liên miên như thể đang cố tìm cách giảm bớt sự lo lắng. Ông khuyên tôi nên trở về Sài Gòn lập tức để nói chuyện với ông Thiệu.

                          Cũng trong ngày đó, tôi lại nhận được một cú điện thoại bất ngờ từ Bộ Ngoại Giao, hỏi tôi đã tiếp xúc với Thượng Nghị Sĩ Dirksen hay chưa? Vào giờ cơm tối, một chuyên viên của Bộ Ngoại Giao đến nhà tôi để đặt giây điện thoại trực tiếp về Sài Gòn. Đường giây này là đường giây an toàn của Ngũ Giác Đài. Ngay ngày hôm sau, nhằm ngày chúa nhật, tôi đến gặp ông Bundy để tổng kết lại tình hình. Tôi lên máy bay về Sài Gòn vào sáng thứ hai. Đây là lần đầu tiên trong vòng 4 tuần tôi mới có được ít phút rảnh rang để suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về tầm quan trọng của các biến cố, về việc đảm nhiệm của vị tân tổng thống, về những chính sách khác biệt của chính phủ mới. Có lẽ những chính sách mới lại là những kế hoạch bí mật trong tương lai.



                          Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                          Phan Lê Dũng
                          #28
                            sóng trăng 02.12.2006 13:35:56 (permalink)
                            .
                             
                            Chương 29
                            Tổng Thống Mới, Chính Sách Mới



                            Tôi trở về Sài Gòn ngày 13 tháng 11-1968. Vừa về đến nơi tôi đã tìm cách gặp ngay ông Thiệu và ông Kỳ. Tôi thuật lại câu chuyện khó chịu của tôi khi gặp ông Bundy và những lời nhắn nhủ khác thường của ông Dirksen và ông Alsop ở tòa đại sứ. Tôi cố tìm cách cho hai ông Thiệu và Kỳ thấy rõ được sự giận dữ và thiếu nhẫn nại của thượng nghị sĩ Dirksen. Tôi cũng không quên thuật lại những lời lẽ nghiêm nghị của ông Dirksen khi ông tuyên bố "đến gặp tôi nhân danh hai vị tổng thống Hoa Kỳ." Hôm sau, tôi tới Thượng Viện ở Sài Gòn để Thuyết trình trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện.

                            Vào ngày 16 tháng 11, tôi đến gặp đại sứ Bunker để trực tiếp tìm cách giải quyết vấn đề. Khoảng hơn một tuần lễ sau, sau khi đã trao đổi hàng loạt những đề nghị và các bản thảo, chúng tôi cùng nhau đề ra một số cách thức hợp tác chung mà chúng tôi cho là có thể phù hợp với cả hai quốc gia. Tôi cũng nói với đại sứ Bunker rằng đây có lẽ là một cơ hội tốt để hai chánh phủ có thể cùng cộng tác. Trước khi Hoa Kỳ chánh thức đưa ra chính sách để đối phó với Bắc Việt thì đây chính là một dịp mà Hoa Kỳ có thể thảo luận với Việt Nam về những vấn đề chẳng hạn như vấn đề đàm phán với Bắc Việt. Thực ra, tôi đã suy nghĩ về vấn đề này từ lâu rồi. Trong những tháng trước, khi còn ở Hoa Thịnh Đốn, tôi đã nhiều lần gửi điện về Sài Gòn để nói rõ tầm quan trọng của vấn đề cần phải có sự cộng tác chung giữa hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ.

                            Khi nghe tôi đề nghị rằng hai chánh phủ nên cùng nhau thảo luận cách đàm phán với Bắc Việt trước khi thực sự bắt tay vào việc, đại sứ Bunker đã hưởng ứng hết sức nhiệt liệt. Ông đề nghị tôi tìm cách để thuyết phục chánh phủ Việt Nam thực thi dự định đó. Đại sứ Bunker nguyên được cử làm đại sứ ở Việt Nam một phần quả là do ông đã có kinh nghiệm ngoại giao lão thành, nhưng một phần khác cũng là do mối cảm tình chân thật mà ông dành cho Việt Nam. Lúc nào ông cũng cố gắng xoay sở để có thể hướng những nỗ lực giúp đỡ của Hoa Kỳ đúng vào những lợi ích thiết thực nhất của Việt Nam. Mối giao hảo thân mật giữa chúng tôi một phần cũng là do những lý do này. Hơn nữa, khi cùng nhìn vào những vấn đề khó khăn và những mục tiêu của Việt Nam thì chúng tôi lại còn cùng đồng quan điểm. Cách suy luận của chúng tôi cũng gần giống nhau, nếu không muốn nói là hoàn toàn trùng hợp. Sau khi gặp đại sứ Bunker, tôi đến gặp ông Thiệu vào ngày 5 tháng 12, trước khi lên đường trở lại Hoa Thịnh Đốn. Trước đây tôi đã nhiều lần gặp ông Thiệu để trình bày vấn đề cần phải tìm cách cộng tác với Hoa Kỳ cho hữu hiệu, nhưng lần nào ông Thiệu cũng chỉ hưởng ứng lấy lệ. Trong cuộc họp riêng, mặt đối mặt, lần này tôi hy vọng cuộc họp có thể sẽ khiến ông Thiệu lưu ý hơn. Tuy vậy, cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa tôi và ông Thiệu cũng chẳng lay chuyển được sự suy nghĩ của ông khác trước là bao. Bất kể tôi đề cập đến vấn đề ra sao, ông Thiệu vẫn có cách để chuyển hướng vấn đề. Lúc tôi đưa ý kiến thì ông vẫn lắng nghe, vẫn đưa ra những hứa hẹn tốt đẹp, nhưng rồi sau câu chuyện thì ông cứ lẳng lặng bỏ mặc, không giải quyết vấn đề một cách dứt khoát. Lúc nào ông cũng cố tìm cách trì hoãn để mặc cho vấn đề có thể tự giải quyết, hoặc sẽ trôi đi với thời gian. Quyết định một cách cả quyết là một điều ông Thiệu rất hiếm khi làm được. Đối với đa số những người lãnh đạo Việt Nam thì việc tổng thống Nixon đắc cử là một biến cố có chiều hướng thuận lợi; Họ đã thấy rõ vị tổng thống mới là người có lập trường chống cộng vững chắc. Sau một vài tháng lo sợ ngại ngùng, Việt Nam giờ đây hoàn toàn lạc quan và dư luận cho rằng tương lai đã có phần được bảo đảm.

                            Riêng tôi vẫn ít lạc quan hơn. Vì gần gũi với chính trường Hoa Thịnh Đốn hơn những người khác, tôi biết rằng một khi những diễn biến chính trị ở Hoa Kỳ đã hướng về một chiều hướng nhất định thì gần như chẳng còn cách nào để ảnh hưởng những diễn biến đó về một chiều hướng khác. Đã đành rằng chính quyền Nixon có thể ít bị các nhóm phản chiến chống đối hơn là chính quyền Johnson, nhưng đảng Cộng Hoà cũng quan niệm vấn đề chiến tranh Việt Nam chẳng khác gì đảng Dân Chủ. Thực sự thì Hoa Kỳ đã bắt đầu ở trên con đường đi ra. Hiện giờ câu hỏi không còn là: "Liệu Hoa Kỳ có rút quân hay không?" mà là: "Hoa Kỳ sẽ rút quân thế nào?" Vào ngày 23 tháng 9, khoảng một tháng trước khi cuộc bầu cử bắt đầu, tôi đã viết một bản báo cáo mật gửi cho ông Thiệu như sau: Như đã có dịp nhiều lần trước đây tường trình cùng Tổng Thống, chúng tôi thiển nghĩ rằng Hoa Kỳ đến nay đã có rất nhiều lầm lỗi trong chính sách ở Việt Nam, nhưng nếu thẳng thắn công nhận thì chúng ta cũng có nhiều lỗi lầm. Những năm trước đây, do tình trạng chính trị không được ổn định, do tình trạng xã hội phân hóa, do những vấn đề cấp bách của chiến tranh thúc đẩy, chúng ta đã để người Hoa Kỳ (vì sốt ruột, vì không hiểu tâm lý người Việt Nam) có những quyết định vội vàng ảnh hưởng không ít đến tình trạng ngày nay.

                            Lúc này, chính phủ Nixon sắp nhậm chức và lại chưa hoàn toàn quyết định một chính sách rõ rệt về vấn đề Việt Nam, chúng tôi thiển nghĩ không có dịp nào tốt hơn là dịp này để chúng ta có sáng kiến và thảo luận với chính phủ mới về một chính sách có lợi cho chúng ta. Nếu đặt giả thuyết là chúng ta chờ đợi chính phủ Hoa Kỳ có thái độ rõ rệt thì chúng tôi thiển nghĩ rằng: bộ máy Hoa Kỳ là một bộ máy hết sức nặng nề, một khi bộ máy đó đã chuyển vận và bước sang giai đoạn có quyết định, e rằng nếu những quyết định đó không có lợi cho chúng ta, sau đây khó lòng mà sửa lại được.

                            Vào mùa thu năm 1968, Tuy tôi đã biết chắc chắn rồi đây thế nào Hoa Kỳ cũng rút quân, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những kế hoạch bí mật của TT Nixon trong cuộc bầu cử năm 1968 chẳng qua chỉ là những kế hoạch ông đưa ra nhằm mục đích tranh cử chứ lúc đó ông vẫn chưa có kế hoạch chính thức gì thiết thực. Theo như những tin tức tôi thu thập từ Bộ Ngoại Giao, từ Ngũ Giác Đài, từ CIA và từ đảng Cộng Hòa thì chẳng có kế hoạch gì rõ rệt cả. Có thể là ngay sau khi đắc cử, TT Nixon sẽ xem xét lại chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam để đưa ra những chính sách thiết thực hơn. Một khi họ đã có chủ trương nhất định để thiết lập chánh sách thì chánh phủ Hoa Kỳ sẽ soạn thảo kế hoạch cho phù hợp với những chủ trương đó.

                            Theo tôi thấy thì trong giai đoạn chuyển tiếp lúc này, rõ ràng là Việt Nam phải có sáng kiến để đóng góp trong việc soạn thảo kế hoạch của một chính phủ mới. Tôi cho rằng ông Thiệu nên chấp nhận vấn đề rút quân của Hoa Kỳ, xem đây là điều tất yếu, và rồi nỗ lực chuẩn bị mọi việc để phòng khi Hoa Kỳ rút lui. Tôi cho rằng ông Thiệu phải chuẩn bị để nếu Hoa Kỳ có rút quân thì họ sẽ phải rút quân theo những điều kiện của Việt Nam. Tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ đều cho thấy rằng nếu Hoa Kỳ đã có chánh sách thì bất kể thái độ của Việt Nam ra sao, chắc chắn họ cũng vẫn hành động theo chánh sách của họ. Hậu quả là Việt Nam lúc nào cũng phải nhắm mắt đi theo vì chẳng còn đường nào khác để chọn lựa. Tuy thế, nếu Việt Nam biết tự mình chủ trương mọi việc cẩn thận và thấu đáo trước thì rồi chính Việt Nam cũng được góp phần quyết định. Trái lại, nếu không chuẩn bị trước thì rồi đây Việt Nam lại rơi vào tình trạng phải thụ động giống hệt khi trước.

                            Vào ngày 13 tháng 1-1969, một tuần trước khi tổng thống mới của Hoa Kỳ bắt đầu nhiệm chức, tôi có trình bày vấn đề rõ ràng với ông Thiệu. Trong bản tường trình gửi về, tôi tiếp tục đi vào chi tiết những điểm chúng tôi đã bàn luận trong tháng trước.

                            1)-Trong khi chính sách Hoa Kỳ chưa hoàn toàn được xác định, Tổng Thống cho cứu xét toàn diện lại tình trạng quân sự, ngoại giao, chính trị và kinh tế để tiến tới một hệ thống
                            đề nghị hợp lý, rõ rệt bao gồm cả những phần nói trên, nhằm giải quyết vấn đề chiến tranh.

                            2)-Trong một thời gian ngắn, (trung tuần tháng 2 là cùng) sau khi những đề nghị đã được hoàn thành và không chờ đợi người Hoa Kỳ, yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ thảo luận với chính phủ ta về những đề nghị đó. Kinh nghiệm đã cho biết rằng trong trận chiến tranh hiện tại và trong giai đoạn qua, vị trí của Hoa Kỳ và Việt Nam đã có nhiều điểm giống nhau, thế mà những sự sai lầm tai hại không phải là ít; trong giai đoạn tới, quyền lợi hai nước chưa chắc đã hoàn toàn đi đôi. Nếu chúng ta không thẳng thắn nói rõ những quan điểm thiết yếu của dân tộc, e rằng sẽ có những khó khăn lớn lao về sau.

                            3)-Đồng thời với việc khảo luận với chính phủ Hoa Kỳ về những đề nghị của chính phủ ta, sắp đặt một chương trình khéo léo nhằm vào dư luận báo chí Hoa Kỳ và thế giới để
                            chứng tỏ chúng ta thiện chí tới mức tối đa cả trong việc điều đình tại Ba Lê cũng như trong phần vụ cáng đáng lấy trách nhiệm trong cuộc chiến. Sau đó tôi trực tiếp đề cập đến vấn đề Hoa Kỳ rút quân: Trên đây chúng tôi có đề cập tới những khía cạnh quân sự ngoại giao và kinh tế. Trong vấn đề quân sự chắc chắn sẽ có trường hợp rút bớt quân đội Hoa Kỳ (rút bao nhiêu? Trong thời gian nào? Với điều kiện nào? v.v...) cũng như trong vấn đề ngoại giao sẽ có đường lối áp dụng với đối phương tại Ba Lê. Còn về vấn đề kinh tế thì nếu có quyết định rút dần quân đội Hoa Kỳ, quyết định này không khỏi không có ảnh hưởng tới kinh tế. (Tại cơ quan viện trợ Hoa Kỳ, chúng tôi đã thấy có những nghiên cứu dựa vào giả thuyết rút dần quân đội, tỉ dụ như nếu hàng tháng rút 10 ngàn quân, tức là hàng năm 120,000 quân, thì sở ngoại tệ của Việt Nam sẽ hụt đi là bao nhiêu và số viện trợ thương mại sẽ thay đổi ra sao?).

                            Trở về vấn đề quân sự và ngoại giao, chúng tôi đơn cử một vài thí dụ để chứng tỏ sự cần thiết phải đi trước dư luận bằng những sáng kiến, đề nghị mới.

                            Trong dịp cuối năm, Tổng Thống có đọc một bản thông điệp nói đến việc trong năm 1969 Việt Nam sẽ cáng đáng nhiều trách nhiệm trên chiến trường. Bản diễn văn đó đã được sự hưởng ứng của hầu hết dư luận báo chí. Tại Ba Lê, mỗi lần phái đoàn ta có một đề nghị gì mới, (bất kỳ đề nghị gì) là lập tức dư luận báo chí tỏ ý hy vọng.

                            Cũng vì những lý do đó mà chúng tôi tới kết luận rằng tỷ dụ như trên lĩnh vực quân sự, sau khi đã nghiên cứu kỹ càng vấn đề và kết luận rằng có thể đồng ý để một số quân đội Hoa Kỳ rút về và sau khi đã xác định được rõ là chính phủ mới của Hoa Kỳ trước sau cũng phải đến quyết định đó, chánh phủ ta nên công khai hóa vấn đề trước, đừng để cho Hoa Kỳ nói trước vì dư luận Hoa Kỳ và thế giới sẽ có cảm tưởng là chúng ta bị dồn ép vào thế bắt buộc phải nhận.

                            Chúng tôi nghĩ là với tình trạng dư luận Hoa Kỳ hiện tại (nghi ngờ thiện chí của Việt Nam) chỉ có những quyết định lớn như trên mới dành lại được cảm tình, còn những cố gắng bình thường (như diễn thuyết hoặc gởi phái đoàn) thì cũng chỉ có ảnh hưởng phần nào thôi.

                            Vấn đề điều đình tại Ba Lê cũng vậy; chúng tôi nghĩ: chỉ trừ một vài giới có những chủ trương cực đoan muốn chấm dứt chiến tranh bằng đủ mọi cách, phần đông dư luận Hoa Kỳ sẽ ủng hộ chúng ta nếu dư luận Hoa Kỳ thấy rõ rằng trên lãnh vực quân sự có hy vọng quân đội Hoa Kỹ sẽ dần dần rút về (không cần biết trong bao nhiêu lâu) tổn phí sẽ bớt dần, và trên lãnh vực ngoại giao chúng ta có những đề nghị hợp lý.

                             
                            KẾT LUẬN:

                            Những giới chính trị ở Hoa Kỳ lúc này cho rằng đối với vấn đề Việt Nam, Ông Nixon cần phải có thời gian và kiên nhẫn thì mới giữ được Cộng Sản khỏi thắng lợi. Do thái độ của ông từ trước tới nay qua việc bổ nhiệm các nhân vật rồi đây sẽ nhận trách nhiệm trong vấn đề này, các giới chính trị cho rằng ông đủ kiên nhẫn nhưng còn thời gian thì ông chỉ có một thời gian hết sức ngắn. Thời gian này tùy thuộc ở dư luận Hoa Kỳ và có ảnh hưởng được dư luận hay không điều đó cũng một phần còn tùy thuộc ở Việt Nam.

                            Với tình trạng trên, để kết luận, chúng tôi một lần nữa trân trọng đệ trình lên tổng thống và chính phủ ý kiến rằng hơn lúc nào hết, lúc này là lúc Việt Nam cần phải xiết chặt hàng ngũ, chỉnh đốn nội bộ để có thể có những sáng kiến và đề nghị đưa ra thảo luận với chính phủ Hoa Kỳ. Chưa chắc chúng ta đã có thể đạt tới sự thống nhất các quan điểm trên mọi lĩnh vực, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể giảm bớt được tình trạng lủng củng hiện tại và ngăn ngừa trường hợp bị xô đẩy vào những tình trạng khó khăn, bất lợi cho quyền lợi của đất nước.

                            Tuy đã nhiều lần đề cập đến bản báo cáo này trong những lần gửi điện về Sài Gòn về sau, tôi vẫn không được ông Thiệu trả lời. Tôi cũng yêu cầu được về Sài Gòn để góp ý kiến và đã nhiều lần thảo luận vấn đề này với ông Hoàng Đức Nhã nhưng ông Thiệu vẫn hoàn toàn im lặng.

                            Đối với tôi thì đây là chuyện khẩn cấp, nếu không muốn nói là chuyện sinh tử. Tôi cho rằng Việt Nam chỉ có thể ảnh hưởng trực tiếp được vào vấn đề Hoa Kỳ rút quân bằng cách tự có sáng kiến trước. Hơn nữa, nếu hành động trước, Việt Nam có thể vừa thể hiện được chính nghĩa lại vừa chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Việt Nam là một quốc gia độc lập đang được đồng minh Hoa Kỳ viện trợ chứ không phải một thuộc địa của Hoa Kỳ như dư luận vẫn thường chỉ trích. Nếu những cuộc đổ quân của Hoa Kỳ hồi năm 1965 đã khiến chánh phủ Việt Nam mất đi chính nghĩa thì giờ đây sự ra đi của họ có thể khiến Việt Nam lấy lại được hình ảnh độc lập và những chính nghĩa đã mất đi khi trước.

                            Lúc này tôi hiểu rất rõ những ảnh hưởng của dư luận Hoa Kỳ đối với các chính sách có liên quan đến chiến tranh Việt Nam của chánh quyền Nixon. Tuy thế, tôi lại chẳng biết phải làm cách nào để chuyển đạt được những hiểu biết của tôi cho chánh quyền Việt Nam. Càng cố sức trình bày tôi lại càng thấy những nỗ lực của tôi chẳng khác nào như nước đổ lá môn. Dường như chánh quyền Việt Nam không thể nào hiểu được những quan niệm chẳng hạn như những quan niệm về dư luận Hoa Kỳ, về tầm mức quyền hành có giới hạn của Tổng Thống Hoa Kỳ và tầm quan trọng của Quốc Hội Hoa Kỳ. Có lẽ vì Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong những chế độ bất chấp dư luận dân chúng, vì Việt Nam đã trải qua quá nhiều chánh quyền độc tài và vì ngay chính chánh quyền Việt Nam lúc đó cũng chẳng hề đếm xỉa gì đến quyền hạn của quốc hội Việt Nam nên chính quyền Việt Nam đã suy bụng ta ra bụng người và kết luận rằng chánh phủ Hoa Kỳ cũng hoạt động chẳng khác gì chánh phủ Việt Nam. Tôi cảm thấy dường như cả chánh phủ của ông Thiệu đều tin rằng bất kể chánh phủ Hoa Kỳ hoạt động ra sao, ý kiến đáng kể cuối cùng cũng vẫn là ý kiến của tổng thống Hoa Kỳ. Hình như họ cho là tòa đại sứ Việt Nam chỉ cần đệ trình tất cả những tin tức quan trọng cho tổng thống Hoa Kỳ hiểu rõ là đủ. Tôi tự hỏi nếu chánh quyền Việt Nam quan niệm như thế thì tại sao họ lại chẳng thấy rằng họ chỉ cần một người đưa tin liên lạc với Tổng Thống Hoa Kỳ đã là quá đủ? Nếu chánh quyền Việt Nam quan niệm như thế thì tại sao họ lại còn cần phải có một đại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn để vận động? Và nếu có vận động đi chăng nữa thì vận động với mục đích gì?

                            Trong khi đó đàm phán ở Ba Lê lại tái họp dưới công thức hai phe Bắc, Nam mà Việt Nam bắt buộc phải thỏa thuận vì áp lực của Hoa Kỳ trước đây. Tuy chánh quyền mới của Hoa Kỳ đang bận rộn sửa soạn ngày lễ nhậm chức mà Ngoại Trưởng được chỉ định Rogers đã gọi tôi và báo rằng chánh quyền sắp nhiệm hoàn toàn đồng ý với chánh quyền đương nhiệm trong vấn đề đàm phán. Đây là một nước cờ khéo léo chứng tỏ sự liên tục của chánh phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn chuyển tiếp. Thực ra thì trên mặt thủ tục lúc đó ông Rogers chỉ mới là Ngoại Trưởng được chỉ định và ông Rusk vẫn là Ngoại Trưởng chánh thức của Hoa Kỳ. Có lẽ vì thế nên Ngoại Trưởng Rogers cũng nói thêm rằng đại sứ Ellsworth Bunker đã được lệnh của Ngoại Trưởng tại vị Dean Rusk và của chính ông về việc minh xác sẽ không có gì thay đổi trong các chánh sách của chánh phủ Hoa Kỳ. Cách nhắc khéo của ông Rogers cũng là cách Hoa Kỳ ngấm ngầm cảnh cáo một cách gián tiếp rằng Sài Gòn không nên khước từ như trước.

                            Trong suốt tháng giêng năm 1968, về phía Hoa Kỳ những chính sách đối với Việt Nam vẫn liên tục. Bất kể việc chuyển tiếp giữa hai chánh phủ Hoa Kỳ bất kể là gì đi nữa thì việc vẫn không ra khỏi chuyện những người trong chính phủ sắp nhiệm đang thay thế những người trong chánh phủ đương nhiệm. Những cuộc tiễn đưa bịn rịn của đảng Dân Chủ phản ngược gần như hoàn toàn với những buổi lễ nhậm chức vui vẻ của đảng Cộng Hòa. Tình cảnh khiến người nhìn không khỏi cảm thấy rằng một giai đoạn đã kết thúc và một giai đoạn mới sắp bắt đầu.

                            Đối với tôi thì đây là khoảng thời gian buồn vui lẫn lộn. Tuy thế, những cảm giác lo lắng vẫn vượt lên trên tất cả. Trong giai đoạn này, đã đành rằng Hoa Kỳ vẫn có lập trường cương quyết đối với chiến tranh Việt Nam, nhưng chánh quyền Hoa Kỳ đang bước sang một giai đoạn cực kỳ quan trọng. Các nhân vật trong chánh phủ mới của Hoa Kỳ đang thay thế những người trong chính quyền trước. Hai nhân vật mới nổi bật nhất là Tổng Thống Nixon và ông Kissinger. Cả hai đều là những nhân vật cương quyết và có bản lãnh nhưng cả hai đều hoàn toàn xa lạ với chúng tôi. Rồi đây hai nhân vật này sẽ đứng ra điều động cuộc chiến Việt Nam bằng những phương pháp riêng của họ.

                            Nhìn lại những sự kiện trong lịch sử cận đại của Hoa Kỳ thì trước đây, trong thập niên 1950, Tổng Thống Truman, người khởi đầu sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Đại Hàn là người của đảng Dân Chủ. Và rồi sau đó Tổng Thống Eisenhower, người kết thúc sự can thiệp của Hoa Kỳ trong chiến tranh Đại Hàn là người của đảng Cộng Hòa. Khi chánh quyền Eisenhower kết thúc sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Đại Hàn thì ông Nixon là phó Tổng Thống. Vào thập niên 1960, Tổng Thống Kennedy, người khởi đầu sự can thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam cũng là người của đảng Dân Chủ. Và lúc này Tổng Thống Nixon, lại tuyên bố ông sẽ chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Hơn nữa, ông Nixon lại là người của đảng Cộng Hòa. Liệu lịch sử có tái diễn hay không? Câu hỏi này luôn ám ảnh tôi khi tôi đến dự những buổi tuyên thệ, những cuộc diễn hành và những buổi tiếp tân trong giai đoạn khởi đầu của chánh phủ mới. Tôi rất thán phục những cung cách chuyển đổi chánh quyền tại Hoa Kỳ. - Quang cảnh chuyển đổi vừa nghiêm trang lại vừa linh hoạt. Thật đúng là cách giao chuyển quyền hành của một xã hội dân chủ. Tôi cũng cảm thấy một cảm giác buồn bã thoáng qua khi thấy Tổng Thống Lyndon Johnson ra về gần như chẳng ai chú ý. Ai có thể ngờ được chỉ mới hôm qua ông hãy còn là một nhân vật kiêu hãnh đã nắm trong tay tất cả giềng mối của những uy lực tột cùng?

                            Khi lễ nhậm chức kết thúc, tôi bắt đầu tìm hiểu lại tình hình Hoa Thịnh Đốn một mặt là để lượng định xem Việt Nam có thể trông đợi gì từ chính quyền của TT Nixon và mặt khác cũng là để xem liệu những dự đoán của tôi về những kế hoạch bí mật mà ông Nixon đã đề cập tới lúc trước có hoàn toàn đúng hẳn hay không? Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi và chánh phủ mới diễn ra bốn ngày sau đó, khi tôi có dịp hội kiến với ông Kissinger. Lúc này ông Kissinger đã được cử làm cố vấn an ninh quốc gia và đang làm việc ở tòa Bạch Ốc.

                            Tôi đến gặp ông với những ký ức của lần gặp ông đầu tiên vào năm 1966 ở Sài Gòn. Năm 1966 ông Kissinger đã đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình cho đại sứ Henry Cabot Lodge. Lúc đó ông là một giáo sư ở trường đại học Harvard và nhân dịp ông qua Việt Nam tôi có tổ chức một bữa cơm cho ông để ông có dịp gặp một số chính khách Việt Nam, kể cả những thành phần chống đối chính phủ. Trong lần gặp đầu tiên, đã có rất nhiều người thắc mắc chẳng hiểu ông đến Việt Nam làm gì; tại sao ông lại hỏi nhiều câu hỏi đến thế; và tại sao giọng Anh Văn của ông lại đặc biệt như vậy? Tuy lúc đó tôi chưa biết rõ mục đích của ông Kissinger khi sang Việt Nam nhưng qua những buổi tiếp tân và những buổi họp giữa ông Kissinger và ông Kỳ, tôi đã kết luận rằng ông quả là người thông minh vượt bực. Tuy ông chưa hiểu gì nhiều về Việt Nam mà những câu hỏi của ông vẫn thực tiễn và đi thật sát với vấn đề. Những câu hỏi của ông hoàn toàn khác hẳn những câu hỏi tôi đã dự đoán cho một nhân vật xuất thân trong thế giới học đường như ông.

                            Lúc này vị giáo sư đang trên đà uy quyền và danh vọng. Tuy vậy trong cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc, khi chúng tôi đang cố tìm hiểu lẫn nhau, có lẽ cả tôi lẫn ông ta đều cùng chưa biết rằng về sau ông sẽ là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong chánh quyền Nixon. Khi gặp ông Kissinger, tôi đã thăm dò ý kiến của ông về vấn đề Việt Nam bằng cách đề cập đến lời tuyên bố của cựu Ngoại Trưởng Clark Clifford. Trước đó ông Clifford đã tuyên bố rằng nếu Việt Nam không chịu tham gia đàm phán với Bắc Việt thì Hoa Kỳ sẽ phải "tham dự một mình." Tôi phát biểu rằng vấn đề bất đồng ý kiến giữa hai quốc gia là một vấn đề hoàn toàn bất lợi; Vì nếu hai chính phủ không cùng đồng quan điểm về việc đàm phán thì rồi đây cả hai sẽ gặp rất nhiều khó khăn chẳng những với các vấn đề hiện tại mà còn với rất nhiều vấn đề khác về sau.

                            Vì đây là cuộc họp đầu tiên của tôi với ông Kissinger và chánh quyền mới cũng chỉ mới nhậm chức được vài ngày nên tôi cố tránh không dồn ông Kissinger phải bàn luận chi tiết vấn đề. Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý mà tôi nhận thấy ngay là bất kể Hoa Kỳ hoạch định kế hoạch thế nào thì chính phủ mới cũng hết sức chú tâm vào vấn đề Việt Nam. Trong cuộc họp với ông Kissinger, tôi thấy rõ rằng chánh quyền Nixon đã bắt đầu tìm cách để giảm thiểu những sự khác biệt giữa hai quốc gia Hoa Kỳ và Việt Nam. Vì thế, sau khi cuộc họp chấm dứt, tôi cảm thấy hài lòng. Tôi nhận định rằng cho đến lúc đó, Hoa Kỳ vẫn chưa có chánh sách rõ rệt và vì vậy chánh phủ Việt Nam vẫn còn có chút thời gian để có thể tìm cách đối phó với tình hình nếu Hoa Kỳ chuyển hướng. Sáng hôm sau, tôi đánh điện về cho ông Thiệu như sau: Hôm qua, trong cuộc họp đầu tiên với cố vấn Kissinger, tôi đã yêu cầu Hoa Kỳ tìm cách hợp tác với Việt Nam cho hữu hiệu hơn. Tôi nói rằng hai quốc gia cần phải hợp tác chẳng những chỉ để giải quyết những khó khăn lúc này mà còn để đối phó với những khó khăn tương lai nữa. Tôi cũng đã đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ phải giảm thiểu những thái độ thất vọng [chẳng hạn như đối với chánh quyền Sài Gòn] để tránh việc vô hình chung làm hại cho đối phương. Ông Kissinger có nói với tôi: Tổng Thống Nixon vừa mới cho nghiêm lệnh yêu cầu những nhân viên chánh phủ tránh thảo luận hoặc tuyên bố trước dư luận những vấn đề có liên quan đến Việt Nam. Trong cuộc họp, ông Kissinger cũng có đề cập vấn đề thiếu liên lạc giữa hai chánh quyền Việt Mỹ trong những tuần lễ vừa qua và yêu cầu tôi đến gặp ông ta thường xuyên hơn. Ông Kissinger còn nói rằng nói chung thì những mục tiêu cơ bản của hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam chẳng có gì khác biệt, nhưng có lẽ Hoa Kỳ cần phải uyển chuyển trong vấn đề ngoại giao. Có lẽ một trong những danh từ mà tôi vẫn chưa hiểu rõ trong cuộc nói chuyện với ông Kissinger là danh từ "uyển chuyển" (Ông Kissinger đã dùng danh từ này hai lần) mà tôi đã lập lại nguyên văn khi tường trình với ông Thiệu. Ngay lúc mới nghe thì "uyển chuyển" gợi cho tôi một cảm tưởng mơ hồ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang muốn tránh những vấn đề khó khăn trên mặt ngoại giao khi phải để cho một đồng minh yếu hơn tham gia vào những cuộc đàm phán. Lúc đó, tôi lầm tưởng rằng đây chỉ là một việc thận trọng vô hại và tự nhiên về phía Hoa Kỳ, nhưng chỉ vài năm sau, tôi đã có rất nhiều dịp để suy nghĩ và kết luận lại vấn đề. Lúc đó, tôi vẫn chưa biết rằng "uyển chuyển" chẳng phải là một danh từ thận trọng vô hại mà là một điềm bất tường báo hiệu một thái độ mới của chánh phủ Hoa Kỳ.

                            Sau khi gặp ông Kissinger, tôi còn đến gặp tất cả những nhân vật mới vừa nhậm chức. Tôi đặc biệt chú tâm vào những nhân vật có ảnh hưởng quyết định trong việc soạn thảo những chính sách về Việt Nam. Tôi đã ở Hoa Thịnh Đốn khá lâu và đã hiểu rõ tầm mức tranh chấp giữa Bộ này với Bộ khác và một đôi khi ngay cả trong nội bộ của một bộ nữa. Tuy tôi biết cố vấn Kissinger sẽ là người nắm giữ một cương vị vô cùng quan trọng nhưng tôi lại hoàn toàn mù tịt về tầm mức quan trọng trong cương vị của Ngoại Trưởng Rogers. Lúc này, tôi cũng chưa hề hay biết gì về những tranh chấp kịch liệt sẽ xảy ra giữa hai người về sau này. Theo những bạn bè của tôi ở Hoa Thịnh Đốn thố lộ thì vị Ngoại Trưởng mới nổi là người có tài đàm phán chứ không phải là người nhìn rộng thấy xa.

                            Lúc tôi đến gặp ông ở Bộ Ngoại Giao thì Ngoại Trưởng Rogers tiếp tôi rất niềm nở. Ông có vẻ ít nghiêm khắc hơn cựu Ngoại Trưởng Dean Rusk. Ông Rogers đã từng là Bộ Trưởng Tư Pháp dưới thời TT Eishenhower. Ông là một trong những nhân vật điển hình xuất thân từ những gia đình dòng dõi lâu đời ở miền đông nguyên là một nơi nổi tiếng là thủ đô văn hóa của Hoa Kỳ. Trông ông có vẻ là một người có kiến văn quảng bác hơn là một người thông minh xuất chúng. Tôi cũng cho cảm thấy có lẽ ông không phải là người cương quyết, quyền biến hoặc đặc biệt xuất sắc.

                            Những nhận định ban đầu của tôi còn rõ rệt hơn khi Ngoại Trưởng Rogers bắt đầu có chuyện xích mích với ông Kissinger. Có lẽ đối với những sử gia thì những chuyện xích mích giữa ông Kissinger và Ngoại Trưởng Rogers quả là một cuộc tranh chấp làm nổi bật tính chất đặc sắc của chính quyền Nixon, nhưng đối với những nhân viên ở các quốc gia khác đang phải đương đầu với những vấn đề khẩn cấp sôi bỏng như tôi thì việc tranh chấp giữa hai bên lại gây thêm một tầng khó khăn. Vì là đại sứ của Việt Nam tôi phải chính thức liên lạc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và lẽ đương nhiên phải cố giữ mối giây liên lạc cho được tốt đẹp. Tuy thế, tôi cũng phải tự biết đâu là nơi chính phủ Hoa Kỳ đặt trọng tâm quyền lực để có thể thu thập tin tức cho được chính xác. Công việc của tôi trở thành khó khăn bội phần khi chuyện xích mích giữa vị cố vấn an ninh và vị Ngoại trưởng ngày càng kịch liệt.

                            Việc tranh chấp của họ gây khó khăn ra sao? Tôi xin đan cử một cuộc tranh chấp điển hình để nêu rõ những khó khăn đã gặp. Vào dịp Giáng Sinh cuối năm 1969, trước khi về Việt Nam để tường trình vấn đề Hoa Kỳ, tôi có đến gặp riêng hai ông Rogers và Kissinger trước khi rời Hoa Kỳ. Từ đầu cuộc chiến cho đến thời gian đó, Bắc Việt và Việt Nam vẫn ngưng bắn vào ngày Giáng Sinh và ngày Tết Tây. Lần đó, tôi đến gặp ông Rogers đúng vào giữa lúc đàm phán ở Ba Lê đang bế tắc và chẳng còn bao lâu nữa thì lại đến ngày Lễ Giáng Sinh sắp tới. Vì tình hình lúc đó như vậy nên ông Rogers cho ý kiến rằng Việt Nam nên tạm kéo dài những ngày ngưng bắn từ Lễ Giáng Sinh cho đến Tết Tây. Ông Rogers cho rằng nếu kéo dài những ngày ngưng bắn thì Việt Nam và Hoa Kỳ có thể sẽ khích lệ Việt Cộng đàm phán hòa bình thực lòng hơn ở Ba Lê. Ngay ngày hôm sau, khi đến gặp cố vấn Kissinger, tôi thông báo rằng Ngoại Trưởng Rogers hết lòng ủng hộ đề nghị ngưng bắn. "Ngưng Bắn?" Ông Kissinger cắt lời tôi, "Không được, ngưng bắn lúc này thì quá sớm." Sau khi ngừng lại giây lâu ông tiếp tục bằng giọng nói ồ ề ra lệnh cố hữu: "Tôi cũng xin thông báo với ông rằng chánh sách là do Tòa Bạch Ốc đưa ra chứ không phải Bộ Ngoại Giao!"

                            Ngoài hai ông Kissinger và Rogers tôi cũng có đến gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird. Tôi đã biết ông Laird là nhân vật có nhiều ảnh hưởng trong đảng Cộng Hòa. Khi còn là dân biểu ông đã là một trong những người vận động rất mãnh liệt để ủng hộ Việt Nam. Khi đến gặp Bộ Trưởng Laird lần này, mục đích của tôi là tìm hiểu thực sự xem vị vị dân biểu tháo vát hoạt động ra sao trong giới các tướng lãnh và quân sự ở Ngũ Giác Đài. Trong văn phòng Bộ trưởng, nơi ông McNamara và ông Clark Clifford làm việc trước đây, trông ông Laird ung dung tự tại như thể đã quen thuộc với nơi này từ lâu. Tuy trong chính quyền Nixon, những xích mích giữa Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao đã khiến người đứng ngoài nhìn vào khó thể quyết định được chính xác ai là người thực sự lập chính sách ngoại giao, nhưng việc lại khác hẳn ở Ngũ Giác Đài. Tôi đã biết rõ Bộ Trưởng Laird là người đứng đầu điều hành các vấn đề quân sự. Khi tôi đến gặp ông, ông Laird chỉ trả lời những câu hỏi dò dẫm của tôi bằng những nụ cười khéo léo. Những câu trả lời của ông chỉ chung chung chứ không hề biểu lộ một chi tiết nào cả.

                            Bộ trưởng tư pháp John Mitchell cũng là một nhân vật mới được bổ nhiệm tôi mong được gặp. Tuy trên mặt lý thuyết chức vụ Bộ trưởng tư pháp gần như chẳng có gì liên quan đến vấn đề Việt Nam nhưng vì ông là bạn thân của Tổng Thống Nixon nên tuy không phải là nhân viên của hội đồng an ninh, ông Mitchell vẫn thường được mời tham dự các cuộc họp của hội đồng an ninh quốc gia. Hơn nữa, ông Mitchell còn là người được TT Nixon tin cậy và ưa tâm sự. Tôi đã gặp ông một lần trước cuộc bầu cử. Khi gặp lại lần này, ông Mitchell đón tiếp tôi niềm nở như một người bạn thân. Nhờ Bộ Trưởng Mitchell mà sau này ngoài những tin tức chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, tôi còn có thêm được rất nhiều những tin tức khác bên trong. Mối liên lạc với ông Mitchell là một trong những mối liên lạc tôi đã hơn một lần dùng đến trong những năm về sau.

                            Khi đã gặp hết tất cả các nhân vật của chính quyền mới ở Hoa Thịnh Đốn, tôi tiếp tục đến Ba Lê để có thể gặp luôn phái đoàn thương thuyết mới của Hoa Kỳ. Tuy bạn tôi là ông Phillip Habib vẫn ở lại phục vụ như một trong những thành viên cố định, ông Henry Cabot Lodge và ông Lawrence Walsh đã thay thế hai ông Averell Harriman và Cyrus Vance. Ông Habib giờ đây là nhân vật chính thúc đẩy những nỗ lực đàm phán của Hoa Kỳ.

                            Sau chuyến tiếp xúc với các nhân vật của chính quyền Nixon, tôi bắt đầu tổng kết tất cả những nhận định. Tôi kết luận rằng tại thời điểm này, chính sách của chính phủ Nixon còn đang thành hình và sự thành hình của những chính sách đó hãy còn phôi thai -Những sự thành hình lúc này, bất kể định nghĩa ra sao cũng chẳng thể gọi là chính sách cho được.- Nói một cách tổng quát thì sự thành hình của chính sách Nixon được dựa trên hai điểm chính: Thứ nhất, Hoa Kỳ hy vọng rằng Nga sẽ giúp họ khuyên giải Hà Nội đàm phán thực sự. Thứ hai, chánh quyền Hoa Kỳ cho rằng Sài Gòn sẽ không phản đối việc rút quân. Đây là một giả thuyết Hoa Kỳ chưa thể xác quyết. Nói chung thì Hoa Kỳ tin rằng Nga có thể làm áp lực bắt Hà Nội đàm phán. Hơn nữa, chính quyền Nixon còn cho rằng một khi quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu rút lui thì áp lực chống đối của dân chúng Hoa Kỳ cũng giảm theo. Trong suốt tháng hai và tháng ba, tôi liên lạc với Sài Gòn gần như hàng ngày bằng điện văn và tường trình tất cả mọi tin tức tôi thu lượm được về sự thành hình của chính sách Hoa Kỳ. Tôi vẫn thường tìm cách gặp ông Kissinger để trực tiếp tìm hiểu tin tức. Tôi bắt đầu hiểu rõ được những suy tư sâu sắc của ông, nhưng tôi cũng nhận thấy ông rất kín đáo và khéo tránh vấn đề. Tỉ dụ như có lần khi tôi hỏi về việc đàm phán ông Kissinger đã trả lời rằng: "Tổng thống của ông biết rất rõ. Ông ta là người hiểu rất thấu đáo vấn đề." Tối đó, tôi điện về Sài Gòn cố tìm hiểu kỹ lưỡng xem ông Thiệu thật sự có biết rõ vấn đề hay không? Tôi cũng điện cho ông Thiệu biết về việc tôi e ngại ông Kissinger không nói rõ mọi chuyện.

                            Trong khi tất cả chúng tôi còn mù mịt thì ông Kissinger đang ngày đêm bận rộn tìm cách đàm phán với Hà Nội: Vào ngày 20 tháng 12 ông Kissinger đã tìm cách đàm phán qua ông Jean Sainteny, một nhân viên ngoại giao của Pháp khi trước. Vào giữa tháng 3 ông Kissinger lại một lần nữa cố gắng đàm phán với Nga qua ông Cyrus Vance. Tuy những vận động qua ông Sainteny chỉ là những liên lạc môi giới cho những thông điệp giữa ông Kissinger và ông Hồ, những vận động của Hoa Kỳ qua ông Vance là những kế hoạch có tính toán kỹ lưỡng. Khi đàm phán với Nga, ông Kissinger đã tìm cách buộc Nga phải làm áp lực với Hà Nội bằng cách phối hợp những cuộc đàm phán vũ khí nguyên tử (SALT) chung với những cuộc đàm phán của chiến tranh Việt Nam. Ông Vance được phái đi Nga và cho thẩm quyền rộng để đàm phán với Nga Sô kể cả những vấn đề quân sự và chính trị. Cả hai nỗ lực vừa kể đều vô hiệu. Hà Nội vẫn bướng bỉnh ngoảnh mặt. Khi tôi được biết về những nỗ lực của ông Kissinger, tôi đã cảm thấy không được thoải mái cho lắm vì những hành động xé lẻ của ông. Cách hành động của ông Kissinger không đi đôi với những đề nghị "hợp tác gần gũi" giữa hai chánh quyền do chính ông đưa ra với tôi trước đây trong lần gặp đầu tiên.

                            Kỳ lạ thay, ngay trong khi ông Kissinger cùng ông Vance đang âm thầm tính toán kế hoạch thì hai chánh quyền Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu tiếp xúc với nhau trong cuộc gặp gỡ đầu tiên. Khi đi công du Âu Châu, tổng thống Nixon đã ngừng ở Pháp và xếp đặt chương trình để gặp ông Kỳ. Lúc này ông Kỳ đang ở Pháp và làm trưởng phái đoàn thương thuyết của Việt Nam. Ông Kỳ yêu cầu tôi bay sang Ba Lê để dự buổi họp. Khoảng đầu tháng 3, đại sứ Phạm Đăng Lâm (thành viên cố định của Việt Nam ở hội nghị), ông Kỳ và tôi đã đến họp với tổng thống Nixon, ông Kissinger, ông Lodge và ông Phillip Habib. Chúng tôi đã duyệt xét toàn bộ vấn đề. Đây là một cuộc họp dài trong một khung cảnh thân hữu. Vì những cuộc đàm phán chính thức giữa Việt Nam và Bắc Việt ở Ba Lê đều thất bại nên trong cuộc họp lần này cả hai chánh phủ đều cùng đồng ý rằng Hoa Kỳ nên để ông Lodge tiếp tục cố đàm phán với Hà Nội bằng những đường dây riêng bên ngoài. Ngoài việc chỉ định ông Lodge tiếp tục những nỗ lực đàm phán, cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đều chẳng hề đả động đến bất cứ giải pháp nào khác cả. Sau suốt chín tháng trường đàm phán Bắc Việt vẫn chỉ tiếp tục lập đi lập lại những đòi hỏi bắt buộc Hoa Kỳ phải tự mình rút quân và Việt Nam phải đầu hàng.

                            Ngay sau khi cuộc họp ở Ba Lê chấm dứt, tôi trở về Hoa Thịnh Đốn nhất định thúc đẩy ông Thiệu sửa soạn duyệt lại toàn diện tình hình và đưa ra những đề nghị mới. Tôi cho rằng đây là một điều tuyệt đối cần thiết để cùng Hoa Kỳ tiến đến một giải pháp chung. Tuy thế tôi vẫn không nhận được bất kỳ bức điện trả lời nào. Tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa tổng thống Nixon sẽ bị buộc phải công bố những dự định về hòa bình. Giai đoạn chờ đợi Sài Gòn trả lời là một giai đoạn thất vọng sâu xa cho tôi. Lúc này tôi cho rằng sự im lặng của Việt Nam là do tính chần chừ và thiếu khả năng quyết định của ông Thiệu. Tôi biết đại sứ Bunker thế nào cũng khuyên ông Thiệu nên im lặng vì giai đoạn này là giai đoạn các chính sách của chánh phủ mới ở Hoa Kỳ đang bắt đầu thành hình. Hơn nữa, tôi còn biết rằng ông Kissinger đang vận động ngầm. Tôi thấy rằng bất kể chánh quyền Nixon tuyên bố với Việt Nam ra sao, Hoa Kỳ vẫn đang cố dùng mọi cách chuyển tiên cơ hành động về phía họ.

                            Trong khi tôi hãy còn đang lo âu về vấn đề Việt Nam phải có sáng kiến trước khi Hoa Kỳ đưa ra chính sách đối với cuộc chiến Việt Nam thì bỗng dưng lại phải bỏ thời giờ để đối phó với một vấn đề chẳng ăn nhập gì vào những vấn đề đang khiến tôi phải ngày đêm lo lắng. Lúc này quốc hội Việt Nam đang bắt đầu tìm hiểu các thể thức dân chủ và rồi thình lình gửi đi hàng loạt phái đoàn thăm viếng sang Hoa Kỳ. Chẳng hiểu bằng cách nào đó, nhiều dân biểu và rất nhiều nhân viên từ các cơ quan của chính phủ Việt Nam đã tìm được cách đi công du qua những phái đoàn "tìm hiểu." Còn nơi nào rõ rệt hơn để tìm hiểu những quá trình dân chủ hơn là ngay ở trung tâm một nước dân chủ lớn nhất thế giới? Từng toán công du thi nhau đến tòa đại sứ, đòi hỏi gần như bất tận về mọi nhu cầu. Tôi phải thường xuyên sắp xếp giờ giấc để những phái đoàn Việt Nam có thể gặp gỡ phía Hoa Kỳ. Hơn nữa, họ cũng có những nhu cầu du lịch hoặc mua sắm. Những lúc như thế họ thường gọi tòa đại sứ để giúp họ liên lạc. Chẳng bao lâu sau chúng tôi đã bắt đầu quen thuộc với những chuyện sắp xếp để đưa du khách đi thăm thác Niagara và những thắng cảnh nổi tiếng khác. Có lần lời yêu cầu được thăm viếng Salem đã làm chúng tôi điên đảo. Theo bản đồ của chúng tôi thì có cả hàng chục chỗ cùng mang tên Salem. Tuy thế lại chẳng ai trong chúng tôi đủ hiểu biết để quyết định phải đến chỗ nào và tại sao chỗ đó lại là nơi nhiều người thăm viếng. Lần khác, chúng tôi nhận được điện thoại than phiền rằng có một toán công du Việt Nam đang mặc đồ Pajama đi dạo trong một khách sạn sang trọng bậc nhất nước Mỹ. Họ hoàn toàn không để ý đến quan niệm ăn bận khác biệt giữa hai dân tộc Việt, Mỹ.

                            Giữa lúc những chuyện phức tạp này diễn ra thì Bộ Ngoại Giao thông báo cho tôi biết rằng Xuân Thủy, đại diện Hà Nội ở Ba Lê đã đồng ý nói chuyện riêng với đại sứ Henry Cabot Lodge. Buổi nói chuyện đầu tiên bắt đầu vào ngày 22 tháng 3. Vì chưa thảo luận được trước với Hoa Kỳ, Sài Gòn nhốn nháo lo lắng không hiểu những cuộc nói chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tuy thế những lo âu của Việt Nam về việc đàm phán giữa Hà Nội cùng Hoa Kỳ diễn ra thật là ngắn ngủi. Không hiểu vì sao Xuân Thủy lại bằng lòng gặp riêng ông Lodge vì khi gặp gỡ, những đòi hỏi của anh ta vẫn chỉ là những lời lập lại y hệt những gì Bắc Việt đã tuyên bố công khai trước đây.

                            Năm ngày sau thì ở Hoa Kỳ lại có một biến cố khác. Vào ngày 28 tháng 3, cựu tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower từ trần tại bệnh viện Walter Reed sau một cơn bệnh dai dẳng. Tối đó tôi được tin rằng ông Kỳ sẽ đến Hoa Thịnh Đốn thay mặt chánh quyền Việt Nam dự lễ đưa tang. Ông Kỳ dĩ nhiên cũng chỉ đến Hoa Kỳ như những quốc trưởng từ các quốc gia khác, chẳng hạn như Tổng Thống Charles de Gaulle của Pháp. Tất cả những vị quốc trưởng của các quốc gia khác đều đến Hoa Kỳ với mục đích chính là để để dự lễ đưa tang của ông Eisenhower. Tuy thế, vì tình trạng Việt Nam cũng đang là một trong những vấn đề cần được chú tâm nên tôi đã nhân cơ hội ông Kỳ đến Hoa Kỳ để sắp xếp cho ông đến gặp những dân biểu quốc hội đang ủng hộ Việt Nam và các nhân viên quân sự Hoa Kỳ ở Ngũ Giác Đài. Ngoài ra tôi còn sắp xếp cho ông đến gặp riêng Ngoại Trưởng Rogers, cố vấn Kissinger và Tổng Thống Nixon.

                            Vào ngày 1 tháng 4, tôi theo ông Kỳ đến toà Bạch Ốc. Ngay lúc này tổng thống Nixon cũng mời ông Kissinger và ông Ellsworth Bunker đến họp. Ngay cả trong lần họp này mà Tổng Thống Nixon và ông Kissinger vẫn không thổ lộ bất kỳ điều gì quan trọng về chiến lược của Hoa Kỳ. Tổng thống Nixon tỏ vẻ hài lòng về sự hợp tác gần gũi của hai chánh phủ Mỹ, Việt. Khi ông nhận định về cuộc chiến Việt Nam, tổng thống Nixon có nói rằng mục đích của cuộc đàm phán ở Ba Lê phải là hòa bình vĩnh cửu. Nếu cuộc đàm phán đó chẳng thể đạt được hòa bình vĩnh cửu, mà chỉ đạt được "một sự ngưng bắn tạm trong một khoảng thời gian nào đó" thì quả việc chẳng có ích lợi gì. Ông cũng yêu cầu chúng tôi phải đặt tin tưởng vào Hoa Kỳ.

                            Sau cuộc họp với Tổng Thống Nixon, chúng tôi còn tổ chức thêm một cuộc họp riêng khác với ông Kissinger nhưng sau cuộc họp đó chúng tôi cũng chẳng thu thập được thêm tin tức gì mới. Và rồi thật tình cờ, khi Ngoại Trưởng Rogers đến dùng bữa trưa ở tòa đại sứ, chúng tôi lại vô tình nghe được một số tin tức tương đối đáng lưu ý. Trong khi chúng tôi cùng ăn bữa trưa thì ông Rogers có vẻ hân hoan khác thường. Không chút quanh co, ông Rogers đi thẳng vào vấn đề. Ông nói rằng chẳng còn cách gì khác ngoài việc rút đi một ít quân Hoa Kỳ. Ông hỏi rằng nếu Hoa Kỳ rút quân thì họ phải làm thế nào để tăng cường quân lực Việt Nam và giúp Việt Nam đối phó được với thời cuộc? Về mặt chính trị, ông Rogers cũng dò hỏi những phương thức kết hợp để Mặt Trận Giải Phóng có thể tham gia chánh phủ một khi nhóm này lên tiếng từ bỏ bạo động và chấp nhận những tiêu chuẩn tranh đấu chính trị bằng những phương pháp hòa bình.

                            Cả ông Kỳ lẫn tôi đều không tin rằng Mặt Trận Giải Phóng sẽ tách rời với Hà Nội hoặc từ bỏ những mục đích tấn công bằng bạo lực do Trung Ương Đảng Cộng Sản Bắc Việt đề ra. Nhưng vì cả hai chúng tôi đều không biết ông Rogers đã mất đi khá nhiều quyền lực và không còn ảnh hưởng gì mạnh đối với những quyết định ngoại giao của Hoa Kỳ nên chúng tôi đã cho rằng đây có thể là những suy nghĩ về chiều hướng cuối của Hoa Kỳ.

                            Vào khoảng đầu tháng 4, nhờ vào nhiều nguồn tin ở Hoa Thịnh Đốn, tôi được biết ông Kissinger đã cho lệnh Ngũ Giác Đài nghiên cứu các chương trình rút quân. Tôi báo cho Sài Gòn biết về việc này và cũng nói thêm rằng đã đến lúc Việt Nam phải đối phó với sự thật. Những điểm căn bản trong kế hoạch Hoa Kỳ đã bắt đầu được áp dụng: Kế hoạch của Hoa Kỳ vào lúc này là một Kế Hoạch Lưỡng Đầu nhằm kết hợp việc rút quân (Chỉ sau một thời gian ngắn sau đó chương trình rút quân đã được gọi là Việt Nam Hóa Chiến Tranh) cùng những cuộc đàm phán bí mật. Thật sự kế hoạch rút quân sẽ ăn khớp ra sao với những cuộc đàm phán bí mật và Hoa Kỳ sẽ điều đình thế nào là điều chúng tôi hoàn toàn không rõ. Vì vậy tôi đã yêu cầu được gặp ông Kissinger để có thể tìm hiểu vấn đề thấu đáo hơn.

                            Vào ngày 6 tháng 5 năm 1969, tôi tới gặp ông Kissinger tại văn phòng. Trái với những điều tôi suy nghĩ từ trước, khi cuộc bàn luận kết thúc, tôi cảm thấy bớt bi quan. Ông Kissinger nói với tôi rằng tuy có rất nhiều "Trung tâm quyền lực" ở khắp mọi nơi trong Hoa Thịnh Đốn, nhưng Tòa Bạch Ốc thật sự vẫn nắm vai trò lãnh đạo. Sau đó ông Kissinger tiếp tục thảo luận vấn đề rút quân. Ông quả quyết với tôi rằng việc rút quân sẽ tùy thuộc vào khả năng của quân đội Việt Nam hơn là vào những áp lực của dân chúng Hoa Kỳ. Ngay cả sau khi quân đội Hoa Kỳ đã rút ra khỏi Việt Nam, một lực lượng tối thiểu cần thiết sẽ ở lại. Sau cùng, ông Kissinger lập lại một lần nữa rằng tổng thống Nixon luôn luôn chú ý đến tầm mức quan trọng của sự hợp tác giữa hai chánh phủ Mỹ Việt. Vì thế sẽ không có bất kỳ quyết định nào là quyết định chánh thức nếu Sài Gòn không được báo trước, chưa duyệt qua hoặc không đồng ý. Đặc biệt ông Kissinger muốn chính phủ Việt Nam hiểu rõ rằng vấn đề rút quân chắc chắn không phải là một tấm bình phong ngụy trang che dấu sự bỏ cuộc của Hoa Kỳ. Mặt khác, tôi đã biết rõ rằng cuộc điều đình giữa ông Lodge và Xuân Thủy sẽ chẳng đi đến đâu.

                            Gần như sau buổi họp này, mọi hoạt động bắt đầu tiến triển. Vào ngày 8 tháng 5 ở Ba Lê, Bắc Việt đưa ra một kế hoạch 10 điểm mà họ cho là sẽ kết thúc chiến cuộc một cách công bằng. Những điểm Bắc Việt đề ra cũng lại chẳng khác gì những điều đòi hỏi Hoa Kỳ phải đơn phương rút quân và Việt Nam phải tự động tuyên bố giải tán chánh phủ lúc đó.

                            Đề nghị do Bắc Việt đưa ra được Tổng Thống Nixon trả lời trong một buổi nói chuyện truyền hình toàn quốc với kế hoạch 8 điểm của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 5-1969. Đây là kế hoạch sửa soạn kỹ càng nhất của Hoa Kỳ từ trước tới nay. Kế hoạch này đòi hỏi Bắc Việt phải rút quân cùng lúc với Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. (Trước đây, Hoa Kỳ vẫn đòi hỏi Bắc Việt phải rút quân sáu tháng trước khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân) Tổng thống Nixon cũng tuyên bố Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận Mặt Trận Giải Phóng tham gia vào đời sống chính trị ở Việt Nam. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn đồng ý để dân chúng được tự do bầu cử dưới sự giám sát của các ủy ban Quốc Tế. Ngay sau khi bài diễn văn của tổng thống Nixon chấm dứt, ở một buổi họp báo liền sau đó, ông Kissinger đã nhấn mạnh tính chất "uyển chuyển" của kế hoạch đưa ra và tuyên bố rằng kế hoạch này đã được Sài Gòn "thông qua."

                            Tất cả mọi diễn biến xảy ra thật là kinh ngạc. Tuy đã có trao đổi sơ qua với Sài Gòn, Hoa Kỳ vẫn chưa hề tham khảo với chính quyền Sài Gòn trong chi tiết và cũng chưa hề có sự đồng ý nào đáng kể của Việt Nam. Chưa có gì có thể gọi là "thông qua" từ phía Việt Nam cả. Thật ra, khoảng hai ngày trước khi có cuộc họp báo của ông Kissinger, tôi có được thông báo rằng đại sứ Bunker sẽ đưa kế hoạch của Hoa Kỳ cho ông Thiệu. Điện văn của tôi gửi cho ông Thiệu dặn ông trước về việc này được gửi đi vào ngày 12 tháng 5. Chính quyền Việt Nam không hề có đủ thời gian để bác bỏ kế hoạch của tổng thống Nixon. Việt Nam đã bị buộc phải chấp nhận những điều Hoa Kỳ vừa tuyên bố. Lề lối tham khảo lấy lệ lúc đó của Hoa Kỳ thực sự đã là những triệu chứng đầu tiên về những thái độ về sau này của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Những đòn phép bắt buộc cũng như những toan tính cưỡng bức độc đáo của chính quyền Nixon với đồng minh đã bắt đầu mở màn với chiêu thức độc đáo đầu tiên.





                            Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                            Phan Lê Dũng
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2006 13:39:53 bởi sóng trăng >
                            #29
                              sóng trăng 02.12.2006 13:41:28 (permalink)
                              .
                               
                              Chương 30
                              Trì Hoãn


                              Vào ngày 14 tháng 5-1969, đúng một tuần lễ sau khi Tổng Thống Nixon nói chuyện với dân chúng Hoa Kỳ trên đài truyền hình thì tôi nhận được chỉ thị của ông Thiệu nhắc tôi liên lạc với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để chuẩn bị cho cuộc họp thượng đỉnh sắp tới của Việt Nam và Hoa Kỳ. Địa điểm họp lần này là ở đảo Midway, một hòn hoang đảo nằm giữa Thái Bình Dương.

                              Khi tin tức về cuộc họp thượng đỉnh được công bố thì chính quyền Nixon đã nhậm chức được năm tháng và tuần trăng mật của vị tân Tổng Thống Hoa Kỳ với dân chúng đã trôi qua. Lúc này đúng là một thời điểm vừa vặn để Tổng Thống Nixon chánh thức tuyên bố chính sách mới của Hoa Kỳ về vấn đề rút quân. Hơn nữa, cuộc họp thượng đỉnh lần này có lẽ cũng là để chính quyền Nixon có dịp làm tròn những điều họ đã nói với chính quyền Việt Nam khi trước. Trước đây, khi Tổng Thống Nixon còn chưa đắc cử, bà Anna Chennault có nói với tôi rằng nếu đắc cử, ông Nixon sẽ đi thăm Việt Nam hoặc sẽ gửi một phái đoàn đi thay. Khi Tổng Thống Nixon đắc cử, ông Thiệu có gửi một bức điện văn rất dài sang Hoa Kỳ để chúc mừng. Lúc đó, có lẽ vì muốn tránh tiếng đồn là Việt Nam đã can thiệp vào cuộc bầu cử của Hoa Kỳ nên thay vì gửi điện văn thẳng đến ông Nixon, ông Thiệu lại gửi điện văn chúc mừng đến Bộ Ngoại Giao. Sau bức điện văn chúc mừng, ông Thiệu cũng đã nhiều lần nhắn tin một cách kín đáo về vấn đề gặp gỡ của cả hai chính phủ, nhưng cho tới tận tháng 5, những bức điện văn của ông Thiệu vẫn chưa được hồi âm.

                              Cuộc họp thượng đỉnh lần này chính là một cuộc họp để chính quyền Nixon có thể trình bày những chính sách mà Hoa Kỳ đã soạn thảo trong 5 tháng vừa qua. Ở thời điểm này thì dù có không hài lòng với các chính sách của Hoa Kỳ, có lẽ ông Thiệu cũng phải chấp nhận những chính sách Hoa Kỳ sắp đưa ra. Hơn nữa, chính ông Thiệu lại là người yêu cầu cuộc họp.

                              Vì cuộc họp được dự định vào ngày mùng 8 tháng 7 nên tôi cũng còn một khoảng thời gian khá dài. Vào cuối tháng 5, để sửa soạn cho cuộc họp thượng đỉnh đã rất nhiều lần tôi đến gặp ông Kissinger và ông Marshall Green, (Người thay thế ông Bill Bundy) Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á và Thái Bình Dương Sự Vụ. Lúc này, vấn đề khó khăn chính của các cuộc họp giữa tôi và các nhân viên trong chính quyền Nixon là việc Hoa Kỳ không đồng ý rằng hai chính phủ cần phải có một bản thông cáo chung cho buổi họp. Tôi đã thấy rõ rằng Hoa Kỳ đến Midway chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Thúc đẩy ông Thiệu chấp thuận việc Hoa Kỳ rút quân. Ngoài việc này ra họ cố gắng giảm thiểu tầm mức quan trọng của cuộc họp. Cuộc họp sẽ rất ngắn (chỉ khoảng 5 tiếng đồng hồ) và địa điểm họp là một nơi hẻo lánh, xa xăm. Tất cả cuộc họp chỉ nhằm một mục đích duy nhất là chính thức hóa sự đồng ý của Việt Nam về vấn đề Hoa Kỳ rút quân. Do đó, nếu nhìn cuộc họp theo quan niệm của Hoa Kỳ thì bản thông cáo chung quả đã chẳng có lợi ích gì cho Hoa Kỳ mà lại còn để cho Việt Nam có cơ hội đòi hỏi và yêu cầu về những vấn đề khác.

                              Dĩ nhiên, nếu đứng trên quan điểm của Hoa Kỳ thì việc ông Kissinger và ông Green không đồng ý về vấn đề phải có một bản thông cáo chung hoàn toàn có lý, nhưng nếu nhìn vấn đề bằng quan điểm của chúng tôi thì đây lại là một vấn đề thật cần thiết vì nhiều lý do. Lý do quan trọng thứ nhất là việc chúng tôi muốn hiểu rõ kế hoạch của chính quyền Nixon. Nếu rút quân là việc chẳng đặng đừng, chúng tôi vẫn muốn Hoa Kỳ rút quân theo một đường lối có lợi cho Việt Nam. Lý do thứ hai là việc rút quân sẽ phải đi song song với một kế hoạch để tăng cường khả năng của quân đội Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi muốn biết rõ Hoa Kỳ và Bắc Việt thật sự đàm phán ra sao. Và chúng tôi cũng muốn Hoa Kỳ tuyên bố họ không chấp nhận giải pháp của một chánh phủ liên hiệp bao gồm tất cả mọi thành phần kể cả Cộng Sản. Chúng tôi muốn Hoa Kỳ chánh thức công bố rõ các chính sách của họ trước khi chúng tôi gửi phái đoàn sang Ba Lê.

                              Đối với chúng tôi thì tất cả những yêu cầu vửa kể đều quan trọng. Vấn đề quan trọng thứ nhất chính là vì giá trị căn bản của những điều chúng tôi yêu cầu. Vấn đề quan trọng thứ hai là chúng tôi dự định dùng những điều chúng tôi yêu cầu để trấn an dư luận. Lúc này những lời đồn đãi hoàn toàn sai lạc về vấn đề Hoa Kỳ rút quân đã khiến dân chúng Việt Nam hoang mang và mất tinh thần. Khi nói chuyện cùng các nhân viên Hoa Kỳ, chúng tôi nêu rõ hai điều kể trên để thuyết phục những nhân viên Hoa Kỳ. Chúng tôi đã bàn luận dằng co khá lâu với hai ông Kissinger và Green, và rồi dần dà thuyết phục được họ chấp thuận bản thông cáo chung. Trong bản thông cáo chung đưa ra, Hoa Kỳ tuyên bố bác bỏ giải pháp thành lập một chính phủ liên hiệp, chấp thuận kế hoạch "thay thế một số đơn vị Hoa Kỳ bằng những lực lượng Việt Nam," và nhấn mạnh rằng chương trình rút quân sẽ được thi hành "song song từng bước tùy thuộc vào tình trạng an toàn của Việt Nam tại mỗi thời điểm."

                              Tuy rằng Việt Nam đã đồng ý chấp thuận bản thông cáo chung mà Hoa Kỳ vẫn lo rằng họ sẽ gặp khó khăn khi phải đối phó với vấn đề rút quân. Về mặt chiến lược thì rút quân là một phần của kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh (Vào lúc này chính phủ Nixon đang tìm cách để áp dụng một kế hoạch Lưỡng Đầu bao gồm hai phần quan trọng: Phần thứ nhất là Việt Nam Hóa Chiến Tranh và phần thứ hai là Kế Hoạch Đàm Phán.) Hơn nữa, Rút Quân cũng chính là kế trì hoãn mà chánh quyền Nixon dùng để đối phó với những phong trào phản chiến trong nước. Vì Hoa Kỳ đã đặt rất nhiều hy vọng vào kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh nên họ muốn chánh phủ Việt Nam thỏa thuận ngay để cho mọi việc được trôi chảy như dự liệu.

                              Sở dĩ Hoa Kỳ lo lắng vào lúc này là vì trước kia họ đã gián tiếp vận động và ép buộc Việt Nam phải chấp thuận vấn đề rút quân. Từ đó trở đi, Rút Quân đã trở thành một đề tài quen thuộc của dư luận và báo chí. Và rồi tất cả mọi người đều yên trí rằng Hoa Kỳ thế nào cũng rút quân. Những diễn biến phức tạp của vấn đề rút quân vì thế đã khiến những người trong cuộc có cảm giác là họ đang phải trực diện với một sự đã rồi. Thật ra thì kế hoạch rút quân chưa bao giờ được đệ trình lên cho chánh quyền Việt Nam thỏa thuận hoặc chống đối một cách chính thức. Do đó, cả Tổng Thống Nixon lẫn ông Kissinger đều không đoán trước được phản ứng của ông Thiệu ở cuộc họp ở Midway. Như ông Kissinger đã viết trong hồi ký: Chúng tôi sợ rằng "vấn đề rút quân sẽ khiến việc trở nên khó xử."

                              Tuy thế trong cuộc họp thượng đỉnh ở Midway ông Thiệu đã cố nhìn vào những khía cạnh tốt đẹp của buổi họp. Ông đã đưa ra cả đề nghị về việc "tái phối trí" các lực lượng Hoa Kỳ và cũng đồng ý chấp thuận đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt với điều kiện là ông phải được thông báo tường tận về các diễn biến.

                              Tuy ngoài mặt ông Thiệu cố tránh việc phải trực diện đối đầu với Hoa Kỳ, nhưng trong thâm tâm ông vẫn lấy làm bất mãn. Có lẽ ông Thiệu bất mãn nhất là việc ông bị buộc phải gặp Tổng Thống Nixon ở một nơi heo hút và chẳng có gì ngoài những bầy chim hải âu như ở hòn hoang đảo Midway. Tất cả chúng tôi có lẽ cùng đều bất mãn như ông. Nhìn vào cách tiếp tân cùa Hoa Kỳ, chúng tôi đã nhận thấy sự liên hệ của chúng tôi với Hoa Kỳ thật khác hẳn sự liên hệ của Bắc Việt với Sô Viết. Tuy chúng tôi biết rõ là sau lưng Bắc Việt, người Nga vẫn nói họ là những "kẻ cứng đầu quá lố," nhưng ít ra là trước công chúng, chánh phủ Nga vẫn linh đình trải thảm đón tiếp chánh phủ Hà Nội trong các cuộc tiếp tân. Ngược lại, đối với chúng tôi thì người đồng minh cùng chia xẻ một mục đích chung với chúng tôi lại coi chúng tôi như một thứ cùi hủi cần phải tránh xa. Vì hoàn cảnh bắt buộc, chúng tôi đã phải muối mặt chịu đựng nhưng chúng tôi không thể quên nổi cách tiếp tân rẻ rúng này. Việt Nam, trong suốt bốn ngàn năm lịch sử, dù là cộng sản hay không cộng sản cũng đã nổi tiếng về việc kém chịu đựng những sự nhục nhã. Cách tiếp tân của Hoa Kỳ lúc này đã tạo ra những vết thương khó quên. Dĩ nhiên ông Thiệu không bao giờ quên và nếu về sau này ông Kissinger đã phải phẫn nộ vì cung cách đối xử của ông Thiệu khi hai chánh phủ cùng gặp gỡ trong những buổi họp năm 1972, có lẽ ông cũng nên hiểu rõ vì đâu mà Việt Nam lại đối xử với ông như vậy.

                              Với những tổn thương tự ái sau cuộc họp, chúng tôi rời Midway vào lúc 5 giờ chiều (Phái đoàn Việt Nam đến đảo vào lúc 10 giờ sáng) ghé Đài Loan để nghỉ qua đêm rồi về thẳng Sài Gòn. Trên chuyến bay tôi cùng ông Thiệu sửa soạn cho cuộc họp sắp tới của ông Thiệu và giới báo chí. Mục đích chính của chúng tôi là trấn an dư luận. Chúng tôi tường trình về buổi họp Midway và nhấn mạnh đến những khía cạnh tốt đẹp của buổi họp thượng đỉnh này: Hoa Kỳ đã khẳng định rõ rệt rằng họ sẽ không chấp nhận giải pháp chánh phủ liên hiệp. Chúng tôi khẳng định rằng ngay cả việc Hoa Kỳ rút quân cũng có rất nhiều lợi điểm. Chúng tôi chẳng những đã chấp nhận mà còn hoan nghênh đề nghị rút quân, vì nếu Hoa Kỳ có thể rút quân thì việc đó có nghĩa rằng Việt Nam đã có thể hoàn toàn dựa trên sức mạnh của chính mình. Chúng tôi cũng nêu rõ rằng Việt Nam càng ít phụ thuộc vào Hoa Kỳ thì tình thế lại càng khả quan.

                              Sau cuộc họp báo, tôi trở về Việt Nam và ở Sài Gòn ngót hai tuần để thuyết trình về kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Khi các tổ chức của chánh phủ đã thấu triệt quan niệm Việt Nam Hóa Chiến Tranh, tôi lên đường trở lại Hoa Thịnh Đốn. Vừa đến Hoa Thịnh Đốn tôi đã bắt đầu dò dẫm ý kiến của Hoa Kỳ bằng cách đưa ra ý kiến rút quân của ông Thiệu. Ông Thiệu gọi kế hoạch này là "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" ("Long haul/Low cost"). Nói chung thì ý kiến của ông Thiệu là: Dù Hoa Kỳ quan niệm thế nào đi nữa thì đối với Việt Nam cuộc chiến vẫn là một cuộc chiến tranh trường kỳ. Vì thế ông Thiệu đề nghị tìm cách giảm thiểu tối đa tất cả những tổn thất về sinh mạng cũng như về tài vật của Hoa Kỳ.

                              Vào ngày 24 tháng 7, tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rogers ở Bộ Ngoại Giao để duyệt lại tình hình chung và cũng để đưa ra ít nhiều ý kiến về quan niệm của Việt Nam đối với vấn đề chiến tranh. Phản ứng của ông Rogers không khỏi làm tôi chú tâm. Ông Rogers cho rằng ý kiến của ông Thiệu quả là một ý kiến đáng bàn luận nhưng ông cũng nói thêm rằng giảm thiểu tổn thất của Hoa Kỳ ở Việt Nam vẫn không phải là phương sách toàn hảo để bảo đảm sự viện trợ của Hoa Kỳ. Theo ông thì khuyết điểm của kế hoạch "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp," nằm ở chỗ không ai có thể biết trước được là Hoa Kỳ nên giảm thiểu nhân mạng và tài vật đến tầm mức nào mới có thể khiến dân chúng Hoa Kỳ chấp thuận ủng hộ Việt Nam. Vì thế, để kêu gọi sự hỗ trợ của dân chúng Hoa Kỳ, Việt Nam cần phải gây dựng một chánh phủ đoàn kết có sự tham gia đông đảo của mọi khuynh hướng chính trị ở Việt Nam. Ông Rogers còn nói thêm rằng: "Hoa Kỳ không muốn gây trở ngại, không muốn áp bức bắt Việt Nam phải hợp tác với những phần tử chống đối. Nhưng các ông phải cố tìm cách để chứng tỏ với thế giới rằng chánh phủ của các ông không phải là một chánh phủ độc tài, không phải là một chánh phủ của riêng một đoàn thể nào ... Ông có rõ điều tôi muốn nói hay không?" (Chữ nghiêng là của tác giả)

                              Trong một cuộc họp khác ngay sau đó thì ông William Sullivan, Trưởng ban đặc trách về vấn đề Việt Nam lại đề cập vấn đề mà Ngoại Trưởng Rogers đã đưa ra ngày hôm trước. Ông nói rằng Ngoại Trưởng Rogers đã cho lệnh ông duyệt lại tất cả những điểm mà hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam đã đưa ra từ trước đến nay và tổng kết những điểm đó để có thể đưa ra một kế hoạch chung cho cả hai chánh phủ. Ông Sullivan đề cập cả cuộc họp của ông Rogers vào tháng 3 lẫn cuộc họp riêng của Tổng Thống Nixon và ông Thiệu ở Midway. Cuối cùng ông kết luận rằng: Nếu nhìn lại tất cả những điểm mà hai chánh phủ đã đưa ra thì có lẽ cả hai chính phủ đều cùng đồng ý rằng Việt Nam nên tìm cách để tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử trong tương lai. Trong cuộc Tổng Tuyển Cử đó, tất cả các đoàn thể đều có quyền ứng cử trừ Mặt Trận Giải Phóng. Ông Sullivan cho rằng giải pháp Tổng Tuyển Cử có thể là một giải pháp thích ứng để giải quyết những khó khăn trong đời sống chính trị tương lai của Việt Nam.

                              Tôi nói với ông Sullivan rằng Việt Nam khó thể tổ chức một cuộc bầu cử như vậy nếu Bắc Việt chưa rút quân. Với tình thế đang bị đe dọa như lúc này, Việt Nam chắc chắn không thể buông lơi để tổ chức một cuộc bầu cử như ông Sullivan vừa đề cập. Hơn nữa, Việt Nam không thể nào tổ chức bầu cử ở các miền cộng quân đang chiếm đóng. Nghe tôi trình bày vấn đề xong, ông Sullivan hỏi ngược lại tôi rằng ông Thiệu có kế hoạch gì khác không? Tôi trả lời có lẽ chúng tôi sẽ chấp thuận tổ chức bầu cử nếu Bắc Việt chịu rút quân. Sau cùng, có lẽ vừa để ám chỉ tình trạng bế tắc của các cuộc đàm phán và vừa để bày tỏ sự sốt ruột của Hoa Kỳ, ông Sullivan nói rằng ông Henry Cabot Lodge đang ở Ba Lê để chờ đợi thêm những ý kiến mới. Nếu có thêm ý kiến mới thì ông Lodge có thể khuyến khích Bắc Việt đàm phán hữu hiệu hơn.

                              Cứ theo tình hình các cuộc họp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam mà luận thì có lẽ lúc đó, Hoa kỳ đang cẩn thận dò dẫm phản ứng của Việt Nam về vấn đề Tổng Tuyển Cử. Cuộc bầu cử mà Hoa Kỳ đề cập chắc chắn sẽ bao gồm tất cả các thành phần đối lập không cộng sản và có thể bao gồm cả những thành phần của Mặt Trận Giải Phóng. Hoa Kỳ cho rằng nếu không có những phong trào cải cách rộng lớn, nếu không có một "chánh phủ đoàn kết có sự tham gia đông đảo của mọi khuynh hướng chính trị ở Việt Nam" như ông Sullivan đã đề cập thì Việt Nam khó thể được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ. Hơn nữa, Hoa Kỳ tin rằng nếu Việt Nam chấp thuận tổ chức tổng tuyển cử tự do và nếu Bắc Việt đồng ý rút quân thì những phái đoàn đàm phán của Hoa Kỳ ở Ba Lê có thể đàm phán hữu hiệu hơn.

                              Vào thời gian này tôi đã biết rõ ông Kissinger đóng một vai trò hết sức quan trọng trên lãnh vực Ngoại Giao của Hoa Kỳ. Tôi cũng biết giữa ông Kissinger và Ngoại Trưởng Rogers có nhiều chuyện xích mích. Nhưng tôi vẫn chưa biết đủ để có thể ngờ được rằng đến cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng không mảy may hay biết gì về những vận động của ông Kissinger. Vì không ngờ những vận động của chính phủ Nixon lại có thể bí mật tới mức như vậy nên tôi đã thật lòng tin tưởng vào những lời phát biểu của hai ông Rogers và Sullivan. Vào ngày 1 tháng 7, khi tường trình ý kiến của Hoa Kỳ cho ông Thiệu, tôi đã tường trình thật chi tiết những cuộc bàn luận của tôi với hai ông Rogers và Sullivan.

                              Sau khi gặp ông Sullivan được ba ngày thì tôi đến gặp ông Kissinger để tiếp tục thảo luận thêm về những vấn đề tôi đã thảo luận với ông Sullivan. Ngoài ra tôi cũng muốn gặp ông Kissinger để xem ông Kissinger suy nghĩ khác với ông Rogers ra sao. Bức điện văn tôi gửi về cho ông Thiệu vào thời gian đó phản ảnh khá trung thực những khác biệt về quan niệm giữa hai ông Kissinger và Sullivan. Sau khi gặp ông Kissinger, tôi điện về như sau:

                              Trước khi tường trình tường tận về buổi họp giữa tôi và ông Kissinger, tôi xin trình để Tổng Thống rõ ở Hoa Thịnh Đốn có dư luận cho rằng ý kiến của ông Kissinger hoàn toàn khác với ý kiến của Ngoại Trưởng Rogers. Tôi xin thú thực rằng chính tôi cũng chưa thấy rõ sự khác biệt. Vì là đại sứ nên thế đứng của tôi có phần khó khăn và tế nhị. Tuy đã biết cả hai người, tôi vẫn phải vô cùng thận trọng.

                              Khi gặp ông Kissinger, tôi cũng đưa ra quan niệm "Chiến Tranh Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" của Việt Nam chẳng khác nào như khi tôi đến gặp Ngoại Trưởng Rogers. Ông Kissinger nói rằng ông "nhận thức được khó khăn [của Việt Nam]," khi Hoa Kỳ tự nhiên giảm thiểu quân số và từ từ rút lui. Ông Kissinger cũng có nói rằng cả ông lẫn Tổng Thống Nixon đều không hài lòng với kết quả của những cuộc đàm phán ở Ba Lê và rồi kết luận rằng Hoa Kỳ bắt buộc phải có giải pháp khác. Giải pháp đó ra sao lúc này ông vẫn chưa thể suy nghĩ tường tận được, nhưng Tổng Thống Nixon nhất định không phải là "vị Tổng Thống đầu tiên chịu thua cuộc chiến tranh." Ông Kissinger lại hỏi tôi "Theo ông thì giải pháp nào nên được đưa ra?"

                              Tôi trả lời rằng bất kể giải pháp của Hoa Kỳ có là giải pháp nào đi nữa thì chắc giải pháp đó cũng chẳng thể khác biệt gì nhiều với giải pháp "Triệt Thoái Trường Kỳ/Tổn Hại Thấp" của Việt Nam. Điều này có nghĩa là bất kể đàm phán ở Ba Lê kết thúc ra sao thì quân đội Hoa Kỳ cũng vẫn phải hiện diện ở Việt Nam trong một thời gian dài. Tôi nói với ông Kissinger: " Nếu bắt buộc Việt Nam phải áp dụng giải pháp tổ chức Tổng Tuyển Cử ngay khi Bắc Việt vẫn còn đóng quân để giải quyết những khó khăn thì chúng tôi cho rằng đây phải là giải pháp cuối cùng. Chúng tôi chỉ chấp thuận tổ chức Tổng Tuyển Cử ở giây phút chót và chỉ chấp nhận điều kiện này nếu chúng tôi bị buộc phải chọn hoặc giải pháp này hoặc đầu hàng và mất Việt Nam."

                              Ông Kissinger đồng ý nhưng vẫn bàn thêm: Ý kiến Tổng Tuyển Cử thật là hấp dẫn. Tôi cũng nhân tiện nói để cho ông Kissinger biết rõ rằng bầu cử chỉ là một trong những vấn đề mà chánh phủ Việt Nam đang chú tâm vào lúc này mà thôi. Việt Nam cũng có thể chọn một giải pháp khác. Hiển nhiên ai cũng thấy điều kiện phải có một cuộc Tổng Tuyển Cử là một điều kiện khó khăn, nhất là khi Việt Nam đang bị những nguy cơ rõ rệt đe dọa. Trong khi chúng tôi bàn luận, ông Kissinger hỏi thêm rằng nếu một số các yêu cầu của Việt Nam được thỏa thuận thì liệu Việt Nam có thể chấp nhận giải pháp tổng tuyển cử hay không? Tôi trả lời rằng nếu có thêm một số điều kiện thì có lẽ Việt Nam sẽ chấp thuận, nhưng tôi từ chối, không chịu bàn luận chi tiết những điều kiện nào là những điều kiện tiên quyết mà Việt Nam bắt buộc phải có trước khi chấp thuận tổ chức Tổng Tuyển Cử. Vì chưa bàn luận kỹ trước với Sài Gòn, lúc này tôi chưa thể trực tiếp đưa ra một cách rõ rệt những điều kiện của Việt Nam. Tuy thế ông Kissinger nhất định muốn tôi phải trả lời.

                              Ông hỏi tiếp "Tỷ dụ như việc Hà Nội rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam, đây có phải là điều kiện thiết yếu tiên quyết mà chính phủ Việt Nam đòi hỏi trước khi chấp thuận Tổng Tuyển Cử hay chăng?"

                              Tôi trả lời rằng "Có, đây quả là một điều tiên quyết mà chánh phủ Việt Nam phải có trước khi đồng ý tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử."

                              Ông Kissinger tiếp tục bàn luận và dò dẫm về việc đòi hỏi Bắc Việt rút quân. Ông hỏi: "Phải chăng nếu một kế hoạch đề ra bị quá nhiều điều kiện tiên quyết trói buộc thì kế hoạch đó sẽ giảm bớt tầm mức hấp dẫn?" Rồi có lẽ vì ông cho là những đòi hỏi của Việt Nam có phần quá đáng, ông Kissinger hỏi tiếp: "Việt Nam có thể nào chấp thuận cuộc Tổng Tuyển Cử ngay trong khi Bắc Việt hãy còn đóng quân ở Miền Nam Việt Nam hay không?"

                              Tôi trả lời rằng "Không, chắc chắn không thể nào có chuyện tổng tuyển cử khi quân đội Bắc Việt hãy còn đóng binh ở Miền Nam được."

                              Thực sự thì cũng như ông Rogers, ông Kissinger đang dò dẫm và cố tìm một giải pháp thích ứng để có thể áp dụng vào kế hoạch đàm phán ở Ba Lê. Trong khi bàn luận, ông Kissinger đã đưa ra nhiều đề tài khác nhau và có nói đến cả việc ông đang chú tâm tìm cách để giúp ông Thiệu đối phó với những khó khăn trong chính trị nội bộ Việt Nam, chẳng hạn như tìm cách "để những người quốc gia có thể ngồi lại với nhau." Khi cuộc họp kết thúc ông Kissinger nói thêm rằng ông biết tôi đã có gặp cả Ngoại Trưởng Rogers lẫn ông Sullivan rồi. Tuy nhiên nếu tôi vẫn muốn gặp Tổng Thống Nixon hoặc gặp riêng ông ta thì tôi có thể cứ "tự nhiên gõ cửa."

                              Sau khi gặp ông Kissinger, tôi cố suy nghĩ để có thể tìm cách kiểm chứng lại những điều ông đã đề cập trong buổi họp. Cuối cùng, tôi cho rằng cách hay nhất để duyệt lại vấn đề là đến gặp những phụ tá của ông Kissinger ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Rồi từ đó trở về sau thì cứ sau mỗi lần họp với ông Kissinger, tôi lại mời những nhân viên phụ tá của ông đến tòa đại sứ dùng bữa. Dĩ nhiên là tôi mời riêng từng người. -Trong số những người tôi mời có cả các ông John Negroponte, ông Richard Smyser và ông John Holdridge. Khi bàn luận cùng những nhân viên này tôi thường đưa vào những đề tài tôi đã thảo luận cùng ông Kissinger. Tôi cố gắng tìm hiểu để xem đâu là đề mục chính, đâu là đề mục phụ và đâu là những mục nhất thời. Những người tôi mời đến toàn là những nhân vật vừa có nhiều kinh nghiệm lại vừa thận trọng nhưng qua những cuộc nói chuyện thường xuyên ở những bữa cơm trưa, tôi cũng gặt hái được phần nào những điều tôi muốn biết.

                              Một trong những vấn đề tôi muốn tìm hiểu là vấn đề "tìm cách để những nhân vật quốc gia ở Việt Nam có thể cùng ngồi lại với nhau." Đây là vấn đề mà ông Kissinger đưa ra trong cuộc họp ngày 28 tháng 7. Với niềm hy vọng loé mầm, tôi cố dò dẫm hư thực qua các nhân viên phụ tá của ông. Nhưng sau khi tôi đã tận tình dò hỏi thì những điều tôi nghe được lại hoàn toàn khác hẳn. Tất cả những nhân viên phụ tá của ông Kissinger đều nói rằng theo họ thấy thì vấn đề kết hợp các thành phần quốc gia không phải là vấn đề ông Kissinger thực sự quan tâm. Mà cho dù đây có là vấn đề ông Kissinger quan tâm đi nữa thì đây vẫn không phải là vấn đề ông cho là chủ yếu.

                              Tôi cho đây là một điều không may. Sở dĩ tôi suy nghĩ như vậy là vì những quan niệm của tôi về Việt Nam đã thành hình trong nhiều năm trời kể từ khi tôi thực sự rời xa những chuyện tranh chấp có liên quan đến chính trị nội bộ Việt Nam. Nếu nhìn lại những năm vừa qua thì những tiến triển dân chủ ở Việt Nam thật là đáng kể. Kể từ năm 1967, tôi đã cố gắng đóng góp để chuyển dần chánh phủ Việt Nam, lúc bấy giờ hãy còn là một chánh phủ quân nhân, thành một chánh phủ hợp hiến. Vào năm 1966, Hội Đồng Lập Hiến được thành lập. Vào năm 1967, hiến pháp được ban hành. Cũng trong năm đó, cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các cuộc bầu cử Thượng Nghị Sĩ, dân biểu vào quốc hội đã được tổ chức. Nói chung thì những bước đầu tiên này đã một phần chứng tỏ rằng Việt Nam đang tiến những bước đầu trên con đường dân chủ. Tuy chánh phủ dân chủ sơ khởi của Việt Nam vẫn chưa hoàn hảo và nạn xích mích bè đảng vẫn còn ở ngay cả trong những ngành cao nhất của chính phủ. Nhưng dù sao đi nữa thì chánh phủ hợp hiến sơ khởi của Việt Nam vẫn là một chánh phủ với một quốc hội có khả năng hoạt động ở một mức độ dân chủ đáng kể.

                              Tuy trong thâm tâm quả thực tôi có rất nhiều phương diện không đồng ý với ông Thiệu nhưng đứng ở cương vị đại sứ của Việt Nam, tôi vẫn rất khó chịu khi phải nghe những lời phê bình khắc nghiệt và liên tục của giới báo chí Hoa Kỳ đối với chính phủ Việt Nam. Dư luận Hoa Kỳ lúc nào cũng lên án ông Thiệu là một nhân vật độc tài và chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ không được dân chúng Việt Nam ủng hộ. Hậu quả là những lời phê bình đó đã khiến dân chúng Hoa Kỳ và nhất là quốc hội Hoa Kỳ có ấn tượng xấu đối với chánh phủ Việt Nam. Tôi cũng đồng ý với Ngoại trưởng Rogers rằng nếu không có những phong trào cải cách rộng lớn ở Việt Nam thì chánh phủ Việt Nam khó thể kêu gọi được sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ. Vì thế, một trong những đề tài chính tôi thường xuyên trình bày với ông Thiệu là Việt Nam phải tìm cách tổ chức được một chánh phủ đoàn kết lớn rộng với sự tham gia của tất cả các thành phần quốc gia. Tôi nói rằng Việt Nam cần phải hiểu rõ vai trò tối quan trọng của dư luận Hoa Kỳ vì dư luận Hoa Kỳ chính là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng những người có trách nhiệm lập chính sách trong chính phủ Hoa Kỳ. Hơn nữa, tôi còn nói rõ rằng Việt nam cần đào tạo những chuyên viên mới để chánh phủ có thể điều hành hữu hiệu hơn về cả hai mặt hành chánh và kỹ thuật. Việt Nam cần có những chuyên viên mới để thay thế cho những người thiếu khả năng và tham nhũng trong chánh phủ Việt Nam.

                              Tuy vậy, đối với những đề nghị của tôi đưa ra thì khả năng của tôi lại thật là hạn hẹp. Trước hết, tôi không còn dính dáng gì đến chính trị nội bộ của Việt Nam và lại ở cách xa Việt Nam cả 10,000 dặm. Thứ hai, tôi biết ông Thiệu vẫn không thật lòng tin tôi vì cho rằng tôi là một trong những người của ông Kỳ. Có lẽ trong thâm tâm ông Thiệu vẫn tin rằng tôi thuộc phe ông Kỳ. Thứ ba, vì tôi cộng tác gần gũi với người Hoa Kỳ nên ông Thiệu đã cho rằng tôi bị người Hoa Kỳ ảnh hưởng và vì thế quan điểm của tôi không còn khách quan và chuẩn xác nữa. Nhưng nói cho cùng thì khả năng của tôi bị hạn hẹp đối với những đề nghị của tôi đưa ra chính là vì vấn đề xây dựng một chánh thể dân chủ ở Việt Nam không phải là vấn đề mấu chốt trong các kế hoạch của Hoa Kỳ. Tuy rằng trong quá khứ, đại sứ Bunker đã nhiều lần đồng ý rằng chánh phủ Việt Nam phải cải cách, nhưng ông không phải là người có lập trường cương quyết về vấn đề phải xây dựng một chánh thể dân chủ ở Việt Nam. Hơn nữa, ông lại càng không phải là một trong những người có quyền quyết định các chánh sách của Hoa Kỳ. Hai ông Rogers và Sullivan thỉnh thoảng cũng có bàn luận vấn đề cải cách chánh phủ Việt Nam, nhưng ngoài ra họ chẳng làm gì hơn. Còn ông Kissinger thì lúc đó đang để tâm vào những khía cạnh phức tạp của những cuộc đàm phán, ngoại giao tay ba với Trung Quốc, Nga Sô, và những vấn đề quân sự, không còn tâm trí nào để suy tư về vấn đề dân chủ. Kết quả là có rất ít áp lực từ phía chánh quyền Nixon trong việc thúc đẩy ông Thiệu phải cải cách. Và ông Thiệu thì dĩ nhiên lại không phải là người tự mình nhìn thấy cần phải thay đổi.

                              Những khung cảnh phức tạp của vấn đề thúc đẩy ông Thiệu cải cách trong giai đoạn này được phản ảnh khá trung thực qua bức điện văn tôi gửi cho ông Thiệu vào ngày 28 tháng 6 và bức thư tay của ông Thiệu gửi trả lời tôi vào ngày 5 tháng 7. Tôi điện rằng:
                              Kể từ ngày trở lại Hoa Thịnh Đốn, tôi đã liên lạc với rất nhiều dân biểu, Thượng Nghị Sĩ và giới báo chí của Hoa Kỳ. Theo tôi thấy thì tuy chính quyền Nixon đã nỗ lực thuyết phục dư luận Hoa Kỳ trong sáu tháng vừa qua mà dân chúng Hoa Kỳ vẫn còn thiếu kiên nhẫn rất nhiều. Lúc này dư luận vẫn liên tục chỉ trích chánh phủ Việt Nam. Nếu tôi có thể tóm gọn vấn đề trong một câu phát biểu ngắn ngủi thì vấn đề là: Đối với những người chống đối -Tuy những người chống đối vẫn chỉ là thiểu số- thì vấn đề Việt Nam kể như đã chấm dứt. Nhưng chánh phủ Nixon và đa số những người khác vẫn cho rằng dân chúng Hoa Kỳ hãy còn ủng hộ Việt Nam. Sự ủng hộ của dân chúng Hoa Kỳ đang ở tầm mức nào? Đây là một vấn đề chẳng ai hiểu rõ. Tuy thế, nếu chúng ta có thể giữ được nguyên vẹn sự ủng hộ của Hoa Kỳ thì việc giữ nằm trong tay chúng ta nhiều hơn là chính quyền Hoa Kỳ. [chữ nghiêng là của tác giả].

                              Sau cùng tôi xin yêu cầu Tổng Thống những điều sau đây:

                              1. Chỉ thị cho tôi biết rõ phải làm gì (tôi không thể tiếp tục bàn luận vấn đề khó khăn [của chính trị nội bộ Việt Nam] khi không có chỉ thị rõ rệt.

                              2. Nếu Tổng Thống đã có chủ trương [về việc hoà hợp cuộc Tổng Tuyển Cử cùng những kế hoạch đòi hỏi Bắc Việt rút quân trước khi đàm phán ở Ba Lê], thì bất kể chủ trương đó là gì, Tổng Thống cũng phải tìm các trình bày chủ trương đó với dư luận thế giới. Vấn đề cần phải trình bày rõ ràng chủ trương của Việt Nam với báo chí quốc tế là một vấn đề hết sức quan trọng. Cách Việt Nam trình bày vấn đề cũng quan trọng chẳng kém gì những chủ trương mà Việt Nam đưa ra.
                              Ông Thiệu trả lời tôi bằng một bức thư viết tay:

                              Thân gửi Anh Diễm:

                              Xin anh bỏ qua vấn đề Tổng Tuyển Cử vào lúc này và chỉ thảo luận vấn đề Việt Nam Hóa Chiến Tranh mà thôi. Khi có dịp, tôi sẽ thông báo cho anh rõ vấn đề Tổng Tuyển Cử. ....Xin anh cố gắng đừng để ông Rogers qua mặt tôi. Ông ta phải nể mặt tôi về vấn đề Tổng Tuyển Cử.

                              Trong suốt khoảng thời gian của tháng 8 và tháng 9 năm 1969 ngày tháng trôi qua thật là chậm chạp. Lúc đó, tôi vẫn chưa hề mảy may hay biết việc ông Kissinger và đại diện Xuân Thủy của Bắc Việt đã bí mật gặp nhau. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai bên diễn ra vào ngày 4 tháng 8 ở Ba Lê tại tư thất của ông Jean Sainteny. Tuy thế đây chỉ là một cuộc gặp gỡ sơ khởi. Cả hai bên đều chẳng làm gì khác hơn là lập lại những đòi hỏi đã đưa ra khi trước. Vào ngày 7 tháng 9, thượng nghị sĩ Everett Dirksen từ trần trong lúc đương nhiệm. Tuy ông Dirksen có lâm bệnh trước lúc qua đời, việc ông từ trần quả là một biến động đột ngột. Tôi mất đi một người bạn thân ở thượng viện, một nơi mà càng ngày việc tìm bạn càng khó. Hai ngày sau lại có tin ông Hồ từ trần do Hà Nội loan báo. Ông Hồ qua đời vào lúc 79 tuổi sau một cơn bệnh dai dẳng. Cũng như những quan sát viên khác, tôi đã suy nghĩ về những người có thể thay thế ông Hồ và những ảnh hưởng vào chiến cuộc sau khi ông Hồ mất. Tuy thế, cuối cùng tôi nhận thấy việc ông Hồ qua đời hoàn toàn không có gì ảnh hưởng đến đường lối của Bắc Việt cả.

                              Trong suốt tháng 8 và tháng 9, tôi dành thì giờ đến tiếp xúc với những Cộng Đồng Việt Nam ở rải rác khắp nơi trong Hoa Kỳ, tiếp đón những phái đoàn "đi tìm sự thật" của Việt Nam. Tôi cũng thu xếp để có thể đến nói chuyện ở các trường đại học Hoa Kỳ. Khi đến nói chuyện ở các trường đại học Hoa Kỳ, tôi lại có dịp quan sát những hoạt động phản chiến trong giới sinh viên đang sắp sửa bùng lên và lúc đó thời gian lại trùng đúng vào lúc năm học mới bắt đầu khai giảng trở lại. Một trong những chuyện khá đặc biệt trong khoảng thời gian này là việc Tổng Thống Nixon chẳng hiểu sao lại mời gia đình tôi đến nghe giảng lễ ở Toà Bạch Ốc. Người giảng lễ hôm đó là linh mục Billy Graham. Khi nhận được lời mời, cả tôi lẫn nhà tôi đều hết sức ngạc nhiên. Hẳn nhiên lời mời không có ý nghĩa gì khác hơn là một cử chỉ thân thiện đối với gia đình chúng tôi, nhưng tôi vẫn chẳng hiểu tại sao một người chịu ảnh hưởng Khổng, Lão như tôi và một Phật tử sùng đạo như nhà tôi lại được vinh dự mời đi nghe giảng lễ ở Tòa Bạch Ốc như vậy. Riêng hai con gái của chúng tôi thì lại nhìn vấn đề một cách khác hẳn. Đi nghe giảng lễ ở Tòa Bạch Ốc đối với những đứa con tôi có nghĩa là mang những bộ áo dài, mặc những bộ quần lụa rất ít khi có dịp dùng đến. Đó là chưa kể đến những xoay sở khó khăn vì phải mang những đôi guốc cao gót rất dễ ngã khi đi đứng.

                              Tuy thế, chúng tôi vẫn cố gạt bỏ ngạc nhiên và đến Tòa Bạch Ốc vào giờ đã định. Cả bốn chúng tôi cùng ngồi nghe giảng với khoảng hơn bốn mươi người khác bao gồm cả gia đình Tổng Thống Nixon, gia đình Bộ Trưởng Tư Pháp Michell và các bạn bè khác của ông Nixon. Buổi giảng lễ thật là ngắn ngủi. Linh mục Graham thuyết giảng khoảng 15 phút về một đề tài gì đó mà tôi chẳng còn nhớ nữa. Riêng tôi đã dành gần hết thời giờ để quan sát những việc xung quanh, lúc thì liếc mắt nhìn con gái đang lục đục trên ghế, khi thì quan sát những người nghe lễ xung quanh để cúi đầu cho phải phép. Giữa bầu không khí lặng lẽ của chính trường vào thời gian đó, đây quả là một trong những chuyện đặc biệt đối với gia đình chúng tôi.

                              Nhưng những khoảng thời gian bình lặng như vậy chẳng mấy chốc đã thoáng vút qua. Vào khoảng tháng 10, tình hình chính trị ở Hoa Thịnh Đốn lại bắt đầu sôi động. Những tổ chức phản chiến lại thành lập một Ủy Ban tổ chức để phối hợp những cuộc biểu tình cho tất cả các tổ chức phản chiến tham gia. Ủy Ban tổ chức phản chiến này đã soạn thảo kế hoạch cho một cuộc biểu tình lớn gọi là Moratorium dự định vào ngày 15 tháng 10. Quốc Hội cũng đã họp trở lại sau thời gian nghỉ nhóm mùa hè và sẵn sàng muốn thúc đẩy chánh phủ phải rút ra khỏi Việt Nam. Vào ngày 5 tháng 10, năm 1969 tôi điện cho ông Thiệu:

                              Thành phần phản chiến ở quốc hội và các đại học càng ngày càng gia tăng. Rõ ràng là những đoàn thể phản chiến lại hoạt động trở lại. Chẳng bao lâu nữa Quốc Hội Hoa Kỳ lại có hội thảo về những vấn đề sau:

                              1. Một kế hoạch bắt buộc Hoa Kỳ phải rút quân vào năm 1970 (đây là kế hoạch của Thượng Nghị Sĩ Goodell). Tuy kế hoạch này khó thể được quốc hội thông qua, Ủy Ban Liên Hệ Ngoại Giao lại có dịp để bàn bạc vấn đề.

                              2. Cuộc biểu tình chống chiến tranh lớn mà giới phản chiến gọi là "cuộc biểu tình Moratorium" của sinh viên.

                              3. Duyệt lại Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt.

                              4. Thảo luận những dự định của ông Mansfield về việc rút quân, ngưng bắn, và gây áp lực để bắt chánh phủ Việt Nam tổ chức một cuộc Tổng Tuyển Cử cho phép cả các thành phần của Mặt Trận Giải Phóng tham gia.

                              Chúng ta phải sẵn sàng đối phó với rất nhiều chỉ trích, nhất là vào khoảng thời gian giữa trung tuần tháng 10 và trung tuần tháng 11. Khoảng thời gian đó đã được những đoàn thể chống đối chọn làm giai đoạn chính của cuộc biểu tình. Họ gọi giai đoạn này là "Giai Đoạn Moratorium." Một "Ủy Ban Tổ Chức mới" gồm nhiều người trong các giới sinh viên, tu sĩ, thanh niên, Phụ nữ Tranh Đấu cho Hoà Bình, Giới Kinh Doanh Tranh Đấu cho Hoà Bình, Vấn đề của tu sĩ cùng người ngoại đạo, Ủy Ban Luật Sư chống chiến tranh, và rất nhiều các hội chống đối khác. Mọi hoạt động chống chiến tranh đều được "Ủy Ban Tổ Chức phản chiến" điều động. Những nhân viên nằm trong các Ủy Ban phản chiến phần nhiều là những sinh viên làm việc cho Thượng Nghị Sĩ McCarthy. Họ đã chọn ngày 15 làm ngày mà tất cả học sinh trên toàn quốc đều nghỉ học để chống chiến tranh.... Vào ngày 15 tháng 10 họ tổ chức một cuộc diễn hành. Họ gọi cuộc diễn hành đó là "A March against Death."

                              Những cuộc biểu tình dữ dội trong tháng 10 năm 1969 đã thu hút hết tâm trí tôi. Tôi nghĩ rằng có lẽ đa số những người trong số hàng trăm ngàn người biểu tình gần như đều chẳng biết rõ những mục tiêu họ chống đối. Nhưng phải làm thế nào mới có thể khiến họ thấy rằng kiến thức của họ thật là phiếm diện và thỏa mãn những điều họ đòi hỏi có nghĩa là buộc Việt Nam phải đầu hàng trước một chế độ độc tài tàn nhẫn?

                              Thật ra thì hình như tất cả các cuộc biểu tình chống đối nói riêng, hoặc hiện tượng chống đối nói chung, đều chỉ là những hành động phản ảnh những ẩn ức trong tiềm thức của những người biểu tình đối với xã hội của họ. Tôi đã chứng kiến hàng loạt các cuộc biểu tình của các sinh viên ở Pháp và Đức và đã tự hỏi: Phải chăng những sinh viên biểu tình đang cố mượn vấn đề chống đối chiến tranh Việt Nam để thể hiện những bất mãn của họ đối với xã hội? Những sự bất mãn của họ của họ rõ ràng là không phải là do chiến tranh Việt Nam. Vấn đề chống đối chiến tranh đối với họ chẳng qua chỉ là một thứ phương tiện thuận lợi cho phép họ có cơ hội phát biểu ngay những cảm tưởng bất mãn của họ đối với xã hội Tây Phương lúc này mà thôi. Nếu không có chiến tranh Việt Nam thì những cuộc biểu tình này có xảy ra hay không? Phải chăng chính xã hội Tây Phương đang trải những cuộc khủng hoảng riêng?

                              Suy tư này cứ mãi dày vò tôi. Tôi đã biết rõ rằng Việt Nam đang tranh đấu cho lẽ phải và tôi chẳng hiểu tại sao lại có thể có nhiều người chống đối chiến tranh Việt Nam đến thế? Nhất là khi họ thật sự chẳng biết gì nhiều về cuộc chiến Việt Nam? Trong suốt khoảng thời gian tháng 10 và tháng 11 năm 1969, lúc nào tôi cũng bị vấn đề này ám ảnh. Tôi biết rằng đa số những người Việt Nam đều quan niệm rằng những người biểu tình chỉ là những người ngây thơ đang bị Cộng Sản hoặc các nhóm thiên tả ảnh hưởng. Nhưng riêng tôi lại thấy là vấn đề quả không đơn giản như vậy. Tôi có thể hiểu rằng chẳng ai muốn có chiến tranh. Chẳng ai muốn để thân nhân phải lăn mình vào lửa đạn. Dĩ nhiên là đứng trên quan điểm của Việt Nam thì họ sai, vì cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến xứng đáng với sự hy sinh và tranh đấu của họ. Nhưng dù sao đi nữa thì tôi vẫn hiểu được những điều lo lắng của một gia đình Tây Phương có thân nhân gia nhập quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Điều mà tôi quả thật không thể hiểu được là nguyên do gây ra sự bất mãn của những người Tây Phương. Lúc này, tôi đã bắt đầu thấy rõ rằng những cuộc biểu tình thật sự chỉ là những cuộc biểu tình của những người Hoa Kỳ đang bất mãn với xã hội của họ chứ chẳng phải những cuộc biểu tình của những người đang chống đối chiến tranh. Những cuộc biểu tình phức tạp của xã hội Tây Phương lúc này đã gây ra một hậu quả thật là bi thảm: Tương lai Miền Nam Việt Nam đang bị những khủng hoảng của xã hội Hoa Kỳ xô đẩy mà chính chúng tôi lại hoàn toàn bất lực trước những khủng hoảng đó. Hơn nữa nguyên do của những sự khủng hoảng cũng chỉ liên hệ đến chúng tôi một phần mà thôi.

                              Trước đêm Biểu Tình "March against Death" đã có một cuộc biểu tình ngay phía trước tòa đại sứ Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn. Khung cảnh những người chống đối bao vây tòa đại sứ thật chẳng khác nào một đoàn quân xung phong đang cố bao vây một tiền đồn. Có cả hàng trăm nhân viên cảnh sát đang tận lực ngăn cản những người biểu tình. Qua cửa sổ của tòa đại sứ, tôi cùng những nhân viên ở tòa đại sứ nhìn thấy lố nhố những mũ sắt, những xe cảnh sát và những ánh chớp đèn pin. Những người biểu tình vừa hò la, vừa ném đá và liệng chai lọ về phía tòa đại sứ. Họ biểu tình mãi cho đến thật khuya và rồi giải tán để sửa soạn cho cuộc chống đối ngày hôm sau.

                              Ông John Mitchell có nói với tôi rằng Tổng Thống Nixon không hề bị những cuộc biểu tình của các tổ chức phản chiến ảnh hưởng. Chính tôi cũng biết Tổng Thống Nixon không phải là người dễ bị lay chuyển. Tuy thế khi nhìn những cuộc biểu tình trước tòa đại sứ tôi không tin sự thật sẽ hoàn toàn như vậy. Trong thâm tâm tôi nghĩ rằng chắc chắn áp lực phản chiến thế nào cũng gia tăng và đến một lúc nào đó những áp lực này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến những chính sách của Hoa Kỳ đối với chiến tranh Việt Nam. Tổng Thống Nixon chỉ có thể trì hoãn để kéo dài thêm thời gian. Nhưng rồi đây, trong giai đoạn cuối, Việt Nam sẽ phải nhận chịu những áp lực phản chiến của dân chúng Hoa Kỳ một mình. Và lúc đó, Việt Nam chỉ còn biết trông chờ vào chính Việt Nam mà thôi.




                              Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
                               Phan Lê Dũng
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 36 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9