Bùi Diễm - Trong Gọng Kềm Lịch Sử
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 36 trên tổng số 36 bài trong đề mục
sóng trăng 02.12.2006 13:46:40 (permalink)
.
 
Chương 31
Mất Tiên Cơ


Vào đầu tháng 10 năm 1969 thì những cuộc biểu tình của giới phản chiến ở Hoa Kỳ bùng ra ở khắp mọi nơi. Các ủy ban tổ chức phản chiến ở Hoa Kỳ gọi giai đoạn này là giai đoạn Moratorium. Vào giữa khi những người tổ chức phản chiến đang kêu gọi biểu tình thì Tổng Thống Nixon đã lên đài truyền hình để có thể trực tiếp thuyết phục dư luận Hoa Kỳ ủng hộ các chính sách của ông. Đây là một trong những buổi nói chuyện thành công của Tổng Thống Nixon. Trong buổi nói chuyện đó, ông trình bày tỉ mỉ hai kế hoạch chính của ông là: Việt Nam Hóa Chiến Tranh và Đàm Phán. Sau khi trình bày các kế hoạch, ông Nixon trực tiếp kêu gọi đại đa số những người Hoa Kỳ chưa có thái độ rõ rệt đối với vấn đề Việt Nam. Ông gọi họ là "đa số trầm lặng." và lên tiếng kêu gọi tất cả những người trong khối "đa số trầm lặng" đó ủng hộ ông.

Cuộc nói chuyện trực tiếp của Tổng Thống Nixon mang lại kết quả khả quan trông thấy. Ông đã thuyết phục được đa số dân chúng và rất nhiều các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ trong quốc hội Hoa Kỳ. Ông đã trấn an được dư luận ngay vào lúc dân chúng Hoa Kỳ đang bị hoang mang vì các cuộc biểu tình. Ngay trong lúc Tổng Thống Nixon lên tiếng kêu gọi dân chúng thì những tổ chức phản chiến vẫn tiếp tục hoạt động ở khắp nơi và khoảng hai tuần lễ sau đó thì Ủy Ban tổ chức phản chiến đến Hoa Thịnh Đốn. Chính những toán tiên phuông của các tổ chức này đã biểu tình trước tòa đại sứ Việt Nam đêm trước. Khi cuộc biểu tình đến Hoa Thịnh Đốn thì số người tham gia lên đến 250,000. Những người biểu tình tràn ngập vào nhiều vùng trong thành phố, đập phá các cơ sở của chánh phủ và giương cao cờ Việt Cộng. Tuy thế, tin tức cho thấy rằng buổi nói chuyện của Tổng Thống Nixon lúc trước đã có ảnh hưởng. Con số thống kê cho thấy số người ủng hộ ông dâng cao và rồi vào tháng 12 thì những phong trào phản chiến bỗng nhiên lắng xuống.

Mặc dầu đa số các cuộc chống đối ở Hoa Kỳ lúc đó đang một ngày một giảm mà chẳng hiểu sao lúc nào tôi cũng vẫn bị ám ảnh rằng đây chỉ là phong ba tạm ngừng mà thôi. Trong những tháng về sau, khi duyệt lại các tin tức ở Hoa Kỳ tôi đã viết cho ông Thiệu như sau: "Chánh phủ Hoa Kỳ có thể trấn an dư luận nhưng chánh phủ Hoa Kỳ vẫn không thể nào đi ngược lại dư luận của dân chúng Hoa Kỳ. Chính vì thế nên dư luận của dân chúng Hoa Kỳ vẫn là một yếu tố quan trọng hơn cả. Tạm thời chúng ta đang yên ổn... nhưng điều này không có nghĩa là đã hết những khó khăn."

Trong một bản tường trình dài gửi về Sài Gòn vào ngày 12 tháng 3 năm 1969, tôi có nói với ông Thiệu rằng cả những người ủng hộ chiến cuộc Việt Nam lẫn những đoàn thể phản chiến ở Hoa Thịnh Đốn đều đang đưa ra những câu hỏi chính trị hóc búa. Chẳng hạn như: "Liệu chính phủ Việt Nam có đứng vững hay không? Phải chăng sự chia rẽ và phân hóa của các nhóm chính trị ở Việt Nam đã khiến chánh phủ Việt Nam ngày càng bị cô lập? Nói tóm lại, thì căn nguyên của mọi khó khăn là vì chánh phủ Hoa Kỳ phải quyết định các chính sách Việt Nam sao cho những chính sách đó không bị dư luận Hoa Kỳ chỉ trích. Chính sự liên hệ phức tạp này đã khiến vấn đề ủng hộ Việt Nam trở thành khó khăn bội phần. Trong giai đoạn này thì bất cứ lúc nào các tổ chức phản chiến cũng có thể biểu tình. Hơn nữa cuộc bầu cử Tổng Thống sơ khởi của Hoa Kỳ lại sắp sửa bắt đầu và giới phản chiến chắc chắn sẽ không bỏ qua cơ hội đó."

Tôi đã được mục kích Tổng Thống Nixon thuyết phục dân chúng. Tôi cũng đã được nghe chính ông Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chiến đấu cho đến khi Bắc Việt chịu chấp nhận một giải pháp đàm phán công bằng hoặc cho đến khi Việt Nam đã đủ sức để tự lực cánh sinh. Tuy thế, tôi vẫn quan niệm rằng Hoa Kỳ đang bắt đầu rút lui ra khỏi cuộc chiến Việt Nam. Tôi cho rằng năm 1970 chính là thời điểm đánh dấu một giai đoạn mới cho các kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, áp lực của dư luận và các tổ chức phản chiến ngày càng dâng cao. Rồi đây những áp lực đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của quốc hội.

Quan niệm thực tế của tôi được rút ra từ những nhận xét tôi nghe được của các bạn bè thân. Một trong những người trực tiếp cho tôi biết rõ ý kiến của Hoa Kỳ là tướng William Depuy, người đã từng là phụ tá cho tướng Westmoreland, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Miền Nam Việt Nam. Khi tướng Depuy nói chuyện với tôi ở một căn cứ quân sự ở tiểu bang North Carolina, ông đã phát biểu như sau:
"Tôi không phải là tổng thống Nixon; tôi cũng không phải là đại diện của chánh phủ Hoa Kỳ, nhưng tôi tin rằng chánh sách của Hoa Kỳ là: Vì rất nhiều lý do - từ cả những lý do phức tạp của tình hình quốc tế lẫn những lý do khác bên trong nội bộ Hoa Kỳ - chánh phủ Hoa Kỳ đã kết luận rằng Hoa Kỳ phải giải quyết vấn đề Việt Nam trong vòng 3, 4 hoặc 5 năm nữa. Trong vòng 5 năm tới, Hoa Kỳ sẽ tận lực giúp Miền Nam Việt Nam bằng tất cả mọi nỗ lực. Ngày nào quân đội Hoa Kỳ còn đóng binh ở Việt Nam thì ngày đó họ vẫn còn chiến đấu. Nhưng chánh phủ Việt Nam phải hiểu rằng Hoa Kỳ không thể làm gì hơn được nữa. Tôi không đặt hy vọng gì vào những cuộc đàm phán ở Ba Lê. Mà giả thử đàm phán ở Ba Lê có đạt được kết quả đáng kể đi chăng nữa thì đó cũng là việc đáng mừng. Nói tóm lại thì trong vòng 5 năm tới, nếu Việt Nam có thể tự lực cánh sinh thì đây quả là điều chúng tôi mong mỏi. Nhưng nếu sau 5 năm Việt Nam vì lý do gì đó -hối lộ, chia rẽ, thiếu đoàn kết- mà không thể tự lực cánh sinh thì Hoa Kỳ cũng chẳng thể làm gì khác hơn được."

Nhìn lại những bức điện văn và những bản tường trình gửi về Sài Gòn lúc đó, tôi cho rằng tôi đã tận lực trình bày để ông Thiệu có thể thấy được những biến cố Việt Nam qua lăng kính của một người đang chứng kiến những sự chia rẽ, chống đối và thay đổi lớn lao đang làm rung chuyển xã hội Hoa Kỳ. Tôi đã tường trình tất cả mọi chi tiết và đã nhiều lần nhấn mạnh tầm mức quan trọng của cả dư luận Hoa Kỳ, lẫn những ảnh hưởng xấu của cuộc biểu tình. Tôi đã tường thuật gần như tỉ mỉ từng chữ những cuộc thảo luận ở Hoa Kỳ có liên quan đến vấn đề cải cách của chính phủ Việt Nam. Tôi cũng nói với ông Thiệu rằng: Lúc này, ở Hoa Kỳ, thái độ của những người bạn đã ủng hộ Việt Nam là là "tant mieux hoặc tant pis," nghĩa là nếu [giúp Việt Nam] được thì càng tốt và nếu không thì cũng đành vậy." Những người ủng hộ Việt Nam đã làm tất cả những điều họ có thể làm, giờ là lúc chánh quyền Việt Nam phải tự lực cánh sinh hoặc sụp đổ. Và nếu chúng ta có thể đứng vững được thì đây quả là điều mọi người mong mỏi. Nếu chúng ta không thể đứng vững được thì mọi người đều cho rằng họ cũng chẳng thể làm gì hơn.

 
* * *

Vào ngày 17 tháng 3 năm 1969, những sự lo lắng của tôi bị chuyển hướng vì một cuộc đảo chánh ở Cam Bốt đã lật đổ Hoàng Tử Norodom Sihanouk. Cuộc đảo chánh diễn ra khi ông Sihanouk đang nghỉ mát ở Pháp. Người cầm đầu cuộc đảo chánh là Bộ Trưởng Quốc Phòng Lon Nol và phụ tá của ông ta là Sirik Matak. Chẳng hiểu nguyên do của cuộc đảo chánh ở Cam Bốt là gì mà tình thế hỗn loạn sau đảo chánh lại khiến những người Cam Bốt bắt đầu một chiến dịch khủng bố những người Việt cư ngụ ở Nam Vang và các khu vực miền đông Cam Bốt. Tuy từ trước tới nay, giữa Việt Nam và Cam Bốt vẫn có những xô xát về vấn đề khác biệt chủng tộc giữa hai quốc gia, nhưng chưa bao giờ mức độ xô xát lại khủng khiếp bằng lần này. Chúng tôi được những Việt Kiều ở Cam Bốt vượt thoát trở về kể lại thật chi tiết các vụ tàn sát ở đó. Khi tin tức về những cuộc tàn sát những người Việt kiều ở Cam Bốt đã rõ rệt, tôi đến gặp ông Green và ông Sullivan để yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp và tìm cách ngăn chận những vụ tàn sát đang xảy ra.

Tôi nói với ông Green rằng: Nếu Hoa Kỳ không chịu can thiệp thì tới một lúc nào đó chính phủ Việt Nam sẽ bị buộc phải hành động để binh vực những người Việt ở Cam Bốt. Chẳng bao lâu sau, Hoa Kỳ đã đứng ra hòa giải. Lon Nol và Sirik Matak cùng hứa rằng họ sẽ cố hết sức ổn định tình hình. Theo ông Green thì cả hai ông Lon Nol và Matak đều là những người đáng tin cậy. Tuy thế, những khu vực phía đông Cam Bốt lại là một nơi gần 40,000 quân Bắc Việt đang chiếm đóng và cả hai ông Lon Nol lẫn Matak đều không thể làm chủ được tình hình ở những nơi đó.

Ngoài vấn đề khủng bố, cuộc đảo chánh ở Cam Bốt còn phá vỡ cả thế quân bằng của các lực lượng quân sự đang hiện diện ở Cam Bốt. Trước đây, nhờ tài lãnh đạo khéo léo của ông Sihanouk, tất cả những lực lượng hiện diện ở Cam Bốt đều đứng trong một thế quân bằng. Trong thế quân bằng đó, Cam Bốt là một nước chánh thức trung lập và hoàn toàn đứng ngoài những sự tranh chấp của cuộc chiến tranh Việt Nam. Nguyên từ trước tới nay, quân đội Cam Bốt vẫn là những lực lượng yếu và không thể đối phó được với những lực lượng của Cộng Sản Bắc Việt bằng vũ lực. Vì thế, khi những lực lượng Bắc Việt đem quân vào chiếm đóng ở những khu vực Miền Đông Cam Bốt thì ông Sihanouk đã nhẫn nhịn làm lơ. Tuy thế, ông đã khôn khéo biểu lộ sự bất mãn của mình bằng cách cho phép Hoa Kỳ tự do dội B-52 vào những khu vực Bắc Việt chiếm đóng.

Vào cuối tháng 3 năm 1969, khi hoàng tử Sihanouk bị đảo chánh thì có lẽ vì không hiểu rõ được thực lực của Bắc Việt và cũng không thấy rõ được những ưu điểm trong tư thế trung lập của Cam Bốt nên Lon Nol đã cho lệnh quân đội hoàng gia Cam Bốt tấn công thẳng vào những căn cứ của Bắc Việt. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Lon Nol ra lệnh cho các lực lượng Cam Bốt tấn công vào căn cứ địa của Bắc Việt ở miền Đông Cam Bốt thì quân đội Miền Nam Việt Nam cũng bắt đầu tấn công vào các căn cứ của Bắc Việt dọc theo Cam Bốt. Quân đội Bắc Việt phản ứng bằng cách rút lui sâu vào những căn cứ ở phía Đông Bắc Cam Bốt. Rồi từ đó, thay vì trực tiếp chống trả với những cuộc tấn công của quân đội Miền Nam Việt Nam, những đơn vị Bắc Việt lại chuyển mũi dùi sang phía Tây và tấn công mãnh liệt vào những đội quân của Lon Nol. Chẳng những thế, Bắc Việt còn gia tăng huấn luyện những nhóm Khmer đỏ, nguyên là những toán du kích của Cam Bốt đang chống lại chánh quyền Cam Bốt lúc đó. Những toán du kích Cam Bốt này tuy nhỏ nhưng vô cùng hung hãn. Khi Bắc Việt tận lực né tránh các cuộc tấn công của quân lực VNCH và chuyển hướng tấn công sang mé Tây thì quân đội Cam Bốt lập tức phải chịu những áp lực quân sự nặng nề. Tuy quân đội Bắc Việt vẫn chưa đe dọa được Nam Vang nhưng những cuộc tấn công của phe Bắc Việt càng ngày càng lan rộng. Cứ theo đà tấn công ráo riết của Bắc Việt lúc đó thì rõ ràng là chánh phủ Cam Bốt đang cần viện trợ. Tuy thế ở Hoa Kỳ lúc này, hơn bao giờ hết, lại không phải là lúc để có thể dễ dàng xin viện trợ.

Sau nhiều tuần lễ Bắc Việt tấn công, tình trạng Cam Bốt càng ngày càng khó khăn. Cuối cùng, khi Bắc Việt phối hợp quân đội để tấn công thì Cam Bốt chỉ còn biết trông đợi viện trợ vào sự viện trợ của Hoa Kỳ. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1969, Tổng Thống Nixon ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ phối hợp với quân đội Miền Nam Việt Nam tấn công thẳng vào căn cứ và các đường tiếp vận của Bắc Việt. Khi ra lệnh tấn công, Tổng Thống Nixon nói rõ rằng quân Bắc Việt đang tập trung vào các căn cứ ở Cam Bốt. Nếu cứ để mặc cho Cộng Sản rảnh tay thì những nơi Bắc Việt đóng quân có thể trở thành "một cứ điểm ngày càng lớn rộng. Hơn nữa, Bắc Việt có thể dùng cứ điểm này làm đường tiếp vận để tấn công Miền Nam Việt Nam." Ông đề cập những hậu quả tai hại đối với quân đội Hoa Kỳ nếu Bắc Việt đánh bại quân đội Cam Bốt. Mới chỉ 10 ngày trước, ông đã nói rằng trong năm 1970 Hoa Kỳ sẽ rút 150,000 quân ra khỏi Việt Nam mà lúc này Tổng thống Nixon lại đi ngược lại lời tuyên bố mà ông đã đưa ra với dư luận. Tổng Thống Nixon nói rằng Hoa Kỳ phải hành động để "bảo vệ quân lính Hoa Kỳ đang đóng ở Việt Nam và giữ vững kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh." Hoa Kỳ chẳng thể nào khoanh tay trước "mũi dùi của cộng sản Bắc Việt".

Đã đành rằng khi Tổng Thống Nixon trực tiếp trình bày ý kiến với dân chúng Hoa Kỳ thì mục đích chính của cuộc nói chuyện là để thuyết phục dư luận, nhưng những nhận định mà ông đưa ra trong cuộc nói chuyện đó cũng rất chính xác. Viễn tượng cộng sản sẽ chiếm đóng suốt sáu trăm dặm dọc Cam Bốt và rồi từ đó tấn công thẳng vào Miền Nam Việt Nam đã khiến ngay cả những người lạc quan nhất cũng phải e ngại. Ngoài cách tấn công, Hoa Kỳ không còn cách nào khác để tránh biến trường hợp đó trở thành sự thật. Nếu Hoa Kỳ có thể tấn công một cách hữu hiệu vào những căn cứ của Bắc Việt ở Cam Bốt thì khả năng tấn công của Việt Cộng sẽ bị tê liệt trong một thời gian dài. Đây là một sự thật hiển nhiên khó có thể chối cãi được.

Nhiều kế hoạch gia của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đã cho rằng đáng nhẽ Hoa Kỳ nên chọn cách này từ lâu rồi. Họ cho là Hoa Kỳ nên áp dụng kế hoạch tấn công ngay từ khi Việt Cộng chuyển quân chiếm đóng các khu vực chiến lược của Cam Bốt. Từ trước đến nay, cộng sản vẫn cố lợi dụng các căn cứ địa và các đường tiếp vận "bất khả xâm phạm" để chiếm lấy tiên cơ của quân đội Việt Nam. Nếu đứng trên phương diện quân sự mà luận thì những cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Cam Bốt quả là những thắng lợi đáng kể, nhưng có lẽ vì tôi đã bị những khung cảnh chia rẽ nội bộ của Hoa Kỳ ám ảnh quá nặng nên sau khi nghe Tổng Thống Nixon trình bày ý kiến với dư luận, tôi không hề cảm thấy phấn khởi vì những lợi điểm của lời tuyên bố đó đối với cuộc chiến Việt Nam mà lại cảm thấy lo lắng vì những hậu quả của lời tuyên bố đó đối với các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ.

Cuộc tấn công phối hợp Mỹ, Việt bắt đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1969. Ngày 2 tháng 5 tôi gửi điện văn cho ông Thiệu để đệ trình những nhận xét đầu tiên của tôi vào lúc đó:
Thứ nhất. Quyết định của tổng thống Nixon [về việc ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ phối hợp với quân đội Việt Nam để tấn công ở Lào] đã khiến những nhóm phản chiến chống đối cực kỳ mãnh liệt. Lúc này hãy còn quá sớm nên chưa ai có thể biết được rồi đây những chống đối của những nhóm phản chiến sẽ ảnh hưởng tổng thống Nixon được đến mức nào. Trong khi đó thì sinh viên lại bắt đầu biểu tình trở lại. Có lẽ trong tuần tới thì mức độ chống đối còn gia tăng nhiều hơn.
Thứ hai. Trong khi phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ đối với quyết định của Tổng Thống Nixon vẫn chưa hoàn toàn rõ rệt thì hai tờ báo thiên tả lớn đã lên tiếng kết án hành động của tổng thống Nixon. Tờ New York Times gọi những lý do mà Tổng Thống Nixon đưa ra để kết luận Hoa Kỳ phải tấn công là những "ảo tưởng chính trị" chứ không phải là những lý do thực tế. Tờ Washington Post lên án rằng quyết định của Tổng Thống Johnson là một quyết định "sai lầm, và thiếu suy xét"


Thứ ba. Tất cả những người đang theo dõi tình hình chính trị ở Hoa Kỳ đều cho rằng quyết định của ông Nixon là một sự liều lĩnh khác thường trên phương diện chính trị và quân sự... Nếu nhìn dư luận của Hoa Kỳ lúc này qua quan niệm của một người đứng trong nội bộ Hoa Kỳ thì hiển nhiên là quyết định của tổng thống Nixon sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi vì rằng quyết định của ông chẳng những đã khiến những người trong đảng Cộng Hòa chia rẽ mà còn khơi lại những cuộc tranh luận sôi nổi đang trôi dần vào im lặng.

Sau khi Tổng Thống Nixon ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ tấn công thì ở Hoa Kỳ những "cuộc tranh luận sôi nổi" lại bùng ra khắp nơi trên đường phố, trong các khuôn viên đại học, trên báo chí cũng như trong quốc hội. Tin tức về diễn hành chống đối, biểu tình và tố cáo đầy nghẹt xen lẫn với những bài tường trình tình hình chiến sự. Tình trạng mâu thuẫn của những mục đả kích đã làm xôn xao dư luận Hoa Kỳ và khiến cho tình trạng chống đối càng ngày càng dữ dội. Ở Ohio, chánh phủ đã phái Vệ Quốc binh đến giữ trật tự trực diện với những người chống đối. Tại đại học Kent State, Vệ Quốc binh đã nổ súng vào một đám sinh viên. Bốn thanh niên bị thiệt mạng. Ngay ngày hôm sau, khắp toàn quốc đều sôi sục. Tôi điện cho ông Thiệu rằng: "Bầu không khí ở Hoa Thịnh Đốn đang nặng nề vì những cuộc tranh luận sôi nổi bên trong quốc hội, vì những dự định của các nhóm biểu tình, dự định của các nhóm sinh viên và dự định của các đoàn thể phản chiến. Tin tức loan báo suốt ngày về chiến tranh ở Cam Bốt và những cuộc biểu tình đang xảy ra ở Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ có lẽ khó ai có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào bầu không khí sôi sục của dư luận lúc này."

Vào thứ bảy ngày 9 tháng 5 năm 1969, 100,000 người chống đối tụ tập tại một công viên phía sau tòa Bạch Ốc; Cảnh sát dùng xe buýt để dàn thành một hàng rào nhằm ngăn chận những người biểu tình. Cảnh tượng trông chẳng khác nào chính tổng thống Nixon đang bị bao vây. Những nhân viên được tôi phái đi xem xét tình hình vô cùng ngạc nhiên khi thấy số người tham gia vào các cuộc biểu tình và sự phẫn nộ của những nhóm phản chiến khi họ biểu tình.

Đúng ngay vào lúc dư luận Hoa Kỳ đang xôn xao vì các cuộc biểu tình thì ông Ellsworth Bunker trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến. Nhân dịp này ông Bunker, ông Sullivan và ông Phillip Habib cũng kể cho tôi nghe những trận giao tranh của quân đội Việt Nam và Hoa Kỳ ở Cam Bốt. Họ nói rõ thời gian tấn công mà họ tiên liệu và những mục đích quân sự của Hoa Kỳ. Tuy những tin tức này có vẻ lạc quan, tôi vẫn chẳng thể nào quên được những cuộc biểu tình tôi thấy khi nhìn qua khung cửa sổ của tòa đại sứ hoặc những cuộc biểu tình tôi theo dõi trên Ti Vi hàng đêm. Nhìn những cuộc biểu tình đang xảy ra ở khắp mọi nơi, tôi có cảm tưởng rằng tất cả những nỗ lực trấn an dư luận của Tổng thống Nixon như Tuyên Bố Rút Quân, Việt Nam Hóa Chiến Tranh, kêu gọi " Đa số trầm lặng" dường như đều vô hiệu. Có lẽ khi áp dụng kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh, chính quyền Nixon đã vô tình kích thích sự thiếu kiên nhẫn của dân chúng Hoa Kỳ. Lúc này chánh phủ Hoa Kỳ đang ra công tìm một giải pháp khác. Dĩ nhiên, khi Tổng Thống Nixon và ông Kissinger cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công, thì trên phương diện quân sự họ đã chiếm được phần nào tiên cơ. Cuộc tấn công quả đã khiến Bắc Việt phải mất khoảng một năm để thiết lập lại căn cứ địa. Nhưng vì họ đã quyết định quá gấp rút và đã quyết định bất kể những chỉ trích của dư luận nên họ đã phạm phải một lỗi lầm quan trọng. Từ sau quyết định tấn công của họ trở đi, họ không còn được dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ. Trong các bản tường trình hàng ngày gửi về Sài Gòn tôi đã trình bày tất cả các diễn biến ở Hoa Kỳ thật chi tiết và khi tình trạng sôi sục ở Hoa Thịnh Đốn vừa mới giảm xuống đôi phần thì tôi yêu cầu được về Sài Gòn để có thể đích thân tường trình mọi việc.

Tôi đến Sài Gòn vào ngày 1 tháng 7. Vừa về đến nơi tôi đã tổ chức ngay những buổi tường trình cho các ủy ban lập pháp, hành pháp và đến họp riêng với ông Thiệu rất nhiều lần. Trong những buổi họp đó, tôi lại bắt đầu đề cập những đề tài mà tôi đã đưa ra với ông Thiệu không biết bao nhiêu lần rồi. Tôi nhấn mạnh ảnh hưởng của các phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ và cố nêu rõ những ảnh hưởng của dư luận Hoa Kỳ. Tôi nói rằng chánh phủ Việt Nam cần cải cách và đưa ra cả những đề nghị thiết thực trên phương diện này. Tuy trong các buổi tường trình với chánh phủ Việt Nam và với ông Thiệu, tôi biết mình đã nhiều lần lập lại vấn đề, nhưng tôi vẫn chẳng thể làm gì khác hơn. Và lần này, tôi lại nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng chánh quyền Việt Nam phải thấy rằng Việt Nam chưa thể đứng vững nếu không có sự viện trợ của Hoa Kỳ. Tôi nêu rõ vấn đề Hoa Kỳ có viện trợ cho Việt Nam hay không hoàn toàn tùy thuộc vào quốc hội Hoa Kỳ. Và đã hẳn là quốc hội Hoa Kỳ sẽ quyết định dựa vào ý kiến của dư luận Hoa Kỳ. Điều đáng lo là lúc này dư luận của Hoa Kỳ lại đang chỉ trích cuộc chiến Việt Nam. Tuy từ trước tới nay, tổng thống Nixon quả có thuyết phục được dư luận một phần, nhưng lần này ông đã bị dư luận chỉ trích dữ dội khi ông quyết định cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt ở Cam Bốt. Từ nay về sau, Tổng Thống Nixon sẽ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn mới có thể hy vọng lật ngược được thế cờ. Vì chính phủ Nixon đang gặp khó khăn như vậy nên tôi cho rằng Việt Nam cần phải cải cách chánh quyền, bài trừ nạn tham nhũng và thiếu khả năng trong chánh phủ để gây ấn tượng tốt với dư luận Hoa Kỳ. Tôi cho rằng Việt Nam cần thay đổi chẳng những chỉ xoa dịu bớt những chỉ trích của dư luận Hoa Kỳ mà còn để cải tiến chánh phủ. Những nạn hối lộ và chính trị bè cánh đã khiến cả chánh phủ lẫn quân đội của Việt Nam trở nên suy yếu. Nếu chánh phủ Việt Nam không tìm cách đưa những người có khả năng vào làm việc thì chẳng bao lâu nữa toàn thể guồng máy chính quyền sẽ lụn bại.

Trong những năm về trước, tôi đã nhiều lần thảo luận vấn đề Việt Nam cần phải xây dựng lại chánh phủ Việt Nam với đại sứ Bunker. Vì chúng tôi đã cùng thảo luận vấn đề này không biết bao nhiêu lần rồi nên quan niệm của cả hai chúng tôi gần giống hệt nhau. Đại sứ Bunker thường bảo tôi phải nói rõ vấn đề cần phải xây dựng lại chính phủ với ông Thiệu. Lần này, khi tôi đến gặp ông thì ông Bunker cũng nói rằng tôi nên tìm cách trực tiếp đặt vấn đề với ông Thiệu. Ông Bunker bảo tôi rằng: "Anh phải nói rõ cho ông Thiệu biết rằng ông ấy cần phải có những biện pháp để cải thiện tình hình trong nước và để gây ấn tượng tốt với dư luận Hoa Thịnh Đốn. Đây là điều kiện tiên quyết phải có để viện trợ có thể được tiếp tục." Dĩ nhiên là tôi đồng ý với những ý kiến của đại sứ Bunker. Tôi chỉ không đồng quan điểm với ông Bunker về cách phải trình bày thế nào để cho một người đa nghi và ngoan cố như ông Thiệu thật sự hiểu rõ được tầm mức quan trọng của vấn đề?

Trước đây, khi dư luận Hoa Kỳ lên tiếng chỉ trích sự tham nhũng của chánh phủ Việt Nam, ông Bunker đã cho lệnh các nhân viên của ông ngấm ngầm điều tra những nhân viên của chánh phủ Việt Nam ở các quận. Qua những cuộc điều tra đó, ông đã thu thập được rất nhiều bằng cớ cụ thể về vấn đề tham nhũng của đa số các nhân viên Việt Nam. Ông lên án rằng tệ nạn tham nhũng đang đầy dẫy trong chính quyền ông Thiệu. Và vào lúc này, khi chúng tôi đang cùng nhau tìm cách để giải quyết vấn đề thì ông Bunker đã cho tôi xem hồ sơ của những nhân viên hối lộ. Đại sứ Bunker nói rằng chính ông đã nói chuyện với ông Thiệu về tệ nạn tham nhũng. Và giờ đây ông muốn chính tôi phải đưa những hồ sơ điều tra của ông cho ông Thiệu.

Đây là một trong những lần tôi thực sự nổi nóng với đại sứ Bunker. Tôi bảo ông rằng: "Ông Ellsworth à, tôi sẽ nói chuyện với ông Thiệu và trong các cuộc họp riêng với ông Thiệu trước đây tôi cũng đã nhiều lần đề cập vấn đề này. Nhưng nếu cần phải làm áp lực với ông Thiệu thì chính ông mới là nhân vật chính. Vì ông là đại sứ của Hoa Kỳ nên chỉ có ông mới có thể trực tiếp ảnh hưởng ông Thiệu." Đại sứ Bunker vốn là người tế nhị. Lúc nào ông cũng trình bày vấn đề thật là nhẹ nhàng, kín đáo. Tôi có thể đoán trước được những phản ứng của ông khi ông đến gặp ông Thiệu. Cá tính tế nhị bẩm sinh của đại sứ Bunker đã khiến ông khó thể trực tiếp đề cập thẳng đến vấn đề chính một cách rõ ràng. Ngay cả khi ông bàn luận về vấn đề cải cách với ông Thiệu mà ông Bunker cũng vẫn cả nể và không nói hết những suy nghĩ của mình.

Phương pháp đặt vấn đề nhẹ nhàng của ông Bunker đối với ông Thiệu đã hơn một lần làm tôi khó nghĩ. Hơn ai hết, tôi biết rõ sự quan hệ gần gũi giữa ông Thiệu và ông Bunker. Tôi biết rằng trong tất cả các đại sứ Hoa Kỳ mà ông Thiệu đã từng giao thiệp thì ông Thiệu có thiện cảm với ông Bunker nhiều nhất. Trước đây, trong suốt thời gian ông Lodge làm đại sứ ở Việt Nam, ông Thiệu lúc nào cũng nghi ngờ ông Lodge và sau này, khi đại sứ Bunker về nước thì ông Thiệu lại chưa bao giờ có dịp tiếp xúc nhiều để biết rõ đại sứ Martin. Nhưng đối với ông Bunker thì sự liên hệ của ông Bunker đối với ông Thiệu lại khác hẳn. Trước đây, trong thời gian ông Thiệu vừa mới nhậm chức, ông Bunker đã tận tình giúp đỡ ông. Lúc đó, ông Thiệu vẫn chưa được nhiều người ủng hộ. Sự ủng hộ của ông Bunker đã làm gia tăng uy tín của ông Thiệu trong chánh phủ. Chính vì thế nên ông Thiệu rất biết ơn ông Bunker. Ông Bunker đã được ông Thiệu tin tưởng lại còn được quyền tự do ra vào dinh độc lập. Vì vậy tôi cho rằng ông Bunker có thể thuyết phục được ông Thiệu về vấn đề cần phải có cải cách. Tuy thế, cách can thiệp của ông Bunker lại quá lịch sự, quá nhẹ nhàng và vì thế lại không ảnh hưởng gì được ông Thiệu cả. Ít ra thì đây cũng là quan niệm riêng của tôi.

Riêng ông Thiệu thì dĩ nhiên chẳng bao giờ từ chối điều gì. Lúc nào ông Thiệu cũng đồng ý, thỏa thuận và hứa hẹn rồi sau đó đợi chờ xem mọi sự đưa đẩy đến đâu. Nếu cảm thấy Hoa Kỳ không làm áp lực mạnh mẽ, ông Thiệu sẽ dần dà bỏ mặc để cho vấn đề theo thời gian mà biến đi hoặc mất tính chất khẩn thiết vì nhiều vấn đề khác dồn đến khuất lấp mọi việc. Tính chần chừ bẩm sinh của ông Thiệu quả là một ngón đòn hữu hiệu đối với phương pháp nhẹ nhàng cả nể của đại sứ Bunker. Đã có lần tôi nghĩ đến lời của Bộ Trưởng Quốc Phòng Clark Clifford nói với tôi sau Tết Mậu Thân, lúc tôi đến chào ông để trở về Sài Gòn. Ông Clifford đã nói dằn từng chữ một: "Chúng tôi chán đến tận cổ rồi... Nhân dân Hoa Kỳ đã quá mệt mỏi và sự ủng hộ của chúng tôi chỉ có giới hạn mà thôi!" Đây là một câu nói thẳng không cần dùng những danh từ ngoại giao hoa mỹ. Lần đó, câu nói của ông Clifford đã khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Tuy thế đây quả là một phương pháp hữu hiệu. Đã hơn một lần tôi mong mỏi đại sứ Bunker dùng phương pháp này với ông Thiệu.

Nhưng thực sự thì những vấn đề khó khăn không phải chỉ do cách làm việc của ông Bunker. Tuy lúc nào ông cũng nhẹ nhàng, đại sứ Bunker vẫn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp lão thành có thừa khả năng để trình bày những chính sách của chánh phủ Hoa Kỳ. Vấn đề khó khăn thực sự là do từ trước đến nay các chánh sách của Hoa Kỳ chưa hề đặt nặng vấn đề phải bài trừ tham nhũng và xây dựng một chánh phủ dân chủ ở Việt Nam. Điều này đã rõ rệt kể từ trước cả khi ông Kissinger nắm quyền. Kể từ khi Hoa Kỳ can thiệp, các chính sách của Hoa Kỳ đã không chú trọng đến vấn đề phải cải thiện để xây dựng một chánh phủ dân chủ ở Việt Nam. Vì vậy những nỗ lực của Hoa Kỳ trong vấn đề này nếu có đi chăng nữa thì cũng chỉ là những nỗ lực của từng cá nhân. Vì thế, khi thấy rằng chính phủ Việt Nam cần phải cải tổ, đại sứ Bunker đã xoay sở bằng những phương pháp cá nhân. Ông đã cố đối phó với vấn đề cải thiện chính phủ Việt Nam một mình chẳng khác gì đại sứ Lodge lúc trước hay đại sứ Graham Martin vào lúc sau này.

Thật ra, nếu nói rằng Hoa Kỳ hoàn toàn bỏ qua vấn đề cải tổ thì cũng không đúng hẳn. Cả hai ông Rogers cùng Sullivan đều có để ý và thỉnh thoảng cũng có nêu lên vấn đề. Ông Kissinger cũng thế. Nhưng vấn đề chính lúc nào cũng nhằm vào những đề tài khác hẳn nếu không phải là đàm phán thì cũng là các sách lược quân sự hoặc ngoại giao với các đại cường quốc. Nói chung thì thái độ của các chánh phủ Hoa Kỳ đối với vấn đề nội bộ của chánh phủ Việt Nam gần giống hệt nhau. Vì họ thấy rằng tình trạng Việt Nam đã tạm ổn định hơn khi ông Thiệu lên nắm quyền nên khi cần phải dò dẫm hoặc làm áp lực mạnh với Việt Nam Hoa Kỳ lại đâm ra do dự. Thay vì chú tâm vào những vấn đề chính của chánh phủ Việt Nam thì họ lại chỉ chú trọng vào những sự an toàn hời hợt ngoài mặt. Có thể họ cho rằng vấn đề xây dựng dân chủ không cần thiết hoặc chẳng có mục đích gì thiết thực. Có lẽ vì họ phải bận tâm đeo đuổi những mục tiêu khác to lớn hơn nên chánh phủ Hoa Kỳ, nhất là chính quyền Nixon, chưa hề biết rõ rằng sự ổn định ngoài mặt của Việt Nam chẳng qua chỉ là một bức màn giả dối che đậy toàn thể những gì mong manh gần đổ vỡ phía dưới. Như thế, tầng lớp lãnh đạo cao nhất của Hoa Kỳ đã không nhìn rõ được thực trạng của đồng minh. Hơn nữa, khi đã tìm hiểu được rõ ràng về thực trạng của đồng minh thì họ lại bỏ qua, không hành động kịp thời. Trong suốt thời gian Hoa Kỳ can thiệp, họ vẫn chỉ nghĩ rằng ảnh hưởng của những vấn đề như vấn đề cải thiện để xây dựng một chính phủ dân chủ ở Việt Nam chỉ là một vấn đề thứ yếu. Phải đợi đến giai đoạn thử thách của họ và của Việt Nam vào năm 1975 họ mới nhận định được đúng tầm mức nguy hiểm của các chính sách can thiệp của họ trong suốt hai thập niên.

Vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1969, sau khi tôi trở về Sài Gòn được ba ngày thì Ngoại trưởng Rogers cùng đại sứ Sullivan cũng tới Sài Gòn để tiếp xúc với chính phủ Việt Nam. Đề tài chính của họ là đàm phán. Ông Rogers cho rằng đây là lúc Hoa Kỳ và Sài Gòn phải có sáng kiến và tìm cách mở lối cho Bắc Việt dễ dàng đàm phán. Lúc này, ông David K. E. Bruce được cử làm trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ ở Ba Lê để thay thế cho ông Lodge (Ông Lodge đã từ chức từ tháng 10 trước đây và cho đến ngày đó vẫn chưa được thay thế.) Ông Bruce là một nhà Ngoại giao lão thành đứng tuổi và rất được kính trọng. Vì ông đã chấp nhận làm trưởng phái đoàn nên mọi người đều cho rằng có lẽ sẽ có nhiều điều mới lạ trong cuộc đàm phán.

Thật ra thì làm gì có điều gì mới lạ. Vào thời gian này những cuộc đàm phán bí mật giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt đã bắt đầu, tuy lúc đó tôi vẫn chưa biết gì cả. Trừ một vài người ra thì tất cả đều mù tịt về những cuộc đàm phán bí mật, kể cả Ngoại trưởng Rogers. Trên thực tế thì vào năm 1969 ông Kissinger đã nhiều lần gặp gỡ và ngấm ngầm đàm phán với các đại diện Bắc Việt. Trong những cuộc đàm phán bí mật đó, ông Kissinger hy vọng rằng ông sẽ tạo được những thành quả khác hơn những bế tắc của các cuộc đàm phán bốn bên đang diễn ra công khai ở Ba Lê. Nếu nhìn lại các kết quả đàm phán kể từ năm 1968, khi Bắc Việt hưởng ứng lời mời đàm phán của tổng thống Johnson cho tới tháng 7 năm 1969 thì cả hai bên vẫn chưa đạt được bất kỳ kết quả nào. Ngay cả đến đàm phán bí mật cũng lại chẳng khác gì đàm phán công khai, vẫn hoàn toàn bế tắc. Vào mùa hạ năm 1970, khi Hoa Kỳ tấn công vào Cam Bốt thì cuộc đàm phán lại bị đình trệ vì hai bên còn đang lượng định tình hình của các lực lượng quân sự sau cuộc tấn công. Đàm phán bí mật được dự trù tiếp tục vào tháng chín, vẫn bí mật với tất cả trừ những người trong cuộc. Dĩ nhiên ông Thiệu cũng biết việc đàm phán bí mật. Nhưng về sau ông thố lộ rằng ông không được thông báo tường tận chi tiết những trao đổi giữa Kissinger, Xuân Thủy và Lê Đức Thọ.

Riêng tôi thì vẫn không mảy may hay biết gì về các cuộc đàm phán bí mật. Vào ngày 30 tháng 7, tôi rời Sài Gòn về Hoa Thịnh Đốn, trên đường bay tôi ghé Ba Lê để gặp ông Kỳ, lúc này ông Kỳ đang theo dõi cuộc đàm phán chính thức ở Ba Lê. Trong thời gian này, vì không có việc gì quan trọng ở Sài Gòn nên ông Thiệu đã gửi ông Kỳ sang Ba Lê. Khi gửi ông Kỳ đi, có lẽ ông Thiệu cho rằng nếu ông Kỳ được rảnh tay thì nên để ông Kỳ rảnh tay ở Ba Lê hơn là ở Việt Nam. Mặt khác, nếu có chuyện gì không hay xảy ra ở Ba Lê thì ông Kỳ sẽ chịu lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Cách vận động của ông Thiệu lúc này khó thể gọi là trung thực nhưng vì vô tâm nên ông Kỳ vẫn lên đường sang Ba Lê không chút đắn đo. Nhân dịp tôi ghé Ba Lê, trong một bữa ăn trưa với ông Philip Habib, tôi đã hỏi ông về tình trạng cuộc đàm phán. Có lẽ ông Habib cũng biết về những cuộc đàm phán bí mật, nhưng vì chưa tiện tiết lộ nên ông cũng không nói gì hơn với tôi là chưa có gì mới lạ cả.

Vào tháng 9 năm 1969, vì chẳng có biến cố nào đáng chú tâm trong các cuộc đàm phán ở Ba Lê và cũng chẳng có triệu chứng gì cho thấy sẽ có biến cố nào quan trọng sắp sửa xảy ra trong tương lai, ông Kỳ bắt đầu cảm thấy chán Ba Lê. Đằu tháng 9, ông Kỳ điện thoại nhờ tôi thu xếp cho ông sang thăm Hoa Kỳ vào đầu tháng 10. Ông nói rằng ông đã nhận được thư mời của tu sĩ Carl McIntire sang thăm Hoa Kỳ. Tu sĩ McIntire lúc này đang tổ chức một cuộc diễn hành gọi là "Diễn Hành Cho Chiến Thắng." Ông Kỳ có ý muốn nhận lời mời.

Tôi chưa hề nghe đến tên McIntire bao giờ nhưng khi tìm hiểu tôi thấy rằng tu sĩ McIntire là một nhân vật cực đoan, đang lãnh đạo một tổ chức cực hữu. Gần như ngay sau đó, tôi bắt đầu được các nhân viên Hoa Kỳ cho ý kiến dồn dập. Trước hết là ý kiến của ông Kissinger, sau đó là lời khuyên của các ông Rogers, Sullivan và Green, cuối cùng là ý kiến của tất cả những người được nghe chuyện ông Kỳ. Tất cả đều cho rằng chuyện ông Kỳ sang Hoa Kỳ lúc này là chuyện không nên. Nếu ông Kỳ đến viếng thăm Hoa Kỳ dưới sự bảo trợ của tu sĩ McIntire thì phe phản chiến sẽ chống đối cực kỳ mãnh liệt. Mà cuộc viếng thăm của ông Kỳ cũng chẳng mang lại lợi ích gì thiết thực (Họ không nói thẳng điều này) cho cuộc bầu cử sắp tới của chánh phủ.

Tôi không hiểu tại sao ông Kỳ lại chấp thuận lời mời của tu sĩ McIntire. Chẳng những tôi đã biết chắc rằng ông Kỳ không hề biết gì về tu sĩ McIntire tôi còn biết rõ rằng Việt Nam không nên cộng tác với những đoàn thể cực hữu. Tôi viết cho ông Kỳ bằng những lời lẽ cẩn trọng nhưng thật cứng rắn, khuyên ông rằng đây "không phải là lúc" ông nên nhận lời.

Ông Kỳ trả lời bằng cách mời tôi đến Ba Lê để sửa soạn cho cuộc họp của ông với ông Kissinger và ông David Bruce vào cuối tháng 9. Tôi đến Ba Lê lòng nhủ thầm rằng việc này diễn ra tuy chẳng hợp ý ông Kỳ nhưng việc tôi đến Ba Lê thật sự đáng mừng hơn việc ông Kỳ sang Hoa Thịnh Đốn rất nhiều. Vào cuối tháng 7, tôi và ông Kỳ đến họp với ông Kissinger, ông Bruce, ông Habib và một phụ tá đắc lực của ông Kissinger là ông Dick Smyser. Cuộc họp diễn ra tại tư thất của ông Kỳ gần Bois de Boulogne và chẳng có mục đích gì thiết thực. Trong suốt buổi họp chúng tôi chỉ bàn luận những vấn đề tổng quát chẳng hạn như phái đoàn Việt Nam và Hoa Kỳ phải có sáng kiến nhằm mục đích đẩy mạnh cuộc đàm phán. Lúc này, tôi lấy làm lạ không hiểu vì sao tôi lại được triệu đến Ba Lê chỉ để họp bàn về những chuyện chung chung chẳng đâu vào đâu như vậy. Sau này, khi tôi khám phá ra rằng Kissinger đã bí mật hẹn với Xuân Thủy vào ngày hôm sau để bàn luận chi tiết những điều Hoa Kỳ đưa ra từ nhiều tháng trước thì mọi sự trở nên sáng tỏ. Tôi và ông Kỳ chỉ là một phần của bức màn che đậy. Ngay cả khi đã nhìn lại vấn đề mà tôi vẫn còn kinh ngạc vì thủ đoạn của ông Kissinger có thế khéo léo đến độ vừa vờ vĩnh nói chuyện không đâu với phó tổng thống Việt Nam lại vừa dùng cuộc nói chuyện này làm bức bình phong che đậy những cuộc đàm phán bí mật với Cộng Sản. Dĩ nhiên đây là kiệt tác độc đáo của một nhân vật đặc biệt, một thành tích diễn xuất mà người Pháp gọi là theatre de fantome. Tuy thế kế hoạch của ông Kissinger vẫn chưa được tính toán kỹ lưỡng tới mức toàn hảo. Vì rằng một khi đàm phán bí mật bị phơi bày trước dư luận thì ông Kissinger đã làm mất hết sự tin tưởng của cả đồng nghiệp lẫn đồng minh.

Chỉ có một điểm lạc quan trong cuộc họp ngày 26 tháng 9 là sau buổi họp ông Kỳ đã bỏ ý định đến Hoa Kỳ để tham dự buổi Diễn Hành cho Chiến Thắng. Tuy thế, câu chuyện cũng chưa hẳn kết thúc ngay. Ngày 27-9, khi tôi về đến Hoa Thịnh Đốn thì có điện thoại của ông Kỳ. Dĩ nhiên tự ái của ông Kỳ đã bị tổn thương phần nào. Chưa nói đến vấn đề ông không hề hay biết gì về việc đàm phán bí mật của ông Kissinger! Rồi vào ngày mùng 2 tháng 10, tôi nghe tin rằng tuy ông Kỳ không đến Mỹ, ông sẽ gửi bà Kỳ đi thay. Câu chuyện đẩy đưa đã phá tan sự kiên nhẫn của tôi. Trong cuộc nói chuyện trên điện thoại với ông Kỳ ngay sau đó tôi đã trả lời một cách dứt khoát rằng: "Không được! Không thể nào có thể như vậy được!" Ngay hôm sau báo chí loan báo rằng vì "Trục trặc kỹ thuật" bà Kỳ không thể đến dự buổi diễn hành.

Nếu vào tháng chín ở Hoa Thịnh Đốn và Ba Lê chẳng có biến chuyển gì mới lạ thì ở Sài Gòn việc lại hoàn toàn khác hẳn. Tháng chín là tháng bầu cử bán phần thượng nghị sĩ cho quốc hội Việt Nam. Bầu không khí Sài Gòn thật là nhộn nhịp vì những cuộc tranh cử của các ứng cử viên và các danh sách tranh cử. Một trong những vấn đề đáng chú ý nhất là sự xuất hiện của nhiều đoàn thể đã tạo nên nhiều khối phiếu khác nhau. Và những khối phiếu này lại ủng hộ những ứng cử viên hoàn toàn khác biệt. Một số ủng hộ tướng Trần Văn Đôn, người đảo chánh ông Diệm và sau đó ra khỏi quân đội để theo đuổi chính trị. Một số khác ủng hộ ông Võ Văn Mẫu, Ngoại Trưởng dưới thời ông Diệm; lại có cả một liên danh của các ứng cử viên Phật Giáo. Trong số ứng cử viên có rất nhiều người từ các nhóm đối lập, người ngoại cuộc có thể thấy những thành phần quốc gia trước kia hoạt động bí mật chẳng hạn như những người quốc gia trong các đảng Đại Việt, VNQĐD cũng đã bắt đầu bước vào hàng ngũ của những đoàn thể tranh cử công khai lúc này. Nói chung thì mọi người đều cho rằng đây là một cuộc bầu cử công bằng và có tính cách dân chủ.

Tuy báo chí Hoa Kỳ không hề đề cập gì nhiều về các cuộc bầu cử bán phần ở Việt Nam, những cuộc bầu cử này vẫn là những bước tiến đáng kể. Sau bầu cử năm 1969, Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên con đường dân chủ như đã đề ra trong bản hiến pháp năm 1967. Những thay đổi chính trị trong chế độ Việt Nam được thể hiện rõ ràng qua những thành quả kể từ mùa xuân năm 1966. Vào năm 1966, cả ông Thiệu lẫn ông Kỳ đều là những người lãnh đạo quân sự, nắm quyền chẳng kể gì đến hiến pháp. Vào thời gian đó thì những người ủng hộ ông Thích Trí Quang và tướng Nguyễn Chánh Thi không hề ngần ngại nếu họ thấy phải cần dùng đến vũ khí để chống đối chánh quyền. Thế mà giờ đây, dù gì đi nữa thì ông Thiệu cũng là một vị tổng thống hợp hiến. Hơn nữa, dưới chánh quyền ông, những người đối lập chẳng hạn như những người trong đoàn thể Phật Giáo đang được quyền tranh cử. Nếu đây không phải là dân chủ nhìn theo đôi mắt của Hoa Thịnh Đốn thì ít ra đây cũng là một bước tiến đáng kể so với tình trạng trước đây. Khi đem so sánh chính phủ Việt Nam và chánh phủ Bắc Việt -Một chánh phủ mà nhiều người phản chiến, thiên tả và nhiều Thượng Nghị Sĩ "chuộng hòa bình" khác trong quốc hội Hoa Kỳ vẫn cho là tốt đẹp hơn- thì chẳng ai có thể lầm lẫn được những điểm khác biệt trong chế độ dân chủ của Miền Nam Việt Nam với một chế độ áp bức và giáo điều như chế độ Cộng Sản của Bắc Việt.

Vào ngày mùng 7 tháng 10, tổng thống Nixon lại lên đài truyền hình để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ ông. Nếu trước đây ông đã khiến dư luận phải phẫn khích khi quyết định cho lệnh quân đội Hoa Kỳ tấn công ở Cam Bốt thì giờ đây ông có vẻ ôn hòa hơn. Ông đưa ra một đề nghị hòa bình bao gồm cả vấn đề ngưng bắn trên toàn cõi Đông Dương, vấn đề đem lại hòa bình cho tất cả mọi khu vực, vấn đề đơn phương rút quân của Hoa Kỳ và một kế hoạch ổn định tình hình chính trị ở Việt Nam phản ảnh đúng "hiện trạng của các lực lượng chính trị ở Việt Nam."

Điều khoản cuối cùng làm tôi lo lắng vì rằng lời tuyên bố hình như muốn ám chỉ việc Hoa Kỳ có thể sẽ chiều theo dư luận để ép buộc chính phủ Việt Nam phải chấp nhận những điều bất lợi. Nhưng tầm quan trọng thực sự của vấn đề là việc Hoa Kỳ đã công khai nêu lên nguyên tắc tự mình đơn phương rút quân. Họ đã kín đáo từ bỏ những đòi hỏi yêu cầu nếu Hoa Kỳ rút quân thì Bắc Việt cũng phải rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Đây là một thay đổi quan trọng của chánh sách Hoa Kỳ cho thấy chính sách đánh và đàm của Bắc Việt đã mang lại ít nhiều kết quả hữu hiệu trong việc bắt buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trước đây Hoa Kỳ đã đòi hỏi Bắc Việt phải rút quân sáu tháng trước khi Hoa Kỳ bắt đầu rút quân. Một thời gian sau đó, thì Hoa Kỳ nhượng bộ và chỉ đòi hỏi Bắc Việt phải rút quân cùng lúc với quân đội Hoa Kỳ và vào lúc này thì Hoa Kỳ tự động rút quân đơn phương mà chẳng cần đòi hỏi điều kiện gì từ Bắc Việt cả.

Một thời gian ngắn sau khi tổng thống Nixon nói chuyện trên đài truyền hình thì tôi lại nhận được điện thoại của ông Kỳ cho biết ông sẽ sang Hoa Kỳ vào ngày 15 tháng 10. Lần này chuyến đi của ông Kỳ không còn dính dáng gì đến ông McIntire. Cuộc bầu cử bán phần ở Hoa Kỳ cũng vừa chấm dứt. Đây là một thời gian an toàn hơn lúc trước. Tôi lập tức đến Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để chuẩn bị cho chuyến đi của ông Kỳ. Chẳng bao lâu sau một chương trình nghị sự chi tiết đã được soạn thảo. Chương trình viếng thăm của ông Kỳ bao gồm các cuộc họp với tổng thống Nixon và ông Kissinger, những cuộc gặp gỡ với Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia và một cuộc gặp gỡ khác với Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện. Những chuyện đáng nhớ nhất của lúc đó bao gồm cả chuyến thăm viếng nông trại của cựu Tổng Thống Johnson, bữa tiệc tiếp tân của Phó Tổng Thống Spiro Agnew tổ chức và buổi gặp gỡ với Thống Đốc Tiểu Bang California lúc bấy giờ là ông Ronald Reagan.

Vào ngày 24, Tổng Thống Nixon mời chúng tôi họp cuộc họp đầu tiên trong một bữa điểm tâm cùng với các ông Kissinger, Sullivan và Holridge. Phần nhiều thời giờ của buổi họp đó được dành vào việc duyệt lại tình hình. Ông Kỳ đưa ra những vấn đề khó khăn kinh tế nếu Hoa Kỳ rút quân. Đặc biệt là những khó khăn của các quân nhân và các công chức. Ông Kỳ cũng bàn luận tổng quát về những khó khăn trong tương lai.

Riêng về vấn đề chính trị thì ông Kỳ có nói rằng chính ông và ông Thiệu đã bàn luận vấn đề sửa đổi hiến pháp để thay đổi guồng máy chính quyền Sài Gòn. Khi ông Kỳ bắt đầu đưa vấn đề này ra thì Tổng Thống Nixon ngồi thẳng người dậy (cả tôi cũng thế) và tỏ vẻ vô cùng chú tâm. Ông hỏi thêm ông Kỳ về những cuộc bầu cử vào tháng 9 sắp tới: "Thế còn việc bầu cử năm 71 thì sao?" Tuy Tổng Thống Nixon tỏ ý hoan nghênh tất cả những hoạt động dân chủ của Việt Nam, ông cũng khuyên Việt Nam không nên có hành động nào phương hại đến sự ổn định của chánh phủ. Ông nói rằng nếu nhìn bằng con mắt của một người làm chính trị, ông đã thấy rõ ràng trong cuộc bầu cử năm 1971 ở Việt Nam sẽ có nhiều ứng cử viên khác biệt ra tranh cử. Tuy thế ông vẫn hy vọng là những cuộc bầu cử sắp tới sẽ không làm Việt Nam xáo trộn và mất ổn định. Rồi quay sang phía tôi, tổng thống Nixon nói tiếp: "Ông đại sứ Diễm đây cũng đồng ý rằng nếu chúng ta làm bất cứ việc gì khiến Việt Nam trở nên mất ổn định thì vấn đề viện trợ cho Việt Nam quả không thể nào thực hiện được." Ông Kỳ đã hiểu rõ những sự cảnh cáo ngấm ngầm trong câu nói của Tổng Thống Nixon và đáp lời rằng: Chắc chắn cuộc bầu cử sẽ diễn ra vô cùng êm đẹp. Nếu cần ông Kỳ có thể bỏ hết quyền lợi cá nhân để bảo đảm cuộc bầu cử được thành công.

Tổng Thống Nixon vừa dứt lời thì giờ điểm tâm cũng chấm dứt. Sau khi mọi người chia tay, ông Kissinger mời tôi và ông Kỳ cùng đến văn phòng của ông để tiếp tục thảo luận. Cũng như Tổng Thống Nixon, ông Kissinger hết sức quan tâm đến vấn đề chánh phủ Việt Nam có thể có những quyết định táo bạo trên phương diện chính trị. Ông Kissinger khuyên rằng những quyết định táo bạo của Việt Nam có thể sẽ làm chậm đi cuộc bầu cử và " làm suy nhược cơ cấu luật pháp căn bản của Việt Nam." Có lẽ ông Kỳ không khỏi buồn cười khi những lời phát biểu tùy hứng của ông lại làm cho những người lãnh đạo Hoa Kỳ lo âu đến thế, ông Kỳ nói thêm rằng: "Nói cho cùng thì đây cũng chỉ mới là một ý định thế thôi chứ thực sự ông Thiệu và tôi cũng chưa hề cùng nhau thỏa thuận điều gì." Khi đã bình tĩnh hơn, ông Kissinger tỏ vẻ hài lòng và nói rằng tuy chánh phủ Việt Nam nên có giải pháp mới để cải thiện, giới lãnh đạo Việt Nam cũng nên tìm cách để giữ cho Việt Nam hoạt động ở một mức tương đối ổn định. Ông đề nghị rằng chánh phủ Việt Nam nên tránh tất cả những hành động có thể đưa Việt Nam vào tình trạng xáo trộn và bất ổn.

Thực sự thì cuộc họp với tổng thống Nixon và ông Kissinger chẳng hề đưa lại kết quả gì đáng kể. Chính tôi cũng chẳng mong mỏi bất kỳ kết quả nào. Tuy thế phản ứng của Tổng Thống Nixon và ông Kissinger đối với câu phát biểu vô tình của ông Kỳ đã khiến tôi chú tâm về thái độ e ngại của Hoa Kỳ khi chánh phủ Việt Nam muốn có những sáng kiến thay vì để mặc Hoa Kỳ dìu dắt. Cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đều muốn tình trạng Việt Nam hoàn toàn ổn định (Danh từ ổn định đã nhiều lần được đưa ra) trong khi họ nỗ lực kéo Hoa Kỳ ra khỏi vũng lầy Đông Dương.

Sau ngày họp, ông Kỳ và tôi bay xuống Texas để thăm viếng tổng thống Johnson ở nông trại riêng của ông gần chỗ bờ sông Pedernales. Cả ông Walt Rostow và ông Bill Jorden cũng đến tham dự làm cho khung cảnh có vẻ như một buổi họp của những người bạn cũ. Cựu tổng thống Johnson lúc nào cũng ân cần nhưng vì không còn ở cương vị của một vị Tổng Thống, nên ông có vẻ trầm tĩnh hơn trước. Ông chở chúng tôi đi xem cảnh chung quanh nông trại và nói rằng ông vẫn thường xuyên theo dõi tin tức chiến cuộc Việt Nam. Ông hỏi ông Kỳ: Liệu những cuộc tấn công vào mùa khô của Việt Cộng năm nay sẽ tác hại ra sao.

Có lẽ đây là câu hỏi chiếm lĩnh đầu óc tất cả mọi người. Ngay ngay hôm qua, ông Kissinger cũng đã hỏi một câu hỏi in hệt. Chẳng phải cuộc tấn công của Bắc Việt trong mùa khô năm nay có gì khác biệt, nhưng vì Hoa Kỳ đã rút đi 200,000 quân và những binh lính trấn đóng ở Việt Nam càng ngày càng lâm vào thế thủ. Năm 1971 là năm thử thách của kế hoạch Việt Hóa Chiến Tranh. Câu hỏi chính không phải là kẻ thù sẽ hành động ra sao mà là: Quân Đội Việt Nam sẽ ứng phó thế nào.

Hoa Kỳ đã bắt đầu rút quân và giờ phút thử thách của Việt Nam càng ngày càng gần. Trong những tháng tới, những yếu tố chính góp phần định đoạt tương lai Việt Nam bao gồm những vấn đề chẳng hạn như sự ủng hộ của Hoa Kỳ sẽ ở tầm mức nào? Quốc Hội Hoa Kỳ sẽ có thái độ ra sao? Sức mạnh của quân đội Việt Nam thực sự ra sao và Hoa Kỳ dự định đối phó thế nào với cuộc chiến ở Việt Nam.

Sau chuyến viếng thăm cựu Tổng Thống Johnson thì những ngày thăm viếng còn lại của ông Kỳ đi vút qua thật nhanh và đầu óc mọi người lại bị những yếu tố khác quan trọng hơn ảm ảnh. Tối đó bữa tiệc phó tổng thống Agnew tổ chức diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Ngoại trừ một câu hỏi bất ngờ của ông Agnew "Chúng ta phải làm thế nào để xâm nhập lãnh thổ của Bắc Việt?" Câu hỏi khiến tôi đâm lo về việc liệu đề tài này sẽ dẫn hai vị phó tổng thống đến đâu. Cả hai ông đều nổi tiếng về việc thiếu thận trọng. May thay, ông Kỳ cũng ngạc nhiên như tôi và đã yên lặng để câu hỏi của phó tổng thống Agnew trôi qua.

Sau khi dự tiệc, ông Kỳ đến họp với Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện. Lúc này cuộc họp với Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện có thể là một cuộc tranh luận khó khăn. Nhưng có lẽ vì nể mặt thượng nghị sĩ George Aiken là người tổ chức cuộc họp nên tuy đa số những nghị sĩ phản chiến như ông Church, ông Cooper, ông Mansfield, ông Fullbright, ông Kennedy đều có đến tham dự mà buổi họp vẫn không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Ông Kỳ đã tỏ ra khéo léo về vấn đề ngoại giao hơn bao giờ và các thượng nghị sĩ hiển nhiên cũng không muốn đi xa quá trong việc tranh luận với ông Kỳ.

Khi đưa ông Kỳ qua bờ biển mé Tây trong chặng đường đầu trở lại Việt Nam, tôi cảm thấy vô cùng thơ thới. Chuyến thăm viếng của ông Kỳ thành công thật là mỹ mãn. Khi nhìn máy bay cất cánh và nhìn ánh đèn Hoa Thịnh Đốn mờ dần, tôi như người vừa trút được gánh nặng khỏi vai. Mười bảy năm sau, khi nhìn lại vấn đề tôi không khỏi lấy làm kỳ vì những nỗi sợ hãi của một diễn biến chẳng có gì khác hơn là một cuộc thăm viếng của một nguyên thủ quốc gia đối với một đồng minh khác. Tuy thế đây quả là một trong những lúc cực kỳ khó khăn. Một mặt thì bầu không khí ở Hoa Thịnh Đốn lúc đó đang căng thẳng. Mặt khác thì ông Kỳ lại là một người có hành động thất thường và tình thế lúc này đã khiến chúng tôi coi chuyến viếng thăm là một thành tích đáng kể, không làm gì tổn thất đến những mục tiêu cùng nỗ lực của cả hai chánh phủ.




Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
Phan Lê Dũng
#31
    sóng trăng 02.12.2006 13:55:21 (permalink)
    .
     
    Chương 32
    Cuộc Độc Cử


    Vào tháng 2 năm 1971, sau khi ông Kỳ từ Hoa Thịnh Đốn trở về Sài Gòn được khoảng sáu tuần thì kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh bắt đầu bước vào giai đoạn thử thách. Ngược hẳn với sự tiên đoán của tôi, sự thử thách không phải là những cuộc phòng thủ tự vệ mà lại là những cuộc tấn công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào quân đội Bắc Việt.

    Tôi bắt đầu có linh cảm về những sự thử thách của Việt Nam khi nhận được điện văn của ông Thiệu vào ngày mùng 1 tháng 2 cho lệnh tôi phải ngưng công bố những tin tức chiến sự có liên quan đến Lào và Cam Bốt cho đến khi có lệnh mới. Nhiều ngày sau đó, tôi nhận được một bức điện văn bằng mật mã cho biết quân đội Việt Nam sắp sửa tấn công vào các đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào. Cuộc tấn công ở Lào sẽ được phối hợp để những đơn vị của Việt Nam ở đó có thể tấn công cùng lúc với một cuộc tấn công tương tự khác ở Cam Bốt. Trong cả hai cuộc tấn công vừa kể, quân đội Việt Nam sẽ tự điều động các cuộc hành quân. Tuy Hoa Kỳ vẫn yểm trợ nhưng trong cả hai cuộc tấn công đều không có cố vấn người Mỹ. (Nghị Quyết Cooper-Church ban hành vào cuối năm 1970 đã cấm các đội quân Hoa Kỳ không được hoạt động phía ngoài ranh giới Miền Nam Việt Nam) Vào ngày mùng 7, phụ tá của ông Thiệu là ông Hoàng Đức Nhã điện thoại xin tôi giúp ý kiến nếu Việt Nam cần phải trình bày các cuộc hành quân với giới báo chí. Việt Nam đặt mật danh cho những cuộc hành quân này là Lam Sơn 719.

    Chiến dịch Lam Sơn chứng tỏ sự lạc quan của ông Thiệu và các tướng lãnh Việt Nam. Tuy tôi không được rõ nhiều chi tiết về những cuộc hành quân, sự lạc quan của họ không mấy làm tôi ngạc nhiên. Mới tháng 7 trước đây, tôi đã ở lại Việt Nam suốt một tháng trường để quan sát. Trong những chuyến đi qua nhiều vùng khác biệt, tôi đã cố gắng tự mình tìm hiểu tình hình. Ở gần như tất cả các vùng đi qua, tôi đều thấy rằng tinh thần chiến đấu của các binh sĩ Việt Nam rất cao. Ít ra là về mặt tinh thần họ cũng tự tin là họ có thể đối phó được với việc rút quân của Hoa Kỳ một cách dễ dàng. Tôi có cảm giác là có lẽ họ đã đi tới kết luận rằng nếu tình trạng bó buộc thì sự hiện diện của Hoa Kỳ cũng chẳng phải là điều cần thiết. Cuộc hành quân vào Cam Bốt lúc này quả là một niềm khích lệ đối với họ. Dĩ nhiên trong cuộc hành quân đó, Hoa Kỳ vẫn còn hỗ trợ phần nào, nhưng quân đội Việt Nam đã chứng tỏ được rằng những đơn vị của họ hoàn toàn tự chủ. Khi cuộc hành quân kết thúc họ cảm thấy họ trở về như những người hùng đã chinh phục được Cam Bốt.

    Sau khi kết thúc chuyến đi thăm những nơi quân đội Việt Nam đóng quân, tôi đã thấy tinh thần chiến đấu của quân đội Việt Nam rất cao. Tuy thế tôi vẫn lo lắng chẳng hiểu quân đội Việt Nam có được huấn luyện đúng mức hoặc có được trang bị vũ khí đầy đủ hay chưa? Sở dĩ tôi lo lắng như vậy là vì tôi đã có dịp chứng kiến những cách làm việc tắc trách về phía Hoa Kỳ kể từ sau cuộc họp thượng đỉnh ở Midway. Thực ra thì sau cuộc họp ở Midway, quốc hội Hoa Kỳ có lập ra một Ủy Ban đặc trách để theo dõi các chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Tuy trên thủ tục thì Ủy Ban đặc trách này bao gồm cả các nhân viên của Tòa Bạch Ốc, của Ngũ Giác Đài, của tình báo CIA và của Bộ Ngoại Giao, nhưng trên thực tế thì vấn đề lại khác hẳn. Hoạt động của Ủy Ban đặc trách Việt Nam Hóa Chiến Tranh không hề có kế hoạch gì nhất định cả. Tuy cứ hai tuần lại có một lần họp, nhưng kỳ thật thì chẳng có gì đáng gọi là kế hoạch hoặc kỹ thuật tổ chức. Vấn đề Việt Nam Hóa Chiến Tranh tuy quan trọng là thế mà Hoa Kỳ vẫn chẳng chỉ định nhân vật nào làm người đứng đầu tổ chức. Theo dự định của Ủy Ban đặc trách thì đáng nhẽ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ phải đứng ra điều động chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh, nhưng trên thực tế thì Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ theo dõi một cách lơ là và chính tướng Creighton Abrams, người thay thế tướng Westmoreland vào năm 1968, cùng ông Cao Văn Viên và ông Thiệu đã phải đứng ra tự điều động một phần các kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Cách tổ chức lỏng lẻo này vừa thiếu hẳn những mục tiêu nhất định lại vừa thiếu phối hợp vì thế tầm mức hữu hiệu của chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh thật là khó đoán. Dĩ nhiên vẫn có những lớp huấn luyện cùng những đợt chuyển giao vũ khí nhưng ngoài những điểm tổng quát như vậy hình như chẳng còn gì đáng kể.

    Cuộc hành quân Lam Sơn bắt đầu vào ngày mùng 8 tháng 2-1971. Ngay hôm sau đó, tôi đến Ngũ Giác Đài vừa để nghe tin tường trình, vừa để kiểm lại những tin tức tôi đã thâu nhận được từ Sài Gòn và cũng vừa là để xem giới quân sự Hoa Kỳ suy xét ra sao. Lúc đến nơi tôi cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi thấy Hoa Kỳ có vẻ lạc quan đối với diễn tiến cuộc hành quân. Tình hình chiến sự Việt Nam đang tiến triển khả quan so với những mục tiêu chiến dịch Lam Sơn đặt ra. Tuy rằng cuộc tiến quân có phần hơi chậm, quân đội Việt Nam vẫn chưa gặp phải khó khăn nào đáng kể.

    Khoảng một hai ngày sau, tin tức từ Sài Gòn cho thấy mọi sự vẫn tiến hành tốt đẹp và rồi sau đó tôi chẳng còn nhận được tin tức gì. Mặc dầu tôi đã đánh điện và yêu cầu Sài Gòn cho tôi biết rõ rệt chi tiết mà vẫn chẳng có tin tức gì của Sài Gòn cả. Tình trạng im lặng trái ngược vào lúc này so với những tin tức ồ ạt lúc đầu quả là kỳ quái. Tin tức từ Ngũ Giác Đài cho biết rằng quân đội Việt Nam đã gặp khó khăn gần tỉnh Tchepone nguyên là mục tiêu chính của cuộc hành quân và cũng là nơi Việt Cộng đặt căn cứ. Nhưng dường như cả Ngũ Giác Đài cũng không có tin tức gì rõ rệt về những khó khăn của quân đội Việt Nam.

    Dần dà, qua những tin tức của Ngũ Giác Đài, của báo chí, và những tin tức từ Sài Gòn, tình hình chiến sự ngày càng rõ rệt. Bắc Việt đã tăng cường quân đội ở TChepone và khiến quân đội Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất, nhưng vào ngày 8 tháng 3, trước khi lui về biên giới, quân đội Việt Nam đã tìm cách chiếm được Tchepone. Vì áp lực liên tục của Bắc Việt, tại vài nơi cuộc rút lui đã gặp khó khăn. Tuy thế, ở nhiều nơi khác những đơn vị Việt Nam đã mở đường rút lui vô cùng can đảm. Trong khi đó thì ở Hoa Kỳ, đài truyền hình đã chiếu những đoạn phim tài liệu quay cảnh binh sĩ Việt Nam đang bám vào những chiếc trực thăng tản cư. Những khúc phim đó đã đơn giản hóa vấn đề quá mức và hoàn toàn bóp méo sự thật. Hậu quả là những người xem phim đã có ấn tượng khó phai rằng quân đội Việt Nam đã hoàn toàn thất bại. Riêng về phương diện quân sự thì phản ứng đối với cuộc hành quân Lam Sơn thật là phức tạp. Một mặt thì một vài giới chức quân sự Hoa Kỳ đã lên án rằng quân đội Việt Nam chưa tấn công hết sức, nhưng trái lại, những giới chức quân sự Việt Nam lại cho rằng những ủng hộ không lực của Hoa Kỳ chỉ lúc có lúc không và không hoàn toàn hữu hiệu.

    Vào giữa tháng 3 1971, thì cuộc tấn công Lam Sơn hoàn toàn kết thúc. Những phân tách gia bắt đầu tính toán, cân bằng những tổn thất nhân mạng, vật liệu và tinh thần của Việt Nam cùng những tổn thất của các hệ thống tiếp vận của Bắc Việt.

    Bất kể là phản ứng về cuộc hành quân Lam Sơn phức tạp ra sao đối với giới quân sự, nhưng riêng về mặt dân sự thì phản ứng của dân chúng Hoa Kỳ thật là rõ rệt: Cuộc hành quân Lam Sơn đã khơi lại những sự chống đối vẫn còn âm ỉ trong dư luận Hoa Kỳ. Chống đối nổ bùng ngay vào lúc bắt đầu có tin tức về cuộc hành quân Lam Sơn. Càng ngày chống đối càng mãnh liệt và tiếp tục dâng cao đến cả nhiều tuần lễ sau khi cuộc hành quân Lam Sơn đã hoàn toàn chấm dứt. Vào ngày 24 tháng 4, gần 200,000 người chống đối tụ họp ở Hoa Thịnh Đốn và bắt đầu biểu tình suốt một tuần lễ ngay trên các đường phố. Trong giai đoạn này, hai nhân viên của chính quyền Việt Nam là ông Nguyễn Văn Huyền, chủ tịch Thượng Viện và ông Trần Văn Lắm Bộ Trưởng Ngoại Giao cũng có mặt ở Hoa Thịnh Đốn. Nhân cơ hội họ đang ở Hoa Kỳ tôi bèn hướng dẫn họ để họ có thể tự nhìn thấy những sự chống đối đã làm rung chuyển Hoa Thịnh Đốn từ nhiều năm qua. Chúng tôi cùng nhau lái quanh vòng đai phía ngoài những cuộc biểu tình trên một chiếc xe Buick màu nâu xám để tránh sự chú ý. Tôi cố lách đến sát chỗ những cuộc biểu tình để cho hai ông Huyền và Lắm có dịp thấy rõ những y phục rách rưới, những khuôn mặt căm phẫn của những người biểu tình và những khuôn mặt lầm lỳ, lạnh lùng của các Vệ Quốc Binh đứng giữ trật tự. Cả ông Huyền lẫn ông Lắm đều hết sức kinh ngạc. Vì cả hai ông vừa là bạn tôi lại vừa là những nhân vật quan trọng trong chính phủ, nên trước đây họ đã nhiều lần nghe tôi tường trình về những cuộc biểu tình dữ dội ở Hoa Kỳ. Tuy thế, sự kinh ngạc của họ cho thấy những điều họ được nghe lúc trước quả thật chưa thấm thía gì với những điều họ đang thấy lúc này.

    Vào ngày 3 tháng 5-1971, số cảnh sát cùng vệ quốc binh canh gác ở Hoa Thịnh Đốn lên đến 10,000. Số người chống đối bị bắt lên đến cả trăm. Ngay ngày hôm sau trong một cuộc diễn hành đi về phía quốc hội Hoa Kỳ, lại có nhiều người khác bị bắt. Vào ngày 6 tháng 5-1971, cảnh sát bao quanh tòa đại sứ để ngăn chận một cuộc bao vây do những người chống đối tổ chức. Tuy cuộc bao vây thất bại, chúng tôi vẫn chẳng thấy tâm thần an ổn thêm được chút nào. Và rồi khoảng một thời gian ngắn sau đó thì những cuộc chống đối trở thành hỗn loạn và bạo động. Cuối cùng, tình trạng bạo động quá khích của các nhóm phản chiến đã khiến dân chúng Hoa Kỳ mất cảm tình với các cuộc chống đối. Nhũng người theo dõi sát tình hình lúc đó có thể thấy thống kê ủng hộ tổng thống Nixon có phần tăng. Nhưng tất cả những mức độ tăng giảm của các diễn biến đều chỉ là những biến chuyển tạm thời. Trong một bản tường trình dài gửi cho ông Thiệu vào ngày 14 tháng 5, năm 1971, lúc ghi lại những biến cố trong giai đoạn này tôi đã viết như sau: Hình ảnh nổi bật ở Hoa Thịnh Đốn lúc này là quang cảnh hàng ngàn sinh viên mang cờ Việt Cộng cùng những hình ảnh của 10,000 binh lính Hoa Kỳ được lệnh giữ trật tự đang tụ tập khắp nơi trên các đường phố. Tối đến Ti Vi lần lượt chiếu lại tất cả những quang cảnh chống đối ban ngày. Dĩ nhiên cảnh tượng không khỏi làm người dân Hoa Kỳ đặt câu hỏi: -Chừng nào cuộc chiến mới kết thúc? Câu hỏi ám ảnh này sẽ khiến một người dân Hoa Kỳ bình thường kết luận rằng Hoa Kỳ nên từ bỏ cuộc chiến Việt Nam hơn là tiếp tục. Hình ảnh chống đối luôn luôn ám ảnh tổng thống Nixon khi ông suy nghĩ về tương lai chiến cuộc Việt Nam... Trong khi đó những đoàn thể phản chiến lại quan niệm rằng việc rút quân của Hoa Kỳ vào lúc này thật đã quá muộn. Bây giờ thì câu hỏi ngắn gọn của họ chỉ là: -Chừng nào mới chấm dứt chiến tranh? Hay nói một cách khác thì thái độ của họ là: -Chúng tôi không cần biết hậu quả ra sao, miễn là chiến tranh phải chấm dứt.

    Thật sự thì sau khi những cuộc biểu tình chống đối vào tháng 4 và đầu tháng 5-1971 giảm xuống, một ý nghĩ tai hại đã len lỏi vào đầu óc dân chúng Hoa Kỳ. Bất kể mục tiêu ngoại giao của Hoa Kỳ thế nào, bất kể những khát khao của những người Việt Nam muốn sống tự do ra sao, bất kể tất cả các cách lý luận từ bất kỳ quan niệm nào, đối với nhiều người dân Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến hoàn toàn sai lầm.

    Đối với tôi thì quan niệm này thật là lệch lạc. Cứ nhìn vào lịch sử hiện đại để so sánh thì trước khi các nước ở Âu Châu tham gia thế chiến thứ hai để chống lại Hitler và Đức Quốc Xã, ở Âu Châu cũng đã có những cuộc biểu tình chống chiến tranh chẳng khác gì những cuộc biểu tình chống chiến tranh ở Hoa Kỳ lúc này. Nếu so sánh những cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam lúc này với những cuộc biểu tình trong thập niên 1930 ở Âu Châu và nhìn vấn đề theo một quan niệm lịch sử thì những cuộc biểu tình chống chiến tranh lúc này quả không khác gì những cuộc biểu tình chống chiến tranh của dân chúng Âu Châu lúc trước. Tuy thế trong sự so sánh đó có một điểm khác biệt quan trọng duy nhất đáng kể là trong thập niên 1930 nếu Anh và Pháp khoanh tay thì sự khoanh tay của họ chẳng khác nào tự vẫn. Nhưng hiện giờ, những cuộc biểu tình của các nhóm phản chiến chỉ đe dọa vấn đề sinh tử của một mình Việt Nam mà thôi, còn Hoa Kỳ thật ra chẳng hề hấn gì. Viễn tượng hãi hùng khi so sánh cảnh tượng đệ nhị thế chiến với chiến cuộc Việt Nam là khi Đệ Nhị Thế Chiến xảy ra, Âu Châu còn có Hoa Kỳ đứng sau hậu thuẫn cứu giúp. Nhưng đối với hoàn cảnh của Việt Nam lúc này thì chẳng có quốc gia nào đứng sau để cứu giúp Việt Nam nếu Hoa Kỳ rút đi cả.

    Tôi biết rằng dầu sớm, dầu muộn, những đề tài của các nhóm phản chiến trong dư luận cũng sẽ ảnh hưởng các quyết định của quốc hội Hoa Kỳ. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1971, tôi đã điện cho ông Thiệu như sau: "Hiện giờ những người chống đối chiến tranh đặt vấn đề một cách hết sức rõ rệt là: "Bao giờ thì chấm dứt chiến tranh?" chứ không phải là "Phải chấm dứt chiến tranh bằng cách nào?" Những tổ chức thiên tả và phản chiến năm nay đã khôn ngoan vận động sự thiếu kiên nhẫn của nhân dân Hoa Kỳ. Họ cũng khéo léo lợi dụng những khía cạnh về nhân đạo và luân lý của chiến cuộc Việt Nam."

    Lúc này, những nhóm phản chiến không những chỉ đặt áp lực vào tổng thống Nixon mà còn cả vào quốc hội nữa. Tôi viết cho ông Thiệu rằng: "Nỗ lực của những nhóm phản chiến sẽ khiến chánh phủ Hoa Kỳ gặp phải rất nhiều khó khăn vì [những sự chống đối này sẽ ảnh hưởng quốc hội trực tiếp và] quốc hội bao giờ cũng nắm quyền tối thượng trong việc định đoạt ngân sách quốc gia... Nói tóm lại thì trong giai đoạn kế tiếp chính quyền Nixon sẽ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Chính quyền Nixon sẽ phải đối phó với dư luận và các phong trào phản chiến được tổ chức rất kỹ lưỡng."

    Trong tất cả những lời khuyến cáo tôi gửi về chẳng có điều nào có thể gọi là quá xa sự thực. Vào mùa xuân năm 1971, quốc hội Hoa Kỳ đưa ra một loạt các đạo luật nhằm giảm thiểu khả năng giúp đỡ Việt Nam của chánh phủ Nixon. Các đạo luật giới hạn ngân sách chi tiêu cho các cuộc hành quân ở Lào và Cam Bốt rồi thì các đạo luật cắt hẳn những ngân sách đó, và sau cùng là các đạo luật bắt buộc Hoa Kỳ phải rút hết quân ở Việt Nam về. Tôi đã tham gia vào những trận chiến này, vận động, tranh luận vấn đề, trình bày lập trường và cố làm tất cả mọi việc để lật ngược thế cờ. Nhưng càng ngày tình trạng càng khắc nghiệt và số người ủng hộ Việt Nam giảm dần. Vào ngày 22 tháng 2, Đảng Dân Chủ đã đưa ra một quyết nghị yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1972. Tuy rằng nghị quyết này chưa ép buộc được chánh phủ Nixon phải rút quân ngay, nghị quyết đó đã chuyển chiến cuộc Việt Nam thành một đề tài tranh chấp giữa hai đảng dân chủ và cộng hòa. Sau bốn tháng vật vã kế tiếp, chính thượng viện thông qua một quyết nghị đòi hỏi chánh phủ phải rút quân "càng sớm càng tốt." Mỗi ngày tôi lại mỏi mòn thêm vì mất dần đi ít nhiều ủng hộ và mỗi đêm tôi lại cố trình bày những kinh nghiệm tôi đang trải qua hàng ngày trong các bức điện gửi về Sài Gòn.

    Khi tình trạng chống đối ở Hoa Kỳ ngày càng sôi sục thì lại có một vấn đề khó khăn khác từ từ xuất hiện: Cuộc bầu cử tổng thống Việt Nam dự trù vào tháng 9 đã gần kề. Vào ngày 14 tháng 5, sau khi tôi đã gửi cho ông Thiệu một bức điện văn dài:

    Theo những nhận định chính trị ở Hoa Thịnh Đốn lúc này thì Hoa Kỳ đang chú tâm vào cuộc bầu cử ở Việt Nam. Hiện tại có hai dư luận nổi bật hoàn toàn khác biệt: Ý kiến thứ nhất cho rằng Hoa Kỳ nên gửi những phái đoàn quan sát viên với mục đích ngấm ngầm ngăn cản Hoa Kỳ vận động để ủng hộ tổng thống khi tổng thống ra ứng cử. Dự định này được gọi là Kế Hoạch Bầu Cử Việt Nam. Trái lại dư luận thứ hai lại cho rằng đây là một vấn đề riêng của nội bộ Việt Nam. Cả hai ông Sullivan cùng ông Holdridge đều đã hứa rằng Hoa Kỳ sẽ phối hợp với chúng ta trước khi có thái độ rõ rệt.

    Thực sự thì chánh phủ Hoa Kỳ đã chú ý đến cuộc bầu cử ở Việt Nam từ đầu tháng 4. Trong lúc những cuộc biểu tình đang được tổ chức rầm rộ ở thủ đô Hoa Kỳ thì thực sự Hoa Kỳ không có thời giờ để chú tâm đến những vấn đề nội bộ của Việt Nam, nhưng một khi những cuộc biểu tình đã lắng xuống thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ phải trở lại lo về vấn đề này. Những chống đối chiến cuộc ngày càng tăng đã khiến Hoa Kỳ hoặc ít ra là một số nhân viên trong chánh phủ Hoa Kỳ ngày càng chú tâm vào vấn đề Việt Nam. Vào ngày 14, tôi đã điện về Sài Gòn như sau:

    Nói tóm lại, nhiều nhân viên ở tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao đã hy vọng tổng thống chú tâm vào những vấn đề liệt kê phía dưới. Tất cả đều đồng ý rằng đây là những vấn đề có ảnh hưởng nhiều đến dư luận dân chúng Hoa Kỳ.

    1. Khả năng của quân đội Việt Nam.

    2. Thể thức bầu cử của Việt Nam.

    3. Tham nhũng.

    4. Vấn đề thuốc phiện.

    5. Nỗ lực của Việt Nam trong việc liên lạc với giới báo chí quốc tế để tránh chỉ trích và gây ấn tượng tốt với thế giới.

    Chính quyền Sài Gòn đã bắt tay vào tất cả những vấn đề tôi liệt kê trừ vấn đề soạn thảo các thể thức bầu cử. Thể thức bầu cử chắc chắn sẽ là mục tiêu chính cho mọi sự chú ý và theo dõi của dư luận Hoa kỳ. Vì nắm giữ vai trò vận động và liên lạc với các đoàn thể, tôi quan niệm rằng, cuộc bầu cử sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh dân chủ của chánh phủ Việt Nam đối với cả Hoa Kỳ lẫn thế giới. Từ trước đến nay, Hoa Kỳ lúc nào cũng chú tâm vào những tệ trạng của chánh phủ Việt Nam, nhất là vấn đề tham nhũng và vấn đề đàn áp. Thật ra thì những chỉ trích về vấn đề tham nhũng cũng có phần đúng nhưng những chỉ trích của Hoa Kỳ về vấn đề đàn áp có vẻ quá khắc nghiệt. Còn về những tiến triển khả quan của chế độ Việt Nam chẳng hạn như vấn đề dân chủ vẫn phát triển trong khung cảnh chiến tranh thì lại không thấy những người chỉ trích hoặc chống đối ở Hoa kỳ nhắc nhở gì đến.

    Riêng đối với tôi thì từ một vị trí cách xa Việt Nam quá nửa quả địa cầu, tôi thấy dường như những diễn biến chính trị ở Việt Nam đang cùng một lúc đi vào hai ngã. Một mặt những tiến triển cho thấy Việt Nam càng ngày càng biến dần để trở thành một chánh phủ dân chủ hợp hiến. Mới đây Việt Nam lại chứng tỏ điều này qua cuộc bầu cử Thượng Viện. Tại cả Thượng lẫn Hạ viện đều có những nhân vật chống đối chánh phủ đắc cử. Một trong những nhân vật chống đối điển hình đã đắc cử là ông Trần Văn Tuyên, giáo viên dạy tôi ở trường trung học Thăng Long cùng thời với ông Võ Nguyên Giáp. Kể từ năm 1966, các biến cố chính trị ở Việt Nam cho thấy chánh phủ Việt Nam đang cải thiện để tiến tới một chánh phủ hoàn toàn dân chủ.

    Nhưng nếu nhìn qua một khía cạnh khác thì bên trong chánh phủ Việt Nam vẫn còn nạn bè cánh và tranh chấp. Nguyên do chính gây ra vấn đề này là bản tính thích quyền uy của ông Thiệu. Ông Thiệu lúc nào cũng muốn có quyền lực cá nhân và luôn nghi ngờ tất cả những người toan tính giới hạn quyền lực của ông. Tuy ông chính là tổng thống đắc cử của một nước dân chủ mà lề lối làm việc của ông lại không dân chủ chút nào. Những người do chính phủ ông thâu nhận đa số đều nhu nhược và thiếu khả năng. Và chính vì thế nên họ ít khi dám chống đối ông. Chính họ đã khiến thế giới bên ngoài nhìn vào chánh phủ Việt Nam như một chánh phủ lúc nào cũng thụ động và bất lực. Đã thế, ngay cả trong quân đội ông Thiệu cũng dùng người dựa trên quan điểm trung thành với ông hơn là tài năng. Hậu quả là những viên tướng bất tài đã lãng phí rất nhiều tài năng, lòng can đảm và nếu không nói đến cả tính mạng của những binh sĩ dưới quyền họ.

    Đối với Hoa Kỳ là một nước đã đóng góp cả tài nguyên lẫn sinh mạng của binh sĩ cho Việt Nam thì những khía cạnh xấu của Việt Nam lúc nào cũng nổi bật còn những khía cạnh tốt đẹp thì lúc nào cũng mù mờ khó thấy. Vì tôi đang cùng làm việc với những dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của quốc hội Hoa Kỳ nên tôi biết rằng cuộc bầu cử năm 1971 sẽ là một biến cố vô cùng quan trọng. Cuộc bầu cử này chính là cơ hội để Việt Nam có dịp thể hiện tính cách dân chủ của chính phủ Việt Nam. Nếu có một cuộc bầu cử công bằng, chính trực, Việt Nam sẽ gạt bỏ được tất cả những chỉ trích lên án việc Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho Việt Nam là việc sai lầm.

    Vào tháng tư, tôi được tin là ông Kỳ sẽ đứng ra tranh cử với ông Thiệu. Tin tức cũng nói rằng Tướng Minh, người đảo chánh ông Diệm năm 1963 cũng dự định ra tranh cử. Rồi vào ngày 2 tháng 7-1971, quốc hội Việt Nam bắt đầu bàn luận về vấn đề luật lệ bầu cử. Theo hiến pháp năm 1967 thì cứ bốn năm lại có một cuộc bầu cử tổng thống. Nhưng hiến pháp lại chưa quy định rõ rệt thể thức bầu cử. Lúc này quốc hội đang bàn luận chi tiết các thể thức này. Vào ngày 22 tháng 7, quốc hội thông qua một đạo luật đòi hỏi các ứng cử viên phải thâu thập được chữ ký của 40 người trong quốc hội hoặc chữ ký của 100 nhân viên trong các Hội Đồng địa phương. Đạo luật này có thể được coi là một âm mưu của ông Thiệu nhằm mục đích gạt bỏ những ứng cử viên đứng ra tranh cử với ông. Việc ban hành đạo luật đã khiến cuộc bầu cử mất đi tính chất công bằng. Tin tức chưa ghi rõ rệt ông Kỳ và tướng Minh có hội đủ tiêu chuẩn hay không nhưng việc ban hành đạo luật đã khiến mọi người thấy rõ ông Thiệu đang vận động ráo riết để có thể tái đắc cử. Tin tức ngày càng lan rộng về việc ông Thiệu đã dùng cả những phương pháp dọa nạt và hối lộ đối với nhiều dân biểu quốc hội.

    Nhưng chỉ vài hôm sau thì tuy bị những điều khoản trong đạo luật bầu cử mà quốc hội Việt Nam vừa ban hành cản trở, tướng Minh đã tìm được cách hội đủ tiêu chuẩn. Riêng ông Kỳ thì lại không hội đủ tiêu chuẩn. Quá phẫn khích, ông Kỳ đòi hỏi tối cao pháp viện xét lại tính chất hợp pháp của đạo luật bầu cử do quốc hội ban hành. Thấy những diễn biến ngày càng phức tạp, tướng Minh đã bắt đầu ngần ngại về việc đứng ra tranh cử. Tuy lúc này thời gian hãy còn quá sớm để kết luận mọi việc, tôi bắt đầu cảm thấy thất vọng. Tôi đã hy vọng cuộc bầu cử sẽ mang lại phần nào những ấn tượng tốt đẹp có thể dùng vào việc ảnh hưởng các quyết định của quốc hội Hoa Kỳ. Thế nhưng diễn biến lúc này cho thấy những vận động rõ rệt của ông Thiệu đã làm cho bộ mặt của Việt Nam trên chính trường quốc tế trở nên khó coi.

    Vào ngày 12 tháng 7, cố vấn của ông Thiệu là ông Hoàng Đức Nhã đến Hoa Thịnh Đốn để lượng định phản ứng của Hoa Kỳ. Ông Nhã ở lại một tuần với tôi và tôi đã dẫn ông đến gặp các giới trong chánh phủ và các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ. Ông Nhã nói tiếng Anh rất lưu loát và là người thông minh. Vì đã tốt nghiệp ở một đại học ở Hoa Kỳ, ông Nhã hiểu rõ Hoa Kỳ hơn đa số những người Việt Nam khác. Tuy cách đặt vấn đề một cách thẳng thắn của ông đã khiến nhiều người cho rằng ông quá tự kiêu, tôi lại thấy ông dễ nói chuyện và rất cởi mở. Tôi tin rằng ông Nhã sẽ nhìn thấy ngay tầm mức quan trọng của việc cần phải có một cuộc bầu cử công bằng. Và tôi cũng tin rằng ông Nhã sẽ trình bày rõ rệt những nhận định này với ông Thiệu.

    Đối với tôi, ông Nhã là người trung gian giữa tôi và ông Thiệu và tôi cũng khá hiểu ông Nhã để tin ông sẽ thận trọng trong vai trò tế nhị này. Nhưng tôi cũng biết rõ vị trí của tôi là một vị trí hết sức khó khăn. Quá trình liên hệ giữa tôi và ông Kỳ, cộng thêm những nghi ngờ của riêng ông Thiệu đối với tôi đã khiến những nhận định của tôi về cuộc bầu cử có thể bị giảm bớt đi ít nhiều giá trị. Trong quá khứ, tôi đã từng trải qua quá nhiều kinh nghiệm tranh chấp giữa ông Thiệu và ông Kỳ vì vậy trong những năm về sau này, lúc nào tôi cũng cố tránh không để bị vướng vào những sự mâu thuẫn và xích mích giữa ông Kỳ và ông Thiệu. Thật ra thì đã rất nhiều năm qua tôi không hề suy nghĩ thiên lệch chút nào giữa ông Thiệu và ông Kỳ. Vì hoạt động xa Sài Gòn, tôi không còn chú tâm đến những đụng độ cá nhân giữa các nhân vật Việt Nam nữa. Suy tư của tôi đã chuyển hẳn vào sự liên hệ của Việt Nam đối với Hoa Kỳ và các ảnh hưởng của sự liên hệ này đối với vấn đề sống còn của Việt Nam. Bởi vậy, sau khi ông Nhã ra về, tôi đã ngồi lại quan sát, phát biểu rất ít và chẳng hề quan tâm (ít nhất thì tôi cũng có cảm giác là vậy) đến việc yêu cầu được gọi về để tham khảo ý kiến. Ngay cả khi ông Kỳ còn đang dằng co kiện cáo trước tòa, tôi đã dẫn gia đình đi nghỉ mát một tuần ở Haiti.

    Lúc tôi trở về thì Tối Cao Pháp Viện Việt Nam phán xét rằng đạo luật ban hành về việc bầu cử hoàn toàn hợp lệ. Như vậy ông Kỳ không hội đủ tiêu chuẩn để ra tranh cử. Sau quyết định của Tối Cao Pháp Viện Việt Nam, đại sứ Ellsworth Bunker trở lại Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến. Thường thường mỗi khi trở về, đại sứ Bunker hay cùng tôi ăn trưa và chuyện trò rất lâu về những diễn biến đang xảy ra. Lần này tôi rất mong được gặp ông Bunker để tìm hiểu rõ tình hình Sài Gòn. Vào ngày 13 tháng 8-1971, tôi đã đến Bộ Ngoại Giao để gặp ông Bunker và ông Sullivan. Ngay sau đó, tôi đã gặp riêng ông Bunker. Cả hai ông Bunker, Sullivan và tôi đều lo ngại về những biến chuyển mới của cuộc bầu cử ở Sài Gòn mà giờ đây người ta đã bắt đầu gọi là cuộc độc cử. Vào ngày 14 tháng 8 tôi điện cho ông Thiệu:

    Tôi vừa mới nói chuyện với hai ông Bunker và Sullivan trong mấy ngày qua. Trong lúc nói chuyện, cả hai ông đều lo rằng cuộc bầu cử ở Việt Nam sẽ chỉ có một ứng cử viên trong đó mà thôi. . . . Họ suy luận rằng nếu trường hợp này xảy ra thì quốc hội cùng nhân dân Hoa Kỳ sẽ có cơ hội tha hồ chỉ trích và Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn khi xin viện trợ. Họ cũng nói rằng tuy chánh phủ Hoa Kỳ là cơ quan hành pháp, nhưng ngân sách của Hoa Kỳ thật sự nằm trong tay quốc hội, nhất là trong tình cảnh hiện thời, những suy nghĩ của quốc hội Hoa Kỳ thật là vô chừng, khó đoán. Mới đây, Hạ viện cũng đồng ý với thượng viện từ chối không viện trợ quân sự cho Pakistan và Hy Lạp. So với một năm trước đây thì việc quốc hội quyết định như vậy thật khó thể tưởng tượng. Vì thế chánh phủ Hoa Kỳ đang dự định gửi một phái đoàn quan sát viên sang Việt Nam để theo dõi cuộc bầu cử. Tuy thế, đa số dân biểu đều cho rằng Hoa Kỳ chẳng nên gửi phái đoàn quan sát nào sang Việt Nam cả...

    Về điểm này thì tôi cũng nhận xét thấy rằng những quan niệm của ông Bunker và ông Sullivan về cuộc bầu cử lại không phản ảnh toàn thể ý kiến của Hoa Kỳ. Ít ra thì đây cũng là những điều tôi cảm thấy khi gặp ông John Holdridge, phụ tá của ông Kissinger vào ngày 18. Qua ông Holdridge tôi thấy rõ rằng ông Kissinger đã xem vấn đề bầu cử hoàn toàn là vấn đề thứ yếu so với vấn đề phải có một tình hình "ổn định" ở Việt Nam. Về sau, chính ông Kissinger cũng xác nhận những suy nghĩ của tôi. Ông đã viết trong hồi ký rằng: Tuy những vận động của ông Thiệu "thiếu sáng suốt... cả tổng thống Nixon lẫn tôi đều không có ý định bỏ rơi ông Thiệu; Thật ra thì cắt bỏ viện trợ kinh tế và quân sự tức là vô hình chung hành động để hỗ trợ Bắc Việt. Chúng tôi cho rằng tiếp tục ủng hộ chánh quyền Sài Gòn thật sự không phải là một đặc ân dành cho ông Thiệu mà thật ra là hành động theo chiều hướng lợi ích quốc gia [đối với Hoa Kỳ]."

    Thực ra thì trong giai đoạn này, ông Kissinger vẫn đang cố xoay sở để thực thi những kế hoạch ngoại giao của chính phủ Nixon. Lúc này ông Kissinger mới vừa bắt đầu mở màn đàm phán bí mật cùng Bắc Việt và đang sửa soạn để đàm phán với Trung Hoa. Vì vậy ông Kissinger chẳng muốn gì hơn là có một Việt Nam hoàn toàn ổn định. Theo cách nhìn của ông Kissinger thì cuộc bầu cử là một biến cố rủi ro, "khởi nguồn của những sóng gió bấp bênh và bất định." Nhưng vì đã chọn ủng hộ ông Thiệu và làm lơ trước những thao túng quyền hành của ông Thiệu, ông Kissinger đã vô tình chào đón cuộc độc cử của Việt Nam. Cuối cùng, diễn biến cho thấy trong tất cả các quyết định, quyết định làm lơ trước những vận động của ông Thiệu là quyết định tai hại nhất khiến Việt Nam suy sụp. Thực tình thì từ lúc đó cho đến bây giờ tôi vẫn cho là ông Kissinger thiếu sáng suốt.

    Ngày 19 tháng 8, ngay ngày kế tiếp sau khi tôi gặp ông Holdridge thì tin tức từ Sài Gòn cho biết ông Minh đã tự động rút lui khỏi cuộc bầu cử. Rồi vào ngày 21, Tối Cao Pháp Viện Việt Nam chuyển đổi lại quyết định lúc trước, tuyên bố rằng thật ra ông Kỳ hội đủ điều kiện để ra tranh cử. Tuy thế, hai ngày sau ông Kỳ lại tuyên bố không ra tranh cử nữa. Vì cả ông Kỳ lẫn tướng Minh đều đã thấy rõ việc ông Thiệu quyết tâm kềm chế cuộc bầu cử, nên họ cho rằng nếu họ có đứng ra tranh cử thì cũng chỉ là cố làm một việc vẫy vùng vô hiệu. Vào ngày 2 tháng 9, ông Thiệu tuyên bố tuy không có ứng cử viên nào đứng ra tranh cử với ông, cuộc bầu cử Tổng Thống ở Việt Nam vẫn tiến hành như dự định.

    Những tuyên bối của ông Thiệu đã kết thúc tiến trình dân chủ ở Việt Nam. Viễn tượng (và chẳng bao lâu sau viễn tượng này biến thành sự thật) độc cử đã khiến dân chúng Việt Nam cho rằng quan niệm dân chủ không phải là một quan niệm thực tế. Kể từ lúc đó trở đi, họ kết luận rằng chính trị là một vấn đề đã được quyết định sẵn. Theo họ thì cuộc độc cử đã khẳng định rõ thực chất của chánh phủ Việt Nam. Họ kết luận rằng dù cho nhìn từ bên trong hay bên ngoài, chánh phủ Việt Nam quả thật là một chánh phủ thối nát và áp bức.

    Những hậu quả tai hại của việc thao túng quyền bính sẽ từ từ thâu hẹp ủng hộ của các đoàn thể bên trong Việt Nam và ăn mòn hàng ngũ các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ ủng hộ Việt Nam trong quốc hội Hoa Kỳ. Cuộc độc cử đã khiến những nghị viên Hoa Kỳ phải suy nghĩ lại xem thực sự Việt Nam có xứng đáng được họ ủng hộ hay không? Đã đành rằng không hẳn tất cả những hậu quả vừa kể đều do cuộc độc cử năm 1971 gây ra, nhưng trong lịch sử dân chủ ngắn ngủi của Việt Nam, cuộc độc cử quả là một ngã rẽ quan trọng. Tại điểm này, chánh phủ Việt Nam đã gạt bỏ những mục tiêu dân chủ của quốc gia để thỏa mãn những tham vọng uy quyền của một chế độ độc tài.

    Vào mùa thu năm 1971 tôi vẫn chưa hề có ý niệm rõ rệt gì về tương lai rồi sẽ ra sao, dĩ nhiên tôi chưa hề tiên liệu được những tai họa đang chờ đón Việt Nam. Tuy thế, tôi đã cảm thấy mệt mỏi và thất vọng. Vào ngày 2 tháng 10, khi nghe tin ông Thiệu chánh thức tái đắc cử, tôi nhận ra rằng mình đang bị đặt vào một tình trạng khó xử. Một mặt vì là đại sứ của một quốc gia có tổng thống vừa mới tái đắc cử, lẽ ra tôi phải xem đây là một dịp đáng mừng và phải đánh điện chúc mừng. Nhưng mặt khác, những lời chúc tụng quả không phản ảnh trung thực ý nghĩ của tôi. Có lẽ đây cũng chỉ là một điều nhỏ mọn, nhưng tôi đã phải suy nghĩ khốn khổ về cách phải làm thế nào để vừa tránh không làm trái với lương tâm lại vừa tránh phải đối xử một cách bất nhã với ông Thiệu vì dù muốn, dù không thì ông Thiệu cũng là tổng thống.

    Sau khi đã bỏ ra một ngày một đêm suy nghĩ, tôi đi đến một kết luận có lẽ chỉ là một kết luận hiển nhiên đối với những người có đầu óc thực tế hơn tôi. Dĩ nhiên tôi chỉ có hai đường chọn lựa: Gửi điện văn chúc mừng hoặc là không gửi điện văn chúc mừng. Nếu tôi không gửi, chắc chắn sẽ có tin đồn gần, đồn xa, suy nọ luận kia. Nhưng nếu tôi gửi thì lại hóa ra tự mình từ bỏ tất cả những điều mà tôi đã trọn đời tranh đấu. Cuối cùng tôi quyết định chẳng gửi gì cả ngoài một bản tường trình lạnh lùng trình bày phản ứng của Hoa Kỳ đối với cuộc bầu cử.

    Sau khi gửi bản tường trình tôi bắt đầu suy nghĩ đến việc từ chức. Tôi biết rõ ông Thiệu, và biết rõ rằng dù ông Thiệu có nói ra hay không về việc tôi cố ý không chúc mừng thì trong thâm tâm lúc nào ông cũng không quên nổi điều này. Ông Thiệu đã hiểu quá rõ tôi suy nghĩ ra sao về việc độc cử. Hơn nữa, có lẽ ông đã nghi ngờ tôi cùng về phe với đại sứ Bunker để làm áp lực ông và tôi nghĩ rằng rồi đây ông Thiệu cũng sẽ tìm cách thay thế tôi.

    Càng suy nghĩ, tôi lại càng thấy rõ vấn đề và lại càng cho rằng lúc này quả là lúc tôi có thể ra đi gọn gàng. Tôi đã ở Hoa Thịnh Đốn gần 5 năm rồi; có lẽ khoảng thời gian phục vụ đã quá đủ. Đời sống sẽ thú vị hơn khi tôi được trở về với tờ Saigon Post. Thỉnh thoảng vào năm trước đây, tôi cũng đã suy nghĩ về việc bắt đầu khởi sự một tờ tuần báo khác hẳn những tờ báo hàng tuần khác. Trong chuyến về thăm Sài Gòn lần trước, tôi đã bàn luận với một số bạn trong giới nhà văn và báo chí. Tất cả đều cho đây là ý kiến rất hay. Ngay trong buổi bàn luận lúc đó thì ý kiến của tôi mới chỉ là một dự định nhưng lúc này tôi tự hỏi phải chăng đã đến lúc nên chuyển ý kiến này thành hành động?

    Tôi quyết định về Sài Gòn nói chuyện cùng bạn bè khi ý kiến làm báo bắt đầu thôi thúc mạnh mẽ. Tuy thế khi gửi điện yêu cầu được về Sài Gòn tôi không hề nhận được điện hồi âm. Rõ ràng đây là một dấu hiệu gì đó. Tới lúc này, tôi yêu cầu được chánh thức cho phép quay về. Thay vì trả lời yêu cầu của tôi mạch lạc, ông Nhã đã điện thoại cho tôi nói vắn tắt rằng chúng ta sẽ "bàn luận chuyện này" sau. Bỗng dưng tôi linh cảm đã có diễn biến gì đó và tôi càng cảm thấy mình nên từ chức.

    Hẳn nhiên là tôi đã tự đặt mình vào một hoàn cảnh khó xử. Dĩ nhiên, nếu cần ra đi thì việc tự tôi ra đi vẫn tốt hơn là đợi để ông Thiệu chính thức buộc tôi phải ra đi. Tôi chợt suy nghĩ về ông thân. Cả đời, ông đã sống cuộc sống thanh đạm của một nhà nho coi thường thế sự. Rồi tôi lại nghĩ đến ông chú tôi là cụ Kim vẫn thường nhắc nhở rằng: "con người ta ở đời làm việc gì cũng phải cho nó chững." Có lẽ tôi vẫn chưa hoàn toàn thừa hưởng trọn vẹn được những cách sống gạt hẳn thế sự ra ngoài của ông thân nhưng chắc chắn là tôi đã thừa hưởng một phần tính của ông thân và ông chú tôi về vấn đề cảm thấy rất khó chịu khi bị buộc phải làm việc gì. Tôi cũng chẳng hiểu đây là ưu điểm hoặc khuyết điểm, nhưng dù có là gì đi nữa thì chính những cảm nghĩ này cũng đã giúp tôi quyết định rất nhiều. Và giờ đây lại một lần nữa tôi quyết định dựa trên sự suy nghĩ đã thừa hưởng từ ông thân. Đây là lúc mà tôi nghĩ rằng tôi cần phải có quyết định từ giã chính trường.

    Sau khi đã quyết định rõ rệt mọi sự, đầu tháng 12 tôi tường trình vấn đề thật chi tiết cho ông Thiệu. Bản tường trình tổng kết tất cả các vấn đề trong quá khứ cũng như những sự tiên liệu của tôi trong tương lai. Tôi dùng những thống kê lúc này để trình bày rằng tất cả những sự ủng hộ của Hoa Kỳ đang càng ngày càng cạn dần. Hoa Kỳ lúc này đã đặt câu hỏi về những vấn đề như liệu có nên để lại một ít quân khi rút lui hoặc liệu có nên viện trợ kinh tế cho Việt Nam hay không. Trong bản tường trình tôi nhắc lại một lần nữa những gì có lẽ đã trở thành thông lệ vào lúc này rằng mặc dầu chánh phủ Nixon vẫn còn một chánh sách ủng hộ tương đối vững vàng, một chánh phủ khác yếu hơn có lẽ đã phải buông trôi từ lâu. Nhưng rồi đây viện trợ và ngay cả đến vấn đề rút quân cũng sẽ tùy thuộc vào quốc hội Hoa Kỳ. "Chúng ta phải biết rằng, tuy tổng thống Hoa Kỳ nắm giữ quyền uy tối thượng trong tay, trên thực tế, những diễn biến chính trị vẫn thường làm ông giảm bớt rất nhiều uy quyền. Quan niệm rằng tổng thống Hoa Kỳ có thể làm được tất cả mọi điều ông muốn là một quan niệm sai lầm."

     
    Bản tường trình của tôi tiếp tục như sau:


    Trong những tháng vừa qua, vì những lý do của cả chúng ta lẫn chánh quyền Hoa Kỳ, mức độ viện trợ cho chúng ta đã suy giảm đến độ chỉ còn một giọt thừa lại mà thôi. Nếu chúng ta lý luận rằng Hoa Kỳ đang tự động rút quân và Việt Nam quả không cần đến sự viện trợ của họ nữa thì chẳng còn gì để nói.
    Nhưng nếu chúng ta vẫn nghĩ rằng ít nhất Việt Nam cũng còn cần viện trợ trong một thời gian ngắn nữa thì vấn đề cố gắng giữ lại viện trợ dĩ nhiên quan trọng. Cho dù Việt Nam đồng ý hoặc không đồng ý với những kết luận của dư luận hoặc chánh phủ Hoa Kỳ (chẳng hạn như về vấn đề bầu cử đơn phương, thối nát, thiếu đoàn kết v.v...) thì Việt Nam cũng không thể làm ngơ trước những thực tế chính trị này. Việt Nam không thể làm ngơ trước những diễn biến mà chính tổng thống Hoa Kỳ cũng không thể bỏ qua...
    Chúng ta phải bắt đầu một chiến dịch mới nhằm vào dân chúng Hoa Kỳ cũng như các đoàn thể chính trị để chứng tỏ rằng Việt Nam ngày nay không còn cần đến "xương máu" của Hoa Kỳ nữa mà chỉ cần viện trợ về các mặt kinh tế, quân sự. Hơn nữa, chỉ cần những viện trợ này trong một thời gian ngắn mà thôi. Mặc dù có những khuyết điểm không thể tránh khỏi của một quốc gia chậm tiến trong thời chiến tranh, người Việt Nam xứng đáng được Hoa Kỳ viện trợ. Theo tôi thì một trong những điểm quan trọng nhất của chiến dịch này là hình ảnh của một nước Việt Nam đoàn kết, trong sạch, sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm của chính mình.
    Như kết luận của bài tường trình nêu ra, tôi đang cố gói ghém tâm sự của tôi hơn là phát biểu bất kỳ điều gì đặc biệt mà chính phủ Sài Gòn vẫn chưa biết. Khi đọc lại bản tường trình, tôi có thể thấy những thất vọng của tôi phản ảnh thật rõ rệt qua những danh từ nổi bật như "lỗi lầm của chúng ta", và những đề cập không chút dấu diếm như "cuộc độc cử," "thối nát," "thiếu đoàn kết". Dù sao đi nữa thì đây cũng là một bản tường trình chót tôi ném vào khoảng không. Tôi cố đưa tất cả những điều tôi trình bày vào tài liệu. Nói tóm lại thì lời khuyên cuối cùng của tôi với ông Thiệu là sự lập lại một bài học hoàn toàn đơn giản mà riêng tôi đã học hỏi được ở Hoa Thịnh Đốn nhưng ông Thiệu thì chưa. Bài học đó là: "Tổng Thống Hoa Kỳ không phải hoàn toàn có thể tự quyết. Những người xin viện trợ phải biết phóng tầm nhìn vượt qua ông để quan sát cả quốc hội, phải biết phóng tầm nhìn vượt qua quốc hội để nhìn thẳng vào dư luận dân chúng và báo chí." Trong suốt năm năm trời tôi đã tìm đủ mọi cách để diễn tả điều này. Nhưng trong suốt giai đoạn tôi phục vụ ở Hoa Thịnh Đốn, tôi vẫn chưa học được cách phải làm thế nào để những điều tôi tường trình được ông Thiệu và các nhà lãnh đạo ở Việt Nam để ý.

    Chẳng bao lâu sau, khi đã thảo xong bản tường trình cho ông Thiệu, tôi điện thoại về cho ông Nhã, nhắn rằng nếu ông Thiệu đang suy nghĩ về việc thay đổi đại sứ hoặc thay đổi chánh phủ, thì ông Thiệu cứ tự nhiên thay đổi chứ đừng nghĩ gì đến việc phải sắp đặt gì cho tôi cả. Sau một tháng yên lặng, tôi nhận được điện thoại của ông Trần Văn Lắm. Ông Lắm bảo tôi rằng chánh phủ quả thật đang có thay đổi ở một vài nhiệm sở. Tuy ông Lắm không hề nói rõ rằng tôi là một trong những người có tên trong danh sách thay đổi, nhưng ông muốn biết ý kiến của tôi về vấn đề này.

    Thấy rằng việc ông Lắm điện thoại là một dấu hiệu rõ rệt, tôi lập tức soạn thảo một bức thư từ chức gửi ngay đến văn phòng ông Thiệu. Tôi nói rằng tôi đã phục vụ quá lâu và thấy rằng giờ là lúc tôi cần nghỉ ngơi để quay lại đời sống bình thường và chăm sóc gia đình, nhất là mẹ tôi giờ đã quá già. Nhiều ngày sau đó, ông Nhã điện thoại cho tôi báo rằng Tổng Thống Thiệu hiểu rõ tình thế của tôi và đồng ý nếu tôi thấy cần phải nghỉ ngơi. Hiện tại đang có rất nhiều thay đổi trong các chức vụ đại sứ và cả hai nơi Luân Đôn cũng như Canberra đều đang cần phải người mới bổ nhiệm. Liệu tôi có muốn thuyên chuyển đi một trong hai chỗ này hay chăng? Tối đó, tôi viết thư cho ông Thiệu ngỏ ý cám ơn những sự ưu đãi của ông đối với tôi, nhưng tôi đã quyết từ chức. Tôi nói với ông Thiệu lúc này đã đến lúc tôi nên trở về Sài Gòn rồi.




    Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
    Phan Lê Dũng
    #32
      sóng trăng 02.12.2006 13:58:51 (permalink)
      .
       
      Chương 33
      Hai Màn Ngoạn Mục


      Vào ngày 25 tháng giêng năm 1972, khi tôi đang sửa soạn để rời Hoa Thịnh Đốn thì trong một buổi nói chuyện trực tiếp trên đài truyền hình thì Tổng Thống Nixon đã công bố những hoạt động bí mật của chánh quyền ông với Bắc Việt. Những điều ông công bố đã khiến dư luận xôn xao, kinh ngạc. Riêng đối với tôi thì những điều ông công bố đã xác nhận tất cả những điều mà tôi vẫn nghe từ trước tới nay. Tổng thống Nixon tuyên bố rằng ông Kissinger đã bí mật đàm phán với Bắc Việt kể từ năm 1969. Trong suốt giai đoạn đàm phán đó đã có cả thảy 12 cuộc họp, cuộc họp lần cuối là vào ngày 13, tháng 9 năm 1971. Trong cuộc đàm phán cuối cùng, Hoa Kỳ đã gửi cho Bắc Việt một đề nghị hòa bình nhưng vẫn chưa được Bắc Việt trả lời. Trong buổi nói chuyện lần này, tổng thống Nixon lên tiếng công khai hóa những đề nghị đã gửi cho Bắc Việt trước kia. Những điều kiện trong đề nghị đó như sau: Hoa Kỳ sẽ rút quân trong vòng sáu tháng và chấp nhận quốc tế đứng ra tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống ở Việt Nam cho phép tất cả các ứng cử viên từ "tất cả các đoàn thể chính trị" ở Việt Nam được quyền ứng cử. Ông Thiệu sẽ từ chức một tháng trước khi cuộc bầu cử bắt đầu. Bài diễn văn của Tổng Thống Nixon lần này là một ngón đòn chánh trị ngoạn mục để đánh vào cả dư luận quốc tế cũng như dư luận của các giới phản chiến.

      Những tiết lộ về các cuộc đàm phàn bí mật của Hoa Kỳ với Bắc Việt trong bài diễn văn của tổng thống Nixon thật là ly kỳ và những tiết lộ về những cuộc đàm phán ở Bắc Kinh của ông Kissinger vào năm trước đây cũng ly kỳ không kém. Những tiết lộ đó đã khiến những đoàn thể phản chiến thấy mình bị hố nặng. Họ không khỏi chưng hửng khi thấy tất cả những đòi hỏi nhượng bộ của họ đã được chánh phủ Hoa Kỳ, một chánh phủ mà họ cho là sai lầm, chấp thuận từ lâu nhưng Bắc Việt vẫn hoàn toàn ngoảnh mặt.

      Riêng phần tôi thì sự tuyên bố của Tổng Thống Nixon lại khiến tôi hết sức lo ngại cho tương lai Việt Nam. Thật khó ai có thể tưởng tượng được rằng ông Kissinger đã tự mình đàm phán bí mật cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Vào lúc này, chẳng ai biết rõ hơn tôi về việc những quyền lợi của Hoa Kỳ không còn đi đôi với sự sống còn của Việt Nam nữa. Tôi đã nhận thấy điều này kể từ khi chánh phủ Nixon bắt đầu nhậm chức. Thực ra thì việc rút quân của Hoa Kỳ và vấn đế sống còn của Việt Nam không phải là hai vấn đề hoàn toàn không thể đi đôi. Tuy thế, vấn đề đáng ngại là việc Hoa Kỳ đã tự đảm nhận trách nhiệm và tự tham gia các cuộc đàm phán như thể đây hoàn toàn là những cuộc đàm phán của riêng Hoa Kỳ. Vào đầu năm 1969, lúc chính phủ Nixon vừa mới nhậm chức, vì chần chờ và thụ động, ông Thiệu đã để mất cơ hội đóng góp vào các kế hoạch của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến Việt Nam khi các kế hoạch này hãy còn phôi thai. Kể từ đó tổng thống Nixon và ông Kissinger đã hoàn toàn chủ động các cuộc đàm phán với Bắc Việt. Trong suốt ba năm trường, điểm nổi bật của chính sách Hoa Kỳ trong việc đàm phán là cố giữ cho Việt Nam tạm ổn định và hoàn toàn thụ động. Tôi đã biết rõ ông Thiệu không hề tham gia soạn thảo các kế hoạch do ông Kissinger đề ra, chẳng những vậy, tôi cũng không biết ông Thiệu thật sự được báo cáo chi tiết rõ rệt đến độ nào? Chỉ cần nhìn vào lề lối hành động bí mật của ông Kissinger và tính hay né tránh vấn đề của ông Thiệu tôi cũng thừa biết rằng ông Thiệu và ông Kissinger khó có thể cùng nhau bàn luận vấn đề đàm phán một cách hữu hiệu cho được.

      Tôi không muốn gửi điện hỏi ông Thiệu xem ông có thật sự biết rõ việc đàm phán của Hoa Kỳ hay không. Vụ bà Anna Chenault đã dạy tôi rằng những bức điện của tôi thật sự chẳng có gì an toàn, bởi vậy, thay vì gửi điện, tôi điện thoại cho ông Nhã. Nhưng ông Nhã lại có vẻ không muốn bàn bạc gì. Ông Nhã không hề nói rõ là ông Thiệu có hoàn toàn hài lòng về những cuộc đàm phán bí mật hay không mà chỉ nói vắn tắt rằng "chúng ta sẽ bàn bạc chuyện này sau."

      Một thời gian ngắn sau khi Tổng Thống Nixon đọc diễn văn, đại sứ Bunker trở về Hoa Thịnh Đốn để tham khảo ý kiến. Như thường lệ, tôi mời ông Bunker đến tòa đại sứ để tôi có dịp nói chuyện với ông. Với tư cách là đại sứ của Hoa Kỳ ở Sài Gòn, ông Bunker thực sự đã là người trung gian giữa ông Kissinger và ông Thiệu. Tôi muốn gặp ông Bunker để có thể biết rõ phản ứng của ông Thiệu. Khi chúng tôi gặp nhau, ông Bunker nói với tôi rằng: "Như anh cũng biết, thăm dò phản ứng của ông Thiệu nào phải là chuyện dễ dàng." Ông Bunker nói rằng ông có chuyển tất cả những bản báo cáo của ông Kissinger cho ông Thiệu nhưng ông chẳng biết phản ứng của ông Thiệu thực sự ra sao.

      Vào cuối tháng 2, thì tin tức về mọi việc bắt đầu sáng tỏ đôi phần khi ông Nhã đến Hoa Kỳ. Ông Nhã cho biết rằng tuy có được báo cáo, những tin tức báo cáo ông Thiệu nhận được rất là sơ sài. Thường thì ông Kissinger chỉ gởi một bản báo cáo rất ngắn cho ông Bunker để ông Bunker chuyển thẳng cho ông Thiệu. Ông Thiệu cũng được hỏi ý kiến về một số những điều tổng quát, nhưng không hề biết rõ chi tiết như ông mong mỏi. Đương nhiên ông Thiệu có rất ít cơ hội để bày tỏ quan niệm riêng. Ông đã gượng gạo đồng ý những vấn đề như vấn đề quốc tế sẽ đứng ra tổ chức cuộc bầu cử và vấn đề ông phải tự động từ chức tổng thống. Ông Thiệu chấp nhận những đòi hỏi của Hoa Kỳ vì hai lý do. Thứ nhất: Ông Thiệu cho rằng Bắc Việt sẽ không bao giờ chấp nhận những đề nghị của Hoa Kỳ. Thứ hai: Ông Thiệu muốn tránh việc phải đương đầu với tổng thống Nixon. Nói chung thì những diễn biến trong giai đoạn này là một triệu chứng tôi đã có dịp quan sát kể từ năm 1965. Kể từ khi Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp, lúc nào họ cũng nắm phần quyết định các chính sách đi đôi với vấn đề sinh tử của Việt Nam nhưng lại quyết định dựa trên những quyền lợi của Hoa Kỳ. Khi quyết định những chính sách có liên quan đến sự sống còn của Việt Nam Hoa Kỳ thường chẳng để ý gì đến chánh phủ Việt Nam, hoặc giả nếu có để ý đi chăng nữa thì họ cũng chỉ là để ý một cách rất sơ sài và hời hợt.

      Thái độ làm việc độc đoán của Hoa Kỳ đã dẫn đến một tình trạng bế tắc trong sự cộng tác của cả hai quốc gia Mỹ, Việt. Hậu quả của những thái độ đó là do những thất bại của chánh phủ Hoa Kỳ trên bình diện luân lý đi đôi cùng với những thất bại của Việt Nam vì thiếu khả năng lãnh đạo, thụ động, và không đủ khả năng để nhận lãnh trách nhiệm quốc gia. Dĩ nhiên một trong những lý do chính khiến Hoa Kỳ có thái độ độc đoán khi cộng tác với người Việt cũng là do những đúc kết dị biệt giữa lịch sử Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng dầu gì đi nữa thì tôi vẫn qui lý do chính vào vai trò của những người lãnh đạo. Những lý do dó là: Bản tánh thích bí mật, thích mưu mẹo và vận động của ông Kissinger; Bản tính quanh co, lưỡng lự và hay tránh né vấn đề của ông Thiệu.

      Vì gần gũi với cả hai phía, tôi đã có dịp quan sát sự liên hệ này kéo dài trong suốt những năm qua. Chẳng những thế, tôi còn nhìn rõ cả sự bất lực của tôi khi phải đối phó với vấn đề này. Khi viết thư từ chức, tôi đã nghĩ rằng ít nhất thì sau khi từ chức tôi cũng tránh được phần nào những thất vọng đi đôi với công việc. Nhưng lạ thay, dường như vấn đề từ chức của tôi vẫn chưa được Sài Gòn để ý. Tôi biết Sài Gòn chắc chắn đã nhận được thư từ chức của tôi rồi, nhưng chẳng hiểu sao chính phủ Sài Gòn vẫn âm thầm yên lặng, chẳng hề gửi lại cho tôi một chữ nói rằng ngày nào là ngày tôi chuyển nhiệm hoặc tỏ vẻ nhận biết yêu cầu từ chức của tôi.

      Hậu quả là cho đến cuối tháng 3 năm 1971, tôi vẫn còn làm việc, vẫn còn loay hoay tìm hiểu tin tức của cả Sài Gòn lẫn Hoa Thịnh Đốn. Khi tin tức về những cuộc đàm phán bí mật được công bố, tôi lại càng cảm thấy lo lắng vì cách làm việc của ông Kissinger. Tôi không biết chẳng hiểu phải tìm cách nào để có thể tiên liệu cho đúng được các chiều hướng và quyết định của chính phủ Hoa Kỳ. Để tìm hiểu các vấn đề này, tôi đến gặp các phụ tá của ông Kissinger như các ông Holdridge, Negroponte và nhà báo kỳ cựu Marvin Kalb của đài CBS chuyên về các vấn đề ngoại giao. Ông Marvin Kalb là người đi sát với ông Kissinger và hiểu rõ cách làm việc của ông Kissinger. Tôi muốn hiểu rõ quan niệm "uyển chuyển," một danh từ tôi đã nghe ông Kissinger dùng trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và ông vào năm 1969. Lúc này danh từ "Uyển Chuyển" đã mang nhiều sắc thái của một điềm bất tường.

      Trong khi những điềm bất tường về mặt chính trị chỉ mới manh nha thì những đe dọa về mặt quân sự lại rõ rệt hơn. Tuy vào ngày 13 tháng 9 năm 1972, Bắc Việt vẫn còn đàm phán mà vào tháng 10 họ đã chấm dứt các cuộc đàm phán. Lúc này đang là năm 1972, năm bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ và dĩ nhiên Việt Cộng vẫn còn nhớ những kết quả họ đã gặt hái được vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 trong lần bầu cử tổng thống Hoa Kỳ trước đây. Ông Robert Thompson, một chuyên viên dầy kinh nghiệm chống du kích đã khẳng định rằng Việt Cộng sẽ mở cuộc tấn công trước tháng 10 để có thể lợi dụng dư luận trong giai đoạn Hoa Kỳ tiến hành cuộc bầu cử năm 1972. Ngoài những dự đoán của các chuyên gia, còn một yếu tố khác cho thấy Việt Cộng sắp sửa tấn công là yếu tố thời tiết. Thời tiết ở Việt Nam lúc này đang bắt đầu chuyển sang mùa khô. Tất cả những tin tức tình báo đều cho thấy Bắc Việt đã sửa soạn từ nhiều tháng trước. Vì tháng 7 là tháng thời tiết chuyển mùa nên trễ lắm là vào tháng 6 bắt buộc miền Bắc sẽ phải rục rịch. Lúc này đã vào giữa tháng 3. Thời khóa biểu của tôi đặc nghịt các cuộc họp với Bộ Ngoại Giao và những nhân viên quân sự. -Ông Sullivan, ông Wesmoreland, ông Laird, và nhiều tướng lãnh khác đang điều khiển chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Lúc này, quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam đã giảm đến độ sự hiện diện của Hoa Kỳ gần như không đáng kể. Hơn nữa, Hoa Kỳ không còn giữ vai trò lãnh đạo quân sự. Vì thế nên, những trận đụng độ lúc này sẽ là những đụng độ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Cộng Sản. Ở thời điểm này thì Đàm Phán, nguyên là phần đầu của chiến thuật lưỡng đầu, đã thất bại hoàn toàn. Giờ là lúc thử thách của phần hai. Kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh sắp bước vào giai đoạn thử thách. Một cuộc đụng độ lớn sắp bắt đầu. Câu hỏi chỉ còn là: Cuộc đụng độ sẽ xảy ra ở đâu và vào lúc nào. Vào ngày 30 tháng 3, quân đội Bắc Việt vượt qua vùng phi quân sự tấn công vào thành phố Quảng Trị. Lúc đầu chưa ai có thể xác định đây là một phần của cuộc tổng tấn công hay chỉ là một cuộc công kích dò dẫm. Nhưng trong vòng một tuần cuộc tấn công thứ hai bắt đầu từ biên giới Cam Bốt tấn công nhắm vào An Lộc, phía bắc Sài Gòn.

      Khi Quảng Trị và An Lộc bị tấn công thì lúc nào tôi cũng gần như gắn liền với máy điện thoại. Tôi nói chuyện với chánh phủ Sài Gòn, với các nhân viên của tôi ở Ngũ Giác Đài và Bộ Ngoại Giao. Tôi cố theo dõi An Lộc trong những trận giao tranh ngày càng lan rộng. Tuy tôi đã đoán trước rằng thế nào Việt Cộng cũng tấn công, nhưng tôi quả thật chưa thể tiên đoán trước được tầm mức rộng lớn và dữ dội của những cuộc tấn công lúc này. Cả các đồng nghiệp của tôi ở Bộ Ngoại Giao và Ngũ Giác Đài hình như cũng kinh ngạc chẳng kém gì tôi. Vào tuần lễ thứ hai, đã có 12 sư đoàn Bắc Việt nhập trận. Một số quân khổng lồ từ Bắc Việt đang tiến vào xâm lược Việt Nam.

      Giờ phút thử thách của quân đội Việt Nam làm tôi lo lắng. Một mặt, tôi vô cùng tin tưởng các đơn vị thiện chiến như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động của quân đội Việt Nam. Nhưng một mặt khác thì lúc này, sự hỗ trợ của quân đội Hoa Kỳ đã hoàn toàn mất hẳn. Tôi theo sát những diễn biến ở chiến trường và những chi tiết về sư đoàn 3 đang bị tấn công và cảnh quân đội Bắc Việt tiến dần tới vùng thủ đô Quảng Trị. Nhưng dù Tổng Thống Nixon đã áp dụng kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh, ông vẫn nhất định không bỏ mặc những cuộc tấn công của Bắc Việt. Vào ngày 5 tháng 4, phi cơ Hoa Kỳ dội bom vào những nơi tiếp vận của Bắc Việt, trong khi những hải quân và không quân của Hoa Kỳ sửa soạn nhập trận.

      Vào ngày 15 tháng 4, khi những cuộc tấn công của Bắc Việt phát động toàn lực thì máy bay B-52 đã dội bom xuống Hà Nội và Hải Phòng. Đây là lần đầu tiên trong suốt bốn năm những thành phố như Hà Nội và Hải Phòng bị tấn công. Đối với tổng thống Nixon và ông Kissinger thì những cuộc tấn công này chứng tỏ sự quyết tâm của Hoa Kỳ. Nhưng giới phản chiến ở Hoa Kỳ lại có thái độ khác hẳn. Sinh viên Hoa Kỳ phản ứng tức thời. Biểu tình bùng ra khắp mọi nơi trên toàn quốc, một cuộc biểu tình trong khuôn viên đại học đã khiến hàng trăm sinh viên chống đối bị bắt. Tại thượng viện, Ủy ban Ngoại Giao của Thượng Nghị Sĩ Fullbright gọi Bộ trưởng Quốc Phòng Laird và Ngoại Trưởng Rogers ra điều trần trước quốc hội. Cuộc điều trần trước máy truyền hình diễn ra chẳng khác nào một cuộc đụng độ giữa hai vị hai vị Bộ trưởng và các Thượng Nghị Sĩ phản chiến.

      Lúc này, cuộc chiến đã bước vào giai đoạn quyết định. Cộng sản đang thu thập tất cả mọi lực lượng tấn công mãnh liệt vào Miền Nam. Về phía Hoa Kỳ thì tổng thống Nixon đã cho lệnh các lực lượng hải quân và không quân của Hoa Kỳ tự do tấn công bất chấp các cuộc biểu tình hoặc sự chống đối của quốc hội Hoa Kỳ. Những cuộc biểu tình diễn ra ngày càng ồ ạt ở Hoa Thịnh Đốn đã khiến những quan sát viên của Hoa Kỳ hết sức theo dõi những trận đụng độ ở Việt Nam. Câu hỏi đơn giản của họ là: Liệu các lực lượng quân đội Việt Nam cùng với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, có đủ sức bảo vệ Việt Nam không? Hay là những chính sách trong gần suốt 20 năm của Hoa Kỳ sẽ tiêu tan thành mây khói cùng với sự sụp đổ của Việt Nam?

      Vào trung tuần tháng 4, vấn đề vẫn chưa hoàn toàn ngã ngũ. Vào ngày 21, ông Alexander Haig từ Việt Nam trở về mang theo những tin tức rõ rệt nhất. Tối đó tôi điện cho ông Thiệu: "Ông Haig cho rằng tinh thần quân đội Việt Nam rất cao. Trừ vài trường hợp lẻ tẻ, quân đội Việt Nam đã chiến đấu rất hữu hiệu. Ông Haig cũng đồng ý với những nhận định tình hình của chúng ta rằng các lực lượng Việt Nam vẫn còn có thể cầm cự trong một khoảng thời gian ngắn nữa. Việc duy nhất khiến ông Haig lo ngại là sự tổn thất của quân đội Việt Nam có thể khiến tinh thần chiến đấu của các binh sĩ Việt Nam suy giảm. Dư luận Hoa Kỳ cho rằng câu trả lời về sức mạnh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn phụ thuộc vào những trận đụng độ của quân đội hai miền Nam, Bắc và những phản ứng của quân đội Miền Nam Việt Nam."

      Vào ngày 1 tháng 5, mạn bắc của Quảng Trị bị hai sư đoàn 304, 308 và xe tăng yểm trợ của Bắc Việt đánh chiếm. Sư đoàn 3 Bộ Binh của Việt Nam tan rã dưới áp lực của cuộc tấn công này. Khi Quảng Trị mất, những toán tàn quân của sư đoàn 3 và dân chúng Quảng Trị đã ùa ra đường phố để chạy tản cư. Trên nhiều đoạn đường tản cư nằm trong tầm pháo binh của Việt Cộng những đoàn tản cư đã bị dội pháo. Cả Huế lẫn Kom Tum đều bị đe dọa. Cách Sài Gòn khoảng sáu mươi dặm, gần biên giới Cam Bốt, lúc này An Lộc cũng đang bị bao vây.

      Sau ngày mất Quảng Trị, Kissinger đến họp cùng Lê Đức Thọ ở Ba Lê. Đây là cuộc họp đầu tiên trong suốt 8 tháng. Sau này Kissinger viết lại rằng cung cách của Lê Đức Thọ thật là kiêu ngạo. Thọ đã cả quyết rằng Bắc Việt chắc chắn sẽ toàn thắng. Ít lâu sau tình thế cho thấy sự lạc quan của Thọ hãy còn quá sớm. Tuy những đơn vị của Việt Nam Cộng Hòa đã ngỡ ngàng vào lúc đầu vì tầm mức lớn rộng của cuộc tấn công cùng những xe tăng, đại pháo của Bắc Việt, chẳng bao lâu sau họ đã bắt đầu chấn chỉnh, chiến đấu mãnh liệt để giữ từng tấc đất. Trên tất cả các mặt trận Bắc Việt tấn công, những bước tấn của Bắc Việt đều bị chặn đứng. Quân đội Miền Nam Việt Nam đã anh dũng chiến đấu dưới sự yểm trợ của không quân Hoa Ký.

      Trong ba mặt trận kể trên, An Lộc là nơi đẫm máu và bi thảm nhất. Nhìn dưới một khía cạnh nào đó thì đây chính là một trận đánh điển hình cho tất cả những trận đánh khác đang diễn ra khắp mọi nơi trong toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Thị Trấn An Lộc nằm ở giữa quốc lộ 13 và là một khu vực chỉ cách những căn cứ Việt Cộng ở Cam Bốt khoảng 15 dặm. Bên trên An Lộc là những triền thung lũng và những đồn điền cao su. Vào ngày 7 tháng 4 và ngày 9 tháng 7, An Lộc bị bao vây trong một chiến trận chẳng khác gì cuộc bao vây Stalingrad.

      Tại An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng có khoảng 6000 quân, bao gồm phần nhiều địa phương quân cùng với một số đơn vị của sư đoàn 5. Trong khi đó Việt Cộng đã tấn công ông bằng các sư đoàn 5, 7, 9, sư đoàn pháo binh 75 và ba tiểu đoàn thiết giáp. Tổng cộng số quân Bắc Việt dùng tấn công vào An Lộc kể cả các đơn vị chặn đường là 28,000. Vào ngày 11 tháng 4, Việt Cộng phá tan những tiền đồn phía trước An Lộc. Vào ngày 12 quân đội Bắc Việt vây kín thành phố An Lộc.

      Ngày 13-7, sau khi đã pháo kích kịch liệt, đợt tấn công đầu của Việt Cộng tấn công thẳng vào các đơn vị của Miền Nam Việt Nam đang bị bao vây. Cuộc tấn công ngừng lại khi đã chiếm được một phần ba thành phố An Lộc. Hai ngày sau một cuộc tổng tấn công khác lại bắt đầu. Lần này Việt Cộng tiến sâu hơn, cuộc đụng độ diễn ra ngay tại những ngôi nhà trong thành phố cho đến khi Việt Cộng bị đẩy lui bằng những trận dội bom gần sát nơi Bộ Tư Lệnh của tướng Hưng.

      Những người lính tử thủ và những người dân An Lộc lúc này chỉ sống nhờ những thực phẩm, thuốc men và vũ khí tiếp liệu bằng dù. Hơn hai phần ba những phần tiếp liệu rơi vào phía sau hàng tiền tuyến của quân đội Bắc Việt khi những máy bay tiếp vận C-130 phải di chuyển để tránh né những loạt tác xạ của súng phòng không. Tuy vòng đai tự vệ của quân đội An Lộc ngày càng thu hẹp, họ đã chiến đấu nhiều tuần trong tình trạng cô thế, thiếu binh sĩ, thiếu vũ khí và đã đẩy lui được những đoàn bộ binh và thiết giáp của Bắc Việt.

      Một tháng sau, sư đoàn 5 và sư đoàn 9 Việt Cộng lại đồng loạt tấn công các mặt bắc, đông bắc, nam và tây. Rồi qua cửa phía Tây An Lộc, trung đoàn 272 của Việt Cộng tấn công thẳng vào những binh lính tự vệ Việt Nam. Vào lúc 10 giờ sáng, Việt Cộng đã chiếm những tòa Bin Đinh công cộng và chỉ còn cách Bộ Tư Lệnh của Tướng Hưng khoảng 150 thước. Ở mặt Bắc, Việt Cộng tấn công chọc thủng phòng tuyến của quân đội Việt Nam và vào gần đến trung tâm thành phố. Tại mặt Nam, các lực lượng Việt Cộng đang cố tiến qua những hàng rào tự vệ của quân lính Việt Nam lúc này đã kiệt sức và bị chấn động nhiều vì bom.

      Rạng đông ngày 12 tháng 5, hai sư đoàn 5 và 9 của Việt Cộng lại tấn công vào trung tâm thành phố. Nhưng những binh sĩ Miền Nam cùng những phi công yểm trợ của cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ vẫn anh dũng chiến đấu. Oanh tạc cơ yểm trợ cùng những lằn đạn gần kiệt của quân đội Việt Nam đã đánh bật trả lại những cuộc tấn công hung hãn của Việt Cộng. Vào lúc cuối ngày, tình thế cho thấy quân đội Việt Cộng đã mất cả tinh thần lẫn nhuệ khí. Sau đợt tấn công cuối cùng vào An Lộc Việt Cộng đã dùng cạn khả năng tấn công.

      Những ngày sau đó sư đoàn 5 Bắc Việt tháo lui để nghỉ ngơi và bù đắp những tổn thất trong lúc tấn công. Tuy thế sư đoàn 9 của Bắc Việt vẫn đóng quân bao vây thành phố và tấn công vào trung tâm An Lộc bằng những đơn vị nhỏ. Lúc này sự tự vệ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở An Lộc quả đã vượt trên tầm ước định của Bắc Việt. Vào cuối tháng 5, khi phần lớn các súng cao xạ bắn máy bay của Bắc Việt đã bị triệt hạ, trực thăng và máy bay chuyển vận đã có thể tới lui thường xuyên hơn. Cuối cùng, vào ngày 9 tháng 7, quân tiếp viện của sư đoàn 21 Việt Nam cùng những đơn vị khác chọc thủng vòng vây của sư đoàn 7 Bắc Việt dọc theo quốc lộ 13 và liên lạc được với những binh sĩ đang tử thủ ở An Lộc. Trong cuộc tấn công để chọc thủng vòng vây của Bắc Việt ở An Lộc, các đơn vị của Việt Nam Cộng Hòa đã đụng độ với sư đoàn 7 của Việt Cộng suốt hai tháng trường. Sau cuộc tấn công đó, quân đội Việt Nam Cộng Hòa thiệt hại mất 4000 quân, trong khi Bắc Việt thiệt hại 6000 quân.

      An Lộc không phải là một chiến thắng có tính cách chiến thuật mà là một sự thành công thể hiện được sự trưởng thành của quân đội Việt Nam qua kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Mặc dầu kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh vẫn còn nhiều khuyết điểm, nhưng nói chung thì kế hoạch này vẫn thành công đáng kể. Chiến thắng An Lộc đã chứng tỏ khả năng chiến đấu kiêu hùng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Qua chiến thắng đó, quân đội Việt Nam đã chứng tỏ rằng họ có thể đẩy lui được những cuộc tấn công của các lực lượng Cộng Sản được trang bị đầy đủ hơn hẳn về mọi mặt. Chiến thắng An Lộc còn cho thấy rằng nếu có các lực lượng không quân yểm trợ, thì quân đội Việt Nam sẽ thừa sức chu toàn những nhiệm vụ được giao phó.

      Đợt tấn công cuối cùng của Cộng Sản vào An Lộc bị đẩy lui vào ngày 12 tháng 5. Tuy Quảng Trị bị lọt vào tay Bắc Việt, nhưng quân đội Bắc Việt vẫn không đủ khả năng để tấn công vào Huế. Và cả những cuộc tấn công của Bắc Việt vào cao nguyên cũng thất bại. Khi tình thế đã rõ rệt rằng Miền Nam Việt Nam vẫn đứng vững sau cuộc tổng tấn công mùa xuân thì tôi bắt đầu chuẫn bị để từ chức. Vào cuối tháng 5, tôi bắt đầu sửa soạn từ giã các bạn bè trong giới ngoại giao, và vào đầu tháng 6, tôi đến tòa Bạch Ốc để chào tổng thống Nixon. Tôi và nhà tôi cùng ăn bữa trưa giã từ với ông bà Averell Harriman rồi đến dự một bữa trưa giã từ khác với ông bà George Aiken. Tôi gặp tất cả những bạn bè và đồng nghiệp và những cộng sự viên đã cùng làm việc với tôi trong suốt bao năm: Ông Rogers, ông Westmoreland, ông Laird, ông William Sullivan, ông Alexis Johnson, ông Alexander Haig, các nhân viên phụ tá của ông Kissinger như các ông John Holdridge và John Negroponte, và các bạn bè trong quốc hội như Thượng Nghị Sĩ Tower và dân biểu Clement Zablocki.

      Buổi lễ giã từ thật là bịn rịn đối với rất nhiều người. Tôi cảm thấy dường như tôi đã ở Hoa Thịnh Đốn lâu lắm rồi. Dĩ nhiên là tôi đã tự ý rời Hoa Thịnh Đốn. Và vì thế tôi cho rằng tôi đã sửa soạn kỹ lưỡng trước khi giã từ. Tuy vậy, ở những phút cuối, khi chia tay bạn bè và những cộng sự viên tận tụy đã cùng làm việc với tôi trong nhiều năm, tôi cũng vẫn cảm thấy có đôi phần xao xuyến.

      Từ phi trường Dulles International tôi và gia đình bay qua Ba Lê. Chúng tôi ở lại Ba Lê một tuần rồi mướn một chiếc xe Peugeot, cả gia đình chen chúc chạy thẳng route Napoléon tới Nice, Cannes và Grenoble, rồi vào St. Gervais, một tỉnh nhỏ nằm cạnh biên giới Thụy Sĩ, nơi chúng tôi đã từng trú ngụ suốt một năm khi nhà tôi phải đi dưỡng bệnh. Tại đây chúng tôi ghé thăm những người đã từng săn sóc nhà tôi hai mươi năm về trước, rồi đi thẳng sang Ý Đại Lợi.

      Chuyến đi này quả thật là một chuyến du hành khó quên. Chúng tôi đến Geneva, vượt những ngọn núi Alps ở Ý Đại Lợi, vào thành phố Venice huyền thoại ở Áo và đi qua những nhà thờ sáng chói của thành phố Florence diễm lệ. Trong chuyến đi đó, chúng tôi hòa mình vào với những toán du khách khác để thưởng thức những cảnh đẹp xung quanh. Đôi khi chúng tôi chẳng còn nhớ rõ là mình đang ở đâu nữa. Tôi cảm thấy gia đình tôi lúc này chẳng khác nào một gia đình người Nhật đang trên đường du ngoạn.

      Sau hai tháng du ngoạn du ngoạn, chúng tôi trở lại Ba Lê để sửa soạn cho chuyến bay về Sài Gòn. Lúc này là giữa tháng 8. Tôi vẫn chưa biết rằng Kissinger cùng Lê Đức Thọ đã tiếp tục những cuộc đàm phán bí mật. Tôi cũng chưa biết rằng hai bên đã hiểu rõ sức mạnh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa sau cuộc Tổng Tấn Công Mùa Xuân và đã bắt đầu thảo luận những vấn đề tổng quát của kế hoạch đàm phán.

      Tạm thời những biến chuyển động trời này vẫn còn nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tuy tôi đã trở về với bầu không khí chính trị sôi sục của Sài Gòn, nhưng lúc này tôi chỉ là một người ngoại cuộc. Tôi bắt đầu đến tòa soạn Saigon Post, tìm cách ghép mình vào kỷ luật làm việc hàng ngày của tòa báo. Tôi cũng đã bắt đầu sắp xếp để cho ra một tờ báo văn học nghệ thuật mà tôi đã nghĩ đến lúc trước. Tôi thu xếp các vấn đề tài chánh, mướn chủ bút và các văn sĩ và bắt đầu cho ra một tờ báo văn học nghệ thuật mà chúng tôi đặt tên là Gió Mới.

      Dĩ nhiên là khi tôi quay lại thì Sài Gòn và cảm tưởng của tôi đối với đời sống Sài Gòn vẫn chẳng có gì thay đổi. Tôi lại bắt đầu chú tâm lắng nghe những diễn biến trong bầu không khí sinh hoạt của thành phố. Vì chiến cuộc ngày càng giảm dần nên những đa số những bạn bè tôi ở trong giới quân sự đều có vẻ phấn khởi hoặc ít ra thì họ cũng rất lạc quan. Họ đã nhiều lần bàn luận về trận đánh anh dũng bảo vệ An Lộc và họ cho rằng nếu đụng độ thực sự xảy ra thì Việt Nam có thể đối phó được với Bắc Việt. Tuy nhiên vấn đề đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt vẫn làm mọi người lo lăng. Ông Kissinger vừa đến Sài Gòn. Chuyến đi của ông cho thấy vấn đề quân sự đã tạm lắng xuống để nhường chỗ cho cho những cuộc đàm phán trên trường Ngoại Giao. Gần như ai cũng biết rằng rồi đây Kissinger và Lê Đức Thọ sẽ cùng đi đến một kết luận nhưng kết luận đó ra sao thì lại chẳng ai có thể đoán trước được.

      Vào đầu tháng 9-1972, tôi đến dinh độc lập thăm ông Thiệu. Cuộc gặp gỡ hoàn toàn vui vẻ với những nụ cười, những cái bắt tay và những câu chuyện xã giao. Cả hai chúng tôi đều tránh nói đến chuyện chính trị. Trong những tháng kế tiếp sau đó, ông Thiệu lại nhiều lần mời tôi và nhà tôi đến dự những bữa tiệc vừa xã giao nhưng cũng vừa chính trị của ông. Có lẽ ông Thiệu đã cố dùng những buổi tiệc này để xoa dịu những sự khó chịu giữa chúng tôi trong quá khứ.

      Vào giữa tháng 10, người thay thế tôi ở Hoa Thịnh Đốn là ông Trần Kim Phượng trở về Sài Gòn để sửa soạn cho cuộc gặp gỡ của ông Thiệu và Kissinger vào ngày 19-10. Trong thời gian ông Phượng ở Việt Nam, thì chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Qua ông Phượng tôi biết rằng Kissinger và Lê Đức Thọ đã đạt được một thỏa hiệp. Kissinger đến Sài Gòn lần này là để tìm cách thuyết phục ông Thiệu đồng ý.

      Nếu chỉ nói riêng về việc đàm phán thì ý kiến của ông Phượng cũng trùng đúng với ý kiến của tôi. Ý kiến đó là: Hoa Kỳ đang tìm mọi cách để rút ra khỏi Việt Nam. Vấn đề chính của họ là làm thế nào để đạt được sự thỏa thuận của Bắc Việt. Lúc này tình thế cho thấy Bắc Việt đã đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của tổng thống Nixon và ông Kissinger: Trao trả tù binh và gián tiếp nhìn nhận chánh phủ Miền Nam Việt Nam. Để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ rút quân toàn bộ, không để lại dù chỉ là những số quân tối thiểu như ở Đại Hàn trước đây. Hơn nữa, Hoa Kỳ cũng không bắt buộc Bắc Việt phải rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Chúng tôi cùng nghĩ rằng thế nào Hoa Kỳ cũng sẽ chấp nhận. Dĩ nhiên, ông Thiệu sẽ cực lực phản đối những vấn đề đã được Hoa Kỳ thỏa thuận. Sự phản đối của ông Thiệu có thể sẽ đưa đến những tình trạng khó khăn. Tuy thế, cả hai chúng tôi đều biết rằng rồi đây ông Thiệu cũng sẽ phải đầu hàng vì những áp lực của Hoa Kỳ.

      Khi bản dự thảo của hiệp định Ba Lê được công bố, ông Thiệu chẳng những chỉ phản đối mà còn tỏ vẻ phẫn nộ về nhiều điều khoản trong bản thỏa hiệp. Tin đồn càng ngày lan rộng về việc ông Thiệu không được thông báo gì về những điều đã được thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ trong giai đoạn đàm phán cuối cùng. Dĩ nhiên ông Thiệu khó thể chấp nhận việc Kissinger đưa ra những sự đã rồi, nhất là trong một bản dự thảo đầy dẫy những thiếu sót và trước sau bất nhất như bản dự thảo của Kissinger và Lê Đức Thọ . Một trong những điểm khó thể chấp nhận là vấn đề bản dự thảo đã đề cập đến "ba quốc gia" Đông Dương tức là Việt Nam, Lào, Cam Bốt và chỉ đề cập đến một -chứ không phải hai- nước Việt Nam. Vào ngày 23 tháng 10, khi ông Kissinger rời Sài Gòn thì dư luận đồn rằng ông Thiệu đã bác bỏ những thỏa hiệp mà ông Kissinger đã điều đình. Ngày 24, ông Thiệu lên tiếng phản đối trên đài phát thanh, chính thức tuyên bố ông không chấp nhận bản dự thảo thỏa hiệp. Ông Thiệu nói rằng ông không chấp nhận bất kỳ một hình thức liên hiệp nào cả và không đồng ý về việc Hoa Kỳ cho phép Hà Nội vẫn được đóng quân trong lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Ông đưa ra đề nghị đàm phán trực tiếp giữa Sài Gòn và Hà Nội cũng như đàm phán trực tiếp giữa Sài Gòn và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời của Việt Cộng.

      Sau bài diễn văn của ông Thiệu, Sài Gòn lại xôn xao bàn luận về những áp lực của Hoa Kỳ cũng như về mức độ chịu đựng của ông Thiệu. Thái độ cứng rắn của ông Thiệu được dân chúng ủng hộ. Có lẽ đây là phản ứng tự nhiên của một quốc gia nhỏ bé phẫn hận trước những hành động của một đồng minh khổng lồ. Tuy thế, đây chỉ là những phản ứng ban đầu. Chẳng bao lâu sau tình thế cho thấy ông Thiệu không thể tiếp tục chống đối và đã bị buộc phải chấp nhận bản dự thảo thỏa hiệp của Hoa Kỳ và Bắc Việt. Sự thể cho thấy chánh phủ của ông Thiệu quả thật không thể chịu đựng nổi những sự mất mát lớn lao như mất tất cả những sự ủng hộ của Hoa Kỳ.

      Trong tháng 10, tôi và ông Hoàng Đức Nhã gặp nhau thường xuyên hơn. Đây là một trong những giai đoạn khó khăn cho ông Nhã và ông Thiệu. Chánh phủ Việt Nam đã đưa cho ông Kissinger một bản liệt kê gồm 69 điều khoản cần thay đổi trong bản dự thảo thỏa hiệp mà ông Kissinger đã ký kết với Hà Nội. Tuy Kissinger hứa sẽ cố gắng hết sức, mọi người đều thấy rõ Lê Đức Thọ khó thể đồng ý với những điều khoản chính mà chánh phủ Việt Nam yêu cầu, nhất là vấn đề đòi hỏi Hà Nội phải rút quân. Đây đúng là một giai đoạn thử thách của ông Thiệu. Trong giai đoạn này ông Thiệu đã cố gắng đẩy Hoa Kỳ đi vào con đường ông mong mỏi. Riêng về phía Hoa Kỳ thì đây chính là giai đoạn mà họ cho là cần phải đe dọa ông Thiệu. Chánh quyền Hoa Kỳ đã đe dọa rằng nếu ông Thiệu không chịu ký kết thì Hoa Kỳ sẽ cắt đứt tất cả mọi viện trợ bất kể đến vấn đề sinh tử của Việt Nam. Vào ngày 6 tháng 10, tổng thống Nixon đã viết một bức thư nhắc nhở ông Thiệu về trường hợp của ông Ngô Đình Diệm vào năm 1963.

      Riêng đối với ông Kissinger thì phản ứng của ông Thiệu là một sự kiện bất ngờ và đầy cay đắng. Ngay từ lúc đầu tiên ông Kissinger đã xem vai trò của chánh phủ Việt Nam trong các cuộc đàm phán chỉ là vai trò phụ. Chính vì vậy nên ông Kissinger đã cùng soạn thảo mọi việc với tổng thống Nixon và cố tránh tham khảo ý kiến với chúng tôi ít chừng nào hay chừng nấy. Khi Hoa Kỳ quyết định rút lui thì giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng quyết định một cách độc đoán chẳng khác gì chẳng khác gì khi họ tự ý nhập cuộc hoặc tự ý điều động cuộc chiến Việt Nam trong thời gian họ can thiệp. Trong khi đó, về phía Việt Nam thì vì không muốn phải đối đầu với Hoa Kỳ và vì những đe dọa bất an, ông Thiệu đã đóng trọn vai trò thụ động như Hoa Kỳ mong mỏi. Ông đã đồng ý -hoặc tỏ vẻ đồng ý- với tất cả những chính sách và đề nghị do Hoa Kỳ đưa ra. Thực ra thì những cách đối xử của Hoa Kỳ đã khiến ông Thiệu vô cùng phẫn uất. Tuy thế, ông vẫn cố nén sự phẫn uất vì cho rằng Bắc Việt sẽ chẳng bao giờ chấp thuận những điều khoản do Hoa Kỳ đưa ra.

      Thế mà giờ đây, sau suốt bốn năm ngoan cố, Lê Đức Thọ đã bất ngờ đổi thái độ. Và khi Bắc Việt thay đổi thái độ thì việc gì phải đến đã đến. Từ trước đến nay ông Kissinger vẫn chưa bao giờ coi ông Thiệu là bạn cùng cộng tác nên vào giữa lúc ông đang có bản hòa ước trong tay, ông Kissinger chưa hề chuẩn bị đủ để đối phó với những thái độ bất ngờ của ông Thiệu. Trong khi đó, đối với ông Thiệu thì bản dự thảo thỏa hiệp thật chẳng khác nào một tờ giấy nợ bất ngờ tổng kết tất cả những lỗi lầm, thiếu sót ông đã bỏ qua khi đánh mất cơ hội hợp tác với Hoa Kỳ. Sau tất cả những năm tránh né và đồng ý gượng gạo, giờ đây ông Thiệu phải chấp nhận một bản hiệp định mà ông cho là bản hiệp định khai tử Việt Nam.

      Những đàm phán giữa ông Kissinger và Lê Đức Thọ tiếp tục ở Ba Lê vào ngày 20 tháng 10. Hôm đó, Kissinger đem quà tặng cho hai đại diện đàm phán Bắc Việt: Một quyển sách chụp hình đại học Harvard cho Lê Đức Thọ và một đầu ngựa bằng Pha Lê cho Xuân Thủy. Sau đó, ông đưa ra 69 điều tu chỉnh và bổ túc của Việt Nam. Tuy đã có nhiều pha đàm phán thực sự, chẳng bao lâu sau Hoa Kỳ đã thấy chiến thuật đàm phán của Bắc Việt là lửng lơ, không hoàn toàn đi đến kết luận mà cũng không hoàn toàn từ chối đàm phán. Bắc Việt có vẻ như muốn kéo dài thời gian. Có lẽ Bắc Việt đã nhận ra rằng có thể trong cuộc nhóm họp trở lại sau ngày lễ Giáng Sinh có thể quốc hội mới được bầu lên của Hoa Kỳ sẽ cắt bỏ viện trợ cho Việt Nam. Dĩ nhiên họ cũng nóng lòng khai triển những sự bất đồng ý kiến giữa Hoa Kỳ cùng Việt Nam để chuyển những hiềm khích này thành hố thẳm.

      Sau hơn ba tuần đàm phán vô hiệu, vào ngày 13 tháng 12, Lê Đức Thọ trở về Hà Nội để tham khảo ý kiến. Trước khi lên đường trở về, Thọ đã đồng ý hẹn ngày tiếp tục đàm phán vào sau ngày Lễ Giáng Sinh. Tuy thế, vào ngày 14, trong một cuộc họp ở văn phòng tổng thống cùng ông Kissinger và ông Haig, tổng thống Nixon đã kết luận rằng Bắc Việt đang chủ trương kéo dài thời gian. Ông cho rằng ngay cả vào lúc Bắc Việt đang dò dẫm tìm hiểu những hiềm khích thực sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, Bắc Việt cũng vẫn mưu toan buộc chánh phủ Hoa Kỳ phải đối phó với những đạo luật cắt giảm viện trợ của quốc hội.

      Cả ba nhân vật tham dự cuộc họp đều cho rằng Hoa Kỳ cần phải gia tăng áp lực và chứng tỏ sức mạnh quân sự để buộc Bắc Việt phải đàm phán nhanh chóng hơn. Ba ngày sau, những trận mưa bom thay nhau rưới xuống Hải Phòng. Ngay ngày sau đó máy bay B-52 dội bom xuống các mục tiêu ở cả Hải Phòng lẫn Hà Nội. Cuộc dội bom vào ngày Lễ Giáng Sinh đã thực sự bắt đầu.

      Cuộc dội bom là một dấu hiệu nhắn nhủ nhằm hai mục đích: Đối với trung ương đảng ở Hà Nội thì đây là một dấu hiệu chứng tỏ nếu Bắc Việt chịu đàm phán lập tức thì kết quả sẽ tốt đẹp hơn. Tổng thống Nixon nhất định không chịu ngồi yên khi Hà Nội cố ý kéo dài thời gian. Đối với Sài Gòn thì hành động của tổng thống Nixon đã chứng tỏ Việt Nam có thể tin tưởng vào ông trong việc đàm phán. Hành động của Tổng Thống Nixon cũng cho thấy ông không hề e dè khi hành động trái với ý kiến dư luận nếu thực tế đòi hỏi. Cùng với những chuyến tiếp liệu của chương trình Enhance Plus, (Chương trình Enhance Plus chủ trương tiếp tục viện trợ tối đa cho Việt Nam trước khi quốc hội Hoa Kỳ có thể cắt bỏ viện trợ) cuộc dội bom là một hành động chứng tỏ Hoa Kỳ đáng được tin cậy.

      Vào đầu tháng 12, ông Thiệu mời tôi vào dinh độc lập để trao đổi những ý kiến về tình hình chung. Khi cuộc dội bom kết thúc ông Thiệu cho vời tôi trở lại. Lần này ông yêu cầu tôi đi Hoa Thịnh Đốn để chu toàn một sứ mệnh. Mặc dù các áp lực của Hoa Kỳ đang đè nặng, ông Thiệu vẫn muốn thuyết phục Hoa Kỳ phải cứng rắn hơn trong việc điều đình với cộng sản. Ông Thiệu nói với tôi rằng: "Tuy là đã trễ nhưng chúng ta vẫn phải cố gắng làm những gì chúng ta có thể làm được. Tôi nhờ anh giải thích hộ với những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ rằng sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam là một vấn đề sinh tử đối với Việt Nam Cộng Hòa. Có thể giờ phút này đã là quá trễ. Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng như anh đã biết: Còn nước, còn tát."

      Tuy đã gặp rất nhiều khó khăn với ông Thiệu, nhưng lúc này tôi cũng cảm thông được tình cảnh đặc biệt của ông và hơn nữa, tôi nghĩ rằng ý kiến của ông Thiệu về việc không chấp nhận cho phép Bắc Việt có quân đóng ở Miền Nam Việt Nam hoàn toàn đúng. Tôi cũng biết rõ chẳng khác gì ông Thiệu rằng rồi đây chúng tôi khó lòng mà có thể tránh né được áp lực của Hoa Kỳ. Tuy thế, tôi vẫn tin là những nỗ lực cuối cùng dù sao cũng vẫn có vẻ thích đáng. Vì không đề phòng trước cuộc dội bom vào lúc giáng sinh, Bắc Việt đã bị tổn thất nặng nề. Nếu ông Kissinger có thể làm áp lực mạnh hơn không chừng Bắc Việt sẽ lại mềm dẻo. Biết đâu đây chẳng là một cơ hội tốt để khai thác vấn đề?




      Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
      Phan Lê Dũng
      #33
        sóng trăng 02.12.2006 14:08:47 (permalink)
        .
         
        Chương 34
        Hiệp Định Ba Lê


        Thể theo lời yêu cầu của ông Thiệu, tôi đến Hoa Thịnh Đốn vào sáng ngày 5 tháng giêng. Chiều hôm đó tôi cùng cụ Trần Văn Đỗ, ông Trần Kim Phượng (Đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ lúc này) đến gặp ông Kissinger tại văn phòng. Dĩ nhiên chúng tôi đến đây để tiếp tục cuộc thảo luận về bản dự thảo thỏa hiệp đã được Hoa Kỳ và Bắc Việt chấp nhận hồi tháng 10, nhưng sự hiện diện của tôi và cụ Đỗ một phần nào có tính cách tượng trưng. Vì một người là cựu ngoại trưởng, một người là cựu đại sứ, hai chúng tôi được mọi người biết đến như những người có tư tưởng ôn hòa, hiểu biết các quan điểm của Hoa Kỳ. Sự hiện diện của hai chúng tôi ở Tòa Bạch Ốc có nghĩa rằng lập trường của Việt Nam về sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam là một lập trường được sự ủng hộ rộng rãi của đa số dân chúng Việt Nam.

        Trong tất cả những năm tôi được biết ông Kissinger, lúc nào ông cũng cố tạo ra một bầu không khí dễ dãi, thân thiện để bắt đầu các vấn đề, cho dù là những vấn đề gay go nhất. Thường thì ông hay mở đầu bằng một vài câu bông đùa làm cho bầu không khí bớt căng thẳng đi. Nhưng lần này ông Kissinger không hề bông đùa. Tôi mở đầu câu chuyện bằng cách nói thẳng ngay rằng tại sao tôi phải trở lại Hoa Thịnh Đốn, rồi đi vào vấn đề Việt Nam không thể nào thỏa thuận điều kiện để cho Bắc Việt đóng quân ở Miền Nam Việt Nam như đã ghi trong bản dự thảo hiệp định Ba Lê được.

        Ông Kissinger trả lời rằng việc Bắc Việt tiếp tục đóng quân đã được ông Thiệu mặc nhiên chấp nhận từ lâu. Ông Thiệu đã thỏa thuận việc này khi chấp thuận những nguyên tắc ngưng bắn tại chỗ vào tháng 5 năm 1971. Ông Kissinger tiếp lời: "Vì thế đưa ra vấn đề vào lúc này thật là quá trễ. Dầu sao tôi cũng sẽ cố gắng hết sức." Ông Kissinger cả quyết rằng ông không có ảo tưởng gì về những mưu đồ của Bắc Việt trong tương lai, nhưng theo ông thì tương lai của chính sách Hoa Kỳ và những "chiến lược toàn cầu" lệ thuộc vào việc ký kết hiệp định với Bắc Việt. Chính vì thế, ông cho rằng hơn lúc nào hết, lúc này chính là lúc Hoa Kỳ cần phải đoàn kết với Việt Nam. Ông Kissinger trình bày tư thế của Tổng Thống Nixon và ông từ trước đến nay. Ông nêu rõ rằng trong quá khứ, dù là những khi vấn đề chiến cuộc gay go, ông vẫn chưa bao giờ chịu chấp thuận những giải pháp thiển cận của giới phản chiến. Và giải pháp của ông đề ra lúc này không phải là một giải pháp một chiều chỉ nhằm gỡ rối cho Hoa Kỳ và bỏ mặc Việt Nam. Sau khi trình bày tỉ mỉ quan niệm của ông và Tổng Thống Nixon, ông Kissinger kết luận: Đối với tình thế hiện thời tổng thống Nixon và ông đã bị buộc phải quyết định một cách "lạnh lùng" rằng Hoa Kỳ bắt buộc phải ký kết hiệp định Ba Lê vào lúc này. Ngoài ra, ông Kissinger còn tin bản hiệp định sẽ đặt định một căn bản mới cho việc tiếp tục viện trợ cho Miền Nam Việt Nam. Ông cho biết Hoa Kỳ sẵn sàng trả đủa nếu Việt Cộng vi phạm hiệp định.

        Hôm đó, giọng ông Kissinger thật là sắc bén và cách nói chuyện của ông nặng vẻ chống chế. Ông tỏ vẻ bất bình về những tin đồn ở Ba Lê cho rằng ông xem nhẹ ý kiến của những người Miền Nam Việt Nam. Ông phát biểu rằng đây là những tin đồn nhảm nhí. Ông cũng tỏ vẻ bất bình vì những tin đồn khác cho rằng ông đang mưu tính đàm phán sách lược toàn cầu với Nga và một trong những đề mục của cuộc đàm phán đó là Hoa Kỳ sẽ giúp Nga ngăn cản sự ảnh hưởng của Tàu, bất kể đến lợi hại của Việt Nam. Cả hai vấn đề ông bất bình đều là hai vấn đề tự ông đưa ra chứ chính tôi lại chưa đề cập gì những việc đó cả. Tôi trình bày rằng tuy vấn đề Bắc Việt đóng quân ở Miền Nam Việt Nam chẳng làm thương tổn gì đến Hoa Kỳ, đây quả là vấn đề sinh tử của Việt Nam. Ông Kissinger cho biết ông hiểu tầm mức quan trọng của vấn đề và sẽ cố chuyển vấn đề tôi nêu vào việc thương thảo. Tuy thế tôi thấy rằng đây chỉ là một câu trả lời lấy lệ, chẳng có gì đáng tin cậy. Nói tóm lại chỉ có một điểm đáng chú ý trong cuộc tranh luận giữa tôi và ông Kissinger là việc ông Kissinger không muốn tranh luận trở lại những điểm mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa thuận khi trước. Cuộc họp của chúng tôi với ông Kissinger là một cuộc họp tràn đầy thất vọng. Chúng tôi chẳng thấy dấu hiệu nào chứng tỏ sự quyết tâm của ông Kissinger. Tuy rằng về phía Việt Nam chúng tôi chủ quan rằng cuộc dội bom vào lúc Giáng Sinh đã khiến Bắc Việt phải chịu nhiều tổn thất và phải đàm phán mềm dẻo hơn, nhưng sau khi gặp ông Kissinger, tôi thấy rằng Hoa Kỳ không suy nghĩ như chúng tôi. Rõ ràng là Hoa Kỳ cho rằng những tổn thất sau cuộc dội bom vào lúc Giáng Sinh vẫn chưa đủ để ông Kissinger có thể đàm phán quyết liệt cùng Bắc Việt trong lần đàm phán dự định vào ba ngày sắp tới.

        Ngay ngày hôm sau ông Phượng, cụ Đỗ và tôi cùng được mời đến Bộ Ngoại Giao dùng bữa trưa với ông Alexis Johnson. Lúc đó ông Alexis Johnson đang làm việc dưới quyền Ngoại Trưởng Hoa Kỳ. Ngoài ông Johnson ra còn có cả ông Marshall Green, ông John Holdridge, đại sứ Sam Berger và ông Warren Nutter, phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng đặc trách an ninh quốc tế. Lại thêm một lần nữa tôi cùng ông Phượng trở lại vấn đề sự có mặt của quân đội Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam. Hai chúng tôi đều quả quyết rằng vấn đề này thực sự chưa được giải quyết ổn thỏa và đây quả là lúc có thể trở lại vấn đề. Ông Alexis Johnson không hề tranh luận. Trái lại, ông đồng ý rằng cả hai chúng tôi đều đúng trên mặt lý thuyết. Và ông hỏi lại chúng tôi rằng: Nhưng nếu áp lực của quốc hội đang càng ngày càng tăng và Bắc Việt cứ khăng khăng ngoan cố thì còn giải pháp nào khác nữa?

        Sau khi bữa cơm trưa hôm đó chấm dứt, ông Johnson kéo tôi vào một góc phòng và nói nhỏ: "Với tư cách của một người bạn cũ, tôi xin nói với anh rằng, những thái độ cứng rắn của tổng thống Việt Nam trong những tháng vừa qua đã cho thấy rõ rằng ông ta chẳng phải là bù nhìn của bất cứ ai. Nếu tôi không lầm thì có lẽ lúc này ông Thiệu đang ở một trong những cao điểm của cuộc đời chính trị. Lúc này ông ta nên cố giữ những gì gặt hái được. Lúc này là lúc ông Thiệu phải nhận thấy rằng Hoa Kỳ không bao giờ đổi chính sách. Nếu Hoa Kỳ có thay đổi chiến lược thì chẳng qua cũng chỉ là để cố giữ nguyên những chính sách đã đề ra mà thôi. Nếu ông Thiệu từ chối không chịu chấp nhận ký một bản hiệp định, mà chính tổng thống Nixon đã chấp thuận thì hậu quả sẽ tai hại vô lường. Hoa Kỳ sẽ phải cắt đứt tất cả những sự liên hệ với Việt Nam. Và đến giây phút đó thì chính những sự liên hệ của tôi với Việt Nam cũng phải chấm dứt. Tất cả những người bạn mà Việt Nam còn sót lại cũng không còn cách gì khác hơn là hành động giống tôi. Đây là những điều hoàn toàn chân thật tôi nói như một người bạn của Việt Nam đã từ nhiều năm qua."

        Tôi chống chế là Hoa Kỳ đã buộc ông Thiệu phải chấp nhận một tình trạng vô cùng nguy hiểm và lúc này là lúc Hoa Kỳ phải giúp ông Thiệu chu toàn trách nhiệm với người dân Việt Nam. Nhưng ông Johnson lại lộn ngược câu hỏi: "Liệu ông Thiệu có chịu để cho chúng tôi giúp đỡ ông hay không? (Có nghĩa là: Liệu ông Thiệu có chịu ký kết hay không?")

        Ông Alexis Johnson quả thật là một người bạn cũ lâu năm của Việt Nam. Vào năm 1964-1965 ông là phó đại sứ dưới quyền đại sứ Maxwell Taylor. Trong những năm đó, ông đã cố gắng ngăn cản sự can thiệp ồ ạt của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Chính ông Alexis Johnson cũng cảm thấy thất vọng khi chánh phủ dân sự của bác sĩ Quát sụp đổ. Ngoài ra ông còn là người đứng đắn, hiểu biết và đã cộng tác gần gũi với tôi rất lâu. Thế mà giờ đây chúng tôi vẫn nói chuyện với nhau như hai người điếc. Hố sâu ngăn cách đã quá rộng, chúng tôi chẳng còn cách nào có thể dung hòa các chánh sách của Hoa Kỳ và Việt Nam được nữa.

        Tuy thế cuộc tranh luận vẫn còn tiếp tục. Sau khi hết giờ cơm trưa, ông Phượng, cụ Đỗ và tôi lại lên thẳng lầu 7 của Bộ Ngoại Giao để gặp Ngoại Trưởng Rogers. Khi đến nơi, chúng tôi trình bày tỉ mỉ mọi chuyện, và rồi nói với Ngoại Trưởng Rogers rằng sở dĩ chúng tôi phải yêu cầu Hoa Kỳ lưu ý là vì đây là một vấn đề có liên quan đến sự sinh tử của Việt Nam. Nếu các ông đặt mình vào tư thế của chúng tôi thì các ông sẽ thấy quả thật chúng tôi không hề có ý cản trở hòa bình. Chúng tôi chỉ yêu cầu những điều kiện tối cần mà thôi. Tôi nói rằng đối với Hoa Kỳ thì vấn đề Việt Nam chỉ là một trong những vấn đề chính trị. Nếu Hoa Kỳ thua cuộc ở Việt Nam thì vấn đề chỉ là một trang sử của Hoa Kỳ nhưng đối với chúng tôi thì dù có đồng ý, không đồng ý, hoặc đồng ý với điều kiện nào đi nữa thì tất cả vẫn chỉ là một vấn đề độc nhất: Đây là vấn đề sinh tử của Miền Nam Việt Nam.

        Ông Rogers một mực cả quyết rằng tổng thống Nixon chưa bao giờ xem Việt Nam là một vấn đề thứ yếu. Khi bàn đến vấn đề Việt Nam ông Rogers lý luận rằng "những yêu cầu của chúng tôi quả đúng trên mặt lý thuyết (chẳng khác gì ông Johnson đã tuyên bố vài phút trước đây) nhưng, nếu chỉ có lý thuyết mà không có những sự kiện thực tế để bênh vực thì những lý thuyết đó cũng cầm bằng vô dụng. Vấn đề chỉ là chọn cách nào trong số những chọn lựa còn sót lại. Nhưng quả thật thì còn cách chọn lựa nào nữa? Còn con đường nào khác hơn nữa? Với áp lực quốc tế vào lúc này cùng những áp lực của quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ, tình thế cho thấy tổng thống Nixon đã liều lĩnh vì Việt Nam quá nhiều rồi. Ông ta không thể nào đi xa hơn được nữa!"

        Tôi cố dành thì giờ của những ngày còn sót lại, để đến họp với các Thượng Nghị Sĩ, các dân biểu và giới báo chí. Tôi quyết chí tìm cho bằng được những đầu mối có thể ảnh hưởng các chính sách của Hoa Kỳ có liên quan đến việc ủng hộ Việt Nam. Tôi đã tìm đến rất nhiều bạn bè cũ ở quốc hội như ông Hubert Humphrey, ông Jacob Javits, ông John Tower và ông George Aiken. Tôi nghĩ rằng sau khi gặp bốn Thượng Nghị Sĩ vừa kể, tôi sẽ thông tỏ phần nào tình hình của quốc hội Hoa Kỳ vào lúc này. Bốn Thượng Nghị Sĩ đều nói thẳng với tôi rằng quốc hội đã quyết ý chấm dứt chiến tranh. Tôi cũng chẳng thấy ngạc nhiên cho lắm. Cuộc dội bom vào dịp Lễ Giáng Sinh đã gây ra quá nhiều chống đối. Ngay cả những thượng nghị sĩ của đảng Cộng Hòa ủng hộ tổng thống Nixon khi trước cũng đã bắt đầu phản đối ông. Tổng thống Nixon không thể kêu gọi thượng viện ủng hộ được nữa. Từ trước tới nay, lúc nào Hạ Viện cũng đứng sau Thượng Viện trong những quyết nghị cắt giảm viện trợ cho Việt Nam. Thế mà giờ đây cả vấn đề này cũng thay đổi. Mới đây, Hạ Viện còn dẫn đầu Thượng Viện khi bỏ phiếu cho các quyết nghị cắt giảm viện trợ cho Việt Nam. Dĩ nhiên, trong quốc hội Hoa Kỳ chẳng có dân biểu hoặc Thượng Nghị Sĩ nào muốn đứng ra nhận lãnh trách nhiệm cho những nghị quyết cắt bỏ viện trợ, nhưng rất nhiều dân biểu đã tỏ thái độ bằng những cách gián tiếp khác. Họ tìm cách trì hoãn những nghị quyết viện trợ cho Việt Nam và cố giới hạn những quyền hạn của Tổng Thống Nixon về vấn đề viện trợ. Lúc này, tất cả bốn Thượng Nghị Sĩ đều đồng ý rằng vấn đề viện trợ cho Việt Nam có rất ít hy vọng được quốc hội chấp thuận. Tuy vậy, nếu Việt Nam chịu ký hiệp định Ba Lê thì họ cho rằng có thể quốc hội sẽ thay đổi thái độ. Cả bốn Thượng Nghị Sĩ đều nói nếu Việt Nam chịu ký hiệp định Ba Lê thì chính họ sẽ tìm cách vận động để thuyết phục quốc hội thông qua các nghị quyết viện trợ.

        Khi cuộc họp kết thúc, cả hai ông Aiken và Tower vốn là hai bạn thân của tôi trong thượng viện, đều khuyên tôi rằng đây là lúc Việt Nam phải "thực tế" và hiểu rằng Hoa Kỳ thật sự chẳng còn làm gì hơn được nữa.

        Tôi lại đến gặp các bạn bè trong giới báo chí, nhất là những người có nhiều liên lạc với ông Kissinger để cố tìm hiểu xem họa chăng còn có vấn đề gì đã bỏ qua mà không nhìn thấy chăng? Tôi tìm đến các ông Joe Kraft, Marvin Kalb, Murray Marder, ông Chalmers Roberts, tất cả đều có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về vấn đề ngoại giao. Tất cả những người tôi tìm đến đều cùng đồng ý kiến. Họ trình bày với tôi bằng cách này hay cách khác rằng chẳng còn gì để bàn luận. Họ đều đồng loạt cho rằng đã có một sự mặc nhiên đồng ý giữa các cường quốc về việc ngưng bắn. Họ quan niệm rằng đã có nhiều điều được hai bên thỏa thuận: Bắc Việt không còn đòi hỏi lật đổ ông Thiệu. Đây là một trong những điều mà Bắc Việt đã đòi hỏi trong suốt bốn năm. Để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ không đòi hỏi Bắc Việt phải rút quân ra khỏi Miền Nam. Vì thế, sẽ không có biến chuyển gì quan trọng trong những cuộc đàm phán lúc này.

        Vào ngày 9 tháng 1-1972 tôi đến gặp ông Alexander Haig mà trong lòng thất vọng não nề. Ông Haig là người có nhiều kinh nghiệm cả về mặt quân sự lẫn dân sự. Ông đã từng là phụ tá cho cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon trong suốt 4 năm. Kinh nghiệm của ông Haig về vấn đề Việt Nam thật là hiếm có. Ông chẳng những chỉ hiểu biết Việt Nam trên mặt ngoại giao mà đã từng gia nhập cả quân đội tác chiến ở Việt Nam. Vì đã từng là tiểu đoàn trưởng ở Việt Nam trong thập niên 60 nên ông Haig hiểu rõ phong thổ và tánh tình người Việt. Kinh nghiệm đặc biệt này đã khiến ông có những nhận định chính xác về tình hình chiến cuộc Việt Nam. Trước đây, khi tôi còn là đại sứ của Việt Nam ở Hoa Kỳ, tôi đã nhiều lần gặp ông Haig. Lẽ dĩ nhiên tôi thấy tôi có thể nói chuyện với ông Haig rất dễ dàng.

        Khi tôi đến văn phòng ông ở Ngũ Giác Đài, ông Haig cho biết ông vừa mới họp với tổng thống Nixon trong một cuộc họp rất dài. Ông Haig nói rằng Tổng Thống Nixon "hết sức lo ngại" vì những sự chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vì đây chính là cơ hội hiếm có mà Bắc Việt đã hết lòng mong mỏi. Tổng thống Nixon cũng "rất khó chịu" về thái độ của ông Thiệu khi thấy rằng ông Thiệu đang khước từ bản hiệp định trong khi chíng Tổng Thống Nixon đã chấp thuận bản hiệp định đó. Hành động của ông Thiệu đã khiến tổng thống Nixon không thể giúp ông.

        Tôi cắt lời ông Haig để trình bày rằng chính chúng tôi cũng khó chịu không kém. Khi ông Kissinger và tổng thống Nixon mang bản dự thảo thỏa hiệp đến Sài Gòn vào tháng 10-1971, chúng tôi chưa hề được tham khảo ý kiến đầy đủ dù chỉ là trên những điểm chính của bản hiệp định. Ông Haig trả lời rằng: "Đúng, đây quả là một lỗi lầm lớn, một sai lầm đáng kể về phía chúng tôi." (Đây là nguyên văn câu nói của ông Haig. Ngay sau khi gặp ông Haig, tôi đã ghi lại các diễn tiến của cuộc họp và cũng đã gửi điện về Sài Gòn cho ông Thiệu biết rõ vào ngay đêm đó.)

        Tôi nói với ông Haig: "Như ông đã biết, ngay từ khi tôi còn là đại sứ tôi cũng đã nhiều lần nói với ông rằng kể từ tháng 9 năm 1971 cho tới tháng 1 năm 1972 sự trao đổi ý kiến giữa hai chánh phủ không được đầy đủ."

        "Đúng vậy," ông Haig trả lời, "đây là một trong những sai lầm, nhưng thái độ của các ông đối với ông Kissinger cũng có phần quá đáng. Tổng thống Việt Nam đã hiểu lầm ông Kissinger và một phần lỗi quả là do ông Kissinger. Nhưng dẫu sao thì lúc này tất cả đều là chuyện đã qua. Và ngay trong thời gian hiện tại, chẳng lẽ ông vẫn chưa thấy rõ tình cảnh của chúng tôi? Tổng thống Nixon chẳng còn xoay sở gì được nữa. Nếu Việt Cộng đã đồng ý nói chuyện triệt quân, đã đồng ý với mọi thủ tục ngưng bắn, đã đồng ý với mọi thủ tục ký kết thì Tổng Thống Nixon sẽ phải ký kết. Tôi biết chắc ý định của tổng thống Nixon là chấp thuận ký kết. Rồi đây, chính tổng thống Nixon sẽ chánh thức kêu gọi ông Thiệu hợp tác. Nếu ông Thiệu từ chối thì Hoa Kỳ sẽ phải cắt bỏ Việt Nam. Chính tôi cũng sắp sang Việt Nam và khi đó thì chắc chắn là chẳng ai có thể bưng mắt khi phải trực diện với sự thật."

        Tôi trở về tòa đại sứ viết bản báo cáo cuối cùng cho ông Thiệu và sửa soạn sang Pháp cho kịp loạt đàm phán cuối cùng, bên tai tôi vẫn vẳng câu nói "trực diện với sự thật".

        Chiều hôm đó, cụ Đỗ và tôi cùng bay sang Ba Lê. Tại đây Kissinger đã đàm phán cùng Lê Đức Thọ được ba ngày. Tuy chúng tôi vẫn chưa mảy may hay biết những điểm quan trọng đã được thỏa thuận. Vào ngày 8 tháng 1-1972, Kissinger cùng Lê Đức Thọ đã quyết định chú tâm vào hai vấn đề chính: Vùng phi quân sự và các thủ tục ký kết. Nếu vấn đề hiện diện của quân đội Bắc Việt có được bàn cãi đi chăng nữa thì cùng chỉ là một vấn đề bàn cãi suông. Ngay ngày hôm sau, ngày 9 tháng 1, vấn đề ranh giới vùng phi quân sự được hai bên thỏa thuận. Hai bên đều khẳng định sẽ có một hàng rào phân đôi hai miền Nam Bắc. Như vậy vấn đề cuối cùng còn lại chỉ là: Làm thế nào để chữ ký của Ngoại Trưởng Việt Nam sẽ không cùng xuất hiện với chữ ký của đại diện Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Từ trước tới nay chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa vẫn không chánh thức nhìn nhận chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời và vì không chánh thức nhình nhận chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời nên chánh phủ Việt Nam chưa bao giờ ký kết bất cứ điều gì với đoàn thể này. Tuy thế, ông Kissinger cho rằng đây chỉ là một vấn đề thủ tục hơn là hơn là một điểm có tính cách quan trọng thực tế.

        Vào tối ngày 12 tháng giêng, năm nhà ngoại giao của Việt Nam họp mặt cùng các ông Kissinger, William Sullivan và nhiều nhân viên khác để thảo luận những diễn tiến của cuộc đàm phán. Tại Faubourg Saint-Honore, trong cuộc họp mặt tại tư thất của đại sứ Hoa Kỳ, ông Kissinger mở đầu bằng cách tấn công vào hai đặc sứ của Việt Nam là tôi và cụ Đỗ. Vì đã bị quá nhiều nhân viên Việt Nam truy vấn về các điều khoản đàm phán, ông Kissinger lúc này chào đầu chúng tôi với đề nghị rằng có lẽ cả hai chúng tôi nên về Việt Nam ngay để cho ông Thiệu biết rõ lập trường của Hoa Kỳ lúc này. Ông Kissinger lý luận rằng ông Thiệu ắt hẳn phải thấy đây là lúc Việt Nam nên ký kết để hiệp định Ba Lê có thể được công bố trước khi quốc hội Hoa Kỳ có cơ hội cắt viện trợ. Bởi vậy lúc này có lẽ là lúc Việt Nam nên hành động gấp để có thể ảnh hưởng quốc hội Hoa Kỳ. Ý Ông Kissinger có ý nhấn mạnh sự cần thiết của việc phải khẩn cấp đàm phán. Cụ Đỗ đáp trả rằng việc phải đàm phán khẩn cấp với Cộng Sản là việc dễ dàng như trở bàn tay. Các ông chỉ cần thỏa thuận cho họ tất cả những điều họ đòi hỏi là xong.

        Sau những câu chào đón hục hặc đó thì cuộc bàn luận có vẻ bớt xung khắc tuy rằng bên chúng tôi lúc nào bầu không khí cũng nặng nề, nghiêm trọng. Ông Kissinger tổng kết tình hình tất cả các cuộc đàm phán và chỉ ra những tiến triển khả quan. Ông trình bày những điểm khả quan trong những vấn đề như khẳng định vùng phi quân sự, tiếp tục viện trợ cho Việt Nam về mặt quân sự, tăng cường ủy ban giám sát quốc tế và những điểm khả quan trên nhiều phương diện khác. Khi ông Kissinger dứt lời thì phòng họp lặng yên trong vòng một phút rồi cụ Đỗ (theo như tôi nhớ) lên tiếng hỏi rằng: "Thưa ông Kissinger, những tiến triển ông vừa bàn đến quả thật quan trọng nhưng điều quan trọng nhất vẫn là sự hiện diện của các đội quân Bắc Việt ở Miền Nam Việt Nam. Vấn đề này đã được bàn bạc ra sao?" Ông Kissinger trả lời rằng:
        Tuần này, tôi cũng đã bàn đến vấn đề rút quân của các quân đội Bắc Việt gần suốt ba tiếng đồng hồ mà cũng vẫn không đạt được thêm kết quả nào. Tuy nhiên, nếu những điều khoản liên quan đến các vùng phi quân sự ở Lào và Cam Bốt được giữ đúng như bản hiệp định đã đề ra thì trên mặt pháp lý Bắc Việt hoàn toàn không có lý do gì để đóng quân ở Miền Nam Việt Nam. Theo tôi thấy thì Bắc Việt chưa hề đòi hỏi chúng ta phải cho phép quân đội của họ đóng binh ở Miền Nam. Hơn nữa, trong tất cả các điều khoản của hiệp định Ba Lê cũng chẳng có điều khoản nào cho quyền họ đóng quân ở Miền Nam. Tôi có thể cho ông xem những phần trích dẫn trong các tài liệu đàm phán ghi chú lại những điều các đại diện Bắc Việt tuyên bố. Trong những tài liệu đó Bắc Việt tuyên bố rằng họ không hề có quân đóng ở Miền Nam. Chúng tôi có thể cho ông xem một bản chú thích trích dẫn những điều họ tuyên bố. Qua các điều tuyên bố trong tài liệu đó chúng tôi suy luận rằng họ không hề yêu cầu chúng ta phải cho phép họ đóng quân ở Miền Nam Việt Nam.

        Có thể trên phương diện pháp lý thuần túy thì câu trả lời của ông Kissinger còn mang một ý nghĩa nào đó nhưng khi đem áp dụng vào một cuộc chiến giữa hai kẻ thù không đội trời chung thì câu trả lời đó đối với chúng tôi quả là một câu trả lời mang tính chất siêu hình hoàn toàn vô nghĩa. Theo tôi thì đây là một câu trả lời thiếu thành thật. Thử hỏi người Hoa Kỳ sẽ suy nghĩ ra sao nếu có một thành phần thứ ba đứng ra đàm phán cho Hoa Kỳ ký kết một hiệp định cho phép kẻ thù của Hoa Kỳ đóng quân dọc theo suốt biên giới Hoa Kỳ từ California qua New York rồi bằng vào một lô lý luận, kết luận rằng kẻ thù của Hoa Kỳ quả thật không có quyền hiện diện ở những nơi này trên mặt pháp lý?

        Ông Kissinger tiếp tục nói thêm: "Chẳng bao lâu nữa, tổng thống của các ông sẽ phải quyết định liệu có chấp thuận cùng Hoa Kỳ ký kết hiệp định Ba Lê hay không. Qua lần từ chối ký kết vào tháng 10 vừa rồi, rất nhiều đòi hỏi của ông Thiệu đã được thỏa mãn: Một tỷ đô la vũ khí, ba tháng để sửa soạn ngưng bắn và một tình hình khả quan hơn rất nhiều. Nhưng rồi đây chúng ta sẽ phải trực diện với sự thật. Việt Nam phải thỏa thuận hoặc sẽ bị Hoa Kỳ cắt bỏ tất cả viện trợ."

        Cuộc họp với ông Kissinger và ông Sullivan kéo dài đến nửa đêm. Khi trở về khách sạn, tôi lập tức bắt đầu soạn bản tường trình cho ông Thiệu, tóm tắt tất cả những nhận định của tôi sau suốt bảy ngày chống trả:
        Qua các tổng kết của nhiều trường hợp, ý kiến quốc tế và nhất là ý kiến của dân chúng Hoa Kỳ, việc đã cho thấy Hoa Kỳ nhất định sẽ không trì hoãn vấn đề ký kết hiệp định hòa bình ở Việt Nam. Đúng hay sai không còn là vấn đề nữa. Vấn đề chính lúc này chỉ là câu hỏi: Chừng nào sẽ có Hòa Bình? Ngay dù chỉ là một nền hòa bình tạm bợ. Rồi đây, Việt Nam sẽ phải khốn khổ cố tránh né những chỉ trích của toàn thế giới để khỏi bị cô lập hoàn toàn.

        Nếu nói riêng phía Hoa Kỳ thì tôi cho rằng Ngoại Trưởng Rogers, ông Kissinger và ông Haig trên một mức độ nào đó đã có vẻ như cố đe dọa chúng ta. Tuy thế, chúng ta cũng phải nhận thấy những khó khăn của Chánh Phủ Nixon. Một mặt họ không thể giải quyết vấn đề. Mặt khác, họ cảm thấy không thể đi sâu hơn được nữa. Theo như tôi thấy thì tổng thống Nixon không còn chỗ để xoay sở nữa. Tại Ba Lê ông Kissinger đã nói với tôi rằng, "Chắc ông cũng biết chúng tôi rất muốn chiến thắng về mặt quân sự, nhưng việc này vượt ngoài khả năng chúng tôi. Bây giờ là lúc chúng tôi phải tạm ổn định trước khi chúng tôi phải hoàn toàn bó tay."

        Trong tình trạng thúc đẩy hòa bình của Hoa Kỳ và ý kiến chung của cả quốc tế cùng những thực tế chính trị ở Hoa Kỳ, tôi đã hết sức [tìm một giải pháp khác], bởi vì "Còn nước còn tát..." Nhưng quả thật tôi thấy mình đang ở trong một tình trạng cực kỳ thất vọng. Tôi khó thể thu thập bình tĩnh để đưa bất cứ lời khuyên hoặc đề nghị gì vào lúc này. Tuy thế, tôi biết rõ rằng chúng ta đang ở vào một khúc quanh lịch sử. Việc quyết định thật là khó khăn, phức tạp vô độ. Nhưng đây là việc không thể tránh được.

        Theo tôi thì chúng ta phải phấn đấu với tất cả sức mạnh của chúng ta. Và chỉ vào lúc đó chúng ta mới nên quyết định. Việc quyết định nằm giữa hai sự chọn lựa: Khước từ vấn đề ký kết (và nhận lãnh tất cả mọi hậu quả vì quyết định của chúng ta) hoặc ký kết với hy vọng rằng mặc dầu bản hiệp định có rất nhiều khuyết điểm nhưng bằng vào sự đoàn kết của những người trong nhóm quốc gia cùng những hứa hẹn viện trợ của Hoa Kỳ, chúng ta sẽ có thể vượt qua mọi khó khăn. Dĩ nhiên, giữa hai cách chọn, chúng ta cũng có thể chọn cách thứ ba, cách này là chấp nhận hiệp định nhưng khước từ không ký kết. Dầu vậy, tôi xin nói ngay rằng nếu trên mặt lý thuyết cách chọn thứ ba có vẻ hấp dẫn thì trên thực tế cách chọn này vẫn chẳng khác gì cách chọn khước từ không chịu ký kết. Và trong trường hợp này, những hậu quả tai hại giữa chúng ta và Hoa Kỳ cũng vẫn chẳng khác gì [trường hợp chúng ta khước từ không chịu ký kết].

        Tôi hoàn tất bản tường trình vào khoảng 4, 5 giờ sáng. Toàn thể bản tường trình dài khoảng hơn 25 trang. Khi tôi viết xong, bản tường trình được gửi thẳng về Sài Gòn.

        Tôi biết rõ rằng cuối cùng ông Thiệu cũng sẽ phải ký kết. Nhưng bất kể kết cục ra sao, tôi vẫn muốn hết sức làm tất cả mọi việc để thuyết phục các đồng minh khác ngoài Hoa Kỳ. Trước tiên, tôi muốn trình bày cho họ hiểu rõ rằng Việt Nam quả thực không hề có ý ngăn cản hòa bình. Tôi muốn gây cảm tình với những đồng minh khác ngoài Hoa Kỳ vì cho rằng bất kể ông Thiệu có ký kết hay không thì việc vận động để các đồng mình khác ủng hộ Việt Nam vẫn là vấn đề quan trọng.

        Với những toan tính này trong đầu, tôi đến gặp ông Robert Schumann, Ngoại Trưởng Pháp. Tuy rằng những liên hệ ngoại giao giữa Pháp và Việt Nam lúc này có hơi căng thẳng, ông Schumann vẫn đón tiếp tôi rất thân mật . Ông Schumann cho biết rằng Pháp sẽ đồng ý tham gia hội nghị quốc tế về vấn đề Đông Dương. Từ trước tới nay, tất cả những nước ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa đều đề cập đến 4 quốc gia ở Đông Dương là Bắc Việt, Việt Nam Cộng Hòa, Lào và Cam Bốt. Nhưng riêng Bắc Việt thì vẫn có ý coi Việt Nam là một quốc gia và đề cập đến Đông Dương như chỉ bao gồm 3 quốc gia. Việt Nam được đề cập đến như một chứ không phải hai quốc gia như thế giới vẫn thường quan niệm. Tuy rằng lúc này ông Kissinger và Bắc Việt đã cùng thỏa thuận rằng chỉ có 3 quốc gia ở Đông Dương, theo tôi biết thì trong lần đọc diễn văn mới đây, Tổng Thống Pompidou của Pháp đã đề cập đến bốn quốc gia ở Đông Dương. Ông có ý công nhận hai nước Việt Nam thay vì một như Kissinger đã đề trong hiệp định Ba Lê. Những phát biểu của tổng thống Pompidou không hề có gì vô ý cả. Lời nói của ông Pompidou là lời nói của một vị nguyên thủ quốc gia. Lời nói đó xác nhận rằng Pháp sẽ tiếp tục công nhận Việt Nam Cộng Hòa như một chánh phủ hợp pháp khác hẳn với chánh phủ Bắc Việt.

        Trong khi ở Ba Lê, tôi cũng nhân cơ hội đến gặp một số nhà trí thức Pháp và Việt Nam. Tại đây tôi cố dùng cương vị ngoại giao của tôi để gián tiếp ảnh hưởng ông Thiệu. Tôi nói rõ cho ông Thiệu biết ý kiến của giới trí thức và giới ngoại giao ở Pháp về hiệp định Ba Lê, nhưng cố ý nhấn mạnh những điều trùng hợp với sự suy nghĩ của riêng tôi, nhất là về vấn đề đoàn kết. Tôi viết cho ông Thiệu rằng: "Dù chúng ta có được một hiệp định thỏa đáng [ở Ba Lê], nếu không có đoàn kết thì hiệp định này cũng chẳng đi đến đâu. Ngược lại, tuy bản hiệp định mang đầy khuyết điểm nhưng nếu chúng ta đều đồng lòng đoàn kết thì việc cũng chưa hẳn hoàn toàn vô vọng. Cho đến giờ phút này chúng ta cũng vẫn còn chưa tận dụng được những tiềm lực của quốc gia. Vẫn còn rất nhiều những nhân vật quốc gia chưa cộng tác với chính phủ."

        Vào ngày 17, tôi rời Ba Lê sang Luân Đôn đến gặp Ngoại Trưởng Anh Quốc là ông Alec Douglas- Home. Ngoại Trưởng Douglas-Home nhấn mạnh rằng nếu có việc gì nước Anh có thể làm thì xin Việt Nam đừng ngần ngại. Ông Home còn giới thiệu tôi với nhiều dân biểu khác của quốc hội, nhất là những dân biểu cũng cùng ủng hộ Việt Nam như ông. Một trong những người ông Home giới thiệu với tôi là dân biểu James Callaghan của đảng Lao Động, người sau này là thủ tướng Anh Quốc. Ông Callghan cho tôi biết rằng trong những cuộc họp của các đảng xã hội quốc tế mới đây, Anh Quốc cùng Thủ Tướng Golda Meir của Do Thái đã tuyên bố ủng hộ Miền Nam Việt Nam.

        Tôi trở về Ba Lê vào ngày 21 tháng 1-1972 khi có tin cho biết ông Thiệu chấp nhận bản dự thảo hiệp định. Ông Thiệu chỉ bỏ cuộc sau khi đã trao đổi hàng loạt thư từ với tổng thống Nixon và đã "trực diện với sự thật", chẳng những một mà rất nhiều lần. Diễn biến cuối cùng cho thấy ông Thiệu vẫn phải ký kết. Tổng thống Nixon đã nghiêm trang cam kết tiếp tục ủng hộ Việt Nam nếu ông Thiệu chịu ký kết hiệp định Ba Lê, và cũng đã nghiêm trang cam kết cắt bỏ hoàn toàn viện trợ nếu ông Thiệu khước từ. Ông Thiệu hiểu rõ nếu không có viện trợ thì cả chánh phủ của ông lẫn Miền Nam Việt Nam đều không thể đứng vững. Với viện trợ của Hoa Kỳ, ít nhất ông cũng còn một cơ hội. Kết quả là vào ngày 23 tháng 1-1972, hiệp định đã được Lê Đức Thọ và Kissinger ký kết ở Ba Lê. Bốn ngày sau đó hiệp định được tất cả các đương sự ký kết. Hà Nội cùng chính phủ Lâm Thời ký chung trong một trang, Việt Nam cùng Hoa Kỳ ký chung trong một trang khác.

        Một trong những lý do chính khiến ông Thiệu ký kết là việc Hoa Kỳ hứa sẽ mời ông sang Hoa Kỳ gặp tổng thống Nixon. Ông Thiệu cho là chuyến sang Hoa Kỳ đó là tối quan trọng vì hai lý do: Thứ nhất, nếu ông Thiệu được mời sang Hoa Kỳ để gặp Tổng Thống Nixon thì uy tín trong nước của ông Thiệu sẽ gia tăng. Thứ hai: Ông Thiệu muốn đo lường sự quyết tâm của Hoa Kỳ. Ông Thiệu cho rằng ông chỉ có thể khẳng định được thái độ của Hoa Kỳ nếu ông có dịp tiếp xúc mặt đối mặt với Tổng Thống Nixon. Đây là lần đầu tiên ông Thiệu sang Hoa Kỳ. Một trong những câu hỏi đã ám ảnh ông Thiệu trong suốt cuộc đời chính trị của ông là: "Hoa Kỳ thực sự tính toán, mong mỏi điều gì?" Chuyến sang Hoa Kỳ lần này là một cơ hội để ông có thể tìm ra câu trả lời.

        Chuyến viếng thăm của ông Thiệu được dự trù vào ngày 3 tháng 4, năm 1972, ông Thiệu nhờ tôi đến Hoa Kỳ vào tháng hai để sửa soạn mọi việc. Trong khi đó, thì con gái lớn của chúng tôi đang học ở đại học Georgetown lại sắp sửa lập gia đình nên nhà tôi cũng cần phải sang Hoa Kỳ để sắp xếp. Bởi thế trong khi tôi lo sửa soạn cho cuộc họp của ông Thiệu và tổng thống Nixon thì nhà tôi cũng có nhiều việc riêng cần phải sắp xếp, lo liệu.

        Việc sửa soạn chu tất cho chuyến viếng thăm đã khiến tôi liên lạc trở lại với những phụ tá của Tòa Bạch Ốc, với các dân biểu, Thượng Nghị Sĩ, Phóng viên và giới báo chí ở Hoa Thịnh Đốn. Tôi bắt đầu dò dẫm tình hình sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết và đã cảm thấy những khác biệt đáng kể. Những áp lực chống đối đè nặng chỉ mới hai tháng trước đây đã tan biến. Vì tất cả binh lính Hoa Kỳ đã hồi hương và tất cả những tù binh đã được giao trả hoặc sẽ được giao trả, cơn sốt chống đối của Hoa Kỳ đã giảm dần.

        Vào ngày 2 tháng 4, tôi bay từ Hoa Thịnh Đốn tới Honolulu nhằm đón máy bay ông Thiệu để có thể cùng ông sang Los Angeles và từ đó bay về hướng Nam sang San Clemente nơi tổng thống Nixon cư ngụ. Tưởng cũng không cần nói thêm rằng, so với Midway thì San Clemente quả dễ chịu hơn, nhưng đây vẫn không phải là Hoa Thịnh Đốn và tất cả chúng tôi đều không cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn. Chẳng hiểu vì sao một người rành rẽ về giao tế như tổng thống Nixon mà lại có thể không nhận thấy những ảnh hưởng của cuộc họp này đối với dư luận báo chí Việt Nam.

        Nhưng tuy ông Thiệu có vẻ hơi thất vọng về nơi chốn gặp gỡ, ông đã xoay sở để có dịp bàn luận với vị tổng thống Hoa Kỳ. Tổng thống Nixon đã nói những câu ông Thiệu mong mỏi được nghe: "Ông có thể tin tưởng nơi chúng tôi. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ phản ứng thích đáng nếu Bắc Việt vi phạm các điều khoản trong hiệp định Ba Lê." Trong khi ông Thiệu nói chuyện với tổng thống Nixon thì tôi và ông John Holdridge lại không đồng ý về vấn đề nên soạn thảo một bản thông cáo chung thế nào cho phù hợp. Tôi muốn bản thông cáo chung phải bao gồm những ngôn từ mạnh mẽ và chi tiết trong khi ông Holdridge lại có ý muốn dùng những ngôn từ tổng quát. Cuộc tranh luận cứ loay hoay mãi chẳng đi đến đâu và cho đến mãi khi bắt đầu món cocktail thì chúng tôi cũng giải quyết được vấn đề tranh luận.

        Trong bữa ăn tối đó, tôi ngồi cạnh ông Graham Martin, người mà tôi được biết sẽ thay thế ông Ellsworth Bunker làm đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc này ông Bunker đã làm đại sứ được sáu năm và đang sắp sửa về hưu. Dĩ nhiên là tôi cố tìm cách tìm hiểu ông Martin. Tôi đã bỏ ra rất nhiều thời giờ mà vẫn không đạt được kết quả như ý. Tuy tôi biết ông đã từng là đại sứ ở Thái Lan và đã có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc với các quốc gia ở Á Châu, trong bữa ăn tối đó tôi vẫn chẳng biết được thêm điều gì. Cũng giống như tất cả những nhà ngoại giao khác, ông Martin lúc nào cũng giữ đúng phép xã giao nhưng ông lại rất ít nói và có vẻ hơi lạnh lùng. Tôi chẳng biết gì nhiều về ông và cũng chưa biết được rằng về sau ông lại là một đại sứ thiếu thực tế và quá chủ quan.

        Tuy rằng ông Kissinger đã viết trong hồi ký rằng ông cảm thấy hổ thẹn về cung cách Hoa Kỳ đón tiếp ông Thiệu -có vẻ là một cuộc đón tiếp xã giao và quá giới hạn đối với những cuộc tiếp xúc có tính cách quốc gia như những cuộc gặp gỡ này- thật sự thì những nhân vật Việt Nam cảm thấy được khích lệ rất nhiều. Riêng ông Thiệu đã cho buổi gặp gỡ là một thành công. Ông đã được hứa ủng hộ viện trợ về các mặt kinh tế, quân sự cũng như được hứa rằng Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng trả đủa bằng những biện pháp quân sự nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định. Dĩ nhiên là tin tưởng của ông Thiệu tăng lên rất nhiều. Sau đó, chúng tôi bay về Hoa Thịnh Đốn. Trên đường về, ông Thiệu đã mở Champagne và ăn mừng ngày sinh nhật của ông trên máy bay.

        Trong khi tất cả chúng tôi đang ăn mừng thì có lẽ chẳng ai có thể ngờ rằng lúc này, tổng thống Nixon đã bước sâu vào vũng lầy của vụ Watergate. Thực ra thì vào ngay cả khi Tổng Thống Nixon tiếp đón chúng tôi ở San Clemente thì chính ông cũng đang khốn đốn vì tuyệt vọng. Vụ Watergate lúc này sắp sửa được đưa ra trước dư luận và Tổng Thống Nixon đang cố xoay sở để gỡ rối cho tình thế nan giải ngay trong nội bộ Hoa Kỳ. Tuy thế, những gì chúng tôi mục kích trong cuộc tiếp xúc với ông lại hoàn toàn khác hẳn: Tổng Thống Nixon là một vị Tổng Thống đang ở vào lúc tột đỉnh của quyền uy. Đây là một vị tổng thống vừa mới tái đắc cử với gần như tổng số phiếu. Khi gặp ông Nixon ở San Clemente, chúng tôi không hề nhìn thấy bất cứ điểm gì có thể gọi là một điềm bất tường báo hiệu những phong ba sắp sửa xảy ra trên trường chính trị ở Hoa Thịnh Đốn. Chẳng một ai trong chúng tôi lại có thể ngờ rằng rồi đây thế đứng của tổng thống Nixon sẽ hoàn toàn khác hẳn với những ấn tượng của chúng tôi về ông ở San Clemente. Lúc đó, ông Nixon không còn có đủ quyền hạn để chu toàn những nhiệm vụ cơ bản nhất, chứ đừng nói đến ủng hộ Việt Nam vốn là một việc đòi hỏi rất nhiều cương quyết và can đảm.

        Tại Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi gặp phó tổng thống Spiro Agnew, người đứng ra tổ chức bữa tiệc tối để đón tiếp ông Thiệu. Ngay đêm sau đó, ông Thiệu đọc diễn văn ở Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia. Buổi diễn văn diễn ra hoàn toàn tốt đẹp. Ông Thiệu trình bày xuôi chảy vì tôi và ông Nhã đã hì hục suốt cả đêm hôm trước để sửa đổi lại bài diễn văn đã được những nhân viên của ông Thiệu soạn trước cho ông ở Sài Gòn. Chúng tôi đã sửa lại bài diễn văn cho phù hợp với những cử tọa đa nghi ở Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên trong buổi nói chuyện của ông Thiệu, cử tọa vẫn có những câu nghi vấn nhưng họ không hề có những câu hỏi có tính cách chống đối quá đáng như tôi đã lo.

        Khi ông Thiệu đang ở Hoa Thịnh Đốn thì tình cờ vào lúc đó, ông Haig cũng đang ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi nhân dịp mời ông Haig đến tòa đại sứ để trao tặng ông Bảo Quốc Huân Chương của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên tôi có dịp gặp ông Haig sau đợt đàm phán cuối cùng ở Ba Lê. Ông Haig cho biết ông sắp sang Việt Nam. Tin tức tình báo cho thấy đà xâm nhập cùng những kho tiếp vận của Việt Cộng đang ngày càng lan rộng. Tổng Thống Nixon đã ngỏ lời nhờ ông Haig đến xem rõ tình hình hư thực ra sao. Việc ông Haig được tổng thống Nixon gửi đi cũng là một niềm khích lệ đối với Việt Nam. Ông Haig là người hiểu biết, tinh tế và cứng rắn. Khi gửi ông đi, tổng thống Nixon chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đã sẵn sàng hành động. Buồn thay, lúc ông Haig trở về để tường trình về những vi phạm trầm trọng của Bắc Việt thì vụ Watergate đã bắt đầu sôi sục và lúc đó Tổng Thống Nixon không còn đủ khả năng để đối phó.

        Hai ngày sau khi gặp ông Haig ở tòa đại sứ, chúng tôi bay sang Châu Âu. Tại đây lại một lần nữa ông Thiệu mở Champagne ăn mừng chuyến đi thành công. Không khí ấm áp tỏa ra khắp cả máy bay. Ông Thiệu ngỏ lời cám ơn tất cả chúng tôi đã bỏ sức góp phần vào chuyến viếng thăm. Khi nhìn lại thì có lẽ đây là một trong những cao điểm của mối liên hệ phức tạp giữa tôi và ông Thiệu qua gần một thập niên. Ít nhất là vào lúc này cả hai chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng. Ông Thiệu có vẻ như không còn thủ thế, nghi ngờ như trước và tôi thì cũng không đến nỗi phải đè nén những nỗi thất vọng như những năm trước đây. Khi chiếc phản lực cơ 707 vượt qua Đại Tây Dương đêm đó, những tiệc tùng vui vẻ vẫn tiếp tục và vẫn chẳng một ai trong chúng tôi có thể nhìn thấy trước được những diễn biến của vụ Watergate sắp xảy ra trong tương lai. Tôi vẫn chưa nhìn thấy rõ những vụ điều trần mở màn cho việc điều tra vụ Watergate.

        Tại Rome, ông Thiệu được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến. Sau đó phái đoàn Miền Nam Việt Nam ở Ba Lê đến gặp chúng tôi để duyệt lại những tiến triển trong cuộc đàm phán liên quan đến việc thực thi hiệp định Ba Lê. Bản tường trình của ông Phạm Đăng Lâm về những cuộc đàm phán thật là thất vọng. Tại Ba Lê, một cuộc nói chuyện tay ba đang diễn ra giữa những người điếc. Những cuộc đàm phán bao gồm những cuộc nói chuyện của Việt Nam Cộng Hòa và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời, những cuộc thảo luận Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ và những cuộc nói chuyện của Hoa Kỳ và Bắc Việt. Tuy thế, lúc này chúng tôi chẳng còn coi trọng những chuyện đàm phán như trước nữa. Tất cả đều dửng dưng khi ông Lâm nói rằng chẳng có tiến triển gì đặc biệt. Tất cả chúng tôi đều đã cùng đoán trước được điều này. Chẳng hiểu về phía Hoa Kỳ thì ông Kissinger và các phụ tá đã hoan hỉ đến độ nào khi hiệp định Ba Lê được ký kết, nhưng về phía Việt Nam thì tất cả chúng tôi đều đã biết trước câu trả lời cho câu hỏi chính về hiệp định Ba Lê: "Liệu Hiệp Định Ba Lê có đem lại được hòa bình hay không?" Chúng tôi biết rõ rằng câu trả lời của câu hỏi này tùy thuộc vào một câu hỏi khác: "Liệu Hoa Kỳ có trả đủa thích đáng nếu Việt Cộng vi phạm Hiệp Định Ba Lê hay không?" Và chính chúng tôi vừa được nghe Tổng Thống Nixon xác nhận rằng "Có" ở San Clemente.

        Tôi bay từ Âu Châu về Hoa Thịnh Đốn vừa kịp lúc con gái tôi làm lễ cưới cùng một sinh viên trẻ cũng cùng học với con gái tôi ở đại học Georgetown. Sau khi lễ cưới kết thúc, tôi cùng nhà tôi lại bay về Sài Gòn.




        Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
         Phan Lê Dũng
        #34
          sóng trăng 02.12.2006 14:11:56 (permalink)
          .
           
          Chương 35
          Những Việc Cuối Cùng


          Nếu nói về phương diện chính trị thì kể từ giữa năm 1973 trở đi, những biến cố bên trong Việt Nam và trên trường chính trị quốc tế sắp sửa ảnh hưởng đến sự sống còn của Việt Nam. Tuy thế, nếu chỉ nói riêng đến đời sống cá nhân thì cuộc sống của tôi lại hết sức thảnh thơi. Mặc dù những vấn đề trong cũng như ngoài nước đang ngày càng phức tạp, nhưng tôi và nhiều người Việt Nam khác vẫn cho rằng đây chỉ là những khó khăn bình thường như những khó khăn ở các giai đoạn bình thường khác trong lịch sử thế giới. Đã đành rằng nếu nói riêng thì ở Việt Nam vẫn có những tệ nạn tham nhũng và bè cánh trong chính phủ và nói chung thì dư luận thế giới vẫn đang xôn xao vì những xích mích giữa các quốc gia ở Trung Đông, nhưng đây không phải là những vấn đề khó khăn mà Việt Nam và thế giới chẳng thể nào giải quyết. Mặc dù lúc đó đã có tin tức về vụ Watergate ở Hoa Kỳ nhưng ở Việt Nam vẫn chưa ai có thể đo lường được vụ Watergate sẽ ảnh hưởng Hoa Kỳ đến độ nào. Và nếu chỉ nói riêng về sự hiện diện của các vấn đề khó khăn trong trường chính trị thì ở Việt Nam, có lẽ chưa có lúc nào tôi và những nhân viên khác trong chánh phủ không phải đối phó với những vấn đề khó khăn hết sức hiểm nghèo. Chẳng hạn như các khó khăn ở Huế hồi Tết Mậu Thân, các khó khăn trong trận tập kích mùa hè năm 1972..v.v. Hơn nữa, lúc nào chúng tôi cũng vượt qua.

          Riêng về cuộc sống cá nhân thì lúc này tôi bắt đầu sống cuộc sống của một nhân viên ngoại giao bán phần. Tôi đã trở lại làm việc với tờ Post và tờ Gió Mới. Nhưng cũng cùng lúc này, ông Thiệu bắt đầu mời tôi làm đặc sứ. Tôi được gửi đi nhiều công tác khác biệt ở Á Châu, Âu Châu và Hoa Kỳ. Cuộc sống của tôi lúc này khiến tôi cảm thấy mình có thể làm việc trong một khung cảnh thật dễ chịu. Tôi là một công dân có đời sống cá nhân tự do, nhưng hoàn cảnh cũng đưa đẩy tôi gần gũi với chính phủ và tôi cảm thấy mình vẫn có thể tiếp tục đóng góp ít nhiều vào những điều to tát đáng kể hơn.

          Thật ra, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về những gì mà Việt Nam phải làm sau hiệp định Ba Lê và tôi cho rằng việc tôi có thể gặp gỡ ông Thiệu cũng là một dịp tốt để tôi có thể đóng góp ý kiến phần nào vào việc xây dựng quốc gia. Kể từ tháng giêng trước đây, tôi đã bắt đầu soạn thảo một kế hoạch chỉ rõ phương hướng cho các công việc của Việt Nam sau giai đoạn Hiệp Định Ba Lê. Kế hoạch của tôi gồm hai điểm chính: Thứ nhất: Chuyển hướng ngoại giao Việt Nam để tái tạo chính nghĩa cho chính quyền Việt Nam trên trường ngoại giao quốc tế. Thứ hai: Phải cải tổ chính phủ Việt Nam và tìm cách kêu gọi những người quốc gia khác tham gia chánh phủ. Vào giữa năm 1973, tôi bàn luận những ý kiến này với ông Hoàng Đức Nhã và sau đó trực tiếp, thường xuyên hơn với ông Thiệu.

          Tôi nói rằng đây là lúc chính phủ Việt Nam nên trực diện với vấn đề Hoa Kỳ rút quân. Bất cứ chiến lược tương lai nào của Việt Nam cũng khó thể tránh khỏi bắt đầu bằng việc Hoa Kỳ rút quân. Tuy vấn đề Hoa Kỳ rút quân quả là một trong những vấn đề bất lợi cho Việt Nam, tôi cho rằng nếu nhìn qua một khía cạnh khác thì đây vẫn có thể là một lợi điểm. Trong suốt cuộc chiến, tôi đã khốn khổ vì sự hiện diện và ảnh hưởng cuả Hoa Kỳ trong mọi lãnh vực. Vào năm 1965, khi còn là Đổng Lý Văn Phòng cho chính phủ của bác sĩ Quát, tôi đã tham gia vào những biến cố dẫn đến việc đổ bộ của lính Hoa Kỳ. Lúc đó, cả tôi lẫn Bác Sĩ Quát đều đã hết sức lo lắng về những ảnh hưởng bất lợi khi để Hoa kỳ đổ quân vào Việt Nam. Sau này, khi là phụ tá cho ông Kỳ, tôi lại đồng ý là sự can thiệp của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là la lemoindre mal, một sự lựa chọn bất đắc dĩ. Nhưng cũng như nhiều nhân vật khác trong các đảng quốc gia, lúc nào tôi cũng lo rằng rồi đây hành động can thiệp của Hoa Kỳ sẽ khiến chính phủ Việt Nam Việt Nam phải chịu nhiều tai tiếng và mất đi rất nhiều chính nghĩa.

          Vì thế, tôi nghĩ rằng Hiệp Định Ba Lê có thể là một khúc quanh trong đời sống chính trị của Việt Nam. Dĩ nhiên khi Hoa Kỳ rút đi trong một hiệp định cho phép Cộng Sản Bắc Việt tiếp tục đóng quân ở Việt Nam Việt Nam thì họ đã buộc chánh phủ Việt Nam phải chấp nhận một tình trạng nguy hiểm. Nhưng nếu nhìn vấn đề bằng một quan niệm khác thì việc Hoa Kỳ rút quân có thể được xem như một yếu tố có lợi cho Việt Nam. Khi Hoa Kỳ lui binh, ít nhất chánh phủ Việt Nam cũng có cơ hội vãn hồi lại được một phần những chính nghĩa đã mất đi khi Hoa Kỳ can thiệp. Vấn đề của chúng tôi là làm thế nào để xây dựng và tái tạo lại được những chính nghĩa đã mất.

          Vì quan niệm như thế, tôi bắt đầu khai triển một kế hoạch nhằm chuyển hướng ngoại giao của chánh phủ Việt Nam để xóa tan những chỉ trích hiếu chiến và độc tài mà dư luận thế giới đã gán cho Việt Nam, và cũng để xây dựng hình ảnh của Việt Nam như một quốc gia độc lập, có chủ quyền và được cả thế giới công nhận. Muốn áp dụng một kế hoạch như vậy trên phương diện ngoại giao thì chính phủ Việt Nam cần phải tạo được những mối liên hệ tốt đẹp với các quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á cũng như trên thế giới.

          Vào những năm 1973-1974, chính những cuộc bàn luận với ông Thiệu đã góp phần thúc đẩy tôi thăm viếng các quốc gia khác ở Á Châu như Nam Dương, Mã Lai, Singapore, Ấn Độ, Nhật. Tôi cũng được phái sang Nhật và Anh Quốc để tìm các mối liên lạc và tìm viện trợ. Tại Nam Dương và Mã Lai, tôi đã tạo được những mối giao hảo tốt đẹp với những nhà lãnh đạo như ông Abdul Rahman của Mã Lai và Ngoại Trưởng Adam Malik của Nam Dương. Một trong những điều đáng quan tâm khi tôi cùng các lãnh tụ Đông Nam Á đàm luận là việc họ thường xuyên hỏi han về những cam kết của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Mối ưu tư của họ có thể gồm trong hai điều: 1) Liệu Việt Nam có đứng vững hay không? 2) Liệu Hoa Kỳ có đủ kiên nhẫn tiếp tục giúp đỡ Việt Nam hay không? Theo quan niệm của ông Suharto, tổng thống Nam Dương thì Đông Nam Á cần một Việt Nam vững mạnh để chống cộng sản. Vì thế vai trò của Hoa Kỳ trong việc này vô cùng quan trọng. Ông Suharto quan niệm rằng việc ông Thiệu chống đối là việc hoàn toàn đúng. Ông cho rằng bất kể Hoa Kỳ đã điều đình ra sao, ông Suharto nhận định là vẫn khó thể có một hiệp định hoàn hảo giữa chánh phủ Miền Nam Việt Nam và Bắc Việt.

          Tuy thế, đây chỉ là ý kiến mà các lãnh tụ trong khối các quốc gia không liên kết phát biểu trong những cuộc nói chuyện riêng với nhau. Và khi cần phải phát biểu công khai thì họ lại tuyên bố khác hẳn. Ông Malik đã nói với tôi rằng: "Chắc ông cũng rõ là trước công chúng, chúng tôi chẳng thể nào phát biểu như mình suy nghĩ. Chính thật thì chúng tôi cũng chỉ là một quốc gia thuộc khối các quốc gia không liên kết và vì thế chúng tôi phải giữ kín thái độ bên ngoài." Tuy tôi không gặp trở ngại gì khi trao đổi với ông Malik và những nhân vật khác, tôi vẫn lấy làm lạ vì những thực tế chính trị trên trường ngoại giao quốc tế. Nếu đây là những cuộc gặp gỡ từ hai mươi năm trước có lẽ tôi đã phải sững sờ, nhưng giờ đây tôi chỉ âm thầm ghi lại mà thôi. Tôi đã thấy qua quá nhiều lần và biết rằng đây chẳng qua chỉ là những chuyện hàng ngày.

          Riêng ở Ấn Độ thì tôi ít phải đụng chạm với những thực tế trong trường chính trị như ở các nước Nam Dương. Tuy thế, bầu không khí cũng khó chịu hơn. Lúc đầu tôi chỉ bàn luận với những người trong Bộ Ngoại Giao, nhưng rồi tôi cũng không tránh khỏi phải đối diện với bà thủ tướng Indira Gandhi khó tính của Ấn Độ. Những đồng minh quốc tế của Ấn Độ đã xếp nuớc Ấn vào hàng đồng minh với Nga. Và chính Nga cũng đã cung cấp cho Ấn Độ rất nhiều vũ khí. Từ trước tới nay bà Gandhi lúc nào cũng ủng hộ Cộng Sản Bắc Việt. Vì thế, chúng tôi chưa bao giờ có thể sắp xếp để hoàn toàn tiến đến quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, nhưng chúng tôi cũng đã có thiết lập một mối dây liên hệ tổng quát qua lãnh sự quán của Việt Nam ở Ấn Độ. Vì tình trạng ngoại giao của Việt Nam đối với Ấn Độ thật là lỏng lẻo và tôi lại đang cố xây dựng lại những giềng mối Ngoại Giao của Việt Nam nên tôi đến Ấn Độ rất thường xuyên. Đất Ấn bao la đã gây cho tôi những ấn tượng hết sức đặc biệt. Dân số Ấn thật là vô bờ và tôi nghĩ rằng những nỗi thống khổ của người dân Ấn Độ có lẽ cũng vượt quá khả năng và giới hạn của con người. Có lần đi ngang qua một nơi ở Ấn Độ, tôi đã thấy hàng ngàn người dân Ấn ăn mặc rách rưới cứ túa ra xúm vào những người du khách để dành dựt những thứ vặt vãnh như bút máy, luợc chải đầu..v.v. Lần đó, tôi đã so sánh những vấn đề khó khăn của Ấn Độ với những khó khăn của Việt Nam. Tôi cho rằng nếu những khó khăn của Việt Nam không đơn giản hơn thì cũng không đến nỗi quá tầm tay với như những khó khăn của Ấn Độ.

          Tuy ông Thiệu cảm thấy quan niệm việc thực hiện bang giao với các nước lân cận quả thật không mấy khó khăn nhưng ông lại cảm thấy chật vật khi phải đối diện với vấn đề cải tổ thứ hai mà tôi đã đề ra: Phải thống nhất chánh phủ bằng đoàn kết. Đây chính là quan niệm chính trị mấu chốt nhất của các thành phần quốc giao đã ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim khi trước. Đây cũng chính là quan niệm chính trị của những người đã cộng tác với bác sĩ Quát. Vì chính tôi cũng là người đã tham gia các đoàn thể chính trị này nên quan niệm của tôi cũng chẳng khác gì quan niệm của những người mà tôi đã từng có dịp cộng tác chung. Tôi đã cố gắng duy trì ý kiến về vấn đề cần đoàn kết trong những môi trường chính trị khắc nghiệt của Việt Nam kể từ khi những nhà lãnh đạo quân sự đứng ra thay thế chính phủ của bác sĩ Quát. Qua những chánh phủ quân sự, những nỗ lực tiến đến dân chủ đã bắt đầu phát triển và chứng tỏ một phần thành đạt khả quan để rồi cuối cùng chết hẳn sau cuộc độc cử năm 1971. Tuy thế, quan niệm của một quốc gia đoàn kết, tuyển dụng tất cả những nhân tài chính trị từ mọi đoàn thể vẫn chẳng phải là một quan niệm lỗi thời. Trái lại, vào năm 1973-1974, dường như đây là một đề tài càng lúc càng trở nên cần thiết cho vấn đề sống còn của Việt Nam.

          Lúc này, những tình trạng khó khăn bên trong Việt Nam ngày càng gia tăng. Lệnh cấm dầu của Ả Rập ban hành vào mùa thu năm 1973 đã khiến lạm phát tăng vọt lên 50%. Nạn lạm phát cùng những sự giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam gần như khủng hoảng. Đối với đại đa số dân chúng, việc sinh nhai kiếm sống nuôi gia đình ngày càng khó khăn. Về mặt quân sự thì tin tức tình báo ước lượng rằng vào cuối năm 1973 những cuộc tải quân xâm nhập đã đưa con số binh quân đội Bắc Việt trấn đóng ở Miền Nam Việt Nam lên đến 13 sư đoàn. Các lực lượng này đã dùng các tiểu đoàn và có khi cả trung đoàn liên tục tấn công vào các đơn vị Việt Nam để dò xét phản ứng của Hoa Kỳ. Đầu tiên, vì sợ bị Tổng Thống Nixon trả đủa Hà Nội chỉ tấn công một cách dè dặt, nhưng cứ sau mỗi cuộc tấn công dò dẫm không bị B-52 phản công Hà Nội lại gia tăng tầm mức tấn công. Dần dần những nhịp tấn công trở nên ráo riết.

          Khi những đe dọa xã hội, kinh tế và quân sự ngày càng lan rộng, vấn đề cần thiết phải cải tổ đã trở thành hiển nhiên. Chính ông Thiệu cũng biết rằng rất nhiều nhân viên làm việc trong chính quyền ông là những người tham nhũng và thiếu khả năng. Tuy vậy, ông lại không thể kêu gọi ủng hộ và cũng chẳng đủ quyết tâm để tiến hành cải tổ chính phủ. Tuy biết rất rõ những khó khăn và cũng rất thất vọng, ông vẫn chần chừ không chịu giải quyết. Mặc dù thấy rõ Việt Nam cần phải có một chánh phủ đoàn kết và cần phải tận dụng tất cả những tiềm lực của các các đoàn thể chính trị khác, nhưng vì bản tính đa nghi, và cố tật lưỡng lự, chần chờ, ông Thiệu vẫn để mặc cho mọi sự trôi qua. Có lẽ ông tin rằng dù cho chế độ của ông có thiếu khả năng đến đâu đi nữa thì Hoa Kỳ vẫn không thể bỏ rơi ông. Hoa Kỳ đã đầu tư quá nhiều xương máu cùng vật liệu vào Việt Nam. Hơn nữa, những đòi hỏi của chính sách toàn cầu và những lời hứa nghiêm trang của tổng thống Nixon sẽ không cho phép Hoa Kỳ khoanh tay để mặc Cộng Sản nắm phần chiến thắng.

          Chính ngay cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao ông Thiệu lại vui lòng nghe tôi nói về những nhược điểm của chế độ Việt Nam và những yêu cầu phải lập tức sửa đổi. Nỗi thất vọng to lớn của tôi là việc ông Thiệu thường đồng ý với những chỉ trích của tôi.

          Tôi còn nhớ trong một buổi họp Hội Đồng chính phủ thu hẹp do ông Thiệu đứng ra triệu tập vào tháng 3 năm 1974. Cuộc họp lần đó rơi vào đúng khi tôi sửa soạn đi công cán nước ngoài để tìm viện trợ. Mục đích của buổi họp là để các bộ trưởng trình bày với tôi về tình trạng kinh tế cùng quân sự lúc này rồi sau đó ông Thiệu sẽ cho tôi chỉ thị riêng. Trong những lần họp trước, những buổi họp thường kéo dài cả ngày trời mà vẫn chẳng đi đến quyết định gì cụ thể. Lần họp này cũng vậy, các bộ trưởng vẫn chỉ bỏ thời giờ tranh luận với nhau trong khi Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm ngồi đó mà đầu óc dường như đâu đâu, chẳng hề chú ý gì đến những việc đang xảy ra trước mặt. Quá giận, ông Thiệu đã phải chấm dứt cuộc họp. Khi chỉ còn lại mình tôi, ông Thiệu bày tỏ ý kiến của ông một cách bực tức: "Đó, anh có thấy rằng tôi phải chịu đựng như thế nào chưa?"

          Nhưng ông Thiệu không bao giờ có đủ khích động để quyết định. Thay vì hành động, ông Thiệu chỉ đồng ý với những lời chỉ trích thậm tệ của tôi rồi yêu cầu tôi chu toàn công việc này hay công việc nọ. Ông Thiệu hứa rằng ông sẽ đối phó với vấn đề này sau khi tôi trở lại. Có lẽ ông Thiệu có ý muốn nói rằng cơ hội tốt nhất để cải tổ là khi quốc hội Hoa Kỳ đồng ý tăng viện trợ trên các mặt kinh tế và quân sự. Dường như ông Thiệu vẫn chưa hiểu rằng với tình thế Hoa Kỳ lúc này việc tăng viện trợ quả không có chút nào thực tế. Ông Thiệu cho rằng chỉ khi những ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam đã hoàn toàn vững vàng, ông mới có thể ra tay hành động quyết liệt. Và lúc đó sẽ là khi ông thật sự cải tổ. Bởi thế, với những chính sách chần chừ, chờ đợi, thời cơ bắt đầu vượt qua ông và qua cả Việt Nam.

          Từ giữa năm 1973 cho đến năm 1974, tôi thường xuyên đến Hoa Kỳ, theo dõi các diễn biến ở Hoa Thịnh Đốn và làm tất cả mọi việc có thể làm được để giữ viện trợ khỏi bị cắt bỏ. Tôi theo dõi vụ Watergate với nỗi lo lắng ngày một gia tăng, ngạc nhiên khi thấy những nhân viên của tổng thống Nixon cảm thấy cần phải làm những việc họ đã làm. Lúc đầu tôi còn tin rằng rồi đây mọi việc sẽ được dàn xếp ổn thỏa. Làm sao một việc kỳ lạ thế này lại có thể phá hủy được cả một tổng thống Hoa Kỳ? Nhưng vào mùa thu năm 1973, tôi bắt đầu nhận thấy mức độ trầm trọng thực sự của vấn đề và bắt đầu lo lắng về những hậu quả do biến cố này gây ra. Vào cuối tháng 4, hai nhân viên thân tín nhất của tổng thống Nixon là ông Bob Haldemand và ông John Ehrlichman từ chức. Vào ngày 10 tháng 10, tin tức loan báo việc phó tổng thống Spiro Agnew cũng từ chức. Khoảng hơn một tuần lễ sau đó, ông Richardson và phụ tá ông là ông William Ruckelshaus tuyên bố từ chức khi ông Archibald Cox, công tố viên đặc biệt của vụ Watergate bị đuổi. Việc xảy ra vào lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, cố xin đủ các viện trợ quân sự cho Việt Nam. Hành động của ông Richardson đánh thẳng vào Hoa Thịnh Đốn như một tiếng sét trên chính trường Hoa Thịnh Đốn. Qua rất nhiều ngày thành phố dường như tê liệt; chẳng còn ai để tôi có thể nói chuyện về các vấn đề viện trợ Việt Nam. Chánh phủ Nixon đang ngã quị và khả năng tự vệ của Việt Nam đối với những cuộc tấn công của kẻ thù càng trở nên mong manh bội phần.

          Vào tháng 10, quốc hội cho thông qua một đạo luật tổng thống Nixon đã phủ quyết lúc trước, giới hạn quyền lực tổng thống trong việc dùng các lực lượng vũ trang. Lúc này ông không còn đủ quyền lực để nhận lãnh trách nhiệm cho những điều khoản trong hiệp định Ba Lê và cũng chẳng thể chu toàn những lời hứa ông tuyên bố ở San Clemente. Vào đầu năm 1974, tôi đã nhận xét rằng dù cho tổng thống Nixon còn có thể tại nhiệm đi chăng nữa, ông vẫn chẳng thể làm bất cứ việc gì cho Việt Nam như ông đã hứa từ trước.

          Tất cả những diễn biến này, tôi đều đã bàn bạc chi tiết cùng ông Thiệu. Đầu tiên ông Thiệu không thể tin rằng một chuyện nhỏ nhặt tầm thường như thế lại có thể ảnh hưởng đến vị tổng thống Hoa Kỳ. Những khi tình thế ngày càng ngặt nghèo, ông Thiệu bắt đầu lo lắng. Vào tháng 3 năm 1974, ngay khi việc tố cáo còn đang tiếp diễn, ông Thiệu đã gửi tôi đến Hoa Thịnh Đốn để thẩm định tình hình và xem xét khả năng viện trợ của Hoa Kỳ. Trong chuyến đi tôi có gặp Phó Tổng Thống Gerald Ford cùng nhiều nhân vật đã từng cộng tác hoặc cho tin tức tôi trước đây. Nhưng những cuộc gặp gỡ quả thực không cần thiết. Dĩ nhiên chẳng cần phải những người có đầu óc tinh tế mới có thể hiểu rằng giữa tấn thảm kịch của chánh phủ Nixon, vấn đề Việt Nam là một vấn đề chẳng ai thèm chú tâm để ý.

          Khi trở lại Việt Nam, tôi thấy ông Thiệu hoàn toàn đăm chiêu và ít nói năng. Tuy hiển nhiên là đang gặp khó khăn, ông Thiệu vẫn cố gắng dấu những điều ông suy nghĩ. Tôi tin là trong thâm tâm, ông Thiệu vô cùng hoang mang về cả tầm vóc khủng khiếp của những biến cố đang xảy ra ở Hoa Thịnh Đốn lẫn những hậu quả tai hại theo sau. Lúc này, chính tôi cũng đang hoang mang vì những điều như vậy. Vào ngày 9 tháng 8-1973, ông Thiệu cũng rúng động khi thấy tổng thống Nixon từ chức.

          Tuy thế ngay sau đó ông Thiệu lại nhận được một lá thư do tân tổng thống Ford gửi đến như sau: "Tôi tưởng không cần phải viết rõ để thông báo với ông rằng một trong những nét chính của chánh sách Hoa Kỳ là tính cách liên tục của chính sách ngoại giao từ Tổng Thống này qua Tổng Thống khác." Tổng thống Ford viết rằng: "Hơn bao giờ hết, điều này hoàn toàn đúng vào lúc hiện tại. Những lời cam kết của Hoa Kỳ khi trước vẫn được Hoa Kỳ giữ đúng vào lúc này, dưới chánh phủ của tôi." Quá vui mừng, ông Thiệu cho mọi người xem lá thư của tổng thống Ford như thể ông đang nắm trong tay một tờ bảo đảm sinh tồn của Việt Nam. Khi nhìn ông Thiệu, tôi phân vân không hiểu trong thâm tâm ông có nhận định được rằng đây là một trong những điều mong manh nhất trong tất cả mọi điều mong manh, hay quả thực ông vẫn mù mờ chẳng thể nhận định rõ được rằng quyền lực của tổng thống Hoa Kỳ lúc nào cũng bị quốc hội kềm hãm?

          Nếu tháng 8 quả là tháng của những tin tức đưa đến biến động lịch sử Watergate ở Hoa Thịnh Đốn thì ở Việt Nam, Sài Gòn vẫn tiếp tục chìm trong một bầu không khí phẳng lặng. Chúng tôi biết rõ rằng các lực lượng cộng sản vào lúc này đã thiết lập căn cứ quân sự ở Việt Nam với ý đồ cùng tầm mức khác hẳn những lần trước đây. Cộng Sản đang thiết lập nhiều ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam và đang tổ chức một mạng lưới liên lạc quân sự tinh vi. Lúc này Bắc Việt đã chuyển được cả hàng nghìn tấn nguyên liệu chiến tranh về các kho tiếp liệu của cộng sản gần nơi trận địa. Tuy thế, dù đã sẵn sàng về mọi mặt, trung ương đảng Bắc Việt vẫn chưa có quyết định chiến lược nào để mở cuộc tổng tấn công.

          Việc từ chức của tổng thống Nixon đã khiến Bắc Việt quyết định táo bạo hơn. Vào tháng 9, các lực lượng cộng sản gia tăng phạm vi các mặt tấn công. Hiển nhiên những lãnh tụ Hà Nội tin rằng một khi tổng thống Nixon từ chức thì những dự định trả đủa chắc chắn phải giảm bớt. Đã hẳn là sự tin tưởng của họ không có gì sai lầm. Nhưng họ vẫn tiếp tục thử. Mùa khô, vốn dĩ là mùa phù hợp cho các cuộc tấn công lớn chỉ còn cách xa vài tháng. Hình như tình thế vẫn chưa đủ căng thẳng, vào giữa tháng 8, bất kể những lời khẳng định trấn an của tổng thống Ford quốc hội lại cố sức tìm cách cắt bỏ những viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam. Một trong những đạo luật cuối cùng của tổng thống Nixon là viện trợ cho Việt Nam 1.1 tỷ đô la. Nhiều ngày sau đó, quốc hội biểu quyết chỉ viện trợ 700 triệu mà thôi. Cuối cùng, vì nhiều chính sách khác biệt của các Bộ Quốc Phòng, số tiền chánh thức nhận được là 400 triệu. Nạn lạm phát cùng giá dầu tăng vọt đã khiến số tiền viện trợ này thật sự chẳng là bao.

          Chỉ vài tuần lễ sau khi chánh quyền Nixon sụp đổ, chính ông Thiệu cũng phải đối phó với nhiều cuộc khủng hoảng chính trị ở Việt Nam. Những khủng hoảng chính trị ở Việt Nam khởi đầu là do phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Trước đây linh mục Trần Hữu Thanh là người rất gần gũi với ông Ngô Đình Diệm. Phong trào chống tham nhũng của linh mục Thanh khởi đầu vì rất nhiều lý do, bao gồm cả những lý do thực tế lẫn những lý do chính trị. Chỉ trong vòng một tháng, Phong Trào Chống Tham Nhũng đã gây được nhiều ảnh hưởng trong dư luận. Linh mục Thanh tố cáo ông Thiệu, bà Thiệu và những nhân viên trong chính quyền ông Thiệu đúng vào lúc kinh tế đang suy sụp và nạn lạm phát đang ngày càng tăng. Những tầng lớp binh lính, sĩ quan cấp nhỏ, công chức, nông dân và công nhân lúc này đang khốn đốn vất vả. Ngay lúc chống đối, có lẽ phải đến cả 95% những người đang tìm kế sinh nhai bị buộc phải suy nghĩ về vấn đề kiếm sống trong tương lai. Bất kể nguyên do nào khiến họ phải vất vả, phong trào chống tham nhũng của linh mục Thanh vẫn là một nơi khiến họ có thể trút bỏ phần nào những nỗi bất bình mà họ đã phải chịu đựng. Dĩ nhiên một khi linh mục Thanh và nhiều chính trị gia khác đã lên tiếng chỉ trích tệ đoan ở các tầng lớp cao nhất thì những người đang thiếu đủ mọi bề khó thể ngồi yên.

          Tuy vấn đề tham nhũng của chính phủ Việt Nam quả là trầm trọng, riêng cá nhân tôi không cảm thấy vấn đề tham nhũng là nguyên nhân chính tạo nên mọi chuyện. Tôi đã từng đi thăm nhiều nơi ở Đông Nam Á và đã mục kích vấn đề tham nhũng ở rất nhiều quốc gia. Nhưng vì hoàn cảnh Việt Nam lúc này đang giữa lúc chiến tranh nên tình trạng tham nhũng đã bị dư luận chỉ trích dữ dội hơn rất nhiều.

          Chỉ trong một thời gian ngắn, Phong Trào chống tham nhũng đã chuyển thành một chỗ phát tiết chẳng những cho các tầng lớp dân chúng mà còn là nơi phát tiết cho những chính trị gia đối lập với ông Thiệu. Kể từ khi ông Thiệu nắm quyền cho đến năm 1971, ông đã tuyển dụng phần đông những tay chân thân tín của ông và vì thế đã gây ra rất nhiều chống đối. Những người chống đối ông lúc này bao gồm cả những người thiên tả, những người trung lập, Phật Giáo, Công Giáo và ngay cả những người cực hữu. Chống đối dường như từ tất cả mọi mặt, và từ tất cả những đoàn thể đối lập. Lúc này, họ nhân cơ hội phát tiết tất cả thất vọng. Gần như tất cả mọi đoàn thể dưới sự lãnh đạo của linh mục Thanh đã biến thành một phong trào chống chính phủ thay vì chống tham nhũng. Mặt Trận Giải Phóng cũng dính líu vào các vụ chống đối và trong những chống đối hàng ngày chẳng ai có thể phân biệt được chống đối nào là do những đoàn thể hợp pháp tổ chức hoặc chống đối nào là do các ổ Việt Cộng bí mật sách động. Chỉ cần liếc nhìn vào tờ báo mỗi sáng cũng đủ thấy cả Miền Nam đang bùng cháy.

          Trong khi đó thì bên trong chính phủ của ông Thiệu cũng đã có nhiều thay đổi. Lúc này, ông Hoàng Đức Nhã không còn làm việc trong chánh phủ nữa. Ông Thiệu đã bị áp lực trực tiếp của phía Hoa Kỳ buộc ông phải loại ông Nhã ra khỏi chính phủ. Tuy thế, vì tinh thần họ hàng, nên ông Nhã và ông Thiệu vẫn tiếp tục liên lạc với nhau. Vào cuối tháng 9, khi tôi cùng ông Nhã bàn luận về những sự chống đối đang xảy ra khắp nơi trên đường phố thì ông Nhã hỏi có thể giúp gì ông Thiệu để ra khỏi được cuộc khủng hoảng không? Chúng tôi bàn luận thêm rồi cố tìm cách làm giảm bớt các cuộc chống đối. Câu chuyện đẩy đưa và rồi ông Nhã cho tôi biết ông Thiệu sắp sửa lên đài truyền thanh để thuyết phục dân chúng. Ông Nhã hỏi tôi liệu tôi có thể soạn trước một bài diễn văn cho ông Thiệu được không?

          Tôi nghĩ có lẽ đây cũng là một dịp để làm cho tình thế lắng dịu xuống và trả lời rằng nếu cần thì tôi cũng vui lòng góp sức. Cũng như nhiều người khác, tôi hiểu rất rõ những vấn đề tai hại ông Thiệu đã tự mình chuốc lấy khi cô lập hóa những người đầy khả năng có thể là đồng minh hoặc ít ra thì cũng có thể là một nhóm đối lập nhưng vẫn chung thành với ông. Và nếu chỉ nói riêng về chính phủ của ông Thiệu thì dĩ nhiên chẳng ai lại không thấy đa số nhân viên của ông Thiệu chỉ là những người tham nhũng và bất tài. Chẳng những vậy, những phong trào chống đối chính phủ bùng nổ còn cho thấy trong cơn phẫn khích dân chúng đã quên cả vấn đề sinh tử thật mong manh của Việt Nam. Lúc này là lúc Việt Cộng sắp sửa một cuộc tổng tấn công với tầm mức lớn rộng hơn tất cả những lần trước đây. Tôi thấy rõ rằng chính phủ Việt Nam cần phải tìm cách ổn định ngay những cuộc biểu tình chống đối. Và tôi cho rằng ông Thiệu nên kềm bớt phẫn nộ và chú tâm vào những hiểm họa đang kề gần sát sắp sửa phủ chụp xuống Việt Nam.

          Để có thể thực sự giải quyết vấn đề, tôi đề nghị là ông Thiệu nên dùng bài diễn văn như một bước đầu tiên của kế hoạch xoa dịu dư luận. Tôi sẽ vui lòng soạn thảo phần diễn văn nhưng chỉ với điều kiện ông Thiệu phải thực thi những điều ông nói. Ông Nhã cho là chắc chắn ông Thiệu sẽ thỏa thuận, nhưng ông đề nghị tôi nên nói chuyện với Chánh Văn Phòng Phủ Tổng Thống, Đại Tá Võ Văn Cầm trước. Khi nói chuyện với ông Cầm thì ông Cầm cũng hứa sẽ hết sức.

          Tối đó, tôi bắt đầu soạn thảo diễn văn cho ông Thiệu. Đây chẳng qua là một bài diễn văn tôi đã dùng đi dùng lại nhiều lần trong rất nhiều năm. Tôi chuyển bài diễn văn cho hợp với tình trạng chống đối ở Sài Gòn lúc này:

          Tuy tôi không hoàn toàn chấp nhận tất cả những lời lẽ buộc tội của linh mục Thanh và những người đối lập, tôi quả có nhận biết những tệ đoan trong chánh phủ và tôi nhận rằng việc đương đầu với những vấn đề này thật là cần thiết. Tôi vui lòng cùng các ông ngồi lại để bàn luận những cách ngăn ngừa tệ trạng. Nhưng tham nhũng không phải là vấn đề chính mà chúng ta cần đương đầu vào lúc này. Vấn đề chính mà chúng ta cần đương đầu vào lúc này còn trầm trọng hơn vấn đề tham nhũng. Đây là vấn đề sinh tử của quốc gia chúng ta. Như thế, tôi xin chúng ta cùng ngồi lại với nhau, nhưng không phải ngồi lại với nhau trong tư thế chánh phủ và những người đối lập mà là ngồi lại với nhau trong tư thế của những người yêu nước tuy có đang bất đồng ý kiến mà vẫn tạm dẹp hiềm khích cá nhân sang một bên vì quốc gia đang ở vào giờ phút sinh tử.

          Theo tôi nghĩ thì đây chỉ là một lời mở đầu, chưa có gì cụ thể nhưng là một bước tiến quan trọng trong kế hoạch làm dịu bớt căng thẳng cũng như đưa ra vấn đề chính cần thiết cần được bàn luận.

          Vài ngày trước, tôi đã chuyển cho đại tá Cầm bản diễn văn do tôi soạn thảo. Nhưng sau đó, tôi vẫn chưa hề nghe tin gì cả. Buổi tối hôm ông Thiệu đọc diễn văn là lúc tôi đang dùng bữa tối ở nhà một người bạn. Ông Thiệu đang nói chuyện với cả nước nhưng không phải bằng những ngôn từ tôi đã soạn cho ông. Thay vì tìm cách hòa hoãn, nhìn nhận vấn đề rồi từ đó tiếp tục bước tới, ông Thiệu bỏ thẳng vấn đề. Thay vì nói chuyện với những nhân vật đối lập, ông lại nói về Cộng Sản. Ông nói về những người cộng sản đang chống đối ông, về những người cộng sản đang đứng sau giật giây tất cả mọi chuyện. Thay vì chấp nhận chia xẻ một phần trách nhiệm và vui lòng thảo luận với các đoàn thể trong nước, ông Thiệu lại quyết định né tránh vấn đề.

          Khi nghe bài diễn văn, tôi nghĩ thầm rằng có lẽ ông Thiệu đã cho mình là trung tâm của vũ trụ, đã tin rằng chính ông đang mang thiên mệnh. Nhìn ông Thiệu trên Ti Vi tôi thấy dường như ông không hề biết rằng ông đang nói chuyện cùng dân chúng cả nước. Dường như ông Thiệu đã mất hết thăng bằng, có lẽ những năm nắm giữ uy quyền đã khiến ông trở nên mê muội. Ông đã không hiểu những biến cố xảy ra ở Hoa Kỳ và giờ đây chính tôi tận mắt mục kích ông cũng không hiểu nổi chính cả những vấn đề đang xảy ra ngay ở Việt Nam. Nhìn ông Thiệu trên màn truyền hình tôi không khỏi ngột ngạt khi thấy rằng dù đang lúc thập tử nhất sinh mà ông Thiệu vẫn chẳng thể phóng tầm nhìn lên trên những vấn đề uy quyền cá nhân. Quan niệm của ông chỉ là quan niệm của một người làm chính trị, cố theo đuổi và giữ chặt quyền lực. Ngay cả khi kẻ thù đã đến cận kề, sửa soạn nuốt chửng tất cả mà ông Thiệu vẫn chưa nhận thấy ông phải đoàn kết với những đoàn thể đối lập để chống lại kẻ thù chung. Có thể ông Thiệu đã từ chối giải pháp đoàn kết vì ông thấy rằng ông không đủ tài để đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi. Thản hoặc có thể nhãn quan của ông đã khước từ không nhìn nhận những biến cố sắp sửa xảy ra.

          Từ tháng 9-1974 cho đến tháng giêng năm 1975, những vấn đề xích mích nội bộ của Sài Gòn đã làm kiệt quệ tất cả sinh lực và chuyển cả hướng chú tâm của người dân Việt Nam. Miền Nam Việt Nam đã quên hẳn những hiểm họa đang rình rập đón chờ. Chánh phủ đã ngoan cố không chịu thương lượng, những nhóm đối lập lại quá mù quáng không thể nhìn thấy hiểm họa chỉ như mảnh treo chuông. Đa số những người dân Sài Gòn chỉ còn nghĩ đến cách kiếm cơm ngày hai bữa và quá bận rộn vì việc sinh nhai, không thể suy nghĩ về bất cứ vấn đề gì khác. Thật sự thì Sài Gòn đã đứng gần bên bờ vực sụp đổ vì những áp lực bên trong.

          Ngay trong lúc Việt Nam đang kiệt lực thì các lực lượng Cộng Sản mở cuộc tấn công vào giữa tháng 12-1974. Sau ba tuần chiến đấu cam go, Phước Bình đã lọt vào tay Cộng Sản. Các lực lượng Việt Nam không hề phản công. Tại Hoa Thịnh Đốn, chánh quyền Ford cũng chẳng có hành động gì chứng tỏ Hoa Kỳ sẽ ra sức giứp đỡ. Khi chiến cuộc ngày càng lan rộng, tôi bắt đầu thấy mình đang bị dằng co giữa hai tâm trạng hoàn toàn trái ngược. Một mặt thì tôi đã thấy và hiểu rõ những gì đang xảy ra. Nhưng mặt khác, tôi lại không thể chấp nhận những điều trông thấy. Tôi cứ tự trấn an một cách giả dối rằng vấn đề khó khăn lần này chẳng qua cũng giống như vấn đề khó khăn của những lần trước đây, và rồi đây bằng cách nào đó Việt Nam cũng sẽ ổn định trở lại. Nói cho cùng thì chúng tôi cũng đã mục kích nhiều rồi. Chúng tôi đã mục kích Tết Mậu Thân, chúng tôi đã tái chiếm Huế. Chúng tôi đã cầm cự trong khung cảnh khốc liệt của An Lộc. Chúng tôi đã tái chiếm lại được Quảng Trị. Có những lần tưởng như đã đến bước đường cùng mà chúng tôi lại vẫn vượt qua được. Lần này thật ra có gì lấy làm khác biệt?

          Tết năm 1975 rớt vào ngày tháng giêng. Ngay trước ngày tết, ông Thiệu lại phái tôi sang Ấn Độ để xiết chặt mối bang giao với Ấn Độ. Tôi cũng chẳng còn nhớ là mối bang giao nào cần phải xiết chặt vào lúc này nữa. Nhưng bất kể mối bang giao đó là gì, nhà tôi vẫn nhất quyết không cho tôi rời nhà vào ngày Tết đầu năm. Nhà tôi lý luận là tôi phải ở nhà để cùng ăn Tết với gia đình. Hơn nữa, nhà tôi còn nói thêm rằng chắc tôi cũng đã biết ngày đầu năm sẽ là ngày định đoạt may rủi cho suốt cả năm. Nếu vào ngày đầu năm mà tôi lại đi gặp người ngoại quốc thì trong năm còn biết may rủi thế nào được nữa?

          Cuối cùng tôi nói với ông Thiệu vụ ngoại giao ở Ấn Độ sẽ phải hoãn lại; tôi sẽ đi khi sau Tết. Tôi ở lại Sài Gòn cho tới tận mãi tháng 2. Khi tôi trở lại thì một tháng mới đã lại bắt đầu. Đợt tấn công thứ nhì của Việt Cộng đã khởi đầu với những cuộc tấn công của nhiều sư đoàn vào vùng cao nguyên Ban Mê Thuật. Ban Mê Thuật bị tấn công bất ngờ và chỉ hai ngày sau đã lọt vào tay quân địch. Quân đội Việt Nam đã rút lui khỏi Ban Mê Thuật. Có lẽ bất kỳ một người nào khác thực tế hơn tôi cũng phải nhìn thấy ngay rằng đây là những giây phút cuối của Việt Nam. Tôi còn đang chưa biết phải làm gì thì vài ngày sau ông Thiệu cho gọi tôi vào để bàn luận về một sứ mạng cuối cùng. * * * * *




          Sứ mạng bất thành của tôi ở Hoa Thịnh Đốn kết liễu vào ngày 11 tháng 4 năm 1975, khi quốc hội bỏ phiếu khước từ việc gửi viện trợ khẩn cấp sang cho Việt Nam. Ba ngày sau ký giả Bob Shaplen gọi tôi. Ngày 17-4 tôi trở lại Sài Gòn, vừa kiệt sức vì cơn cảm cúm vẫn còn hoành hành, vừa bàng hoàng vì những biến cố xảy ra trong tuần trước. Khi gọi ông Thiệu ở văn phòng thì chánh văn phòng của ông Thiệu là ông Võ Văn Cầm nhắn rằng: "Tổng Thống đang xúc động vì mất Phan Rang. Tổng Thống nhắn rằng xin ông đại sứ để Thủ Tướng tiếp xúc với ông đại sứ trước, rồi sau đó Tổng Thống sẽ tiếp xúc với ông đại sứ sau." Thế là thay vì trực tiếp tường trình mọi chuyện với ông Thiệu, tôi lại được lệnh tường trình với các phụ tá của ông Thiệu trong một buổi họp chính phủ thâu hẹp.

          Cuộc họp thật là ngắn ngủi và căng thẳng. Vài ông Bộ Trưởng bàn luận về việc có thể tiếp tục chiến đấu bằng cách thu quân về vùng đồng bằng Cửu Long và trấn thủ tại đó. Nếu đồn trú đủ lớn và cơ hội trấn thủ vững vàng thì Hoa Kỳ có gửi viện trợ không? Tôi nói với họ rằng "Vì mới về, tôi chưa được rõ tình hình trong nước nhưng đối với Hoa Kỳ thì mọi sự hoàn toàn kết thúc. Việt Nam sẽ chẳng nhận được bất kỳ loại viện trợ nào cả." Chắc chắn sẽ không có viện trợ gì thêm, không súng ống, không đạn dược, không thủy quân lục chiến, hoàn toàn không có gì. Họ ngồi đó, đắm chìm trong im lặng theo những suy tưởng riêng tư. Chẳng ai còn có đủ nghị lực để phá tan bầu không khí yên tĩnh của căn phòng.

          Tại phòng họp tôi gọi tòa đại sứ Hoa Kỳ và được đại sứ Graham Martin mời đến gặp ông tức khắc. Từ trước tới nay ông Martin vốn vẫn là người lạc quan về khả năng thuyết phục của ông đối với Quốc Hội Hoa Kỳ. Trên đường tới gặp ông, tôi thắc mắc chẳng hiểu trong tình thế này thì một người lạc quan như ông Martin sẽ phát biểu gì. Vì là đại sứ, ông Martin tin là ông có thể giúp đỡ Việt Nam và hoàn thành được sứ mạng của ông là giữ được Việt Nam khỏi rơi vào tay Cộng Sản. Ngay cả trong những lúc hiểm nghèo nhất, dường như ông vẫn tin tưởng sứ mạng của ông rồi đây sẽ thành công. Mặc dù mối giao hảo giữa ông và ông Thiệu không mấy đằm thắm, đại sứ Martin vẫn ủng hộ ông Thiệu mạnh mẽ và đều đặn; có lẽ chẳng ai không cảm thấy rằng ông Martin đã chủ quan đến độ gần như không còn thực tế.

          Tuy nhiên lúc này, khi phân nửa lãnh thổ của Việt Nam đã rơi vào tay Bắc Việt và chính phủ vẫn không hề có giải pháp nào khác để ngăn chận bước tiến kẻ thù, ông Martin đã thay đổi hoàn toàn. Trông ông xanh xao tiều tụy và đầy vẻ lo âu. Ông Martin hỏi tôi rằng: "Ông đã gặp ông Thiệu chưa?" Chính đại sứ Martin cũng chưa gặp ông Thiệu mấy lúc gần đây. "Tình trạng thật là trầm trọng. Không ai tại Sài Gòn, kể cả những nhân vật trong giới quân sự còn cho rằng ông Thiệu có thể tiếp tục làm tổng thống." Bất kể nguyên do sợ hãi của ông là gì, đại sứ Martin vẫn tránh bàn luận những vấn đề liên quan đến việc mất Việt Nam. Ông chẳng lượng định tình hình mà cũng không hề có kế hoạch gì thiết thực trong giai đoạn cuối cùng này. Ông chỉ muốn nói về ông Thiệu. "Ông Thiệu không còn có thể đứng vững -Ông Thiệu phải được báo cáo về việc này." Ngay cả vào lúc này mà ông Martin vẫn còn tin tưởng có thể tìm cách điều đình để ổn định tình thế với Bắc Việt. Ông Martin nói với tôi rằng: "Ông phải báo cho ông Thiệu biết rõ sự thật. Nếu cần chính tôi sẽ đến gặp ông Thiệu nhưng ông có thể nào gặp và nói rõ với ông Thiệu rồi liên lạc với tôi sau đó được không?"

          Tôi rời tòa đại sứ và tự hỏi chẳng hiểu tại sao đến giờ phút này mà ông Martin vẫn tin rằng hãy còn những giải pháp chính trị có thể dùng ổn định tình hình, ngay dù chỉ là những giải pháp ngụy trang cho việc đầu hàng. Vài ngày sau, tôi thấy rằng nếu quả thật đại sứ Martin có suy nghĩ sai lầm thì ông cũng không phải là người độc nhất suy nghĩ theo chiều hướng sai lầm đó. Nhiều người khác, từ các nhà chính trị Việt Nam cho đến những viên chức ngoại quốc nhất là Pháp. Mọi người đều có vẻ thiên về chuyện điều đình. Bầu không khí sôi sục trở nên một đề tài cho những ý niệm vô nghĩa xa vời nhất. Vì đã chống ông Thiệu và ủng hộ giải pháp thương lượng cùng Bắc Việt, vài chính trị gia trong các "lực lượng thứ ba" thật sự tin tưởng rằng họ có thể là một nhịp cầu hòa giải giữa hai miền Nam, Bắc. Đã có nhiều người cho đây là một cơ hội để tạo danh tiếng, một cơ hội để làm bộ trưởng hoặc một chức vụ nào đó cao hơn nữa trong một chánh phủ "tạm thời." Dù chỉ là trong khoảng thời gian một hai ngày.

          Trong giới ngoại giao ở Sài Gòn thì các nhà ngoại giao Pháp nổi bật nhất với đề nghị của họ là: "Đàm phán để ổn định tình hình." Những đề nghị của họ một phần là để lấy lại những uy tín đã mất trước đây trong những năm Việt Nam chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ và một phần cũng để sửa soạn cho họ những cơ hội tốt đẹp khi chiến tranh kết thúc. Hơn nữa, những đề nghị của họ cũng là do họ được Hà Nội khích lệ, vị đại sứ Pháp đã công khai đề nghị một giải pháp chính trị để kết thúc thù hận Nam, Bắc. Nhưng khi cố gắng đóng trọn vai trò "trung gian ngay thẳng," đại sứ Jean-Marie Merrillon đã vô tình giứp Hà Nội dồn Việt Nam vào thế bí và đánh lừa dư luận Hoa Kỳ trong lúc Việt Nam đang cố gắng tìm một giải pháp khác với chánh quyền ông Thiệu.

          Tuy thấy rằng những nhà ngoại giao Pháp có thể dựa vào những đề nghị thương lượng để củng cố cương vị cho Pháp, tôi vẫn chẳng hiểu vì sao đại sứ Graham Martin lại có thể cùng suy nghĩ giống họ. Tôi gặp vị đại sứ Hoa Kỳ thêm một lần nữa vào thứ sáu ngày 18 tháng 4 và nói chuyện cùng ông trên điện thoại vào ngày thứ bảy. Ông Martin muốn hỏi rằng tôi đã gặp ông Thiệu hay chưa? Tôi vẫn chưa hề gặp ông Thiệu. Tuy tôi đã nhờ cả đại tá Cầm cùng tướng Trần Văn Đôn lúc này mới được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng quốc phòng nhắn lời mà ông Thiệu vẫn hoàn toàn im lặng. Sau khi nghe tôi thông báo, ông Martin kết luận: "Nếu vậy thì chính tôi phải đến gặp ông Thiệu."

          Những ngày sau đó, tôi về lại chỗ ở thuê của tôi cố dành thời giờ thu xếp tất cả mọi chuyện. Chẳng hiểu bằng cách nào đó, một hệ thống máy in tôi đặt mua cho tờ Saigon Post từ cả năm về trước bỗng nhiên lại được chở đến. Thời gian lúc này cứ trôi qua vun vút, tôi dành đa số thời gian vào việc nói chuyện cùng những bạn bè và họ hàng đang lũ lượt kéo đến chật cả chỗ tôi ở. Người nào cũng nóng lòng hỏi thăm tin tức hoặc xin ý kiến. Tôi đã phải lập đi lập lại câu chuyện không biết bao nhiêu lần: "Đối với Hoa Kỳ thì cuộc chiến đã kết thúc và đối với chúng ta cuộc chiến cũng đã kết thúc." Mỗi lần tôi nói phản ứng của họ đều giống hệt như nhau. Đầu tiên họ lộ vẻ sững sờ -có nhiều khuôn mặt tôi đã quá quen thuộc- như thể họ chẳng thể tin được mức độ tàn nhẫn của sự thật. Sau đó họ yên lặng và cuối cùng họ gục đầu ra về, đắm chìm trong trầm mặc suy tư. Có lẽ họ đang nghĩ về gia đình và chính bản thân của họ. Những khoảng thời gian rảnh rỗi còn thừa lại tôi dùng vào việc thu xếp đồ đạc. Tôi lục đục mãi cho đến thật khuya, đọc kỹ lại những giấy tờ, những sưu tầm của cả một cuộc đời, đốt đi một ít và quyết định mang đi những giấy tờ còn lại.

          Vào ngày 21 tháng 4 năm 1975, ông Thiệu từ chức. Tôi đã đoán trước được việc này; Tôi biết đại sứ Martin đã nói chuyện với ông Thiệu và ông Thiệu chẳng còn đường nào khác. Nhưng khi xem ông Thiệu trên màn truyền hình, tôi vẫn sững sờ. Cũng có thể tôi đã cảm thấy vậy vì quá kiệt quệ cả vật chất lẫn tinh thần. Tôi lắng nghe khi ông Thiệu nói loạn xạ về ông Kissinger, về Hoa Kỳ và về những đàm phán có thể xảy ra, nửa khóc nửa cười trong cùng một lúc. Trong một giây phút ngắn ngủi, đầu óc tôi bỗng dưng tràn ngập suy nghĩ về những cảnh vô chính phủ sau khi ông Thiệu từ chức. Nhưng giây phút ngắn ngủi đó trôi qua thật nhanh. Khi hình ảnh của ông Thiệu biến mất trên màn truyền hình, tôi chỉ có thể nghĩ về một điều duy nhất: Thời cuộc đã đến hồi kết thúc.

          Lúc này là lúc bắt buộc phải ra đi vì quân đội Việt Cộng đã sát gần Sài Gòn và tôi phải sửa soạn rất nhiều nếu tôi muốn mang theo mẹ và chị tôi đi. Vô hình chung, tôi đã chống đối ý niệm ra đi trong tiềm thức. Tôi đã cố đè nén những suy luận thực tế rằng nếu càng ở lâu lại càng phải xoay sở khó khăn hơn vào lúc ra đi. Tôi bước ra khỏi căn gác ngột ngạt để hít lấy ít không khí thoáng mát bên ngoài mà cũng là để nhìn lại thành phố một lần cuối. Khi đi bộ qua đường Nguyễn Huệ, tôi thấy người ta vẫn còn mua hoa ở các quầy bán đứng bên đường và tự hỏi làm sao họ còn có đủ bình thản trong tâm hồn để mua hoa vào lúc này. Tôi hít sâu vào bầu không khí của Sài Gòn lúc đó chẳng khác nào một du khách đang cố tìm ra những nét đặc biệt của nơi chốn mình viếng thăm. Tôi hít sâu như thể đang cố giữ lấy để về sau còn có thể nhớ lại những nét đặc biệt của khung cảnh lúc này.

          Chuyến đi cuối cùng của tôi cũng là nhờ đại sứ Martin tự tay sắp xếp. Ngay lúc đầu tiên, ông đã ngỏ ý giúp tôi. Lúc này, khi tôi gọi lại báo rằng mọi sự đã sẵn sàng, ông lập tức thu xếp cho tôi cùng mẹ và chị tôi đáp chuyến máy bay của Hải Quân sang thẳng Bangkok, rồi từ Bangkok lộ trình của chúng tôi được sắp xếp để chúng tôi có thể đến Hoa Thịnh Đốn bằng một chuyến bay thương mại. Ngày đó, tôi bỏ thì giờ hỏi thăm bạn bè, phần đông tôi chắc chắn sẽ chẳng bao giờ gặp lại. Tôi nhìn quanh nhà lần cuối rồi đưa chìa khóa cho chị người làm. Đêm cuối cùng tôi thức trắng, bỏ thì giờ khuyên mẹ tôi, lúc này đã chín mươi tuổi rằng đây là lúc phải lên đường bỏ lại nhà cửa và tất cả. Tôi cũng xem lại các giấy tờ một lần nữa, đốt thêm một ít, gói phần còn lại vào một chiếc va li lớn. Tôi nhét đầy những hình ảnh gia đình và một số tài liệu riêng trong một chiếc vali nhỏ hơn.

          Trưa hôm sau, ông Joe Bennet, cố vấn chính trị ở tòa đại sứ Hoa Kỳ đến đưa chúng tôi ra sân bay Tân Sơn Nhất, nơi một chiếc máy bay nhỏ đang đợi chúng tôi ngoài phi đạo. Tôi cùng mẹ và chị mang hành lý vào bên trong cùng nhau đợi suốt một giờ trước khi máy bay cất cánh. Cuối cùng máy bay chuyển bánh trên phi đạo và chỉ vài giây sau, chúng tôi đã ở trên không, nhìn Sài Gòn cùng các vùng ngoại ô lướt đi ngay phía dưới.

          Khi những luống cây xanh của vùng đồng bằng Cửu Long hiện ra phía dưới, tôi đã rướn mắt để nhìn rõ những cánh đồng chiêm cùng những con kênh ngang dọc tạo thành những khung bàng bạc trải khắp vùng đồng bằng. Tự dưng buồn bã trào dâng như uất nghẹn. Nước mắt tôi làm mờ dần những hình ảnh thân yêu đang lướt xa phía dưới.




          Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng
          Phan Lê Dũng
          #35
            sóng trăng 02.12.2006 14:19:48 (permalink)
            .
             
            Lời Hậu Luận

            Nếu không kể đến những hoàn cảnh đặc biệt đã cho phép tôi mục kích rõ những yếu tố phức tạp của cuộc chiến Việt Nam, và không kể đến những sự may mắn không cùng đã đưa tôi tránh khỏi những nỗi khốn khó mà những người khác đã gặp phải, thì cuộc đời tôi hoàn toàn giống hệt với cuộc đời những người Việt Nam khác trong cùng thế hệ. Những ước mơ, những nguyện vọng, những bất mãn và những thất vọng trong đời sống của tôi quả không khác gì họ.

            Những người Việt Nam trong cùng thế hệ tôi chớm hiểu biết vào đầu những thập niên 1940 đã hy vọng rằng sau gần một thế kỷ sống như những công dân hạng nhì trong chính quốc gia của mình, rồi đây họ sẽ có cơ hội để phục hồi lại những niềm tự hào cho bản thân và dành lại được chủ quyền cho dân tộc. Họ cũng mong mỏi một ngày nào đó đất nước sẽ hòa bình để họ và con cháu họ được sống một cuộc sống an lành. Rủi thay, thay vì được độc lập, hòa bình và một đời sống an lành như họ mong mỏi, họ chỉ thấy toàn cách mạng, chiến tranh và tàn phá. Trong suốt ba thập niên, họ bị cuộn vào lớp sóng gió phong ba. Cho đến cả thời gian hiện tại tuy Việt Nam không còn phải đối phó với nạn ngoại xâm nữa mà những nỗi khốn khó của họ vẫn chẳng hề suy giảm. Nỗi khốn khổ của họ thật là một tấn thảm kịch vĩ đại của lịch sử.

            Trong một cuộc phỏng vấn với phóng viên Walter Cronkite vào năm 1963, tổng thống Kennedy phát biểu rằng: "Suy luận kỳ cùng thì đây là chiến tranh của họ [những người Việt Nam] và chính họ sẽ là những người phải tự định đoạt lấy phần thắng, bại." Có lẽ tất cả những người sống trong thế hệ chúng tôi đều muốn né tránh những trách nhiệm nặng nề của lời bình luận đó, nhưng chúng tôi vẫn chẳng biết làm cách nào để có thể chối bỏ được nhận định của tổng thống Kennedy. Những người dân Miền Nam, nhất là những người lãnh đạo Miền Nam Việt Nam, trong số có cả tôi, phải nhận chịu tất cả mọi trách nhiệm cho số phận của Miền Nam Việt Nam. Quả tình thì khi suy xét lại cuộc đời chúng tôi đã có rất nhiều điều đáng hối hận và đáng hổ thẹn. Nhưng mặt khác, cuộc chiến Việt Nam cũng là một cuộc chiến mang nhiều yếu tố phức tạp nằm ngoài khả năng của chúng tôi nói riêng và vượt quá giới hạn của khả năng con người nói chung. Chính những yếu tố phức tạp đó đã tạo nên những tình cảnh khắc nghiệt và buộc chúng tôi phải xoay sở trong những tình thế khó xử.

            Yếu tố đáng kể đầu tiên là sự ngoan cố của Pháp khi họ khăng khăng nhất quyết đòi nắm quyền kiểm soát Việt Nam như một thuộc địa thay vì trao lại chủ quyền đúng lúc cho những phần tử quốc gia đang khao khát đợi chờ ngày độc lập. Yếu tố thứ hai là sự ám ảnh về ý thức hệ của những người cộng sản. Tuy chính quyền thực dân của Pháp đã bị lật đổ rời mà những người lãnh đạo cộng sản ở Việt Nam vẫn nhất quyết phải áp đặt cho bằng được những lý thuyết đấu tranh giai cấp của cộng sản trong toàn cõi Việt Nam. Yếu tố cuối cùng là sự can thiệp ồ ạt của Hoa Kỳ. Ba yếu tố này cùng kết hợp bóp méo những cơ cấu nguyên thủy và quá trình tiến hóa của Việt Nam từ giai đoạn sau thực dân trở đi, khiến cho cuộc đấu tranh của Việt Nam trở thành phức tạp và đẫm máu hơn những cuộc đấu tranh của các quốc gia khác cũng ở trong cùng hoàn cảnh.

            Vì bị những giòng giao lưu mãnh liệt của cả ba yếu tố này xô đẩy, những phần tử quốc gia Việt Nam đã rơi vào những tình cảnh vô cùng khắc nghiệt. Trong đa số trường hợp, họ thường bị ép buộc phải chọn một trong những điều khó thể chọn lựa; nói đúng ra thì họ thường chẳng có gì để chọn lựa cả. Khi cuộc sống bị đe dọa, họ bị buộc phải tạm thời chấp nhận những loạt quyết định khó khăn đã làm giảm đi rất nhiều uy tín của họ. Từ biến cố này cho đến biến cố khác -đầu tiên với Pháp, sau đó với Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và rồi cuối cùng với Hoa Kỳ và một chính phủ quân nhân. Lúc nào họ cũng loay hoay cố tạo ra vai trò cho chính mình để gây ảnh hưởng. Nhưng lúc nào họ cũng bị xô dạt ra ngoài, và những ảnh hưởng mà họ tạo được chưa bao giờ đủ mạnh để có thể ảnh hưởng đến những diễn tiến của thời cuộc. Ngay trong lúc chiến tranh còn đang tiếp diễn, đã có lúc tôi và nhiều người khác cùng thấy rằng đất nước có cơ hội để xây dựng dân chủ và phát triển kinh tế. Tuy thế càng lúc những cơ hội ban đầu lại càng mất dần đi và cuối cùng khi Miền Nam Việt Nam phải đương đầu với những cuộc tấn công qui mô của quân đội xâm lăng Bắc Việt được trang bị đầy đủ với súng ống của Nga thì vấn đề còn lại chỉ là chiến đấu để sinh tồn trong một tình cảnh bế tắc không lối thoát. Lúc này, những phần tử quốc gia đã bị buộc phải đấu lưng với những người Việt Nam khác chỉ biết thụ động buông trôi theo số mạng.

            Khi nhìn lại tất cả những yếu tố phức tạp bên ngoài đã đưa đẩy cuộc đời chúng tôi thì sự can thiệp của Hoa Kỳ nổi bật rõ rệt hơn cả. Vì rằng chế độ thực dân của Pháp đã suy sụp hoàn toàn và chỉ còn là những chất liệu cho các sử gia tìm tòi, phân tích. Đối với yếu tố cộng sản thì chỉ có những người mù quáng hoặc cuồng tín mới có thể ủng hộ một chế độ khởi đầu bằng chiến tranh, bóc lột và những cuộc tản cư của đại đa số dân chúng. Như thế, nếu đứng trên phương diện lập chính sách mà kể thì trong ba yếu tố quan trọng vừa kể, chỉ còn sự can thiệp của Hoa Kỳ là một vấn đề mà những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ vẫn cần chú ý. Sau khi Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam, họ vẫn còn phải đối phó với những quyết định khó khăn tại các nơi khác. Những câu hỏi đúng, sai và những vấn đề luân lý đi đôi với những câu hỏi này vẫn là những vấn đề Hoa Kỳ hãy còn tranh luận khi họ thiết lập các chính sách ngoại giao. Ngay cả trong thời gian hiện tại, Hoa Kỳ vẫn còn xem xét, học hỏi những bài học rút ra từ sự can thiệp của họ ở Việt Nam và các đồng minh nhỏ hơn ắt hẳn cũng khó tránh khỏi việc nhìn số phận của Việt Nam để có thể tiên liệu những vấn đề họ có thể sẽ phải đối phó.

            Nếu đi ngược lại lịch sử cận đại của Hoa Kỳ và bắt đầu nhìn vào những dư luận Hoa Kỳ trong thập niên 1960 thì giới phản chiến ở Hoa Kỳ lúc đó chỉ trích rằng những quyết định can thiệp của Hoa Kỳ vào lúc ban đầu là những quyết định sai lầm, vì thế, như một bình luận gia đã lên tiếng: "Hậu quả [của cuộc chiến Việt Nam] là những chuỗi sai lầm." Họ cho rằng chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam sai lầm là vì giới lãnh đạo của thập niên 1960 đã nhận định sai những mục tiêu quyền lợi của Hoa Kỳ. Khi quyết định các chính sách ngoại giao, giới lãnh đạo của thập niên 1960 đã nhận định sai cả tầm mức quan trọng của Việt Nam lẫn khả năng thực sự của Hoa Kỳ.

            Tuy việc Hoa Kỳ định nghĩa thế nào là quyền lợi của họ chẳng phải là việc của tôi và cũng thực sự vượt quá khả năng của tôi, tôi vẫn tin rằng những định nghĩa này được đưa ra dựa trên những sự kiện hoàn toàn thực tế. Tôi còn nhớ rất rõ bầu không khí chính trị tại Hoa Kỳ trong mùa hè năm 1964, vào giữa lúc quốc hội Hoa Kỳ đưa ra nghị quyết vịnh Bắc Việt (Tonkin Resolution) và ngay đúng lúc ứng cử viên Barry Goldwater ra ứng cử. Lần đó là lần đầu tiên tôi đến Hoa Kỳ. Vào thời gian đó, toàn thể chánh phủ Johnson và gần như cả quốc hội Hoa Kỳ đều đã đồng lòng ủng hộ lời cam kết bảo vệ Miền Nam (nghị quyết được Thượng viện thông qua với 98% số phiếu và được Hạ viện thông qua với với toàn thể 416 số phiếu). Báo chí khắp nơi cũng tường trình rõ rệt không kém.

            Hơn nữa, tình hình quốc tế trong thập niên 1960 còn cho thấy rõ rằng chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với thế giới gần như đồng nhất. Chẳng ai có thể bảo rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam chỉ đơn thuần là do vấn đề Bắc Việt hiếu chiến. Vào những năm Hoa Kỳ bắt đầu can thiệp, Cộng Sản mới vừa tấn công Đại Hàn và đài phát thanh Trung Hoa đang phát thanh những quan niệm hiếu chiến nhất và bành trướng nhất: Khối Cộng Sản Trung Hoa toan tính hợp tác với tổng thống thiên cộng Sukarno của Nam Dương để thiết lập một khối liên minh cộng sản từ Bắc Kinh qua suốt qua Jakarta. Đối với những quốc gia vừa thoát ách thực dân và mới thiết lập được chánh phủ vào lúc đó tại Đông Nam Á thì những đe dọa của Trung Hoa quả là một đe dọa trầm trọng đáng kể. Tuy 25 năm sau, nhiều người trong giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã đua nhau chế diễu những đe dọa của Cộng Sản, nhưng trong thập niên 1960 những sự đe dọa của khối Cộng Sản đã khiến chánh phủ Hoa Kỳ lo lắng không cùng. Và nếu nhìn lại tình trạng chính trị vào thời gian đó thì chẳng có gì đáng gọi là phi lý trong quyết định can thiệp của Hoa Kỳ. Sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam, ngay cả trong lúc Hoa Kỳ đổ bộ để can thiệp, dường như cũng chỉ là những phát triển tự nhiên của các chính sách ngoại giao khác của Hoa Kỳ ở Âu Châu (chẳng hạn như Kế Hoạch Marshall, Kế Hoạch Không Vận ở Bá Linh, Hy Lạp) và Á Châu (như ở Đại Hàn). Tất cả những kế hoạch này đều được đặt ra nhằm ngăn chận sự bành trướng của Nga và Tàu (ít nhất thì vào đầu thập niên 1960, chưa ai có thể ngờ rằng về sau Nga và Tàu lại có chuyện xích mích). Đối với những quốc gia đã thành công trong việc xây dựng lại xứ sở và chánh phủ của họ sau thế chiến thứ II như các nước Tây Đức, Hy Lạp và Nam Hàn thì chánh sách can thiệp của Hoa Kỳ thật không có gì lầm lẫn hoặc dựa trên những chánh sách toàn cầu sai lệch. Ở Việt Nam chính sách này thất bại. Nhưng ngay cả sự thất bại ở Việt Nam cũng không phải là những sai lầm trên mặt lý thuyết mà là những sai lầm khi áp dụng. Theo tôi nhận xét thì những nguyên tắc căn bản của chiến thuật ngăn chặn các thế lực cộng sản và bảo vệ các quốc gia dân chủ chẳng có gì sai lầm. Trái lại, tôi cho đây là một điều Hoa Kỳ có thể lấy làm hãnh diện.

            Vào thập niên 1960-1970 những người chỉ trích chiến cuộc tàn khốc hơn đã cho rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam không những chỉ là một quyết định sai lầm mà còn là một quyết định không hợp với tiêu chuẩn đạo đức. Phần lớn những chỉ trích của họ đặt lý thuyết trên quan niệm rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến. Do đó, quyết định can thiệp của Hoa Kỳ là một quyết định sai lầm. Họ cho rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ đã ngăn cản những người Việt đang tranh đấu để lật đổ một chế độ áp bức độc tài trong nước. Và rồi họ kết luận rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ đi ngược lại với những nguyện vọng của dân chúng Miền Nam.

            Theo tôi thấy thì giả thuyết này đã thu hút được đại đa số dân chúng Hoa Kỳ trong một thời gian dài là vì đây quả là một giả thuyết cho phép những người dân Hoa Kỳ đang bất mãn với xã hội có dịp để bày tỏ sự phẫn khích của họ trực tiếp với chánh phủ của họ. Nhưng trên thực tế thì ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến Việt Nam, cả Sài Gòn lẫn Hoa Thịnh Đốn đều biết chắc rằng Mặt Trận Giải Phóng là sản phẩm của đảng cộng sản Bắc Việt và nếu không có sự tổ chức, lãnh đạo, tiếp tế và kể từ năm 1964, nếu không có quân đội chính qui Bắc Việt thì chắc chắn đã chẳng có cách mạng hoặc chiến tranh. Một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là việc chúng tôi chẳng thể dùng những sự hiểu biết đặc biệt của chúng tôi -bằng vào cả những chứng cớ hiển nhiên lẫn những kinh nghiệm cụ thể của bản thân- để thuyết phục được dư luận Tây Phương. Bất kể sự thật có là gì đi nữa, thì dư luận vẫn chỉ nhìn sự thật qua con mắt riêng của dư luận.

            Sau khi cuộc chiến kết thúc, khi tuyên truyền không còn là vấn đề quan trọng, trung ương đảng ở Hà Nội đã hất bỏ lớp ngụy trang. Trong bài diễn văn nói về chiến thắng 1975, Bí thư của đảng cộng sản Hà Nội là Lê Duẩn tuyên bố: "Đảng là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều khiển toàn thể cuộc đấu tranh của nhân dân Miền Nam kể từ ngày đầu tiên của cuộc cách mạng." Trong suốt cuộc chiến, Bắc Việt chưa bao giờ chánh thức công nhận họ có quân đóng tại Miền Nam. (Lê Đức Thọ còn giả vờ che đậy với Kissinger tuy rằng Kissinger đã biết rõ sự thể chẳng kém gì Thọ. Dĩ nhiên, Thọ cũng biết là Kissinger biết rõ mọi sự) Nhưng sau đó, đảng cộng sản vẫn thản nhiên dùng miếng võ lừa phỉnh này trên trường ngoại giao quốc tế. Chẳng những thế, họ còn lấy làm tự đắc đã lợi dụng được sự ngây thơ của thế giới Tây Phương. Năm 1983, trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền hình Pháp, tướng Võ Ban của Bắc Việt đã tuyên bố: "Vào năm 1959, tôi vinh dự được đảng giao phó sứ mạng tấn công vào Miền Nam để giải phóng và thống nhất đất nước."

            Trong những ngày các phong trào phản chiến đang ở đỉnh cao, tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy những nhân vật lãnh đạo của giới phản chiến lại có thể tin tưởng hoàn toàn những điều Bắc Việt tuyên bố. Ngay cả cho đến bây giờ tôi cũng vẫn còn thắc mắc không hiểu họ có hổ thẹn gì về việc họ đã quá dễ tin và vô tình biến thành đồng lõa của Việt Cộng trong tấn thảm kịch Miền Nam hay không? Nhưng thử hỏi có ai còn giữ tin tức của họ? Và nói cho cùng thì đây chẳng qua cũng chỉ là một giai đoạn đã qua trong cuộc đời họ nói riêng cũng như chỉ là một chương sử của Hoa Kỳ nói chung.

            Như thế vấn đề cuối cùng còn sót lại trong câu hỏi "đúng hay sai?" chỉ còn là: Liệu việc Hoa Kỳ can thiệp để ủng hộ cho một chế độ bị coi là tham nhũng và thiếu dân chủ như chế độ của Miền Nam Việt Nam chống lại cộng sản có đúng hay không? Ngay cả tại điểm này, câu trả lời cũng đã quá rõ. Nếu đem so sánh chế độ của Miền Nam với Miền Bắc thì cho dù ông Thiệu có tệ đến độ nào đi chăng nữa, Miền Nam vẫn còn có nhiều triển vọng để thay đổi. Ít ra thì ở Miền Nam người dân cũng còn có thể hy vọng nhìn thấy được tương lai và còn có thể tranh đấu cho những mục tiêu tốt đẹp. Hơn nữa, đã có nhiều chính trị gia, nhiều nhà trí thức cũng như nhiều nhà văn đã từng tranh đấu cho những mục tiêu này. Và nếu nói đến những thể chế của Bắc Việt thì ngoại trừ những lý thuyết gia, có lẽ chẳng ai có thể nghĩ đến việc đem so sánh hơn kém giữa Miền Nam với chế độ khủng bố khiếp hãi của Miền Bắc. Do đó, tôi cũng tin rằng chẳng ai lại đi đặt câu hỏi liệu những nỗ lực bảo vệ Miền Nam có đúng hay không?

            Tôi nghĩ rằng những bài học về sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng chẳng dính líu gì nhiều đến vấn đề sách lược toàn cầu hoặc những câu hỏi đúng, sai trên phương diện luân lý và đạo đức. Những sai lầm của Hoa Kỳ nếu có thì phải là những khuyết điểm trong cách can thiệp của họ. Câu hỏi chính không phải là: "Có nên can thiệp hay không?" mà là: "Làm thế nào để can thiệp cho hữu hiệu?"

            Trong quyển sách này tôi đã diễn tả khá tường tận những biến cố ở Việt Nam khi chánh phủ Johnson bắt đầu can thiệp. Vấn đề nổi bật nhất trong quá trình mù mờ và phức tạp của việc đổ quân (như ông Bill Bundy đã diễn tả) không phải là do thiếu kế hoạch hay thiếu chiến lược mà là thái độ chủ quan quá mức của Hoa Kỳ đối với đồng minh. Ở những cơ quan tối cao của chánh phủ Hoa Kỳ, chẳng hạn như Bộ Ngoại Giao, và Ngũ Giác Đài, gần như chưa có nhân viên nào xem chánh phủ Miền Nam là một cơ quan xứng đáng để họ cộng tác. Đại đa số những người Hoa Kỳ đến phục vụ ở Việt Nam trong thập niên 1960 đều đến Việt Nam với những lý do gần như không dính líu gì đến Việt Nam. Họ tự nắm lấy cục diện Việt Nam một phần vì nóng lòng với lý tưởng, và một phần khác là vì ngây thơ và chủ quan quá mức. Thái độ này kéo dài mãi cho đến ngày cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Kể từ khi họ bắt đầu can thiệp cho đến khi họ rút khỏi Việt Nam, lúc nào Hoa Kỳ cũng hành động như thể cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến của riêng Hoa Kỳ. Dường như Hoa Kỳ cho rằng nếu Việt Nam có thể giúp sức thì việc tốt nhất mà Việt Nam có thể giúp sức là cứ đứng nguyên, đừng lung lay cục diện để Hoa Kỳ có thể làm việc.

            Hậu quả về mặt quân sự của thái độ này là thay vì tìm những giải pháp hữu hiệu và cố giới hạn sự can thiệp của họ ở Việt Nam thì Hoa Kỳ lại tự khoác gánh nặng lên vai. Thực ra thì nếu giới lãnh đạo Việt Nam được tham khảo ý kiến vào năm 1965 thì có lẽ họ sẽ xin Hoa Kỳ đừng can thiệp hoặc chỉ xin Hoa Kỳ can thiệp với những nỗ lực quân sự hết sức giới hạn. Có lẽ họ chỉ xin Hoa Kỳ can thiệp quân sự ở những miền biên giới để có thể ổn định tình hình quân sự và chặn đứng sự xâm lược của Bắc Việt mà thôi. Một hiệp định giữa Hoa Kỳ, Miền Nam và Lào cho phép Hoa Kỳ đóng quân dọc theo vĩ tuyến thứ 17 như một hàng rào để ngăn chận Bắc Việt có lẽ là giải pháp thích hợp nhất vào lúc đó. Khi Hoa Kỳ đã đóng quân ngăn chận tại biên giới, kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh có thể được thi hành để huấn luyện đúng mức quân đội Miền Nam.

            Một chiến thuật đơn giản như vậy có thể nào thành công không? Đây là một trong những câu hỏi "Nếu" trong phạm vi chiến cuộc Việt Nam. Đại tá Harry Summers, trong quyển Chiến Lược Luận (On Strategy) đã viết rằng chiến thuật này có thể thành công. Ông cũng kết luận rằng phân cách hai lực lượng Nam Bắc và rồi gia tăng sự huấn luyện cho những đơn vị của quân đội Miền Nam quả là giải pháp can thiệp hữu hiệu nhất của Hoa Kỳ. Dù gì đi nữa thì giải pháp này cũng thể hiện được những mục đích tối đẹp của quân đội Hoa Kỳ như những lực lượng bảo vệ hòa bình và giúp đồng minh Việt Nam thoát khỏi ách xâm lăng. Chiến thuật này cũng sẽ khiến Hoa Kỳ có thể giảm thiểu tổn thất về tài vật, đạn bom và nhân mạng của cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam và giúp Hoa Kỳ tránh được những chỉ trích của dư luận thế giới.

            Tiếc thay, chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam lại là một chính sách khác hẳn kế hoạch của đại tá Summers về mặt quân sự. Và nếu nhìn trên phương diện ngoại giao thì chánh sách can thiệp của Hoa Kỳ thường là những chính sách được áp đặt một cách độc đoán bất kể thái độ của đồng minh. Chính thái độ này đã khiến Hoa Kỳ phải hứng lấy cả những hậu quả tai hại về mặt chính trị. Nếu chỉ xét riêng về các chính sách can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam thì có lẽ ai cũng phải thấy ngay rằng chính sách của Hoa Kỳ thiếu liên tục. Trong suốt cuộc chiến, các chính sách của Hoa Kỳ không thúc đẩy đều những tiến triển dân chủ ở Việt Nam. Dĩ nhiên xây dựng một chế độ dân chủ ở Việt Nam là một việc có nhiều triển vọng. Giữa năm 1965 và năm 1967, Việt Nam đã soạn thảo và công nhận hiến pháp, bầu cử tổng thống, phó tổng thống, các nhân viên lập pháp và thành công trong các cuộc bầu cử địa phương. -Tất cả những tiến trình này đều xảy ra vào giữa lúc Việt Nam đang có chiến tranh. Tuy rằng những tiến triển dân chủ ở Việt Nam trong năm 1960 quả là những tiến triển đáng kể nhưng có lẽ nếu những tiến triển dân chủ trong giai đoạn đó không ngẫu nhiên trùng hợp với những mục tiêu của chánh phủ Johnson thì những phong trào dân chủ ở Việt Nam vẫn khó thể thành công.

            Rủi thay, những mục tiêu của chính quyền Johnson lại không dược tiếp tục. Khi chính quyền Nixon đưa ra chiêu bài "uyển chuyển" thì những mục tiêu dân chủ ở Việt Nam không còn được chú ý. Vào giai đoạn cuối thập niên 1960-đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ chỉ đòi hỏi Sài Gòn chứng tỏ một vẻ mặt ổn định mong manh phía ngoài. Tuy Hoa Kỳ cũng biết rằng phương châm "uyển chuyển" có thể làm những tiến trình dân chủ ở Việt Nam suy nhược, nhưng họ lại không mấy chú tâm về điểm này. Vào năm 1969, ông Kissinger và tổng thống Nixon đã bắt đầu một cuộc cờ phức tạp, vận động ngoại giao giữa các thế lực siêu cường, vận động quân sự và đàm phán bí mật để kéo Hoa Kỳ ra khỏi vũng lầy Việt Nam. Giữa những biến số chập chồng của bài toán phức tạp này, họ cần phải có một Miền Nam hoàn toàn ổn định, bảo sao nghe vậy. Họ cho rằng nếu ông Thiệu có thể đáp ứng được điều này thì tất cả những hành động khác của ông đều không đáng kể.

            Đây là một lỗi lầm trầm trọng đã đưa đến những bất lợi lớn lao cho cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam. Thứ nhất, nếu chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ tham nhũng và thiếu dân chủ thì quốc hội Hoa Kỳ có thể vin vào đó mà cho rằng Việt Nam không phải là một quốc gia xứng đáng để được Hoa Kỳ ủng hộ. Thứ hai, nếu chánh phủ Việt Nam quả là một chánh phủ tham nhũng thì đại đa số dân chúng Việt Nam sẽ thất vọng và thờ ơ với thời cuộc. Và rồi thay vì chú tâm vào việc xây dựng đất nước thì dân chúng lại chỉ đợi dịp để hưởng ứng các phong trào chống tham nhũng. Trong một buổi nói chuyện tại viện American Enterprise Institute, ông Charlaes Mohr, một phóng viên kỳ cựu của tờ New York Times tóm tắt gọn ghẽ rằng: "Chúng ta thất bại tại Việt Nam không phải vì chúng ta chưa tận lực làm áp lực với đối phương mà là vì chúng ta chưa tận lực làm áp lực với đồng minh." Dĩ nhiên, dùng áp lực để đòi hỏi cải cách và dân chủ là một vấn đề cực kỳ khó khăn, nhưng trong trường hợp Hoa Kỳ nắm phần chủ chốt thì các chánh sách ngoại giao của Hoa Kỳ vẫn có thể thành công .

            Để có thể thành công trong vai trò này, có hai điều kiện tiên quyết cần phải có trước. Một là cương quyết đưa ra những chủ trương mạnh mẽ đồng nhất. Hai là chấp nhận hậu quả nếu những áp lực của Hoa Kỳ quả thật không có hiệu lực. Hoa Kỳ phải tìm cách nói với ông Ngô Đình Diệm hoặc ông Nguyễn Văn Thiệu, (hoặc ông Ferdinand Marcos hoặc ông Augusto Pinochet), "Chúng tôi không còn cách nào khác ngoài cách phải giữ vững những điều chúng tôi tin tưởng. Nếu vì lý do gì đó, ông không thể đồng ý với những nguyên tắc của chúng tôi thì quả thật chúng tôi chẳng thể làm gì khác hơn là bỏ mặc ông. Với những quyền lực và uy tín lớn lao, Hoa Kỳ không thể cho phép mình khoanh tay trước một nhân vật độc tài yếu hơn. Hoa Kỳ không thể để cho những nhân vật độc tài tin tưởng rằng vai trò của họ quan trọng đến nỗi Hoa Kỳ không thể làm gì khác hơn là phải ủng hộ họ. Nếu Việt Nam có một bài học để dạy thì bài học đó là không ai có thể cứu vớt được những người chẳng đếm xiả gì đến hành vi của họ. Thà là rút lui và chịu tổn thất còn hơn nhắm mắt đầu tư tài nguyên, xương máu và uy tín vào những nhân vật độc tài cầm quyền bất kể dư luận và ý kiến của dân chúng trong quốc gia của họ.

            Tại Việt Nam tôi luôn tin tưởng rằng giữa những đoàn thể người Việt đứng đắn khó thể có việc bất đồng ý kiến về những vấn đề như bài trừ tham nhũng, cải cách kinh tế, thay đổi xã hội. Tôi cũng tin là các phương pháp dân chủ có thể được áp dụng tại Miền Nam chẳng khác gì tại những nơi khác. Khi bàn luận về những biến chuyển ngoại giao trong các thập niên ông đã tường trình, ký giả Rosenthal của tờ New York Times đã phát biểu: "Chính sách của chúng ta phải thế nào? Phải phản ảnh những điều chúng ta tin tưởng và tôn trọng. Niềm tin của chúng ta chính là Tự Do Chính Trị. Điều chúng ta tôn trọng cũng chính là Tự Do Chính Trị. Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể đem lại những điều này cho các quốc gia khác. Tuy thế, điều lúc nào chúng ta cũng có thể làm là bảo vệ những điều chúng ta tin tưởng... Việc này đòi hỏi hai yếu tố: Chúng ta phải sáng suốt, nhận định rõ tương lai và tư tưởng của chúng ta phải đồng nhất, trước sau như một. Những người Haiti, Phi Luật Tân, Đại Hàn, A Phú Hãn dường như đã nhận định rõ ràng những gì họ có thể yêu cầu từ chúng ta. Cả những người Tiệp Khắc và Ba Lan cũng vậy." Ông Rosenthal còn có thể nói thêm: Cả những người Miền Nam Việt Nam cũng thế.

            Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy những chính sách như ông Rosenthal đề xướng không phải chỉ là những vấn đề lý tưởng suông. Sau khi Hoa Kỳ đã thất bại ở Việt Nam thì đương nhiên giới lãnh đạo phải đặt câu hỏi: "Đối với những quốc gia bị dư luận Hoa Kỳ chỉ trích thì chánh phủ Hoa Kỳ phải giữ lời cam kết của họ với quốc gia đó tới mức nào?" Câu trả lời của ông Rosenthal còn nêu rõ rằng nếu Hoa Kỳ chỉ lập chánh sách dựa vào sách lược toàn cầu không thôi thì những chính sách đó không thể lâu bền. Vì vậy, trên phương diện ngoại giao, Hoa Kỳ cần phải đòi hỏi những điều kiện dân chủ tiên quyết trước khi cam kết giúp đỡ một quốc gia khác. Những đòi hỏi tiên quyết này không phải chỉ là những đòi hỏi lý tưởng thuần túy mà còn là những yếu tố quan trọng trong thực tế.

            Trong những năm 1965-1967, chánh phủ Johnson đã hành động theo đặt căn cơ trên những quan niệm thực tế này. Những chánh quyền khác của Hoa Kỳ thỉnh thoảng cũng có những chính sách tương tự nhưng chưa bao giờ thực sự mạnh mẽ. Nếu nhìn lại lịch sử của Hoa Kỳ ở Việt Nam để tổng kết vấn đề thì sự cam kết của Hoa Kỳ ở Việt Nam chẳng qua vẫn chỉ là một sự cam kết dè dặt, bất nhất và thiếu liên tục. Hoặc nói một cách rõ hơn thì những chánh sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã bỏ qua yếu tố nhân sự. Hoa Kỳ chưa hề coi đồng minh là những người thực sự bình đẳng với họ (tôi không hề có ý muốn nói đến hàng ngàn người Hoa Kỳ đã làm việc vô cùng tận tụy bên cạnh những người Việt Nam). Khi giới lãnh đạo Hoa Kỳ lập chính sách, họ chỉ nghĩ về Việt Nam như một ý niệm trừu tượng của địa lý và chính trị, một yếu tố nằm trong sách lược toàn cầu của Hoa Kỳ. Điều này hoàn toàn đúng khi Hoa Kỳ tự can thiệp bằng cách đổ bộ vào Miền Nam. Điều này cũng hoàn toàn đúng khi Hoa Kỳ đứng ra lãnh đạo cuộc chiến. Và điều này đúng hơn cả khi Hoa Kỳ từ bỏ chiến cuộc.

            Trong tất cả các giai đoạn can thiệp của Hoa Kỳ - Đổ bộ vào Việt Nam, Mỹ Hóa Chiến Tranh, Việt Nam Hóa Chiến Tranh, và sau cùng là rút lui - có lẽ giai đoạn rút lui sẽ ám ảnh người dân Miền Nam lâu nhất. Tuy ai cũng có thể thấy rằng đã có những lỗi lầm lớn lao trong cuộc chiến, nhưng cách Hoa Kỳ rút lui là một lỗi lầm lớn hơn tất cả mọi lỗi lầm khác; đây là một hành động không xứng đáng với một cường quốc lớn như Hoa Kỳ. Đây là một trong những lỗi lầm lớn lao mà sử sách sẽ còn mãi mãi khắc ghi trong khi những lỗi lầm khác chẳng hạn như những lỗi lầm trong chiến thuật Search and Destroy (Truy Lùng và Tiêu Diệt) nếu có còn được ghi chép thì chẳng qua củng chỉ là những chú thích nhỏ nhoi của lịch sử.

            Không phải chính vấn đề rút lui là điều đáng hổ thẹn. Hoa Kỳ đã chiến đấu kham khổ và trường kỳ tại Việt Nam, và nếu cuối cùng tình thế bắt buộc Hoa Kỳ phải rút lui thì đây có thể là một tấn thảm kịch nhưng không phải là một điều đáng hổ thẹn. Tuy thế, những vận động chính trị cùng những cung cách tận tuyệt của chánh phủ Hoa Kỳ đối với Miền Nam vào năm cuối cùng trước lúc chiến tranh kết thúc quả là những điều đáng hổ thẹn. Phút giây xoay mặt không phải là những giây phút đẹp đẽ nhất của Hoa Kỳ và có vô số bài học cho cả Hoa Kỳ lẫn các đồng minh khác, nhất là những đồng minh nhỏ nhoi phải lệ thuộc vào Hoa Kỳ để tự vệ như Miền Nam Việt Nam.

            Đối với ông Henry Kissinger, người đã tạo ra Hiệp Định Ba Lê, người ta có thể thông cảm về việc ông Kissinger đòi hỏi phải "uyển chuyển" hay nói rõ hơn là nắm thực quyền, khi ông phải đứng giữa điều khiển những đoàn thể khác biệt và ngoan cố (kể cả Bắc Việt, Miền Nam, Nga, Tàu và đôi khi ngay chính tổng thống Hoa Kỳ nữa) cùng hướng chung về một mục tiêu. Nhưng ông Kissinger đã tự khoác vào người một trách nhiệm kinh hoàng: Đàm phán chẳng những cho những sách lược toàn cầu của Hoa Kỳ mà còn cho chính vấn đề sinh tử của Miền Nam. Cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon đều biết rõ rằng ông Thiệu chẳng thể làm gì nếu không có Hoa Kỳ viện trợ, nhưng họ đã chọn một cách giải quyết dễ dàng cho họ và chẳng kể gì đến đồng minh. Họ đã hoàn toàn giữ bí mật cho tới giây phút cuối và rồi dùng chiến thuật hứa hẹn và đe dọa đối với đồng minh. Thay vì thành thật, họ đã lừa gạt và sau đó đối xử tàn nhẫn với một đồng minh đã đấu lưng cùng họ trong suốt hai mươi năm.

            Khi chọn phương pháp "uyển chuyển" tuy có lẽ cả ông Kissinger lẫn tổng thống Nixon đều tin tưởng rằng họ đã đạt được một hiệp định khả quan nhất trong tình trạng ngặt nghèo của khung cảnh đàm phán, nhưng dù sao thì sự lý luận của chính quyền Nixon vẫn chỉ là những cách biện luận cho một vấn đề đại đồng tiểu dị của những chánh sách ngoại giao ở Việt Nam kể từ lúc đầu. Những chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thường khởi xuất bằng những mục đích đẹp đẽ nhưng lại thiếu hẳn những yếu tố thực tế cần phải có trong khi áp dụng. Khi họ áp dụng những chính sách ngoại giao, Hoa Kỳ thường áp đặt những chính sách của họ bất kể lợi hại ra sao đối với đồng minh.

            Quốc hội Hoa Kỳ của những năm 1973, 1974 và 1975 cùng chia xẻ những tội lỗi tương tự khi họ nhẫn tâm phủi tay đối với Việt Nam. Tuy các Thượng Nghị Sĩ cùng các Dân Biểu bàn cãi rất nhiều về uy tín cùng những tiêu chuẩn đạo đức, nhưng thật sự thì họ vẫn quyết định mọi việc dựa trên những sách lược địa lý, chính trị toàn cầu và quyền lợi của riêng Hoa Kỳ. Họ quyết định một cách lạnh lùng, tuyệt tình, bất kể hậu quả đối với một quốc gia với hai mươi triệu dân và họ quyết định như vậy không phải vì xương máu của nhân dân Hoa Kỳ mà là vì một triệu đô la.

            "Tại sao một cường quốc lớn như Hoa Kỳ lại có thể làm như vậy?" Đây là một câu hỏi của một người bạn cũ hỏi tôi lúc ở Sài Gòn khi có tin Hoa Kỳ cắt bớt viện trợ vào tháng 8 năm 1974. Người đặt câu hỏi nguyên là bạn cùng lớp với tôi từ ngoài Bắc. Vào năm 1974 thì ông ta đang là chủ một tiệm buôn. Ông ta hỏi tôi: "Ông là đại sứ, có lẽ ông biết rõ những điều này hơn tôi, nhưng ông có thể giải thích thái độ của Hoa Kỳ cho tôi được không? Khi họ muốn đến họ tự tiện đến. Khi họ muốn đi họ tự tiện đi. Chẳng khác nào một người hàng xóm vào nhà mình vung vãi tất cả mọi thứ rồi thình lình bỏ về vì thấy họ sai. Làm sao họ có thể làm những việc lạ đời như vậy?" Đây là một câu hỏi ngây thơ của một người không hiểu biết nhiều. Nhưng tôi thật không trả lời được. Theo tôi nghĩ thì cả ông William Fulbright, lẫn ông McGovern hoặc bất kỳ các nghị viên phản chiến nào khác cũng không thể trả lời được.

            Nhưng lỗi lầm không phải hoàn toàn chỉ do những nghị viên phản chiến. Rất nhiều người cho là họ biết sự thật. Những phóng viên - tự cao như bất kỳ nhân vật nào khác - Ông Kissinger, ông Thiệu, Tổng Thống Nixon, và ngay cả tôi nữa. Thật ra, tất cả chúng tôi đều không hề biết rõ sự thật hoặc có biết rõ đi chăng nữa thì cũng không thật sự chú tâm đúng mức. Chúng tôi đã không nhìn thấy sự thực, dĩ nhiên kẻ thù của chúng tôi là những người đã mang lý tưởng sắt máu lại càng không thấy rõ sự thật. Sự thật ở cùng hàng triệu gia đình Việt Nam đang chịu đựng những thống khổ của tấn thảm kịch hãi hùng. Sự thật ở cùng với những người đang chịu đựng tuy họ là những người hiểu biết ít nhất. Sự thật của cuộc chiến Việt Nam đã bị chôn vùi cùng những nạn nhân, cùng những người đã nằm xuống, cùng những người bị xử phải quằn quại trong những bức màn im lặng áp bức từ lúc này và mãi mãi ở những thế hệ sau - một bức màn yên lặng mà thế giới gọi là hòa bình.

            "In the Jaws of History" was written by Bùi Diễm with David Chanoff. This book was translated into Vietnamese by Phan Lê Dũng in 1987.



            Nguồn: Đặc Trưng
            Bản Dịch Phan Lê Dũng
            #36
              Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 36 trên tổng số 36 bài trong đề mục
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9