Tôi Phải Sống - Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 26 trên tổng số 26 bài trong đề mục
sóng trăng 07.02.2007 08:23:24 (permalink)
.
 
                          8

               Canh Bạc Cuộc Đời

                  
Thường ngày tôi không để ý gì tới tiếng kẻng điểm danh buổi chiều, nhưng tiếng kẻng hôm nay đã làm tôi rợn người. Tự nhiên tôi bị nổi da gà và tim tôi bắt đầu đập sai nhịp, trong lúc máu dồn nhanh lên mặt khiến tôi choáng váng và mặt mày nóng hừng hực, như củ khoai lang lùi trong đống than hồng vừa được khều ra. Cảm giác này trong đời tôi chỉ mới gặp thấy lần đầu.

Kể từ lúc khám trại chiều hôm qua và tất cả 6 người trong buồng 1 của tôi trở lại buồng cũ, chúng tôi mới chắc chắn có thể tiếp tục kế hoạch vượt ngục. Những thứ bất hợp pháp cần thiết cho cuộc vượt ngục như móc sắt... chúng tôi cho chìm xuống đáy bể nước khi mang đồ đoàn ra sân khám xét đã được vớt lên. Chiếc thang dây được ráp nối cho thành hình và không sợ còn bị khám buồng bất ngờ nữa. Những thứ  ‘‘quốc cấm’’ đó giờ này đang được cuộn tròn và giấu trong các túi, dùng làm gối đầu của tôi. Riêng miếng sắt giẹp treo lủng lẳng trên cánh cửa vào khu nhà cầu vẫn nằm yên tại vị trí cũ. Nếu có ai nhìn thoáng qua một cách vô tình sẽ không thể nào nhận ra được sự khác biệt nơi miếng sắt hiền lành vô tội đó. Thực sự nó đã khác đi rất nhiều.

Kể từ hôm anh em tôi hì hục tháo được miếng sắt ra và mài nhọn rồi gắn lại chỗ cũ, không hiểu tại sao lúc nào cặp mắt của tôi và của các  “thủ phạm” khác cũng dán vào miếng sắt, nhất là trong các giờ điểm danh ban chiều. Có những lần mấy anh trật tự hoặc cán bộ vào điểm danh mà vô tình dừng lại nhìn vào cánh cửa có miếng sắt đang treo lơ lửng là tim tôi gần như ngừng đập, và nghe lùng bùng trong lỗ tai. Ngay cả lúc ban  ngày không có ai lên kiểm soát nhưng chúng tôi cũng hay liếc nhìn miếng sắt, làm như thể nếu không nhìn sẽ bị người ta ăn trộm mất báu vật đó.

Chiều nay, cũng như thường lệ, sau khi nghe tiếng kẻng, chúng tôi ngồi thành hàng ngay ngắn trên bệ nằm, chờ cán bộ và trật tự vào điểm danh. Lúc đó tôi nghe trong bụng ruột gan bị cồn cào dữ dội, cảm thấy mệt gần như mất thở. Tôi liếc nhìn qua cha Định lúc đó cũng đang ngồi yên trong hàng ngang, như tư thế thông thường hàng ngày ngồi chờ điểm đanh. Điều làm tôi lo lắng là mặt mày cha Định lúc đó trắng bệch ra như người bị thương hàn vừa mới bình phục. Vì đêm qua tôi đã báo cho cha Định tất cả thời giờ và cách thức vượt ngục, nên lúc này tôi lo sợ rủi ro cha Định vì quá khiếp đảm và đợi lúc cán bộ vào điểm danh chiều nay sẽ tố cáo thì sao!

Có tiếng các xâu chìa khóa khua rổn rẻng bên ngoài, rồi cửa vào khu kiên giam mở ra. Mọi việc diễn ra một cách bình thường như mọi ngày, không có dấu gì khác la. Mặc dù ngày mai là ngày lễ nghỉ, có thể trại sẽ tăng cường biện pháp an ninh kỹ lưỡng hơn, nhưng tôi rất mừng khi thấy mọi việc diển ra bình thường.

Tôi ngồi thầm thì cầu xin ơn trên phù hộ cho đừng có chuyện gì xảy ra trong giây phút quyết định cuối cùng này. Tôi biết rằng chỉ cần một trục trặc nhỏ cũng sẽ có hậu quả khốc liệt không thể lường được. Mấy anh em trong nhóm tôi chắc lúc đó cũng có tâm trạng như tôi nên nhìn ai nấy cũng ngồi trang nghiêm chỉnh tề như những vị thánh sống, ai nhìn vào thấy cũng thương.

Chỉ có điều khác là khi tôi liếc nhìn qua hai bên, tôi cũng bắt gặp những con mắt của các vị “thánh sống” đó, ngồi yên như các pho tượng, cũng cuốn tròn tròng mắt sát vào đuôi mắt nhìn tôi! Cái cảnh những bức tượng gỗ đang liếc nhìn ngang như vậy, nếu có ai đem vẽ thành tranh chắc trông sẽ rất buồn cười.

Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát chạy vụt vào sân, mắt láo liên, tay cầm cái búa bằng gỗ có cán dài gõ nghe côm cốp vào tường xem coi có chỗ nào bị đào, và gõ vào các song sắt cửa sổ coi có nơi nào bị cưa hay bị phá hoại gì không. Vì ngày nào cũng phải đối diện với hai anh trật tự ác ôn này, nên tôi nhớ hình ảnh, cách ăn mặc, cách đi đứng của hai anh này rõ ràng như hình xâm trổ trên thân thể.

Một điểm đặc biệt mà tôi ghi nhận là hai anh trật tự này không bao giờ nhìn thẳng vào mắt của ai trong đám tù khu kiên giam. Nhưng khi hai anh này đã nhìn thẳng vào mắt ai, là người đó gặp chuyện lôi thôi. Nhẹ nhất cũng vài lời mắng chửi và nặng hơn là vài cú đấm, hoặc hơn thế nữa.

Cán bộ đi điểm danh hôm đó tên là Hạ. Anh là người ít nói, nước da ngăm đen, có nhiều vết lang ben trên mặt và cổ. Cán bộ Hạ đứng ngoài cửa buồng nhìn vào, Trương Văn Phát đã chạy trước qua buồng bên để gõ búa dọn đường, chỉ có Bùi Đình Thi đi vào kiểm soát trong nhà cầu của buồng chúng tôi. Tôi nín thở hồi hộp và cầu trời cho Thi đừng để ý tới miếng sắt đeo tòn teng trên cánh cửa nhà cầu, vì nếu để ý quan sát sẽ thấy miếng sắt giẹp này có cái gì không bình thường. Nếu Bùi Đình Thi phát giác ra miếng sắt này, chẳng những kế hoạch vượt ngục đổ vỡ trước lúc bắt đầu, mà chúng tôi chắc chắn sẽ bị rắc rối to. Mặc dù lúc bấy giờ nếu bị phát giác miếng sắt đã mài bén, chúng tôi đã có câu trả lời là không biết và sẽ nói là ai đó đã mài từ trước khi chúng tôi vào buồng này.

Cũng may là Bùi Đình Thi chỉ làm các công việc như thường ngày và không để ý tới cái đầu miếng sắt trên cánh cửa vào nhà cầu đã mỏng và nhọn hơn nhiều! Lúc này trong buồng, không phải chỉ có miếng sắt mài bén, mà còn chiếc thang dây đã hoàn thành có móc sắt hẳn hoi được bó lại như cái gối đang nằm sau lưng tôi. Nếu vì lý do gì mà chiếc thang dây này bị phát hiện ra thì cho dù...trời cũng không cứu được chúng tôi đừng nói chi tới người phàm! Điểm danh xong, cán bộ Hạ và hai trật tự Thi - Phát ra khỏi vòng rào của khu kiên giam. Giờ hành động đã tới!  Điềm chẳng lành: tắt đèn!  
 
   Theo đúng kế hoạch, sau khi cán bộ và hai anh trật tự vừa khuất dạng, tôi lẹ làng bước xuống để tháo miếng sắt đã được cài lại một cách hờ hững trên cách cửa vào nhà cầu. Khi tôi vừa với tay kéo cánh cửa để tháo miếng sắt thì một việc bất ngờ xẩy ra: Hơi gió tạo ra bởi việc kéo cánh cửa làm tắt ngọn đèn! Chuyện này chưa bao giờ xẩy ra trong buồng từ trước tới nay!

Đây là cái đèn dầu nhỏ làm bằng lọ thuốc Penicilin mà lúc nào cũng được chúng tôi chăm sóc cẩn thận và để sâu vô góc tường, ngay lối vào nhà cầu. Trong suốt thời gian ở buồng này, có lúc ngọn đèn này cũng bị tắt nhưng không phải vì lý do đóng hoặc mở cửa nhà cầu mà vì thiếu dầu. Buồng tôi được cấp phát một lượng dầu tối thiểu dùng thắp ngọn đèn, để ban đêm cán bộ làm nhiệm vụ canh gác có thể thấy được các tù nhân trong buồng sau khi đèn điện trên trần tắt lúc 10 giờ đêm. Phần chúng tôi cũng hết sức bảo vệ nó để có lửa hút thuốc lào. Để cho chắc ăn, chúng tôi giao cho anh Nguyễn Sỹ Thuyên là tay nghiện thuốc lào nặng, cần có lửa trong buồng nhất, lo việc trông nom ngọn đèn, và từ trước tới giờ tôi để ý anh Thuyên chăm sóc ngọn đèn như chăm sóc con ngươi trong mắt anh. 
 
   Theo quan niệm thông thường của người đời, đèn bị tắt là một điềm gở, nên lúc đó cả năm người ngồi lặng yên nhìn nhau, lòng đầy lo ngại. Riêng tôi, mặc dù trong lòng bất an, nhưng tự an ủi mình rằng, có thể vì vội vàng, tôi đã kéo cửa nhà cầu mạnh tay và tạo ra hơi gió làm tắt đèn, có thế thôi, chẳng có gì phải lo ngại. Khi đó tôi để ý thấy sự lo ngại và sợ sệt hiện rõ trên mặt vài anh em, nhất là Lâm Thành Văn. Từ chiều tới giờ thỉnh thoảng Văn kêu đau vì chứng bệnh dạ dầy tái phát mạnh do ảnh hưởng sự lo lắng quá độ. Thấy tắt đèn, Văn bước xuống ngồi gần bên tôi lo lắng hỏi:

- Anh Lễ ơi! Đèn tắt, đêm nay không thấy đường làm sao đào tường?

Mặc dù nói thế nhưng tôi biết trong lòng Văn lo chuyện khác. Vấn đề mang tính cách duy tâm là việc hên xui, may rủi trước hiện tượng tắt đèn, nên tôi đáp.

- Không sao đâu anh, mình sẽ kéo lửa và đốt đèn lại. Có thể chậm một chút nhưng sẽ làm được. Còn việc tắt đèn chẳng qua tôi vô ý kéo cánh cửa mạnh quá tạo ra hơi gió thôi, chẳng có gì đáng quan tâm đâu.

  Anh Thuyên chen vào:

- Bằng mọi giá mình phải tiếp tục thôi các ông ạ! Mọi thứ đã chuẩn bị hết cả rồi, nếu không đi thì giấu vào đâu? Tình thế này không thể dừng được nữa.

Trong khi đó Đặng Văn Tiếp vội vàng lục tung túi đồ nghề dùng để kéo lửa ra, và chúng tôi không chậm mất một giây, lo việc hì hục kéo lửa, theo cách thức tay không lấy lửa mà tôi học được trong tù. Đó là dùng một bánh xe bằng dáy của hộp sữa, đục 2 lỗ nhỏ ở giữa để xỏ dây qua và kéo cho xoay tròn. Khi bánh xe xoay hết vòng tròn sẽ theo đà dây kéo mà xoay ngược lại, cứ thế lúc nào bánh xe cũng quay tít rất nhanh. Khi đó cho cạnh bánh xe chạm nhẹ vào một vật bằng sứ, là cái khu bát. Khi bánh xe kim loại quay tít chạm vào khu bát sẽ bắn ra những tia lửa, có một miếng “bổi” sẳn để hứng những tia lửa đó. Miếng” bổi” là phần than tro của một miếng vải đã đốt cháy và đè cho tắt ngay, phần than tro còn dính trên đầu miếng vải sẽ bắt dính các tia lửa rất nhạy. Chúng tôi chuẩn bị sẵn vài ba miếng bổi này, được gói cẩn thận trong bao ny-lon cho khỏi bị ẩm ướt. Trong tù tôi đã học được những kỹ thật loại mưu sinh thoát hiểm mà người sống bình thường ngoài xã hội không bao giờ biết được. Trong đó, có kỹ thuật tay không lấy lửa. 

Mặc dù tôi đã chuẩn bị những đoạn dây se lại từ những sợi dây dù chắc chắn tháo ra từ ruột áo giáp, nhưng vì hối hả tôi làm đứt gần hết các đoạn dây xỏ ngang qua lỗ đục giữa cái bánh xe kim loại là đáy của hộp sữa đặc có đường.

Tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ như cây tên đã lắp vào dây cung kéo thẳng, chỉ còn có cách buông ra mà thôi! Các việc khác phải hoãn lại để lo kéo lửa. Bình thường tôi kéo lửa không khó lắm , chỉ cần vài phút là xong. Nhưng lúc này vì quá lo âu và cố gắng làm cho nhanh nên tôi lại càng trở nên vụng về và kéo lửa mãi không được. Càng không kết quả tôi càng luống cuống, càng luống cuống tôi càng không kết quả! Tôi biết là lúc bấy giờ một phút qua đi có nghĩa là mạng sống chúng tôi bị thu ngắn lại. Trong khi hì hục kéo lửa, đầu óc tôi nóng ran như muốn bốc khói. Hai tai nghe lùng bùng, da mặt nghe rát và gần như không còn cảm giác bén nhạy như lúc bình thường.

Những đoạn dây đầu đã tơi tả và đứt quãng nhưng vẫn chưa lấy được lửa làm tôi chết điếng cả người. Cuộc vượt ngục thành công hay thất bại một phần lớn cũng tùy thuộc vào việc tôi có lấy được lửa hay không và lấy được sớm hay muộn! Khi xỏ luồn sợi dây cuối cùng vào lỗ miếng sắt, tự nhiên tay tôi run nhè nhẹ vì nếu đoạn dây cuối cùng này bị đứt nữa thì coi như cuộc vượt ngục bắt buộc phải hủy bỏ và hậu quả sẽ không lường được. Tôi âm thầm cầu nguyện.

Trong lúc đó cha Định vẫn đang ngồi dưới lối đi, chỗ ngài nằm ngủ hàng đêm, vì ở đó rộng rãi thoải mái hơn trên bệ nằm chật chội khó xoay trở. Cha Định ngồi dựa lưng vào cánh cửa buồng bằng sắt trong tư thế yên lặng chẳng nói một lời trong khi nhóm mấy người chúng tôi cũng đang ngồi dưới đường đi nhưng sát ở cửa vào cầu tiêu và chấu đầu vào nhau trong việc kéo lửa. Riêng Nguyễn Sỹ Thuyên đã được phân công ngồi ngay cửa sổ nhìn ra sân để nếu có cán bộ bước vào sân khu kiên giam thì lên tiếng:“Chào cán bộ” thật to để báo động cho anh em chúng tôi biết kịp thời.

May làm sao, tôi lấy được lửa trong lần cố gắng với đoạn dây cuối cùng này. Tất cả chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi nghe mùi khói bốc ra từ miếng bổi và sau đó tôi đã thổi lên thành ra lửa ngọn để thắp đèn. Chúng tôi vượt qua được trở ngại đầu tiên khi thắp đèn lại được nhưng phải trả giá bằng một lượng thời gian vô cùng quý báu trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Trong lúc cẩn thận nâng niu cái đóm để thắp đèn khi đó tôi nhớ tới câu nói:“Thời giờ là tiền bạc”. Lúc này thời giờ đối với tôi còn quý gấp trăm triệu lần hơn tiền bạc. Tôi nói lẩm bẩm :“Thời giờ là mạng sống” .


Mũi dao định mệnh

Chúng tôi giao cái đèn cho anh Thuyên và dặn anh bằng mọi giá phải bảo vệ ngọn lửa vì một khi đã bắt tay vào việc rồi thì ngọn đèn là vấn đề sống còn. Chúng tôi kéo vào bên trong để bắt đầu công việc trong tình trạng thần kinh căng thẳng tột cùng vì biết là một khi đã bắt đầu đào tường rồi, sẽ không thể nào dừng lại được. Lúc bấy giờ cha Định ngồi lặng thinh, dựa tường, nhắm nghiền mắt lại. Trong lúc chúng tôi vào phía bên trong thì may mắn thay, trời bắt đầu đổ mưa, và cơn mưa càng lúc càng to như thể trời đang đứng về phía chúng tôi.

Trời mưa sẽ giúp chúng tôi ba điều kiện thuận lợi. Trước hết là có nước để tưới vào gạch làm cho vôi vữa mềm ra lúc đào tường. Thứ nhì, tiếng mưa sẽ át tiếng động lúc đào tường và cho dù có cán bộ đứng bên ngoài buồng cũng không thể nghe được vì có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể từ cái lỗ trên nóc nhà bằng. Nhưng yếu tố cuối cùng quan trọng nhất vì mưa to, cán bộ sẽ lười biếng và ít đi tuần trên khu nhà Bằng chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu việc đào tường.

Vai trò của từng người được phân chia rõ ràng. Anh Tiếp và tôi sẽ thay nhau đào tường và lấy gạch ra, vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc khá hẹp nên chỉ đủ cho một người ngồi ở đó để đào tường. Anh Tiếu và anh Văn lo việc thòng dây múc nước trong bể chuyền cho tôi giội lên chững chỗ đang đào. Anh Thuyên đang ngồi bên cửa sổ nhìn ra sân buồng, canh chừng cán bộ, và giả vờ hát nghêu ngao để lấn át tiếng đào tường sột soạt bên trong.

Miếng sắt dụng cụ đã được tôi tháo ra khỏi cửa, được quấn vải thật dầy phía cuối để làm cái cán. Mặc dù đã được quấn vải khá nhiều lớp nhưng  khi cầm vào cũng không có thế như cầm con dao hoặc cái đục có cán bằng gỗ hẳn hoi, nhưng trong tình thế đó, như vậy đã quá tốt rồi. Anh Đặng Văn Tiếp là người đào nhát đầu tiên. Trước khi ấn mũi sắt nhọn vào bức tường, anh Tiếp quay lại nói với tôi, đang ngồi cầm lon nước kế bên bằng một giọng thật căng thẳng và đầy lo âu: 
 
     - Đây là mũi dao định mệnh, cậu Bảy nhé!
 
       Tôi nhìn anh gật đầu và nói:
 
      - Cầu xin Đấng Thiêng Liêng phù hộ cho anh em mình!
 
    Nghe nói xong câu đó, anh Tiếp ấn mạnh mũi dao định mệnh khoét sâu dần vào bức tường nhơ bẩn của trại tù Thanh Cẩm. Bức tường của trại tù giam hãm sự tự do của chúng tôi một cách phi lý và dã man. Trong lúc đó tôi biết mũi dao định mệnh này một khi đã thọc sâu vào tường sẽ không bao giờ có thể dừng lại được và cuộc đời chúng  tôi, tương lai chúng tôi và cả mạng sống chúng  tôi nữa cũng đang đi theo với mũi dao định mệnh này.

Bất giác tôi nhớ tới giờ này bên ngoài xã hội cũng đang có biết bao nhiêu đồng bào tôi cũng đang thọc mũi dao định mệnh vào bức tường vô hình giam hãm cả một dân tộc bằng hành động vượt biên trốn khỏi một nhà tù lớn hơn! Những đồng bào vượt biên đó và 5 anh em tôi ở trong đây đều hành động vì một mục đích giống nhau, chúng tôi muốn tìm TỰ DO, dù có phải trả giá TỰ DO bằng cái chết chúng tôi cũng sẵn sàng để trả tới giá.

Chỉ có một điều khác là các đồng bào vượt biên tìm tự do bên ngoài có thể đừng chân lại khi thấy không an toàn, còn tình cảnh chúng  tôi ở trong tù vào lúc này không thể nào dừng lại được nữa. Đã phóng lao chúng  tôi phải theo lao. 

Anh Đặng Văn Tiếp đang dồn hết sinh lực và sự khéo léo của con người anh vào việc đào tường. Đôi tay anh hoạt động lanh lẹ như con chuột đang đào hang. Mãnh sắt nhọn trong tay anh làm việc cật lực như một lưỡi cưa máy, khi thì đưa lên khi thì kéo xuống , khi thì rạch vào các khe xi măng giữa hai hòn gạch, khi thì cố lòn sâu vào giữa khe để moi những hòn gạch ra. Nhờ có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể, chúng tôi càng yên tâm hơn để đào.

Bầu khí lúc đó yên lặng khác thường, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng nước chảy từ mái nhà xuống bể và tiếng thở hồng hộc của anh Tiếp. Anh Tiếp cắm cúi đào điên đào dại, đào sống đào chết, đào với tất cả sức lực và ý chí của con người anh. Anh Tiếu và anh Văn đứng cạnh bể nước thòng dây kéo từng lon nước lên chuyền cho tôi để tưới nước vào các chỗ Tiếp đặt mũi sắt nhọn vào. Bốn người chúng tôi hợp lại thành một “bộ máy đào tường” đang hoạt động hết tốc lực. Lúc này còn ánh điện của cái bóng điện tròn trên trần phòng giam và ánh sáng lọt vào cầu tiêu qua cánh cửa mở. Nhờ có ánh sáng, chúng tôi đào tường khá thuận tiện, nhưng phải làm cho nhanh, đào được càng nhiều càng tốt vì đèn điện sẽ tắt sau 10 giờ đêm, chừng đó mọi việc sẽ khó khăn hơn với chiếc đèn dầu leo lét chỉ to bằng ngón chân cái.

Vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người, và anh Tiếp đang ngồi đó, tôi đứng ngay sau lưng anh, khom người giúp rút từng hòn gạch ra. Được một lúc, tôi để ý thấy trên viên gạch toàn là máu tươi đỏ thẫm. Tôi nhìn xuống tay anh Tiếp, thì ra các mảnh vải quấn vào cán miếng sắt giẹp đã rách nát ra và cạnh của thanh sắt cứa đứt tay anh Tiếp chảy máu ròng ròng mà anh không hề hay biết. Tôi vỗ vai Tiếp nói:

- Anh! tay anh đổ máu rồi! Dừng lại! Dừng lại! Em vào thay cho!

   Anh Tiếp vẫn cắm cúi đào và hỏi lại:

- Cậu bảo cái gì?

  - Tay anh bật máu ra kìa anh không thấy à? Nhìn tay anh kìa.

        Nghe tôi nói, anh Tiếp nhìn chỗ tay cầm miếng sắt. Anh dừng tay, đặt miếng sắt xuống và xòe bàn tay phải ra. Bàn tay anh đã rách nát và đầy máu me tự lúc nào. Anh ngoái đầu ra phía sau bảo tôi

    - Cậu Bảy! Đưa cho anh thêm vải để bó cán dao, vải này rách nát ra cả rồi.

  Tôi đáp:

    - Anh ngừng tay nghỉ chút đi.

   Anh Tiếp gắt tôi:

- Thì cậu lấy thêm vải mang lại đây, nhanh lên, nghỉ sao được mà nghỉ?

  Nói xong, anh quấn sơ lại mảnh vải đã rách tả tơi ở cán miếng sắt giẹp và tiếp tục đào.

       Tôi rời chỗ anh và trở ra ngoài vớ được chiếc áo hay chiếc quần gì  của ai tôi cũng không để ý, vội vàng xé những mảnh vải dài, bề ngang chững 5 phân như  những cuốn băng của các y tá và mang ngay vào trong cầu tiêu, lúc đó Tiếp vẫn đang hì hục đào. Tôi buộc lòng phải nắm áo anh kéo đứng dậy để anh nghỉ, trong khi tôi bó vải vào cán miếng sắt và sau đó vào thay anh.

     Anh Tiếp đứng lên sau một lúc đào khá lâu. Lúc này trông anh phờ phạc, mệt nhọc và nhất là bàn tay phải của anh máu chảy đầm đìa lẫn vào với đất cát và vôi vữa trông rất thương tâm và thảm hại. Tôi bảo Văn lấy lon nước giội rửa tay cho Tiếp trong lúc tôi quấn thêm vải vào cán miếng sắt. Lần này thì tôi quấn nhiều hơn. Sau đó, anh Tiếp và tôi thay đổi vị trí cho nhau và công việc đào sống đào chết lại tiếp tục.

      Việc đào bức tường khó khăn hơn chúng tôi tưởng. Tường được xây bằng xi-măng già, rất cứng. Chỗ ngồi lại là một góc hẹp, khó xoay trở và chỉ vừa đủ chỗ cho một người, vì thế một người đào thì ba người phải đứng phía sau lo các việc khác chứ không thể cùng ngồi xuống để tiếp tay được. Nhưng cho dù có đủ chỗ cho hai người cũng không làm gì hơn trong khi chúng tôi chỉ có một dụng cụ duy nhất là miếng sắt giẹp có đầu nhọn. Thực ra, chúng tôi cũng có 1 cái muỗng bằng nhôm nhưng không thể dùng được với loại tường cứng như thế này.
         Trong hoàn cảnh đó, bốn người thi nhau hì hục đào và đào với tất cả sức lực của con người. Miếng sắt dùng để đào tường mặc dù đã quấn vải vào để cầm nhưng chẳng bao lâu vải lại bị rách, lòi cạnh mảnh sắt ra và cứa rách da thịt tay chúng tôi làm máu đổ ra lai láng. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng cắm đầu cắm cổ mà đào, người này mệt thì người kia vào thay không ngơi nghỉ một giây phút nào vì thì giờ lúc đó chính là mạng sống. Kẻ đào tường, người ngồi bên giội nước cho mềm xi-măng, người khác thòng dây lấy nước từ bể nước. Chúng tôi hoạt động đều đặn và hết tốc lực như một nhà máy sản xuất xe hơi theo hệ thống dây chuyền, sản phẩm được chuyền từ khâu này sang khâu khác và thành quả cuối cùng là những viên gạch ương ngạnh được chúng tôi móc ra khỏi bờ tường và vất ngổn ngang trong căn buồng chật chội.

        Dù sao chúng tôi cũng gặp một điều may mắn là trong khi đang đào tường thì bên ngoài trời đổ mưa xối xa. Vì mưa to nên cán bộ canh gác càng lười biếng lên tuần tra trên khu kiên giam, nhất là ban ngày các anh đã chè chén say sưa. Thật vậy, suốt trong đêm, không có bóng dáng một cán bộ nào bước vào khu kiên giam và anh Thuyên cứ ngồi hát nghêu ngao bên trong cửa sổ mà chưa phải sử dụng tới cái khẩu hiệu “chào cán bộ” lần nào.

       Trong khi chúng tôi đào tường, có tiếng đấm vào tường của các anh em bên các buồng khác, như thế là việc đào tường ở buồng này, các buồng bên đều biết. Các tiếng đập tường có ý nhắc nhở chúng tôi làm khẻ thôi vì ở các buồng bên đều nghe biết. Chúng tôi thỉnh thoảng nghe các tiếng ám hiệu đó nhưng không quan tâm vì lúc bấy giờ chúng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà để ý các tín hiệu đó. Việc quan trọng vào bậc nhất là đào tường, đào càng nhanh càng tốt, đào nhanh thì sống, đào chậm thì chết. Có thế thôi.

Thỉnh thoảng tôi bước ra và thấy đồ đạc trong buồng bị vất ngổn ngang và bề bộn như một đống rác thành phố. Vì chúng tôi đã chấp nhận ra đi nên chẳng còn bận tâm đến khung cảnh trong buồng nữa, mặc nó muốn ra sao thì ra. Cha Định lúc đó ngồi dựa lưng vào tường, ngước mặt lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, đôi môi luôn mấp máy. Tôi đoán là ngài đang đọc kinh cầu nguyện và có lẽ cầu cho chính ngài nhiều hơn là cho chúng tôi.

Về phần tôi, lúc bấy giờ chẳng còn tâm trí đâu để mà cầu nguyện nữa! Thực ra, những gì tôi cầu xin ơn trên phù giúp thì tôi đã cầu nguyện từ mấy tháng nay. Lần cuối cùng tôi cầu nguyện cách khẩn khoản là lúc tôi dùng đoạn dây dù cuối cùng để kéo lửa cách đây mấy tiếng đồng hồ. Và lần đó thì lời cầu xin của tôi được ơn trên phù giúp, cuối cùng tôi đã lấy được lửa .
 

Đào sống đào chết!

 Theo kế hoạch dự trù, chúng tôi phải ra khỏi buồng trước nửa đêm, vì sau khi ra khỏi buồng còn phải gỡ bản lề cánh cửa gỗ vào hầm cầu tiêu và sau đó, phải vượt qua hai bức tường nữa mới chính thức bước vào khu vực tự do. Mặc dù chúng tôi dùng tới sức lực cuối cùng nhưng kết quả không được mấy vì xi măng xây tường này quá cứng. Tệ hơn nữa là những viên gạch trong góc, miếng nọ nằm đè lên miếng kia rất khó kéo ra, mặc dù vôi vữa chung quanh đã được róc sạch. Cứ thế, chúng tôi mải mê đào bới cật lực tới gà gáy lần thứ nhất (quãng một giờ sáng) mà vẫn chưa xong bức tường. Nghe tiếng gà gáy, tôi điếng cả người và càng tăng tốc độ đào.

Khi nghe tiếng gà gáy, tôi nghĩ là cuộc vượt ngục đã thất bại. Cái cảm giác khi phải đương đầu với thực tại lúc cán bộ lên kiểm tra và bắt gặp chúng tôi đang ở trong tình cảnh này khiến tôi kinh hoàng và da thịt tôi tự nhiên trở nên tê dại. Đáng lẽ giờ này chúng tôi đã ra bên ngoài và đang tìm đường lẩn tránh vào rừng phía biên giới Lào -Việt, nhưng ngược lại vẫn còn loay hoay như con thú bị bẫy sập đang tìm dường thoát thân trong chiếc lồng có lưới sắt.

Một câu hỏi gớm ghê chợt hiện ra trong đầu tôi:“Nếu tới sáng ngày khi cán bộ và trật tự lên kiểm tra buồng mà chúng tôi vẫn chưa ra ngoài được thì sao?”. Tôi chết điếng người và không dám suy nghĩ tiếp theo. Điều tôi biết chắc là chúng tôi đã thất bại, nhưng còn nước thì còn tát như có lần tôi đọc câu tiếng Anh:“Where there is life, there is hope.” Vì chúng tôi còn sống nên chúng tôi còn hy vọng. Nghĩ như thế nên càng hè nhau tăng cường tốc độ đào tường lên tối đa vì mỗi phút qua đi là tôi cảm thấy mạng sống mình bị thu ngắn lại.

Chúng tôi không dừng tay lấy một giây mặc dù tay  đã rách nát, máu dính đỏ thẫm những viên gạch vừa được lấy ra, nhưng đặc biệt tôi không hề cảm thấy một chút đau đớn nào. Anh Văn và anh Tiếu cũng vào thay cho anh Tiếp và tôi rất nhiều lần, nhưng thấy cách hai anh làm không nhanh nhẹn nên anh Tiếp và tôi nói hai anh chỉ lo cung cấp nước càng nhiều càng tốt để giội vào tường cho hai chúng  tôi đào. Bất ngờ lúc đó, Văn lại lên cơn đau dạ dày, một phần vì lo lắng , phần khác Văn đã làm việc quá sức. Chúng  tôi bảo Văn ra ngoài nằm nghỉ để có sức lúc ra đi, còn lại ba người cố sức chống chọi với Tử Thần mà trí tưởng tượng của tôi đang phác họa ra.

Tôi thấy một hình hài cao lêu khêu, bên trên là chiếc đầu lâu nhẵn thín với hai hốc mắt sâu hoắm, mình khoác chiếc áo choàng đen rộng phùng phình đôi tay dang rộng, hai bàn tay lòi ra khỏi áo choàng chỉ có xương và không có da thịt. Một tay cầm chiếc liềm hái dài ngoằn, lưỡi liềm hái sáng choang... Cái hình hài quái đản đó đang trườn người bước tới bằng một tốc độ rất nhanh và tưởng là không có gì có thể cản lại được! 

Sau khi gà gáy lần thứ nhất một lúc, chúng tôi mới đào xong một lỗ hổng chỉ vừa đủ thân người lọt qua. Ngay lúc đó, cả ba người vội chui lọt qua lỗ này để vào hầm chứa phân vì còn phải phá một cánh cửa bằng gỗ khác nữa mới ra bên ngoài được. Chúng tôi rơi vào cái hầm chỉ cao vừa quá đầu người, là nơi để các sọt chứa phân, chung cho bốn buồng của khu kiên giam, bên dưới các lỗ cầu tiêu.

Lúc mới lọt xuống đây, chúng tôi cũng thử gỡ bản lề cánh cửa chặn lối ra phía sau. Nhưng xi măng ở đây cũng rất cứng và lúc đó đã  muộn, nên thay vì đào cái bản lề cửa như đã dự tính, chúng tôi hè nhau kéo mạnh đánh “ầm” một phát làm bật tung tất cả đinh của cánh cửa ra. Mặc dù có tiếng động mạnh nhưng không vang xa, vì khi ấy trời đang mưa to, nhưng các anh em tù nhân ở ba buồng bên trên sẽ nghe rất rõ. Bằng chứng là tiếng đấm vào tường của các anh em ở 3 buồng kia càng to và nhiều hơn. Tình thế này thúc bách quá, đã quá muộn rồi, buộc chúng tôi phải đánh ván bài liều, vì không còn cách nào hơn. Cho dù tiếng cánh cửa bị kéo bật tung đinh ra đánh “ầm” vang dội đó làm cán bộ nghe được chúng tôi cũng đành chấp nhận. Còn nước thì còn tát!
 

Cái giá của tự do

Sau khi phá bật cánh cửa hầm chứa phân để có thể ra đi, chúng tôi vội vàng chui trở lại vô buồng để lấy thang dây và các vật dụng cần thiết. Cả ba chúng tôi leo trèo nhanh như  khỉ. Có lúc tôi nghĩ có lẽ khỉ cũng không thể nào lanh lẹ hơn tôi lúc bấy giờ. Vì đứng bên dưới chồm lên không cách gì thót lên tới cái lỗ hổng vừa đào nên chúng tôi phải cõng nhau lên cho vừa tầm mới có thể chui trở lại vào buồng và người cuối cùng là tôi đưa hai tay cho người bên trong nắm lấy kéo lên. Dĩ nhiên, khi kéo như thế, tôi sẽ bị rách da bụng nhưng cho dù là rách một mảnh da bụng, hay một chục mảnh da bụng đi nữa, cũng có là gì, so với cái viễn tượng về một trận đòn hội chợ nếu chúng tôi bị bắt lại.

Khi trở lại vào buồng, chúng tôi thấy anh Thuyên và Văn đã sẵn sàng và đang ngồi đợi. Tôi vội chụp lấy những thứ gì đã sắp đặt sẵn cho vào túi. Để việc đi đường gọn nhẹ, chúng tôi bảo nhau không ai mang theo thứ gì, nhưng mỗi người mặc vào người vài ba lớp quần áo để có mà dùng trên đường đi. Phải làm thế nào để hai tay được rảnh rang vì còn phải leo qua tường và nhất là phải thật gọn nhẹ trong lúc trốn chạy trong rừng, hoặc nếu phải lội xuống dòng sông Mã. Buồng giam chúng tôi mọi ngày vẫn ngăn nắp, gọn gàng nhưng lúc này trở bề bộn như một đống rác, ướt đẫm những nước nôi, đất cát và dơ bẩn như cái chuồng heo, nhìn vào thấy mà khủng khiếp.

Trước lúc rời buồng ra đi, chúng tôi tới chào từ giã cha Định, lúc bấy giờ đang ngồi dưới đất và khóc nức nở. Lòng tôi đau xót khi nhìn thấy cảnh này. Tôi đến bên và quỳ xuống lạy cha Định một lạy để từ giã. Tôi cũng có ý muốn lạy để xin lỗi ngài và xin phép được trói tay và nhét giẻ vào miệng ngài theo như kế hoạch đã bàn tính. Đây là cách giúp cha Định có lý do để trả lời cho cán bộ là bị chúng tôi uy hiếp, còn cán bộ có tin hay không là việc khác.

Tôi làm các việc này trong sự nhanh nhẹn lạ thường trong lúc các anh khác đã lần lượt chui qua lỗ tường vừa đào được để ra hầm chứa phân và bò ra ngoài trước. Xong việc, tôi phóng nhanh như một vận động viên chạy nước rút, vội chui qua lỗ tường vừa đào rơi vào buồng chứa phân và theo các anh em kia. Lúc bấy giờ đã muộn, tôi nghe văng vẳng tiếng gà gáy lần thứ hai! Tôi bắt đầu cầu nguyện cho sự an toàn của 5 người chúng tôi và của cha Định nữa. 
 
   Chúng tôi xếp hàng dọc chạy lần theo con đường hẹp từ cánh cửa vừa bị phá thông ra phái sau khu kiên giam. Con đường này chỉ rộng chừng 1.50m để người tù gánh phân ra vào lấy phân mỗi ngày trên khu kiên giam. Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục này, mọi chi tiết đều được chúng tôi nghiên cứu cẩn thận. Ngay cả việc thứ tự của mỗi người khi đi đứng và làm  những phần hành khác nhau.  Đặng Văn Tiếp là người khỏe và tháo vát nhất trong nhóm, lúc nào cũng đi đầu. Lâm Thành Văn là người có bệnh và yếu nhất trong nhóm nên đi giữa và tôi là người trẻ nhất đi ở cuối cùng để nếu có gì trục trặc bất ngờ tôi còn thể ứng đối được.

Anh Đặng Văn Tiếp dẫn đầu, nằm sát mặt đất bò ra ngài quan sát, thấy không có ai, anh khoát tay ra hiệu cho chúng tôi bò ra tới bức tường khu kiên giam ngay bên góc nhà. Bức tường ngăn cách các buồng này chỉ cao chừng hai thước và chúng tôi leo qua một cách dễ dàng để tới bên chân tường cao của trại. Khu vực này, chúng  tôi mới đặt chân tới lần đầu tiên sau 9 tháng sống trong trại này. Đó là một hành lang rộng quãng 5 thước và chạy dài theo bờ tường rất cao, xây bằng đá xanh, bao quanh trại. Trên mỗi góc của tường trại có chòi gác. Ban ngày lúc nào cũng có một cán bộ võ trang ngồi canh gác, nhưng chiều lại, sau khi điểm danh vào buồng khóa cửa, không còn cán bộ ngồi gác trên đó nữa, thay vào đó họ sẽ luân phiên đi tuần hành ban đêm trong khắp khu trại. Lúc này, chúng tôi đang tới giai đoạn chót cũng là giai đoạn khó khăn là vượt qua bức tường cao để thoát ra ngoài. Giai đoạn chót này đã được chúng tôi điều nghiên thật kỹ lưỡng và phân công rất chi tiết và cũng đã thực tập qua.

Vì đã được phân công và tập dượt trước nên khi vừa tới chân  tường bao bọc chung quanh trại, anh Trịnh Tiếu và tôi ngồi xuống cho anh Tiếp leo lên đứng trên vai. Anh Tiếp tay cầm một thanh tre cột móc sắt ở đầu thang dây, giơ lên cao và móc vào cọc sắt của hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, rồi thả thang dây xuống. Bờ tường cao ước chừng 5 thước nên chúng tôi đã phải dùng chiếc thang “người” để anh Tiếp có thể quàng được cái móc sắt vào trên trốc bức tường. Sau khi thang dây được thả xuống, theo đúng kế hoạch, anh Tiếp leo lên trước tiên. Khi lên trốc tường cao anh cột một đoạn dây nhỏ vào cọc sắt nơi móc thang dây, thòng ra phía ngoài tường và bám theo dây này tuột xuống.

Anh Tiếp ra tới bên ngoài không bị trở ngại gì, mọi chi tiết dự trù được thực hiện đầy đủ và nhanh nhẹn. Tới phiên Nguyễn Sỹ Thuyên cũng leo lên tới trên đỉnh bức tường cao rồi đu dây bên ngoài xuống đất không có gì trở ngại. Nhưng tới phiên Lâm Thành Văn, xẩy ra một rắc rối chết người!

Vì biết Lâm Thành Văn yếu nên anh Tiếu và tôi nâng anh lên cao một đỗi. Khi Lâm Thành Văn bám thang dây leo được giữa chừng thì thang dây bị đứt làm Văn té lộn nhào xuống. May mà có Tiếu và tôi đưa tay hứng lấy anh và anh không bị ngã xuống đất. Thật là một đại họa ngoài sự dự trù của chúng tôi.
Lúc đó, tôi đứng bên dưới nhìn lên, hình ảnh một đoạn thang dây còn lại treo lơ lửng trên tường cao trông ghê rợn như giây thòng lọng của cái giá treo cổ. Tôi thẫn thờ cúi xuống nhìn đoạn thang dây bị đứt nằm dưới đất rồi lại ngước nhìn phần còn lại treo quá cao bên trên, tôi điếng người chẳng biết tính làm sao. Nhìn cái móc sắt “báu vật” làm bằng dây phơi bằng thép gai bện lại mà chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức và kế hoạch mới đánh cắp  được,  giờ này đã trở thành vô dụng và đang móc vào chân cọc sắt trên trốc bờ tường cao.

Tình thế trở nên vô cùng bi đát, vì ba người còn kẹt lại bên trong không làm sao với tới đoạn thang dây ngắn còn lại ở lưng chừng bờ tường. Tệ hại hơn nữa, chúng tôi cũng không có cách gì để báo tin cho hai người bên ngoài về tai nạn vừa xẩy ra. Bụng dạ tôi lúc bấy giờ nóng như lửa đốt và tôi cũng nghĩ là anh Tiếp và anh Thuyên đang nấp bên ngoài cũng hết sức sốt ruột và lo lắng vì không biết chuyện gì đã xẩy ra bên trong. Tôi cố gắng đủ mọi cách để với lên thang dây bị đứt đang treo lơ lửng bên trên, nhưng vô hiệu quả. Tình thế trở nên tuyệt vọng, và khi nhìn về cuối chân trời, tôi thấy chân trời phía đông đã hơi ửng đỏ, lần đầu tiên tôi thấy cái chết đã gần kề và chắc chắn.

Vì không dự trù trường hợp chết người này nên trong tay chúng tôi lúc đó không còn có thứ gì để giúp với lên được trốc bờ tường đá xanh cao 5 thước này. Trong cảnh tuyệt vọng đó, tôi ngồi xuống cho anh Tiếu đứng lên vai tôi và Văn đứng chồng lên vai Tiếu với hy vọng sẽ nối lại được chiếc thang dây, nhưng không kết quả vì tôi không thể nào chịu nổi sức nặng của hai người. Vả lại, Lâm Thành Văn yếu quá, cũng không thể đứng lên cao trong tư thế mà những người làm xiếc còn phải cẩn thận! Chúng tôi làm đi làm lại, và lần nào leo lên rồi cũng té nhào xuống như những quả mít chín rụng phình phịch xuống mặt đất có nhiều cỏ sát chân bờ tường.

Sau khi cố gắng bằng đủ mọi cách nhưng không kết quả, tôi đành phải bảo hai người bạn ngồi xuống đợi và  tôi chạy  trở vào buồng.

Lúc bấy giờ biết là đã muộn và cuộc vượt ngục coi như đã thất bại, nên tôi không còn e dè như lúc mới vừa bò ra khỏi buồng. Lần này, tôi cố gắng chạy thật nhanh trở lại buồng, tiết kiệm được phút nào hay phút nấy. Tôi hành động vì sự thúc đẩy của bản năng sinh tồn và không còn biết lo sợ là gì. Lúc nãy, khi chúng tôi đi ra, ai nấy cẩn thận bò trườn sát mặt đất như những con sư tử rình mồi theo sự hướng dẫn và quan sát của anh Tiếp, lần nầy trở lại buồng, tôi cứ thế mà cắm đầu cắm cổ chạy. Cũng may lúc đó không có cán bộ nào đi tuần, nếu có, chắc tôi đã lãnh nguyên một băng đạn vào thân thể và sự việc đã hoàn toàn đổi khác. Tôi vượt qua bức tường thấp của khu vực kiên giam một cách nhanh nhẹn và dễ dàng như một con sóc và chạy vào hầm chứa phân mà tôi vừa từ bỏ lúc nãy.

Muốn trở vào buồng, tôi phải chui trở lại qua cái lỗ tường vừa đào nằm cao bên trên. Vì cao quá, tôi không thể với tới để chui trở vô buồng cho được. Lúc nãy có mấy người nên chúng tôi cõng nhau lên để chui vào, bây giờ chỉ có một mình tôi, sống hay chết gì cũng chỉ có một mình, và tôi phải tự xoay xở lấy. Trong lúc tuyệt vọng, tôi nhớ cánh cửa gỗ mà chúng tôi vừa kéo bật đinh lúc nãy, đang nằm gần lối ra vào hầm chứa phân.

Tôi mò lại tìm mấy tấm ván đang nằm rải rác gần đó mang lại và bắt dựng lên gần cái lỗ của bức tường. Khổ nỗi, những tấm ván này trơn trợt nên  không dễ gì để tôi có thể bám mà leo lên được. Mấy lần tôi cố leo lên lại bị tuột xuống và rơi tõm vào cái sọt chứa phân, làm phân văng tung tóe trong cái hầm tối om! Sau mỗi lần thất bại, tôi cứ phải mò mẫm nhiều chỗ mới có thể tìm lại được những tấm ván để bắt đầu lại. Thật là khổ thân tôi, việc ra khỏi buồng đã khó mà trở lại vào buồng cũng không dễ gì hơn. Tôi loay hoay hết cách này qua cách khác, cuối cùng rồi cũng leo lên được và trườn người chui vào lỗ để trở vào buồng.

Căn buồng lúc này như một bãi chiến trường. Chỗ nào cũng bê bết những gạch, vôi vữa, áo quần, chăn, màn, chiếu... Trong một góc buồng sát cạnh lối đi vào cầu tiêu, chiếc đèn dầu bé nhỏ vẫn đang leo lét cháy. Cha Định đang nằm dưới đất, thấy tôi bước vào vô cùng ngạc nhiên và lồm cồm mò ngồi dậy. Tôi chẳng nói với cha Định một lời nào, chỉ vội vàng lục tung các thứ đồ đạc của tôi. Hai tay tôi bươi móc nhanh như một con chuột đào hang để mò tìm cái màn. Đây là loại màng lưới bằng ny-lon của quân đội rất bền chắc. Tôi cuộn cái màn vào bên trong áo, vội vàng quay trở lại chui qua lỗ tường vào hầm chứa phân và theo đường cũ chạy ra chân bờ tường, nơi hai người bạn còn đang ngồi chờ ngay bên dưới đoạn thang dây treo lơ lửng bên trên.  Lúc này trời đã hừng sáng!

Tôi xoắn tròn cái màn lại, nối với đoạn thang bị đứt và cố gắng ném lên cho máng vào dây thép gai trên trốc bờ tường. Vì tường cao quá nên tôi ném lên rồi lại rơi xuống, cứ thế tôi cố hết sức ném cái màn lên. Sau một lúc cố gắng, chiếc màn mắc dính được vào bờ rào dây thép gai trên trốc bức tường. Sau khi ghì thử thấy chắc chắn, tôi bảo anh Văn bám vào leo lên trong khi Tiếu và tôi cố nâng Văn lên, nhưng Văn chỉ leo được một đoạn lại té xuống. Một lần, hai lần... Văn leo lên rồi lại té xuống vì anh đã quá yếu. Chỉ có thang dây với những thanh gỗ nằm ngang mới có hy vọng giúp được anh. Biết mình không thể leo ra được, Văn đau xót bảo:  
 
    - Tôi không đi được, hai anh lo tìm cách leo ra đi! 
 
      Tôi bảo Văn:  
 
    - Không thể được, chúng ta đã thề hứa cùng sống cùng chết với nhau, làm sao chúng tôi có thể bỏ anh cho đành?
 
       Văn mệt nhọc, ngồi bệt xuống đất, xua tay từ chối. Khi thấy anh Tiếu định kéo anh trỗi dậy, anh nói với anh Tiếu:
 
       - Anh Tiếu với anh Lễ lo đi đi, tôi đành bỏ cuộc! Hai anh đi ngay đi, ở đây chết cả đám, ích lợi gì! 
 
      Nói xong, Văn đứng lên, nắm lấy bàn tay tôi và tay anh Tiếu, bóp mạnh để từ giã, xong quay lưng đi dọc theo chân tường! 
 
   Tới phiên Trịnh Tiếu cố gắng bám cái màn leo lên, nhưng cũng không nổi mặc dù tôi hết sức cố gắng nâng người anh lên. Khi thấy không thể nào leo lên được, anh bèn quay sang bảo tôi lo trèo lên, còn anh đi thẳng thật nhanh về phía  Văn, bỏ tôi đứng bơ vơ với chiếc màn treo lơ lửng trên bờ tường.

Lòng tôi buồn vô hạn khi nhìn theo bóng hai người anh em nắm tay nhau đi thật nhanh dọc theo chân tường về phía tay trái mất dạng. Đây là sự mất mát đầu tiên trong vụ vượt ngục. Không biết lúc đó trong thâm tâm hai anh nghĩ gì nhưng riêng tôi thật tan nát cõi lòng khi nhìn bóng hai anh đi xa dần, xa dần... Tôi cũng đoán biết những gì đang chờ đợi hai anh khi người cán bộ đầu tiên trông thấy. Tôi hiểu rằng, hai anh có ý đi thẳng để tôi khỏi bận tâm mà lo thoát ra ngoài cho nhanh.
 
    Còn lại một mình, tôi lấy hết sức lực bám vào chiếc màn cố leo lên. Chiếc màng lưới nhùng nhằng bám vào các gai nhọn của hàng rào bên trên không có thể coi là một loại thang được. Nhưng trong hoàn cảnh đó không hiểu sức lực ở đâu lại dồn về đôi cánh tay khẳng khiu của tôi và tôi đã bám lấy chiếc màn như một con thạch sùng đang bám vào tàu lá để leo lên. Tôi cố gắng nương tay làm sao cho cơ thể mình trở nên “vô trọng lượng” để chiếc màng lưới có thể chịu đựng.

Khi tôi leo lên gần tới đầu bờ tường, chiếc màn tự nhiên bị rách toạc một phát. Tôi vội vàng đưa một một tay vớ được hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, còn tay kia chới với giữa khoảng không trong khi tôi cách mặt đất bên dưới bằng cả chiều cao của bức tường! Trong cơn hoảng sợ đó, tôi còn cảm thấy được các gai thép nhọn đâm xuyên qua lòng bàn tay và nghe dòng máu nóng chảy ngược xuống nách, vì lúc đó chỉ có một tay đang ghì lại sức nặng của toàn bộ cơ thể. Mặc dù vậy, lúc ấy trong đầu óc tôi hiện ra hình ảnh tên cán bộ cầm khẩu AK chực nhả đạn vào thân thể đang treo lơ lửng của tôi đã làm tôi quên đau đớn. Bằng một sự cố gắng đến tột cùng, tôi nhoài người nắm thật chặt vào dây thép gai đánh đu được lên trên đầu bờ tường.

Từ trên trốc bức tường cao nhìn ra ngoài, tôi thấy sợi dây nhỏ mà anh Tiếp cột vào chân cọc sắt dùng để tuột xuống vẫn còn đó nên vội bám vào dây đó và tuột xuống đất. Tôi chẳng còn nghĩ tới việc cuốn lấy cái màn bên trong, mà có muốn cũng không thể làm được vì cái màn bị móc chằng chịt vào dây thép gai, hơn nữa lúc bấy giờ đã quá muộn. Xuống tới chân tường, tôi bị choáng ngợp và thấy nhẹ nhàng trong cảm giác đang hít thở không khí tự do! Mặc dù đây chỉ là một thứ tự do chết người! Cái cảm giác “người tự do” lúc bấy giờ thật khó mà diễn tả cho được. Tôi nghĩ Tiếp và Thuyên ẩn nấp trong chuồng trâu đã sốt ruột chờ tôi chí ít là hai tiếng đồng hồ! Một giờ lúc đó dài hơn một thế kỷ.

Vừa tuột xuống đất, tôi vội vàng chạy vào chuồng trâu để gặp Tiếp và  Thuyên đang ẩn nấp và lo âu chờ tôi ở đó. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt vui mừng rạng rỡ của các anh khi gặp tôi. Tôi vội sơ lược cho hai anh biết sự việc xẩy ra bên trong đã khiến anh Tiếu và anh Văn phải bỏ cuộc. Không chậm trễ một giây phút nào, ba người chúng tôi liền phóng chạy ngay về hướng bờ sông Mã cách đó chừng hai trăm thước. Tôi vừa chạy về hướng bờ sông Mã vừa nghĩ thầm là cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại, nhưng vẫn còn tin tưởng vào sự may mắn nào đó như một thứ phép lạ có thể xẩy ra để cứu chúng tôi.

Sau khi chạy hết đoạn đường cập theo bờ tường trại, chúng tôi băng qua đoạn đường đất gần bên láng mộc cặp theo một con con suối nhỏ. Con đường sũng ướt và đây đó có những vũng nước mưa còn động lại sau trận mưa to đêm qua. Sau khi qua khỏi láng mộc đã thấy bờ sông Mã lấp ló sau một đồi sắn mới được trồng cách đó không lâu, với những cây sắn vừa cao quá mắt cá chân một đỗi. Chúng tôi hướng thẳng xuống một lùm bụi um tùm bên bờ sông, lúc đó nước dâng cao, chảy thật xiết rồi trầm mình xuống đó.
 

Dưới dòng sông Mã  
 
   Buổi sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 hôm đó, nước sông Mã dâng cao vì trận mưa to suốt đêm qua. Đây là vùng thượng nguồn, nước sông chảy một chiều và các cơn mưa đêm qua làm mực nước dâng lên rất cao và chảy mạnh như thác. Chúng tôi trầm mình xuống sông, bơi theo dòng nước chảy mạnh, mò mẫm cập theo các bụi rậm bên bờ sông. Được một quãng khá xa, chúng tôi gặp cái hốc đá thật kín đáo, bên trên có một cây to, rễ cây tua tủa bao trùm kín cả miệng hang, tạo thành nơi ẩn nấp thật lý tưởng. Cả ba người lặn xuống nước chui vào ẩn nấp trong hang đó và chờ đợi.

Tôi ở trong cùng, sau tôi là Tiếp, còn Thuyên nấp bên ngoài, gần miệng hang. Chúng tôi yên lặng và nín thở đợi chờ. Thời gian lúc bấy giờ như ngừng lại để đủ cho tôi nhận định tình thế và cảm nhận hết cảm giác kinh hoàng của một con thú bị săn đuổi và đang bị dồn đến bước đường cùng. Lúc đó, tôi biết là mình sắp chết, tôi sắp phải từ giã cuộc đời ở tuổi 36 và tôi chẳng chút hối hận gì khi phải ra đi. Lúc đó, tôi nhớ tới cái giá của hai chữ TỰ DO sao mà cao quá. Tôi sắp sửa trả bằng cái giá mạng sống của tôi nhưng vẫn chưa mua được. Tôi nhớ lại trên quê hương tôi, có bao nhiêu người đã phải trả cái giá như tôi nhưng họ vẫn chưa mua được hai chữ TỰ DO!

Ôi! Huyền nhiệm thay hai chữ TỰ DO, hai chữ đó là giá trị tuyệt đối của đời tôi và cũng là của dân tộc tôi. Tôi không hối hận gì nếu phải chết ở tuổi 36 vì hai chữ TỰ DO, tôi chỉ tiếc là tôi phải kết liễu cuộc đời quá sớm khi tôi chưa có điều kiện để tranh đấu mang lại TỰ DO cho dân tộc tôi như lòng tôi mong ước. Đó là lý tưởng mà tôi hằng ấp ủ từ khi có trí khôn để nhận biết dân tộc Việt Nam của tôi là một dân tộc bất hạnh vì thiếu TỰ DO. Tôi khẳng định tôi được sinh ra đời làm người vì sứ mệnh đó. Tôi làm Linh mục cũng vì sứ mệnh đó.

Nằm trong hang một lúc, chúng tôi nghe ba tiếng súng báo động có tù vượt ngục. Giây phút kinh hoàng nhất của chúng tôi đã tới. Tôi biết là mình đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm, nhưng vẫn nuôi hy vọng là họ sẽ không tìm thấy chúng tôi đang ẩn nấp trong cái hang có lớp cỏ bao phủ bên trên và phải lặn xuống sâu mới vào được trong hang này. Biết đó là một hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng. Chúng tôi đứng yên lặng cho đến nỗi tiếng nước chảy róc rách bên ngoài cũng trở thành một tiếng động rất rõ ràng vọng tới tai tôi và làm tôi kinh hãi.

Vì chỗ chúng  tôi nấp không xa trại bao nhiêu nên không bao lâu sau ba tiếng súng, tôi lặng người khi nghe rõ tiếng chân người chạy rần rật ngay bên trên, chen vào với tiếng la hét, tiếng chó sủa và tiếng súng đạn va chạm nhau lách cách. Chúng tôi biết là cán bộ đang dắt chó săn truy lùng chúng tôi ráo riết. Mặc dù tôi đã biết trước và sẵn sàng đón nhận tình huống này, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ đến điếng cả người và tôi nghĩ đây là phản ứng tự nhiên của bất cứ một sinh vật nào khi thấy mạng sống sẽ bị mất đi trong giây lát. Tôi yên lặng, nhắm mắt cầu nguyện và phó thác đời tôi trong tay Chúa.    Lúc sau, tiếng chân người xa dần khiến tôi mừng thầm nghĩ rằng họ đi qua luôn. Nhưng không bao lâu, lại nghe tiếng ồn ào trở lại, rồi tiếng la hét và tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Biết chắc là không thể thoát được, tôi lại dọn mình ăn năn tội một lần nữa để sẵn sàng đón nhận cái chết.

Lúc bấy giờ Nguyễn Sỹ Thuyên ở gần ngoài miệng hang, lội vào trong, đến nép sát vào với Đặng Văn Tiếp và tôi. Tự nãy giờ ba anh em tôi chẳng ai nói một lời nào. Lúc đó bất ngờ anh Tiếp quay sang ôm lấy tôi xin tôi làm phép Rửa tội cho anh. Tôi đã khoát nước sông Mã làm phép Rửa tội cho anh Tiếp. Trong thời gian sống chung với tôi, anh Tiếp có ngỏ ý muốn được Rửa tội, và tôi đã giúp anh về phần giáo lý.

Khi vừa Rửa tội xong, anh Tiếp ôm hôn tôi một cách vô cùng tha thiết như bày tỏ sự vui mừng và biết ơn. Tôi cảm thấy có một cái gì khác lạ trong cử chỉ này của anh Tiếp, nhưng tôi đâu có ngờ đó là cái hôn vĩnh biệt của người anh gởi lại cho người em trước khi anh Tiếp từ giã cuộc đời! Trong giây phút đó tôi cố quên đi tất cả những việc của đời người để hướng tâm hồn về cõi sống trường sinh. Tôi tự nhiên cảm thấy rất vui vì vào những giây phút cuối đời, tôi đã nhân danh Thiên Chúa mà ban Bí tích Rửa Tội cho anh Tiếp, là người anh kết nghĩa mà tôi vô cùng thương mến. 

Lúc này thì tiếng la hét, tiếng người, tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Tôi không đoán được các loại âm thanh đó ở đâu nhưng tôi đoán có lẽ là ngay trên đầu chúng tôi vì bên bờ sông có một cây to mọc trồi ra mé nước và chung quanh có lùm bụi um tùm rất dễ cho người ta nghi tù vượt ngục rúc vào trốn trong đó.
 
    Tôi đoán không sai, từ trong hang tối om khẻ vạch cỏ nhìn ra, tôi thấy tên Thượng sĩ Hoàn mặc áo thun và quần đùi trắng với khẩu súng lục có dây đeo quàng ngang vai. Hắn đứng trên chiếc xuồng nhỏ, tay cầm cây tầm vông dài chừng ba thước, trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng tôi gọi là cây "xà-no" dùng đâm chuột hoặc đâm rắn trong các lùm bụi, nhất là trong mùa nước lên.

Tên Thượng sĩ Hoàn chỉ huy số cán bộ võ trang canh gác đêm vừa rồi, và việc chúng tôi vượt ngục đã làm cho hắn tức giận điên cuồng. Người hắn khá mập, hơi lùn và rất rắn chắc. Đặc biệt hắn có nước da đen, đen hơn những người có nước da ngăm đen bình thường. Nước da hắn đen nên càng làm cho đôi mắt hắn trắng dã dưới đôi chân mày thật rậm và gần đụng nhau trên sống mũi. Toàn diện khuôn mặt hắn lộ ra cái vẻ của hạng người “mặt đụt”, thuộc loại ngu đần và hung ác. Hắn vừa chống xuồng vừa chọc cây sắt nhọn một cách hung bạo vào các bụi rậm bên bờ sông mà hắn nghi ngờ. Thấy chiếc xuồng đang trôi từ từ xuống chỗ chúng tôi đang nấp, tôi mất hết hy vọng! Đã vậy tôi còn nghe tiếng người đàn bà trên thuyền đánh cá bên sông gọi vọng sang, giọng lanh lảnh:    
 
  - Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi!  
 
    Tên Hoàn quay mặt sang hỏi: 
 
     - Ở mô?    
 
     - Đâu trong bụi rậm trước mặt ấy, tôi vừa nom thấy chúng ngay bụi ấy! 
 
 Theo sự chỉ dẫn của người đàn bà, tên Thượng sĩ Hoàn vạch từng bụi cỏ, rọi đèn pin xuống và cuối cùng hắn đã tìm thấy chúng tôi. Thế là hết!
 

Giây phút kinh hoàng

   Thật khó mà diễn tả được tâm tư của tôi trong lúc bấy giờ. Tôi nghĩ là cuộc đời của ba anh em tôi chấm dứt kể từ giây phút đó. Cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại và chúng tôi phải sẽ trả cái giá cho việc làm này. Lúc đó tôi có thể hình dung ra được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, bởi tôi đã được chứng kiến cảnh tù nhân bị hành hạ khi vượt ngục thất bại. Họ bị đánh đập và hành hạ như một con thú. Có người đã bị đánh chết một cách thê thảm. Lúc đó, tôi ôm ghì lấy anh Tiếp và nói:“Anh em mình nhất định không ra, cho nó bắn chết ở đây!” Khi nghe tôi nói, anh Tiếp càng ôm lấy tôi chặt hơn, trong khi tiếng la hét đầy thú tính của bọn người đang đứng trên bờ sông như một tốp thợ săn đã bao vây được con mồi, chỉ còn chờ giương cung hạ thủ. Tên Thượng sĩ Hoàn như một hung thần đang lồng lộn la hét giục chúng tôi ra. Tiếng la hét của hắn đầy vẻ man dại và điên cuồng như muốn xé tan màn sương mai của vùng rừng núi âm u Thanh Cẩm.  
 
     Nguyễn Sỹ Thuyên nấp ở bên ngoài lội ra trước, trong khi anh Tiếp và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang, nhất định không ra. Sau khi la hét một hồi thấy không lay chuyển, tên Hoàn vạch cỏ che trên rễ cây, dí mũi súng lục lạnh toát vào thái dương của tôi, miệng hắn la hét một cách man dại:“Lễ! Mày có bơi ra không? Hay đợi tao bắn nát đầu mầy ra, hả?” Thực tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chỉ mong cho hắn siết cò. Tôi nghĩ đó là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng tên Hoàn không bóp cò súng vào thái dương tôi mà quay súng ngược lên bắn chỉ thiên mấy phát. Đó là dấu hiệu báo cho các nhóm đang tuy lùng khác biết là đã bắt được tù vượt ngục.
   
   Thấy la hét không kết quả gì, hắn bèn điên cuồng chụp lấy cây  “xà no” mà hắn để trên thuyền, chọc một cách điên cuồng vào hang. Mũi sắt nhọn trúng vai anh Tiếp. Qua ánh đèn pin của hắn, tôi thấy máu anh Tiếp tuôn ra đỏ thẫm một vùng nước. Trước tình thế này, chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải lội ra. Anh Tiếp bắt đầu lội ra khỏi hang trước, tôi lội theo sau. Từ mí nước lên tới bờ còn khá cao.

   Tôi hành động như một cái máy. Hai tay nắm lấy từng bụi cỏ, tôi bò dần lên bờ sông trong lúc đám đông chừng vài chục người, cả công an, cai ngục lẫn dân chúng đang đứng lố nhố trên bờ sông nhìn xuống theo dõi cảnh tôi đang lóp ngóp bò lên bờ. Lúc ấy, tôi có tâm trạng của một tử tội, trên đường đi tới pháp trường.
 

Cái giá phải trả

Vừa bò lên tới bờ sông, tôi gặp ngay tên Chuẩn úy Lăng, Sĩ quan An ninh của trại, đang cầm trở ngược đầu cây súng AK đứng chực sẵn. Khi tôi đứng vừa đúng tầm, hắn chấp hai tay quơ một cú cực mạnh, tống trọn cái báng súng vào giữa ngực tôi, đẩy tôi ngã lộn xuống nước. Cú đòn này được coi như tiếng trống mở màn cho một thảm kịch sắp được trình diễn trong giây lát. Khi tôi té xuống sông, tên Thượng sĩ Hoàn đứng trên thuyền dùng xà-no thọc vào lưng tôi, bắt leo lên bờ. Tôi lại lần từng bụi cỏ bò lên, tên Chuẩn úy Lăng vẫn đứng chờ tôi, nhưng lần này hắn không đánh nữa mà túm tóc tôi kéo mạnh lên bờ. Một tên cán bộ bước tới, tháo lấy cái khăn tôi cột ngang thắt lưng, trong đó tôi có cất cái kính đeo mắt. Kính của tôi bị mất từ lúc đó.

Cách đó không xa, tôi thấy một tốp chừng mươi tên cán bộ đang vây quanh anh Tiếp, hò hét và đánh đấm túi bụi. Trông thấy cảnh đó, tự nhiên tôi nhớ lại một câu thành ngữ La-tinh mà tôi đã học hồi còn ở Chủng viện:“Người đối với người còn hơn chó sói!”. Hình ảnh anh Tiếp đứng cao lêu khêu trên đồi sắn, lúc này sắn non mới lên cao độ một gang tay, mình mẩy anh ướt đẫm, tả tơi, chung quanh là một lũ cán bộ cộng-sản đang điên cuồng gào thét, đánh đập, khiến tôi liên tưởng tới một cảnh trong cuốn phim “Cuộc Đời Chúa Cứu Thế”, lúc Chúa Giêsu vác Thánh giá lên đỉnh đồi Golgôtha, một đám đông quân dữ đang vây quanh hò hét, đánh đập. Tôi chẳng biết so sánh như vậy có phạm thượng hay không, nhưng đó là cảm nghĩ mà tôi thấy thật rõ rệt lúc bấy giờ. Vừa trông thấy tôi, một bọn khác xông vào và tôi chịu số phận y như anh Tiếp. Lúc đó anh Thuyên ở đâu và số phận anh ra sao tôi không biết.
 
    Những cú đấm đá đầu tiên khiến tôi đau điếng cả người, nhưng sau một chập, tôi không còn nghe đau đớn nữa vì toàn thân tôi đã tê dại. Những cú đòn về sau, tôi chỉ còn cảm giác qua chấn động, như âm thanh của một quả bóng được đá dội vào tường. Lúc đó, tôi không còn biết đến cảnh vật chung quanh, nhắm mắt cắn răng chịu đòn không hề kêu la một tiếng. Trong cảnh hỗn loạn của những tiếng la hét man dại đó lại có giọng quát khá to của một người nào đó mà tôi không còn đủ tâm trí để nhận ra, tôi chỉ đoán là của ông trại trưởng:“Thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi! Tôi bảo các đồng chí thôi!”.

Sau tiếng quát đó, chẳng những chúng không dừng tay mà lại càng đấm đá dữ đội hơn. Tôi đã từng chứng kiến nhiều cảnh cán bộ đánh tù trong ngục tù cộng-sản. Tôi hiểu rằng những lời ngăn can kia là một thứ ám hiệu cho cán bộ càng hành hạ tù tàn nhẫn hơn, trong khi đó người ngoài nhìn vào vẫn tưởng rằng đảng rất nhân từ, vì người thay mặt cho đảng đã lên tiếng ngăn can!   Đánh đập chán chê, chúng đẩy tôi đi về phía trại. Lúc mở mắt ra tôi không còn thấy anh Tiếp ở đâu nữa. Tôi loạng choạng lê bước đi trước, một số đông cán bộ ồn ào theo sau. Gần tới cầu ván bắc qua con suối cạn trước trại mộc, có Thượng sĩ Khải là võ sĩ huấn luyện viên vũ thuật cho cán bộ, đang đứng thủ thế ở phía trước và chờ tôi đi tới. Người hắn cao gần thước tám, và thật rắn chắc. Hắn mặc áo thun, quần đùi trắng, chân mang giày vải, đang trong tư thế sẵn sàng. Khi tôi vừa đến đúng tầm, hắn nhún người nhảy vọt lên cao tống nguyên gót chân vào mặt tôi khiến người tôi bị bắn tung và lộn nhào xuống suối cạn ở gần đó, máu mũi và máu miệng tôi chảy ra lênh láng.

Tôi phải công nhận, đây là một cú đá rất đẹp, đúng bài bản và có tính cách biểu diễn nghiệp vụ! Có bị đòn như thế tôi vẫn thấy “hãnh diện” hơn là lúc nãy bị một đám cán bộ bu vào như những con ngựa non háu đá. Chúng đánh đấm tôi túi bụi nhưng chất lượng lại kém so với cú đá của tên Khải mà tôi vừa lãnh nhận!

Lúc nằm dưới suối cạn, tôi vẫn còn tỉnh nhưng chợt nghĩ là phải giả vờ chết, bằng không tôi sẽ chết thật. Nghĩ vậy nên tôi nằm yên bất động. Cán bộ trên bờ gọi giục, tôi cũng nằm yên. Có mấy anh nhào xuống đánh tiếp, tôi cứ mặc kệ và nằm ngửa ra như một xác chết. Có lẽ họ tưởng là tôi đã chết nên gọi hai trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát xuống suối cạn kéo xác tôi lên và mang về trại.


nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
dactrung.com
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.02.2007 09:09:08 bởi sóng trăng >
#16
    sóng trăng 08.02.2007 00:08:59 (permalink)


      9
     
                    Chuyện Thương Tâm
     
     

                              
    Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, mỗi người một bên nắm lấy cổ tay tôi kéo lê về trại. Lúc đó lưng và mông tôi lết trên đường đá cục, đau đớn không chịu được, nhưng biết làm gì hơn lúc bấy giờ? Quãng đường từ con suối cạn vào tới sân trại khá xa, vì phải qua hết lán mộc và một dãy buồng giam nằm dọc theo con đường sỏi đá này, rồi mới tới cổng trại. Chúng kéo tôi thẳng vào sân trại và vất xác tôi nằm ngửa trên nền xi-măng của hội trường giữa sân trại. Nằm yên một chốc, tôi mê đi, không còn biết gì nữa, và tôi cũng chẳng biết mê man như thế bao lâu vì lúc đó tôi đã mất hết ý niệm về thời gian.

    Lúc chợt bừng tỉnh lại, tôi mở mắt ra và thấy Bùi Đình Thi đang cầm xô nước lạnh giội lên mặt tôi. Vừa thấy tôi tỉnh lại, anh ta vội đặt cái sô xuống và nhanh như con hổ sợ con mồi vuột chạy mất, anh ta nhảy chồm lên, hai tay túm lấy một cánh tay tôi kéo thẳng lên, đồng thời dùng gót chân đạp một cách điên cuồng vào ngực, vào bụng tôi, miệng anh ta sùi bọt mép nghiến răng trợn mắt nói như muốn hụt hơi:“ĐM mày Lễ! Ăn cơm không muốn mày muốn ăn cứt! Mầy muốn chết tao cho mầy chết!". Cho tới ngày tôi chết, có lẽ tôi cũng không bao giờ có thể quên câu nói này của Bùi Đình Thi, vì đó là lần đầu tiên tôi nghe một giáo dân chửi một Linh mục như thế.
     
        Đánh đập chán chê, anh ta bỏ tôi nằm yên. Sau này mới biết anh ta quay sang “thăm” hai anh Đặng Văn Tiếp và Nguyễn Sỹ Thuyên đang nằm rải rác gần đó. Tôi lại rơi vào cơn hôn mê một lần nữa, cũng chẳng biết trong bao lâu. Khi bừng tỉnh lại, tôi thấy Bùi Đình Thi đang cầm hai chân tôi kéo lên các bậc thềm đúc bằng xi măng từ hội trường lên khu kiên giam, lưng và đầu tôi va mạnh lốp bốp vào các bậc thềm, cả thảy 12 bậc. Sự đau đớn thái quá đó làm tôi bừng tỉnh lại và nhờ đó tôi mới chứng kiến cảnh tượng hãi hùng khác: Cảnh anh Đặng Văn Tiếp bị Bùi Đình Thi đánh chết tại chỗ. Cảnh tượng này đã in vào tâm trí tôi như một hình xâm trổ trên da thịt và chắc chắn sẽ không bao giờ có thể tẩy xóa được!
     
     
    Mạng người thứ nhất

    Bùi Đình Thi kéo tôi vào lại buồng 1, nằm quay mặt ra cửa. Buồng này là nơi chúng tôi vừa đào tường vượt ngục đêm qua. Vừa quẳng tôi vô buồng, Thi vội quay trở ra cửa khu kiên giam đẩy mạnh anh Đặng Văn Tiếp vào. Từ lúc thấy anh Tiếp bị đánh ở bờ sông cho đến lúc đó là bao lâu, tôi cũng không thể đoán được vì tôi đã mất ý niệm về thời gian, và anh Tiếp bị đòn nhiều ít thế nào tôi cũng chẳng hay. Tôi chỉ biết lúc này trông anh còn có vẻ khá hơn tôi, tuy dáng anh tả tơi sủng ướt nhưng anh còn đi đứng được.

    Chung quanh anh lố nhố một số cán bộ. Tôi nghe có cả tiếng phụ nữ, chắc là vợ con cán bộ cũng chạy lên xem cảnh hành hạ tù vượt ngục. Tôi không biết lúc bấy giờ ai đã quật anh Tiếp ngã xuống, nhưng tôi thấy rõ Bùi Đình Thi nhảy chồm tới vồ lấy anh Tiếp. Hắn dùng 2 tay túm lấy một tay anh Tiếp kéo lên và dùng gót chân dậm một cách điên cuồng lên ngực, lên bụng anh Tiếp, giữa tiếng chửi bới cổ võ một cách điên cuồng của số đông cán bộ cộng-sản vây quanh. 
     
         Nằm nhìn ra cảnh ấy, tôi biết là anh Tiếp không thể nào chịu nổi cú đòn hiểm độc này, tôi nghe anh Tiếp kêu lên thật to:“Chắc con chết mất Mẹ ơi!” Tôi không ngờ đó là câu nói cuối cùng của đời anh. Anh  đã chết sau câu nói đó!
    Không ai có thể ngờ được cuộc đời đã từng ngang dọc oai hùng của anh Đặng Văn Tiếp đã bị chấm dứt một cách tức tưởi, dưới gót chân của Bùi Đình Thi như thế này, vào một buổi sáng âm u, ngày 2 tháng 5 năm 1979 trong nhà tù Thanh Cẩm, lúc anh vừa 46 tuổi. Dĩ nhiên, chế độ cộng-sản là kẻ chủ trương, nhưng Bùi Đình Thi đã thay cho chế độ bạo tàn này, giết anh Đăng Văn Tiếp một cách thật dã man! Người cộng-sản ném đá giấu tay, họ đã dùng tù giết tù. Nếu tôi không sống sót, thì ai biết được để ghi thêm một thảm trạng tày trời, đau đớn và đầy nhục nhã này trong ngục tù cộng-sản?
     
        Hôm nay, ngồi nhớù lại cảnh tượng này lòng tôi đau nhói. Tôi có cảm tưởng như đang ngồi xem một đoạn phim chiếu những hình ảnh méo mó, bệnh hoạn làm ruột tôi co thắt lại và tôi cảm thấy buồn nôn! Trong cả cuộc đời tôi, không cảnh nào làm tôi đau xót bằng  cảnh này. Tôi nhớ lại một đoạn trong phim “Quo Vadis?” mà tôi đã xem qua. Đó là cảnh một đám khán giả khát máu trong một hí trường thời cổ đại La Mã đang la hét điên cuồng cổ võ những con ác thú cắn xé các nạn nhân Thiên Chúa Giáo bị kết án tử hình được vất cho chúng. Nhớ lại cảnh thương tâm này, tôi phải ngưng lại để nói chuyện với anh Tiếp:“Anh Tiếp ơi! Giờ này oan hồn anh đang ở đâu? Anh có thấy được nước mắt nước mũi của em đang chảy dài ướt cả áo khi em ngồi đây viết lên những hàng chữ này không? Mỗi năm vào ngày giỗ của anh, em tắt nghẹn nhưng chưa bao giờ em khốn khổ như lúc này, lúc mà em phải nhớ lại từng chi tiết về cái chết của anh.”
     
         Bùi Đình Thi lôi xác Tiếp vào và vất chồng lên người tôi, lúc ấy tôi đang nằm như một thây ma bất động dưới lối đi, nơi mà mấy tháng trước đây Đại tá công-an Hoàng Thanh đã đi qua để nhìn mặt chúng tôi. Lúc này tôi nằm ngửa, còn xác anh Tiếp mềm nhũn nằm sấp áp lên người tôi. Trong tư thế đó, tôi là người thân yêu cuối cùng có mặt để đưa tiễn anh tôi về bên kia thế giới. Xác anh Tiếp thật nặng đè lên người làm tôi ngạt thở, tôi cố vùng vẫy lật xác anh qua một bên để có thể hít thở nhưng tay tôi không còn cử động được, và tôi cảm thấy mình sắp chết ngạt đến nơi. Cũng may lúc đó, có một cán bộ bước vào và tôi nghe tiếng của Bùi Đình Thi nói:
     
           - Thằng Tiếp nó chết rồi!
     
           Cán bộ ra lệnh.
     
          - Lôi xác nó lên!
     
       Xác anh Tiếp được lôi lên bệ xi măng, chỗ mà mọi ngày anh vẫn nằm, nhờ đó tôi không bị chết ngạt. Lúc thấy tôi còn cử động và co đầu gối lên tựa vào tường, một tên cán bộ đã rút thanh sắt cài cửa buồng, đập mạnh lên đầu gối bên trái, làm chân tôi gập xuống. Trong khi đó tôi nghe tiếng chửi rủa léo nhéo của các phụ nữ bên ngoài cửa sổ và chúng ném gạch đá vào tôi, những viên gạch mà chúng tôi đào tường lấy ra hồi đêm qua. Lúc đó nằm dưới lối đi nhìn lên, tôi còn thấy được đôi bàn chân gầy gò, dính đầy bùn đất của anh Tiếp thò ra ngoài bệ nằm xi-măng, và đó là hình ảnh cuối cùng tôi thấy nơi một người anh kết nghĩa mà tôi hết lòng yêu quý và kính phục.
     
          Lúc nhìn thấy gót chân bất động của anh nhô ra từ bệ nằm, tôi còn nhớ lại trước khi vượt ngục, tôi có khâu chiếc nhẫn vàng hai chỉ vào cái cúc quần của anh. Đây là chiếc nhẫn mà anh Thụ, em kế của Tiếp, đã khéo léo giấu trong một hộp sữa hai đáy gởi ra cho anh cùng với tấm bản đồ và cái địa bàn lúc anh còn ở trại Hà Tây. Tôi chỉ nhớ được chừng đó, vì đây là hành trang quý nhất mà anh cần có khi quyết định vượt ngục. Không ngờ anh đã không sử dụng được thứ hành trang đó để đi tới nơi an toàn như anh mong ước.
     

    Đi vào cõi chết

      Một lúc sau, tôi lại đi vào cơn hôn mê như một giấc chiêm bao kéo dài. Tôi thấy mình đang chới với bước đi trên một vùng đầy mây trắng, đóng thành từng mảng cứng như nước đá, trong một khoảng không gian hoàn toàn yên lặng. Tôi đạp trên các vầng mây lần bước tiến lên mà chẳng biết là đi về đâu. Thỉnh thoảng, một tảng băng vỡ ra, tôi bị hụt hẫng. Tôi bám vào thành các tảng mây khác leo lên và cố gắng bươn chải đi tới trong khoảng chân không mông lung huyền ảo. Kinh nghiệm của con người đang ở giữa lằn ranh của sự sống và cái chết cho tôi thấy cái chết thật nhẹ nhàng dễ chịu.  Sự chết  không phải là cái gì quá ghê gớm theo như quan niệm thông thường. Có đau khổ chăng là cho những người thân yêu còn ở lại.
     
    Sau này, khi nhớ lại cảm giác của buổi sáng âm u trong trại tù Thanh cẩm đó, khi mà xác tôi đã nằm bất động dưới sàn của buồng giam, lúc đó ai nhìn vào chắc sẽ ghê rợn hãi hùng trước cái thây ma bất động, áo quần ướt đẫm, mình đầy máu me và cát bụi. Nếu người thân yêu của tôi nhìn thấy cảnh đó chắc sẽ khóc hết nước mắt vì thương tôi đã phải chịu một cái chết quá là đau thương tàn nhẫn. Nhưng thực tình trong lúc đó tôi đang lơ lửng trên các tầng mây và cảm thấy rất nhẹ nhàng sung sướng trong một thứ hạnh phúc mà suốt cuộc đời với bao nhiêu lo âu phiền muộn, tôi chưa bao giờ được nếm qua.

    Cảm giác hạnh phúc mà tôi có được lúc bấy giờ vượt ra ngoài hết những gì đã ràng buộc con người vào cuộc đời trần gian khổ ải bị bao vây bởi thất tình lục dục. Cái khoảng chân không mông lung huyền ảo mà tôi đã được bước vào, trong khi thân thể tôi nằm dưới sàn đất, đó là một khoảng chân không yên lặng tuyệt đối và tôi nghĩ rằng không làm sao có được sự thinh lặng đó trong cuộc đời này.
     
    Dĩ nhiên lúc đó tôi chưa hẳn đã đi vào cõi chết, nhưng tôi đã được bước tới ngưỡng cửa của sự chết và đã được “nếm qua” mùi vị của sự chết. Tôi chưa có thể diễn tả về cái chết thực sự ra sao, nhưng có thể nói lên niềm hạnh phúc của tôi đã cảm nhận được trong buổi sáng sớm ngày 2 tháng 5 năm 1979 đó. Khi “tôi” đang ở trong trạng thái lơ lửng giữa các tầng mây, tôi còn biết là thân xác mình đang nằm bất động trong buồng giam và một cảm nghĩ rất lạ đã xâm chiếm lấy “tôi” lúc bấy giờ, và tôi không còn muốn quay về với thân xác nữa. Lúc đó tôi có cảm nghĩ là tại sao con người lại bận tâm trong những việc chẳng ra gì, mà người ta coi là quan trọng để rồi tự làm khổ mình và làm khổ người? Trong khi chỉ có sự thanh tịnh nơi cõi vĩnh hằng mới là nguồn vui đích thực và cuối cùng của nhân sinh.
     
    Cái số tôi chưa chết trong ngày hôm đó, vì thực ra chỉ cần một người nào đang có mặt trong buồng lúc bấy giờ bồi thêm một cú đòn, hoặc chỉ cần lật sấp lại để tôi không thở được là cuộc đời tôi chấm dứt. Mà cho dù có người nào đó đã làm như vậy, tôi cũng không oán trách, vì thân xác tôi đã hoàn toàn tê dại, không còn biết đau đớn là gì. Hơn nữa, nếu có ai làm như thế thì chắc chắn họ sẽ giúp đưa tôi thẳng vào vùng hạnh phúc tuyệt vời mà tôi đang chập chờn ở ngưỡng cửa. Dĩ nhiên là tôi rất quý cuộc đời và mạng sống tôi, vì cuộc sống con người chính là một hồng ân của Trời ban. Tôi chỉ muốn nói lại kinh nghiệm của một người đã chạm tới biên cương của sự chết và biết rằng chết là một trạng thái rất nhẹ nhàng êm ái.
     
     
    Lần xuống "Đáy Địa Ngục"


    Tôi chẳng biết cơn hôn mê đó kéo dài trong bao lâu, nhưng tỉnh lại trong khi Bùi Đình Thi đang vác tôi ngang qua vai anh ta. Hai tay cầm lấy hai chân tôi, bụng tôi áp vào vai anh, đầu và hai tay thõng ra sau lưng. Lúc này con người tôi đã mềm nhũn và không thể tự mình cử động được. Vì bị dằn vật quá mạnh theo nhịp bước chân của anh ta, tôi tỉnh cơn mê. Bùi Đình Thi vác tôi thẳng vào nhà kỷ luật và cùm chân lại. Đây là khu nhà kỷ luật vừa mới xây xong, để thay cho Nhà Đen không đủ kiên cố.  Sau khi đặt nằm yên, tôi lại đi vào cơn hôn mê, vì con người tôi lúc này đang chập chờn ở giữa biên giới của sự sống và cái chết.
    Khi tôi tỉnh lại thì trời tối đen như mực, chợt tôi nghe tiếng anh Nguyễn Sỹ Thuyên bên cạnh, mới hay anh cũng đang bị cùm chung một thớt với tôi.  Anh nằm phía trong sát vách tường. Anh Thuyên cho biết lúc ấy có lẽ quá nửa đêm rồi, anh thều thào:
     
          - Sáng nay, lúc thằng Thi nó vác ông vào, lúc ấy ông đang mê man, tôi gọi mãi không thấy ông tỉnh dậy, tôi lo quá, tưởng là ông đi luôn rồi. Có biết Tiếp đâu không?
     
           Tôi rên rỉ qua hơi thở:
     
           - Tiếp chết rồi!
     
           Thuyên kinh hãi kêu:
     
          - Tiếp chết rồi à?
     
          - Ừ, Tiếp chết rồi! Tiếp bị đánh chết trước cửa buồng mình. Nó vất xác Tiếp nằm đè lên người tôi.
     
           Anh Thuyên yên lặng hồi lâu mới nói được:
     
          - Tiếp chết rồi! Còn Tiếu và Văn ra sao?
     
          - Tôi không biết.
     
          Thuyên nằm lặng yên, không nói năng gì, nhưng tôi nghe tiếng anh đang khóc sụt sùi trong bóng đêm. Tôi nằm bất động, nước mắt giàn giụa.   Khi tỉnh dậy được một lúc, tôi cảm thấy buồn nôn, định quay mặt nôn xuống sàn nhà nhưng tôi không còn sức để trở người nên nằm ngửa nôn thốc tháo ra ướt đầy mặt mũi, rất tanh hôi. Sáng hôm sau, khi trời sáng tôi mới thấy mình nôn ra toàn là máu tươi! Ban ngày, khi tiểu tiện cũng ra máu mà đại tiện cũng ra toàn là máu. Lúc đầu nhìn thấy cảnh tượng đầy máu me này tôi rất kinh hoàng. Tuy nhiên, tôi biết rằng nếu máu bầm trong cơ thể đã thoát ra ngoài được là điều tốt, còn nếu máu bầm ứ lại bên trong thì rất nguy hiểm.
     
         Tình trạng anh Nguyễn Sỹ Thuyên lúc đó cũng tệ hại không kém gì tôi, cũng bị đánh đập tả tơi, giập nát cả người cũng như tôi và anh Tiếp. Anh cũng bị nôn mửa và đại tiểu tiện ra máu dầm dề. Trong tình cảnh đó, anh tỏ ra tuyệt vọng và nghĩ là mình không thể nào sống được. Sáng hôm sau, tôi thấy anh Thuyên không chịu nằm yên mà tay anh cứ mò mẫm như đang tìm một cái gì. Tôi nhìn xuống thì ngạc nhiên thấy anh đang định cắt đứt mạch máu ở háng bằng một con dao làm bằng nửa nắp lon sữa bò được mài bén. Không biết anh tù kỷ luật nào ở buồng này trước bỏ lại con dao này ở đây và anh Thuyên rớ được. Thấy vậy tôi la lớn:
     
           - Anh Thuyên! Anh định làm gì vậy?
     
           Anh Thuyên thều thào:
     
          - Tôi biết trước sau rồi mình cũng chết, thà tự tử chết trước cho khỏe thân!
     
           Tôi phản đối ý của anh:
     
          - Anh Thuyên ơi, đừng làm như vậy! Thà để cho cộng-sản nó giết mình. Chúng ta không được quyền tự sát, hơn nữa làm như thế có ra gì?   Nghe tôi nói, anh Thuyên dừng tay lại. Từ đó chúng tôi luôn an ủi và nâng đỡ tinh thần của nhau. Phần tôi, luôn để ý tới các cử động của anh Thuyên, mặc dù tôi đã lấy miếng dao rồi.

    Sự có mặt của anh Thuyên bên cạnh tôi trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là một sự an ủi và nâng đỡ rất lớn cho cả tinh thần lẫn thể chất của tôi. Nhân nhớ lại câu chuyện này, tôi cũng muốn gởi tới anh Nguyễn Sỹ Thuyên tâm tình yêu mến thiết tha và lòng biết ơn chân thành của tôi. Mỗi khi nhớ lại cảnh tượng kinh hoàng của những ngày đầu tháng 5-1979 đó, tôi đều nghĩ rằng, nếu không có anh Thuyên bên cạnh trong những ngày đầu sau khi bị đánh đập giập nát cả người đó, chắc là tôi không thể nào sống sót được. Xin anh Thuyên hãy biết rằng, trong một ý nghĩa nào đó, chính anh là người đã cứu lấy mạng sống của tôi.
     
    Những ngày tiếp theo, anh Thuyên và tôi vẫn thấy máu trong người ra nhiều quá nên chúng tôi gọi báo cáo cán bộ xin thuốc. Sau khi chửi bới một hồi, cán bộ đưa anh y tá, lúc bấy giờ là anh Điện, nghe nói là chánh án tỉnh Bình Dương, lên tiêm cho anh Thuyên và tôi mỗi người một mũi Vitamin K là loại thuốc cầm máu. Mũi thuốc tiêm này là ân huệ duy nhất của đảng ban cho chúng tôi trong suốt thời gian này.
     
        Lúc đó, tôi tìm hết mọi cách cho máu bầm thoát ra khỏi thân thể, thoát càng nhiều càng tốt. Vài ngày sau, khi nước tiểu của tôi bắt đầu trong lại, tôi hứng lấy và uống mỗi ngày vài ba muỗng nước tiểu của chính mình. Một ít hiểu biết về y học cho tôi biết rằng trong nước tiểu có chất muối làm cho tan máu. Kết quả đúng như tôi mong muốn, mỗi khi uống thứ “thuốc” đó vào, tôi lại đi tiểu ra máu.
    Tôi tiếp tục tự chữa cho mình như vậy trong thời gian chừng mươi hôm, cho tới khi thấy trong nước tiểu không còn máu nữa tôi mới ngưng uống “thuốc”. Anh Thuyên cũng đã tự chữa trị cho anh cùng một cách thức như tôi. Nhờ cách đó cơ thể tôi dần dần khá lại và một tuần lễ sau có thể xoay trở người để đi đại tiểu tiện xuống sàn nhà. Nhưng phải mất ba tuần lễ tôi mới có thể ngồi lên được.
    Tôi còn nhớ trong lần gượng dậy đầu tiên, anh Thuyên phải giúp tôi vì anh đã ngồi lên được trước tôi vài hôm. Anh dùng ống tay áo cột vào cổ rồi kéo tôi từ từ ngồi dậy. Sự cố gắng quá sức này làm tôi đau đớn tưởng chừng như cả bộ xương của tôi bị rời ra từng mảnh, nhưng tôi phải cố gắng ngồi lên, vì tôi nghĩ rằng nằm lâu ngày quá có thể bị liệt cột sống. Thời gian đó tôi sợ nhất là ho hoặc hắt hơi, vì mỗi lần ho và nhất là hắt hơi, cơ thể tôi bị giật mạnh làm các khớp xương như long ra và bay đi tung tóe, đau đớn không thể nào diễn tả được.
     

    Mạng người thứ hai

    Mấy ngày sau tôi được biết hai anh Trịnh Tiếu và Lâm Thành Văn cũng bị đánh đập tả tơi và đang bị cùm chân trong nhà Nhà Đen. Cha Định cũng bị cùm bên đó, nhưng ở khác buồng. Khu kỷ luật Nhà Đen này sắp được phá đi và thay thế bằng khu nhà kỷ luật mới mà anh Thuyên và tôi hiện đang bị cùm.
     
        Ngoài anh Tiếp bị giết một cách tức tưởi, bốn người còn sống trong vụ vượt ngục bất thành đang bị cùm ở hai nơi. Một tuần lễ sau ngày trốn trại, tôi được anh Nguyễn Tiến Đạt cũng đang bị cùm trên kỷ luật mới và được chỉ định làm trực sinh, báo tin anh Lâm Thành Văn bị Thi bỏ đói vừa mới chết. Nghe tin này, anh Thuyên và tôi bàng hoàng xúc động. Một người anh em nữa đã ra đi . Mãi tới gần một tháng sau khi Nhà Đen bị phá bỏ, anh Trịnh Tiếu và cha Nguyễn Công Định chuyển khu kỷ luật mới và ở chung buồng tôi và anh Thuyên. Lúc bấy giờ anh Tiếu mới kể lại chi tiết về cái chết của Văn cho chúng tôi nghe.   Anh Trịnh Tiếu kể lại rằng, sáng ngày 2 tháng 5, khi vừa có ba tiếng súng báo động, cả anh và Văn đã bị cán bộ túm lấy đánh cho một trận, tuy không dữ dội như ba anh em chúng tôi bên ngoài nhưng anh Tiếu bị gãy một xương sườn. Sau đó cả hai người bị đưa vào cùm chung một buồng ở Nhà Đen.

    Những ngày sau đó, Văn yếu nhiều vì vốn có chứng đau dạ dày khá nặng, lại bị đánh đập trọng thương và nhất là không ăn gì vào miệng. Từ trước tới nay, anh Văn có tiêu chuẩn ăn cháo trắng. Mỗi bữa ăn, anh được một bát cháo trắng và một muỗng muối hạt. Số muối này anh ăn không hết và thường chia cho các anh em trong buồng mỗi người một chút. Trước khi chúng tôi vượt ngục, trại cho ăn sắn thường xuyên, nhưng anh Văn vẫn ăn cháo với muối. Nhờ vậy từ khi có kế hoạch vượt ngục, chúng tôi để dành được mỗi ngày một ít muối phòng lúc ra rừng có muối mà ăn. Tới ngày vượt ngục, chúng tôi gom góp được chừng non bát muối.

    Khi chúng tôi bị bắt, Thi đã xét thấy số muối đó trong túi của tôi và đó chính là nguyên nhân cái chết của Văn về sau này. Từ đó Thi không cho Văn ăn cháo nữa, mặc dù tiêu chuẩn trại vẫn có. Anh Tiếu kể lại rằng, khi gánh cháo lên tới khu kỷ luật, Bùi Đình Thi đá phăng cháo đi, bắt Văn ăn khoai hay sắn, những thứ mà Văn không thể nào nuốt được vì chứng bệnh dạ dày quá nặng. Bữa ăn nào anh Văn cũng kêu van năn nỉ, nhưng anh trật tự ác ôn trả lời một cách dứt khoát:“Cho ăn cháo để chúng mày lấy muối trốn trại à? Không ăn sắn được thì chết.”
     
        Anh Trịnh Tiếu cho biết, trong suốt mấy ngày cuối cùng của cuộc đời, anh Lâm Thành Văn không có gì để bỏ vào miệng. Vì đang thời gian trại phải ăn khoai ăn sắn liên tục, anh chỉ uống nước cầm hơi. Đêm trước khi qua đời, Văn đã nói sảng như người nằm mơ và toàn nói về các món ăn. Có lần anh hỏi anh Tiếu là lon muối sả của anh đâu? Anh Tiếu nói làm gì có lon muối sả. Văn trả lời là lon muối sả người em dâu của anh vừa thăm nuôi đưa vào cho anh. Nghe như thế anh Tiếu biết là Văn đã nói sảng và chứng tỏ cơn đói hành hạ anh dữ dội.

    Sáng sớm ngày cuối cùng của cuộc đời, Văn gọi Tiếu nhờ đỡ ngồi lên, vì anh không còn gượng dậy nổi. Khi Văn ngồi lên, với một chân trong cùm, chân kia co lại, anh ngồi gục đầu trên hai tay đang khoanh tròn đặt trên đầu gối. Anh ngồi yên một lúc lâu trong tư thế này, như vẫn thường ngồi hàng ngày. Thấy Văn đã ngồi yên, anh Tiếu bước chân không bị cùm xuống sàn, với lấy ống bẩu đi đại tiện, nhưng mắt không rời Văn vì nhận thấy Văn đã có dấu hiệu gì hơi khác thường.

    Trong khi anh Tiếu đang chân trên chân dưới vật lộn với cái ống bẩu như vậy, chợt anh nhìn thấy Văn gục đầu mạnh xuống và không gượng dậy nữa. Anh gọi mấy tiếng không nghe trả lời, anh vội ném ống bẩu xuống, đỡ Văn dậy, nhưng thấy Văn đã mềm nhũn! Lâm Thành Văn đã chết!

    Anh Tiếu đặt Văn nằm cho ngay ngắn, vuốt mắt cho Văn và lên tiếng gọi báo cáo cho cán bộ. Anh Lâm Thành Văn đã chết vì đói! Anh chết dần chết mòn như ngọn đèn cạn dầu tới lúc phải tắt, khi chết, một chân Văn vẫn còn mang cùm!
    Hai cái chết tức tưởi của anh Đặng Văn Tiếp và anh Lâm Thành Văn làm tôi đau đớn vô cùng. Niềm xúc động vẫn dâng trào như nén hương lòng tưởng nhớ đến hai người anh, đã cùng tôi chia sẻ khát vọng TỰ DO nhưng không thành.
     
      Văn không thuộc nhóm 48 Quyết Tiến, nhưng anh từ trại Quảng Ninh đến. Tôi nghe kể lại, Văn và anh Đông cùng làm nghề lái xe khách và cùng bị bắt vì tội tham gia tổ chức Phục Quốc. Nhưng sau khi bị bắt một thời gian, hai người xích mích nhau vì những lời khai báo của anh Đông với công-an. Khi đến trại Thanh Cẩm, chuyện xích mích giữa hai anh trở nên trầm trọng. Một ngày kia, trong giờ chia thức ăn trưa, hai người cãi vã nhau, sau đó anh Văn dùng thanh sắt nhọn đâm vào lưng anh Đông. Vì lý do đó, anh Văn bị đưa lên cùm trên Nhà Đen một thời gian rồi đưa qua khu kiên giam. Văn đã ở khu kiên giam thời gian khá lâu trước lúc chúng tôi từ Cổng Trời chuyển về đây. Lâm Thành Văn chết đi để lại vợ và sáu con thơ, lúc đó đang ở xã Xuân Hiệp, Thủ Đức. 


    nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
    dactrung.com
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.02.2007 00:14:55 bởi sóng trăng >
    #17
      sóng trăng 09.02.2007 11:50:50 (permalink)
      .


                         10

                  “Tôi Phải Sống”
       

                                             
      Người chết đã yên phận, mặc dù chết thật đau đớn và đầy oan nghiệt nhưng hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn cũng đã thoát khỏi địa ngục trần gian Thanh Cẩm.  Riêng phần chúng tôi, ba anh em còn sót lại trong vụ vượt ngục đó, vẫn phải tiếp tục đền tội sống trong nhà kỷ luật suốt mấy năm trời. Nhà kỷ luật ở đây tự nó đã là địa ngục, có thêm trật tự Bùi Đình Thi vào, nó xuống sâu hơn mọi tầng của địa ngục và trở thành đáy địa ngục! Nhưng ngay trong “Đáy Địa Ngục”, con người cũng có phần có số. Anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên may mắn hơn một chút vì không bị chiếu cố nhiều. Còn số phần của tôi kém may mắn hơn.

      Phần cha Nguyễn Công Định, vì không tham gia cuộc vượt ngục nên không bị đánh đập, nhưng cũng bị cùm trong nhà kỷ luật. Vì lý do đó, cha Định rất oán hận chúng tôi, và sau này khi bốn người bị nhốt chung một buồng, đã có nhiều chuyện đau lòng xẩy ra giữa cha Định và ba anh em chúng tôi. Trong tuần đầu sau khi bị đánh tả tơi, anh Thuyên và tôi bị cùm chân cả ngày lẫn đêm trong nhà kỷ luật mới. Cả hai chưa ai trở người được nên phải đại tiểu tiện và ói mửa ngay trên bệ nằm, xong dùng tay gạt phân xuống sàn và xé quần áo ra lau chùi. Tuy lúc ấy trong buồng có các ống bẩu, dùng cho việc đại tiểu tiện, nhưng làm sao chúng tôi xử dụng được khi trở người còn chưa nổi?

      Càng ngày đống phân trong buồng càng cao và bộ quần áo duy nhất của chúng tôi càng nhỏ lại. Tuy vậy, tôi không hề cảm thấy mùi hôi thối gì cả, nhưng mỗi lần cán bộ đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, tôi thấy họ phải đứng lùi ra xa và lấy tay bịt mũi lại. Lúc đó tôi mới biết là buồng mình kém vệ sinh! Tôi đang lo ngại, không biết xoay xở ra sao để che thân, khi áo quần đã xé gần hết, mà kêu xin nhiều lần cán bộ nhất định không cho, thì không ngờ anh Thuyên có giải pháp hay.

      Sau khi đã ngồi lên được, anh Thuyên ngồi tẩn mẩn xé mảnh vải dài chừng ba gang tay, rộng một gang và tại bốn góc,  cột dây vải khoảng hai gang. Nhìn thoáng qua trông như bộ Bikini của các bà các cô mặc khi tắm biển. Nhưng bộ “Bikini” này lại là hình chữ nhật, trông giống như loại diều giấy trẻ con hay thả chơi khi trời lộng gió. Với bộ “Bikini” này, khi mặc vào rất đơn giản, chúng tôi chỉ việc cột hai dây vải phía trước ra phía sau lưng,  và hai dây sau lưng ra trước rún!

      Tuy ăn mặc như vậy trông hơi có vẻ sexy nhưng gọn nhẹ, tiện dụng và đa năng. Khi cần, chỉ tháo hai gút dây ra là chúng tôi có ngay một khăn mặt để dùng. Thật tôi không ngờ, anh Thuyên là một giáo sư toán mà lại có khả năng bén nhạy của một nhà vẽ kiểu thời trang! Lúc bấy giờ không còn loại y phục nào phù hợp hơn cái “mốt” anh Thuyên đã sáng chế cho anh và tôi. Nhưng rất tiếc là mỗi người chỉ có một cái duy nhất, vì không còn vải để làm cái thứ hai. Một buổi sáng trong tuần lễ thứ ba sau ngày vượt ngục, chúng tôi được tháo cùm lần đầu tiên và cho xuống sông Mã tắm giặt. Tất cả khoảng hơn 20 tù nhân trong khu kỷ luật, trong số đó có vài ba linh mục. Ai nấy trông thật bệ rạc, đứng xếp hàng đôi trước sân, tay ôm áo quần và các loại đồ chứa nước, chờ trật tự đếm số trước khi ra lệnh cho đi. Dĩ nhiên là có cán bộ vác súng dài theo sau.

      Lúc anh Thuyên và tôi mặc “Bikini” từ trong buồng 4 lê lết bước ra, tôi thấy mọi người trố mắt nhìn. Không biết anh em nhìn chúng tôi vì lối ăn mặc lạ đời, hay vì hai cái bộ xương biết đi, bị trét đầy cứt đái? Có lẽ cả hai! Hôm đó anh Thuyên và tôi không có gì để giặt, nhưng trước khi ra khỏi buồng, chúng tôi đã lẹ làng quơ hết số giẻ rách đã dùng trong việc đại tiện, vất rải rác dưới sàn, mang xuống sông giặt để dùng lại, vì chẳng còn đâu áo quần để xé nữa.

      Vừa ra khỏi buồng, tôi bị quáng mắt và xiêu đảo, phải dừng lại hồi lâu mới bước đi, nhưng tôi lại không thể nhấc chân lên được vì quá kiệt sức. Người tôi bầm giập và tôi đã nằm một chỗ trong thời gian mấy tuần liền, nên gần như bị bại liệt. Cán bộ phải cho hai anh tù khác giúp kè tôi gượng bước đi. Anh Thuyên đỡ hơn tôi, có thể tự bước đi một mình nhưng trông dáng anh đi thật thê thảm. Hai chân dạng ra lết đi từng bước, lưng cong vòng như cái cạp nong, khi di chuyển, tưởng chừng đầu anh gần chạm đất!

      Quãng đường tới bờ sông chỉ chừng hơn trăm thước, thế mà lúc đó tôi thấy sao đi mãi không đến nơi. Khi đi ngang qua hội trường giữa sân trại, tôi rùng mình nhớ lại cảnh tượng ở đây ba tuần trước với hình ảnh kinh hoàng của Bùi Đình Thi. Lúc này anh ta đi ngay sau lưng tôi vì tôi đang được dìu lê từng bước, một cách mệt nhọc ở cuối hàng.

         Khi tới nơi, cả bọn ùa xuống sông khua khoắng tắm giặt. Nước thượng nguồn sông Mã hôm ấy thật trong và cạn chỉ ngang tới cổ vì các ngày trước không mưa. Trầm mình trong dòng sông nước lạnh, tôi thấy rất dễ chịu. Nhất là vì đã tẩy rửa được bao nhiêu thứ dơ bẩn, cứt đái đang bám nặng trên người trong ba tuần lễ kinh hoàng vừa qua. Vừa kỳ cọ thân thể, tôi vừa nhìn các anh em, nhất là các anh em Linh mục. Tôi thấy họ cũng đang nhìn tôi cách ái ngại nhưng không ai dám nói năng gì, chỉ có bốn mắt nhìn nhau thông cảm, vì tôi bị cấm tiếp xúc với tất cả mọi người. Hơn nữa, tôi biết là từ trên bờ sông lúc nào mắt của cán bộ và trật tự cũng dán vào tôi.

      Tắm một chốc tôi đã thấy mệt thở dốc nên đứng yên đưa mắt hướng về phía xuôi dòng nước, bồi hồi nhớ lại cái hốc đá dưới gốc cây to bên bờ sông, nơi mà ba người đã ẩn nấp cách nay mấy tuần. Giờ này chỉ còn lại hai! Tôi không dám suy nghĩ tiếp, và cứ đứng yên ngâm mình trong nước nhìn đàn cá mương đang lao nhao ngụp lặn chung quanh mấy anh tù để kiếm ăn. Bọn cá mương này cũng già kinh nghiệm, biết rằng chỉ có tù đi tắm chúng mới được một bữa ăn thoải mái. Theo dõi đàn cá đang tranh ăn, tôi chợt suy nghĩ vớ vẩn:“Mấy con cá ngu này, chúng mày rớ được ghét của tao, nuốt vào không hóa dại cũng ói mửa!” Tôi nghĩ quẩn thế thôi, chứ cá mương ăn phân người, thì làm gì có chuyện ói mửa!    Một lúc sau có tiếng trật tự giục lên. Cả bọn chúng tôi lóp ngóp lội vô bãi cát lài ngay lối lên xuống. Lợi dụng lúc mọi người đang chen lấn không ai để ý, cha Trần Văn Nghị, có lẽ vì thấy tôi “ăn mặc” quá thảm thương, đã lẹ làng dúi vào tay tôi cái khăn mặt đã giặt sạch vo tròn to chừng bằng cổ tay. Tôi vội vàng nắm lấy vì lúc bấy giờ đó là món quà rất quý.

      Trên đường trở về buồng, tôi cảm xúc về tình nghĩa anh em và sự cảm thông cha Nghị dành cho tôi. Tôi cảm thấy vui vì sự nâng đỡ tinh thần của các bạn tù, nhất là các anh em Linh mục. Từ nay gia tài của tôi ngoài nửa manh chiếu rách, nửa cái chăn, một cái “Bikini” do anh Thuyên làm, còn có thêm cái khăn cha Nghị vừa cho. Tôi mỉm cười tự nhủ:“Đời mình chưa đến nỗi nào!” Nhưng ở đời có mấy ai học được chữ ngờ!


      Họa Vô Đơn Chí

      Về tới buồng, mọi người lo giũ quần áo ra phơi trên các cánh cửa sổ. Tôi gần kiệt sức vì vừa leo lên hàng chục bậc xi-măng vào khu kỷ luật, nhưng cũng cố gắng giũ mớ giẻ rách và cái khăn cha Nghị vừa cho ra phơi. Đó là loại khăn mặt khá lớn, màu trắng và có những ô vuông nổi lên như mặt trong của bao tử bò. Vừa với tay định máng cái khăn lên cánh cửa sổ, tôi bỗng giật mình vì câu hỏi quá bất ngờ từ phía sau:

           - Lễ! Cái khăn này ở đâu mày có?

            Quay lại tôi thấy trật tự Bùi Đình Thi đang đứng ngay sau lưng tôi, một tay anh ta chỉ thẳng mặt tôi, tay kia chỉ cái khăn. Tôi thất kinh vì biết là tai họa tới nơi, nên vội nói dối:

           - Tôi nhặt được dưới sông lúc đi tắm. Không biết của ai đánh rơi để tôi trả lại cho họ.

           - Vô lý mà nhặt được! Nói thật đi, thằng nào cho mầy?

            Tôi vẫn giữ lập trường nhưng lần này bằng giọng khẩn thiết:

           - Tôi nhặt dưới sông thật mà... anh Thi, có ai cho tôi đâu!

        Bùi Đình Thi ngần ngừ trong giây lát rồi bỏ đi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Thoát nạn! Tôi cũng không biết nhờ nói dối hay ơn trên phù hộ mà tôi được thoát nạn. Khi anh trật tự đi rồi, tôi vội đi vào buồng, leo lên bệ xi-măng tưởng như đó là nơi an toàn. Nhưng tôi đã lầm!

         Chừng vài phút sau, Thi trở lại với người cán bộ võ trang có đôi mắt xước mà tôi không biết tên. Linh tính báo cho tôi biết chuyện chẳng lành, khi tôi thấy cả hai đi thẳng vô buồng tôi. Chẳng nói chẳng rằng Thi xồng xộc tiến tới nắm lấy cổ tôi lôi xuống, tên cán bộ mắt xước thuận tay tống ngay một quả đấm như trời giáng vào đúng cạnh sườn làm tôi gập đôi người lại. Vì đã quá suy nhược không thể chịu đựng được cú đòn đó, tôi kêu to lên một tiếng “Trời ơi!” rồi ngã vật xuống sàn. Có lẽ thấy tôi đã quá tệ, hay vì thấy tội của tôi không đáng trừng trị thêm nên anh ta đã dừng tay và đứng nhìn tôi, đang sùi bọt mép nằm oằn oại dưới đất, như con cá đang bị đập đầu.

      Một lúc sau cán bộ ra lệnh:“Cùm cổ nó lại!” Bùi Đình Thi túm tóc kéo tôi lên và cùm chân lại. Vừa khóa cùm, Thi vừa mắng:“Đánh cho mầy chừa! Nói dối quen mồm!” Trước khi ra đi, cán bộ mắt xước còn nhổ đánh phẹt một bãi nước bọt xuống sàn, không hiểu để tỏ thái độ khinh bỉ hay vì mùi hôi thối trong buồng đang xông lên. Mặc dù lúc chúng tôi đang tắm dưới sông, anh trực sinh, lúc bấy giờ là anh Nguyễn Tiến Đạt, đã rửa buồng và quét hết các đống phân ra ngoài cửa.

         Sau này tôi mới biết là Bùi Đình Thi đã đi hỏi các buồng ai cho tôi cái khăn và đã khám phá ra chính cha Nghị đã cho tôi. Tội nghiệp cho cha Nghị, ngài vì thương anh em mà bị nạn. Sau khi đánh tôi xong, anh cán bộ mắt xước và trật tự đi vòng ra phía trước, nện cho cha Nghị một trận nhừ tử, dập môi chảy máu và cùm chân ngài bảy ngày đêm. Bình thường thì chỉ bị cùm ban đêm! Về sau, tôi có dịp gọi qua xin lỗi ngài, nhưng cha Nghị cười hề hề nói:“Lỗi quái gì? Được chia sẻ với anh một chút đau khổ là mình vui rồi!” Ngài còn nói thêm:“Tại hôm đó chúng nó đánh, mình đỡ trúng tay, chúng nó đau mới tức khí lên nện mình nhiều như vậy!” Nói xong câu đó, cha Nghị lại nhe răng cười hề hề!

         Tôi nằm liệt mấy ngày vì cú đòn hôm ấy. Ba tuần trước tôi bị đánh đập tàn nhẫn hơn nhiều, tuy nhiên lúc ấy cơ thể tôi còn khỏe mạnh nên có thể chịu đựng được. Vả lại lúc đó, khi bị đánh đập quá nhiều, cơ thể trở nên tê dại và tôi không còn cảm giác đau đớn. Tôi gồng sức chịu đòn và không kêu la. Nhưng lần này lại khác, cơ thể tôi đã bị tổn thương trầm trọng đến nỗi một cơn ho hoặc cái hắt hơi cũng tưởng như xương cốt long ra từng mảnh.


      Như thế, có thể hiểu được cú đấm như trờøi giáng vào cạnh sườn tôi hôm đó của anh cán bộ mắt xước, làm tôi đau đớn chừng nào! Tiếng kêu “Trời ơi!” lúc đó là một phản ứng tự nhiên, tôi không thể nào kềm chế được. Nhưng đó là tiếng kêu la duy nhất trong những lần tôi bị đánh đập trong nhà tù. Ngay cả trong trận đòn thập tử nhất sinh, như tôi sẽ kể về sau này, tôi cũng không kêu la như thế.


      Nợ đời chưa dứt.

          Sau vụ cái khăn mặt độ vài ba tuần thì Nhà Đen bị phá bỏ và số tù bị kỷ luật bên đó được chuyển sang khu nhà mới. Cha Nguyễn Công Định và anh Trịnh Tiếu vào ở chung buồng 4 với tôi và anh Thuyên. Buồng này nằm phía mặt sau của nhà kỷ luật. Lúc bấy giờ là mùa hè, trời nóng nực và oi bức, nhất là về đêm khi hơi nóng đã nung nấu nóc Nhà Bằng suốt ngày tỏa xuống. Buồng giam đã kín lại chật chội nên hơi nóng không có lối thoát ra đã biến căn buồng thành một thứ lò hấp bánh mì!

                 Mỗi ngày, chúng tôi chỉ mong tới giờ cho ăn để được hít thở chút khí trời khi cửa mở ra. Có lúc tôi nghĩ, nếu lúc bấy giờ Chúa ban cho tôi được ơn làm phép lạ, thì phép lạ đầu tiên tôi sẽ làm là có một lỗ hổng to bằng miệng cái lon sữa bò trổ ra trên nóc nhà bằng, để hơi nóng dồn nén trong buồng có chỗ thoát ra và tôi có không khí để thở.

                  Vào những buổi tối của mùa hè oi bức, tôi có cảm tưởng không khí trong buồng đặc quánh lại như sữa hộp hoặc như kẹo mạch nha, và chúng tôi đã phải hít thở cái loại không khí “dẻo” ấy. Mặc dù đang vướng một chân trong cùm, nhưng ban đêm thỉnh thoảng tôi phải trườn người, cúi mặt sát sàn nhà, để tìm hít thở chút không khí còn sót lại bên dưới.

          Lúc bấy giờ, tôi gần như chẳng còn quần áo gì. Khi ra ngoài đi tắm thì mặc “Bikini”, ở trong buồng thì ba anh em tôi đều trần truồng như người thời tiền sử. Riêng cha Định không trốn trại nên còn giữ được một ít quần áo. Tôi có kêu xin mãi, nhưng cán bộ cũng chẳng cho áo quần để mặc. Một ngày nọ thấy một cán bộ lạ mặt khá lớn tuổi đi ngang qua bên ngoài cửa sổ, tôi gân cổ gọi to:

           - Báo cáo cán bộ!

            Cán bộ dừng lại, đứng cách xa song sắt cửa sổ một quãng, hỏi vọng vô:

            - Anh nào gọi! Có việc gì?

            Tôi trả lời thật lớn tiếng:

           - Báo cáo cán bộ, tôi xin cán bộ một trong hai điều này: Hoặc là cho tôi áo quần để mặc, nếu không thì cho tôi một viên đạn. Tôi là con người chứ không phải là thú vật mà sống trần truồng!

             Vì đã có dự tính trước nên tôi nói luôn:

           - Nếu tôi chết trong nhà tù này thì thôi, nhưng nếu tôi còn sống, tôi phải tìm dịp nói cho thế giới biết cách đối xử vô nhân đạo đối với tù chính trị của chế độ Cộng sản Việt Nam! Tôi nghĩ rằng, trên thế giới này không một nước nào lại đối xử với tù chính trị cách dã man như vậy! 

            Có lẽ vì quá bất ngờ, ông ta đứng đó một lúc lâu không nói gì. Sau cùng hỏi:

           - Anh tên là gì?

           - Báo cáo cán bộ, tôi tên là Nguyễn Hữu Lễ!

           - Anh thuộc diện gì?

           - Tôi là Linh mục Công giáo. 

           Nghe nói thế ông ta cười nhạt và hỏi lại:

           - Thế ra anh là dạng ‘cha cố’ hả?

            Tôi trả lời cách nghiêm chỉnh:

           - Báo cáo cán bộ, tôi đã nói, tôi là Linh mục Công giáo.

            Ông ta hỏi tiếp theo:

           - Anh làm gì bị kỷ luật?

           - Báo cáo cán bộ, chúng tôi trốn trại.

             Ông ta chậm rãi nói:

           - Trốn trại à? To gan nhỉ!

        ...................................  

         Không nghe tôi trả lời, cán bộ ngần ngừ một lúc rồi bỏ đi.

        Tôi và các anh em trong buồng đang chờ đợi hậu quả của cuộc đối thoại này thì ngay chiều hôm đó, cán bộ sai trật tự  Thi vất vào cho tôi một bộ quần áo, gồm một quần đen và một áo sơ-mi vải Oxford màu vàng còn khá mới, có đóng dấu “Cải Tạo” to tướng sau lưng. Mấy ngày sau tôi phải xé một đoạn ống quần ra dùng khi đại tiện và nếu trong những lần đi tắm tiếp theo mà tôi không nhặt được giấy báo hay giẻ rách nơi đống rác thì số phận các tay áo rồi cũng sẽ như thế, vì không còn cách nào hơn.

         Trực sinh khu kỷ luật bấy giờ là anh bạn trẻ tên Nguyễn Văn Hà, thay thế cho anh Nguyễn Tiến Đạt. Cả hai anh cũng là người trong nhóm 48 Quyết Tiến với tôi. Khi Hà vào buồng giúp đổ các ống bẩu phân và nước tiểu, anh thấy tôi xé ống quần dùng đi cầu bèn hỏi xin cái áo vàng để đổi thuốc lào. Tôi nói không có gì dùng khi đi cầu. Hà nói sẽ tìm cho một số giẻ rách dùng vào việc đó, vì cái áo vàng của tôi còn mới, xé các tay áo đi uổng lắm. Không nghĩ ngợi gì, tôi trao cho Hà cái áo. Ngay lúc ấy, tôi đâu ngờ rằng mình sẽ phải trả một giá quá đắt về việc này.

                     Mấy ngày sau tôi quên hẳn cái áo, và Hà cũng chẳng hề đưa tôi giẻ rách để dùng khi đại tiện như đã hứa. Thật ra, tôi thấy chưa cần thiết lắm, vì tôi còn một ống quần đủ dùng tới ngày được đi tắm, khi đó tôi sẽ tạt qua đống rác của trại nhặt giẻ rách đem giặt sạch để dùng. Mỗi lần đi tắm là dịp vui, vừa được tắm giặt sạch sẽ, có khi lén trò chuyện vài câu với anh em các buồng khác hay anh em dưới “làng”. Khi cán bộ và trật tự lơ là, chúng tôi có thể tạt qua đống rác trước trại, nhặt nhạnh một ít “chiến lợi phẩm”. Có lần tôi may mắn nhặt được của quý, đó là cái bàn chải đánh răng đã mòn quá phân nửa, có lẽ của một anh tù nào dưới “làng” vất đi. Tôi mang xuống sông chùi rửa cẩn thận cho hết vi trùng và dùng luôn trong gần hai năm, cho tới khi đãõ mòn hết răng.

      Vào một buổi sáng, chúng tôi được đi xuống sông Mã tắm như thường lệ. Sau khi trật tự mở khóa các buồng và đếm số xong, mọi người xếp hàng đôi đi xuống bờ sông. Lần này cũng chính anh cán bộ mắt xước vác súng dài theo sau canh giữ. Nhưng hôm nay chỉ có cán bộ mà không có trật tự đi theo. Vắng mặt Bùi Đình Thi, tôi cảm thấy thật dễ chịu. Các anh em khác cũng có vẻ thoải mái vì chúng tôi có thể trao đổi hay quan hệ linh tinh dễ dàng hơn, và dĩ nhiên là đống rác bên ngoài cổng trại cũng được chúng tôi chiếu cố kỹ hơn.

          Sáng hôm đó trời nắng ấm nhưng ánh nắng không gay gắt. Sau khi tắm rửa xong và trên đường trở về buồng, tôi thấy trong người sảng khoái lạ thường. Tôi ngửa mặt lên nhìn bầu trời trong xanh quang đãng và hít một hơi thật dài. Không khí trong lành chạy vào buồng phổi làm tôi dễ chịu. Tôi nở một nụ cười thật tươi và cảm thấy yêu đời, khi nhớ lại bao nhiêu tai nạn dồn dập trong mấy tháng trước bây giờ rồi cũng qua đi. Tôi đã bị đòn nhừ tử hơn hai tháng rồi, và cơ thể tôi lúc này có phần phục hồi khá hơn. Tôi có thể tự bước đi, nhưng đi thật chậm vì còn quá yếu.

      Vừa bước đi, tôi thầm nhớ lại câu người đời thường nói: “Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai”, và nghĩ rằng tôi đã trả xong “nợ đời”. Trong chốc lát, tôi quên hết nỗi nhọc nhằn của cuộc sống hiện tại và cảm thấy yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu thiên nhiên, yêu con người, ngay cả những người đã hành hạ, đánh đậpï và ngược đãi tôi. Tôi âm thầm cầu nguyện cho ho,ï và lập lại câu nói của Chúa Giêsu khi Ngài bị đóng đinh trên thập giá:“Lạy Cha! Xin Cha tha cho chúng, vì chúng chẳng biết việc chúng làm.” Nói xong câu đó tôi cảm thấy trong lòng phơi phới hân hoan.

          Tôi lê lết bước đi cuối hàng,  tay ôm một mớ “chiến lợi phẩm” lúc nãy thu nhặt được ở đống rác, lầm lũi bước theo các bạn về buồng. Khi vừa tới nơi, tôi chợt thấy Bùi Đình Thi đứng trước cửa buồng và nhìn tôi bằng một cặp mắt hơi khác thường. Có anh cán bộ mắt xước cũng đang đứng bên cạnh. Tôi vội làm một cuộc xét mình chớp nhoáng, coi mình có phạm tội gì không và tôi yên tâm vì chẳng thấy mình có tội gì cả. Tôi nghĩ thầm:“Có lẽ tại mình sợ anh ta quá nên thấy anh ta nhìn, đâm ra hoảng thế thôi, chẳng có việc gì đâu!”

      Tôi còn đang suy nghĩ lan man thì chợt thất kinh khi thấy trật tự Bùi Đình Thi, với vẻ mặt hầm hầm bước thẳng tới tôi. Tay trái anh ta  cầm xâu chìa khóa to tướng, tay kia chỉ thẳng vào mặt gần đụng trán tôi, đôi môi run run hỏi:

           - Lễ! Cái áo vàng của mầy đâu?

        Tôi điếng cả người khi nghe câu hỏi đó! Người tôi tự nhiên chao đảo. Có cái gì như một dòng điện cực mạnh chạy rần rần dọc theo thân thể, khiến mặt tôi nóng bừng và các lỗ chân lông trong người tôi hở to ra. Một ít nước tiểu tự nhiên vọt ra quần, và tôi buồn đi đại tiểu tiện cùng một lúc!

      Tôi chợt nhớ lại cái áo vàng mà tôi đã trao cho thằng Hà mấy tuần nay và biết là lúc chúng tôi đi tắm, Thi ở nhà đã lục soát khu kỷ luật và việc đã bại lộ. Đó là lý do tại sao hôm nay chỉ có anh cán bộ mắt xước theo xuống sông Mã canh giữ chúng tôi mà không có trật tự cùng đi như các lần trước. Đọc tới đây nếu có ai cho là tôi nhát đảm tôi xin chịu. Thành thật mà nói rằng lúc đó tôi sợ Bùi Đình Thi tới điếng cả người. Biết tai họa tới nơi, tôi vội nói dối:

           - Tôi phơi áo trên cánh cửa sổ này, ai lấy lộn mấy hôm nay tôi tìm mãi không thấy, anh có thấy ở đâu cho tôi xin lại đi anh Thi.

           - Sao thằng Hà nó nói mầy đổi cho nó?

        Tôi cảm thấy ù tai khi nghe tiếng “đổi”, vì luật lệ trong tù cấm mua bán đổi chác. Những người khác trong trường hợp này cũng gặp rắc rối huống gì tôi. Tuy đã tuyệt vọng nhưng tôi gắng gượng chống chế. Như người sắp chết đuối với lấy chiếc lá trôi bên cạnh, miệng lắp bắp tôi trả lời:

           - Đâu có anh Thi! Tôi đâu có đổi! Chắc thằng Hà nó lấy lộn áo tôi rồi nói thế! Tôi đâu có đổi!

        Trong lòng tôi lúc đó đang cầu mong sự thương hại của Thi. Tôi mong rằng anh ta sẽ tha thứ cho tôi vì thấy tôi quá sợ hãi và nhất là vì cái thân tàn ma dại của tôi. Tôi nhìn sang anh cán bộ mắt xước, nãy giờ đang theo dõi cuộc phán xét. Bộ dạng anh ta đã mất kiên nhẫn. Anh ta đứng yên không nói tiếng nào, nhưng hai bàn tay nắm lại chống lên cạnh sườn, các ngón tay đang co bóp liên hồi có vẻ ngứa ngáy khó chịu. Chợt Bùi Đình Thi chộp tay tôi dằn mạnh:

           - Đi lại phía trước, mầy nghe thằng Hà nói!

        Anh cán bộ mắt xước vội đi trước dẫn đường với dáng đi lanh lẹ khác thường.  Bùi Đình Thi đẩy tôi đi giữa còn anh ta theo sau. Chúng tôi đi dọc theo con đường hẹp độ ba thước bề ngang, nằm giữa đầu hồi nhà kỷ luật và bờ tường dẫn ra các buồng phía trước. Tôi biết mình đang lâm nguy vì thằng Hà đã khai tất cả. Dù vậy, tôi vẫn còn hy vọng mỏng manh cuối cùng là mong thằng Hà sẽ làm cử chỉ anh hùng kiểu như "Lê Lai cứu Chúa". Vì nếu nó có nhận ăn cắp áo thì cũng bị vài cái tát là cùng. Còn tôi, cho dù chỉ cần đổi cho nó cái áo thôi, cũng có lý do bị hành tội. Nghĩ như vậy nên khi còn cách buồng 1 của Hà khá xa, tôi gọi to lên cố ý làm ám hiệu cho nó:

           - Hà ơi Hà! Sao mầy lấy nhằm áo vàng tao phơi trên cửa sổ mà không trả làm tao kiếm mấy ngày nay. Anh Thi nói mầy đang giữ áo tao. Trả áo lại tao đi Hà!

            Tôi có ý bảo thằng Hà rằng tôi đã nói như thế, cứ nói vậy đi để cứu tôi. Nhưng có lẽ vì không hiểu ý tôi hay vì sợ bị đòn, nó nói vọng ra:

           - Em đâu có lấy áo của anh! Anh đổi cho em ấy mà!

            Chúa rất thánh ơi! Đó là câu trả lời tôi sợ nhất, nhưng ngược lại hai con người đi trước và sau tôi lúc này, chỉ mong có chừng ấy.


      Bước đường cùng 

         Câu nói của Hà chưa kịp dứt thì bất ngờ một cú đấm như trời giáng của Bùi Đình Thi từ phía sau, tống vào lưng làm tôi bay tới trước.  Anh cán bộ mắt xước vội quay lại chụp lấy tôi và đấm vào bụng khiến tôi ngã ngửa ra phía sau. Trật tự Thi đón lấy đấm vào lưng tôi khiến tôi nhào tới phía trước. Cán bộ đấm vào bụng tôi té ngửa ra sau. Trật tự lại đấm tới. Cán bộ đấm lui...  Cứ thế, kẻ đấm tới, người đấm lui làm bộ xương tôi bay đi bay về như hai cầu thủ đang chuyền nhau quả bóng trong một hành lang hẹp. Lúc bấy giờ tôi biết mình sẽ chết. Tôi muốn chạy nhưng chạy không thoát vì hành lang quá hẹp và đang bị chận cả hai đầu. Hơn nữa tôi đã gần chết rồi, còn sức đâu nữa mà chạy! Lúc đó tôi không còn biết mình là ai nữa. Tôi như một con thú bị dính chân vào bẫy, có vùng vẫy cũng không thoát ra được.

                  Cuộc hành tội kéo dài khá lâu. Trật tự và cán bộ thay nhau, mỗi người đã đấm tôi, đúng hơn là đấm vào bộ xương tôi chừng mươi, mười lăm quả ở lưng và bụng. Đôi chân tôi yếu dần không còn chống đỡ được bộ xương, tôi bắt đầu ngã quỵ xuống đất trong khi miệng tôi lẩm bẩm:“Lạy Chúa! Xin nhận lấy linh hồn con!” Tôi nhắm mắt lại!

                  Hình ảnh cái chết lờ mờ hiện ra trong trí tôi. Cuộc đời tôi như thế là hết! Nhưng bổng chốc tôi lại nghĩ :“Mình không thể chết như thế này được!Không thể được! Mình không có thể chết một cách phi lý như thế này được” Lúc đó tôi bèn dồn hết tàn lực của con người lên cổ họng và vận dụng tất cả ý chí, sức mạnh, sự quyết tâm và tất cả nhu cầu bảo toàn mạng sống của một sinh vật trước khi bị tiêu diệt để tôi hét to lên một cách khủng khiếp. Tiếng hét to nhất trong kiếp làm người của tôi. Tiếng hét to tới mức tối đa, mà cổ họng tôi có thể chịu được mà không bị vỡ tung bật máu ra. Tiếng hét to đến độ mà thân thể chỉ còn là bộ xương của tôi có thể chịu được, không bị bung rời bắn tung tóe ra từng mảnh. Tôi hét lên ba tiếng càng lúc càng to:


      “TÔI PHẢI SỐNG!

                          TÔI PHẢI SỐNG!

                                  TÔI PHẢI SỐNG!” 
       
        Tiếng hét vang dội núi rừng đó đã đốt cháy tất cả sức lực, khí huyết và ý chí còn lại của con người tôi như một thứ nhiên liệu bị đốt cháy rụi ra tro. Tôi không còn là tôi nữa! Không còn một thứ gì để sự sống của tôi nương vào đó mà tồn tại nữa. Tôi nằm chờ chết!

                  Bỗng dưng bản năng sinh tồn trong tôi trỗi dậy một cách vô cùng mãnh liệt!

                  Tự nhiên tôi cảm thấy một sức lực phi thường ùa vào thân thể mà cả cuộc đời tôi cho dù là lúc sung sức nhất của tuổi đôi mươi cũng không thể có. Con người tôi như một quả bóng xì hết hơi bất ngờ được bơm căng cứng lên. Thân hình chỉ còn là bộ xương của tôi lúc đó tự nhiên biến thành thép! Lúc đó tôi nghĩ là tôi có thể quật chết và bẻ cổ một con bò mộng một cách dễ dàng như người ta bóp một con nhái. Đôi cánh tay khẳng khiu như hai que củi khô của tôi tự nhiên có sức lao tới như viên đạn đồng bay vọt ra khỏi nòng súng. Đôi chân của tôi trở nên vững vàng như hai trụ cầu. Ý chí cao ngất trời lúc bấy giờ bảo tôi:“Chạy! Chạy! Chạy! Phải chạy thoát bằng mọi giá, nếu không chạy thì chết!”

                    Bất thần, như có một sức thiêng vô hình trợ giúp. Tôi bật vùng lên, và nhào lộn như con sư tử bị thương. Tôi vụt quay lại, lấy hết sức lực húc mạnh vào Bùi Đình Thi. Vì quá bất ngờ không kịp đề phòng, và nếu có đề phòng cũng không thể nào chịu được sức mạnh của tôi lúc bấy giờ. Anh ta ngã bắn về một bên, té ngửa dưới đất. Tôi vụt phóng chạy như bay về buồng.

                   Bùi Đình Thi lồm cồm bò dậy rượt theo tôi bén gót. Tôi biết nếu anh ta tóm được, chắc chắn hắn sẽ giết chết tôi. Tôi nói điều này với tất cả sự xác tín, không phải suy luận để kết án con người.

      Tôi hành động lanh lẹ như một con khỉ, phóng vô buồng, nhảy phóc lên bệ nằm, hai tay vồ lấy cái móng cùm bằng sắt nặng chừng ký rưỡi giơ lên và đứng trên bệ xi-măng cao thủ thế. Điều rầt may mắn là lúc bấy giờ anh Thuyên đã rút song sắt xỏ luồn 2 cái móng cùm ra, và để sẳn cái móng cùm của tôi ngay trên bệ nằm.

      Lúc đó tôi đã gần đứt hơi, há miệng thở hồng hộc vì trong cổ họng tôi hình như đang có cục than hồng và phải mở to miệng cho lửa phà ra! Bùi Đình Thi vừa trờ tới cửa buồng. Chợt thấy tôi đang đứng trên cao, tay cầm cái móng cùm quyết tâm thí mạng, anh ta còn đủ khôn nên khựng lại ngay cửa, cách chỗ tôi đứng độ 2 thước tây . Tôi trợn mắt hét thật to qua hơi thở gần muốn tắt nghẹn:

            - Bùi Đình Thi! Tao đổi mạng với mầy! Mầy đã dồn tao tới bước đường cùng. Bữa nay tao đổi mạng với mầy! Mầy vô đây! Vô đây! Vô đây!!!

         Mặc dù đang điên tiết vì vồ hụt con mồi đã bị thương, nhưng Bùi Đình Thi không dám bước tới. Anh ta đứng tại cửa nhìn vào, cặp mắt tóe lửa, và cũng đang thở hồng hộc như tôi. Hai bên khóe mép anh ta đọng lại hai bệt nước bọt trắng to và nhễ nhãi. Anh ta nghiến răng nghe ken két, làm cái mồm bị kéo xuống méo mó dị dạng trông thật tởm! Bùi Đình Thi điên cuồng giơ thẳng tay chỉ vào mặt tôi nói:“ĐM mầy Lễ! Tao giế-ế-ế-ế-ế-t mầy!”   Đây là lần thứ hai, Bùi Đình Thi đã dùng cách nói “ĐM mầy Lễ” đối với tôi! Nghe cách anh ta nghiến chữ “giết” qua kẽ răng, tôi hiểu ngay chính cái móng cùm đã cứu mạng tôi.

      Cán bộ mắt xước cũng vừa đi tới cửa buồng, có vẻ rất hài lòng trông thấy hai tên tù đang gầm gừ chực giết nhau. Nếu anh ta biết hai tên tù đó là một giáo dân và một Linh mục, chắc là anh ta càng vui sướng hơn! Anh ta ra lệnh cho Bùi Đình Thi:

           - Cùm cổ nó lại!

            Thấy Bùi Đình Thi bước vào tôi nói:

             - Báo cáo cán bộ, tôi không vào cùm. Nếu bị cùm anh Thi sẽ đánh tôi chết.

           - Tôi bảo anh vào cùm!

           - Nhưng cán bộ có bảo đảm là anh Thi không đánh tôi?

           - Anh cứ vào cùm, tôi bảo đảm!

        Có sự bảo đảm của cán bộ, tôi ngồi xuống để chân vào móng cùm cho Bùi Đình Thi xỏ luồn thanh sắt qua khóa lại. Lúc anh ta cúi xuống, tôi nghe hơi thở hồng hộc và hôi tanh từ miệng anh ta thoát ra tràn cả vào mặt tôi làm tôi buồn nôn không thể chịu được. Tất cả cảnh tượng này diễn ra trước mắt các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và cha Nguyễn Công Định. Cả ba người đang khép nép ngồi nhìn.

      Lần đó tôi mới hiểu và cảm nhận được một loại sức mạnh của ý chí mà người ta thường gọi là bản năng sinh tồn. Bản năng sinh tồn là một bí mật của sinh vật, chỉ được khơi dậy khi sinh vật đó không còn phương cách gì để bảo vệ sự sống, lúc đó bản năng sinh tồn sẽ hoạt động. Trong đời tôi đã một lần phải dùng tới bản năng sinh tồn kỳ diệu này. Và nhờ có bản năng sinh tồn đó mà tôi còn hiện diện trên cõi đời này để chia sẻ kinh nghiệm đau thương nhưng vô cùng quý báu đó với các bạn. 


       Cơn điên loạn

          Khi cán bộ và trật tự khóa cửa buồng và đi rồi, tôi nằm vật xuống bất động, kiệt lực, ngạt thở vì phổi tôi bị thương quá nặng không hô hấp được. Nằm yên một lúc tự nhiên cơn đau đớn của thể xác, sự suy nhược tinh thần và cơn uất ức làm tôi phát điên lên.

      Với bản năng tự nhiên, tôi không còn cầm mình được nữa, tôi không còn nhớ mình là ai và cũng chẳng cần biết chung quanh đang có ai. Nằm ngửa trên bệ xi-măng với một chân dính vào cùm sắt, cổ tôi tắt nghẹn và nước mắt chảy ra giàn giụa, máu ở mũi tôi trào ra lênh láng. Tôi đã điên cuồng, lăn lộn,  giật chân bị cùm phát ra tiếng rầm rầm... rầm rầm... và tôi đã thốt lên những lời nguyền rủa, tôi gào thét:“Bùi Đình Thi ơi! Tao thề với mầy! Tao thề với mầy Bùi Đình Thi ơi! Sau này tao mà còn sống, tao sẽ tìm hết mọi cách bắt cho được mầy và cả vợ con dòng dõi rắn độc nhà mầy để tự tay tao mổ bụng móc gan mầy,  đặt trên bàn thờ hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Như vậy tao mới hả dạ, Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi! Bùi Đình Thi ơi!”

      Trong cơn điên loạn và đau đớn tột cùng này, anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên đã vỗ về và an ủi tôi. Anh Thuyên xé vải lau máu mũi cho tôi. Trong khi đó cha Nguyễn Công Định ngồi bên kia dựa tường hát bản nhạc “Hè Về”:“Trời hồng hồng, sáng trong trong...” Thái độ này của cha Định làm anh Trịnh Tiếu nổi giận, và anh đã cho nổ bùng một cơn thịnh nộ thật khủng khiếp. Buồng giam của tôi lúc đó trở thành một đáy địa ngục, một đáy địa ngục được hiểu theo nghĩa đen.

      Phải một thời gian lâu tôi mới hồi tỉnh lại. Khi đã trở lại bình thường tôi cảm thấy thật hối hận vì câu nguyền rủa gớm ghê độc ác đó của mình. Tôi cảm thấy mình thật sự là một kẻ yếu đuối, chưa làm chủ được chính mình như đôi khi tôi đã tưởng. Nhân tiện đây, tôi công khai xin lỗi các anh Trịnh Tiếu, Nguyễn Sỹ Thuyên và cha Nguyễn Công Định, những người đã chứng kiến sự việc và đã nghe những lời nói độc ác đó của tôi. Tôi cũng xin lỗi anh Nguyễn Tiến Đạt, một tín đồ Công giáo trẻ cùng ở khu kỷ luật với tôi lúc đó. Ngay sau khi biết tôi bị trận đòn chí tử, anh Đạt đang bị cùm ở buồng bên gọi sang an ủi tôi và có hỏi:

           - Cậu Bảy nghĩ thế nào? Nếu sau này Bùi Đình Thi hối cải và xưng tội, liệu Chúa có tha cho anh ta không? 

            Lúc bấy giờ vì cơn tức giận đang sôi lên sùng sục, tôi đã trả lời Đạt bằng câu nói nghịch đạo lý và phạm thượng:

           - Thằng đó hả? Nếu Chúa không vướng chân bị đóng đinh vào Thánh giá, Chúa cũng sẽ cho nó một đạp rồi! Ở đó mà tha cho nó!

         Chắc Đạt đâu có biết rằng, đã từ lâu tôi rất hối hận và xấu hổ, vì trong cơn tức giận tôi đã thốt lên lời bất xứng như vậy, từ cửa miệng của một Linh mục, và do đó tạo gương mù gương xấu cho những người chung quanh, trong đó có Đạt. Đáng lẽ ra lúc đó tôi phải trả lời với Đạt rằng: “Nếu sau này anh ta thực sự sám hối, chắc chắn Chúa sẽ tha thứ. Vì lòng nhân từ của Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi của con người.”


      Vài lời về Trương Văn Phát

      Tôi cũng muốn có vài lời về trật tự Trương Văn Phát. Tôi không nhớ có bị Trương Văn Phát đánh trong vụ vượt ngục và thời gian kỷ luật tiếp theo hay không. Tôi không nhớ nhiều về vai trò của Phát trong thời gian ở nhà kỷ luật, mặc dù lúc đó Phát vẫn còn làm trật tự phó cùng với Thi và vẫn lên xuống khu kỷ luật. Chỉ có một việc sau đây có liên quan tới Phát là tôi nhớ và nhớ rất rõ.

      Vào khoảng tháng 7-1979, sau vụ vượt ngục 2 tháng, tôi đang bị cùm trong buồng 5 khu kỷ luật cùng với anh Nguyễn Sỹ Thuyên. Một buổi chiều nọ trong giờ điểm danh bên kiên giam, chỉ cách chúng tôi một bức tường, tôi nghe có tiếng la lối, tiếng chân người chạy, tiếng chửi bới, tiếng đánh đập một cách bất thường. Lúc đó chúng tôi ngồi trong cùm, đoán già đoán non, nhưng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra bên khu kiên giam. Một lúc sau nghe có tiếng người lên khu kỷ luật, tiếng đấm thùi thụi, tiếng chửi bới, tiếng mở cửa buồng kế bên và chúng tôi biết là có người mới vừa bị đưa lên cùm.

      Đợi sau khi trật tự và cán bộ đóng cửa buồng đi xuống, chúng tôi gọi vọng qua hỏi sự tình. Lúc đó mới biết người vừa bị đưa lên cùm kế bên là cha Phạm Quý Hòa, một Linh mục quãng 45 tuổi, người miền Trung. Tôi hỏi lý do và còn nhớ mãi câu trả lời đầy hài hước của cha Hòa. Bằng một giọng miền Trung rất nặng, cha Hòa nói:“Mình bóp ‘dại ngựa, bị ngựa đã!’”  Mặc dù tình cảnh lúc đó thật đau đớn nhưng chúng tôi cười vang khi nghe câu trả lời đó của cha Hòa. Sau đó ngài kể lại, khi bắt đầu giờ điểm danh buồng 3 khu kiên giam, sáu người trong buồng ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bệ nằm, trật tự Trương Văn Phát đi vào điểm danh, tay cầm cái búa bằng gỗ dùng để gõ vào tường coi có chỗ nào bị đào bị khoét không.

      Khi đi ngang trước mặt cha Hòa, không hiểu lý vì do gì, hay chỉ vì ngứa tay, Phát nện cái búa một cú như trời giáng vào đầu gối cha Hòa. Cha Hòa vụt nhảy xuống đánh trả lại Phát, làm anh trật tự bố láo này thất kinh vội chạy trở ra cửa thoát thân. Cha Hòa rượt theo, Phát quay lại ném chùm chìa khóa hàng mấy chục chiếc vào cha Hòa, ngài né tránh kịp, chùm chìa khóa bay vào trúng cửa nhà cầu đánh “rầm” một tiếng và rơi xuống đất. Phát định chạy vào nhặt lại nhưng không dám vì cha Hòa đang hờm bên trong.

      Phát ta hồn vía lên mây! Vì mất chùm chìa khóa cửa các buồng giam, coi như anh ta đã mất mạng, nên vội chạy như bay xuống nhà cầu cứu với Thi và cán bộ. Ngay sau đó, cả hai tên trật tự và mấy cán bộ chạy vội lên khu kiên giam. Tới nơi, Thi vô buồng nhặt chùm chìa khóa và lôi cổ cha Hòa ra sân, khóa tay lại, và hai anh trật tự thi nhau đập cho một trận mềm người. Sau đó đẩy cha Hòa sang khu kỷ luật, vừa đi vừa đánh cho tới trước cửa buồng. Tôi dùng chữ “mềm người” theo nghĩa đen, vì sau đó mấy ngày khi được tháo cùm đi tắm chung, cha Hòa bước đi vặn vẹo như người vừa ốm dậy. Sau trận đòn đó, cha Hòa còn bị cùm hơn một năm trời trong nhà kỷ luật chỉ vì tội “bóp dái ngựa”!


      Lon nước ân tình

      Tôi nghĩ là một thiếu sót lớn nếu tôi không nói lên cách công khai để cám ơn một cán bộ có lòng nhân đã để lại một nét son trong đời tôi, ngay lúc tôi trong hoàn cảnh đau thương và tệ hại nhất ở nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

      Các cán bộ, nhất là những cán bộ trực trại, là những người trực tiếp ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày của chúng tôi. Nếu gặp cán bộ hiền hòa, chúng tôi đỡ khổ; nếu gặp phải cán bộ khó khăn hoặc hung ác, chúng tôi bị khổ đủ điều. Nên biết rằng, đa số cán bộ làm nhiệm vụ cai tù, nhất là cai tù chính trị là những người được huấn luyện để thi hành chính sách chuyên chính của đảng. Họ coi tù nhân chúng tôi là kẻ thù, và rất nhiều người đã biết họ phải làm gì với kẻ thù đang nằm trong quyền lực của họ.

      Đại đa số cán bộ mà tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù đã cho tôi một cái nhìn chung, phần đông họ chỉ làm việc như một nghề để sinh sống. Thỉnh thoảng có những người hành sử với tù nhân khắt khe và tàn nhẫn. Ngược lại cũng có những người hiền từ, dễ thương từ trong lời nói tới cách cư xử với tù nhân. Những cán bộ này đã để lại trong lòng tôi sự biết ơn và quý mến. Như một đoạn trên tôi đã nói, đồng tiền có mặt phải và mặt trái của nó. Nếu thời gian sống trong nhà kỷ luật Thanh Cẩm có những cán bộ mà vừa nghe tới tên, hoặc vừa thoáng trông thấy từ xa đã làm tôi nổi da gà như Thượng sĩ Hoàn, Chuẩn úy Lăng, Trung úy Bộ, Thượng sĩ Khải v.v thì ngược lại cũng có người như Thượng sĩ Hạ, người cán bộ mà tôi muốn dành riêng một đoạn trong tập bút ký này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn.

      Thượng sĩ Hạ là cán bộ trực trại trong ngày chúng tôi đào tường vượt ngục, có nghĩa là người chịu trách nhiệm về biến cố này. Bởi vậy, người mà tôi sợ nhất sau khi bị bắt lại không phải là ai khác ngoài Thượng sĩ Hạ. Hạ có thân hình cao lớn và rắc chắc, nước da ngăm đen, mái tóc bồng bềnh, mới nhìn qua thấy anh ta giống người Dân tộc thiểu số hơn là người Kinh. Điểm đặc biệt là anh có nhiều vết lang ben trên cổ và một ít trên mặt. Vì da anh khá đen nên các vết lang ben càng dễ nhận thấy. Tánh anh lầm lì, rất ít nói, mỗi lần lên khu kỷ luật hoặc kiên giam trong giờ cho ăn, anh thường đứng dựa vai vào tường, một chân đứng thẳng còn chân kia co lại gác chéo qua bàn chân kia. Cứ thế anh yên lặng nhìn trật tự chia thức ăn và nhìn chúng tôi đi lại nhưng chẳng bao giờ nói một lời nào. Sở dĩ tôi nhớ các chi tiết này vì trông anh lúc nào cũng có vẻ sầu đời hoặc như người đang thất tình, lúc bấy giờ anh khoảng chừng 27 tuổi.

      Nhìn tướng người cao lớn, da đen ngăm và thái độ lầm lì, tôi rất ngại anh và dĩ nhiên là né tránh khi nào có thể tránh được. Tôi còn nhớ buổi chiều ngày 1 tháng 5-1979, chính cán bộ Hạ và hai trật tự Thi- Phát vào điểm danh buồng 1 kiên giam chúng tôi, và đêm đó chúng tôi đào tường vượt ngục. Sau khi vượt ngục thất bại, chúng tôi bị bắt lại và hành hạ dã man như tôi đã nói ở trên, nhưng điều đáng nói ở đây là tôi không hề thấy bóng dáng cán bộ Hạ trong số những người đánh đập chúng tôi lúc đó. Thay vào đó là thượng sĩ Hoàn, chỉ huy nhóm võ trang canh gác ban đêm trong ngày tôi vượt ngục, là người đánh đập và chửi mắng tôi nhiều nhất. Ngay từ lúc anh ta bắt chúng tôi từ dưới dòng sông Mã và cả lúc sau này khi tôi bị cùm trong nhà kỷ luật rồi, mỗi chiều lên điểm danh, Thượng sĩ Hoàn cũng đứng bên ngoài cửa buồng xỉ vả chửi bới tôi rất thậm tệ. Mỗi khi thấy thượng sĩ Hoàn và Bùi Đình Thi lên điểm danh, tôi ngán vô cùng! Cũng may là không phải chiều nào anh ta cũng lên điểm danh.

      Sau gần một tháng kể từ ngày trốn trại và bị cùm trong nhà kỷ luật, tôi không thấy bóng dáng Thượng sĩ Hạ đâu. Tự dưng tôi cảm thấy mừng vì nghĩ rằng nếu gặp lại chắc là tôi sẽ no đòn với anh. Tôi thầm cầu mong cho cán bộ Hạ đổi đi nơi khác, vô tăm biệt tích, và đừng bao giờ quay lại trại này nữa. Vào một buổi xế trưa, chúng tôi được lệnh mang hết đồ đạc ra để khám xét. Việc này cũng thường xảy ra và không có định kỳ nhất định. Từ lúc có vụ vượt ngục của nhóm tôi, việc xáo trộn tù giữa các buồng có vẻ thường xuyên hơn.

      Vừa khệ nệ ôm đồ đạc bước ra, tôi giật thót người khi thấy cán bộ Hạ và mấy cán bộ khác đang đứng dưới bóng cây ở đầu nhà cạnh bờ tường. Thấy cán bộ Hạ nhìn tôi chằm chằm, tôi lại càng lo sợ hơn. Điều mà tôi lo sợ cả tháng nay bây giờ đã tới! Tôi cúi đầu né tránh cái nhìn của cán bộ Hạ, và ôm mớ đồ đạc để vào một góc khá xa nơi anh đứng. Lúc quay lại tôi vẫn thấy anh đang nhìn tôi, và tôi nghĩ giờ đền tội của tôi đã tới.

      Thượng sĩ Hạ bước chậm chậm lại phía tôi. Tim tôi đập mạnh, người tôi nóng bừng trong khi đang chờ đợi để đón nhận điều tệ hại nhất sẽ xảy ra. Khi anh tới gần, tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo luật trong tù. Anh chỉ khẽ gật đầu nhưng chẳng nói gì. Anh bước lại gần hơn, nhìn thẳng vào mặt tôi và nói nhỏ vừa đủ nghe:“Anh Lễ, anh làm tôi mất tất cả!” Tôi rất ngạc nhiên và vui mừng trước thái độ hòa dịu một cách không ngờ của cán bộ Hạ. Tôi đáp lại một cách chân tình:“Tôi thành thật xin lỗi cán bộ, nhưng xin cán bộ hiểu cho hoàn cảnh của tôi.” Đó là câu đối thoại duy nhất với một cán bộ mà tôi phập phồng lo sợ cả tháng trời qua. Tôi thật không ngờ cán bộ Hạ là người có lòng nhân như thế.

      Sau lần đó, thỉnh thoảng anh có lên điểm danh trên khu kỷ luật cùng với trật tự Bùi Đình Thi. Cán bộ Hạ vẫn lầm lì như xưa, trên mặt và cổ vẫn còn các vết lang ben. Từ khi gặp lại trong lần kiểm tra đồ đạc dưới bóng cây, anh ta cũng chẳng nói thêm với tôi một lời nào. Cho tới một hôm vào quãng giữa tháng 7, gần hai tháng sau ngày chúng tôi bị cùm, trong buồng tôi có chuyện xảy ra.

      Trời Thanh Hóa lúc này nóng như thiêu như đốt, nhà kỷ luật nóc bằng trở thành lò hấp người. Lúc bấy giờ anh Thuyên và tôi bị cùm trong buồng 5, mỗi ngày tiêu chuẩn nước được phát chung cho hai người là hai lon Guigoz (mỗi lon độ 3/4 lít), sáng một lon chiều một lon. Với lượng nước này, chúng tôi phải làm sao gói ghém vừa uống, vừa rửa ráy, vừa tắm, vừa giặt, vừa lau mồ hôi ban đêm trong cái lò hấp người này. Chúng tôi đã quyết định, bằng mọi giá phải để dành một lon nước qua đêm, vì ban đêm hơi nóng từ nóc Nhà Bằng đúc bằng xi-măng tỏa xuống, nóng không tưởng tượng được, cần có nước nhắm vào miệng cho đỡ khát.

      Thời gian này trại thường cho tù ăn khoai lang với mắm chược, là loại mắm cá thối được nấu ra thành nước. Mắm chược tanh khủng khiếp, nhưng lúc bấy giờ chúng tôi lại thèm chất tanh nên mắm chược vô tình lại trở thành món ăn ngon. Giờ cho ăn trên kỷ luật sớm hơn dưới “làng”. Ban trưa quãng 11 giờ và ban chiều quãng 4 giờ. Tiêu chuẩn hai người chúng tôi mỗi bữa ăn là ba củ khoai lang, to hơn đầu ngón chân cái một chút. Nếu chia ra mỗi người một củ rưỡi thì ít quá, nên tôi có sáng kiến, thay vì bẻ ngang thì chẻ dọc củ khoai, như thế mỗi người “giống như” được ba củ! Làm như vậy để đánh lừa cặp mắt, nhưng hình như cũng đánh lừa được dạ dầy vì tôi thấy chia như vậy ăn vào “no” hơn và anh Thuyên rất phục tôi ở sáng kiến này.

      Mỗi bữa ăn chúng tôi bẻ khoai lang ra, dĩ nhiên là cả vỏ, cho vào tô nước mắm chược, chế thêm một ít nước lạnh vào, quậy cho đều và “húp”! Sau khi xong bữa “húp”, màn tiếp theo là uống nước. Ngồi trong lò hấp mà ăn khoai với mắm thối sẽ khát nước vô chừng. Cơn khát này không phải lúc đó mà thôi, nhưng sẽ kéo dài suốt đêm, nên việc để dành một lon nước qua đêm là yếu tố sống còn cho hai người. Những bữa “húp” của hai anh em tôi không có vấn đề gì xảy ra cho tới một ngày nọ. Hôm đó vì thèm thuốc lào quá nên anh Thuyên, một tay nghiện thuốc lào nặng, nói với anh trực sinh Nguyễn Tiến Đạt làm sao tìm cho một bi thuốc lào.

      Buổi chiều cùng ngày, trong giờ đổ ống bẩu và chia thức ăn, Đạt dúi vào tay anh Thuyên một bi thuốc lào to bằng hột đậu, một que diêm và tí giấy bìa bao diêm. Tôi phải nói là Đạt đã cho anh Thuyên một kho tàng vô giá, vì từ ngày bị cùm trong kỷ luật đã gần 2 tháng, ngày nào anh Thuyên cũng nhắc thuốc lào, bây giờ anh mới được toại nguyện. Khi làm việc này dĩ nhiên Đạt cũng phải gồng mình, vì nếu bại lộ thì Đạt cũng sẽ no đòn.

      Chiều hôm đó, sau bữa “hút”, Bùi Đình Thi và cán bộ đã cùm chân chúng tôi lại và đi xuống, anh Thuyên nhờ tôi tiếp tay thu dọn các thứ trên bệ nằm cho gọn vì anh biết là sau khi hút thuốc lào, anh sẽ say nghiêng say ngửa. Ai đã hút thuốc lào thì biết, chỉ một đêm không hút, sáng hôm sau điếu đầu tiên là say quắc khước, đừng nói chi gần hai tháng không có hơi thuốc nào như anh Thuyên. Vì trong buồng không có điếu, nên anh phải dùng giấy quấn một cái “loa kèn”, nhét bi thuốc lào vào đầu to của “loa kèn”, rồi ngậm nước trong miệng, châm lửa và...hít! Trước khi hút anh còn dặn tôi, nếu anh có say quá thì lấy tay nhấn nhấn vào ngực giúp anh thở, vì đã có người say thuốc lào nghẹt tim không thở được mà chết.

      Anh Thuyên chuẩn bị tinh thần để hít điếu thuốc lào “lịch sử” này, cẩn thận và trịnh trọng như một nghi lễ tôn giáo. Sau khi giúp anh bật được ngọn lửa, mồi vào cái đóm bằng vải và kê vào đầu loa kèn, anh đã “hít...hít...hít” với tất cả sức lực của anh. Có lẽ trong đời anh Thuyên chưa bao giờ anh sung sướng như lúc anh đang ngửa mặt lên trời nhả khói ra trong lúc này! Bất thần anh ngã vật xuống! Ngụm nước trong miệng sặc ra ướt đẫm, mắt anh đờ đẫn và sùi bọt mép!

      Sau khi ngã xuống, cả hai tay anh quơ quơ trên không, cái chân không bị cùm của anh đá tứ tung. Miệng anh ú ớ gọi tên tôi, giọng đứt quãng:“Ông Lễ ơi!, ông Lễ ơi!...ông Lễ ơi!...” Tôi thất kinh sợ anh chết, vội nằm xuống vuốt ngực anh, nhưng anh ta quay ngang, gạt tay tôi ra và cào cấu lung tung như người đang bị ong đốt. Trong lúc say quá độ,  anh Thuyên quơ tay đánh đổ lon nước “cứu mạng” duy nhất mà tôi đã cẩn thận nhét sát vào góc. Sở dĩ lon nước không thể để ở xa hơn được vì sau khi phát thức ăn chiều, chúng tôi đã bị cùm chân lại và mọi thứ phải được đặt vào tầm tay với để khi cần có thể lấy được.

      Một hồi lâu anh Thuyên mới tỉnh lại và thất kinh trước việc anh đánh đổ lon nước. Lúc đó quãng 4 giờ chiều và chúng tôi phải đợi tới trưa hôm sau, tức là 19 tiếng đồng hồ nữa mới được phát nước! Khổ nỗi, ngay lúc bấy giờ tôi đã bắt đầu khát sau khi húp tô mắm chược trộn khoai lang. Anh Thuyên cũng khát nước không kém gì tôi, nhưng lúc đó chúng tôi không làm gì khác hơn là chờ đợi cho tới giờ điểm danh, chừng đó có cán bộ lên để xin nước, mặc dù chúng tôi biết là rất ít hy vọng.

      Riêng đối với Bùi Đình Thi chúng tôi chẳng có chút hy vọng nào. Điều quan trọng là cán bộ nào sẽ lên điểm danh khu kỷ luật chiều nay. Nếu gặp phải cán bộ Hoàn chắc chúng tôi chết mất vì không lần nào anh ta thấy mặt tôi mà không chửi bới. Có lần còn nhào vô buồng đạp tôi mấy phát khi chân tôi đã xỏ vào cùm. Nếu Hoàn mà lên với Bùi Đình Thi nữa thì vô phương.

      Tới giờ điểm danh, chúng tôi đã khát gần cháy cổ. Nghe tiếng chìa khóa khua, chúng tôi mừng thầm, nhưng khi tới nơi nhìn ra chỉ thấy một mình Bùi Đình Thi. Có cán bộ nào đi sau hay không, chúng tôi không thấy. Khi trật tự  mở khóa vào buồng kiểm tra cùm, tôi đánh bạo xin Thi cho nước uống vì đã lỡ làm đổ hết, không còn nước uống qua đêm. Thi trả lời:“Tiêu chuẩn nước của trại, chúng mày dùng đổ vào tường để đục tường đủ rồi, còn đòi nước gì nữa!” Thế là anh ta bỏ đi ra ngoài và khóa cửa buồng giam lại.

      Lúc đó bên ngoài thấy có cán bộ bước tới, nhìn ra là cán bộ Hạ. Tôi mừng thầm trong bụng và tôi lớn tiếng xin cán bộ cho nước uống vì chúng tôi vô ý làm đổ hết và đang khát cháy cổ. Cán bộ Hạ chưa kịp trả lời thì Bùi Đình Thi đứng ngoài nói vọng vào câu anh ta nói với chúng tôi lúc nãy. Nghe câu đó, cán bộ Hạ ngần ngừ như muốn từ chối. Cảm thấy như tới lúc lâm nguy, tôi xin tha thiết hơn:

         - Xin cán bộ hãy lấy tình người mà thương chúng tôi, chúng tôi khát nước quá rồi.   Đêm nay mà không có nước uống chắc chúng tôi chết mất!

         Vừa nói tôi vừa bóp méo cái lon Guigoz cho lọt qua khe cửa sắt đưa ra bên ngoài. Cán bộ Hạ ngần ngừ một chút, xong ra lệnh cho trật tự:

        - Anh Thi, đến bể lấy cho mấy anh ấy một lon nước!

      Không còn cách nào khác, Thi đành phải vâng lời cán bộ, đến bên bể cạn và múc cho chúng tôi một lon nước. Nhưng khi trở lại thành cửa sổ, anh ta dằn mạnh lon xuống làm nước đổ tung tóe và vơi đi gần phân nữa. Đây là nước lấy trong bể cạn ở góc khu nhà kỷ luật. Bể này chứa chừng một thước khối nước dành cho tù giặt quần áo, và sau khi đổ ống bẩu tay dính cứt thì rửa trực tiếp vào đó. Tới chiều bùn sình và những gì nhơ bẩn đã lắng xuống và nước lại trong.
      Phải nói anh Thuyên và tôi sống được qua đêm đó là nhờ lon nước ấy. Mặc dù đó là nước dơ nhưng có lẽ không còn vi trùng, vì theo tôi nghĩ tất cả vi trùng trong bể nước đó đã bị trúng độc chết hết rồi, còn đâu nữa để làm chúng tôi bệnh! Tôi không bao giờ quên ơn cán bộ Hạ và lon nước ân tình này.

      Sau đó cán bộ Hạ rời trại một thời gian rất lâu. Cho tới một buổi trưa nọ vào năm 1986, tức là 7 năm sau, lúc đó tôi đã qua sống khu kiên giam mới cùng với các anh em Linh mục khác, có lần cán bộ Hạ lên khu kiên giam thăm chúng tôi. Tình thế giữa tù nhân và cán bộ lúc này đã có sự gần gũi nhau hơn. Trong lần gặp lại đó, tôi có nhắc lại với anh về lon nước vào năm 1979 với lời cám ơn chân tình, nhưng anh nói:“Tôi không còn nhớ!” Tôi trả lời:“Nhưng tôi còn nhớ và tôi sẽ nhớ mãi lon nước ân tình này”. Nghe nói thế cán bộ Hạ nhìn tôi mỉm cười, nụ cười rất hiếm hoi trên khuôn mặt lầm lì cố hữu của anh. Đó cũng là lần cuối tôi gặp lại người cán bộ đã để lại trong tôi kỷ niệm thật đẹp về tình người trong nhà tù cộng-sản.


      Gió thoảng trưa hè

      Không lâu sau đó, Bùi Đình Thi mất chức trật tự.  Sự kiện này đối với tôi rất quan trọng, vì kể từ ngày đó cuộc sống tôi được nâng cấp: Từ đáy địa ngục, tôi được chuyển lên tầng trên của địa ngục! Ngày anh ta mất chức trật tự  trong trại tù Thanh Cẩm cũng là một trong hai ngày vui mừng và hạnh phúc nhất trong 13 năm tù của tôi! Ngày đầu tiên là ngày 2 tháng 8 năm 1978, ngày tôi được chuyển ra khỏi trại trừng giới Cổng Trời!


      nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
      dactrung.com
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2007 12:15:11 bởi sóng trăng >
      #18
        sóng trăng 10.02.2007 04:43:49 (permalink)
        .

        11

        Tầng Đầu Địa Ngục
         


        Người ta thường nói:“Sống lâu lên lão làng!” Tôi cũng đã có lần thuộc dạng “lão làng” vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp 3 năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành “đại ca” trong khu kỷ luật lúc bấy giờ.

        Kể từ khi tôi bị đưa lên cùm chân sau vụ vượt ngục bất thành ngày 2 tháng 5, 1979 cho tới lúc này, tôi cứ quanh đi quẩn lại trong 6 buồng của khu nhà kỷ luật. Tôi giữ vai trò người quản gia, trong khi các người tù khác chỉ là những khách vãng lai. Có người trụ lại một thời gian khá lâu đến hàng năm trời, nhưng cũng có những người ngắn hơn, lên đây một thời gian chừng vài tháng hay tuần hoặc vài ngày rồi trở xuống dưới “làng”. Cũng có người xuống “làng” ít lâu rồi lại lên khu kỷ luật như dân Âu Châu đi nghỉ hè ở vùng bờ biển hàng năm! Riêng tôi đã 3 năm rồi, nhưng chưa được đi “nghỉ hè” lần nào. Cũng chính vì được tiếp xúc với nhiều đợt tù kỷ luật, chính trị cũng như hình sự, nên yếu tố “lão làng” của tôi được nhiều người biết tới.

        Nếu yếu tố “lão làng” không mang ý nghĩa gì đặc biệt đối với nhóm tù chính trị thì ngược lại nó là vấn đề quan trọng, đôi lúc là nguyên tắc sống còn đối với những người tù hình sự. Nên biết điều này, giữa những người tù hình sự với nhau, sự kiêng nể các “đại ca” đã trở thành một thứ luật bất thành văn trong tù. Có những anh vì coi thường hoặc chểnh mảng việc tuân giữ quy luật này nên đã phải trả giá rất đắt. Suốt 4 năm qua tôi đã phải sống lăn lộn với tù hình sự từ trại Cổng Trời về đây, nên đã có dịp chứng kiến nhiều trường hợp trả giá đó. Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà các tù nhân vi phạm bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.

        Nếu chỉ để cảnh cáo hoặc áp đảo tinh thần những “lính mới” để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng”, hoặc “bẻ ngà” . Trường hợp nặng hơn thì bị “lấy cặp pha” , hoặc “xin cặp nạng” . Trường hợp nghiêm trọng và phải bảo vệ chỗ đứng thì đối phương sẽ được “cất” . Những người tù hình sự có loại ngôn ngữ riêng bằng tiếng lóng. Gần như tất cả mọi người đều có một tên đệm kèm theo tên riêng. Và có một điều dường như ai cũng có thể biết được là họ chửi thề luôn miệng!

        Hiện tượng “ma cũ ăn hiếp ma mới” trong giới tù hình sự là điều rất phổ biến và tự nhiên trong tù. Chắc hẳn nhiều người đã được nghe kể, và hơn nữa đã đọc những sách viết về đời sống ngục tù đề cập tới hình thức “tìm chỗ đứng” của các tù nhân cũ. Những anh tù mới vừa bước vào buồng sẽ bị những người cũ áp đảo bằng một trận đòn mềm người và bị bắt buộc phải khuất phục dưới trướng. Nếu người tù mới là tay hảo hán thì sau này sẽ “ngoi lên tìm chỗ đứng” bằng cách nào đó để nắm vai trò lãnh đạo.

        Việc ngoi lên tìm chỗ đứng này được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng điểm giống nhau duy nhất trong các cuộc tranh hùng đó là tính cách không khoan nhượng, nói rõ hơn là một mất một còn. Vì thế, ngoài trường hợp những “đại ca” có tầm cỡ cao, nghĩa là những tù nhân khét tiếng mà ai nghe tới cũng phải cúi đầu chịu phục và dù ở đâu cũng có đàn em các cấp thì không nói, còn những tay mới vừa ngoi lên tìm chỗ đứng trong tù, khi đi ngủ chỉ nhắm một mắt. Ý muốn nói lúc nào cũng phải đề phòng kẻo bị thanh toán!

        Dĩ nhiên các việc đó chỉ diễn ra trong giới tù hình sự. Dù vậy hoàn cảnh đã đẩy đưa tôi, một tù nhân chính trị, vào vị thế được kiêng nể trong giới tù hình sự tại khu kỷ luật này. Một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Nó đột biến xảy ra vào một buổi sáng nọ khi cán bộ mở cửa và đẩy vào buồng tôi một anh tù hình sự còn trẻ măng, chừng ngoài 20 tuổi. Buồng tôi lúc đó có 4 chỗ cùm nhưng chỉ có 3 người, tôi và hai anh tù Trung Quốc, còn một chỗ cùm trống dành cho anh tù mới này.

        Chợt nghe tiếng mở khóa buồng, tôi vội lấy tấm chăn che ngang người, vì lúc đó cả 3 chúng tôi đều trần truồng. Anh tù mới vừa bị đẩy vào đứng chết trân giữa buồng, vì từ ngoài sáng vào buồng tối làm anh quáng mắt. Anh ta cố gắng định thần trong một buồng giam nóng như hỏa lò và chắc chắn là rất thối tha này. Còn tôi ở đây đã lâu và nằm trong buồng đã quen với bóng tối nên tôi nhìn ra và thấy anh ta hầu như rõ mồn một!

        Người anh trông nhỏ thó với mái tóc húi cao. Anh ôm trên tay chiếc chiếu cuộn tròn mà tôi biết bên trong là chăn và quần áo. Tay kia anh bưng một cái bát sắt có hoa màu đỏ, có đĩa sắt đậy lại bên trên, nên tôi không biết trong bát có gì. Dưới nách anh cặp một ống điếu cày có máng cái lon Guigoz lòng thòng. Trong lúc anh tù mới đang chớp mắt nhìn quanh nhưng chưa thấy gì và nghe ba người chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Phổ thông làm anh tưởng buồng này tất cả đều là tù Trung Quốc. Tôi nhận thấy trên mặt anh lộ ra vẻ sợ hãi. Có lẽ chưa kịp định thần thì cán bộ đã rút thanh sắt, xỏ chân anh ta vào cùm, khóa cùm bên ngoài buồng và đóng cửa bước ra. Cán bộ hành động nhanh như một cái máy, vì tôi biết anh ta không chịu nổi mùi hôi thối và bầu khí nóng như lò hấp của buồng giam.

        Ban ngày trong căn phòng kín như cái hộp sắt có mở lò sưởi này, chúng tôi gần chết ngộp. Mỗi lần mở cửa là mỗi hồng ân trời ban, vì có không khí ùa vào buồng. Lúc đó chúng tôi thi nhau hít thở, càng mạnh càng tốt, càng nhiều càng tốt và cố rút vào buồng phổi không khí trong lành hiếm có để còn được tồn tại. Đợi cho anh tù mới định thần xong, tôi lên tiếng:

        - Mầy thấy rõ trong buồng chưa? Mệt thì nghỉ đi.

          Nghe tiếng tôi, anh ta rất mừng vì biết tôi là người Việt nên lễ phép nói:

          - Em xin chào anh! Thưa anh có phải là anh 'Nể' (Lễ) không ạ!

          Anh tù này nói thiệt là ngọng. Qua cách anh phát âm tên tôi, tôi hỏi:

          - Sao mày biết tên tao?

        - Ối giời! Anh ạ, đám bọn em có mấy thằng đi kỷ 'nuật' về, bọn chúng ca tụng anh 'nắm'. Chúng bảo anh rất tốt!

        Tôi phì cười:

        - Xạo mầy! Mày tên là gì, làm sao mà bị đi cùm?

        Có lẽ anh ta sợ, khi nghe giọng nói tôi cố tình tạo ra vẻ “đại ca”. Càng sợ hơn nữa sau khi đã chớp mắt làm quen với bóng tối trong buồng và nhìn thấy hình dạng tôi đang cởi trần, râu ria tua tủa rối ren vô trật tự, tóc tai bờm xờm đang ngồi cùng với hai anh Tàu to con và trần truồng như nhộng. Cảnh này mới bước vô, ai mà chẳng sợ. Anh ta trả lời cách khúm núm:

        - Thưa anh, tên em là Huống. Em nhón một ít ‘nạc’ (lạc) của cán bộ, bị bể và đi cùm. À, em xin mời anh dùng bát cơm anh ạ!

        Vừa nói Huống vừa với tay cầm cái bát sắt, mở đĩa đậy ra và nhẹ nhàng đặt bát cơm cạnh tôi.

        Nhìn bát cơm, hai anh Trung Quốc lộ vẻ thèm thuồng tột độ. Bát cơm trắng quả là một bữa đại yến trong buồng kỷ luật đói triền miên này. Ngồi nhìn cả ba anh tù, tôi cảm thấy thương họ. Cuộc sống tù đày đã biến đổi họ thành những con người không còn là chính con người thật của họ. Một người tù vừa bước vào cố nhịn phần ăn sống còn của mình đổi lấy sự an toàn, còn hai người bạn Trung Quốc chỉ cần được ăn và không cần biết gì khác! Tôi hỏi Huống.

        - Cơm này ở đâu mày có?

        - Em còn ống gạo mới thổi trưa ‘lay’.

        - Gạo mày lấy đâu ra?

        - Em 'nàm' điếu đổi gạo anh ạ. Bọn chúng vẫn gọi em ‘nà’ Huống “điếu cày” mà!

        - Nếu đưa cơm cho tao thì mày lấy gì ăn?

        - Em không đói đâu anh ạ!

           Tôi đau lòng khi nghe câu đó, vì trong tù này ai mà không đói! Tôi bảo:

        - Huống! Tao giả vờ hù dọa mày cho vui, mày đừng nghĩ tao như một tay đầu gấu hình sự. Ăn đi mày, ở đây thằng chó nào mà chẳng đói.

          Huống ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế, nhưng nó cũng chưa dám ăn. Tôi giục mấy lần nó mới dám bưng bát cơm lên, miệng lí nhí nói:“Em xin anh!”

        Tôi ngồi nhìn Huống “táp” vội bát cơm mấy cái đã hết sạch. Trông nó cũng đói không kém gì ba người chúng tôi trên khu kỷ luật này.


        Kỹ thuật kiến trúc


        Nhà kỷ luật Thanh Cẩm là một nơi được nghiên cứu và thiết kế cẩn thận để tăng hiệu quả tối đa của tính chất độc ác trong việc trừng trị con người. Ở lâu trong đó tôi mới có dịp quan sát kỹ và đi tới kết luận: Không thể có một đồ án xây dựng nào tốt hơn khu nhà, mới vừa ba tuổi mà tôi là một trong số rất ít người được vinh dự là những thân chủ đầu tiên này.

        Khu kỷ luật là một nhà nóc bằng hình chữ nhật có sáu buồng. Ba buồng phía trước trông ra một khoảng sân khá rộng và ba buồng phía sau mở cửa thông ra một lối đi hẹp chừng 3 thước, dẫn tới chân một bức tường đá xanh. Tường nhà dày 40 phân, mái nhà được đúc bằng xi măng cốt sắt. Mỗi buồng vuông vức với 3 thước mỗi chiều. Cửa sắt thật kiên cố và chỉ có một cửa sổ nhỏ 50 phân vuông chắn song sắt to bằng cổ tay em bé. Điểm đặc biệt mà tôi khâm phục sáng kiến là các buồng không phải cách nhau bằng một bức tường theo như cách hiểu thông thường, nhưng buồng này cách buồng khác bằng một cái buồng xép bề ngang chừng một mét rưỡi, có cánh cửa chặn kiên cố bên ngoài.

        Như vậy khi muốn bước vào buồng kỷ luật phải qua 2 lần cửa, qua lần cửa gỗ vào buồng xép rồi mở cửa sắt vào buồng giam. Hai buồng giam có cửa sắt đối diện nhau. Tuy nhiên, vì nhu cầu có khoảng trống tráng xi măng trước cửa buồng nên buồng 1 và buồng 6 nằm ở hai góc phía trước và phía sau chỉ cần qua một cửa sắt là vào buồng, trong khi tất cả các buồng khác phải qua hai lần cửa. Cái buồng xép nằm giữa hai buồng giam này là một sáng kiến thật độc đáo vì nó có ba công dụng thật rõ rệt. Thứ nhất là an ninh, người tù muốn vượt ngục phải qua hai lần cửa mới ra được. Thứ nhì là chặn không khí lại. Không khí muốn vào buồng giam phải qua hai lần cửa. Và ý thứ ba quan trọng nhất, cái thanh sắt to từ trong buồng giam xỏ qua các móng cùm ngoạm vào cổ chân những người tù được luồn qua một cái lỗ trong tường ló đầu ra buồng xép này và có ống khóa to khóa lại ở đây.

        Như thế người tù ngồi bên trong buồng không bao giờ có thể đụng chạm tới cái ống khóa bên ngoài được. Chung quanh khu kỷ luật có tường cao ngăn cách với các khu vực khác trong trại, trên bờ tường có hàng rào kẽm gai. Đây chỉ là tường khu vực, chưa phải là bờ tường trại bằng đá xanh cao 5 thước bao bọc toàn thể trại tù Thanh Cẩm. Chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại được xây theo kiểu mẫu Khải Hoàn Môn (Arc de Triumple) của thành phố Paris bên Pháp. Cổng trại là phòng ở của cán bộ trực trại và lúc nào cũng có lính canh.

        Trong buồng có hai thớt nằm bằng xi măng hai bên một “phi đạo” ở giữa, mỗi thớt cao 80 phân và rộng cũng 80 phân dành cho 2 người bị cùm. Thật sự tôi không nhớ rõ chi tiết về kích thước của cái thớt này, chỉ biết lúc bấy giờ chúng tôi gọi nó bằng cái tên khá dài:“Hai người thì thiếu, một người thì dư!” Như vậy sáu buồng khu kỷ luật chỉ được trang bị đầy đủ cho 24 thân chủ. Có thời gian số người bị kỷ luật đông hơn 24 thì mỗi buồng có thể nhận thêm một tù nhân nằm dưới “phi đạo”, dĩ nhiên là không phải mang cùm. Ở kỷ luật mà không phải mang cùm cũng là một hồng ân. Thỉnh thoảng cán bộ chiếu cố cho vài người được hưởng đặc ân này. Riêng tôi không được hưởng quyền lợi này một đêm nào trong 1020 đêm ở nhà kỷ luật.

        Thông thường những người đã ở lâu thì chỉ bị cùm một chân (cám ơn sự nhân đạo của đảng!). Thời gian 3 tháng đầu bị cùm cả ngày lẫn đêm. Về sau chỉ cùm ban đêm, từ lúc cho ăn chiều cho tới quãng 7 giờ sáng hôm sau.  Ngược lại, “những khách vãng lai”, tức là những người tù ở dưới “làng” bị phạt lên kỷ luật một thời gian ngắn, họ bị cùm một chân cả ngày lẫn đêm. Tuy nhiên, thời gian “tham quan” khu kỷ luật của họ chỉ kéo dài trong vòng một vài tuần lễ.

        Buồng giam kín như bưng và tối đen. Chỉ phía ngoài gần cửa sổ có chút ánh sáng lọt qua song sắt, còn phía trong lúc nào cũng tối om om. Dù vậy, chúng tôi cũng không bị trở ngại vì đã quen với bóng tối. Từ bên trong buồng nhìn ra thấy bên ngoài rất rõ, nhưng từ ngoài nhìn vào qua song sắt cửa sổ thì không thấy gì bên trong. Nhất là những hôm nắng to người bên ngoài phải nhìn vào một lúc lâu mới biết có bao nhiêu người trong buồng. Trần nhà rất thấp. Đứng trên bệ nằm, có thể với tay gần đụng trần nhà, trên đó có bắt một bóng điện, ánh sáng leo lét và tắt từ 10 giờ đêm về sau.

         
        Nhà cầu “nổi”


        Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại, tiểu tiện vào đó. Trước mỗi lúc phát thức ăn trưa và chiều, một anh tù trực sinh vào từng buồng bưng các ống bẩu phân và nước tiểu này ra đổ vào hố phân ở góc tường ngay trước cửa buồng 3 nằm sát góc sân cập bờ tường phía trước. Hố phân này không có nắp đậy và đó là vương quốc của ruồi xanh.

        Việc sử dụng nhà cầu nỗi này không đơn giản, phải được chỉ dẫn và dĩ nhiên là cũng phải có kinh nghiệm. Lúc đó tôi đã là “con ma ” trong khu kỷ luật rồi nên thích nghi hết mọi hoàn cảnh để sống còn. Việc sử dụng cái cầu tiêu lạ đời này không còn là vấn đề đối với tôi. Trái lại những “lính mới” thường gặp trở ngại trong những lần đầu. Lúc bấy giờ yếu tố “lão làng” của tôi lại có giá trị vì tôi phải mở một khóa cấp tốc hướng dẫn cách sử dụng loại nhà cầu “nỗi” này như thế nào. Ban ngày lúc không phải cùm thì dễ hơn, nhưng lúc chân trong cùm mà buồn đi cầu thì không phải là chuyện đơn giản và trường hợp này “không thầy đố mày làm nên!”

        Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai cái ống bẩu, mỗi tay cầm một cái. Ống nước tiểu hứng phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau. Trong khi thi hành bản năng sinh học tự nhiên của cơ thể con người, tù nhân phải ở thế đứng, hơi rùn người xuống một chút như thế “xuống tấn” của võ sĩ thái cực đạo mới đúng thế. Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của bản năng, nói nôm na là “đi cầu”, người tù phải quàng tay ra sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá thì kẹt đủ điều!

        Có mấy lần ống này quá nặng, trong khi “đi cầu” ống đó càng lúc càng nặng vì phải chứa thêm, chứa thêm và cuối cùng người tù không thể giữ ống bẩu sát vào mông đã vuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng. Nếu lúc đó có người đang ngồi ăn thì quả thật là bất tiện! Chúng tôi cố đi cầu vào buổi tối sau khi một chân đã dính vào cùm, một phần để tránh hai bữa ăn của anh em và phần khác cũng kín đáo hơn. Tuy nhiên, vào trường hợp bất khả kháng thì bất kể là ngày hay đêm, dù có phải đại tiện ngay trước mặt những người lúc họ đang ngồi ăn cũng không ai lấy thế làm phiền.

        Vả lại, vì đã quen với cuộc sống tù quá ư là chật chội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Việc ai người ấy làm, chẳng ai để ý tới ai. Trong khi một người đang đại tiện thì có thể một anh khác đang ngồi ăn hoặc có người đang tập thể dục, ra cửa sổ hít thở, đang ngồi cầu kinh, chơi cờ hay may vá. Có mấy lần một vài “lính mới” vì chưa rành sử dụng ống bẩu nên làm vương vẩy đầy trên sàn nhà. Nhưng không hề gì, chốc nữa tới lúc cho ăn, chúng tôi sẽ nhờ anh trực sinh quét và hốt đi!

        Ban ngày không bị cùm, “đi cầu” đã khó, ban đêm khi đã xỏ chân vào cùm mà muốn “đi cầu” thì quả là một cực hình! Lúc đó cần phải có một kỹ thuật cao hơn và những “lính mới” thường không làm được. Phần vì vướng một chân vào cùm, phần khác cổ chân họ còn nhiều thịt nên rất trở ngại trong cái móng cùm bằng sắt nhỏ hẹp. Trong khi đối với tôi và những “thường trú nhân” của khu kỷ luật lúc bấy giờ, cổ chân chúng tôi không to hơn cái ống bơm xe đạp bao nhiêu, nên việc xoay xở nhẹ nhàng khéo léo và lành nghề như một nhà ảo thuật.

        Vào mùa hè, trời Thanh Hóa nóng như thiêu như đốt. Nhất là những ngày có gió Lào cộng vào, buồng kỷ luật biến thành cái hộp bằng sắt có mở lò sưởi ở số cao. Gió Lào là ngọn gió từ bên Ai-Lao thổi qua dãy Trường Sơn miền Trung Việt Nam, đưa hơi nóng từ dãy núi đá này qua các tỉnh miền Trung Việt. Hôm nào gió càng to thì càng nóng. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, gió không thể lùa vào buồng được. Sức nóng hừng hực của mặt trời nung nóng nóc nhà bằng, ban đêm tỏa hơi nóng xuống buồng giam đã vắt cạn tới giọt nước cuối cùng trong thân thể gầy còm của chúng tôi.

        Những đêm kinh hoàng như vậy, mỗi người trong buồng phải thủ sẵn một tô nước trích ra từ tiêu chuẩn nước trong ngày và một mảnh vải ngâm vào đó. Thỉnh thoảng lấy vải lau trên người cho da thịt tiếp xúc với sự mát lạnh của nước, sau đó vắt nước trở lại vào tô. Làm đi làm lại nhiều lần suốt đêm như thế, khi nào kiệt sức thì ngả xuống nằm một chốc rồi ngồi lên lau người tiếp. Sáng hôm sau nước trong bát đen như nước cống. Trong cơn chết ngạt đó, tôi thấy thứ quý báu nhất trên đời này không gì khác hơn là làn khí trong lành để con người có thể hô hấp và tồn tại. Một điều mà dường như không mấy ai để ý tới. Đó là hồng ân đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho tạo vật. Lúc đó tôi cầu xin:“Lạy Chúa, nếu Chúa cho con có thể làm phép lạ thì phép lạ đầu tiên con làm là cho có một cái lỗ bằng hộp sữa trổ ra trên nóc buồng, để không khí có thể lưu thông và con có thể hô hấp hầu bảo vệ mạng sống!” Tô quyết tâm là nếu sau này còn sống, tôi phải nói lên cho mọi người, biết ơn và cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả của Ngài đã ban cho con người  được có đủ không khí trong lành để hít thở.

        Trong hoàn cảnh nghẹt thở đó, nỗi niềm hối hận trào dâng. Tôi hối hận vì có những lần trước kia tôi than thở oán trách vì bữa ăn không ngon, chai bia chưa đủ lạnh, đĩa rau không đủ tươi, chiếc áo không đẹp, chiếc xe không đúng kiểu, nhà cửa thiếu tiện nghi.... Và đặc biệt tôi muốn chia sẻ với những người may mắn, nhất là dân các nước tư bản, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tiện nghi, cuộc đời được bao quanh bởi thú vui và tiền của. Tôi muốn nói với những người may mắn đó rằng:“Các người đang ở trên thiên đàng mà các người không biết. Vì thế xin đừng bao giờ than trách về một vài bất tiện trong cuộc sống đã quá đầy đủ tiện nghi của mình, nhưng hãy biết mở tay ra bố thí và thương đến những kẻ khốn cùng!”

        Những lúc nóng nực quá sức chịu dựng, chúng tôi đều trần truồng ngày đêm. Một phần vì mặc quần áo sẽ ướt đẫm và dán sát vào người không thể nào chịu được, đàng khác, những người ở kỷ luật lâu như tôi không còn quần áo gì để mặc. Dường như ai cũng giống nhau trong buồng giam kỷ luật, chúng tôi chỉ chừa đủ một quần xé ống tới đầu gối và một cái áo xé tay tới sát nách, để khi cần phải ra ngoài hoặc lên cơ quan làm việc, còn bao nhiêu đều phải xé ra lau chùi khi đại tiện. 

        Trong thời gian kỷ luật, chúng tôi được xuống sông tắm mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên, nhiều khi cán bộ bận việc hay có gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần, nhưng ít khi nào quá một tháng mà chưa được tắm. Vì quá ba tuần mà chưa được tắm là bọn tù chúng tôi kêu la tru tréo điếc cả tai. Trong trường hợp đó buộc lòng phải cho đi tắm, nếu không phải vì lòng nhân thì ít ra để khỏi phải bị quấy rầy.

        Thật ra đối với tôi lúc đó, việc được đi tắm sớm hay muộn hơn một tuần lễ không có gì đáng quan tâm. Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mỗi lần đời tôi như lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì ít giấy bao xi-măng làm vở viết học chữ Tàu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố công học.

        Cơn mưa trái mùa

        Đêm đó Huống nằm chung thớt với tôi. Tôi nằm sát vách và Huống nằm bên ngoài. Hai người nằm song song và đôi chân bị xỏ xâu cùm chung một song sắt. Tôi cùm chân phải, Huống chân trái. Một lúc khá lâu, gần tới giờ tắt đèn đi ngủ, Huống kêu đau bụng và buồn đi cầu. Tôi cảm thấy như sắp gặp rắc rối.

        Tôi vội ngồi lên chỉ cách cho Huống xoay người, bước một chân không bị cùm xuống sàn. Huống loay hoay cố gắng làm theo cách thức tôi bày, nhưng không được. Nó không biết xoay ngược người bước xuống sàn và quay lưng ra cửa sổ như thế nào. Tệ hơn nữa, trước đó 2 người đã đi đại tiện và các ống bẩu đã nặng hơn. Trong lúc đang bối rối như vậy thì Huống đứng thẳng trên thớt và kêu lên:

          - Anh ạ! Cố giúp em! Khẩn trương “nên” anh, em đau bụng ‘nắm’ rồi!

           Tôi đáp lời nhanh:

          - Mầy cố khắc phục, để tao bảo thằng Tàu nằm phía ngoài bên kia biểu diễn cho mày coi. Bước xuống! Mày đứng thẳng người trên bệ nằm như thế thì ỉa đái cái chó gì được! Sao không tuột quần xuống đi, còn xấu hổ à?

        Tôi quay sang bảo anh Trung Quốc nằm bên ngoài ở thớt bên kia đứng xuống và biểu diễn màn đi cầu trong cùm. Anh Tàu bước một chân xuống và chụp lấy cái ống bẩu biểu diễn cách đi cầu với chân trong cùm một cách nhẹ nhàng và đẹp mắt. Bên này Huống ta cố gắng tối đa để làm theo, nhưng mặt mày nhăn nhó kêu đau vì móng cùm cày vào cổ chân trong lúc anh cố gắng xoay người. Cổ chân anh gần chảy máu mà vẫn không xoay người bước một chân xuống sàn được, vì cổ chân anh ta to mà móng cùm lại nhỏ. Những móng cùm to hơn một chút thì bọn tù kỷ luật chúng tôi đã thủ mỗi người một chiếc như vật gia bảo của mình rồi, khách vãng lai phải chịu thiệt thòi hơn. Thấy không cách gì Huống có thể bước xuống sàn khi chân bị cùm, tôi hỏi:

          - Mầy có thể khắc phục tới sáng ngày không Huống?

          - Chết mất anh ơi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi, sắp sửa ra quần rồi anh ạ!

          - Vậy mày đứng trên thớt làm được không?

        - Em phải cố thôi! Em chột dạ ‘nắm’ rồi. Xin anh giúp chuyền ống bẩu cho em với!

          - Ban sáng mày ăn gì mà chột dạ?

          - Em  ăn “nạc” sống và uống nước “nạnh” vào! Khổ thân em!

           Tôi bực mình nhưng buồn cười quá nói to nhưng thật vui:

          - Khổ gì mày? Khổ tao thì có!

           Nghe tôi to tiếng, Huống tưởng tôi nạt nên sợ cuống cuồng vội vàng nói:

          - Em xin anh! Em van anh!

        Thái độ của Huống “điếu cày” lúc này càng làm tôi tức cười không chịu được. Mặt mày nó nhăn nhó, tay chân cuống cuồng. Thấy thế, tôi bước xuống cầm hai ống bẩu lên và bảo nó:

          - Vậy thì mày đứng trên bệ, tuột quần xuống, đứng dạng hai chân và rùn người xuống như cái thế con chó đang đứng ỉa! Mầy có trông thấy con chó ỉa bao giờ chưa?

           Huống đáp vội vàng:

          - Có, có! Em còn ‘nạ’ gì chó ỉa cơ chứ!

          - Được rồi! Một tay cầm ống bẩu nhỏ hứng phía trước, tay kia cầm ống bẩu to này áp sát vào sau mông. Phải nhớ áp thật sát vào mông nghe mậy, nhưng mầy thuận tay nào?

          - Em thuận tay phải!

          - Vậy mầy dùng tay phải cầm ống bẩu phía sau, vì nó nặng và khó điều khiển hơn cái hứng nước tiểu phía trước. Nhớ phải cầm thật chặt nghe chưa?

           Tội nghiệp Huống! Anh ta vô cùng vất vả mới cầm được hai ống bẩu cho đúng tư thế. Trong khi đó sự đòi hỏi càng lúc càng khẩn trương!

        Chỉ dẫn cho Huống xong, tôi nằm dài thẳng người xuống và nhìn lên. Cái ống bẩu “hậu vệ” của Huống đang chỉa thẳng vào mặt khiến tôi lo ngại. Tội nghiệp anh tù hình sự đang đứng trong một tư thế khom người rất kỳ dị. Đôi chân dang rộng, hai đầu gối co lại, người rùn xuống thấp và khom lưng cong người về phía trước. Tôi chưa trông thấy con người đứng trong thư thế đó bao giờ nên không biết diễn tả đó là cái thế gì! Nếu gọi thế “xuống tấn” trong thái cực đạo thì đôi chân phải dang rộng hơn, thân người phải thẳng và phải rùn người xuống thấp hơn mới đúng thế. Xem ra nó hơi giống cái thế của các vận động viên bơi lội trước khi lấy đà phóng xuống hồ bơi, nhưng chỉ giống ở cái lưng cong còn đầu gối các vận động viên phải thẳng, không thể như hai đầu gối của Huống trong lúc đang đứng ngay trước mắt tôi đây được.

        Vì đã sống lâu năm ở đây, chứng kiến quá nhiều cảnh tù kỷ luật đứng đi cầu “nổi” bằng hai ống bẩu, nên tôi mường tượng tới cảnh con chó đứng ỉa. Cũng may là Huống khá thông minh! Tôi vừa nói cái thế chó ỉa là anh ta hiểu ngay, nhưng lúc này anh ta biểu diễn không đúng lắm vì một cổ chân còn vướng vào cùm. Nhưng phải nói anh ta biểu diễn không đến nỗi tệ. Tay trái Huống cầm ống bẩu nhỏ và dài phía trước coi bộ đã ổn, nhưng tay phải choàng ra phía sau dường như chưa làm chủ được cái ống bẩu có đường kính khá to và nặng, vì bên trong đã có phân. Nằm dưới nhìn lên, tôi thấy tình thế quá đe dọa, tôi lo sợ lên tiếng:

        - Huống! Huống! Đừng cầm trên miệng ống, không được đâu! Cầm ở lưng chừng một phần ba ống bẩu mới được. Mầy cầm như vậy làm sao thúc sát vào mông được!

        Tôi càng lên tiếng anh ta càng lụp chụp. Tôi nghĩ rất nhanh, phải ngồi lên cầm giúp nó mới được, bằng không sẽ phải lãnh đủ. Tôi ngồi bật dậy, một tay vừa đụng tới ống bẩu, chưa kịp nắm lấy thì bất thần tôi nghe một âm thanh lạ lùng và sắc nhọn như tiếng gió gào qua khe cửa: “Phụụụụụụt!” Đồng thời với cảm giác ấm và nặng như trận mưa tưới thẳng vào mặt tôi, cùng lúc với cái vị vừa chua vừa đắng ở đầu lưỡi! Tiếp theo là bản hòa âm ngay bên tai tôi, nhưng chẳng giọng nào ăn khớp với giọng nào. Có tiếng thì quá trầm như ếch kêu “Uỳụụp! Uỳụụp! Uỳụup!” hòa với tiếng rít cao vút từng mây “Rooét! Rooét! Rooét!”

        Bằng hành động phản xạ, tôi đưa hai bàn tay che mặt và nhắm mắt lại nên không bị nước bắn vào mắt. Nhưng từ tóc, đầu, mặt, hai mu bàn tay và dài xuống tới ngực lãnh trọn những gì tự nãy giờ bị nhốt  trong bụng và đã hành tội Huống. Tôi chợt nhận ra phản xạ kỳ diệu của mi mắt. Nếu cái gì có thể làm nguy hại cho tròng mắt là nó tự động khép lại. Nhưng đôi môi con người lại không có được sự phản xạ đó.  Nếu mi mắt chờ tới khi nhận lệnh của hệ thần kinh mới làm việc thì hôm đó không biết đôi mắt tôi sẽ ra sao.

        Biết là tai họa xảy ra, Huống vội vàng quay người lại hốt hoảng la lên:“Ối giời ơi! Ối giời ơi!” Trong lúc đó, một chân anh bị vướng trong cùm, tay kia cầm ống bẩu phía trước, bàn tay phía sau bị ướt đẫm trơn trợt làm ống bẩu nặng tuột rơi xuống đổ tháo, cứt đái vương vãi nằm lăn lóc bét nhè trên chăn chiếu của hai người! Tôi buột miệng kêu: “Trời ơi là trời! Biết nói làm sao đây?”

        Sự việc xảy ra quá nhanh và bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng gì. Hai người tù Trung Quốc bị cùm thớt bên kia nhìn thấy sự thể vụt ngồi lên chỉ trỏ và dùng tiếng tục tĩu nhất rong ngôn ngữ Trung Hoa để chửi Huống. Mặc dù Huống không hiểu tiếng, nhưng qua cách biểu lộ thái độ giận dữ anh ta cũng hiểu được hai anh tù ngoại quốc này muốn nói gì. Huống đứng chết trân run rẩy vì sợ hãi, luôn miệng kêu: “Anh ạ, em ‘nạy’ anh! Em ‘nạy’ anh xin tha cho em!”

        Có lẽ trong thâm tâm lúc đó người tù hình sự đáng thương này nghĩ là anh ta đã phạm một lỗi lầm quá lớn trong tù là dám ỉa vào mặt “đại ca”, và tội này đáng chết! Huống ngồi bệt ngay xuống, không kịp lau chùi gì cả. Anh vội vàng cởi các nút áo ra mà tôi biết là để lau chùi cho tôi và chờ cuộc phán xét. Tôi cũng vội vàng ngồi lên và cởi cái áo đang mặc ướt đẫm ra lau mặt và lau tóc tai. Thấy tôi ngồi dậy, Huống quay lại chắp hai tay trước ngực lạy tôi như tế sao, đôi tay run rẩy, miệng lẩm bẩm:

          - Em van ‘nạy’ anh, xin tha cho em! xin tha cho em!

        Tôi chợt cảm thương Huống! Anh ta có tội gì đâu! Để bù lại cho nỗi lo sợ và thái độ van xin của anh, nên tôi buột miệng nói một câu hài hước làm Huống vô cùng ngạc nhiên. Cả hai anh Trung Quốc cũng lấy làm lạ sau khi nghe tôi nói dịch ra tiếng Phổ Thông:

        -Tao cám ơn mầy Huống! Trong kỷ luật tháng tắm hai lần, bữa nay mầy cho tao tắm thêm một lần nữa là ba!

          Nói xong tôi cười xòa, tay vỗ lên vai Huống và tiếp:

        - Đừng sợ! Mày chẳng có lỗi gì cả. Đâu ai muốn như thế này. Chẳng qua vì hoàn cảnh mà anh em mình đành phải chịu!

           Huống cảm động nói như muốn khóc:

        - Em cám ơn anh! Em cám ơn anh thương em!

        Vừa nói, nó vừa lấy áo mình lau người cho tôi. Tôi để yên cho nó làm việc đó, vì muốn chứng tỏ là tôi không buồn giận gì Huống cả. Chỉ có nụ cười của sự rộng lượng mới cứu vãn được tình thế lúc bấy giờ.

        Lạ một điều là mặc dù lúc đó tôi bị phân người bê bết trên mặt mày đầu tóc, trên áo quần và chăn mền, nhưng khi lau khô rồi, tôi lại chẳng nghe mùi thối tha gì cả. Điều này làm tôi ngạc nhiên về sự kỳ diệu của sự bão hòa khứu giác. Vì nếu trong hoàn cảnh đó mà khứu giác chúng tôi hoạt động một cách nhạy bén bình thường thì làm sao chịu được?

        Đó là một tai nạn lớn, nhưng trong cái rủi cũng có cái may! May là việc này xảy ra chỉ còn cách năm ngày nữa là tới lượt chúng tôi được xuống sông Mã tắm giặt. Nếu tai nạn này xảy ra sau khi mới được đi tắm và phải chờ tới 15 ngày sau thì cũng hơi căng! Hôm ngày đi tắm, nước sông Mã thượng nguồn rất trong và mát đã giúp tôi tẩy sạch mọi thứ nhơ bẩn trên người, và quần áo chăn chiếu cũng được giặt giũ cẩn thận. Hôm đó tôi lại cảm thấy mình trở nên thơm tho và tươi mát. Tuy nhiên, nhiều người khác lại không cảm thấy như tôi. Và câu chuyện sau đây chứng minh cho điều đó.

        Một buổi sáng kia, nhóm tù trong khu kỷ luật chúng tôi cũng được ra tập họp chung với tất cả những người khác dưới sân trại để cán bộ kiểm tra lại hồ sơ của từng người. Lâu ngày mới được ra sân và rất mừng khi gặp lại anh em. Tôi liền chạy tới ngồi bên cha Cao Đức Thuận mà tôi gọi là “Bố Thuận”, lúc bấy giờ ở khu kiên giam. Cha Thuận rất thương tôi và chúng tôi đã từng sống và ăn uống sinh hoạt chung ở trại Cổng Trời. Lâu lắm không được gặp nhau, nên khi thấy cha Thuận, tôi mừng quá. Vả lại hôm đó lại được tiếp xúc tự do, nên tôi chạy ùa ngay tới bên cha Thuận đang ngồi chung với các Linh mục khác.

        Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là thái độ của cha Thuận sao tỏ ra quá lạnh nhạt với tôi lúc đó. Tôi thực sự không hiểu sao con người nhân hậu đó lại mau thay tâm đổi tính như vậy. Hay cuộc sống khổ đau trong ngục tù đã biến “Bố Thuận” thành con người khác rồi chăng? Lúc đầu tôi ngỡ là cha sợ cán bộ vì tiếp xúc với tù kỷ luật, nhưng khi nhìn lại, tôi thấy cán bộ cho tiếp xúc tự do. Thái độ cha Thuận làm tôi buồn nhưng không hiểu lý do.

        Mãi về sau này, sau khi được tha ra khỏi nhà kỷ luật về sống chung với anh em Linh mục khác, tôi mới biết lý do. Vừa gặp lại tôi, ngài nói ngay:“Chú còn nhớ hôm ra sân kiểm tra hồ sơ không? Thấy chú tôi mừng và thương quá sức. Không ngờ con người chú quá tàn tạ và ra nông nỗi đó. Nhưng khi chú tới ngồi cạnh bên làm tôi buồn nôn quá. Tôi suýt ói tại chỗ. Tôi không thể chịu nổi nên phải quay mặt đi, nhưng càng quay đi chú lại càng sấn tới. Lúc đó tôi không tiện nói, sợ chú buồn. Trời ơi! Người chú lúc đó thối tha và tanh tưởi như một đống phân, không tưởng tượng được!”


        Ăn để sống

        Người ngoài nhận xét về tôi như vậy, nhưng cuộc sống trong buồng kỷ luật hằng ngày, thực tình chúng tôi không cảm thấy gì là khó chịu, là dơ bẩn cả. Việc ăn uống và tiêu tiểu cùng một chỗ trong nhiều năm liên tiếp khiến tôi không còn coi đó là vấn đề. Trong buồng không có mấy hôm là không bị be bét phân người. Nhiều hôm, các ống bẩu không chứa hết và giờ mở cửa cho ăn khá muộn nên làm phân trong ống bẩu sình lên và tràn cả ra ngoài lối đi. Thậm chí có nhiều lúc, sau khi bưng các ống bẩu trong buồng đem đổ vào hố phân xong, anh trực sinh trở lại chia thức ăn cho buồng. Chia xong anh bưng tô canh vào để trên trành cửa sổ. Nhìn tô canh thấy phân người nổi lều bều trên mặt, chúng tôi chỉ việc dùng muỗng hớt ra vất đi và chia nhau húp! Thức ăn trong nhà kỷ luật chỉ có thế, chúng tôi phải ăn để sống còn.

        Tù nhân trong kỷ luật bị phạt đủ mọi mặt, nhưng nặng nhất vẫn là phạt cái dạ dày. Khi đói người ta thèm nhất là chất ngọt và chất béo. Chất béo còn đỡ, nhưng thèm đường thì thèm một cách kinh khủng, thèm điên dại, thèm ngày thèm đêm, thèm cả trong giấc mơ, thèm cả trong trí nhớ và tự trách mình sao lúc thừa thãi đường thì lại không ăn. Có lúc tôi tự trách mình, tại sao lúc các cửa hàng, các chợ bán đầy đường, đường trắng, đường vàng, đường đỏ, đường cục, đường tán và đủ loại đường mà mình quá dại dột, không mua vài ba ký lô, hoặc 5 ký, 10 ký, 20 ký để ăn một lần cho đã!!!

        Nhắc tới “đường” tôi nhớ lại một chuyện rất đau lòng. Sau khi bị đánh bầm giập vì vượt ngục trước đó vài tháng, tôi bị cùm chung với một số bạn tù trong buồng kỷ luật. Một ngày kia, một anh bạn tù được người nhà từ Sài Gòn ra thăm nuôi. Dĩ nhiên là người nhà đâu có hay anh đang bị cùm kỷ luật. Lần đó vì đang bị cùm nên anh bạn không được ra nhà khách gặp thân nhân, nhưng được nhận hơn chục ký thức ăn. Khi đưa thức ăn vào, cán bộ trực trại chỉ cho mang một ít thức ăn vào buồng, còn lại phải để trong phòng xép bên ngoài.  Cán bộ cho anh mang vào một ít thức ăn tươi và một gói chừng hơn ký lô đường móng trâu.  Lúc đó tất cả đều đang đói và thèm thuồng đủ thứ.

        Trong hoàn cảnh “lá rách đùm lá nát”, anh đã chia sẻ cho anh em trong buồng mỗi người một ít thức ăn tươi và một thỏi đường khá lớn. Không gì hạnh phúc hơn trong lúc này. Trống ngực tôi đánh như “trống chầu” khi đưa tay nhận phần chia sẻ của người anh em bạn tù. Lòng tôi lâng lâng niềm xúc động. Miệng lắp bắp lời cám ơn như em bé nhận được món quà quí mà em hằng ao ước. Tôi trịnh trọng đặt miếng đường xuống như nâng niu viên ngọc quí! Cứ sợ rơi, hoặc giả tự dưng nó biến mất thì chắc là tôi cũng “biến” theo.

        Nhìn miếng đường mà tôi cứ mãi thầm cám ơn anh bạn vì lòng tốt bao la đã chia sẻ cho tôi. Tôi nâng niu và mân mê nó cứ như là chưa bao giờ thấy hoặc sờ tới miếng đường. Tạ ơn Trời và cám ơn lòng tốt của người anh em bạn tù, tôi từ từ đưa thỏi đường lên miệng, cắn từng miếng một như đưa dần cả hồn sống và sức sống vào người tôi. Cứ thế, tôi thưởng thức thỏi đường cho đến khi nó bao trùm thân thể tôi trong đê mê và hạnh phúc! Tôi mút mấy ngón tay đã từng nâng niu thỏi đường như không muốn một chút hương vị ngọt nào bị lãng phí bay vào không gian vô tận. Sau giây phút đê mê, tôi thấy nhớ da diết thỏi đường mà tôi đã đánh mất vào thân thể tôi. Tôi nhớ và thèm nó như điên dại!

        Thật vô cùng quý cho mỗi người chúng tôi khi nhận được được những gì anh bạn chia sẻ. Nhưng như tôi đã nói, trong cơn đói tột cùng đó tôi nghĩ có thể ăn một lúc chừng 5 ký lô đường mới đã cơn thèm! Nghĩ thương cho anh bạn, chắc chắn anh cũng thèm đường như tôi. Dĩ nhiên anh phải giữ lại cho riêng mình một phần quà mà gia đình mang ra. Vì tế nhị nên anh không ngồi ăn trước mặt mấy bạn tù còn lại. Đợi đến đêm anh mới âm thầm mở gói và nhẹ nhàng thưởng thức sự hạnh phúc như thiên đàng mà chất ngọt của đường mang lại.

        Khổ nỗi, tôi nằm bên cạnh anh, mỗi lần nghe anh cắn miếng đường là ruột gan tôi lại quặn đau vì thèm khát. Tôi muốn phát điên vì thèm! Khi nghe tiếng anh nhai, tự nhiên cơ thể tôi run bần bật như người lên cơn sốt rét vì thèm đường. Tôi run mà không cách gì kềm lại được. Tôi cố nằm dịch ra, không chạm vào người sợ anh biết là tôi đang run. Bản năng sinh tồn thúc giục tôi mãnh liệt là phải mở miệng xin anh một chút đường để ăn cho đã cơn thèm, nhưng đồng thời lý trí tôi cũng còn đủ nghị lực phản kháng bản năng sinh tồn. Trong khi cơ thể đang run bần bật đó, tôi đã dùng hai ngón tay đút thật sâu vào hai lỗ tai để cố không nghe tiếng nhai sát bên tai.

        Lúc đó tôi để tâm trí về dĩ vãng và nhớ lại thời trước lúc tôi còn làm việc ở Vĩnh Long. Một lần có dịp về Quận Chợ Lách chơi và ghé vào thăm gia đình cha Oai là bạn tôi. Cha Oai có người anh làm chủ lò đường mía, lúc ra về anh biếu tôi 10 ký đường hột xoài làm quà.  Mang 10 ký đường về tôi cũng chẳng biết làm gì với nó, mà để trong buồng thì đàn kiến lại tấn công. Tôi bèn gọi người quen nhận giùm và khi cô cháu mang bao đường ra khỏi phòng tôi cám ơn rối rít. Lúc nằm nhớ lại tôi tự nghĩ:“Việc cho đi bao đường đó là hành động dại dột nhất mình đã làm trong đời!”

        Mấy ngày sau anh bạn tù tốt bụng vẫn chia sẻ thức ăn cho chúng tôi, nhưng rồi lại có chuyện xảy ra. Một hôm, sau khi chia thức ăn ban chiều xong và cùm chúng tôi lại, hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát mở cửa buồng xép và ăn cắp thức ăn của anh bạn tù, cho vào xoong đậy nắp lại và mang ra ngay trước những con mắt chết đói của chúng tôi. Có lần anh bạn tù tức quá chịu không nổi, đứng trong buồng nhìn hai tên trật tự ăn cắp thức ăn của mình mang ra, anh định la lên “Quân ăn cắp!”, nhưng tôi ngăn lại vì biết hậu quả sẽ không lường được với hai tên hung thần này (hiểu theo nghĩa thật chính xác) trong nhà tù Thanh Cẩm lúc đó.

        Trong khi tù đang chết đói thì thức ăn của anh bạn tù tốt bụng của chúng tôi lại bị để trong buồng xép! Mỗi ngày khi cho ăn, anh bạn tù đã phải van xin năn nỉ cán bộ mới cho nhỏ giọt một ít mang vào buồng. Mấy ngày sau đánh mùi được thức ăn, bầy chuột đói trong trại tù chui vào tấn công ăn gần hết những gì hai tay trật tự Thi - Phát còn để sót lại và đái ỉa be bét vào. Những ngày tiếp theo, lần nào gặp cán bộ anh bạn tù cũng năn nỉ “xin quà” như một điệu nhạc buồn kéo dài.

        Cho tới một hôm Bùi Đình Thi thi chấm dứt bi kịch này bằng câu nói ngắn gọn:“Quà anh chuột ăn hết rồi!” Tôi nhớ mãi vẻ mặt đau thương của anh bạn tù khi nghe câu nói đó. Mà ai lại không cảm thấy đau khổ và xót xa khi bị kẻ khác ăn cướp một phần sự sống của mình? Trật tự Bùi Đình Thi nói đúng, quà của anh bạn đã bị chuột ăn hết rồi, cả chuột bốn chân lẫn “chuột hai chân”. Loại “chuột hai chân” ăn mạnh hơn nhưng nhân đạo hơn vì ăn mà không đái vào chỗ còn lại, còn loại bốn chân thì “mất dạy” hơn, vừa ăn lại vừa đái vào!

        Anh bạn tù là người đầu tiên được gia đình thăm nuôi trong nhà kỷ luật mới này, và sáng kiến giữ quà lại trong buồng xép của cán bộ sĩ quan công-an người Mường là trung úy Bộ, vô tình trở thành một tiền lệ. Một tiền lệ rất tai hại! Về sau này tất cả những ai có gia đình thăm nuôi hoặc nhận quà gửi theo đường bưu điện cũng phải chịu hệ thống này. Đám chuột đủ loại hoạt động mạnh hơn, trở nên mập béo hơn! Đám tù kỷ luật chúng tôi lại chịu thêm một cực hình mới của cái cảnh “Cám treo để heo nhịn đói!”

        Người nhà chúng tôi từ miền Nam cách xa hàng ngàn cây số lặn lội ra tới đây thăm nuôi và quà cáp gởi ra tới trại cho chúng tôi thì bị chặn lại để xó cho “lũ chuột” hoành hành, trong lúc chúng tôi đang chết đói. Từ đó, những cái gật đầu của cán bộ sau khi anh tù khổ chủ khép nép xin được ăn một tí quà của chính mình được coi là một ân huệ!

        Vì đói triền miên nên tất cả những người ở kỷ luật lâu ngày như tôi chỉ còn lại có da bọc xương. Tôi vẫn còn nhớ được vài chi tiết về hình hài của mình lúc đó và có thể dùng than vẽ lại con người có đầu gối to bằng rưỡi bắp đùi, bao nhiêu xương sườn lòi ra hết và bụng lép như bụng nhái.

        Lúc xỏ chân vào cùm xong, tôi thường ngồi nắm cổ chân nằm gọn giữa vòng tròn ngón tay cái và ngón tay giữa, xoay đi xoay lại như đang nắm cái ống bơm xe đạp. Khi nằm ngửa trên chiếu, tôi phải dùng hai mu bàn tay lót dưới mông vì hai mảnh xương dẹp sau mông lòi ra, bén như một lưỡi dao mài sát thẳng xuống chiếu đau không chịu được. Tìm đâu ra cái gì để lót bên dưới, trong khi áo quần còn không có để mặc!


        Cái lưỡi mèo

        Thức ăn thì mùa nào thức ấy. Thông thường nhất là ngô, khoai và sắn, cơm trắng rất hiếm. Có khi còn cho ăn cả bã đậu nữa. Những hôm như vậy, chúng tôi đành phải nhịn đói vì không làm cách gì có thể tống món đó vào dạ dày cho được, mặc dù đang đói mềm người. Có một dạo trại cho kỷ luật ăn bột luộc mà chúng tôi gọi là “lưỡi mèo”, vì những miếng bột luộc này trông thật giống cái lưỡi mèo. Trong kỷ luật tuy khổ nhưng thỉnh thoảng có cái vui của nó như chuyện lần đầu chúng tôi được cho ăn bột luộc.

        Chiều hôm đó tới giờ cho ăn, anh trực sinh mang vào buồng tôi, lúc đó là 5 người, đặt lên thành cửa sổ cái nồi nhôm khá to hằng ngày vẫn dùng để đựng sắn, khoai. Khi nhìn vào, chúng tôi chỉ thấy miếng bột luộc màu xám, to đúng bằng bao thuốc lá! Chúng tôi nhìn nhau lắc đầu hỏi:“Thế này là thế nào?” Và chúng tôi nghĩ là nhà bếp chia lộn phần ăn của một người cho buồng 5 người chúng tôi. Nghĩ thế chúng tôi không chia ra và ngồi chờ lúc điểm danh sẽ khiếu nại với cán bộ. Mấy tiếng đồng hồ sau đánh kẻng và cán bộ lên. Khi vừa tới buồng, tôi ngồi trong cùm nói vọng ra thật to:

          - Báo cáo cán bộ, tôi có thắc mắc!

           Anh cán bộ ngạc nhiên, tới bên ngoài cửa sổ hỏi vọng vào, giọng sắc như dao cạo:

          - Gì thế?

          - Báo cáo cán bộ, buồng này bị chia nhầm thức ăn.

           Anh cán bộ tỏ vẻ ngạc nhiên:

          - Sao lại có thế. Nhầm thế nào?

           Tôi nói giọng quyết liệt hơn:

          - Báo cáo cán bộ, buồng này năm người mà chỉ cho một phần ăn. Chúng tôi còn để đây chờ cán bộ giải quyết!

          - Đâu, đưa tôi xem nào!

        Tôi lẹ làng bước chân phải xuống sàn, chồm gần tới cửa sổ trong khi chân trái đang dính trong cùm giơ thẳng về phía sau như tư thế của người đang tập “Tai-Chi”. Tay tôi bưng cái bát sắt thủng đáy mà tôi đã vá lại bằng vỏ nhôm của cây kem đánh răng và cái “bao thuốc lá” nằm gọn giữa lòng bát. Khi vừa nhìn thấy miếng bột luộc, anh cán bộ nói ngay:

          - Các anh này buồn cười! Đây là tiêu chuẩn cho 5 người! Nhầm thế ‘lào’ được?

          Tôi ấp úng, trong lúc đưa một tay lên gãi đầu:

        -  Báo cáo cán bộ, nhưng...

        - Nhưng cái gì? Cũng bằng ấy tiêu chuẩn bột, nhưng khi ‘‘lướng’’ thì to ra, còn khi ‘‘nuộc’’ thì bé. Anh hiểu chưa?

        Thấy tôi đứng lặng yên có vẻ chưa hiểu ra vấn đề, anh cán bộ vội kết thúc ngay cuộc đối thoại bằng câu nói tạo hiệu quả rất nhanh. Vừa nói anh vừa với tay cầm cái bát có “bao thuốc lá” nằm gọn lỏn bên trong và phán:

          -Thế các anh có ăn không thì bảo?

           Tôi sợ anh ta bực mình lấy “bao thuốc lá” đi thì khốn. Thà có ít còn hơn không, nên đáp vội, vừa nói vừa rụt bát vào:

          - Báo cáo cán bộ có, có, có! Chúng tôi ăn!

        Người cán bộ mỉm cười bỏ đi. Tôi đoán không phải anh cười vì chúng tôi hiểu lầm phần ăn của một hay năm người, nhưng có lẽ cười vì thái độ của tôi trong câu nói sau cùng.


        Những thường trú nhân

        Khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm có thể coi như một cơ sở cư trú. Ngoài tôi ra như một quản gia, còn lại ba hạng người khác làm thành nét sinh hoạt độc đáo của cơ sở này. Ba hạng người đó là những thường trú nhân, những khách kiều cư là những người tù Trung Quốc và cuối cùng là khách vãng lai. Thường trú nhân là những người ở đây dài hạn. Có những người đến đây ngay từ ngày đầu với tôi, có người mới dọn tới sau nhưng còn lưu lại sau khi một số có mặt ngay từ lúc đầu đã dọn ra.

        Có mặt ngay từ buổi đầu với tôi gồm có những người dính líu trong vụ vượt ngục ngày 2 tháng 5 năm 1979 như các anh Nguyễn Sỹ Thuyên, Trịnh Tiếu và Linh mục Nguyễn Công Định. Trong ba người này thì anh Trịnh Tiếu ở lâu nhất, có lẽ trên dưới hai năm. Ngoài ra có Linh mục Phạm Quý Hòa dọn tới sau nhưng cũng ở đây thời gian rất lâu, vì tội “bóp dái ngựa”.  Ngoài những người tù Trung Quốc mà tôi sẽ đề cập tới, thì có lẽ bốn người này sống trên kỷ luật lâu nhất, từ một tới hai năm.

        Về phía các Linh mục, ngoài cha Hòa và cha Định, tôi còn nhớ năm Linh mục khác thuộc diện khách vãng lai là các cha Trần Văn Nghị, Nguyễn Công Thành, Phạm Hữu Nam, Đinh Cao Thuấn và Mai Quang Bao, Riêng trường hợp Linh mục Phạm Chí Hùng vì bị cưa chân nên gởi tạm và ở một mình trong phòng 6 khu kỷ luật một thời gian khá lâu. Có chuyện lạ, Linh mục Phạm Hữu Nam lại được xách gói ra về trong thời gian đang bị kỷ luật. Điều này làm tôi nhớ mãi, và sự kiện này càng củng cố thêm câu nói:“Không ai hiểu được chuyện cách mạng làm”. Một Linh mục đang bị ở khu kỷ luật mà lại được xách gói ra về! Đúng là chuyện lạ khó tin nhưng có thật!

        Trước đó không lâu có trường hợp bất ngờ của anh Nguyễn Đức Cảnh, trước kia là một phó Quận trưởng, dọn lên kỷ luật trong một đêm tối vào buồng tôi. Những ngày tiếp theo anh buồn rầu và tỏ ra thất vọng một cách rõ rệt, khác với thái độ chịu dựng của đa số người bị đi cùm. Tôi hỏi lý do, anh cho biết là dưới làng, anh thuộc diện cải tạo rất tốt, không hề bỏ một ngày lao động, không hề phát biểu linh tinh, chưa bao giờ vi phạm nội quy và các điều khoản “nếp sống văn hóa mới!” Vì thành tích lẫy lừng như vậy nên anh tự nghĩ rằng trong đội anh nếu người được tha về phải là Nguyễn Đức Cảnh, không thể rơi vào ai khác.

        Vào thời đó, ngoài những dịp thông thường có đợt tha như Tết Tây, Tết Ta, lễ Quốc Khánh, lễ Lao Động v.v... còn có những trường hợp “đột xuất” được gọi tên ra về, và điều này càng kích thích nhiều người nuôi hy vọng.

        Chiều tối hôm đó, trật tự Bùi Đình Thi vào buồng gọi:“Anh Nguyễn Đức Cảnh, mang tất cả nội vụ ra! Cảnh ta nghe gọi tên mình, tưởng là được gọi ra về sướng như lên mây xanh, mặt mày tái mét. Các anh em trong buồng bu quanh bắt tay chúc mừng. Cảnh tay chân run rẩy vì niềm vui bất ngờ quá lớn, vội vàng phân phát tất cả thức ăn và đồ đạc cho các bạn trong buồng. Anh còn thức ăn khá nhiều vì cô chị vợ mới ra thăm nuôi mấy ngày qua, vợ anh đã vượt biên và đang ở Mỹ gửi tiền về khá rộng rãi cho cô chị giúp thăm nuôi Cảnh.

        Anh vẫy tay chào anh em và bước ra khỏi buồng, chỉ có mấy bộ quần áo trong cái túi xách nhẹ tưng. Khi ra tới ngoài, trật tự Bùi Đình Thi đưa Cảnh thẳng lên kỷ luật, mở cửa tống vào buồng 3 của tôi. Cảnh vào buồng kỷ luật mang tâm trạng của con người vừa trên mây rớt xống. Vừa thất vọng, vừa bị cùm chân, vừa sử dụng cầu tiêu ống bẩu, lại vừa không thể nào nuốt được mấy củ sắn luộc chấm nước muối trong khu kỷ luật, trong khi tất cả thức ăn bổ béo từ Miền Nam đưa ra, Cảnh đã phân phát hết rồi. Cái lon Guigoz là báu vật để đựng nước uống trong nhà kỷ luật anh cũng không có, anh còn nói là vừa cho đi gần hai chục cái lon Guigoz.

        Mấy ngày sau Cảnh như người mất hồn. Tới giờ cán bộ lên cho ăn, anh hỏi cán bộ anh bị tội gì mà lên đây, cán bộ trả lời:“ Anh này buồn cười! Tội của anh mà anh không biết thì làm sao người khác biết? Anh đừng có giả vờ! Cảnh ta điên đầu vì câu trả lời kiểu huề tiền đó! Một hôm anh hỏi trật tự Bùi Đình Thi. Anh hỏi mãi mới được Bùi Đình Thi chiếu cố và trả lời như sau: “Anh thì cải tạo tốt nhưng anh lại quan hệ với người cải tạo không tốt”!

        Lúc bấy giờ Cảnh mới vỡ lẽ ra. Mấy ngày trước trong buồng có một người tù nằm kế bên anh, ăn nói linh tinh đụng chạm tới chính sách. Cảnh ngồi dựa lưng vào tường nghe mà không chịu đi báo cáo. Có người khác lại báo cáo việc này với trật tự. Thế là Cảnh bị vác chiếu đi cùm. Nếu tôi nhớ không lầm thì phải hơn một tháng Cảnh mới được xuống làng để bắt đầu chu kỳ “cải tạo tốt” khác. Tôi còn nhớ mãi lúc Cảnh buồn quá, luôn miệng hát đi hát lại bản nhạc có mấy câu sau đây:‘‘Ngày một ngày hai tiễn biệt nhau. Chẳng được cùng nhau chung lối sầu. Nhớ chuyện thế gian cười ngặt nghẽo. Cùng buồn những chuyện thế gian đau!’’
        Anh Cảnh là một tín đồ Công giáo ngoan đạo, và tôi rất quý mến anh trong thời gian sống chung trong khu kỷ luật.


        Những khách kiều cư

        Sự có mặt của 15 người tù Trung Quốc trong khu kỷ luật suốt thời gian tôi ở đó cũng tạo cho cuộc sống có vẻ riêng biệt. Khi tôi ở kỷ luật được 3 tháng thì toán tù Trung Quốc từ khu K2 chuyển vào đây. Trông họ rất bệ rạc, rách rưới, lang thang lếch thếch, tay xách nách mang. Nhìn vào biết ngay là “ba tàu”! Trong nhóm có vài anh rất cao và to. Có nhiều người gầy còm và vài anh nhỏ thó, tạo thành một nhóm người đầu thừa đuôi thẹo. Tới nơi, họ được phân chia ra các buồng kỷ luật và sống lẫn lộn với những người tù Việt Nam, cả chính trị lẫn hình sự. Hỏi ra tôi mới biết những anh tù Trung Quốc này có người đã bị giam hàng chục năm rồi và đã trải qua nhiều trại khác trước khi được chuyển về đây. Tất cả đều mang chung tội danh là “Gián điệp Trung Quốc”.

        Sống chung một thời gian, tôi biết có mấy anh qua biên giới để buôn bán thuốc men, đồng hồ, vải vóc mà bị bắt. Cũng có vài anh vì hoàn cảnh chính trị phải chạy thoát thân qua biên giới tìm cách trà trộn vào với đồng bào thiểu số, thay danh đổi họ để tìm cách sinh sống. Có người tìm đường vượt biên qua Miến Điện. Có anh là Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông trước kia, nay bị trả thù phải chạy trốn.

        Đa số họ nói tiếng Phổ Thông. Một vài anh nói cả tiếng Quảng. Có mấy người biết chút ít tiếng Việt học được trong các trại tù ở Việt Nam. Nói chung, họ rất tạp nham về nhiều mặt. Vài anh thật hiền hậu dễ thương, nhưng cũng có mấy người gốc là tướng cướp đã từng cướp của giết người và sống ngoài vòng pháp luật trước khi bị bắt. Họ mang theo bản chất lưu manh, bạo tàn hung ác vào đây để đóng góp thêm cho cái đáy địa ngục trần gian này. Sự đói khổ triền miên và bị cùm trong những lò hấp người có tường rào bao bọc này đã làm vài người trong bọn họ phát triển tột cùng bản chất dã man mà trước kia chưa có dịp mang ra thực hành. Nhất là khi vào tù, có dịp sống chung một buồng và có thể cấu kết nhau để tạo sức mạnh, họ trở thành những con người thật đáng sợ.

        Những người tù xa tổ quốc này chỉ có một ý định duy nhất trong đầu là làm thế nào để được sống còn. Họ làm hết cách để khỏi chết đói trong những nhà tù Việt Nam có quá nhiều tù nhân chết vì đói này. Để có được miếng ăn, họ sẵn sàng trở thành những tên nô lệ, nịnh bợ, đầy tớ cho những người tù có thể bố thí cho họ một chút gì để ăn hoặc vật gì để dùng làm phương tiện kiếm ăn. Ngược lại, họ cũng sẵn sàng dùng sức lực để áp đảo, đánh cướp, giết người hoặc bất cứ một hành động bạo tàn nào khác để được có miếng ăn. Lúc bơ vơ và thất thế, họ tự biến thành những con chó con, nhưng khi có vây cánh, họ sẽ biến ngay thành một bầy hổ đói.

        Trong bọn họ có những tay thật dữ dội, nhưng có những anh rất hiền tư,ø ốm yếu mà mấy anh đầu gấu kia gọi là “kho dự trữ”. Ý muốn nói nếu họ không còn kiếm chác được thức ăn nơi nào khác thì quay về với “kho dự trữ “ trong buồng này, bằng cách trấn lột phần ăn trại phát cho đám tù ốm yếu. Khi nào bọn đàn anh còn cào cấu được nơi khác thì tạm thời nhóm tù Trung Quốc trong “kho dự trữ” này còn được ăn trọn phần ăn chết đói của trại phát mỗi ngày.

        Trong khi đó, về phía những người tù Việt Nam nói chung và những tù chính trị miền Nam chúng tôi nói riêng, mặc dù cũng đói khổ nhưng nếu sánh với những người tù Trung Quốc này, chúng tôi còn may mắn hơn nhiều. Tù hình sự miền Bắc được gia đình thăm nuôi tiếp tế. Họ chẳng có quà cáp gì nhiều. Hầu hết là một ít gạo, ít ruốc, vài cái bánh chưng, một ít hoa quả , chè Tàu và vài bánh thuốc lào. Quanh đi quẩn lại chỉ có chừng ấy, vì đồng bào miền Bắc rất nghèo. Của ăn ở nhà còn không có lấy đâu tiếp tế nhiều cho chồng con trong tù.

        Chúng tôi, những người tù miền Nam thì xa xôi hơn, nhưng về điều kiện kinh tế thì khá hơn bà con miền Bắc. Những năm đầu, mặc dù chúng tôi chưa được gặp gia đình nhưng thỉnh thoảng có nhận được quà gởi ra theo đường bưu điện, trong đó có thực phẩm và thuốc men. Tuy số lần nhận quà rất hạn chế, mỗi 3 tháng được nhận gói quà không quá 5 ký lô, nhưng chừng ấy cũng giúp rất nhiều cho những người tù duy trì được sự sống. Nếu có những người gia đình khá giả thì nhận quà đều đặn và có chất lượng. Ngược lại, có nhiều người không có thân nhân hoặc gia đình khánh kiệt nên chẳng có quà cáp gì. Thỉnh thoảng lâu ngày được một gói nhỏ có ít thức ăn.

        Hoàn cảnh bắt đầu khá hơn khi có chính sách cho người nhà miền Nam được phép ra Bắc thăm nuôi tù trại Thanh Cẩm. Chính sách này bắt đầu từ năm 1979, tức là 4 năm sau khi đợt tù miền Nam bị đưa ra Bắc. Đối với các trại khác tôi không biết rõ. Có thể chính sách thăm nuôi xảy ra sớm hơn. Điều này cũng được coi như là chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước, nhưng cũng có thể được xem như một chính sách lợi dụng, vì lúc đó cả nước đói khổ, chính phủ không còn đủ sức nuôi tù và đã có quá nhiều tù nhân miền Nam chết đói trong các trại tù miền Bắc.

        Khi có những đợt thăm nuôi thì đồng tiền và của cải bắt đầu vào trại. Do đó, vị thế giai tầng xã hội trong tù lại được phân định rõ ràng. Những người có của sống cao hơn, những người không có gì phải chịu lép vế. Nếu những năm trước tất cả những người tù miền Nam bình đẳng nhau trong cảnh chết đói, thì nay của cải đã nâng nhiều người lên bậc ông chủ. Đồng thời nó cũng giáng cấp nhiều người xuống thành “lái xe”. Lái xe là tiếng dùng để chỉ những anh tù nghèo không có thăm nuôi tiếp tế phải phục vụ cho những anh tù có của khác trong nhóm sinh hoạt chung. Trong tình thế đó, nhóm “lái xe” rành nghề nhất là các anh tù Trung Quốc.


        Học tiếng Phổ Thông

        Đầu năm 1980, tôi sống chung buồng kỷ luật với hai anh Trung Quốc và một người bạn tù miền Nam là anh Lê Thiên Bảo. Nhờ có Bảo nên trong buồng tôi có thế quân bình và tôi không bị hai anh tù Trung Quốc áp đảo. Bảo là một Hoa kiều ở Chợ lớn, bằng tuổi với tôi. Trước kia anh là võ sư huấn luyện viên Thái Cực Đạo của Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia. Anh đã cùng đi với tôi trên tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung trong trại Nam Hà, cùng bị đày đi Cổng Trời rồi cùng về trại Thanh Cẩm này với tôi trong nhóm “48 Quyết Tiến”.

        Lúc vào tù anh có dịp được sống gần với các Linh mục và nhận thấy đời sống bác ái tốt đẹp của những con người tù đặc biệt này nên anh muốn tìm hiểu về Đạo Chúa. Lúc anh em sống chung trong kỷ luật, tôi đã giúp anh về Giáo lý Công giáo và sau này anh đã xin chịu phép Rửa tội. Với bản chất nhân hậu và tính nết hiền hòa của một võ sư, anh rất được nhiều người quý mến và nể phục.

        Anh Lê Thiên Bảo đồng thời cũng là người giỏi về ngôn ngữ. Anh nói cả tiếng Việt, biết chữ Nho lẫn tiếng Phổ Thông và Quảng Đông. Ngày ngày, trong buồng Bảo nói tiếng Việt với tôi và tiếng Phổ Thông với 2 anh Trung Quốc. Ba người họ nói tiếng Phổ Thông với nhau nhanh như gió. Giọng líu lo như tiếng chim hót và nghe tiếng nào tiếng nấy đều giống y như nhau. Lúc đó, tôi chưa biết một tiếng Tàu nào cả. Khi nằm nghe họ nói chuyện, tôi thầm nghĩ trong lòng:“Trời! Bộ óc của con người là cái gì mà người ta có thể hiểu được thứ ngôn ngữ quái đản này”.

        Một trong hai người Trung Quốc là anh Lý Đức Nghĩa, gốc người Hồ Nam, nguyên là một Vệ binh đỏ của Mao Trạch Đông. Sau khi Vệ binh đỏ thất thế và bị ruồng bắt, anh ta phải bỏ nước chạy trốn qua Việt Nam sống bằng nghề lục lâm thảo khấu.

        Cũng nên biết là khi Mao Trạch Đông nắm quyền ở Trung Quốc, ông ta muốn thanh trừng các đồng chí cũ có thể tranh giành quyền lực với ông nên đã dùng sinh viên học sinh là Vệ binh đỏ và phát động phong trào cách mạng văn hóa để có lý do thanh trừng các cán bộ cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Nhiều đồng chí cũ của Mao đã phải chết vì tay Vệ binh đỏ. Sau này khi phong trào Vệ binh đỏ lên cao và lộng hành, Mao lại dùng quân đội tiêu diệt Vệ binh đỏ. Vì thế Lý Đức Nghĩa phải trốn chạy thoát thân qua Việt Nam.

        Anh ta sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng và tỏ thái độ khinh bỉ Cộng sản Việt Nam ra mặt. Anh ta nói Cộng sản Việt Nam là tớ phản thầy. Trước kia đội Trung Quốc lên đầu, sau này chửi lại Trung Quốc. Nghĩa bị bắt vào tù hàng chục năm nay với tội danh “gián điệp Trung Quốc”. Mặc dù sống trong tù Việt Nam lâu năm nhưng anh ta không nói được một câu tiếng Việt nào. Tuy nhiên nghe thì anh hiểu.

        Anh chàng Lý Đức Nghĩa này người to cao và tính chất lưu manh hiện rõ ra tới ngoài da! Nhất là cặp mắt của anh ta. Anh có cặp mắt thật trong và hẹp như mắt sư tử. Mắt có đuôi dài và lúc nào cũng láo liên. Thỉnh thoảng liếc nhìn trộm. Có lúc tôi nghĩ, họa sĩ nào muốn tìm người mẫu để vẽ đôi mắt lưu manh nhất thì phải tìm tới anh chàng này. Lý Đức Nghĩa là một hiện tượng để lại trong tôi nhiều điều khó quên, vì anh ta có nhiều cái “nhất” trong nhóm tù Trung Quốc. Nói tiếng Phổ Thông đúng giọng nhất, vì quê hương anh rất gần Bắc kinh. Khéo tay nhất, chỉ cần vất cho anh một mảnh vải, chừng tiếng đồng hồ sau anh đưa lại một cuộn chỉ được xe bằng hai đầu ngón tay, đẹp không thua chỉ làm trong nhà máy. Ở dơ nhất, anh ta chưa bao giờ cầm cái bàn chải đánh răng, nên khi anh cười để lộ hàm răng trông giống như mảnh gỗ mục ngâm dưới nước lâu năm bị rong rêu và sò ốc bám tua tủa! Có lần tôi hỏi:

          - Nghĩa à, tao lấy làm lạ, tại sao mầy không đánh răng?

           Nó trả lời tôi:

          - Mao chù xí (Mao chủ tịch) có bao giờ đánh răng đâu mà cũng làm chủ tịch Trung Quốc vĩ đại, cai trị hàng tỷ dân!

           Thì ra anh chàng “Lỳ Tợ Dí” (Lý Đức Nghĩa) này sùng bái Mao Trạch Đông một cách điên cuồng, ngay cả sùng bái cái việc Mao suốt đời không bao giờ đánh răng! Và dĩ nhiên Lý Đức Nghĩa lưu manh nhất đám.

        Lợi dụng hoàn cảnh sống chung với mấy anh Trung Quốc đó, và qua sự khuyến khích của Lê Thiên Bảo, tôi quyết tâm học cho bằng được một ngôn ngữ mới, đó là tiếng Phổ Thông. Tôi bắt đầu học nói trước và học viết sau, vì lúc đó trong buồng không có bút giấy.

        Tôi chọn thời điểm dễ nhớ là vào sáng ngày 1 tháng Giêng năm 1980 và câu nói tiếng Quan Thoại đầu tiên là:“Chị tôi từ Sài Gòn ra thăm tôi”. Lý Đức Nghĩa giúp tôi luyện giọng và Lê Thiên Bảo giúp tôi dịch nghĩa tiếng Việt và chữ Nho. Bước đầu thật vất vả. Mỗi đêm, chân trong cùm, Lý Đức Nghĩa nằm kể chuyện về phong trào Vệ binh đỏ bên Trung Quốc, Lê Thiên Bảo dịch lại, còn tôi chú ý lắng nghe từng tiếng phát âm của Nghĩa. Thỉnh thoảng tôi kêu dừng lại để tôi tập phát âm cho đúng những tiếng tôi muốn học.

        Tôi muốn nhắc lại để nhớ ơn của Lý Đức Nghĩa và Lê Thiên Bảo. Nhờ hai người đó tôi học được một ngôn ngữ mới mà có hàng tỷ người trên thế giới sử dụng. Tôi quyết tâm học cho bằng được và cố gắng ngày đêm. Khi đã nói được chút ít, hàng đêm tôi dùng ngôn ngữ này kể các câu chuyện trong Kinh Thánh cho các anh tù Trung Quốc nghe và dặn chỗ nào tôi nói sai thì chặn lại để tôi sửa.

        Sau hai năm miệt mài và lúc nào cũng có dịp sống chung buồng với một anh Trung Quốc nào đó, nên ngay trong lúc còn ở khu kỷ luật tôi đã nói tiếng Quan Thoại lưu loát, cả tiếng lóng, thành ngữ và chửi thề nữa! Nhớ lại đoạn đường đã trải qua trong việc học ngôn ngữ này, tôi tưởng chừng như mình hạ một cây rừng xuống để đẽo gọt thành cây cột nhà. Tôi đã phải làm việc trong hai năm trời. Đầu tiên chặt các cành, lột vỏ cây, dùng rìu chém những chỗ nhô ra, dùng dao gọt lại, dùng bào làm cho láng và cuối cùng là đánh bóng cây cột thật tròn và thẳng.

        Lúc đầu tôi chỉ học nói, về sau học đọc và viết. Lúc chưa có phương tiện, tôi phải dùng than vẽ chữ xuống nền nhà để học. Về sau này tới đời trật tự dễ dãi hơn, tôi có thể xin được bút chì và khi đi tắm nhặt những bao xi măng ở đống rác trước cửa trại về vuốt ra cho thẳng làm vở. Những người Trung Quốc sống chung giúp tôi viết và đọc chữ Tàu. Có điều hơi thiệt thòi cho tôi là các anh Trung Quốc chỉ biết “chữ đơn giản”, tức là loại chữ cải cách mà chế độ Cộng sản Trung Quốc dùng. Trong khi “chữ cổ” thì khó và nhiều nét hơn, nhưng đa số sách báo trên thế giới đều dùng chữ cổ. Học nói được tiếng Phổ Thông tôi coi là một trong những sự đền bù xứng đáng cho những năm gian khổ mà tôi bị mất đi trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm.

        Số tù Trung Quốc lúc đầu khá đông nhưng về sau có nhiều người vượt ngục bị bắn chết, có một số chết bệnh hoặc chết đói. Năm 1980, chỉ còn lại khoảng 15 người sống vất vưởng trong kỷ luật và lệ thuộc vào sự giúp đỡ của anh em tù chính trị miền Nam. Khi sống chung buồng với chúng tôi, họ tỏ ra ngoan ngoãn, nhưng khi sống riêng họ với nhau, hoặc trong buồng nào họ có số đông để trở thành sức mạnh áp đảo, họ trở thành thú dữ. Lúc đó, sự dã man của họ ngoài sự tưởng tượng của mọi người.


        Bầy ác thú trong cơn đói

        Thời gian đó là vào cuối năm 1981. Anh trật tự lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Bảy, mà chúng tôi gọi là Bảy Chà vì nước da của anh ngăm đen. Một con người hiền hậu và nhân từ. Anh được chọn làm trật tự không phải vì thành tích bất hảo, hoặc vì cán bộ muốn anh trở thành quả đấm để trừng trị tù, nhưng có lẽ anh được chọn vì cái bộ dạng rất “ngầu” của anh. Người anh to cao, da ngăm đen, ai chưa biết anh, mới nhìn vào đã thấy nhợn. Anh cũng từ trại quân đội chuyển về đây. Trước khi làm trật tự, anh có nhiệm vụ gánh phân trong trại nên còn được mệnh danh là “Bảy Cứt!” Nếu mấy năm trước trật tự Bùi Đình Thi là một hung thần của khu kỷ luật thì lúc này trật tự Bảy Chà là cứu tinh của chúng tôi. Tôi phải nói lên điều này để bày tỏ lòng quý mến và biết ơn anh.

        Lúc đó, tôi đang ở buồng bốn phía sau của khu kỷ luật cùng với vài người Việt nam khác, thì trong buồng năm cách vách buồng tôi có ba anh Trung Quốc đó là Chu Vạn Hồi, Lý Đức Nghĩa và Lưu Tùng. Chu Vạn Hồi trước kia là tên cướp. Nghĩa gốc Vệ binh đỏ và sau này qua Việt Nam sống nghề lục lâm thảo khấu. Tùng lớn tuổi là người hiền từ, ốm yếu như cây sậy, anh đi buôn vùng biên giới bị bắt. Sống trong buồng, Tùng bị Hồi và Nghĩa trấn lột gần hết phần ăn nên càng ngày càng gầy yếu, đi đứng không vững nhưng không dám lên tiếng.

        Mặc dù tôi không sống trong buồng đó nhưng tôi còn lạ gì hai tên cướp Nghĩa và Hồi mà trong hai năm qua tôi đã sống chung buồng khá nhiều lần. Có một lần đi tắm chung dưới sông Mã, lợi dụng lúc vắng tôi hỏi Lưu Tùng có phải bị hai tên kia cướp cơm không? Tùng không dám trả lời nhưng, mắt trước mắt sau và xòe bàn tay phải ra cứa qua cứa lại dưới cổ. Tôi hiểu Lưu Tùng muốn nói gì qua dấu hiệu đó. Sau đó tôi nói lại chuyện này với anh trật tự Bảy Chà và anh hứa là sẽ báo cáo với cán bộ.

        Mấy ngày sau, cán bộ đưa vào buồng 5 của mấy anh Trung Quốc này một anh tù hình sự bị phạt lên kỷ luật. Những anh tù kỷ luật thuộc loại “vãng lai” này, khi bị đưa lên kỷ luật họ bị cùm cả ngày lẫn đêm, nhưng chỉ một thời gian ngắn là được xuống. Số khách vãng lai này cứ có lai rai, khi thì một anh, có lúc vài ba anh. Vì thế việc anh tù hình sự vác chiếu vào buồng 5 lúc chiều cũng chẳng có gì đáng chú ý. Quãng sau 10 giờ đêm hôm đó, khi đèn điện vừa tắt được một lúc và ai nấy bắt đầu ngủ, bất thần tôi nghe một tiếng “Bùm” rất to từ buồng 5 vọng ra, tiếp theo là tiếng la thất thanh và vang dội trong đêm vắng của anh tù hình sự: “Báo cáo cán bộ, báo cáo cán bộ! Chúng nó giết tôi, chúng nó giết tôi! Cứu tôi! Báo cáo cán bộ!”

        Tiếng la hét nghe thật rùng rợn trong cảnh hãi hùng của con người sắp bị giết chết làm tất cả tù nhân trong khu kỷ luật giật mình và nhốn nháo gọi chuyền qua các buồng hỏi nhau coi chuyện gì xảy ra. Anh ta cứ gân cổ lên mà la như vậy cho tới lúc sau có mấy cán bộ xách đèn bấm chạy lên. Tôi nghe tiếng quát tháo, tiếng mở cửa buồng, tiếng cán bộ đe dọa mấy anh Trung Quốc và sau đó cán bộ đưa anh tù hình sự ra khỏi buồng và khóa cửa lại, đi xuống.

        Đối với tù trên khu kỷ luật, việc đánh nhau, la lối và báo cáo cán bộ là chuyện thường xảy ra. Chính bản thân tôi trước đó không lâu cũng đã cùng với ông Lê Văn Khương, nguyên Quản đốc trại tù Côn Sơn, đã phải ra tay trừng trị Lý Đức Nghĩa vì anh ta cấu kết với một anh Hoa kiều khác trong buồng để cướp giật thức ăn của một người tù già là ông Hoàng A Giú. Nhưng cách anh tù hình sự kêu la thất thanh trong đêm đó làm tôi sinh nghi có chuyện gì rất nghiêm trọng, chứ không phải cuộc đánh nhau thông thường. Nhưng rồi câu chuyện đó cũng chìm vào quên lãng trong khu kỷ luật không mấy ngày là không có chuyện xảy ra này. Lúc đó tôi đâu có ngờ là trong buồng 5 đêm đó xảy ra một sự việc thật khiếp đảm, ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Sự việc này lại có liên quan tới tính mệnh của tôi, mà mãi về sau này tôi mới biết được.

        Tuần sau, lại có cuộc đổi buồng trên khu kỷ luật. Lần này cán bộ trực trại tên Thanh bảo tôi vào buồng 5 với ba anh Trung Quốc đó. Tôi nói với cán bộ Thanh là tôi và Lý Đức Nghĩa mới đánh nhau hôm Tết như cán bộ đã biết. Nếu tôi vào buồng đó chắc chắn sẽ có chuyện đáng tiếc xảy ra, và tôi xin cho tôi vào bất cứ buồng nào trong khu kỷ luật, trừ ra buồng với Lý Đức Nghĩa. Nghe tôi trình bày, cán bộ Thanh suy nghĩ một lúc rồi đưa tôi vào buồng 2 phía trước.


        Những khách vãng lai

        Trong ba năm giữ vai trò quản gia trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, tôi đã tiếp đón và tiễn chân rất nhiều người, tù chính trị cũng như hình sự và cả những người tù Trung Quốc như tôi đã nói.

        Chúng tôi thường xuyên bị xáo trộn quanh đi quẩn lại trong sáu buồng nên tôi có dịp sống chung với nhiều người. Và nhờ đó tôi cũng theo dõi được tin tức sinh hoạt dưới làng. Tôi cũng nhắn qua các anh em vãng lai khi xuống làng hỏi thăm anh em bạn bè. Thỉnh thoảng những khách vãng lai cũng có mang lên cho các người trên kỷ luật ít thức ăn, vài quả ớt hoặc ít thuốc lào, nhưng điều chúng tôi cần nhất là áo quần và chăn chiếu.

        Trong thời gian Bùi Đình Thi còn làm trật tự thì việc cho quần áo bị cấm hẳn. Mặc dù cán bộ không bao giờ để ý chuyện này, nhưng nếu Bùi Đình Thi xét thấy là sẽ no đòn với anh ta. Vì thế, mặc dù lúc đó tôi sống trần truồng, nhưng các khách vãng lai khi xuống làng cũng không hề dám để lại thứ gì cho tôi. Khi Bùi Đình Thi mất chức trật tự rồi, cuộc sống tôi khá hơn, nhất là được áo quần chăn chiếu các anh em để lại. Từ khi anh Nguyễn Văn Bảy làm trật tự, tôi thấy cuộc sống trên kỷ luật có được hai chữ “thoải mái”. Rất tiếc là anh được làm quá muộn. Sau khi Bùi Đình Thi mất chức, tới anh Nguyễn Tấn Đạt. Khi Đạt về, tới anh Danh. Anh Danh lên chưa kịp làm việc đã được về, rồi mới tới Bảy Chà thay thế.

        Lúc anh Bảy Chà làm trật tự, tôi đã ở kỷ luật hơn hai năm rồi. Khách vãng lai có người phải ở khá lâu, nhưng cũng có người chỉ vài hôm là được xuống đội. Khu kỷ luật như tôi đã nói có “đủ chỗ” cho 24 người bị cùm, nhưng có lúc đắt khách sẽ có những người không phải cùm, nhưng nằm giữa phi đạo. Trái lại, có khi rất vắng, chỉ có những người thường trú và khách kiều cư.  Vẻ tiêu điều hiện rõ với một số phòng trống không.


        Hoa lạc giữa rừng gươm

        Có một lần rất đặc biệt, tôi được hân hạnh tiếp một người tù thuộc phái đẹp! Chiều tối hôm đó, cán bộ đưa một người đàn bà vào buồng trống ở cạnh buồng tôi để “gửi” nhờ qua đêm. Khi cán bộ đi xuống rồi, tôi gọi qua hỏi thăm và biết đó là em dâu của anh Dương Văn Lợi. Sau khi anh Lợi cướp chiếc máy bay trực thăng của Bộ Chính trị ngay tại phi trường Nội Bài ở Hà Nội và bay thành công qua Trung Quốc vào năm 1981, cả nhà anh ở Hà Nội bị vạ lây.

        Người em dâu của anh Lợi bị bắt và trên đường bị đưa tới một trại giam nào đó, phải dừng chân qua đêm tại Thanh Cẩm. Khi biết tôi là bạn anh Lợi, chị mừng và vui vẻ trả lời các câu hỏi của tôi liên quan tới anh Lợi. Khi gần đi ngủ, chị gọi sang hỏi tôi với vẻ e lệ ngượng ngùng, làm ơn bảo chị cách thức đi cầu! Tôi cảm thông vô cùng với tâm trạng người đàn bà khi phải hỏi một người đàn ông xa lạ về chuyện này. Tôi đoán là một mình trong buồng bên, chị cũng đã xoay xở hết cách nhưng không thành công với loại nhà cầu đặc biệt với hai cái ống bẩu trong buồng!

        Tôi gọi sang tận tình hướng dẫn, nhưng không biết kết quả ra sao. Vì vấn đề quá tế nhị nên tôi không tiện hỏi lại. Thực ra loại nhà cầu bằng hai ống bẩu này được “vẽ kiểu” chỉ phù hợp cho giới mày râu mà thôi. Sáng hôm sau, vị khách quý thuộc phái đẹp này được đưa đi rất sớm. Kể từ đó, khu kỷ luật Thanh Cẩm chúng tôi không còn được hân hạnh đón tiếp khách vãng lai thuộc phái đẹp nữa.


        Tướng cướp Bình Thanh

        Cuộc sống của tôi trong kỷ luật bắt đầu được cải thiện sau hai năm vì nhiều lý do, trong đó, sự ra đi của trật tự Bùi Đình Thi là lý do hàng đầu. Kế đến là được chị tôi từ Vĩnh Long ra Bắc thăm hai lần. Lần đầu vào năm 1980, tôi không được gặp mặt, chỉ được nhận 5 ký quà. Lần thứ hai, năm 1981, tôi được gặp mặt chị tôi 15 phút và nhận quà khá hơn. Tội nghiệp chị tôi trong chuyến đi thứ hai này, từ lúc rời nhà cho đến khi về tới nhà là 33 ngày, vì mưa bão làm sập cầu, ngập đường. Việc tôi được gặp chị tôi là một nguồn an ủi tinh thần rất lớn. Hơn nữa, có một ít thức ăn cần thiết cho sự phục hồi sức khỏe của tôi lúc đó. Ngoài ra, các khách vãng lai khi trở xuống làng cũng để lại cho tôi áo quần, chăn chiếu và đồ dùng. Nhờ đó, tôi không còn phải sống trần truồng như trước.

        Thời trật tự Nguyễn Tấn Đạt, cũng là tù quân đội, anh lầm lì ít nói nhưng không đánh người. Tới trật tự Nguyễn Văn Bảy, tôi mới thấy thực sự thoải mái cả cuộc sống vật chất lẫn tinh thần. Mặc dù hoàn cảnh vẫn như cũ, trời Thanh Hóa vẫn nắng như thiêu như đốt, gió Lào vẫn hừng hực lửa vào mù hè, buồng giam khu kỷ luật vẫn mang tính chất khắc nghiệt của nó, nhưng lòng nhân đạo của con người hình như đã thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên này.

        Nếu trước đây hai năm, tôi có thể bị cán bộ và trật tự đánh đập bất cứ lúc nào và bởi bất cứ lý do gì, thì lúc này, lớp cán bộ mới cũng không còn dữ dằn và quá giáo điều như lớp trước. Những anh tù có nhiệm vụ trong ban thi đua cũng thân ái, nhẹ nhàng và thỉnh thoảng còn tìm cách giúp cho anh em chúng tôi trên khu kỷ luật một chút gì cho cuộc sống dễ chịu hơn. Một điều đáng nói nữa là lúc đó chúng tôi đã được nhận quà gửi ra theo đường bưu điện mỗi 3 tháng một lần.

        Với tất cả những yếu tố đó cộng lại, tôi có thể kết luận cuộc sống của tôi sau hai năm trong kỷ luật đã bắt đầu “lên hương”, mặc dù đêm đêm vẫn phải xỏ chân vào cùm sắt. Chính trong thời gian đó, tôi lại có dịp đón tiếp một đoàn khách đặc biệt.

        Một buổi sáng nọ, từ trong buồng 2 phía sân trước cùng với một anh Hoa kiều người Chợ lớn tên Lý Tử, tôi nhìn ra cửa sổ thấy cán bộ và trật tự dẫn một toán tù hình sự khoảnghơn chục anh đi vào khu kỷ luật. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là nhóm tù này khỏe mạnh. Họ mang rất ít đồ đạc. Mỗi người chỉ có một ba-lô khoác trên lưng. Họ ăn mặc gọn gàng và nhìn vào biết ngay là tù hình sự. Phần đông đều nhỏ người, chỉ trừ một vài anh cao lớn. Đa số đội mũ cối, mang giày vải. Có mấy anh mang dép nhựa, cũng có vài anh mang dép râu. Họ âm thầm bước đi không cười nói, nhưng không tỏ ra thểu não và bệ rạc như khi tôi thấy toán tù Trung Quốc nhập vào khu kỷ luật này trước đây.

        Tôi chợt chú ý tới một anh đi ở cuối hàng, vì anh này có dáng vẻ và phong thái khác hơn các người trong nhóm. Người anh to rắn chắc và rất tầm thước. Không cao mà cũng không thấp. Vai anh rộng và hơi vòng một chút như vai con rùa. Nước da trắng như một thư sinh. Nét mặt cân đối với đôi chân mày rậm hài hòa. Tóc anh dầy, thật đen và húi cua. Anh có ít râu dưới cằm rất đen vì tương phản với làn da trắng của anh. Anh ta đẹp trai. Tuổi lúc đó chừng ba mốt ba hai là cùng. Anh mang ba lô trên lưng, chân mang giày vải, mặc quần tây màu nâu và áo bộ đội màu cứt ngựa. Một tay anh cầm cái mũ lưỡi trai màu đen. Nếu bình thường gặp anh một nơi nào khác có thể lầm anh là một cầu thủ đá bóng đi dượt bóng về, vì tướng anh rất phù hợp với hình ảnh đó.

        Cả bọn đứng lại giữa sân ngay trước cửa sổ buồng tôi, trong khi trật tự mở khóa các buồng phía sau để phân bổ lính mới. Các anh nhớn nhác nhìn vào các buồng, nhưng nhìn từ ngoài nắng chắc sẽ chẳng thấy gì. Tôi đứng sát vào song cửa sắt, nhìn ra và nói một câu với các tù nhân mới:

           - Hêlô! Thân ái chào các anh em mới tới! Các bạn từ trại nào chuyển về?

        Nghe tiếng tôi chào, mấy anh đứng gần quay lại nhìn về phía tôi và nheo mắt nhìn vào trong buồng, nhưng tôi biết là họ không thấy gì vì trong buồng tối om.
        Anh chàng đẹp trai nghe tôi chào, bước lại sát bên cửa sổ, tươi cười trả lời:

          - Chào anh! Bọn chúng em từ xà lim Bộ chuyển về. Anh là người miền à?  Nghe giọng anh bọn em nhận ra ngay. Anh ở kỷ luật bao lâu rồi?

          - Vâng, tôi người Sài Gòn và ở kỷ luật hơn hai năm rồi!

           Anh chàng nghe thế vội hỏi:

          - Lâu vậy! Anh bị gì?

          Tôi đáp gọn:

          - Trốn trại!

           Anh có vẻ thích chí, cười thật tươi:

          - Nhất anh! Phải thế chứ. Trước trong Nam anh làm gì?

          - Linh mục!

           Anh thanh niên nghe không rõ, hỏi lại và kề tai sát vào song sắt:

          - Em nghe không ra, anh nói trước kia anh là gì?

          - Anh là Linh mục, là cha đạo ấy mà!

          - Em hiểu rồi, anh làm việc trong nhà thờ chứ gì? Cha đạo mà đi tù lại vượt ngục! Nhất anh! Em là Bình Thanh, em rất muốn gặp anh. Thế tên anh là gì?

          Vừa nói anh vừa cầm bàn tay tôi đang nắm song sắt cửa sổ. Trong khi đó cán bộ cũng vừa đi lại. Tôi nói:

          - Anh cũng muốn gặp Bình Thanh. Anh tên Lễ, cứ gọi là Anh Út.

          - Vâng, anh Út!

        Cán bộ phân bổ lính mới vào các buồng. Anh tù cao lớn đẹp trai tự giới thiệu là Bình Thanh, qua buồng 3 kế bên tôi. Có hai lính mới vào buồng tôi và một số ra các buồng phía sau.

        Hai anh chàng vào buồng tôi khá nhỏ người, nói rặt giọng Hà Nội. Ngay từ phút đầu đã tỏ ra rất lễ phép đối với tôi. Một anh nhỏ hơn, nước da ngăm đen là Bình Bưởi. Anh kia gầy và cao hơn là Tiến Ngựa. Tù hình sự không anh nào là không có tên đệm kèm theo. Vào buồng và dường như có vẻ mệt, hai anh cởi áo nằm nghỉ để lộ hai thân hình xâm trổ đầy người. Bình Bưởi xâm cả lưng, bụng, hai đùi và hai cánh tay nữa. Qua một vài câu nói tôi biết Bình Bưởi tuy nhỏ hơn nhưng là đàn anh. Sở dĩ gọi là Bình Bưởi vì quê anh ở làng Bưởi, Hà Nội.

        Hai anh cho biết nhóm này ở xà lim Bộ, tức từ Hà Nội, chuyển về khá đông, một số lớn ở dưới làng. Khi tôi nhắc tới Bình Thanh mà tôi gặp và nói chuyện mấy câu lúc nãy, Bình Bưởi chỉ đáp gọn một câu:

          - Anh Bình Thanh là anh của bọn em. Anh ấy hay lắm đấy anh ạ!

        Tôi đã sống chung với tù hình sự trên trại Cổng Trời và hiểu được “ngôn ngữ” và quy luật sống trong tù của họ. Tiếng “anh” có một ý nghĩa rất quan trọng và ở giai tầng trên, trong khi hai tiếng “anh em” chỉ những người trong nhóm và hàng ngang. Tiếng “hay lắm” có nghĩa là đáng kính trọng, có tư cách và có vị thế lãnh đạo. Mặc dù hai anh này chưa biết tôi, nhưng nghe qua cách Bình Thanh bày tỏ thái độ với tôi lúc nãy, hai anh bắt đầu kính nể tôi.

        Tới giờ cho ăn trưa, các buồng được ra sân một lúc để hít thở và dọn vệ sinh buồng. Cửa vừa mở, tôi thấy Bình Thanh chạy bay ra và đảo một vòng như con ngựa bị cuồng chân lâu ngày vừa mới xổng chuồng. Anh ta mặc quần đùi trắng, áo thun trắng, mang giày vải để lộ đôi chân khỏe mạnh, rắn chắc. Ngực anh nở nang và hai cánh tay to, một bên có xâm hình bàn tay cầm bó đuốc, bên kia là một cây kiếm. Tôi đoán là thân người Bình Thanh xâm trổ nhiều lắm, nhưng vì anh ta mặc áo thun nên không thấy hết được. Toàn thể con người anh ta toát ra sự cường tráng của người đang ở thời kỳ sức lực dồi dào và cuồn cuộn lên trong các bắp thịt. Thấy tôi bước ra, Bình Thanh chạy tới đưa cả hai tay ra nắm lấy hai tay tôi nói nhanh:

          - Anh chờ em tí, em vào coi hai thằng em ra sao rồi trở ra ngay!

        Nói xong, anh ta chạy ngay vào buồng hỏi Bình Bưởi và Tiến Ngựa ra sao, có thoải mái không, có cần gì không. Sau khi biết mọi việc tốt đẹp, Bình Thanh trở ra với tôi, nói:

          - Anh Út! Vừa gặp anh em đã quý anh. Bọn trong buồng bên kia đều nể phục anh và nói là anh hay lắm. Em xin anh xem em như thằng em của anh nhá, anh Út!

        Bình Thanh vừa nói vừa cầm bàn tay và nhìn vào mắt làm tôi rất cảm động. Lúc này, đứng gần thấy anh ta rất đẹp và dễ thương. Môi trên hơi ngắn hơn môi dưới một chút và khi nói chuyện hay đưa cằm ra phía trước trong cử chỉ thách thức. Đôi mắt anh ta đẹp, nhưng nhìn kỹ trong đôi mắt ấy, như ẩn hiện đâu đó nét hoang dại của loài sư tử. Tôi nắm tay Bình Thanh, nói:

          - Bình Thanh! lúc nãy khi vừa trông thấy em anh đã quý. Từ nay em sẽ là em của anh. Anh là con Út trong gia đình, bây giờ anh có người em.

        Tôi vừa nói vừa kéo Bình Thanh vào đôi cánh tay vừa mới phục hồi sức khỏe của tôi. Bình Thanh ôm lấy tôi thật chặt. Tôi cảm thấy niềm hạnh phúc dâng tràn trong lòng. Tôi cũng ngạc nhiên vì chúng tôi đến với nhau và chấp nhận nhau thật nhanh, không cần tìm hiểu thêm, không cần suy nghĩ, đắn đo. Tự nhiên, tôi thấy nơi người thanh niên xa lạ vừa gặp lần đầu này có một dáng vẻ khác người. Từ con người, lối ăn nói, cách bày tỏ tình cảm, sự chú ý săn sóc cho đàn em và qua câu nói của Bình Bưởi, tôi biết Bình Thanh là một tên lưu manh, nhưng là một tên lưu manh có tầm cỡ và bản lĩnh. Tôi thích mẫu người như anh, và tôi nhận Bình Thanh làm người em kết nghĩa do một thứ trực giác thúc đẩy, không hề suy nghĩ.

        Những ngày tiếp theo, tôi thấy hiện tượng khá lạ lùng mà trong gần ba năm qua khu kỷ luật này chưa bao giờ xảy ra. Đó là một vài anh tù hình sự dưới làng lén leo qua những bức tường bao bọc chung quanh khu kỷ luật để tiếp tế lên cho Bình Thanh và anh em. Thì ra, những anh hình sự khác ở dưới làng cũng nhận quyền và tùng phục Bình Thanh đang bị cùm trong kỷ luật.

        Những ngày sau, Bình Bưởi và các anh em trong nhóm cho tôi biết thêm về cuộc đời và thành tích của Bình Thanh, làm tôi càng quý anh hơn. Sau này, khi sống chung một buồng, tôi mới hiểu hết ý chí ngang tàng, cuộc sống lẫy lừng và tư cách đàn anh đúng nghĩa của một “đại ca” trong giới giang hồ.

        Theo lời các anh em trong nhóm, tên tuổi Bình Thanh được kính nể trong tù hình sự miền Bắc. Anh tù nào nghe tới tên cũng nể phục. Bất cứ anh tù nào mới bị bắt vào buồng và bị các đầu gấu khác bắt làm lễ ra mắt, chỉ cần nói có biết Bình Thanh là được an toàn. Bình Thanh không phải loại đầu gấu hiểu theo nghĩa tầm thường bắt nạt người yếu để kiếm ăn, nhưng là hạng anh hùng hảo hán, bênh vực đàn em và nếu cần chịu chết đói cho những người đàn em được no.

        Tôi nghe kể về tư cách đáng nể phục của Bình Thanh, nhưng sau này, khi anh em tôi có dịp sống chung một buồng, tôi mới thấy rõ Bình Thanh là một hiện tượng của xã hội. Dĩ nhiên, trong giới lưu manh có quy luật của nó và anh nào không tuân giữ, đó sẽ bị Bình Thanh bắt khuất phục đến nơi đến chốn. Tuy nhiên, tự trong thâm tâm, anh là con người trọng nghĩa khinh tài. Anh rất coi trọng nhân nghĩa và bênh vực giới bị xã hội bất công đè bẹp.


        Luật giang hồ

        Tù hình sự có nguyên tắc và giai cấp rất rõ ràng, gồm các vị thế như sau: anh em, người ngoài, bề dưới, kẻ thù. Một khi đã kết nghĩa anh em là sẽ sống chết vì nhau, cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Người ngoài là những người có thể ngồi chung mâm nhưng không can thiệp vào chuyện của nhau. Bề dưới là phải tùng phục bề trên vô điều kiện, nhưng bề trên đúng nghĩa là người biết thương bề dưới. Kẻ thù là hạng người phải tiêu diệt bằng bất cứ giá nào và ở đâu. Trong nhóm tù hình sự cùng về đây, chỉ có Bình Bưởi là anh em với Bình Thanh. Bình Bưởi nhỏ con, ốm yếu và đi tù từ năm 12 tuổi nên Bình Thanh thương yêu và săn sóc cách đặc biệt. Những anh còn lại, hoặc là người ngoài, hoặc bề dưới. Chỉ có một anh thuộc diện kẻ thù, tôi sẽ nói sau.

        Nhóm Bình Thanh tới được vài ngày thì có một anh tên là Thụ ở buồng phía sau có gia đình vào tiếp tế. Anh này còn gọi là Thụ Con vì người nhỏ thó. Sau khi thăm gặp về, Thụ phạm một lỗi lầm quá nghiêm trọng, đó là quy luật về sự phục tùng của kẻ bề dưới. Có lẽ nó còn quá khờ hoặc là quá khinh suất nên thay vì làm theo nguyên tắc là mang tất cả quà gia đình mới tiếp tế tới chỗ Bình Thanh và nói: “Anh Bình, gia đình em vừa vào thăm cho ít quà, xin anh dùng chút quà mọn của gia đình em.” Chắc chắn là Bình Thanh sẽ cười và nói:“ĐM, người nhà mày mang vào thì mày liếm đi! Có thuốc lào không, cho anh em tao vài bi được rồi!”  Và mọi việc sẽ tốt đẹp. Đàng này, mãi tới chiều hôm đó, Thụ Con mới nắm một ít thức ăn, một ít ruốc và mấy ấm chè tới biếu. Tôi nghe Bình Thanh quát:

          - ĐM mày, tao đâu có chết đói mà mày làm thế. Mày làm nhục tao đấy à? Mang về ngay!

           Thụ còn đang đứng, Bình Thanh nổi nóng:

          - ĐM, tao bảo mày cút ngay!

        Thụ sợ quá, cầm gói thức ăn về. Mấy hôm liền, mặt mày Thụ tái mét vì sợ. Rủi cho anh ta, vài ngày sau đổi buồng và cán bộ đưa Thụ vào buồng Bình Thanh. Thụ đứng ngoài khóc rống lên và nhất định không vào, nhưng cuối cùng cán bộ đẩy anh ta vào khóa cửa lại. Có thể dùng hình ảnh con nai tơ bị nhốt vào chuồng sư tử để diễn ta nỗi sợ hãi của Thụ Con lúc bấy giờ. Biết như vậy, nên từ bên này, tôi gọi qua cho Bình Thanh bảo đừng đánh thằng Thụ, tội nghiệp nó. Bình Thanh trả lời:

          - Vâng, em nghe anh, em chẳng làm gì nó đâu!

        Và Bình Thanh để cho Thụ được yên, chẳng đá động gì tới chuyện mấy hôm trước. Nhưng có lẽ vì quá sức khiếp sợ, nên chiều hôm đó khi trật tự vừa mở cửa buồng cho ăn, Thụ vụt chạy như bay xuống cổng trại báo cáo cán bộ trực xin cho đổi buồng, lấy lý do là Bình Thanh cướp cơm của nó ăn! Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để mong được đổi buồng. Nhưng nó không ngờ là nó đang đọc bản án cho chính mình. Cán bộ dẫn nó lên và bắt nó vào buồng trở lại.

        Khi cán bộ khóa cửa và đi xuống rồi, từ bên này tôi còn nghe được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Khi cơn thịnh nộ nổi lên, Bình Thanh định giết chết thằng Thụ Con vì lần đầu tiên trong đời bị nó làm nhục là nói anh ta cướp cơm của tù để ăn. Một sự hạ nhục quá sức chịu đựng của Bình Thanh. Bên kia Bình Thanh vừa chửi vừa “chưởng”, trong khi Thụ khóc lóc van lạy xin tha mạng. Tôi lại phải gọi sang nói chữa là vì nó sợ quá nên nói bậy, đánh như thế nó biết tội rồi. Có tiếng Bình Thanh trả lời:

           - Anh coi đó, dám bảo em chấn cơm! Anh bảo thì em tha mạng cho nó, nhưng em phải xin nó bộ ngà!

          Nói xong, tôi nghe tiếng Bình Thanh:

          - ĐM mầy!Anh tao bảo, tao mới tha tội chết cho mày. Nhưng hòn đá đây, mày phải ghè cho hết bộ ngà, không chừa một chiếc nào. Mày tự làm hay muốn tao làm?

        Không còn cách gì hơn, Thụ Con phải tự tay dùng hòn đá đập gãy không còn sót một chiếc răng nào! Chừng đó, Bình Thanh mới chịu tha cho. Lạ một điều là từ đó về sau, Thụ Con theo hầu Bình Thanh như hình với bóng!


        Nhân vật Sửu Què

        Sau khi trật tự Đạt được tha về và trật tự Bảy Chà lên thay, cuộc sống chúng tôi trên khu kỷ luật thoải mái hơn. Anh Bảy Chà còn lén cán bộ mở cửa cho chúng tôi chạy ra sân chơi và còn giúp chuyển quà cáp từ buồng này qua buồng kia, hoặc từ dưới làng lên kỷ luật. Đó là ân huệ mà lúc Bùi Đình Thi còn làm trật tự, chúng tôi nằm mơ cũng không thấy. Khi tôi bị chuyển ra buồng 4 phía sau, Bình Thanh vẫn ở buồng 3 phía trước chung với Tiến Ngựa và Sửu Què cùng nhóm với nhau.

        Một buổi trưa, cán bộ dẫn lên một người tù miền Nam là anh Nguyễn Đức Khuân vì tội gửi thư chui bị bại lộ, trong thư lại có bản nhạc gọi Hồ Chí Minh là “con quỷ đỏ”. Khuân bị một trận đòn trên bờ dưới ruộng, bị đi cùm và đẩy vô buồng của Bình Thanh. Khuân là bạn rất thân của tôi, nên tôi gọi Bình Thanh và nói:

          - Bình Thanh! Anh Khuân là bạn thân của anh đó. Hãy coi anh Khuân như chính anh nhé!

           Bình Thanh đáp vọng lại:

          - Vâng! Em biết rồi anh Út!

        Khuân là người vui vẻ, ăn nói có duyên và rất giỏi nhạc. Gặp Bình Thanh là người thích tìm tòi học hỏi, nhất là các chuyện về miền Nam, nên hai người cũng tương đắc và quý nhau. Bình Thanh kính Khuân như người anh, điều này, vô tình lại làm Sửu Què khó chịu. Sửu bị ai đó đâm trúng gân chân nên đi hơi lệch, vì thế có tên là Sửu Què. Anh ta có ân oán gì đó với Bình Thanh từ ở trại nào trước kia, nhưng vào đây, Bình Thanh bỏ qua không muốn nhắc lại nữa. Một buổi trưa, trong lúc Khuân đang kể chuyện và Bình Thanh đang hứng thú lắng nghe, Sửu Què không dằn được cơn bực tức, đã chửi Khuân:

          - ĐM, toàn nói phét!

        Khuân nghe Sửu Què chửi, dừng lại không kể chuyện nữa, trong khi Bình Thanh đùng đùng nổi giận. Thứ nhất, Sửu Què dám hỗn với Khuân là người tôi dặn Bình Thanh hãy đối xử như với tôi. Do đó, khi chửi Khuân thì cũng như chửi tôi. Tội này rất nặng! Điều thứ hai là Bình Thanh và Tiến Ngựa đang hứng thú nghe các chuyện về miền Nam. Bị cụt hứng bất thần, Bình Thanh vùng dậy, rút con dao làm bằng thanh sắt đập dẹp mà lúc nào cũng giấu trong gối, đè Sửu Què xuống, dí dao vào cổ chửi và đòi đâm. Khuân phải can ngăn mãi mới xong. Nhưng từ lúc đó, bầu khí trong buồng nặng nề, câm lặng và bực dọc. Sau đó, có lẽ vì số chết của Sửu Què đã tới nên mới khiến anh ta đến bên Bình Thanh đang ngồi thở hồng hộc vì bực tức, xin lỗi và nói:

          - Anh Bình Thanh hãy nhìn vào cặp mắt tôi coi. Tôi có phải là con người gian ác gì đâu mà anh nói tôi như thế!

        Đang lúc bực tức và lại nghe Sửu Què biện bạch, Bình Thanh nhìn vào mắt nó và nhớ lại ân oán năm xưa. Bình Thanh bèn đè cổ Sửu Què xuống, dùng con dao ngoáy móc mắt Sửu Què làm anh ta kêu la vang dội cả khu kỷ luật. Khi cán bộ lên tới nơi và mở được của buồng ra thì một con mắt của Sửu Què đã nằm dưới đất và Bình Thanh đang đè ngoáy dao vào con mắt thứ hai. Nhờ Sửu Què giãy giụa quá nên con mắt thứ hai chưa kịp móc thì cán bộ đã vào tới buồng và giải thoát cho anh ta. Khi thấy cán bộ vừa chạy lên, Bình Thanh dùng con dao rạch một đường trên cánh tay mình cho máu chảy ra. Lúc cán bộ bước vào buồng, Bình Thanh cầm con dao đưa cho cán bộ coi và nói:

          - Báo cáo cán bộ! Anh Sửu vào dây còn dấu được con dao trong ống điếu. Lúc nãy, tôi đang ngủ say, không hiểu nguyên do gì anh ta đâm tôi. May mà tôi đỡ kịp nên chỉ thương ở cánh tay, máu còn đang chảy, cán bộ xem này!

           Tiến Ngựa vội thêm:

          - Báo cáo cán bộ! Anh Sửu hăm dọa giết anh Bình từ lâu rồi. Lúc nãy, nếu tôi không la lên kịp thì nó đã đâm anh Bình thủng tim rồi!

        Đúng là miệng lưỡi của lưu manh có khác! Cán bộ nghe thế mắng cho Sửu Què một trận, tịch thu con dao và đưa anh xuống trạm xá băng bó vết thương. Cán bộ không nói gì Bình Thanh vì anh ta là “nạn nhân” chỉ tự vệ! Câu chuyện này chưa chấm dứt ở đây.

        Khi Sửu Què đang nằm bênh xá thì Bình Thanh nhắn đàn em dưới làng “cất” giùm Sửu Què. Quãng nửa tháng sau, Sửu mang một mắt trở về làng, ở chung với đàn em của Bình Thanh.  Ngay đêm đầu tiên, khi Sửu đang ngồi uống chè trên sàn bên kia, thì bên này, Tuấn Béo cầm con dao rừng nhảy phắt qua, chém một phát chẻ đầu Sửu Què ra làm đôi, chết không kịp trối. Tuấn béo bị đưa lên kỷ luật ngay đêm đó, nằm một mình một phòng riêng. Sau này, có tòa án lập ngay trong trại, xử Tuấn Béo 18 năm tù.


        Cuộc tương phùng

        Sau vụ Sửu Què bị chém chết một thời gian, khu kỷ luật lại đổi buồng và cán bộ chỉ định tôi vào buồng 5, nơi có ba anh Trung Quốc là Lý Đức Nghĩa, Chu Vạn Hồi và Lưu Tùng đang ở. Nhưng tôi xin với cán bộ cho đi buồng khác. Trước đó mấy ngày, tôi cũng biết vụ mấy anh Trung Quốc trong buồng này đánh một anh tù hình sự tét đầu chảy máu. Anh ta đã la ầm lên trong đêm và cán bộ phải lên đưa anh đi bệnh xá. Nhưng không phải vì chuyện đó mà tôi xin đổi buồng khác, vì lúc đó tôi đâu có biết hết tính cách nghiêm trọng của vụ đánh người này. Tôi xin đi nơi khác là vì mới vừa trừng trị Lý Đức Nghĩa khi nó cướp bánh chưng của một người tù già. Sau vụ đó, chúng tôi bị đổi đi mỗi người một nơi, bây giờ mà gặp lại trong một buồng chắc chắn sẽ có vấn đề lớn. Cán bộ nghe qua có lý và cho tôi ra phía trước, vào buồng 2 với Bình Thanh và đưa Phi Tàu vào buồng 5 thay tôi. 

        Được vào buồng 2 với Bình Thanh, tôi vô cùng sung sướng. Từ khi Bình Thanh về đây đã hơn một tháng rồi, nhưng anh em tôi chỉ gặp được nhau trong các giờ mở cửa cho ăn và lúc đi tắm dưới sông Mã. Lúc khác thì gọi nhau từ buồng này qua buồng khác nói chuyện mà chưa bao giờ được sống chung buồng như anh em tôi mong muốn.

        Khi thấy tôi ôm chăn chiếu theo cán bộ từ phía sau đi vòng ra phía trước và đứng trước của buồng 2, Bình Thanh đứng bên trong nhìn ra mừng quá nói to:

          - Bình Bưởi đâu? Đưa đôi giày vải đây cho anh! Anh phải ‘tả’ cho anh Út một trận trước khi vào buồng này!  

        Bình Thanh nó trêu tôi như thế.

        Trong lúc đứng chờ cán bộ mở cửa buồng, tôi nhớ lại trong sáu buồng của khu kỷ luật này, không có buồng nào mà tôi chưa ở qua. Mỗi buồng đều có một kỷ niệm riêng, nhưng chưa bao giờ tôi bước vào buồng nào với tâm trạng vui mừng và sung sướng như lúc đang chờ để vào buồng 2 với người em kết nghĩa của tôi như lúc này.

        Tôi vừa bước vào, chưa kịp để đồ đạc xuống thì Bình Thanh đã ôm chầm lấy tôi và hôn lấy hôn để lên tóc, lên trán, lên mặt tôi và anh em tôi ôm nhau một hồi lâu. Sau đó, Bình Bưởi cũng tới ôm lấy tôi để nhận anh nhận em, trong khi Bình Thanh quay lại bảo hai anh kia;

        - Thằng Thịnh với thằng Trọng Loe, đây là anh tao! Chúng mày phải biết sống sao cho phải.

        Khi nghe Bình Thanh nói thế, tôi nghĩ đây chỉ là sự giới thiệu thôi. Tôi không ngờ đó là một cái lệnh và lệnh rất nghiêm như tôi sẽ kể dưới đây.

        Trong buồng lúc đó đã 4 người, tôi vào là 5, nên một người được cán bộ cho khỏi phải cùm là Trọng, còn gọi là Trọng Loe vì mồm anh rất rộng. Trọng Loe lớn hơn Bình Thanh chừng vài ba tuổi nhưng thuộc dạng bề dưới và không được ngồi ăn chung. Còn anh kia tên Thịnh, mệnh danh là Thịnh Capitaine. Tôi không hiểu tại sao anh có tên đệm tiếng Tây như vậy. Anh này cỡ tuổi với Bình Thanh nhưng người ốm yếu hơn so với Bình Thanh. Thịnh thuộc diện người ngoài, được ngồi chung mâm nhưng chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi nằm chung thớt cùm với Bình Thanh và nằm bên trong.

        Tôi cảm thấy mệt mỏi, vì mỗi lần chuyển buồng là phải khám xét đồ đạc, phải khuân vác và nhiều chuyện lỉnh kỉnh khác. Mặc dù lúc đó người tôi đã khá hơn rất nhiều, nhưng vì cùm lâu quá nên một chân tôi gần như bại liệt và điều kiện sống trong kỷ luật đã làm thân thể tôi hao mòn. Tôi nằm xuống nghỉ ngơi và tự nhiên cảm thấy lạ lùng cho cuộc đời tù của tôi. Lúc này, tôi là một Linh mục đang bị nhốt chung buồng với một tướng cướp khét tiếng của miền Bắc và vài tên lưu manh khác. Nhưng lạ lùng thay, đây là con người mà tôi yêu thương một cách đặc biệt.

        Tôi thấy trong lòng dâng lên niềm vui khó tả khi nhìn thấy Bình Thanh đang ngồi thu xếp các thứ đồ đạc của tôi cho gọn trong lúc tôi nằm nghỉ. Lần đầu tiên tôi mới thấy Bình Thanh cởi trần, để lộ cái lưng rộng bè bè và bộ ngực nở nang, bụng thon và cặp chân rắc chắc. Bình Thanh xâm trổ nhiều hơn tôi tưởng, cả trước ngực và sau lưng. Phía trước là hình “lưỡng Long tranh Châu”, hai con rồng thật to tranh nhau trái châu. Phía sau là hình Phật Bà Quan Âm chiếm trọn cái lưng. Bên dưới có hình lư hương đang tỏa khói và bên dưới nữa là hai hàng chữ:

        Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ
        Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?


        Hai bên cánh tay cũng xâm hình ngọn đuốc tự do, bên kia là cây kiếm báu. Sống lâu với tù hình sự, tôi nghiệm ra hai thứ để làm thành một anh tù thuộc diện lưu manh. Đó là xâm trổ và chửi thề hai tiếng ĐM! Thiếu một trong hai thứ đó không thể là một “lưu manh toàn diện” được.


        Tư cách một đàn anh

        Lúc mở cửa cho ăn, chúng tôi được ra ngoài chạy chơi, phơi áo quần và rửa buồng. Những việc này chỉ có được từ khi anh Bảy Chà làm trật tự. Khi mang thức ăn vào buồng, chính Bình Thanh đứng ra chia thức ăn. Trong buồng có 5 người nên Bình Thanh chia ra làm 5 phần bằng nhau. Sau khi chia, anh gạt ngay 2 phần cho Trọng Loe, nói:

          - Mày làm nhiều, mày ăn nhiều!

           Bốn người còn lại chỉ có 3 phần ăn để chung vào nhau và lúc nào Bình Thanh cũng nói:

          - Anh với Bình Bưởi 'liếm' đi! Em chết thế nào được!

        Và Bình Thanh nhường phần ăn của mình cho anh và cho em, còn anh ta chỉ ăn một chút để đừng chết đói. Sau này khi có ai cho thứ gì, nếu nhiều thì Bình Thanh ăn một tí, còn ít thì Bình Thanh nói:

          - Thôi anh với Bình Bưởi liếm đi!

        Có lần, chị tôi từ miền Nam ra thăm trong khi tôi đang sống chung buồng với Bình Thanh, khi trở vào buồng, tôi có mang theo một ít thức ăn. Bình Thanh chỉ để lại một phần vừa đủ cho 5 người trong buồng ăn một bữa, còn lại bao nhiêu phân chia từng gói nhỏ và đem phân phát cho tất cả các buồng trong khu kỷ luật. Tới buồng nào anh cũng nói:

        - Đây là quà của anh tao cho. Chị tao từ miền Nam mang ra, chúng mày ăn lấy thảo với anh em tao!

        Dĩ nhiên, chúng tôi cũng dành ra một chút quà để gửi qua cho các Linh mục đang ở khu kiên giam Nhà Bằng, chỉ cách một bức tường với khu kỷ luật. Tôi rất hài lòng với việc làm này của Bình Thanh, vì anh em tôi vẫn nói với nhau, kiếp tù là khổ chung, làm gì để an ủi và cho nhau một chút niềm vui cũng là điều nên làm. Khi làm như vậy, chính Bình Thanh cũng muốn mua nhân nghĩa và để mọi người quý mến tôi.

        Trong lần chị ra thăm đó, tôi được gặp chị 15 phút. Tôi đã nói với chị thật nhiều về Bình Thanh là người em kết nghĩa. Tôi cũng nói là sẽ có ngày Bình Thanh tìm tới thăm chị dưới một hình thức ngụy trang nào đó. Vì từ khi gặp nhau, chúng tôi đã hoạch định một kế hoạch vượt ngục rồi.

        Trong buồng, Trọng Loe thuộc diện bề dưới nên anh phải làm tất cả mọi việc như quét lau sàn, lấy nước, giặt giũ ở giếng cạn phía sau, lấy áo quần phơi vào buồng v.v... Nói chung, anh ta phải làm tất cả mọi việc trong buồng và lúc nào cũng để mắt nhìn Bình Thanh coi có điều gì anh làm cho Bình Thanh bực mình hoặc trái ý không. Mỗi lần Bình Thanh nói gì với anh, tôi thấy Trọng Loe mặt mày tái mét và run rẩy. Tôi không ngờ anh ta sợ Bình Thanh đến độ như vậy.

        Tôi cũng không ngờ Bình Thanh lại quá khắt khe đối với Trọng Loe nên có lần tôi đã vô tình gây ra một việc làm tôi hối hận. Vì Trọng Loe biết Bình Thanh rất quý và tôn trọng tôi nên anh ta cũng biết phải đối xử với tôi như thế nào rồi. Nhưng một ngày kia, trong giờ mở cửa lấy thức ăn, tôi ra bể cạn phía sau giặt áo. Nửa chừng, Bình Thanh gọi tôi vì có một đàn em dưới làng leo qua tường vào khu kỷ luật và muốn chào tôi. Tôi nói với Trọng Loe đang xách nước kế bên:

          - Trọng Loe, giặt giúp anh cái áo rồi phơi trên tường rào nhá!

        Tôi không nghe anh ta đáp lại nên nghĩ là anh đã nhận lời nên để áo đó và chạy ra phía trước. Việc Trọng Loe có vẻ lầm lì và không trả lời tôi làm tôi suy nghĩ. Hay là tôi đã làm gì cho anh ta buồn chăng? Nhưng thấy chẳng có chuyện gì, vì tôi đối với anh ta rất tốt. Chợt tôi nhớ lại trường hợp Sửu Què. Lúc đó, vì Bình Thanh coi trọng Khuân làm cho Sửu Què tức bực mới sanh chuyện. Bây giờ, có thể Trọng Loe bực tức vì Bình Thanh quý mến tôi chăng? Tôi cứ suy nghĩ điều đó cho tới lúc vào buồng. Trong lúc Bình Thanh đang chia thức ăn, tôi nhìn ra không thấy áo phơi đâu cả, mới hỏi Trọng:

          - Trọng, áo anh nhờ giặt, em phơi đâu không thấy?

          Trọng Loe trả lời với vẻ mặt đanh lại, tôi chẳng hiểu anh ta bực chuyện gì:

          - Anh không thấy em bận, lấy nước còn  không kịp sao?

        Câu trả lời móc họng quá bất ngờ của Trọng Loe làm tôi nổi giận. Vì trên nguyên tắc, trong buồng này anh ta phải làm mọi việc cho tất cả mọi người, và bù lại Bình Thanh cho anh ta hai phần ăn mỗi bữa. Nhưng tôi không bao giờ cậy thế anh em hoặc dùng miếng ăn để sai khiến anh ta. Tôi đã hiểu và đau khổ quá nhiều với tâm trạng của một người tù thất thế. Tôi thương cho thân phận của Trọng Loe, một vợ 2 con, chẳng qua vào tù vì yếu đuối mà phải chịu lép vế dưới luật tôn ti trật tự của giới lưu manh. Những việc có thể làm tôi đều làm và không sai khiến Trọng như các anh khác trong buồng. Tôi nói với Trọng:

          - Trọng, sao em trả lời với anh như thế? Anh biết em bận lấy nước chớ. Nhưng nếu em không giặt áo giúp anh được em phải nói cho anh biết. Đàng này, em không nói gì cả, anh tưởng em đã nhận lời. Nếu em bận, anh sẽ giặt lúc khác có sao đâu!

        Nãy giờ Bình Thanh đang chia thức ăn, vụt bật dậy như một cái lò xo, bước tới chụp cái gối bó bằng chiếu, rút con dao dấu trong đó ra. Con dao này chỉ bé bằng đầu ngón tay, làm bằng thanh sắt dài đập dẹp một đầu. Cầm dao trong tay, Bình Thanh quát:

          - ĐM mầy Trọng Loe, mầy quá đáng, mầy quá đáng! ĐM mầy, anh tao mà mầy còn coi không ra gì thì tao mầy coi ra gì? Cái loại chó như mầy không đáng sống trên đời.

        Vừa nói, Bình Thanh vừa chụp ngực áo của Trong Loe quật nằm ngửa xuống bệ nằm, tay phải giơ cao con dao định đâm xuống. Thấy vậy, cả ba người chúng tôi vôi lao tới chụp lấy cánh tay Bình Thanh, nhưng anh ta quá khỏe, vung một phát hai anh kia văng ra. Tôi vẫn nắm lấy cánh tay Bình Thanh, cố gỡ con dao ra, miệng quát thật to:

          - Bình Thanh! Bình Thanh! Tha cho nó. Em nghe anh, em làm như thế anh mang tiếng ác!

        Mặc dù trong cơn điên tiết nhưng nghe tôi nói thế, Bình Thanh chịu để cho tôi gỡ lấy con dao ra khỏi tay và dùng hai bàn tay chụp cổ Trọng Loe dựng đứng lên. Lần đầu tiên tôi thấy được cơn thịnh nộ của Bình Thanh. Đôi mắt Bình Thanh trở nên hoang dại như đôi mắt hổ. Hàm răng rít lại, cằm dưới đưa ra xa. Các bắp thịt trên người được vận dụng nổi lên cuồn cuộn. Hai tay nắm cổ Trọng Loe, lúc này như một hình nộm, nhấc lên cao và quát vào mặt:

          - ĐM mầy, nếu không vì anh tao, tao đã giết chết đồ chó đẻ mầy rồi! Mầy hiểu chưa? Mầy hiểu chưa?

        Vừa hỏi, Bình Thanh vừa lắc thân thể Trọng Loe lúc này như một cây sậy. Sau đó, Bình Thanh xô anh ta ra xa, rồi chụp tay kéo thật mạnh lại trong lúc co cùi chỏ lên kê đúng giữa ngực. Tôi nghe một tiếng “ự” và thấy máu tươi từ miệng Trọng Loe trào ra, chảy lênh láng dưới sàn. Tiện tay, Bình Thanh xô Trọng Loe nằm sấp lên vũng máu. Một cảnh tượng thật kinh hoàng diễn ra trước mắt tôi. Cái cảnh lưu manh trị nhau trong tù!

        Tôi đỡ Trọng Loe nằm lên bệ, lau chùi máu trên người và xức dầu cao cho anh ta. Qua cơn kinh hoàng, Trọng Loe gượng mở mắt ra, nhìn tôi và nói nhỏ:

          - Em cám ơn anh!

        Tôi ngồi nhìn người bạn tù, cảm thấy hối hận và xót xa trong lòng, đáp lại:

          -Trọng, anh xin lỗi em, em dừng oán trách!

           Trọng Loe lắc đầu nhè nhẹ và nhắm nghiền đôi mắt.

        Đêm đó, tôi trách Bình Thanh quá nặng tay với Trọng Loe khi tội nó không đáng bị như thế, và việc nó bị đòn nặng làm tôi cảm thấy buồn và hối hận. Bình Thanh trả lời:

          - Anh là một nhà tu nên lúc nào cũng nói tới chuyện thương người. Bọn lưu manh chúng em nó khác. Không thế, không trị được chúng nó đâu anh ạ! Anh biết không, chưa bao giờ em rút “gươm ra khỏi vỏ” mà xỏ trở vào nếu chưa dính máu. Chỉ trừ lần này vì anh mà em lỗi quy luật!

           Sau đó, Bình Thanh nhắc lại chuyện của Bùi Đình Thi mà tôi đã kể chi tiết cho Bình Thanh nghe. Cũng trong đêm đó, Bình Thanh nói:

          - Anh thấy đó, thằng Trọng Loe nó chỉ hỗn với anh thôi, em đã trừng trị nó như thế nào. Còn thằng Bùi Đình Thi, ĐM nó, cái số nó còn lớn! Nếu lúc này nó còn ở tù, trại này hay bất cứ trại nào khác, thì thật là cái phúc cho em! Nhưng em không giết loại người như nó, giết bẩn tay lắm. Em chỉ muốn xin nó cặp pha và đôi đũa.  Còn cất nó là mình vô tình làm phúc cho nó!

           Tôi trả lời:

          - Chuyện của Bùi Đình Thi đã ba năm qua. Lúc mới bị đòn, anh cũng điên tiết lắm nhưng bây giờ anh đã nguôi ngoai rồi. Anh đã tha thứ cho nó, vì tha thứ làm tâm hồn anh được thảnh thơi...

           Bình Thanh cướp lời tôi:

          - Sao anh lại nói thế? Tội nó làm sao tha thứ được anh?

           Tôi đáp:

          - Anh là một Linh mục. Anh là người rao giảng tình thương và sự tha thứ mà Chúa Giêsu đã dạy và làm gương!

           Bình Thanh nghe tôi nói thế cười bên tai:

          - Anh à! Ông Chúa của anh buồn cười thật. Chắc chắn là ông ta không thể là Chúa của em rồi!

          Tôi nghiêm giọng:

          - Bình Thanh! Anh không muốn em diễu cợt trong vấn đề này. Tôn giáo là vấn đề lớn của con người trên mặt đất. Anh muốn em phải có thái độ tôn kính khi nói đến tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào mình cũng phải tôn trọng cả. Em nói là em tôn trọng anh, tại sao em lại xúc phạm tới Thiên Chúa là Đấng anh tôn thờ! Em làm anh buồn.

           Bình Thanh nghe tôi nói thế, quay sang ôm vai tôi nói:

          - Anh Út! Em nói đùa thôi, em nói đùa cho vui. Em không có ý xúc phạm Đấng Bề Trên đâu. Có điều anh nói tới việc tha thứ cho thằng Bùi Đình Thi làm em khó hiểu quá. Khi nghe kể về hành động ác nhân của nó trong trại này và việc nó hành hạ anh, nghe qua em đã nổi điên lên rồi. Hôm anh vào buồng, khi em ôm thân thể chỉ còn bộ xương của anh làm em nhớ lại cảnh thằng Thi nó quần thảo anh làm máu em sôi lên. Bây giờ, anh lại nói chuyện tha thứ cho tên sát nhân đó. Thực em khó hiểu quá. Em là một thằng lưu manh, em không phải là một cha đạo như anh!

          - Nhưng em là em của anh.

          - Anh nói đúng, vì là em của anh nên em phải làm nhiệm vụ của em.

           Tôi hỏi lại:

          - Nhiệm vụ gì?

          - Nhiệm vụ báo thù cho anh.

           Tôi thấy Bình Thanh cứ loanh quanh vấn đề này nên nói:

          - Anh đã nói là anh tha thứ rồi thì còn thù gì nữa mà báo. Vả lại, báo thù thì chuốc oán thôi, ích lợi gì?

           Bình Thanh cãi lại:

          - Anh tha là chuyện của anh, còn ân oán giang hồ là luật của cuộc đời, của bọn lưu manh chúng em.

          - Thế em không nghĩ là tình thương và sự tha thứ mang lại hạnh phúc cho con người, còn ân oán giang hồ chỉ tạo thêm hận thù, ghen ghét làm khổ con người sao?

           Bình Thanh mỉa mai:

          - Anh Út! Anh đang giảng đạo cho em đấy à?

          - Đúng, anh đang giảng đạo cho em đây. Nếu anh không giảng cho em thì còn giảng cho ai, vì anh thương em quá là thương!

           Bình Thanh suy tư một lúc rồi nói:

          - Anh Út ơi! Lúc này anh chưa giảng đạo cho em được đâu. Em sanh ra để làm thằng lưu manh chứ đâu phải để làm con Chúa. Làm con Chúa mà bắt em tha thứ thì em không thể nào làm con Chúa được.

           Tôi nói rất nghiêm túc:

          - Bình Thanh à! Có rất nhiều người lúc đầu cũng nói như em, nhưng có một ngày rồi ơn Chúa đến để cải đổi tâm hồn họ và họ đã thành con Chúa.

           Bình Thanh nói nghiêm trang:

          - Em mong ngày đó đến với em.

           Tôi nắm lấy bàn tay đứa em tướng cướp nói nhỏ:

          -  Anh cầu nguyện cho em.

           Bình Thanh để tay trong tay tôi rất lâu, rồi nở nụ cười thật hồn nhiên, nói:

          - Em không ngờ đời em lại có người anh là một Linh mục!

           Tôi đáp ngay:

          -Anh cũng không ngờ đời anh lại có người em là một tướng cướp. Tướng cướp Bình Thanh.

           Hai anh em yên lặng một lúc, Bình Thanh thở dài nói:

          - Đời, c'est la vie!

          Tôi cười:

          - Em học ở đâu được câu tiếng Pháp đó?

           Bình Thanh trả lời:

          -Thế anh không thấy câu đó xâm trên lưng em à?

        Tôi nhớ lại trên lưng của Bình Thanh có xâm hình Phật Bà Quan âm rất to, bên dưới là lư hương tỏa khói, kế đó là câu 'Đời, c'est la vie!' và bên dưới cùng là câu:“Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ? Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi?”

        Trọng Loe nằm liệt mấy ngày rồi trỗi dậy lo các việc thường ngày. Trong thời gian anh nằm thì Bình Thanh quan tâm cho anh ta thức ăn, mà anh em dưới làng đã gửi lên.  


        Kiếp sống giang hồ

        Những ngày tháng cùm chung này là dịp để anh em tâm tình với nhau về cuộc đời mình. Bình Thanh tên thật là Đỗ Thanh Bình, năm đó 33 tuổi, quê ở Hưng Yên, gia đình khá giả. Bố là một Thiếu tá công an, mẹ là giáo viên. Lớn lên, Bình học rất thông minh, văn hay chữ tốt và rất khéo tay. Lúc trưởng thành, Bình rất khỏe mạnh, thân hình rắn chắc.

        Về tâm tính, ngay từ bé đã bày tỏ chí khí hiên ngang, đôi lúc tới chỗ bạo động. Trong một lần, lúc chưa được 20 tuổi, Bình đã can thiệp cho một người bị công an chặn xe làm tiền trái phép. Cậu đánh anh công an máu me lênh láng nên bị bắt nhốt vào đồn. Bố nghe tin, tới xin lãnh về. Nhưng bố vừa tới nơi đã thấy mọi người rầm rộ đổ xô đi tìm, vì anh lợi dụng lúc người lích gác dẫn đi đại tiện bên ngoài, đã đánh gục anh lính gác và chuồn khỏi nhà giam của đồn công an. Từ đó, Bình không trở về nhà nữa, phiêu bạt khắp nơi, kết nạp băng đảng. Với tính khí bạo động và chống lại sự đè nén bất công của xã hội, triệt tiêu giới cầm quyền áp bức, bênh vực người cô thế, cộng với thân hình vạm vỡ và diện mạo khôi ngô, Bình được nhiều anh em nể phục và sớm trở thành khuôn mặt có tên tuổi trong giới giang hồ miền Bắc.

        Vốn khéo tay và mưu lược, Bình tổ chức băng đảng, khi giả dạng bộ đội, khi giả dạng công an với tất cả mọi thứ giấy tờ, chứng minh thư còn “thật hơn là giấy thật!” Nhiều anh bộ đội, cả sĩ quan nữa, “nhảy dù” đi phép, đã phải chết cay chết đắng vì bị “Thượng úy Bình Thanh” xét giấy tờ và tóm được giải vào đơn vị nhốt. Có năn nỉ kiểu gì “Thượng úy Bình Thanh” cũng không tha!

        Bình Thanh đứng đầu băng đảng cướp khi mới 26 tuổi và chuyên “mượn” các kho hàng, xe vận tải của quân đội, các hợp tác xã, kho hàng của xí nghiệp quốc doanh. Khi nào kẹt lắm hoặc vào mùa “giáp hạt” , mới phải hoạt động trên “bè dài”.  Cũng trong thời gian đóng giả làm trung úy chỉ huy một tốp lính lái xe vận tải mà Bình Thanh gặp và yêu một cô gái trong đoàn văn công tên là Hường. Bình Thanh kể lại tôi nghe câu chuyện tình bắt đầu rất nhẹ nhàng nhưng rồi càng lúc càng sâu, và cũng vì lụy với giai nhân mà cuộc đời của một tướng cướp lẫy lừng phải chịu đầy gian truân.  

        Câu chuyện bắt đầu vào buổi sáng kia, trong một lần “Trung úy bộ đội” Bình Thanh và một anh bộ đội đi qua phố ở Hà Tĩnh và vào quán gọi thức ăn.  Bàn bên kia có mấy cô gái đẹp đang uống nước, trong đó có một cô chừng 20 tuổi, xinh nhất đám. Bên này, Bình Thanh gọi với sang tán tỉnh và làm quen. Trong khi đó, có năm anh bộ đội khác bước vào, kéo ghế ngồi bên cạnh bàn mấy cô gái. Có lẽ mấy anh bộ đội này người địa phương nên quen biết mấy cô. Hơn nữa, có lẽ ỷ vào số đông nên chặn ngang giữa đường và quay sang nói chuyện với các người đẹp, không coi ông “Trung úy” mặt còn non choẹt và anh bộ độâi lạ mặt kia ra gì. Tướng cướp Bình Thanh và tên lưu manh đàn em, không nói một tiếng nào, bước qua túm cổ mấy anh bộ đội đánh luôn.

        Vì bị tấn công bất ngờ, không kịp chống đỡ, nên ngay trong giây phút đầu, hai trong năm anh bộ đội đã bị Bình Thanh đánh gục xuống bàn. Còn lại ba chọi với hai. Cuộc ẩu đả bất ngờ làm bàn ghế trong quán vỡ tan tành. Mấy cô gái vội rút vào trong đứng nhìn ra. Chỉ một lúc sau, ba anh bộ đội còn lại cũng nằm gục trong quán dưới những cú đòn ác hiểm của một tướng cướp mà lúc đó ai cũng tưởng là Trung úy bộ đội này. Bình Thanh bị tét môi, máu chảy khá nhiều, đưa cánh tay lên quệt máu. Xong xuôi, anh móc túi lấy một số tiền lớn đặt lên bàn, có ý thường sự hư hại bàn ghế trong quán, cúi nhặt nón cối đang nằm lăn lóc dưới sàn, bước tới nghiêng mình chào người đẹp đang giương đôi mắt bồ câu ra nhìn, rồi đội nón ra đi, trong lúc đó người đệ tử đứng ngoài cửa quán canh chừng. Chợt người đẹp có đôi mắt chim câu lên tiếng:

        - Ông sao ngược!

           Bình Thanh nghe nói quay lại, không hiểu cô gái muốn nói gì. Lúc đó cô gái cười thật nhí nhảnh và chỉ vào cái mũ cối trên đầu Bình Thanh nói:

        - Ông sao ngược! Anh đội mũ ngược rồi. Ông sao quay về phía sau kìa! Ông sao ngược kìa!

        Thì ra trong lúc vội vã, hoặc là bị người đẹp “hớp hồn” khiến Bình Thanh không còn để ý gì chung quanh nên đội mũ lộn ngược ra sau mà không hay biết! Ba tiếng “Ông sao ngược” của người đẹp có đôi mắt chim câu trong một quán ăn buổi sáng hôm đó, đã trở thành những nốt nhạc đầu tiên trong bản tình ca vô cùng thắm thiết nhưng đầy nước mắt và đau thương giữa một giai nhân xứ Hà Tĩnh và một tướng cướp hào hoa.


        Giai nhân và tướng cướp

        Cuộc tình của hai người càng ngày càng thắm thiết mặn nồng. Bình Thanh nhiều lần đưa Hường ra thăm Hà Nội, nơi mà Hường chưa có dịp ra. Những lần đi xem phim, xem kịch, xem xiếc với người tình sĩ quan đẹp trai và hào hoa đã làm Hường vô cùng hãnh diện. Các loại quà cáp, áo quần, nữ trang mà Bình Thanh sắm sửa cho đã làm cho Hường vốn đã đẹp lại càng đẹp hơn.

        Từ đó, cuộc đời người con gái trong ban múa của đoàn Văn Công xứ Hà Tĩnh chỉ toàn là màu hồng. Nhiều lần, bố mẹ nàng có đề cập tới việc tổ chức đám cưới cho Hường và Bình, nhưng Bình cứ tìm cách nói khéo là chờ thêm một thời gian. Thực ra, Hường chưa thấy cần thiết phải có đám cưới, một phần vì nghề nghiệp của nàng, phần khác, cuộc sống mặn nồng của một người tình đối với nàng đã quá hạnh phúc. Việc tổ chức đám cưới tất nhiên sẽ tới, nhưng còn phải một thời gian.

        Thương cho Hường sống với người yêu gần hai năm trời mà không hề biết Bình Thanh là người sống ngoài vòng pháp luật, cứ tưởng là một sĩ quan trong ngành vận chuyển. Lúc nào cũng thấy có lính tráng đi theo, súng ống đầy người và lái những xe tải chở đầy hàng hóa, nhưng thường là chở về đêm.

        Cho tới một đêm nọ, trăng sáng thật tỏ, sau khi lái xe về nhà Hường xong, Bình và cả bọn ra sông tắm trong lúc Hường làm cơm. Bữa cơm đã sẵn sàng nhưng chưa thấy Bình trở lên nên Hường ra bờ sông gọi Bình và lính tráng về ăn cơm. Bình đang tắm, nghe Hường gọi, cứ thế lội lên bờ, trong khi chỉ bận chiếc quần đùi và áo thun trắng mà chẳng để ý gì. Vì áo thun trắng ướt, dính sát vào người nên dưới ánh trăng, người Bình để lộ ra toàn bộ hình xâm trổ trên thân thể, cả trước ngực lẫn sau lưng đều xâm kín hết. Đây là sự vô ý rất tai hại vì trong suốt thời gian qua Bình đã chủ ý che giấu việc này bằng mọi cách và không bao giờ để cho Hường thấy lúc anh đang cởi trần.

        Hường vô cùng kinh ngạc với sự phát hiện bất ngờ này, khi nhìn thấy thân thể Bình dưới ánh trăng sáng tỏ. Chừng đó, Hường mới té ngửa ra. Gạn hỏi mãi, cuối cùng, Bình đành phải thú nhận tất cả sự thật. Bình là một tướng cướp giả dạng sĩ quan ngành lái xe, vì bộ đội đâu được quyền xâm trổ như vậy. Hường khóc hết nước mắt về chuyện này! Bình Thanh đã quỳ xuống trước mặt Hường, xin Hường tha thứ:

          - Vì quá yêu em, anh không dám nói sự thật. Anh sợ mất em!

        Hường đau khổ vô cùng khi biết Bình Thanh là con người sống ngoài vòng pháp luật, nhưng vì tình yêu đã quá mặn nồng nên từ đó, Hường đành phải chấp nhận là người tình của tướng cướp Bình Thanh. Một chuyện mà chỉ có mình nàng biết.
        Hai năm sau, lúc Bình Thanh 28 tuổi, bị “bể” trong vụ đánh cướp cửa hàng lương thực tỉnh Hải Dương, anh bị bắt và bị kêu án 10 năm, giam ở một trại trong tỉnh Quảng Ninh. Hường từ miền Trung lặn lội ra thăm Bình trong tù ở tận vùng cực Bắc. Vào tù chưa đầy một năm, Bình Thanh vượt ngục. Công an theo dõi và biết anh có người yêu ở Hà Tĩnh, nên cử người kiên nhẫn theo dõi Hường và cuối cùng đã vây bắt được Bình Thanh ở Hà Tĩnh.

        Lúc bị bắt, anh chống cự, bị người công an đánh nên anh tức khí, giật súng tháo chạy, công an đuổi theo nhắm bắn, anh quay súng lại bắn chết công an, nhưng chạy không thoát vì bị dân quân bắt được. Ra tòa, Bình Thanh bị  kêu án mới 15 năm, hủy án cũ. Từ đó tới nay, 6 năm qua, Bình Thanh đã vượt ngục tất cả 5 lần. Lần nào cũng thành công, nhưng rồi bị bắt lại vì tay anh hùng hảo hán này là người rất nặng nghĩa tình và lụy sắc đẹp của giai nhân! Khi chuyển về Thanh Cẩm, Bình Thanh còn mang bản án 15 năm vì mỗi lần vượt ngục lại bị tăng án. Nhưng Bình Thanh nói với tôi:“Án thì án thế thôi, có nhà tù nào giam hãm được em đâu anh”!

        Nằm chung một thớt, cùng chung một cùm và nghe Bình Thanh kể lại chuyện cuộc đời mình và Hường, tôi quá thương cho người con gái. Mặc dù chưa biết mặt, nhưng lúc này, Hường đã là em dâu của tôi. Định mệnh đã đưa cô vào chiếc quán ăn năm nào và cũng định mệnh đã khiến cô phát ra ba tiếng “Ông sao ngược” trong lần đó để rồi đời người con gái đẹp phải dở dang vì yêu say đắm một tướng cướp. Và nếu như sau nầy, Hường biết được đoạn cuối cuộc đời của Bình Thanh như tôi đã biết thì nàng sẽ đau khổ tới đâu?  


        Anh Hùng Náo

        Khi tôi từ chối vào buồng 5 với mấy anh Trung Quốc để vào buồng 2 với Bình Thanh thì Phi Tàu, một anh Trung Quốc to lớn như đô vật, vào buồng đó thay tôi, và anh này cũng không phải là tay vừa. Có điều là anh ta thâm trầm và mưu lược, không quá lưu manh lộ liễu như Lý Đức Nghĩa. Có thêm Phi Tàu vào, số phận của anh tù ốm yếu Lưu Tùng càng bi thảm hơn. Tôi có nói tình trạng này với trật tự Bảy Chà, không biết anh Bảy có báo cáo lại cho cán bộ không vì vẫn chưa thấy đổi buồng cho Lưu Tùng đi nơi khác.

        Càng ngày tôi càng thấy Lưu Tùng xiêu vẹo hơn và tôi biết là đã tới tình trạng báo động. Mấy anh Tàu kia kèm Lưu Tùng rất kỹ, sợ anh ta mách với cán bộ. Một bữa nọ, trong giờ mở cửa cho ăn, thấy Lưu Tùng ngồi phơi nắng một mình ở góc sân và chung quanh không có ai, vì mấy anh Tàu kia người thì lấy nước, người thì giặt giũ đàng xa, tôi bước tới chỗ Lưu Tùng ngồi và hỏi bằng tiếng Phổ Thông:

          - Lưu Tùng, có bị chấn cơm không?

           Anh ta nói nhanh:

          - Lỳ cớ, chiêu min! (Anh Lễ ơi, cứu mạng tôi!)

        Tôi hỏi nhanh là cướp thế nào, anh cho biết hai ngày ăn được một bữa, còn 3 bữa kia bị cướp. Tôi nói lại việc này với anh Bảy Chà, anh nói đã báo cáo cho cán bộ rồi nhưng chưa được giải quyết. Thật ra thì cán bộ chẳng quan tâm gì tới việc những người tù với nhau.

        Tôi về buồng nói với Bình Thanh và mấy anh em khác là nếu cán bộ không can thiệp thì mình phải ra tay cứu Lưu Tùng, nếu chờ cán bộ, chắc anh ta sẽ chết trước khi được giải quyết. Trong gần ba năm qua, tôi đã biết rõ về sự dã man, độc ác của ba anh tù Trung Quốc kia. Hơn nữa, hôm nay, chính tai tôi còn được nghe rõ là hai ngày Lưu Tùng mới được một bữa ăn, trong khi người khác ăn mỗi ngày hai bữa còn thấy đói.

        Chúng tôi nói trước với anh trật tự  Bảy là chiều hôm đó, để tránh rắc rối cho anh, chỉ cần anh mở cửa các buồng xong, anh lánh mặt đi nơi khác chừng 15 phút. Trước đó, vào buổi trưa, tôi thấy Bình Thanh và 3 anh nữa, Bình Bưởi, Tiến Ngựa, Thịnh Capitaine ăn mặc chỉnh tề. Riêng Bình Thanh mang giày vải vào và chuẩn bị những chiếc vớ cẩn thận để làm “chưởng”. Trước giờ cho ăn chiều hôm đó, khi anh Bảy vừa mở cửa buồng, 5 phía sau, thì nhóm 4 anh nầy chạy bay về phía sau như toán lính đột kích, xông vô buồng 5. Một anh chận cửa, ba anh nhào vô đánh Phi Tàu, Lý Đức Nghĩa và Chu Vạn Hồi tơi bời hoa lá. Bình Thanh dùng “chưởng” quật cho Phi và Nghĩa nhừ cả người, máu me văng đầy tường. Chừng 15 phút sau, trật tự Bảy “biết được” chạy tới thì Phi Tàu và Nghĩa nằm như thây ma bất động! Chu Vạn Hồi bị đánh ít hơn còn gượng đứng dậy đi được. Ngay chiều hôm đó, buồng 5 được giải tán mỗi người một nơi, nhờ đó, Lưu Tùng kéo dài sự sống được vài năm nữa.

        Bình Thanh và tôi ở chung buồng khá lâu cho tới đầu năm 1982. Lúc gần Tết, chúng tôi chuyển qua buồng 1 ở góc nhà. Buồng này chỉ có một cánh cửa thay vì hai cánh như các buồng khác. Trong buồng, ngoài tôi và Bình Thanh ra còn có Thịnh Capitaine và Minh Lùn.

        Khi qua buồng 1, chúng tôi đã nghiên cứu hết mọi chi tiết và sẽ tổ chức vượt ngục trong dịp trước Tết. Nếu ra ngoài thành công, tôi sẽ ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian rồi xuôi Nam trước khi tìm đường ra nước ngoài. Nếu lần vượt ngục trước thất bại vì toàn là người miền Nam, lần này với Bình Thanh, người đã vượt ngục thành công 5 lần tại các trại miền Bắc, tôi cảm thấy rất yên tâm. Vả lại, Bình Thanh rất khỏe và rành rẽ đường đi nước bước ở miền Bắc.

        Trong buồng, chúng tôi đã chuẩn bị hết mọi thứ cần thiết, nhất là giấy đi đường có đóng dấu ký tên hẳn hoi, chứng nhận là người của hợp tác xã đi lấy lá dong để gói bánh chưng cho hợp tác xã. Tôi phải khâm phục tài khéo của Bình Thanh trong việc tạo giấy tờ và con dấu giả. Trong buồng thì Bình Thanh đã làm một cái móng cùm giả, còn giống hơn móng cùm thật. Bình Thanh luôn miệng nói với tôi:

          - Ở những trại giam khác, kiên cố bằng mấy ở đây, em còn ra đi dễ dàng. Trại này chỉ là đồ chơi!

           Bình Thanh còn nói với tôi:

          - Ra khỏi đây rỗi đi với em, anh không phải bận tâm một điều gì cả.

        Tôi đang vui mừng về viễn ảnh sẽ vượt ngục ra ngoài và sống phiêu bạt ở miền Bắc với Bình Thanh một thời gian, thì một buổi sáng kia, đúng 10 hôm trước khi chúng tôi hành động, tôi được gọi ra khỏi nhà kỷ luật trước sự bàng hoàng của hai anh em tôi.


        Phút chia tay

        Tôi được tha ra khỏi nhà kỷ luật sau gần ba năm cùm chân, từ tháng 5 năm 1979 tới tháng 2 năm 1982. Tôi từ giã Bình Thanh ra đi mà trong lòng buồn vời vợi. Cán bộ đưa tôi qua buồng 4 khu Kiên Giam “Nhà Bằng” sống với một số Linh mục. Tôi còn nhớ ở buồng 4 đó, có cha Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu, Khổng Năng Bao. Khi tôi rời buồng kỷ luật ra đi, Bình Thanh nhớ tôi nên lúc nào mở cửa cho ăn là Bình Thanh cũng nhảy tót và leo qua hàng rào vào buồng kiên giam thăm tôi. Trật tự Bảy chỉ đứng nhìn mà không cản vì anh biết là có cản cũng không được, nên Bảy đành phải đứng canh cán bộ cho Bình Thanh nhảy rào qua với tôi.

        Các Linh mục khác trong buồng 4 khu kiên giam lúc bấy giờ, rất ngạc nhiên về tình cảm đặc biệt giữa tôi và Bình Thanh. Khi qua đây, tôi mới biết là trong dịp trước Tết năm đó, cha Nguyễn Huy Chương, một Linh mục lớn tuổi nhất mà chúng tôi gọi là Bố Chương, có cô cháu từ Sài Gòn ra thăm cho khá nhiều quà. Vì rất thương tôi, Bố Chương biếu cho cán bộ một ít quà và nói:“Báo cáo cán bộ! Tôi nghiệp anh Lễ bị cùm chân 3 năm rồi. Nhân dịp Tết xin cán bộ tha cùm cho anh Lễ được qua sống với anh em chúng tôi!”.

        Cũng vì lời xin đó mà cán bộ tha cho tôi. Bố Chương cứ nghĩ là đã làm một việc rất tốt giúp tôi. Thực sự, đó là việc vô cùng tốt đẹp nếu lúc đó chúng tôi không có kế hoạch vượt ngục từ khu kỷ luật, và ngày thực hiện kế hoạch đã gần kề. Tôi tiếc vô cùng, nhưng cho đây cũng là ý Chúa.


        Gạt lệ ra đi

        Mười ngày sau, trong giờ cho ăn chiều, Bình Thanh leo rào qua ôm hôn tôi tha thiết và nói:“Đêm nay em đi, anh cầu nguyện cho em. Em đến chào tạm biệt, và có thể là vĩnh biệt anh!” Nói xong, anh em tôi ôm nhau khóc như mưa. Các người khác trong buồng ngồi nhìn ngạc nhiên không biết nguyên nhân tại sao. Nhưng làm sao tôi nói được lý do.

        Trước đó, tôi đã cẩn thận dặn Bình Thanh, chuyến này về đừng bao giờ tìm cách liên lạc với Hường, kẻo lại bị sa lưới như những lần trước. Hãy vào Nam gặp chị Hai của tôi trước và các việc liên hệ với Hường về sau này chị Hai sẽ cho ý kiến và thu xếp giúp cho. Tôi cũng giao cho Bình Thanh giữ một tấm hình gia đình của chị dâu và các cháu mà chị Hai mang ra trong lần thăm nuôi vừa qua. Đây là bằng chứng để nếu Bình Thanh có tới thăm, chị sẽ biết Bình Thanh là ai, vì mặc dù tôi đã nói với chị về Bình Thanh nhưng chị chưa biết mặt người em này bao giờ.

        Tôi cũng cẩn thận dặn mật mã để Bình Thanh viết thư vào trại cho tôi, nhưng chỉ viết khi vào miền Nam, vì viết từ miền Bắc rất dễ bị nghi ngờ. Tôi dặn là trong vòng ba tháng mà chưa vào Nam được thì phải viết thư vào cho tôi biết. Nếu sau ba tháng mà không có tin gì từ miền Nam hoặc miền Bắc thì coi như Bình Thanh đã chết. Tôi cũng đã đặn dò tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để giúp Bình Thanh về cuộc sống trong Sài Gòn mà Bình Thanh chưa bao giờ vào. Cuộc chia tay này cảm động nói không nên lời.

        Đêm đó, tôi nằm trong buồng 4 khu kiên giam, không chợp mắt một chút nào. Có lúc tôi ngồi đọc kinh lần chuỗi, kêu xin Chúa và Đức Mẹ phù hộ cho Bình Thanh. Tới nửa đêm vẫn chưa nghe tiếng súng báo động, tôi rất mừng vì biết giờ nào Bình Thanh sẽ ra đi. Thời gian trôi qua đã lâu nhưng vẫn chưa nghe tiếng súng. Tới gần sáng, vẫn chưa nghe. Tới giờ điểm danh cũng chưa nghe tiếng súng. Tôi thầm thì tạ ơn Chúa và biết là Bình Thanh đã thoát. Tới giờ điểm danh sáng, tôi ngồi trong buồng nhìn ra, thấy trật tự Bảy hớt hải chạy và báo cáo cán bộ có tù vượt ngục. Có tiếng cán bộ chạy lên rần rật, sau đó là 3 tiếng súng báo động. Bấy giờ trời đã sáng tỏ. Tôi nói ra thành tiếng “Tạ ơn Chúa!”

        Chiều tối hôm đó, tôi thất kinh khi nghe tiếng ồn ào bên khu kỷ luật, tiếng đánh đập, tiếng la hét. Sau đó, anh Bảy cho biết là Minh Lùn, trong nhóm vượt ngục với Bình Thanh, bị bắt lại, đưa về trại và bị đánh đập tàn nhẩn và chết trong khu kỷ luật. Còn Bình Thanh và Thịnh chưa nghe tin tức, chắc là thoát rồi!

        Quãng hơn tháng sau, tôi được thư chị Hai tôi. Sau khi kể chuyện nhà cửa, chị viết: “Chị quên nói với em là tuần trước cháu Hường trên đường đi công tác ghé qua nhà thăm chị. Thấy ba người lạ mang súng vô nhà chị sợ! Chừng nhận ra Hường chị mừng lắm! Bây giờ nó là trung úy rồi. Nó bảo lâu quá mới trở lại nên không còn nhớ đường. Phải hỏi người ta chỉ vào nhà mình. Ba người ở lại ăn cơm rồi đi. Hường nói tuần sau nó sẽ lên Thành Phố tìm thăm Thu.  Nghe nói bây giờ Thu đã dời nhà về Hố Nai.” Đọc thư chị, tôi mừng suýt nữa la lên. Tôi mừng vô hạn, như vậy là Bình Thanh đã thoát vô Nam, đã gặp chị tôi và sẽ lên Hố Nai tìm người quen mà chỉ có chúng tôi mới biết.

        Chừng vài tháng sau, tôi nhận một thư của người cháu đi bộ đội tên Bùi Thanh Hường ở Sài Gòn gửi ra thăm. Hường có nhắc lại lần xuống thăm chị tôi ở Vĩnh Long. Hường kể lúc đầu chị Hai không nhận ra, chị tôi sợ mất hồn! Nhất là khi thấy súng ống, đạn dược. Hường cho biết sau đó lên tìm người bạn ở Hố Nai và có cho ít quà lưu niệm. Hường nói tiếp trong thư là:“Có lẽ cháu sẽ qua Campuchia một thời gian, và sẽ viết cho chú khi thuận tiện”. Tôi đọc thư mừng lắm, nhưng chữ viết không phải của Hường, vì tôi còn lạ gì nét chữ đẹp như rồng bay phương múa của Bình Thanh.

        Đó là thư đầu tiên và cũng là thư cuối cùng, vì từ đó, tôi không còn nghe thêm gì về Bình Thanh nữa. Điều này làm tôi rất hoang mang. Nếu không liên lạc với tôi, ít ra Bình Thanh cũng sẽ liên lạc với chị tôi, nhưng tuyệt nhiên không hề có tin tức gì.  Sáu năm sau, tức là năm 1988, khi rời trại Thanh Cẩm về lại trại Nam Hà, tôi vẫn không nghe thêm một chút gì về Bình Thanh, một tướng cướp ngang trời dọc biển trở thành người em kết nghĩa của tôi, và tôi vô cùng thương mến.

        Trại tù Thanh Cẩm nằm sâu trong vùng rừng núi âm u của tỉnh Thanh Hóa, mà tôi đã sống ở đó 10 năm, đã dệt thành phần lớn kỷ niệm đời tù của tôi, trong đó, tướng cướp Bình Thanh là một dây tơ thật đẹp.


         nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
        dactrung.com
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.02.2007 05:22:08 bởi sóng trăng >
        #19
          sóng trăng 11.02.2007 12:04:47 (permalink)
           

          12
           
          Ngày Trở Về

           

                                                                           
          Tính tới tháng Giêng năm 1988, tôi đã bước vào năm tù thứ 12, trong đó có 11 năm lê lết qua các trại tù khắc nghiệt miền Bắc.

          Cho tới thời gian này, số tù nhân miền Nam ở rải rác trong các trại miền Bắc không còn bao nhiêu. Ngoại trừ những người đã bỏ mình vì khổ ải, một số đông đã được tha về và một số khác đã chuyển vào các trại trong miền Nam. Có những người được về khá sớm ngay từ năm 1980. Từ đó, mỗi năm đều có những đợt phóng thích, khi nhiều khi ít, năm nào cũng có. Ngoài những trường hợp được tha lẻ tẻ và bất ngờ, mỗi năm thường có những mốc thời gian để các tù nhân chúng tôi mong đợi và bàn tán. Những dịp để hy vọng đó là Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, lễ Lao Động 1 tháng 5 và ngày Quốc Khánh 2 tháng 9. Trong năm còn có đợt tha nhân dịp sơ kết và tổng kết, nhưng không nhiều lắm.
           

          Hát lâu chầu mỏi

          Thời điểm đó tôi đang ở trại Thanh Cẩm. Trại này cũng đã có một số rất đông được về và một số chuyển vào trại Hàm Tân trong Nam. Con số tù miền Nam còn lại trong trại Thanh Cẩm không tới 200 người, trong đó có 29 Linh mục. Nếu so sánh với lúc đông nhất vào năm 1979 thì lúc này còn lại không tới một phần ba. Các Linh mục ở khu kiên giam mới xây, cũng nhà nóc bằng rất kiên cố, nằm hướng ra cổng trại. Khu nhà này chia ra 6 buồng liền nhau, có tường cao ngăn cách và có cổng vào riêng biệt. Trước mỗi buồng có khoảng sân nhỏ tráng xi-măng sạch sẽ và có bể nước dùng chung cho 2 buồng giáp nhau.

          Bên trong cửa sắt của mỗi buồng là lối đi rộng 1 thước từ cửa cái dẫn vào tới vách bên trong, chia ra một bên là nhà cầu có cửa vào và một bên là bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 60 phân, đủ chỗ cho 6 người nằm sát cạnh nhau. Mỗi buồng có một cửa sổ khá rộng chắn song sắt to, nhưng không to bằng song sắt nhà kỷ luật. Cửa sổ này đủ rộng để cho buồng thoáng khí và cũng dễ dàng cho cán bộ nhìn vào kiểm soát. Trên nguyên tắc, khu vực này “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, nhưng trên thực tế không quá khắt khe như vậy.

          Về phần mấy người tù Trung Quốc đang ở trong khu Nhà Bằng, tức là khu Kiên Giam cũ. Những người tù ngoại quốc này đã bị giam hơn 15 năm rồi. Lúc đầu, nhóm của họ khá đông, nhưng dần dần một số chết bệnh, một số chết đói, có mấy anh vượt ngục bị bắn chết và bây giờ chỉ còn lại 10 người

          Khi tôi rời khu kỷ luật qua sống bên kiên giam, và Bình Thanh vượt ngục di rồi, trại Thanh Cẩm còn xảy ra hai vụ án mạng khác nữa,  nhưng toàn là bên hình sự. Vụ thứ nhất xảy ra ở khu kỷ luật khi Yên Con dùng tảng đá to đập đầu Chiến Chàm chết ngay tại chỗ trong giờ phát thức ăn trưa, lúc Chiến Chàm đang ngồi săn sóc đám rau muống anh trồng trước sân khu kỷ luật. Sau đó, Yên Con bị kêu án tử hình, nhưng một thời gian sau giảm xuống còn chung thân.

          Vụ khác xảy ra dưới làng sau đó ít lâu, khi Minh Con đâm Toản Quảng một nhát thấu tim, chết không kịp trối. Anh Toản chết oan chỉ vì gia đình mới tiếp tế cho ít lạc nên để trong hòm khóa lại.  Đêm đó, Minh Con mò tới lấy trộm, cầm con dao nhọn đang nạy hòm. Toản Quảng nghe động thức dậy, ôm chầm lấy Minh Con từ phía sau. Minh Con bị tóm bất ngờ nên đâm ngược ra sau để giải vây, không ngờ thọc mũi dao nhọn đúng ngay vào tim Toản làm anh ta chết ngay tức khắc! Sau đó, Minh Con bị xử trong một phiên tòa thiết lập ngay trong trại, kêu án 18 năm. Cả ba anh Chiến Chàm, Yên Con và Minh Con đều có ở chung buồng với tôi một thời gian trên khu kỷ luật, trong đó Minh Con sống chung buồng với tôi lâu nhất. Minh Con người nhỏ bé, lúc đó khoảng 18 tuổi, nhưng đã là lưu manh chuyên nghiệp từ năm 12, ăn cắp lẹ như sóc và đi Trường Bộ, tức nhà tù Thiếu niên phạm pháp, từ năm 13 tuổi.

          Luật lệ trong tù tới lúc này cũng khá co giãn, không còn khắt khe như những năm đầu. Người đời thường nói“hát lâu thì chầu mỏi”. Hoàn cảnh trong tù cũng vậy, lúc đó, chúng tôi nhận thấy rõ tâm trạng mỏi mệt bao trùm trại Thanh Cẩm. Không phải chỉ những người tù cảm thấy mỏi mệt mà ngay cả những cán bộ làm việc trong tù cũng vậy.

          Bầu khí căng thẳng, sắt máu, giáo điều và đầy hận thù của những năm đầu khi chúng tôi mới được chuyển ra Bắc không còn nữa và cơn sốt thời cuộc sau khi cộng sản chiếm miền Nam đã giảm cường độ một cách rõ rệt. Một điều ai cũng thấy là bầu khí trong trại tù lúc này dễ thở hơn rất nhiều so với cái thời hắc ám của 10 năm về trước.
           

          Cỏ dại được mùa

          Nhớ lại thời gian mới tới trại này 10 năm về trước, tôi vẫn còn cảm thấy lạnh người và khó hiểu. Tại sao vào thời kỳ đó, lòng dạ con người trở nên kinh khủng như vậy? Hay là lòng hận thù giữa người với người giống như một thứ dịch dễ lây và nhiều người bị nhiễm? Tại sao vào những năm  đó, trại Thanh Cẩm lại hội tụ nhiều con người hắc ám như thế? Những người có nhiệm vụ áp đảo và trừng trị tù như cán bộ trực trại, cán bộ an ninh, cán bộ võ trang, hoặc những người thay mặt cán bộ để áp đảo tù nhân như các anh trật tự thì không nói làm gì. Đàng này những anh tù được chỉ định làm các việc chuyên môn cũng hắc ám không kém, như anh văn hóa, và cả anh y tá nữa!

          Thời Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát làm trật tự, trong trại  có một anh tù làm y tá tên Hiền. Vai trò y tá phải hiểu là để xoa dịu sự đau khổ thể xác cho tù nhân, nhưng anh y tá tên Hiền này lại chẳng “hiền” chút nào. Anh thật là ‘‘dữ ’’ và ác đức nên được anh em tặng cho danh hiệu “lương y như đao phủ’’ thay vì ‘‘lương y như  từ mẫu’’ như người đời thường hay nói! Riêng anh tù làm văn hóa tên là Thuật thì phải nói là quá quắt.

          Chức vụ gọi là văn hóa tức là lo việc phát báo chí, thư từ, quà cáp, giúp cán bộ trong các buổi học tập, nhưng anh văn hóa Thuật này là một biệt lệ. Lúc bấy giờ, Thuật còn rất trẻ, có lẽ chừng 26 tuổi (năm 1979) là cùng. Nghe nói anh là một sinh viên bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Người Thuật thấp bé con con, mặt thỏn, mũi nhọn, đi chân chữ bát, nói năng sắc bén. Thời kỳ đó tôi đang bị cùm chân trong nhà kỷ luật sau vụ vượt ngục bất thành. Tôi ở trong buồng kỷ luật cùng với 4 người khác. Ban ngày chúng tôi được tháo cùm.

          Một buổi sáng nọ, trước giờ cho ăn, tôi đứng bên trong cửa sổ với một anh bạn khác. Hai người chúng tôi trao đổi câu chuyện có mùi “phản động”. Trước lúc nói chuyện, tôi đã cẩn thận nhìn ra ngoài cửa sổ, thường thì cán bộ và trật tự chỉ lên trong giờ cho ăn, và lúc này chưa tới giờ ăn. Khi đang mải mê câu chuyện, tự nhiên tôi có linh tính như có người bên ngoài đang nghe lóm, nên dí mặt vào song sắt nhìn ra ngoài lần nữa cho yên tâm. Vì tường nhà kỷ luật rất dầy và cửa sổ lại hẹp, chừng 50 phân vuông nên tầm nhìn ra ngoài rất hạn hẹp.
           
          Khi tôi dí sát mặt vào song sắt nhìn ra thì vừa thấy Thuật đang đứng yên, dựa lưng vào tường. Anh ta đứng nép sát lưng vào vách tường, sát bên cửa sổ. Anh ta đã đứng đó tự bao giờ và nghe tất cả những gì chúng tôi nói. Bị bắt quả tang, tôi ngượng ngùng làm sao! Khi vừa trông thấy tôi, Thuật tiến lại đứng ngay bên ngoài, chỉ cách tôi bằng một song sắt. Trong lúc tôi đang bối rối và ngượng ngùng, chưa biết phải làm gì thì Thuật lên tiếng, giọng nhẹ nhàng và sắc bén:

             - Hai anh nãy giờ nói cái gì?

              Chúng tôi yên lặng, chưa biết trả lời sao thì Thuật lên tiếng nói tiếp:

             - Anh Lễ, nãy giờ anh nói cái gì? Tiếp tục nói đi. Tôi nghe anh nói nhiều lắm, mà sao bây giờ anh câm? Nói đi! Nói nữa đi!

              Tôi thấy tình thế này quái đản và trơ trẽn quá, nên rời chỗ đứng, định bước vào phía trong, nhưng Thuật lên giọng gọi lại:

             - Anh Lễ, đứng đây, anh không được đi! Anh bước lại đây, tôi muốn nghe anh nói!

              Lúc đó, vừa xấu hổ, vừa bực mình, vừa điên tiết trước thái độ quá quắt của anh tù trẻ con này, nên tôi bước lại cái thớt nằm bằng xi măng  và ngồi xuống, không thèm quay lại cửa sổ. Thái độ này của tôi làm Thuật nổi giận nên nói to vọng vào:

             - Anh Lễ, lại đây! Hay anh muốn tôi xuống gọi cán bộ lên?

          Tôi chợt suy nghĩ rất nhanh, nếu không trở lại cửa, anh ta sẽ bực tức xuống gọi cán bộ hoặc trật tự lên, chắc chắn tôi lại bị một trận đòn nữa, trong khi lần hành hạ vừa rồi làm tôi chưa đi đứng vững. Nghĩ như vậy, tôi bước trở lại cửa và đối diện với Thuật. Anh ta từ bên ngoài chỉ ngón tay gần đụng vào trán tôi, nghiêm mặt nói:

            - Các anh hãy liệu thần hồn! Vào đây rồi hãy bỏ tư tưởng phản động đi nhá. Anh ăn đòn như thế vẫn chưa đủ hả anh Lễ?

          Tôi ngượng ngùng đứng lặng yên như trời trồng. Sau câu đó, Thuật dừng lại một chút, đoạn tiếp tục:

             - Lần này tôi tha cho, nhưng hãy liệu thần hồn, tôi bắt được mấy anh nói chuyện phản động một lần nữa thì đừng có trách.

          Nói xong, anh ta bỏ di. Chúng tôi quay lại chỗ nằm, nhìn nhau thinh lặng. Riêng tôi cảm thấy như máu đang sôi sùng sục lên trong quyết quản làm mặt tôi nóng bừng. Nhưng trong hoàn cảnh đó đành phải cắn răng chịu đựng.
           

          Tình thế đổi thay

          Những năm về sau này cuộc sống chúng tôi trong trại Thanh Cẩm dễ thở hơn. Sau những đợt tù chính trị miền Nam được tha về hoặc được chuyển vào Nam, có một số tù hình sự được bổ sung vào và con số tù nhân trong trại lúc nào cũng ở con số chừng 400 người. Khi trật tự Bảy Chà được tha về, thì một anh tù hình sự tên là Tơ lên thay thế làm trật tự. Anh trật tự hình sự này cao to và rất khỏe. Đám tù hình sự rất kiêng nể anh. Mặc dù vậy anh đối xử với số tù chính trị còn lại và nhất là đối với các tù nhân Linh mục rất tử tế và kính nể. Ngược lại chúng tôi cũng giúp anh về nhiều mặt vì lúc đó chúng tôi nhận được quà tiếp tế từ miền Nam tương đối dễ dàng.

          Chúng tôi gọi anh trật tự Tơ bằng cái tên thân mật là“Jimmy” theo cách thức trong báo viết tên của vị tổng thống Hoa Kỳ lúc bấy giờ là ông Jimmy “Ca-Tơ “. Điều đáng nói là suốt thời gian 4 năm từ 1977 tới 1981, ông Jimmy” Ca-Tơ “ làm tổng thống Mỹ, tôi chỉ biết tên ông trên mặt báo nhưng chưa bao giờ được trông thấy hình của ông nên cũng chẳng hình dung được con người ông ra sao!
          Tính từ năm 1979, hai năm sau ngày tôi ra Bắc, đến nay đã gần 10 năm qua, tình thế lúc nầy đã khác đi rất nhiều. Tù nhân chúng tôi được liên lạc với gia đình, được có người nhà trong Nam ra thăm nuôi và được nhận quà gửi ra theo đường bưu diện. Cuộc sống trong tù khá hơn và những người có gia đình khá giả hay có bà con nước ngoài tiếp tế thì dư thừa, sống xa hoa trong trại. Trong khi đó, các cán bộ vẫn thiếu thốn, nghèo xơ nghèo xác. Dần dần, họ hiểu ra những công thức chính trị rỗng tuếch không làm cho bao tử người ta đầy, không mang lại cơm hai bữa, không mang lại áo quần, thuốc men cho cuộc sống hàng ngày.

          Nếu cả nước lúc đó đang lâm vào tình trạng đói khổ, thì các các bộ làm việc trong các nhà tù là những người thiệt thòi nhất. Trong tình thế đó, đồng tiền lại ngoi lên chiếm vị trí cố hữu ngàn đời của nó, như lối định nghĩa đồng tiền của mấy anh tù hình sự bằng mấy câu có vần như sau:“Đồng tiền là tiên là phật,là sức  bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là đà danh vọng, là lọng che thân, là cân công lý. Đồng tiền hết ý!”

          Và đồng tiền “hết ý” thật! Chính đồng tiền đã trở thành cây cầu bắc ngang lằn ranh giữa cán bộ và tù nhân để tạo nên mối tương quan hai chiều. Trong mối tương quan này, cả hai cùng có lợi. Vào những năm cuối cùng ở trại Thanh Cẩm, các anh em Linh mục chúng tôi sống chung nhau trong một khu vực ngăn cách với số tù nhân khác. Lúc bấy giờ có một số giáo dân xứ Bắc Hải ở khu vực Ngã Ba Ông Tạ trong Nam vì thương hoàn cảnh các Linh mục bị tù quá lâu nên đã tự động quyên góp và tổ chức gởi quà cho chúng tôi theo đường bưu điện. Nhờ đó cuộc sống của nhóm Linh mục không còn phải thiếu thốn như các năm đầu.

          Chúng tôi không hề biết mặt những ân nhân hiếm có này, chỉ biết họ qua các tên đề ngoài những gói quà và các thư ngắn kèm theo. Dần dần chúng tôi trở nên thân thiết với các bà các cô trong nhóm ân nhân đó. Trong hoàn cảnh ấy chỉ có các phụ nữ mới có thể làm các việc như thế mà không sợ bị dòm ngó, theo dõi. Tôi vẫn nhớ và biết ơn những chị em trong nhóm này như các chị Đinh Thị Thập, Nguyễn Thị Đương, Cát Thị Kim Chi, hai chị em Trần Thị Nhị và Trần Thị Kim Loan, Ông Bàø Kim Tâm và một số người khác nữa mà tôi không nhớ tên.
          Ngoài ra lúc đó anh em Linh mục trong tù cũng nhận được quà tiếp tế của Thầy Chiểu, Cha Vũ Khoa Cử, Cha Phạm Hữu Nam tù Sài Gòn và của cha Mai, thay mặt đức Hồng Y Trịnh Văn Căn ở Hà Nội gởi giúp chúng tôi. Cha Phạm Hữu Nam ở tù chung với chúng tôi nhưng được về sớm. Khi về Sài Gòn, cha Nam đã cùng với người cháu là cô Nguyễn Thị Hải rất tận tình lo gởi quà giúp cho số Linh mục còn lại trong tù.

          Các Linh mục, tuy là ở khu kiên giam nhưng nhờ sựï giao tế quà cáp với cán bộ, nên thỉnh thoảng chúng tôi cũng tiếp xúc được với anh em trong các buồng khác. Nhờ đó, chúng tôi có thể giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho một số người cần giúp, nhất là những người sống trong trại lâu năm mà không có thân nhân, đặc biệt là nhóm tù hình sự. Vì sự giúp đỡ rộng rãi đó mà anh em trong trại lúc bấy giờ, mỗi khi nhận được quà, thường gọi đùa là “Vatican viện trợ!”
          Lúc đó chúng tôi cũng được phát báo để đọc hàng ngày, tiếng trong tù gọi đọc báo la “học tập báo chí”. Chỉ có hai tờ báo là tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Tôi để ý thấy lúc bấy giờ người ta dùng hai chữ nhân dân khá nhiều. Cái gì cũng nhân dân, tòa án Nhân Dân, Công an Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Viện kiểm sát Nhân Dân. Có điều tôi không hiểu và vẫn còn thắc mắc hoài là tại làm sao người ta lại không gọi Ngân Hàng Nhân Dân mà lại gọi là Ngân Hàng Nhà Nước!
           
          Tin tức báo chí thật ra chẳng có gì đáng chú ý. Vì là cơ quan tuyên truyền của đảng nên các bài báo phần nhiều nặng nề chính trị đầy những lý luận khô khan và nặng nề. Báo Quân Đội Nhân Dân thì thỉnh thoảng còn có các bài viết về khoa học, lịch sử, y học...Còn báo Nhân Dân thì  toàn chính trị là chính trị.  Cầm tờ báo lên chẳng biết đọc cái gì!

          Nơi trang nhất của báo Nhân Dân bao giờ cũng đăng tin tức về thành quả nông nghiệp. Thành tích thu hoạch các vụ Hè Thu, vụ Đông Xuân của hợp tác xã này hoặc hợp tác xã nọ là bao nhiêu tấn thóc. Bao giờ các vụ thu hoạch này cũng vượt chỉ tiêu. Có những hợp tác xã vượt chỉ tiêu thấy mà phát sợ. Đọc tin tức nông nghiệp trên báo Nhân Dân nhiều lúc tôi đâm ra lo. Nếu tình trạng bội thu này kéo dài mà nhà nước ta  không lo xuất khẩu gạo cho nhanh thì đất nước ta lấy kho lẫm đâu mà chứa cho hết số thóc vượt chỉ tiêu! Có lần chia sẻ sự lo lắng này với một anh bạn tù, anh mỉm cười nói nhỏ vào tai tôi:“Anh đừng có lo, trong tờ báo Nhân Dân này chỉ có cái ...địa chỉ tòa soạn là in đúng thôi!”

          Điểm đặc biệt của báo Nhân Dân là rất ít đăng hình ảnh. Chỉ trừ một bức hình nho nhỏ nơi trang nhất, hoặc cùng lắm là có thêm một hình nhỏ hơn ở cuối trang, còn lại kín cả tờ báo toàn chữ là chữ!  Bình thường cầm tờ báo lên đã chóng mặt với cái rừng chữ, nhưng nếu vào các dịp đại hội đảng thì chữ nghĩa càng nhiều và nhỏ hơn! Tôi nhớ những lần tờ báo đăng nguyên văn bản báo cáo chính trị của Tổng Bí Thư  đảng. Nhìn bản báo cáo chính trị trải dài hết trang này qua trang khác của tờ báo làm tôi rợn người.

          Có lần tôi cũng quyết tâm đọc thử một lần coi người ta nói cái gì trong bản báo cáo chính trị đó mà chữ nghĩa tràng giang đại hải như vậy. Sau khi đọc mỏi cả mắt tôi mới thấy người ta viết thật nhiều nhưng ý chẳng được bao nhiêu. Tôi chợt nghĩ thương cho các đại biểu ngồi trong hội trường phải nghe cho hết bản báo cáo chính trị này, thỉnh thoảng còn những chỗ dừng lại để vỗ tay theo người đọc nữa, chắc cũng mệt không kém gì tôi đang ngồi đập đá dưới nắng mùa hè trong trại tù  Thanh Cẩm trong ngày có gió lào!

          Báo Quân Đội Nhân Dân dễ đọc hơn, vì còn có những bài thuộc phạm vi nghiên cứu hoặc tin tức thời sự kèm theo, với khá nhiều hình ảnh. Qua đó chúng tôi biết một phần nào tín tức bên ngoài. Cũng trong báo Quân Đôi Nhân Dân này có lần tôi đọc loạt bài đăng làm nhiều kỳ về “tên phản động Võ Đại Tôn” từ nước ngoài về cố ý xâm nhập biên giới để chống phá chánh quyền cách mạng đã bị “quân đội Nhân Dân ta “ bắt giam và xét xử tại Hà Nội” vào năm 1982. Bài báo kèm theo khá nhiều hình ảnh của “tên phản động Võ Đại Tôn” lúc bị xét xử và đưa ra trình diện với báo chí trong và ngoài nước tại Hà Nội. Dĩ nhiên lúc đọc tin đó tôi rất quý mến và cảm phục tinh thần bất khuất của Đại tá Võ Đại Tôn.

          Cũng có thời gian tôi đọc loạt bài rất dài nói về cái chết của ”tên phản động Hoàng Cơ Minh” kèm theo với nhiều hình ảnh về “tội ác phản cách mạng” của nhóm Mặt Trận do Hoàng Cơ Minh cầm đầu xâm nhập phá hoại...Dĩ nhiên là tôi phải đọc ...giữa hai hàng chữ.  Khi đọc các tin tức liên quan tới các ông Võ Đại Tôn và Hoàng Cơ Minh đó, tôi cảm thấy vui và nghĩ rằng ít ra trong thời buổi lúc bấy giờ còn có được những con người như vậy.
           
          Cũng nhớ lần tôi đọc thấy trong báo Quân Đội Nhân Dân đăng bức hình của ông Nguyễn Cao Kỳ, mang kính đen, đang chen chúc giữa đám đông cố ôm càng máy bay trực thăng ở tòa Đại Sứ Mỹ để di tản khỏi Sài Gòn trong một ngày cuối tháng tư năm 1975. Tôi không biết đây là hình thật hay người ta dũng kỹ thuật ghép hình để cố ý bêu xấu ông. Bên dưới tấm hình in những lời lẽ có tính cách sỉ nhục ông Kỳ khá nặng nề. 
            
          Tù nhân trại Thanh Cẩm, năm nào chúng tôi cũng có một đợt học tập chính trị trên hội trường nằm tận ngoài cơ quan. Những lớp này được tổ chức chung cho cả hình sự lẫn tù chính trị, có một cán bộ tuyên huấn từ trung ương về nói chuyện và thường thì năm nào cũng một cán bộ đó. Vì cứ bổn cũ soạn lại nên chúng tôi thuộc gần như nằm lòng những gì ông sắp nói. Trong các bài học tập chính trị, năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện ông đi thăm nước Kuwait, là nước có nhiều dầu hỏa, và thấy trẻ con xứ đó chơi đánh đáo bằng những đồng tiền vàng. Ông nói mỏ dầu nước ta còn lớn hơn mỏ dầu ở Kuwait, và sẽ có lúc trẻ con Việt Nam sẽ chơi đánh đáo bằng tiền vàng.

          Vì năm nào ông ta cũng kể lại câu chuyện đó nên mỗi lần được thông báo có đợt học tập chính trị, chúng tôi bảo nhau:“Chuẩn bị sắp có đợt...đánh đáo!” Và đúng y như vậy, ông cán bộ này nói một thôi một hồi rồi thì bắt đầu...đánh đáo bằng tiền vàng. Cho tới một lần kia, trong lúc ông ta đang say sưa...đánh đáo thì giữa hội trường vang lên một giọng nói thật to, át cả tiếng cán bộ tuyên huấn:

             - ĐM!Ăn sắn mà nói phét!

          Nghe câu đó, cả hội trường cười rần, nhưng chỉ có tù hình sự dám cười, còn tù chính trị chúng tôi cứ phải giả vờ như không nghe! Người cán bộ tuyên huấn đang...đánh đáo bị mất hứng, dừng lại, trong khi cán bộ quản giáo đội hình sự đứng lên quát to:
           
            - Anh nào ăn nói bố láo thế hả? Anh nào? Anh nào?

          Khi biết là một anh tù thuộc diện lưu manh đã nói, cán bộ chỉ mắng qua loa rồi bỏ qua. Nếu là tù chính trị chúng tôi, chắc là hậu quả không lường được.
           

          Cây đa cũ, bến đò xưa

          Ngày 27 tháng Giêng năm 1988, bất thần chúng tôi được lệnh chuyển trại! Như vậy, tính ra tôi đã ở trại Thanh Cẩm còn thiếu 6 tháng nữa là đúng 10 năm. Trong lần chuyển trại này, tất cả tù chính trị miền Nam cùng với nhóm tù Trung Quốc đều rời trại Thanh Cẩm và được đưa về trại Nam Hà, trong tỉnh Hà Nam Ninh. Trại Nam Hà đối với những người khác là chỗ mới, nhưng riêng với tôi, đây là cuộc tái ngộ, vì tôi đã sống ở trại này 11 năm về trước, khi được chuyển từ trong Nam ra vào tháng Tư, 1977.
           
          Tôi quay trở lại trại Nam Hà với tâm trạng chán chường và buồn nản của con người đang đi trong một vòng tròn khép kín. Mười một năm qua với bao đổi thay trong số những anh em bạn bè đã ở đây với tôi trước kia. Có người đã chết, có người đã được về, một số chuyển vào các trại trong miền Nam và một số nhỏ vẫn đang còn ở đây. Riêng tôi, bị gọi ra trong đêm Giáng sinh 1977 để đưa lên trại trừng giới “Cổng Trời”, rồi 8 tháng sau được chuyển về “đáy địa ngục” Thanh Cẩm và bây giờ lại lộn trở về trại Nam Hà. Lúc từ giã ra đi, tôi là một thanh niên khỏe mạnh 34 tuổi. Hôm nay trở lại, tôi đã là một người trung niên 45 tuổi, thương tật đầy người và tóc đã trổ màu muối tiêu. Thật là ngán ngẩm và trớ trêu cho cuộc đời!

          Trại Nam Hà không thay đổi nhiều trong thập niên qua, chỉ có thêm một số dãy nhà cạnh bên nhà bếp nằm sát bờ tường hướng ra cổng trại. Nhưng điều đập vào mắt tôi mạnh nhất là sự bừa bãi, lộn xộn và bệ rạc của các buồng giam. Ngày tôi còn ở đây, phía sau các buồng là đường đi rộng rãi. Bây giờ, nơi đó được che thêm những tấm vải bạt, vải nhựa chi chít như các sạp cá chợ Cầu Ông Lãnh! Ngày trước, chung quanh các buồng sạch sẽ, thoáng mát, bây giờ chất cao ngất nào hòm rương, nào thùng thau, nào xoong chảo, chén bát, bao bì, túi cói... không thiếu một thứ gì trên cõi đời này. Thật chẳng khác nào khu chợ chó đường Hàm Nghi trong những năm cộng sản chưa chiếm miền Nam.

          Khi tới nơi, tôi mới biết là cũng có nhiều tốp tù nhân miền Nam từ các trại khác rải rác ở miền Bắc cũng được đưa hết về đây, biến trại Nam Hà thành một kho chứa hàng. Vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, con số tù nhân trong trại trở nên đông đúc một cách khác thường, nhưng tôi không biết rõ là bao nhiêu.

          Về đây, tôi gặp lại một số người ở chung với tôi trước kia. Tất cả đã thay đổi rất nhiều qua năm tháng vì sự lao nhọc, vì thiếu thốn và đói khát trong tù. Có những người đã từng ở chung đội với tôi trước kia, gặp lại nhau vô cùng mừng rỡ. Khi hỏi thăm mới biết đa số đã chết, phần nhiều là chết đói, và được chôn ở nghĩa địa nằm sát bờ rào trại mà ngày tôi ra đi, nghĩa địa này chưa có. Hỏi thăm kỹ mới biết phần lớn những người chết là thành phần trẻ. Trong lúc đói quá và không tự kềm chế được, họ đã ăn các loại rau rừng dơ bẩn và phần đông chết vì bị kiết lỵ.

          Lần này tôi về đây, trong trại có một số tướng lãnh miền Nam. Những người này tới trại sau khi tôi đã được chuyển đi. Tôi không biết nhiều các vị tướng này, duy chỉ có Tướng Trần Bá Di là tôi quen, vì lúc ông làm Tư lệnh Sư đoàn 9 đóng ở Vĩnh Long, cũng là lúc tôi đang làm việc tại Nhà thờ Chánh tòa. Tướng Di là người Công giáo và thường hay đi lễ nhà thờ đó, nên chúng tôi biết nhau. Tôi cũng gặp một số Linh mục Tuyên úy từ các trại khác về đây. Trong số đó có mấy người là bạn học với tôi trong Đại Chủng viện Sài Gòn, một số khác tôi chỉ nghe tên nhưng chưa biết nhau bao giờ.
           

          Vòng tròn khép kín

          Sáng hôm sau, số tù trại Thanh Cẩm chúng tôi được phân phối vào các đội và các buồng. Tình cờ tôi được trở lại buồng cũ trước kia, buồng 6, nơi tôi bị gọi ra trong đêm Giáng Sinh 1977. Chẳng phải hạnh phúc gì khi được trở lại buồng cũ, vì buồng nào cũng chỉ là nhốt tù! Nhưng dầu sao nó cũng để lại những dấu ấn kỷ niệm quen quen của đời tù.

          Vào buồng cũ, tôi lại cố ý chiếm cái chỗ cũ trước kia của tôi trong góc phía trên. Nhìn lên bờ tường, tôi vẫn còn thấy cây đinh mà chính tay tôi đã đóng 11 năm về trước để treo lon nước. Cây đinh vẫn còn đó nhưng đầu đã mòn bóng láng.

          Đêm đầu tiên, chập chờn trong giấc ngủ, tôi nằm nhắm mắt nhưng cứ tưởng như mình đang nằm ở đây vào đêm 23 tháng 12 năm 1977. Trong phút chốc, quãng thời gian 11 năm của đời lao tù lướt qua như không hiện hữu.
           
          Tôi tưởng chừng như có nghe kể một câu chuyện về một người tù nào đó bị gọi ra khỏi buồng 6 này trong đêm Giáng Sinh 11 năm về trước. Người đó vô tình lại trùng tên và trùng họ với tôi. Số phận người đó ra sao kể từ đêm Giáng Sinh năm đó tôi không biết được. Còn tôi đang nằm đây, ngủ một giấc ngủ thật dài đúng 11 năm, một giấc ngủ thật nhiều mộng mị và hôm nay chợt giật mình thức giấc. Khi tỉnh dậy mở mắt ra nhìn lên tường vẫn còn thấy cái lon Guigoz đựng nước uống treo lủng lẳng trên cây đinh tôi đóng trên tường. Có khác chăng là bạn bè nằm kế bên bây giờ là những người mới, già nua và mệt mỏi.
           
          Ngày hôm sau và những ngày kế tiếp, chúng tôi vẫn chưa đi lao động. Khi tới một trại mới, tù nhân còn phải lo làm các thủ tục hành chánh, khám xét đồ đạc, lo khám bệnh, lo việc lưu ký tiền và đồ vật... Cán bộ trong trại toàn là những người lạ, chỉ có một người tôi đã gặp 11 năm về trước, đó là Thượng úy Thịnh. Khi chúng tôi mới tới trại Nam Hà năm 1977, anh này mới là Thượng sĩ trực trại. Tôi nhớ rất rõ vì anh có những nét đặc biệt khó quên. Người anh cao to, nước da đen, chân mày rậm và xước. Khi bước đi, lưng anh hơi khum và khuỳnh hai cánh tay cho oai vệ hơn. Thời đó, Thượng sĩ Thịnh là một thứ hung thần và được chúng tôi tặng cho biệt hiệu là “Quận Hách”. Bây giờ, sau 11 năm, gặp lại “Quận Hách” đã là Thượng úy, nhưng có lẽ bị thất sủng nên chỉ là quản giáo coi một đội hình sự làm thủy lợi.

          Cán bộ trực trại bây giờ là Trung úy Lực, khoảng ngoài 30 tuổi, nước da ngăm đen. Mặc dù còn trẻ, nhưng tóc anh đã bạc khá nhiều. Trung úy Lực không mấy khi cười nói, nhưng anh em ở đây lâu cho biết, anh ta rất tốt và dễ dàng. Sau này, tôi được biết đa số tù nhân ở đây là người có của, họ đã giúp cán bộ trực trại và các cán bộ khác rất nhiều và điều này đã tạo nên sự thân thiện, gần gũi giữa cán bộ và tù nhân. Qua ngày thứ hai, chúng tôi lo làm thủ tục gửi tiền lưu ký.

          Vào những năm sau cùng ở trại Thanh Cẩm, tù nhân được liên lạc với gia đình khá dễ dàng nên nhiều người được gia đình gửi tiền ra cho. Nhưng với luật lệ trong tù, chúng tôi không được giữ tiền mặt mà phải gửi lưu ký, giống như mở trương mục trong ngân hàng. Tiền bạc và sổ sách do cán bộ tài vụ của trại cất giữ. Khi cần mua bán gì, cán bộ sẽ ghi vào sổ riêng của từng người. Lúc còn ở trại Thanh Cẩm, chúng tôi cũng nhờ cán bộ giúp mua nhiều thứ hàng, nhưng khi về trại này, chúng tôi mới ngạc nhiên về tình trạng mua bán công khai và nhộn nhịp như một siêu thị! Thậm chí trong trại Nam Hà này có vài người chuyên nghề buôn bán để gửi tiền về gia đình, những người này được tặng danh hiệu là “Chành”. Có vài anh “Chành” buôn bán phát đạt bằng mấy lần người dân bên ngoài! Điều này càng xác định hơn nữa cho sức mạnh của đồng tiền.
           

          Gió thoảng trưa hè

          Cán bộ tài vụ trại Nam Hà lúc bấy giờ là một phụ nữ. Hôm đó, trong khi chúng tôi đang chộn rộn thu xếp đồ đạc trước cửa buồng thì cô ta bước vô sân, tay cầm quyển sổ bìa cứng, màu đen khá dầy. Khác với thái độ cách ngăn và hách dịch của nhiều cán bộ lo phần hành chuyên môn mà tôi từng gặp ở các trại, cô cán bộ tài vụ này rất duyên dáng, bước vào sân với nụ cười thật tươi trên môi. Khi chúng tôi quay lại chào, cô cười đáp:

             - Gớm! Sao mà các anh lắm đồ đạc thế!

          Đó là câu nói đáp lại lời chào. Sau đó, cô tự giới thiệu là cán bộ tài vụ và nói anh đội trưởng cho anh em tới để xác nhận tiền lưu ký của trại Thanh Cẩm chuyển đến. Cô nói khi cô gọi tên ai thì tới xác nhận, nếu đúng thì ký tên vào sổ. Nói xong, cô ngồi ngay xuống bậc thềm cao khoảng 5 tấc của buồng giam, trong khi chúng tôi đứng vây quanh chờ đợi.

          Trong khi chờ gọi tên mình, tôi để ý quan sát người nữ cán bộ khoảng 30 tuổi này. Cô đã gây ấn tượng tốt ngay từ phút đầu. Vóc người cô nhỏ nhắn và gọn gàng, nước da trắng ngần, khuôn mặt trái xoan và có sự hài hòa cân đối giữa mũi, miệng và đôi mắt. Cô mặc áo sơ mi trắng, quần đen, chân mang dép nhựa đen có gót khá cao. Tôi đoán là cô muốn cho mình cao hơn một chút với đôi dép này. Đầu để trần, mái tóc được kẹp và vắt ngược lên đỉnh đầu một cách đơn giản, nhưng làn tóc mây dài lại được nhẹ nhàng thả hờ xuống hai bên má. Cô không trang điểm, không chải chuốt, tất cả đều bình dị và tự nhiên.

          Mới nhìn qua, cô không phải là người phụ nữ đẹp sắc sảo, nhưng cô có cái đẹp bình dị và rất duyên dáng trong cách gợi chuyện và nói cười với những người đang tiếp xúc. Người nữ cán bộ này nói năng chậm rãi, nhẹ nhàng và khi cười để lộ hàm răng trắng có 2 chiếc răng khểnh. Khi nói chuyện, cô có thói quen kéo dài tiếng sau cùng tạo nên vẻ độc đáo. Cô hay dùng chữ “gớm” một cách khéo léo để diễn tả thật nhiều ý nghĩa trong nhiều trường hợp. Có một anh, có lẽ vì chữ ký có vẻ tài tử, sau khi kiểm lại số tiền và ký tên vào sổ, được cô chiếu cố với nụ cười hồn nhiên khi nhìn anh ký, với câu:

             - Ối giời ơi! Chữ ký của anh sao mà ‘‘gớm’’ thế!

          Sau khi hoàn tất công việc, cô ở nán lại trong sân, hỏi thăm chúng tôi một lúc rồi từ giã ra đi. Có mấy người bàn tán sau khi cô bước ra khỏi sân.

          Những ngày tiếp theo, tôi tìm dịp thăm lại các bạn đã ở với tôi tại  trại này trước kia. Trong số đó, có Mục sư người Thượng là Điểu Huynh. Ngày trước, chúng tôi chơi rất thân và thường để giờ chia sẻ Kinh Thánh với nhau. Từ 11 năm qua, anh Điểu Huynh vẫn ở trại này, nên qua anh, tôi có thể biết tất cả những diễn biến trong trại. Những biến cố gì quan trọng đã xảy ra, những nhóm nào tới, những ai đã được về, ai đã chết và chết bằng cách nào, những ai được chuyển về Nam v.v...Về lại chốn xưa, nhìn khung cảnh trại và cảnh vật chung quanh, tự nhiên tôi nhớ rất nhiều những người bạn ở cùng phòng, mà bây giờ đã nằm yên dưới lòng đất. Tôi nhớ từng người, từng tên, từng khuôn mặt, cả tính tình và cách ăn nói, cũng như lối pha trò đùa vui của họ.
           

          Giờ thứ hai mươi lăm

          Chúng tôi về đây không bao lâu thì có đợt tha thật đông và thật linh đình trong dịp Tết Mậu Thìn 1988 . Thì ra, sở dĩ tù nhân chính trị miền Nam các trại khác được tập trung về đây là để Nhà nước biểu diễn trong đợt tha ngoạn mục này. Đây là đợt phóng thích được tổ chức một cách rầm rộ nhất từ trước tới nay.
           
           Trong lễ phóng thích, có rất đông cán bộ trung ương cùng với phái đoàn báo chí và các hãng thông tấn trong và ngoài nước. Số tù chính trị miền Nam được tha trong đợt này lên gần tới con số ngàn người.

          Cũng trong lần tha đó, tất cả tù nhân Linh mục đều được về chỉ còn sót lại hai người là cha Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Giáo phận Ban Mê Thuột và tôi. Cũng vì có các phóng viên nhà báo nên trong ngày lễ phóng thích đó, những người nào không được tha đã bị đưa đi giấu ngoài đồng. Một số khác, có tôi ở trong đó, bị nhốt trong các buồng nằm tận bìa rào của trại, cửa bị khóa, cửa sổ bịt kín và cổng vào buồng cũng khóa. Điều tệ hại hơn nữa là những người bị giấu này lại “quên” cho ăn, tới khi lễ phóng thích xong và phái đoàn báo chí rời trại rồi mới được ăn bữa sáng, lúc bấy giờ đã gần 4 giờ chiều! Hôm đó, những ai được tha về thì hí hửng như lên mây, còn người ở lại đói mờ con mắt!

          Sáng hôm sau, trại tù Nam Hà trở nên tưng bừng náo nhiệt chưa từng thấy. Hàng ngàn con người đi lại rộn ràng giữa các buồng và trong sân. Chỗ nào cũng vang dậy tiếng cười, tiếng nói, tiếng gọi nhau ơi ới. Tôi buồn bã ngồi một chỗ, tựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và theo dõi cảnh người ta bắt tay từ giã, nhắn gửi, dặn dò nhau, trông chẳng khác nào một đàn ong vỡ tổ.

          Những thứ đồ đạc, hòm rương, bao bì, túi cói, nồi niêu, xoong chảo mà hàng chục năm nay cố xếp gọn vào một nơi nào đó, bây giờ được vỡ tung ra nằm la liệt khắp nơi. Đồ ăn, thức uống, gạo thóc, củi đuốc được lôi ra. Thứ gì có thể mang theo được thì mang, cái gì trối cho người ở lại thì cho, còn cái gì không cần thì vất đi. Hàng mấy trăm con người được tha về, bày biện đồ đạc đầy ngập cả phòng, ra tới ngoài sân. Trông họ như những người đang sống trên mây. Họ cứ phải di chuyển liên tục.

          Hình như sự vui mừng quá độ lúc đó bắt buộc miệng họ phải nói, chân họ phải bước đi. Họ lăng xăng bắt tay người này, vỗ vai người nọ, mừng mừng tủi tủi, chúc nhau muôn điều may mắn trong cuộc sống tương lai màu hồng trước mắt. Lúc đó, tự nhiên tôi nhớ lại hình ảnh trong phim “Ten Commandments”(Mười Điều Răn), đoạn diễn tả cảnh người Do Thái nhộn nhịp trong ngày ông Moses dẫn họ ra khỏi nước Ai cập, chấm dứt thời kỳ nô lệ.

          Khi nhìn cảnh anh em bắt tay từ giã ra về, lòng tôi buồn vô hạn. Nhất là khi thấy các anh em Linh mục đã từng chung sống với tôi trong nhiều năm qua, bây giờ ra đi, khiến tôi bị hụt hẫng và cảm thấy bị mất mát quá lớn. Những năm tháng dài anh em sống chung với nhau, tôi không nhận thấy hết được ý nghĩa của một thứ tình gia đình. Giờ đây, qua giây phút chia tay, tôi chợt thấy trống vắng và mất đi sự hỗ trợ rất cần cho cuộc sống trong tù. Lúc đó, hai hàng nước mắt tôi chảy dài một cách tự nhiên và tôi không sao kềm hãm được. Không hiểu tại sao tôi đã khóc! Về sau này, có thì giờ suy nghĩ, tôi biết lúc đó tôi khóc vì phải chia tay với những người quá thân ái, quá gần gũi và giúp tôi rất nhiều trong những năm chung sống. Nhất là giai đoạn tôi vừa ở nhà kỷ luật mới ra, với thân tàn ma dại và tinh thần sa sút.

          Sự nâng đỡ về tinh thần và vật chất của các anh em Linh mục thật quý báu đối với tôi lúc bấy giờ. Một lý do khác làm nước mắt tôi chảy dài là tôi cảm thấy quá xót xa cho thân phận mình. Tôi thật sự bị hụt hẫng vì đã đặt hy vọng quá nhiều sẽ có tên trong đợt tha này. Sáng hôm đó, có nhiều anh em Linh mục đi ngang chỗ tôi nằm nhưng chỉ dám liếc nhìn mà không dám tới. Tôi biết là các anh em rất thương và cảm thông với tâm trạng đau buồn của tôi nên không tới bắt tay từ giã, sợ nỗi buồn của tôi sẽ tăng thêm.

          Nhớ lại thời gian 30 anh em Linh mục chúng tôi ở riêng biệt trong khu kiên giam trại Thanh Cẩm, tôi coi đó như một hồng ân cho riêng đời tù của tôi. Mặc dù sống chung lâu ngày trong phòng giam chật hẹp và thiếu thốn mọi tiện nghi, đôi khi giữa các anh em Linh mục cũng có những va chạm, xích mích và cãi vã nhau, có lúc cũng nặng lời to tiếng, nhưng không bao giờ chúng tôi để các sự va chạm ấy kéo dài qua đêm.
           
          Vì ở trong khu vực riêng biệt, có tường rào bao bọc, nên chúng tôi có điều kiện thuận tiện để dâng Thánh Lễ với nhau hằng ngày, sau giờ điểm danh vào buồng. Trước khi cùng dâng Thánh Lễ, nếu ai có điều gì buồn phiền và xích mích nhau trong ngày, anh em xin lỗi và tha thứ cho nhau để mọi người trở nên hòa thuận tốt đẹp, như không có chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên, đã là con người thì ai cũng có bản tính khác nhau, dù họ là Linh mục hay người thường. Hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã có khi đã đẩy con người xuống đáy tầng địa ngục. Lúc đó, bản tính bất toàn của con người muốn tìm một chút thoải mái riêng tư cũng bộc lộ qua cách hành sử của vài anh em Linh mục, kể cả tôi.

          Dầu vậy, xét chung, tôi phải ghi nhận là tập thể Linh mục trong tù lúc đó là một tập thể rất tốt. Đại đa số là những con người hiền hậu, rộng lượng và đầy tình bác ái. Không phải chỉ đối xử tốt trong tình thương yêu với nhau mà thôi, mà còn tốt với tất cả mọi tù nhân khác, khi điều kiện có thể giúp đỡ họ được. Tôi rất hãnh diện có mặt giữa tập thể Linh mục đó. Họ như là những chứng nhân đích thực của tình yêu Thiên Chúa giữa những anh em tù và cả về phía cán bộ nữa.

          Lúc bấy giờ, tôi là người trẻ tuổi nhất trong số Linh mục mà phần đông là những Tuyên úy Quân đội trình diện đi học tập, chỉ có chừng 5 hoặc 7 người bị bắt vì lý do khác như tôi. Một điều tôi ghi nhớ mãi và hứa là khi nào có dịp kể lại giai đoạn tù tội, tôi phải nói lên sự kính mến của tôi và của anh em đối với một vị Linh mục trong nhóm là cha Đinh Trọng Tự, Tuyên úy Quân đội thuộc Giáo phận Cần Thơ. Cha Tự học trên tôi 3 năm trong Đại Chủng viện Thánh Giuse tại Sài Gòn. Mặc dù trên tôi 3 lớp, nhưng cha Tự đã khá lớn tuổi vì cha đã có thời động viên đi quân dịch và mang cấp bậc Thiếu úy. Sau khi giải ngũ, ngài trở lại đi tu tiếp.

          Cha Đinh Trọng Tự lúc ở Thanh Cẩm quãng 45 tuổi, người gầy ốm và cao lêu khêu như cây tre miễu, nói năng nhỏ nhẹ và ôn tồn. Sống giữa tập thể anh em Linh mục, có kẻ lớn người nhỏ, cha Tự đã tỏ ra là một người hiền hòa thân ái và được tất cả anh em kính mến. Đặc biệt là nếu có sự va chạm cãi vã nhau giữa anh em, thì chính cha Tự là người làm hết mọi cánh để mang lại hòa khí giữa anh em. Thông thường, vai trò trung gian hòa giải của cha Tự đều được anh em nghe theo. Nhưng cũng có mấy lần gặp trường hợp căng thẳng quá, tôi thấy cha Tự đã phải khóc khi năn nỉ  hai người đang bất hòa tha thứ cho nhau.

          Tính tình nhân hậu và ôn hòa đó của cha Đinh Trọng Tự đã đóng góp rất nhiều trong sự mang lại đoàn kết và thân ái giữa tập thể anh em Linh mục trong tù. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi thường nói với nhau, nếu Tòa Thánh cho chúng tôi chọn một Giám mục để hướng dẫn cộng đồng dân Chúa trong tù, chúng tôi sẽ chọn cha Đinh Trọng Tự. Ngoài ra, giữa chúng tôi cũng có những Linh mục lớn tuổi và đáng kính. Các ngài để lại trong tôi sự thương mến và kính phục về tư cách, sự hiền từ và tinh thần bác ái cao độ như các cha Đinh Cao Thuấn, Cao Đức Thuận, Lê Đức Triệu (nhạc sĩ Hoài Đức), Phạm Ngọc Lan. Những Linh mục cao niên này thường được chúng tôi gọi là “Bố” để bày tỏ sự tôn kính.

          Khi những người được phóng thích đã ra về, trại Nam Hà trở nên xác xơ, buồn tẻ và trống vắng khác thường. Chỉ còn lại một ít tù chính trị miền Bắc và 350 người miền Nam. Sau đợt tha đó, tôi được chuyển qua một đội tạp dịch, lo dọn dẹp vệ sinh và các việc linh tinh khác bên trong trại. Đội này do anh Của, trước kia là Đại tá Tỉnh trưởng Châu Đốc, làm đội trưởng.

          Lúc bấy giờ, trong trại cũng còn lại 9 vị tướng, sống trong một buồng riêng và không đi lao động bên ngoài. Về phía Linh mục, còn lại 7 người của cả miền Bắc lẫn miền Nam. Miền Bắc có các Linh mục Thi, Hiểu và Vĩnh. Miền Nam có cha Nguyễn Bình Tĩnh và tôi, cộng thêm hai Linh mục, Nguyễn văn Lý và Lê Văn Nghiêm, thuộc Tổng giáo phận Huế, mới bị bắt 2 năm, đưa ra trại Thanh Cẩm với chúng tôi và cùng chuyển lên đây.
           

          Anh em chia lìa

          Đêm đầu tiên, sau khi các Linh mục được tha đã rời trại ra về, tôi nằm trằn trọc không sao ngủ được. Sự thất vọng ê chề đã làm tôi đau đớn. Phải nói là từ lúc bị bắt, không một lúc nào sự ước muốn tự do không hành hạ tôi. Những năm đầu, nhận biết thân phận mình nên tôi chưa dám mơ tưởng tới việc được tha về. Lúc đó, tư tưởng vượt ngục lại ám ảnh tôi rất mãnh liệt. Cho dù thời gian nào, trại nào, hoàn cảnh nào tôi cũng đều tìm cách vượt ngục, nếu không bằng cách này thì bằng cách khác, kể cả những cách nguy hiểm và liều lĩnh nhất.  Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979 tại trại Thanh Cẩm, tôi đã phải trả một giá quá đắt và sau vụ đó một thời gian rất lâu, tôi không còn hy vọng được tha như những tù nhân khác.

          Tới năm 1986, tức là 8 năm sau ngày vượt ngục bất thành, tôi lại bắt đầu có hy vọng vì trong thời gian đó có rất nhiều người được tha. Mỗi năm, số người được tha càng nhiều và những dịp cứu xét tha càng thường xuyên hơn. Lúc đó, ngồi nhìn những anh em được thơ thới hân hoan ra về, trong đó cũng có vài Linh mục, lòng tôi đầy những ước mơ, cho dù là một thứ hy vọng khá mong manh.
          Bắt đầu năm tù thứ 10, tôi càng hy vọng nhiều hơn, vì nghe nói mỗi lệnh tập trung cải tạo là 3 năm, mà tôi đã ở tù 10 năm, tức là được 3 lệnh rồi. Thông thường, những người đã ở tù 3 “lệnh”, sẽ dễ dàng được cứu xét hơn. Như tôi đã nói, mặc dù đây chỉ là thứ hy vọng mong manh, nhưng con người sống phải có cái gì để hy vọng, nếu không còn hy vọng thì còn gì là cuộc sống? Tâm trạng tôi lúc đó cũng như người mơ trúng số độc đắc. Mỗi tuần đều mua một tờ vé số để nuôi hy vọng có ngày trúng lô độc đắc, mặc dù biết là rất mong manh. Riêng tôi, giống như người mơ trúng số mà không có tiền mua vé số!

          Bước qua năm thứ 11, tôi càng hy vọng nhiều hơn. Mặc dù lúc bấy giờ tôi vẫn còn ở khu kiên giam, nhưng ngay cả trong khu kiên giam và kỷ luật cũng có người bất thần được gọi tên ra về như trường hợp cha Phạm Hữu Nam, được gọi ra về từ trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm! Biết đâu có ngày sẽ có tên mình? Niềm ước mơ thầm kín này thường ám ảnh tôi một cách mãnh liệt về đêm. Vì ban ngày còn phải đi lao động và biết bao nhiêu việc phải làm của kiếp tù, nên không có thì giờ để mơ mộng.

          Sau vụ vượt ngục bất thành năm 1979, tôi bị đánh đập quá tàn nhẫn và sau đó bị cùm 3 năm làm cơ thể tôi quá suy nhược, nên lúc này, tôi không dám nghĩ tới chuyện vượt ngục nữa mà dành tất cả nghị lực cho những giấc mơ đẹp về viễn ảnh một ngày nào đó được trả tự do. Rất nhiều đêm, tôi nằm suy nghĩ và thử tưởng tượng xem lúc nghe có tên mình trong danh sách được tha, tôi sẽ mừng biết là chừng nào! Đây là một giấc mộng thật thích thú.

          Để trả lời câu hỏi đó, tôi cố nhớ lại tất cả những dịp vui của đời mình để so sánh với tin vui được trả tự do như thế nào. Thật ra, đời tôi không có có nhiều dịp vui lớn ngoài những lần như thi đậu tiểu học, đậu trung học đệ nhất cấp, đậu tú tài, tốt nghiệp chương trình Đại Chủng viện và được thụ phong Linh mục. Những dịp đó cũng rất vui nhưng nếu được nghe tin trả tự do chắc là tôi sẽ mừng nhất!
          Qua năm thứ 12, niềm hy vọng lại càng thúc bách tôi khi gần như toàn bộ số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến của tôi đã được tha về gần hết. Qua năm thứ 13, tôi càng nôn nóng hơn vì sau đợt tha dịp đầu năm Dương lịch, con số tù chính trị trại Thanh Cẩm chỉ còn lại không tới 100 người cùng với 10 người Trung quốc đã bị giam ở đây hơn 15 năm rồi. Trong lúc tôi hy vọng và chờ đợi niềm vui lớn thì bất thần có lệnh chuyển trại vào cuối tháng Giêng năm 1988. Tất cả tù chính trị, kể cả các anh Trung Quốc đều phải chuyển đi. Và tôi trở về trại Nam Hà này như đã nói ở trên!
           

          Nhận ra ý Chúa

          Đêm đó, trong lúc tuyệt vọng, tôi ngồi trong màn cầu nguyện:“Lạy Chúa, xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con. Con đã tù 13 năm và chịu bao nhiêu thứ cực hình. Các anh em khác chưa ai phải chịu cảnh khốn khổ như con, nhưng đã được về tất cả, riêng con phải tiếp tục chịu cảnh này. Xin cho con biết ý Chúa muốn gì nơi con.” Cầu nguyện xong, tôi ngồi yên lặng, và lúc đó tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng nói bên tai:“Cha muốn con tiếp tục ở đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ. Và cuối cùng, cha muốn con được cùng chết với họ ở đây trong môi trường lao lý này.”

          Thật là bất ngờ như một phép la! Tự nhiên một nỗi vui vô cùng lớn lao xâm chiếm tâm hồn tôi. Một nỗi vui mà suốt cả cuộc đời tôi chưa bao giờ có được. Niềm vui của người được chọn và trao cho một sứ mệnh mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nhất là những người tù cùng khổ. Tôi coi đây là sự mặc khải riêng tư của Chúa đối với tôi. Bỗng chốc tôi thấy con người tôi khác hẳn. Tôi không còn mong được ra về, cho dù một chút cũng không. Từ nay nhà tù là nơi tôi sống, những tù nhân khốn khổ là anh em tôi để tôi yêu thương và an ủi họ, các cán bộ là những người tôi phải cảm hóa và chỉ cho họ con đường đức tin và hy vọng.

          Qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đả trở nên một con người khác, một con người được giao sứ mạng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giữa anh em. Việc đầu tiên tôi làm trong buổi sáng hôm đó là ngồi xuống viết một lá thư cho chị tôi ở miền Nam. Trong suốt 13 năm qua chị tôi đã lo lắng cho tôi. Những năm về sau này, chị đã 2 lần lặn lội ra trại Thanh Cẩm thăm nuôi tôi. Nhưng vì lúc đó tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật, nên lần đầu chị không được gặp tôi và lần sau được gặp 15 phút trong chuyến đi từ khi rời nhà đến lúc trở về vừa đúng 33 ngày! Trong thơ tôi bảo chị từ nay đừng gửi quà cho tôi nữa, vì trong 13 năm qua gia đình chẳng còn gì. Tôi cho biết lúc này tôi rất hạnh phúc và đầy đủ, chị không phải lo nghĩ gì về tôi nữa.

          Những ngày tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống hạnh phúc trong tù.  Trước hết, tôi để ý chọn một số anh em để cho thành hình một nhóm nhỏ mà tôi tạm gọi là “Cộng đoàn tình thương”. Mục đích của nhóm là an ủi và giúp đỡ những anh em khốn khổ, đặc biệt là những người không có thân nhân gia đình thăm nuôi tiếp tế. Lúc đó các anh em được tha về có để lại cho tôi khá nhiều thức ăn, đồ dùng, quần áo. Tôi giao cho anh em trong nhóm đem phân phát giúp những người thực sự cần giúp đỡ.

          Lúc này nhóm anh em gần gũi với tôi nhất là những anh tù Trung Quốc, những người đã sống chung với tôi thật lâu trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Giữa chúng tôi có mối liên hệ tình cảm sâu xa. Lợi dụng lúc sống chung, tôi đã học tiếng Quan Thoại với họ. Tôi đã cố gắng học không ngừng trong 2 năm và sau đó sống chung với mấy anh Trung Quốc nên có thể thực tập mỗi ngày và khi lên tới trại Nam Hà tôi đã nói rất thông thạo tiếng Quan Thoại. Tôi đã dùng ngôn ngữ này để dạy giáo lý cho họ. Trong những ngày nghỉ, tôi thường tới các buồng thăm viếng anh em, nhất là những người mới được Rửa tội trong tù. Riêng buồng 9 là buồng các vị tướng lãnh ở, không ai được vào ra tiếp xúc. Nhưng lúc bấy giờ qua sự liên lạc khéo léo với cán bộ trực trại, tôi lấy lý do xin qua học đàn Ghi-ta với bác Lê Minh Đảo, nhưng thật ra là để giúp về mặt tinh thần cho các tướng lãnh này.

          Ngày 28 tháng Năm 1988, tức là hai tháng sau đợt tha rầm rộ vào dịp Tết, trại Nam Hà lại có biến cố lớn. Tất cả tù nhân miền Nam được đưa vô trại Hàm Tân trong Nam, chỉ có 3 người còn lọt sổ ở lại. Ngoài tôi ra còn có Linh mục Nguyễn Bình Tĩnh, Giáo phận Ban Mê Thuột, bị tình nghi dính líu tới nhóm Fulro và anh Nguyễn Đức Khuân bị bắt vì tham gia phong trào Phục Quốc. Lúc ở trại Thanh Cẩm anh sáng tác bản nhạc có đoạn gọi Hồ Chí Minh là con quỉ đỏ. Chẳng may bản nhạc bị bại lộ, anh bị đánh tơi bời và sau đó đưa lên cùm trên kỷ luật chung với tôi một thời gian khá lâu.

          Nếu trại Nam Hà bắt đầu xác xơ kể từ sau đợt tha gần như “xóa sổ” hôm Tết, thì bây giờ trở nên tê liệt khi tù chính trị miền Nam không còn nữa. Tình thế bất ngờ tạo cho tôi thành một thứ “đại tư bản” trong tù. Số anh em được tha và số vừa chuyển về Nam để lại cho tôi tất cả “tài sản” của họ. Nếu trước đây có thời kỳ tôi không có cái quần để mặc, cái bát đựng thức ăn, cái lon Guigoz đựng nước uống thì bây giờ tôi có hàng mấy trăm cái hòm, thùng thau, chén bát, bao bị, áo quần, thuốc men v.v... không biết cơ man nào mà kể. Lúc này nhóm “Cộng đoàn tình thương” của chúng tôi cũng đã bắt đầu lớn mạnh và số đồ dùng anh em để lại thật đúng lúc. Anh em trong nhóm tôi thực tập cuộc sống chia sẻ với những người cùng khổ, một điều mà họ không bao giờ nghĩ là có thể có trong môi trường này.

          Sau khi trơ trọi một mình ở lại, tôi càng nhận rõ được sứ mệnh của mình hơn. Lúc đó tôi được nhập vào đội chính trị miền Bắc với công tác đi đào thủy lợi. Trong buồng tôi cũng có những anh Trung Quốc, tuy không cùng đội nhưng sống chung buồng. Những anh Trung Quốc chỉ lao động bên trong trại, không được ra ngoài. Từ đó, hàng đêm tôi dạy giáo lý và dâng Thánh Lễ trong buồng.

          Một hôm, tôi Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc và quyết định dâng Lễ công khai. Tối hôm đó sau khi vào buồng, anh em nhộn nhịp cười nói, uống chè, hút thuốc lào như thường lệ. Đúng giờ, tôi đứng lên vỗ tay mấy tiếng làm mọi người ngỡ ngàng, sau đó tôi nói thật to để cả buồng cùng nghe:“Tôi xin anh em làm ơn giữ thinh lặng trong chốc lát, tôi sắp sửa Rửa tội cho hai người bạn, và đây là một nghi lễ tôn giáo rất quan trọng. Mặc dù anh em không phải là Thiên Chúa Giáo nhưng tôi cũng xin anh em tôn trọng nghi lễ này. Tôi cũng nói với các anh em là khỏi báo cáo với cán bộ vì việc tôi làm lễ công khai, ban giám thị đã biết.”

          Điều rất lạ lùng, sau khi nghe tôi nói, cả buồng lặng yên và tôi cử hành nghi thức Rửa tội cho 2 anh Trung Quốc một cách thật trang nghiêm, cảm động.
          Sau đó, tôi sống chung một buồng với 10 anh tù Trung Quốc. Những anh Trung Quốc này, trong những năm sau cùng ở Thanh Cẩm, đã được các Linh mục giúp rất nhiều, cả về tinh thần lẫn vật chất, nên họ rất thân thiện và gần gũi với các Linh mục. Riêng đối với cá nhân tôi, còn thân thiết với họ hơn vì đã sống chung với nhau mấy năm trong kỷ luật và hơn nữa tôi còn nói được tiếng của họ. Đó cũng là yếu tố nối kết tình thân. Khi lên trại Nam Hà và sống chung buồng, tôi dạy Giáo lý cho một số anh Trung Quốc, trong đó có anh Chu Vạn Hồi. 
           
          Cho tới lúc đó, Chu Vạn Hồi vẫn chưa nói được tiếng Việt, chỉ bặp bẹ ít câu. Những năm qua, khi sống gần các Linh mục, Chu Vạn Hồi đã tỏ ra thân ái, ngoan ngoãn và biến đổi như một con người mới. Anh ta thường hay tâm sự với tôi và hối hận vì các việc làm sai trái cướp bóc trước kia. Anh ta xin tôi giúp anh có niềm hy vọng để sống vì lúc đó anh còn quá trẻ, mới vừa ngoài ba mươi tuổi.
          Ngay từ ở Thanh Cẩm và sau này lên Nam Ha,ø tôi đã dành nhiều thời giờ để hướng dẫn Chu Vạn Hồi và vài anh Trung Quốc khác. Tôi dùng nhiều gương các vị thánh cũng đã có thời lầm lạc như Thánh Phaolô để nói với anh là Thiên Chúa sẽ thương những con người lầm lạc biết hồi tâm thống hối. Sau thời gian tìm hiểu và thử thách, tôi Rửa tội cho Chu Vạn Hồi trong một nghi lễ khá long trọng tại trại tù Nam Hà. Anh chọn Tên Thánh là Phaolô, một vị Tông đồ của dân ngoại mà anh rất sùng kính. Tôi cũng nhận Hồi làm đứa con tinh thần của tôi và Hồi rất sung sướng về điều này.
           

          Câu chuyện hãi hùng

          Nếu việc Rửa tội cho Chu Vạn Hồi làm tôi cảm thấy hạnh phúc trong sứ mệnh Linh mục, thì thái độ rất lạ lùng của Hồi trong đêm vừa Rửa tội xong đó đã làm tôi ngạc nhiên. Khoảng 9 giờ tối hôm đó, Hồi tới chỗ tôi, nằm xuống bên cạnh, quay sang ôm lấy vai tôi, gục đầu vào ngực tôi và bắt đầu khóc nức nở. Cử chỉ này của Hồi làm tôi cảm động và ngạc nhiên. Tôi thắc mắc không hiểu nguyên nhân nào đã khiến một tên cướp trước kia bây giờ lai có thái độ như vậy? Hay là anh khóc vì quá vui mừng sau khi chịu phép Rửa tội? Tôi ngạc nhiên hỏi:

             - Chu Vạn Hồi, con làm sao vậy?

          Nghe tôi hỏi, Hồi càng khóc to hơn. Nước mắt chảy ướt cả vai tôi và vai anh ta run rẩy trong bàn tay tôi. Biết là Hồi có điều gì cảm động mãnh liệt nên tôi không hỏi nữa nhưng dùng bàn tay phải xoa nhẹ trên đôi vai rất gầy của người bạn tù ngoại quốc vốn là tên cướp mà bây giờ đã tìm thấy con đường Đức tin và lại là con tinh thần của tôi. Sau cơn xúc động, Hồi ngước mặt lên nói trong nước mắt:

             - Bố ơi! Có lần con đã sắp giết bố để ăn thịt rồi!

          Nói xong được câu đó, Hồi khóc rống lên làm những anh em kế bên kinh ngạc, nhưng không ai biết chúng tôi nói gì. Hình như cảm thấy nhẹ người sau câu đó, Hồi trở nên khá bình tĩnh sau khi nước mắt đã chảy xuống nhiều. Tôi vẫn ôm vai nó hỏi:

             - Chu Vạn Hồi, con nói gì? Sao lại giết bố? Bố không hiểu chuyện gì cả?

              Hồi trả lời tôi cách rành rọt từng tiếng một. Lúc đó, tôi đã nói tiếng Quan Thoại rất sõi, nên hiểu hết những gì Hồi nói:

             - Làm sao bố hiểu được chuyện này khi con và Lý Đức Nghĩa giữ kín trong lòng từ nhiều năm qua. Bây giờ Lưu Tùng chết rồi, chỉ còn lại con và Lý Đức Nghĩa. Con gọi nó lại đây để xin lỗi bố sau khi con kể lại đầu đuôi câu chuyện mà bố đã biết qua một phần.

          Nói xong, Hồi bước xuống đi gọi Nghĩa nằm tận cuối buồng. Tôi ngồi một mình phân vân không hiểu Hồi muốn nói tới chuyện gì. Chuyện gì mà nó nói là tôi đã biết một phần. Chu Vạn Hồi làm tôi rất thắc mắc. Khi cả hai trở lại, Hồi nói:

             - Lý Đức Nghĩa, anh ngồi xuống đây. Đêm nay tôi đã là con của Chúa, và người mà chúng ta vẫn gọi là Anh Lễ ngày trước bây giờ là bố của tôi. Tôi phải kể lại câu chuyện của buồng 5 ở kỷ luật Thanh Cẩm năm xưa để xin bố tôi tha thứ cho chúng mình.

              Nghe nhắc tới đó, Nghĩa hiểu ngay câu chuyện nên có vẻ bối rối, nói nhỏ với Hồi bằng tiếng Quan Thoại mà chính nó đã dạy cho tôi:

             - Anh Hồi à, chuyện đã qua từ lâu rồi còn nhắc lại làm gì?

             - Mặc dù là đã lâu, nhưng tôi không an tâm khi chưa thú tội với người mà bây giờ tôi gọi là bố. Anh hãy ngồi xuống đây với tôi.

              Nói xong, Hồi ngồi dịch sang một bên và kéo Nghĩa ngồi xuống. Cả ba người chúng tôi ngồi dựa lưng vào tường, tôi ngồi giữa hai người. Chu Vạn Hồi bắt đầu kể:

             - Câu chuyện đã 8 năm qua rồi, nhưng con nhắc lại và tin chắc là bố còn nhớ. Bố còn nhớ cái đêm thằng 'lưu manh' bị tụi con đập trong buồng 5, nó la hét và cán bộ phải lên mang đi bệnh xá?

             - Có, bố còn nhớ rõ lắm, chuyện đó xảy ra trong buồng 5 và bố ở buồng 4 kế bên nghe nó la hét thất thanh trong đêm và cán bộ lên đưa nó ra khỏi buồng trong đêm.
           
             - Đúng rồi, như vậy là bố còn nhớ.

              Tôi ngạc nhiên hỏi:

             - Nhưng tại sao con muốn nhắc lại chuyện đó? Có gì đặc biệt không?

             - Vì chuyện này có liên quan tới bố. Nếu lúc này bố không là bố của con thì con không nhắc lại làm gì, nhưng bây giờ bố là cha mẹ con, con không thể giữ trong lòng, nhưng phải nói ra, mặc dù đã nhiều năm qua rồi.

              Tự nãy giờ Nghĩa chỉ ngồi yên cúi đầu, lúc biết là Hồi sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện, Nghĩa quay sang tôi, nói:

             - Anh Lễ, tôi xin lỗi!

              Tôi nói với cả hai:

             - Tôi chẳng hiểu gì cả. Hãy kể tôi nghe đi!

              Chu Vạn Hồi khoanh tay, mắt nhìn lên trần nhà và bắt đầu câu chuyện một cách chậm rãi, dĩ nhiên là bằng tiếng Quan Thoại:

             - Lúc đó, con và Lý Đức Nghĩa vì quá tuyệt vọng và khổ sở đói khát sau hơn chục năm tù, và lúc nào, ở đâu cũng bị nhốt trong kỷ luật. Chúng con muốn chết, nhưng phải chết cách nào để cho mọi người biết là vì sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam mà chúng con phải làm như vậy. Chúng con quyết định gây tiếng vang bằng cách giết và ăn thịt bất cứ một người tù Việt Nam nào bước vào buồng 5 lúc bấy giờ.
           
                    Chúng con đã định, sau khi giết chết, sẽ moi bộ đồ lòng ăn trước, vẫn để xác chết nằm đắp chăn, cán bộ điểm danh nhìn vào vẫn thấy đủ số và một người đang ngủ. Sau đó chúng con sẽ lóc thịt và ăn dần cho tới khi bị phát hiện. Dĩ nhiên là tụi con sẽ bị bắn, nhưng chúng con muốn dùng hành động man rợ này để tố cáo sự dã man của chế độ Cộng sản Việt Nam. Vì thực tình lúc đó chúng con không còn thiết sống nữa. Trong buồng có Lưu Tùng, nhưng dù sao nó cũng là người Trung Quốc nên chúng con không giết nó. Nó ốm yếu như một cây sậy, giết lúc nào cũng được! Chúng con chỉ lấy phần ăn của nó đi và chỉ cho nó ăn vừa đủ sống.

          Hồi dừng lại, với tay lấy lon nước thấm giọng. Tôi ngồi yên lặng và rùng mình khi nghe Hồi chầm chậm kể lại câu chuyện mà tôi đã biết được một phần, vì chính tôi lúc đó đã can thiệp để cứu Lưu Tùng. Hồi tiếp:

             - Chiều hôm đó, cán bộ đưa một thằng ‘lưu manh’ vào buồng con và cơ hội đã tới. Vừa xỏ chân vào cùm xong là nó lăn ra ngủ. Điều này càng dễ dàng cho chúng con thực hiện kế hoạch và chúng con nói tiếng Phổ thông với nhau nó chẳng hiểu gì. Nó bị cùm với Lưu Tùng thớt bên kia và nằm phía ngoài. Thớt bên này con nằm bên ngoài, Nghĩa nằm bên trong.

               Chờ cho đèn điện trong buồng tắt, trong lúc nó đang ngủ mê, con bước một chân xuống sàn lấy cái ống bẩu nước tiểu và đổ hết nước tiểu ra. Cái ống bẩu đó dài và nặng, con dùng hết sức lực của hai cánh tay giáng một phát cực mạnh vào đầu nó. Con nghĩ là nó sẽ chết ngay vì cú đập đầu bất ngờ này, nhưng cái thằng nó khỏe. Ống bẩu vỡ tan tành, máu văng tung tóe nhưng nó không chết mà lại hét to lên: “Báo cáo cán bộ! Báo cáo cán bộ!” Lúc đó con chồm qua dùng hai tay bóp cổ nó như thế này... Con làm bố coi!

          Anh ta dùng hai bàn tay bọc lấy phía sau cổ tôi. Hai ngón tay cái như thép của nó ấn nhẹ vào dưới cổ phía trước của tôi. Nó chỉ ấn nhẹ,  mà tôi có cảm tưởng là cổ họng tôi đã vỡ ra. Tôi phải kéo tay nó. Hồi nói tiếp:
           
             - Bố thấy đó, con chỉ ấn nhẹ mà bố không chịu nổi nhưng không hiểu sao đêm đó con dùng hết sức lực ấn xuống mà nó không chết. Rõ ràng là ý Chúa còn thương con, nếu nó chết thì con đâu có ngày hôm nay. Đây là điều lạ lùng.
           Nhưng còn một việc lạ lùng khác mà con biết là Chúa cứu con, đó là khi cán bộ nghe tiếng la hét chạy lên. Lúc đó, con chồm xuống đứng áng ngang cửa sổ cố ý che đèn bấm cán bộ rọi vào buồng quan sát. Bất thần có một cán bộ võ trang chọc thật mạnh lưỡi lê ở đầu súng vào buồng, đúng vào giữa thanh sắt song cửa sổ tóe lửa. Theo phản xạ, con né sang một bên, và lưỡi lê chệch sang phía bên kia. Đúng là phép lạ Chúa cứu con, vì nếu con né phía ngược lại thì lưỡi lê sẽ chọc đúng vào tim! Bây giờ con mới hiểu là Chúa đã cứu con.

          Hồi dừng lại, khoanh tay trước ngực ngước mắt lên trong thái độ tạ ơn. Xong anh kể tiếp:
           
             - Cán bộ mở cửa buồng đưa thằng ‘lưu manh’ đi xuống bệnh xá vì bị vỡ đầu máu me lênh láng. Khi cán bộ xuống rồi, con và Nghĩa bèn vắt máu từ cái chăn của nó được gần đầy bát máu. Tụi con dùng đóm tre đun bát máu thằng ‘lưu manh’ cho nóng lên và chia nhau uống! Lưu Tùng nhìn thấy cảnh đó run sợ nói không ra lời. Lúc bấy giờ đói quá con uống máu người mà không thấy tanh gì cả. Lạ một điều là uống máu người xong tụi con giống như bị nghiện, càng mong có dịp được uống nữa!

          Tôi cảm thấy lạnh người khi nghe Chu Vạn Hồi và Lý Đức Nghĩa, hai người mà tôi rất thương mến trong những năm qua, lại là những kẻ đã từng uống máu người. Lúc này tôi mới lên tiếng:

             - Lúc nãy, con nói là con định giết bố, lúc nào?

             - Bố có nhớ lần đổi buồng ngay sau đó và cán bộ Thanh định đưa bố vào buồng 5 của con không?

              Tôi nhớ rất rõ việc đó, nên nói:

             - Có, nhưng bố không vào và xin cán bộ cho đi buồng khác vì bố và ông Khương mới đánh Lý Đức Nghĩa trước đó, nếu bố vào...

              Hồi cướp lời tôi:

              - Bố ơi! Đây là một phép lạ khác, phép lạ này còn lớn hơn nữa. Bố biết không, sau lần giết hụt anh tù hình sự mà không bị phát hiện, tụi con đã bàn lại kế hoạch và nạn nhân thứ hai không thể nào sống sót được. Chúng con đang mong đợi thì trưa hôm đó cán bộ đưa bố vào. Lúc bấy giờ, chúng con đã trở thành loài thú say máu người và sẽ giết để ăn thịt bất cứ người tù Việt Nam nào. Khi biết người đó là bố chúng con càng mừng hơn, vì giết và ăn thịt một người tù chính trị miền Nam có tên tuổi như bố thì cái chết của chúng con sẽ được thế giới biết tới nhiều hơn. Vả lại, Lý Đức Nghĩa rất mừng vì có dịp báo thù. Nó nói bố và ông Khương đánh nó hôm Tết vì nó cướp bánh chưng.

                   Lúc bố đứng ngoài sân, trong buồng con và Nghĩa đã bàn kế hoạch với nhau thật nhanh, không thể bàn khi bố vào buồng vì bố biết tiếng Phổ Thông. Chúng con cũng đe Lưu Tùng, nếu nó làm một ám hiệu gì với bố nó sẽ chết ngay. Nhưng sau đó bố lại xin cán bộ không vào buồng con và cán bộ đưa Phi Tàu thay vào đó! Nếu bố vào buồng 5, tụi con đã giết bố rồi!

                  Khi Phi Tàu vào nhập bọn, chúng con càng có sức mạnh và quyết tâm giết người ăn thịt hơn. Nhưng chưa có dịp ra tay thì một hôm bị thằng đại ‘‘lưu manh’’ Bình Thanh xông vào buồng đánh Phi Tàu và Nghĩa nằm liệt hàng tháng trời. Con cũng bị đánh, nhưng nhẹ hơn, và ngay chiều hôm đó bị đổi buồng mỗi đứa một nơi!

              Hồi dừng lại, nắm lấy bàn tay tôi hôn và nói:

             - Xin bố tha thứ cho con!

              Nãy giờ, Nghĩa ngồi yên cúi đầu, lúc này mới lên tiếng lần thứ hai:

             - Anh Lễ, tôi xin lỗi anh!

          Tôi ngồi yên nhắm mắt và lạnh người khi hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua trong 3 năm tôi lăn lộn trong kỷ luật Thanh Cẩm. Thật tôi không thể ngờ có những chuyện như vậy đã xảy ra.

          Tôi nắm lấy tay hai người bạn tù Trung Quốc, những con người khốn cùng đã chia xẻ một phần cuộc đời của họ với tôi. Tôi nắm lấy bàn tay họ thật lâu và  ngồi yên, để cho hai hàng nước mắt tôi tuôn rơi. Thấy tôi ngồi yên, nước mắt chảy dài, Chu Vạn Hồi quay sang ôm lấy tôi và cả hai cùng khóc. Lúc đó, Nghĩa cúi đầu, miệng lẩm bẩm mấy câu tiếng Phổ Thông, một ngôn ngữ mà chính nó đã dạy cho tôi:

             - Lỳ cớ! Tui pủ xì!( Xin lỗi anh Lễ, xin lỗi!)
           

          Chúa nói trong con

          Hôm sau, tôi bị gọi lên gặp trại trưởng vì dâng Thánh Lễ công khai. Ông ta nạt nộ quát tháo, bảo tôi phải “câm miệng” lại, và còn dọa sẽ tống tôi vào cùm. Tôi trả lời rất khiêm tốn nhưng thẳng thắn:

             - Báo cáo cán bộ, tôi là một Linh mục, thì cho dù ở đâu tôi cũng phải làm nhiệm vụ Linh mục của tôi và việc làm của tôi không ảnh hưởng gì tới sự an ninh của trại. Cán bộ khỏi phải dọa nạt tôi. Việc cùm kẹp đánh đập tôi đã chịu quá quen trong tù rồi. Bây giờ còn lại hai điều tôi xin với cán bộ. Một là bắn tôi chết, hai là để tôi làm nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.

          Thấy không thể lay chuyển được tôi, họ giao tôi lại cho cán bộ quản giáo. Hôm sau, cán bộ quản giáo gọi tôi tới, trách móc tôi việc dâng Lễ và giảng dạy công khai làm ban giám thị khiển trách anh. Cuối cùng anh nói:

             - Anh Lễ này, nếu anh không còn thương anh nữa thì xin anh thương tôi và vợ con tôi. Anh tiếp tục làm như thế, tôi là người gặp rắc rối trước tiên.

              Tôi trả lời:

             - Tôi cám ơn cán bộ đã thông cảm với tôi, cán bộ đã nói thế thì từ nay tôi sẽ không dâng Thánh Lễ công khai nữa, nhưng sẽ dâng Lễ âm thầm.

          Các ngày Chúa Nhật và ngày nghỉ, nhóm chúng tôi ngồi quây quần ngoài sân và chia sẻ Lời Chúa với nhau. Lúc đầu, nhóm chỉ có những anh Trung Quốc nên tôi dùng tiếng Quan Thoại trong việc này, về sau có những người Việt nên tôi phải dùng hai thứ tiếng. Nhóm của chúng tôi càng ngày càng có nhiều người tham gia. Tôi dạy giáo lý và chuẩn bị Rửa tội cho 3 người trong thời gian sắp tới.

          Lúc đó, đội của tôi do một anh thanh niên người Dân Tộc làm đội trưởng. Cũng nên biết trong tù chúng tôi gọi tất cả những người không phải là người Kinh bằng một tên chung là người “Dân Tộc”, ý nói là dân tộc thiểu số. Có thể họ mà người Mường, người Mán, người Thượng, người Nùng... Công việc của đội chúng tôi là đào kinh dẫn nước vùng đầm lầy chung quanh trại Nam Hà để cố biến vùng này thành khu vực có thể canh tác được. Một thời gian sau, cán bộ chỉ định tôi thay thế anh người Dân Tộc làm đội trưởng vì anh này viết chữ không rành! Chính trong thời gian này, khi không còn những tù chính trị miền Nam, tôi có dịp tiếp xúc nhiều với những cán bộ có phần hành chuyên môn trong trại.
           

          Đội khai thác đá

          Đội tôi làm thủy lợi một thời gian thì chuyển qua khai thác đá để bán cho các hợp tác xã xây dựng các nơi, nhất là ở Hà Nội. Trại Nam Hà nằm trong một thung lũng, chung quanh núi non bao bọc. Con đường từ Phủ Lý vào trại hai bên là núi đá cao, và đội chúng tôi khai thác đá trong các dãy núi cao lởm chởm này. Đánh đá là một công việc nặng nhọc và đầy nguy hiểm. Tôi nghe kể lại trước đây có mấy tù nhân đã bỏ mạng hoặc thương tật khi làm công việc này. Vì thế, khi lãnh trách nhiệm cho đội đánh mìn khai thác đá, tôi đã phải hết sức cẩn thận để bảo vệ cho anh em. Công việc của đội chúng tôi gồm các khâu như sau:

          1. Chọn địa điểm đánh mìn: Việc này do chính tôi lựa chọn. Tôi phải tìm chỗ nào cho nổ mìn để có nhiều đá vỡ ra từ nhiều góc cạnh khác nhau, nhưng phải là nơi thuận tiện để người châm ngòi nổ có thể chạy nấp được.

          2. Đục lỗ vào đá để nhét thuốc nổ: Mỗi ngày tôi chọn từ 8 tới 10 chỗ tùy theo số người lao động trong đội. Sau đó tôi phân công từng đôi một để họ đục lỗ trong đá bằng cái búa nặng chừng 1 ký lô và một cây sắt đầu dẹp, gọi là cây “choàng”. Một người cầm búa, một người cầm choàng. Làm sao trong ngày mỗi cặp phải đục một lỗ sâu 1 thước vào trong đá.

          3. Nhét thuốc nổ và châm mìn: Đây là công việc nhẹ nhàng nhất nhưng lại là công việc nguy hiểm nhất. Tôi chọn một anh tù lanh lẹ và tháo vát làm công việc này. Trong khi cả đội lao động vất vả thì anh này lo dọn đường trên núi để chạy tới chỗ nấp an toàn sau khi châm mìn. Buổi chiều, sau khi các lỗ đục xong, anh lo việc nhồi thuốc nổ vào lỗ và phân chia dây cháy chậm tùy theo số lỗ và khoảng cách giữa các lỗ mìn cho hợp lý. Vì tiêu chuẩn dây cháy chậm chỉ có chừng ấy, anh phải phân ra để đốt và bảo đảm quả mìn đầu tiên không nổ trước khi anh chạy vào chỗ nấp đã chuẩn bị sẵn.  Có trường hợp anh tù bị nổ banh thây trước khi chạy tới chỗ nấp vì chia dây cháy chậm không hợp lý.

          4. Khâu dọn đá: Sau khi nổ mìn làm vỡ ra các tảng đá thật to, một nhóm tù sẽ lên vần cho rơi xuống bãi và dùng búa tạ 5 ký đập cho vỡ ra thành những tảng đá nhỏ bằng quả dưa.

          5. Khâu vác đá: Sau khi đá được đập ra thành cỡ vừa phải, những anh tù vác đá chất thành đống hình chữ nhật để đo thành từng khối giao cho các xe tải của hợp tác xã.

          Phần tôi, trong vai trò đội trưởng, có nhiệm vụ phân công cho anh em và theo dõi quan sát, đốc thúc anh em làm việc, cũng như cố gắng đừng để tai nạn xảy ra. Chính tôi là người quyết định giờ cho nổ mìn, nên trước đó tôi và anh đội phó ra đường cái gần bên báo hiệu cho xe cộ và người đi bộ. Mỗi ngày chúng tôi cho nổ mìn buổi chiều trước khi các xe tải lấy đá và chừng một tiếng đồng hồ trước khi thu quân. Sau khi nổ mìn xong, toán dọn đá phải lên lăn những tảng đá to xuống để sáng ngày đội có việc làm.  Trong thời gian tôi làm đội trưởng, mọi việc diễn tiến tốt đẹp, không xảy ra một ai nạn nào. Chỉ có một lần duy nhất bị trục trặc và gây ra sự cãi vã gay gắt giữa cán bộ quản giáo và tôi.

          Chiều hôm ấy, chúng tôi châm 10 lỗ mìn, nhưng chỉ nổ 9 tiếng và một quả bị lép. Đây là điều chúng tôi e ngại nhất, vì quả mìn lép có thể sẽ thúi luôn, hoặc có thể nổ lại bất cứ lúc nào, nhất là khi có sự chuyển động gần đó. Sau khi mìn nổ một lúc, cán bộ bảo tôi cho toán dọn đá lên. Tôi trả lời là còn một quả chưa nổ, nếu đội lên lúc này rất nguy hiểm, hẳn đợi lúc nữa.

          Khoảng chừng 15 phút sau, cán bộ quản giáo lại giục tôi cho đội lên dọn đá, tôi cũng nói chưa an toàn, vả lại chỉ còn nửa giờ nữa là thu quân nên tôi xin cho đội ngồi nghỉ sáng mai hãy dọn đá. Cán bộ không nghe, cho là tôi muốn chống đối, anh nói rằng làm như thế đội sẽ không đạt được mức khoán của ban giám thị.
           
          Tôi trả lời đây là sự trục trặc ngoài ý muốn, không phải vì đội lười biếng hoặc chống đối lao động. Mấy anh tù trong đội xanh mặt ngồi theo dõi cuộc cãi vã. Cuối cùng, cán bộ dọa sẽ đưa tôi lên ban giám thị, cho là tôi cãi lệnh cán bộ và có ý chống đối lao động. Dọa nạt tôi xong, anh ta trực tiếp ra lệnh cho đội lên dọn đá. Trong khi các anh tù còn đang do dự chưa biết nghe ai, tôi tới bên cán bộ nói thật bình tĩnh:
           
             - Báo cáo cán bộ, trước khi cán bộ trực tiếp ra lệnh cho đội, xin hãy cách chức đội trưởng của tôi. Nếu không tôi vẫn không đồng ý cho đội lên núi.

              Trong khi anh ta ngần ngừ và giận tím gan, nhưng không biết trả lời sao thì tôi nói thêm:

             - Nếu đội lên mà quả mìn lép phát nổ làm chết người, ai chịu trách nhiệm?

               Trong khi anh cán bộ trẻ tuổi nhưng rất hung hăng này định phản công, tôi đành phải chưng “kinh thánh” của họ ra, tôi nói tiếp:

             -Tôi còn nhớ bác Hồ có nói ‘Con người vốn quý’. Trong trường hợp này mạng sống con người phải quý hơn chỉ tiêu làm đá. Nếu cán bộ cho câu nói của bác Hồ là sai thì xin ký tên vào đây, rồi tôi cho đội lên!

          Nói xong, tôi đưa cuốn sổ ghi công của đội và cây bút. Nhưng anh đã bỏ đi. Tôi cho đội ngồi nghỉ cho tới giờ thâu quân. Trong thời gian làm đội trưởng, tôi tìm hết cách để bảo vệ anh em trong đội, vì tôi nghĩ nếu tù mà không thương tù thì đợi ai vào đây thương mình?
           

          Biểu lộ tình người

          Đi lao động một thời gian, tôi bị một trận kiết lỵ thập tử nhất sinh. Cũng may có thuốc anh em vô Nam để lại nên tôi qua khỏi nhưng còn yếu chưa có thể theo đội đi lao động. Lúc đó cha Hiểu là đội phó thay tôi coi đội, còn tôi nghỉ ở nhà lo giúp anh trực sinh buồng làm vệ sinh khu vực chung quanh. Một buổi sáng rảnh rỗi, tôi ngồi trong nhà ăn, đọc tác phẩm “Chiến tranh và Hòa Bình” của Léon Tolstoi. Bộ sách giá trị này của một người bạn vô Nam để lại cho tôi.

          Trong khi đang đọc thì Trung úy T., Sĩ quan an ninh của trại bước vào. Sẵn có óc cầu tiến và thích tìm hiểu, anh ta ngồi xuống với tôi và nói về tác phẩm này vì anh cũng đã đọc qua. Sau đó chúng tôi bàn về những tác phẩm hay mà anh ta đã đọc hoặc muốn đọc. Phần nhiều những sách anh nói tới, tôi đều đọc qua và chúng tôi bàn với nhau về chuyện văn chương rất tương đắc. Điều tôi nhận xét đầu tiên về người cán bộ này là anh thích văn chương, đọc sách nhiều, thích tìm hiểu nhưng chưa “tiêu hóa” được, đúng hơn là anh không đủ trình độ tiêu hóa những tư tưởng trong các tác phẩm anh đã đọc.

          Sau lần nói chuyện, thỉnh thoảng anh lại vào chỗ tôi chơi và câu chuyện thường là xoay quanh những vấn đề trong một vài quyển sách mà anh đọc. Chúng tôi cùng bàn với nhau rất tương đắc. Anh đọc khá nhiều loại sách của các tác giả Tây phương và cả Tam Quốc Chí, Thủy Hử và nhiều sách khác nữa.

          Thời gian sau, tôi khỏe lại và theo đội ra ngoài lao động nên ít khi gặp lại người cán bộ an ninh thích tìm hiểu về sách vở này. Một hôm, anh gọi tôi lên làm việc. Cũng nên biết qua, cán bộ an ninh trong trại quyền hạn rất lớn và khi gọi ai đi  “làm việc” thì hiểu là người đó không phải đi lao động. Sau khi xuất trại lao động xong, anh cho một cán bộ vào đưa tôi ra văn phòng của anh, nằm khá xa bên ngoài cổng trại.

          Khi tôi bước vào, anh đón tôi bằng một nụ cười, mặc dù đó không phải là nụ cười hoàn toàn thân ái, nhưng cũng không phải là nụ cười giả tạo. Phải nói là nụ cười của hai người đã có những lần nói chuyện với nhau về một vấn đề không nằm trong phạm vi giữa cán bộ và tù nhân, đó là vấn đề văn chương. Hôm đó, anh mặc quần màu vàng của công an, áo sơ mi trắng ngắn tay. Phòng làm việc này khá nhỏ và đơn sơ, chỉ có một tủ nhỏ có lẽ chứa hồ sơ, một cái bàn nhỏ bên trên có bộ chén trà và bao thuốc lá thơm. Bên cạnh bao thuốc lá có một bìa đựng hồ sơ mà tôi đoán là hồ sơ của tôi.

          Từ khi về lại trại Nam Hà tới giờ đã 5 tháng, nhưng tôi chưa bao giờ được gọi đi làm việc. Thật ra, cũng chẳng còn gì để mà họ khai thác. Những gì đã xảy ra trong 13 năm qua, họ đã biết quá rõ về tôi. Vả lại lúc này gần như tất cả những người tù miền Nam đã được về hết rồi, còn khai thác gì nơi tôi nữa. Nghĩ như vậy nên tôi rất bình thản, và nhất là tôi đã nhiều lần tiếp xúc với người cán bộ an ninh của trại này rồi. Sau khi pha trà và mời thuốc tôi một cách khá thân mật, anh ta nhẹ nhàng bảo tôi là những lần trước nói chuyện với tôi, anh thấy rất thích và hôm nay muốn để tôi ở nhà để nói chuyện tiếp.

          Lối mở đầu câu chuyện của anh làm bầu khí giữa hai người trở nên nhẹ nhàng và tự nhiên. Chúng tôi ngồi uống trà nói chuyện. Phần đầu câu chuyện liên quan tới sách vở, sau đó bàn qua về các trào lưu tư tưởng Âu Châu. Anh hỏi tôi về ngày tàn của đế quốc La Mã, về cuộc cách mạng Pháp năm 1789, những điều này anh có đọc nhưng không hiểu hết. Sau một lúc nói chuyện rất tự nhiên, anh hạ giọng hỏi tôi:

             - Anh Lễ, một phần nào anh đã hiểu tôi, vậy tôi muốn nghe anh nói thật ý nghĩ của mình. Anh nghĩ thế nào về chủ nghĩa cộng sản?

          Câu hỏi này của người Sĩ quan an ninh của trại làm tôi hơi đắn đo. Chưa bao giờ tôi gặp trường hợp như vậy cả. Anh ta nói đúng, một phần nào tôi đã hiểu được tư tưởng của người cán bộ có cái nhìn phóng khoáng này. Suy nghĩ một lúc, tôi nói rất thân ái:

             - Ông T. à, tôi không nghĩ là ông thăm dò tư tưởng tôi.

              Anh ta cười nhẹ, một cái cười có vẽ khổ tâm vì người đối thoại chưa tin nơi sự thành thật của mình, trong khi đã giãi bày cặn kẽ. Anh trả lời:

             - Anh Lễ, tôi đã đọc hồ sơ anh thật kỹ, và chính cũng vì hiểu anh nên tôi mời anh lên để nói chuyện riêng tư. Tôi còn phải thăm dò anh làm gì nữa.

          Nói xong, anh ta lật bề kia của bìa đựng hồ sơ của tôi, cho tôi thấy hàng chữ nằm ngang:“Thành phần không thể cải tạo được”, đóng bằng nét mực đen. Đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy cái bìa hồ sơ cá nhân của tôi. Tôi buồn bã đáp lời:

             - Ông T. à! Ông hỏi thì tôi phải nói, cho dù sau đó ông có cùm tôi, tôi cũng vẫn nói.

              Tôi dừng lại một chập rồi nói tiếp:

             - Mà nói cho cùng, tôi đã quen với cảnh bị cùm rồi, còn gì phải sợ nữa! Tôi nói thật lòng, tôi vẫn nghĩ là chế độ cộng sản không thể tồn tại được ông ạ!

              Nói xong, tôi nhìn cán bộ T.. Anh ngồi yên, gật đầu nhè nhẹ và hỏi:

             - Anh căn cứ vào đâu mà nghĩ như thế?

             - Câu hỏi của ông quá rộng, tôi không thể kể hết nguyên nhân. Nhưng chỉ nguyên một việc chủ nghĩa cộng-sản chủ trương đi ngược lại với  bản chất tự nhiên của con người là nhu cầu chiếm hữu cũng đủ nói lên điều tôi khẳng định. Quyền tư hữu là một quyền căn bản thiết thân của con người, nó đi liền với bản năng của con người. Ai cố gắng tước bỏ điều đó là chống lại với khuynh hướng tự nhiên, mà hễ điều gì đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thì không thể nào tồn tại được. Thực tế, quyền tư hữu con người có bị tước đoạt được hay không, ông là một đảng viên, ông hiểu rõ hơn tôi!

              Anh ta ngồi trầm ngâm sau câu trả lời khá dài của tôi. Một lúc sau anh ta nói, nói thật nhỏ chỉ vừa đủ hai người nghe:

             - Anh Lễ, anh hãy giữ suy nghĩ ấy trong lòng và đừng nói ra, không có lợi. Tôi cũng có suy nghĩ như anh. Nhưng anh biết hoàn cảnh tôi, tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ. Anh Lễ, tôi quý anh, nên tôi thành thật khuyên anh là khi nào được về anh hãy tìm cách ra khỏi nước mà sống. Phần tôi, không làm gì khác hơn được. Vả lại, còn miếng cơm manh áo của gia đình vợ con tôi nữa!

          Nghe anh nói, tôi rất cảm động. Vô tình tôi định cầm lấy bàn tay anh, nhưng chợt nhớ lại dù sao cũng còn bức tường ngăn cách giữa hai người mà lúc này chưa có thể vượt qua được, nên tôi dừng tay lại. Trong thâm tâm, tôi quý mến người cán bộ này hết sức và thương cho hoàn cảnh của anh. Từ đó, chúng tôi rất quý nhau. Bên ngoài chúng tôi bị hoàn cảnh ngăn cách nhưng bên trong chúng tôi đã coi nhau như bạn. Đúng hơn, anh ta coi tôi như một người anh.
           

          Cộng đoàn tình thương

          Trong thời gian này nhóm “Cộng đoàn tình thương” chúng tôi đang trên đà phát triển mạnh. Những anh tù tôi vừa Rửa tội xong đã trở nên những chiến sĩ đức tin rất nhiệt thành. Qua việc thực tập cuộc sống chia sẻ trong tù, các anh thấy có một lý tưởng để sống vì đây là một kinh nghiệm lạ lùng. Đối với các anh em đó, làm gì có cuộc sống chia sẻ trong môi trường chỉ biết có bắt nạt, lừa đảo, tranh giành, chém giết nhau vì miếng ăn như trong nhà tù này. Các anh em đã tìm thấy được niềm vui trong khi thực hiện các lời trong bài hát “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô Assisiô mà tôi tập cho anh em hát. Cả những anh Trung Quốc cũng hát tiếng Việt, nhưng tôi dịch nghĩa sang tiếng Tàu cho họ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”

          Đây là lúc tôi nhận thấy rõ rệt nhất những hoạt động của chức vụ Linh mục đạt được nhiều kết quả và Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu đối với đám tù nhân khốn khổ của chúng tôi. Càng ngày tôi càng thấy yêu thích cuộc sống của tôi lúc bấy giờ. Một cuộc sống rất hạnh phúc mà trước kia lòng ước vọng tự do thúc đẩy quá mãnh liệt đã che lấp không cho tôi nhận ra đâu là ý Chúa muốn tôi phải làm.

          Có những đêm tôi dạy giáo lý cho một số anh em, kể chuyện Kinh Thánh cho một số khác. Anh em vui vẻ, ngồi lắng tai nghe. Có nhiều người cảm động nói từ trước tới nay chưa bao giờ được nghe những lời như thế. Từ lâu nay, cứ tưởng Công Giáo là một cái gì ghê gớm và độc ác và nhơ bẩn như được diễn tả trong phim “Ngày Lễ Thánh” được nhà nước cho chiếu khắp nơi, hoặc trong cuốn sách “Gia-Tô Tây Dương Bí Lục” mà đảng cộng-sản phổ biến rộng rãi để nói về “nguồn gốc” và cách hành đạo của Thiên Chúa Giáo! Có những anh thành thật nói, nếu con không gặp cha làm gì con hiểu được con người phải có tình thương và sự tha thứ! Những nhận xét đơn sơ của các anh tù đó đã an ủi tôi và tôi cám ơn Chúa đã cho tôi được sống trong hoàn cảnh này. Điều làm tôi mừng và cảm thấy hạnh phúc là Chúa đã gọi tôi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa ngay trong môi trường đầy hận thù này.

          Lúc đó, có một số giáo dân ở xứ Bắc Hải trong Nam quyên góp gửi quà cho các Linh mục. Bây giờ tất cả được về, họ vẫn tiếp tục gửi quà cho tôi. Mỗi lần nhận được quà, tôi dành một phần, giao cho anh em trong nhóm “Tình thương” phân phát, bắt đầu từ những anh em túng thiếu nhất. Nói về phần nhân loại thì thực sự lúc đó tôi đang sống trong ngục tù, nhưng về phần tinh thần thì tôi phải nói thẳng là chưa bao giờ tôi thấy hiệu quả trong chức vụ Linh mục như lúc bấy giờ. Khi tôi ý thức và chọn con đường làm Linh mục lúc 20 tuổi là chính vì lý tưởng phục vụ tha nhân, và lúc này tôi đang được sống trọn vẹn cho lý tưởng mà tôi đã chọn.

          Tôi vẫn biết không có gì là bền vững trong nhà tù. Di chuyển và thay đổi là chuyện thường xảy ra. Dù vậy, tôi vẫn mong cuộc sống như hiện tại kéo dài, vì tôi coi đây là chỗ mà tôi phải sống. Nếu ý Chúa muốn tôi phải chết ở đây, trong khi tôi đang thi hành chức vụ Linh mục như thế này, thì cũng là điều tôi mong muốn.

          Về phía cán bộ, dần dần tôi không còn thấy họ là những con người đáng sợ và xa lạ nữa. Ngược lại, họ cũng chỉ là những người vì hoàn cảnh, vì cuộc sống mà khép mình vào một khuôn khổ, mà chính họ cũng không thấy thoải mái trong khuôn khổ này. Nếu những năm đầu, một số cán bộ đã hành sử quyền hạn thái quá làm cho tôi đôi lúc có ý tưởng ghét bỏ con người, thì giờ đây, sau hơn chục năm giao tiếp, tôi thấy các cán bộ là những người đáng thương hơn là đáng trách.

          Có đáng trách chăng là một thể chế chính trị, chỉ biết phục vụ cho quyền lợi của đảng mà đã trói buộc cả một dân tộc vào trong guồng máy đó. Cơ chế đảng cộng sản như một con quái vật do con người sanh đẻ ra nó, nhưng khi sanh nó ra rồi, thì không cách gì có thể kềm chế được sự hung hãn của nó. Nó quay ra ăn thịt bất cứ ai, ngay cả người sanh đẻ ra nó.

          Đối với tôi, điều quan trọng không phải là chúng ta tiêu diệt con người, ngay cả những con người đang phục vụ trong chế độ cộng sản. Điều chúng ta phải làm là bằng mọi cách loại bỏ cơ cấu chính quyền vô nhân được xây dựng trên một ý thức hệ ngoại lai lỗi thời. Chính ý thức hệ đó đã làm tan nát tình dân tộc của chúng ta. Ngay chính những người đang phục vụ đảng, cũng có người biết là họ đang đi sai con đường, nhưng khi đã dính chân vào tròng, họ không còn đường trở lui.

          Trừ ra những kẻ chủ trương duy trì cơ cấu đảng để trục lợi, để đè đầu cỡi cổ dân tộc, để hối lộ, tham nhũng, vơ vét tài nguyên đất nước, những kẻ đó là tội đồ của dân tộc. Trong khi đó, đa số cán bộ ở cấp thấp là nạn nhân hơn là tội phạm. Tư tưởng này đã làm tôi thoải mái trong cuộc sống lúc bấy giờ và tôi nhìn tất cả đều là những người anh em. Cho dù là họ có thể không chấp nhận tôi, nhưng tôi vẫn nhận họ là những người anh em với tôi trong đại gia đình dân tộc.

          Cũng trong thời gian này lại có một hiện tượng lạ xảy ra trong trại. Lúc đó, một anh Trung Quốc trong số con cái tôi tên Trịnh Minh Hoa, nguyên trước kia là một y sĩ bên Tàu, tự nhiên anh nổi tiếng về việc chẩn bệnh. Anh bắt mạch và đoán đúng những chứng bệnh mà không ai tìm ra. Các bệnh nhân sau đó đi bệnh viện kiểm chứng, các bác sĩ cũng nói y như vậy. Anh dùng cách bắt mạch, coi mắt, coi lưỡi và các móng tay của bệnh nhân và nói thật chính xác người đó mắc chứng bệnh gì. Bệnh nhân mua thuốc uống thì khỏi.

          Tin lành đồn xa. Bắt đầu có nhiều cán bộ và gia đình họ vào nhờ anh Minh Hoa xem mạch bốc thuốc. Lúc đầu chỉ trong phạm vi trại Nam Hà, về sau này có những người từ các nơi xa cũng tới tìm anh. Anh Minh Hoa lại không nói được tiếng Việt nên tôi đóng vai trò người thông dịch. Lúc này Trung úy T. cũng có ý muốn nhờ tôi dạy Anh văn, nên nhân cơ hội tôi lo thông dịch giúp tiếng Quan Thoại, anh xin với cán bộ quản giáo cho tôi khỏi đi lao động. Từ đó tôi giao đội lại cho đội phó và ở nhà dạy tiếng Anh vào các buổi chiều cho Trung úy T.
          Thời gian đó, Trung úy T. thường hay vào chỗ tôi chơi vào các giờ ban sáng. Thường là tôi pha chè (nước trà) mời và chúng tôi cùng ngồi uống chè bàn việc học Anh văn. Anh rất thích học nhưng vì thiếu căn bản nên không tiến bộ nhiều, nhất là việc luyện giọng buổi ban đầu rất khó khăn. Trung úy T. lúc đó quảng 35 tuổi, khổ người rắn chắc, da trắng, mắt hơi nâu và có nhiều râu như người lai Tây. Anh là người hay nói cười, tánh tình cởi mở, phóng khoáng. Gia đình anh ở Hà Nội, vợ là cô giáo và có một cháu gái 4 tuổi, đang ở với mẹ. Thỉnh thoảng anh đưa cháu xuống trại chơi vài hôm. Cháu rất xinh trong bộ đồ đầm màu trắng. Sự quan hệ giữa chúng tôi càng ngày càng mật thiết qua các lớp học tiếng Anh này.

          Có những cán bộ làm việc lâu trong trại đã khá thân thiện với những người tù miền Nam ở đây trước tôi, trong đó có Trung úy Lực là cán bộ trực trại. Anh quen biết tôi nhiều trong thời gian tôi hay qua lại buồng 9 của các tướng lãnh trước kia. Thời gian đó, anh hay vào buồng ngồi đánh cờ tướng. Ngoài ra, người nữ cán bộ tài vụ mà tôi gặp ngay từ ngày đầu, sau này tôi biết tên là KT, thỉnh thoảng cũng vào chỗ tôi chơi. Nhất là sau ngày cô đi Nam trong dịp chuyển tù về trại Hàm Tân. Sự đi lại và tiếp xúc đó dần dần tạo nên sự cảm thông giữa người với người. Lúc đó, điều tôi nhận thấy rõ rệt là khoảng cách lằn ranh do ý thức hệ tạo ra càng lúc càng thu hẹp lại và lu mờ dần. Điều này càng củng cố lý luận của tôi, chỉ vì một chủ nghĩa ngoại lai mà dân tộc Việt Nam chúng tôi bị phân rẽ và nhìn nhau như kẻ thù. Trong thực tế, dân tộc chúng tôi là một, chẳng có vì lý do gì phải chia rẽ, hận thù hoặc chém giết nhau.

          Tư tưởng này ám ảnh tôi từ những ngày tôi mới bị bắt vào tù qua các câu chuyện tôi không sao quên được. Khi đó, tôi đang ở trại Gia Ray, tỉnh Long Khánh. Hàng ngày, đội chúng tôi đi lao động khai hoang dọn đất chung quanh trại cho những đội trồng trọt canh tác. Thường thì chúng tôi lao động không xa khu vực nhà khách, tức là chỗ để thân nhân tù nhân lên thăm gặp. Như thế mặc dù không được tiếp xúc nhưng người nhà có thể thấy chúng tôi đang cuốc đất khai hoang gần bên.

          Có một lần, tôi không nhớ vì chuyện gì mà một anh cán bộ võ trang rất trẻ, chừng 18 tuổi, tập trung cả đội lại đứng dọc theo vách sau nhà khách và chửi mắng chúng tôi thậm tệ trước mặt bao nhiêu thân nhân của tù đang đứng chờ trong nhà khách. Khi chửi, có lúc cao hứng anh gọi chúng tôi là “những con rận sống trong cạp quần của đàn bà! Cách mạng không bắn các anh vì sợ tốn một viên đạn của nhân dân!” Chúng tôi đứng yên trong hàng và cúi đầu nghe anh ta chửi, trong khi đó tôi thấy một số các bà các cô đứng trong nhà khách gần đó đưa tay gạt nước mắt.
           
          Lúc đứng trong hàng, lòng tôi vô cùng đau xót vì thương anh cán bộ còn trẻ này được huấn huyện để chửi những con người đáng tuổi cha chú mình. Tôi chợt nghĩ nếu tôi có con thì anh ta đáng tuổi con trai lớn của tôi, và nếu anh ta sanh ra trong xứ đạo tôi có thể anh là một trong những học trò giúp lễ của tôi! Bỗng dưng tôi thương anh hết sức, và qua anh, tôi thương cho một thế hệ trẻ Việt Nam sanh ra và lớn lên trong chiến tranh tương tàn đã hành sử theo cái nhìn của những con người vì một chủ nghĩa ngoại lai mà quên đi tất cả tình dân tộc.  Anh đang phục vụ cho một thể chế chính trị đang chiến thắng, nhưng anh đâu có hiểu rằng thể chế nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.
           

          Cánh hoa đồng nội

          Lúc này, tôi thường có dịp tiếp xúc với cô KT, người cán bộ tài vụ.  Sau chuyến vô miền Nam, cô có nhiều chuyện để nói với tôi. Tôi phải nhận là chuyến vào Nam lần đầu tiên đó đã làm cô thích thú. Cô đã thay đổi cái nhìn và lối suy nghĩ  rất nhiều. Một hôm, cô vào trại tìm tôi có việc liên quan tới tài chánh, sau đó cô hỏi trong Nam tôi ở tỉnh nào. Tôi nói ở Vĩnh Long, thuộc miền đồng bằng sông Cửu Long. Tôi kể với cô sơ qua về phong cảnh và sự trù phú của miền Tây. Cô rất chăm chú nghe nhưng có vẻ không hiểu lắm vì chuyến đi Nam vừa rồi của cô ít giờ quá, không có dịp đi thăm nhiều nơi, và nhất là không quen ai trong Nam. Cô vui vẻ hỏi tôi:

             - Anh ở Vĩnh Long nhưng có biết nhiều về thành phố Hồ Chí Minh không?

              Tôi bị dị ứng khi nghe ai gọi Sài Gòn bằng cái tên chính trị của nó. Mặc dù cô gọi tên đó một cách rất tự nhiên, tôi trả lời:

             - Cái thành phố mà cô vừa hỏi thì tôi không biết, nhưng tôi biết Sài Gòn rất rõ vì tôi học ở đó 7 năm.

          Người nữ cán bộ tỏ ra bất ngờ trước câu trả lời của tôi. Cô nhìn tôi bằng đôi mắt mở to dưới hàng mi cong, nhưng liền đó cô tỏ ra nhạy cảm với tâm trạng tôi nên yên lặng, mỉm cười:

             - Anh Lễ này! Sao mà anh “gớm” thế? Thôi, đừng để những việc đó làm chúng ta mất vui. Tôi chẳng có ý gì đâu, tôi chỉ muốn nghe anh nói thêm về thành phố Hồ...thành phố Sài Gòn, mà phải nói là tôi rất thích trong lần vào đó. Lần đó, có mấy anh ở đây nhờ tôi tới thăm gia đình. Người nhà tiếp tôi nồng hậu lắm anh ạ. Tôi được tặng nhiều quà lắm. Lúc trở ra, cháu trai rất thích vì mẹ mang về nhiều đồ chơi.

          Nói xong nàng nở nụ cười thật hồn nhiên của một cô gái quê Việt Nam thuần túy. Sau đó, nàng nói qua các nơi nàng đã có dịp ghé như Thủ Đức, Nhà Bè v.v... Những đêm ở Sài Gòn, cô ở và làm việc tại An Ninh Nội Chính, và hỏi tôi có biết nơi đó không. Tôi nói đã bị giam ở đó khi vừa bị bắt và tôi có bà cô ở đối diện bên kia đường.

          Từ đó, KT hay vào thăm tôi vào buổi sáng trong giờ cả trại đi lao động, vì cô biết tôi bận lớp Anh văn ban chiều. Khi vào, trên tay nàng lúc nào cũng có quyển sổ tài chánh, nhưng có rất nhiều lần cuốn sổ ấy không được dùng vào việc gì. Những lần vào chơi, cô thích kể chuyện về chuyến đi Nam cho tôi nghe, nói là cho tôi đỡ nhớ nhà! Giọng nói rất nhẹ nhàng, dí dỏm, phù hợp với vóc dáng mảnh mai của nàng.

          Lúc nào KT cũng mang tính cách đơn sơ và e lệ của một cô gái mới lớn, điều này trái ngược với tuổi đời trên dưới ba mươi của nàng. Mái tóc dài che phủ bờ vai. Về sau này, mái tóc được quấn ngược lên cao, vì buổi trưa hè hôm ấy, KT vào thăm và tôi khen quấn như thế đẹp. Cũng không mấy khi thấy nàng mặc sắc phục, vì có lần nàng mặc sắc phục, lúc vui miệng tôi nói:

             - Không hiểu tại sao, khi thấy cô mặc sắc phục công an tôi sợ lắm.

              Nàng làm ra vẻ nghiêm trang, hỏi tôi:

             - Tại sao anh lại sợ?

             - Tôi cũng chẳng biết tại sao! Có lẽ tại máu tôi không hợp với màu sắc này!

              KT không nói gì, yên lặng trong giây lát và nhìn tôi tỏ vẻ cảm thông vì nàng đã biết lịch sử đau thương của cuộc đời tù tội của tôi. Lúc sau nàng hỏi:

             - Anh Lễ này, nghe nói lúc ở trại Thanh Cẩm anh trốn trại và bị hành hạ kinh lắm phải không? Anh ở trại đó bao lâu nhỉ?

             - Vâng, lần đó tôi bị đánh nhiều và bị cùm 3 năm!

             - Kinh thế! Anh ở trại đó trong bao lâu?

             - Đúng mười năm cô ạ, từ 1978 tới 1988. Khi mới từ Nam ra năm 1977, tôi vào trại Nam Hà này. Sau đó, chuyển lên “Cổng Trời” mất một năm. Chừng chiến tranh biên giới xảy ra, tôi được đưa về Thanh Cẩm 1978, rồi lại về đây! Lúc tôi ở đây lần đầu, ông Thịnh mới là Thượng sĩ trực trại. Bây giờ gặp lại, ông ta đã là Thượng úy rồi. Cô KT này, mười một năm về trước, khi tôi ở trại này, lúc bấy giờ cô làm gì và ở đâu?

             - Năm đó tôi chưa vào ngành, còn ở nhà quê tại Vũ Lễ, Thái Bình.

          Cô nói tiếp giọng nói thật buồn:

             - Anh Lễ, sau thời gian tiếp xúc với các anh miền Nam và nhất là sau chuyến đi này, tôi đã hiểu được các anh nhiều hơn. Sau khi có dịp nói chuyện nhiều với anh, tôi thật kính phục những con người như anh.

          Đã từ lâu, tôi nhận thấy tình cảm đặc biệt của nàng đối với tôi qua cử chỉ, thái độ và cách nói năng. Càng ngày, tôi càng hiểu điều đó qua ánh mắt, nụ cười trong các câu chuyện nàng kể, nhất là qua sự ân cần giúp đỡ tôi trong các việc liên quan tới phần vụ của nàng, mặc dù trong tư thế quá khác biệt. KT là một cán bộ và đã có chồng con, nàng có một đứa con trai độ 6 tuổi. Còn tôi là một tù nhân, lại là một Linh mục và là kẻ đã gây ra quá nhiều sóng gió trong trại. Nhưng các thứ đó hình như không là trở ngại đối với tình cảm dạt dào của nàng.
          Khoảng đầu tháng 6 năm 1988, lại có biến chuyển khác. Tất cả những người tù Trung Quốc được chuyển hết đi nơi khác. Tôi rất buồn khi phải chia tay với họ. Tôi đã ở chung và chia sẻ bao nhiêu đau khổ với họ trong những năm ở nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm. Những người tù ngoại quốc này thường sống dựa vào sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của chúng tôi. Ngược lại, họ đã giúp tôi học và nói thông thạo tiếng Quan Thoại.

          Tất cả những người Trung Quốc này đã bị giam 16 năm rồi. Về trại này, tôi đã Rửa tội cho 5 người và tôi coi họ như những người con tinh thần của tôi. Tôi đã giúp họ tìm thấy niềm vui trong cuộc đời khổ ải qua các việc bác ái trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Trước đó, tôi cũng thường nói với họ, cuộc sống trong nhà tù thay đổi lúc nào không hay, tôi muốn gửi nơi anh em đức tin mà anh em đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội. Sau này, hãy mang đức tin đó gieo rắc nơi nào các anh em sẽ tới, nhất là có dịp mang về quê hương Trung Quốc của anh em. Việc ra đi của nhóm tù Trung Quốc làm tôi u sầu trong một thời gian rất lâu. Từ đó về sau, tôi không còn bao giờ nghe biết gì về họ nữa!

          Sau khi nhóm tù Trung Quốc chuyển đi rồi, tôi cảm thấy rất trống vắng. Tôi vẫn ở nhà dạy tiếng Anh cho Trung úy T. Những buổi sáng rảnh rỗi, tôi thường giúp anh trực sinh buồng lo quét dọn vệ sinh, lấy nước sôi cho buồng, sau đó ngồi trong nhà ăn soạn bài vở cho giờ lớp ban chiều. Thường thì chỉ có mình Trung úy T. học, nhưng có mấy lần vài cán bộ khác cũng vào dự thính lớp tiếng Anh của tôi. Lúc bấy giờ đã cuối chầu, trại Nam Hà sao thật buồn tẻ. Số tù hình sự đông hơn tù chính trị miền Bắc.
           

          Cuối chặng đường

          Một buổi sáng giữa tháng 7 năm 1988, Trung Úy T. vào thăm tôi. Hồi này trình độ tiếng Anh của anh đã tương đối khá nên mỗi khi anh vào, chúng tôi tập chào nhau bằng tiếng Anh và đàm thoại vài câu ngắn và dễ. Anh tỏ ra rất thích thú khi bặp bẹ được vài câu tiếng Anh trong khi tất cả mọi cán bộ khác chẳng ai biết chút gì. Anh rất siêng học, chỗ nào không hiểu thường mang vào hỏi tôi và tỏ ra rất hứng thú khi có dịp thực tập với tôi.

          Khác hơn mọi lần, sáng hôm đó, vừa ngồi với tôi một lúc, anh đứng lên từ giã, nói là đang chuẩn bị đi phép một thời gian và chúc tôi ở lại mạnh giỏi. Anh cũng không nhắc gì tới việc học tiếng Anh đang dở dang. Khi tôi nhắc việc này, anh yên lặng một lúc rồi nói cứ tạm thời nghỉ, khi anh về hẵng hay. Nhưng sau đó anh nói tiếp, nếu vì lý do gì không gặp lại thì tôi hãy nhớ lời anh dặn. Tôi hơi ngạc nhiên vì thấy có cái gì hơi khác trong lối nói của anh. Nếu chỉ đi phép vài ngày như những lần trước thì sao anh lại dặn dò tôi như thế. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

             - Ông T., ông nói gì vậy? Bộ ông chuyển đi nơi khác à?

              Anh ta đáp tự nhiên:

             - Không hẳn đâu anh ạ! Nhưng làm sao biết được chuyện ngày mai!

              Nói xong anh đứng lên và nhìn tôi mỉm cười. Tôi nói tiếp:

            - Cho tôi gửi lời thăm gia đình ông, thăm cháu bé và cô.

              Anh ta gật đầu:

             - Cám ơn anh Lễ. Anh ở lại mạnh giỏi, tôi đi đây.

          Nói xong, anh bước ra cửa khá nhanh, tôi theo sau tiễn chân. Trước khi khuất dạng vào hành lang dẫn ra sân trại, anh còn quay lại nhìn tôi mỉm cười và đưa bàn tay trái lên làm dấu hiệu từ giã rất nhẹ nhàng.
           
          Khi cán bộ T. đi rồi, tôi quay vào buồng, vừa đi vừa thắc mắc về lối chào tạm biệt của anh. Những lần trước, khi về Hà Nội hoặc đi phép vài ngày anh cũng vào chào từ giã tôi và nói nghỉ học một vài hôm. Nhưng cách nói úp mở hôm nay của anh làm tôi đoán anh sẽ chuyển đi nơi khác. Ý nghĩ này làm tôi chợt buồn, rất buồn. Thì ra tôi quý mến người cán bộ này sâu đậm hơn là tôi tưởng! Nếu thực sự anh đi nơi khác thì tôi mất một người bạn quá tốt trong hoàn cảnh đặc biệt này. Tôi đã mất các anh em Linh mục, tôi đã mất những người bạn trong đợt chuyển vào Nam, tôi vừa mất những anh Trung Quốc mà tôi coi là con tinh thần của tôi, bây giờ nếu tôi mất Trung úy T. nữa, chắc chắn là tôi sẽ rất buồn. Tôi thầm cầu mong cho việc đó đừng xảy ra.

          Trở vào nhà ăn, tôi ngồi xuống ghế vì cảm thấy hơi choáng váng khó chịu trong người. Quyển vở tôi soạn bài Anh văn chiều nay đang nằm trên mặt bàn. Tôi với tay gấp lại vì chiều nay không có lớp. Tôi ngồi thừ ra một hồi lâu và ôn lại kỷ niệm về người cán bộ an ninh mà tôi quý mến. Tôi hồi tưởng lại từ lần đầu gặp gỡ tới những ngày tháng chúng tôi gặp nhau trong lớp tiếng Anh. Tôi vẫn nhớ lời anh thường nói:“Anh Lễ, tôi cám ơn anh đã giúp tôi biết về tiếng Anh.”

          Thời gian trước đó trong trại lại kháo láo nguồn tin,“sắp có đợt tha”! Cá nhân tôi chẳng mong được về và cũng chẳng để ý tới những diễn biến có dấu chỉ sẽ được phóng thích. Lần đầu tiên tôi nghe nói tới vấn đề này khi được thư của người bạn gửi vào cho biết đang có cuộc thương thuyết Mỹ-Việt. Phía Hoa Kỳ đại diện bởi Tướng hồi hưu John Vessey, đặc phái viên của Tổng thống Reagan, bàn về vấn đề bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước. Một trong các điều kiện phía Mỹ đưa ra là yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải thả hết những lãnh đạo tôn giáo còn trong tù. Anh em cho biết là tôi có hy vọng được về nhờ yếu tố này.

          Ngoài ra, một số người về trước, qua Mỹ, cũng đã nhờ Tổ chức Ân Xá Quốc Tế can thiệp giúp để tôi được phóng thích. Tôi nghe chỉ để mà nghe, chẳng mong mỏi và cũng chẳng hy vọng, nhất là tôi không coi đó là điều cần thiết nữa. Lúc đó, tôi đang bận tâm củng cố lại nhóm “Cộng đoàn tình thương”, sau khi số anh em Trung Quốc nhiệt tình đã ra đi. Nhóm tù chính trị miền Bắc cũng rất hăng say trong hoạt động của nhóm trong lúc này.

          Bấy giờ lại có một dấu hiệu khác. Khoảng tháng 6 năm 1988, có phái đoàn y tế của bộ về làm việc trong trại. Khi phái đoàn y tế vào trại, tôi được gọi lên và hỏi qua về bệnh tình, về thời gian cải tạo. Có điều rất buồn cười là anh cán bộ y tế lại méo mó nghề nghiệp. Khi biết tôi là một Linh mục anh hỏi tôi nghĩ gì về vụ phong thánh cho 117 Thánh Tử Đạo sẽ diễn ra vào ngày 19 tháng 6. Lúc đó, vấn đề phong thánh đang gây tranh luận. Trong tù, có báo Nhân Dân và qua đó, tôi được biết Nhà nước Việt Nam phản đối vụ này ghê lắm. Tôi trả lời với ông ta:

             - Tôi ở trong này không có đầy đủ thông tin nên tôi không có ý kiến gì, nhưng tôi cũng xin trả lời. Với tư cách là người Việt Nam, thân xác tôi thuộc quyền Chính phủ Việt Nam, nhưng với tư cách là một Linh mục, linh hồn tôi thuộc về Tòa Thánh. Bất cứ điều gì Tòa Thánh quyết định, tôi vâng theo.

              Nghe tôi nói thế, anh ta không hỏi thêm nữa.

          Khi tôi về buồng, các anh em tới thăm và cho biết, khi phái đoàn y tế vào trại gọi ai là người đó được về. Nghe xong tôi chỉ cười nói:“Chừng nào dê đực đẻ con tôi mới được về!” Trong tù không có tin gì làm mọi người háo hức và săn đón cho bằng tin có đợt phóng thích, vì thế mấy ngày nay cả trại cứ bàn tán xôn xao về tin này.

          Khi cán bộ T. đi phép được một ngày thì anh văn hóa tên Quỳnh, người Hải Phòng, có biệt danh là “Quỳnh Ngựa” vì mặt anh dài, nói với tôi sau khi từ cơ quan trở về:“Tôi nghe nói anh có tên trong đợt tha lần này.”

          Đó là lần đầu tiên sau 13 năm tôi được nghe nói tôi có thể được tha về. Nhưng khổ nỗi, tin này đến với tôi trong lúc tôi không còn mong đợi nữa, nếu không muốn nói là thất vọng khi nghe tin đó. Vì nếu có về đi nữa thì cũng chỉ là chuyển từ một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước ra khỏi đây để trở về xã hội bên ngoài, chưa chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây.

          Sáng hôm sau, trại xuất quân lao động nhưng tôi vẫn được nghỉ vì chưa bình phục hẳn sau trận kiết lỵ và cán bộ y tế cho tôi nghỉ dưỡng bệnh một thời gian dài. Buổi sáng trong trại rất vắng lặng, thỉnh thoảng thấy trực sinh các buồng đi lại dọn dẹp hoặc lấy nước sôi. Trong lúc tôi đang giúp anh trực sinh buồng quét sân thì cô KT bước vào.

          Hôm nay cô vào sớm hơn thường lệ, trên tay không cầm quyển sổ quen thuộc, chỉ có một tờ giấy trắng được cuộn tròn lại như ống tre. Mỗi lần cô vào chơi đều mang lại cho tôi niềm vui với nụ cười rất tự nhiên và cách nói chuyện thật duyên dáng của cô. Thấy cô bước vào sân, tôi dừng tay và tiến ra tới đầu hồi nhà ăn của đội gần bên cửa ra vào sân, tiếp chuyện:

             - Sao mấy hôm nay không thấy cô đâu cả?

              KT trả lời có vẻ kín đáo:

             - Mấy hôm rồi tôi bận quá anh ạ!

              Tôi đùa lại bằng một câu có vẻ triết lý...vụn:

             - Có lần tôi đọc được câu:‘‘Người bận việc là người hạnh phúc!’’ Cô đang hạnh phúc đấy!

              Cô cười, đáp lại:

             - Gớm thật! Anh thì lúc nào cũng chữ với nghĩa! Tôi xin nhường cái hạnh phúc đó cho anh, tôi chỉ muốn được nghỉ ngơi thôi!

             - Cô không nhường thì tôi cũng đã có rồi, lúc nào tôi chẳng bận.

             KT tấn công:

             - Anh nói thế! Như hôm nay không lao động, anh bận gì nói tôi nghe nào?

             - Tôi bận mà cô không biết đó thôi.

              Cô trợn mắt nhìn tôi:

             - Anh bận gì?

             -Tôi bận suy nghĩ đến cô đi đâu từ mấy ngày nay!

              Cô cười bẽn lẽn:

             - Gớm! Anh nói thế!

             - Tôi biết ngay là cô không tin, đúng không?

             Nàng yên lặng một chút, khẽ e lệ, gật đầu:

            - Tôi tin!

              Tôi đùa vui:

             - Cô thấy chưa? Tôi đang bận nên lúc nào tôi cũng hạnh phúc!

              Sau câu nói đùa của tôi, cả hai cùng cười. Cô bước lại gần tôi và nói nhỏ nhẹ cách bí mật:

             - Anh Lễ này, anh khao đi!

          Tôi đoán biết có cái gì khác thường trong thái độ của KT sáng nay. Nhất là sau những tin đồn “có đợt tha” trong mấy ngày qua và đặc biệt là anh “Quỳnh Ngựa” đã nói với tôi. Mặc dù đoán biết một phần nhưng tôi cũng giả vờ bình thản:

             -Thì lúc nào cô vào chơi mà tôi chẳng khao, khi thì uống chè, khi thi ăn kẹo...!

              Thấy tôi có vẽ không hiểu, cô hạ giọng nói nhỏ:

             - Anh Lễ này, anh có tên được về đấy!

          Như vậy là chắc rồi. Cái tin đó cuối cùng đã đến với tôi. Cái tin mà cả chục năm trời qua, tôi mong đợi ngày đêm. Cái tin mà trước đây tôi cứ tưởng tượng nó rất ghê gớm và không có một biến cố vui mừng nào trong đời tôi có thể so sánh được! Nhưng lúc này khi nó đến, tôi lại đón nhận nó hết sức hững hờ và lạnh nhạt. Tôi hiểu điều đó nên cố không làm phật ý người đưa tin, người cán bộ mà tôi quý mến. Tôi yên lặng, lấy lại vẻ trang nghiêm:

             - Tôi không tin.

          Nghe tôi nói thế, KT tỏ vẻ cảm thông vì có lần tôi cũng nói cho cô biết là ngoài bìa hồ sơ tôi có hàng chữ:“Thành phần  không thể cải tạo được”. Nàng mỉm cười kín đáo:

             - Anh Lễ, tôi cho anh coi cái này.

              Vừa nói cô vừa mở tờ giấy cuộn tròn trong tay ra trao cho tôi:

             - Anh coi nhưng không được tiết lộ cho tới khi công bố. Nếu anh nói ra thì tôi và anh chung một cùm đấy.

              Tôi đáp:

             - Như thế thì càng thích chứ sao!

             - Anh Lễ này! Lúc nào anh cũng đùa!

          Vừa nói nàng vừa giả vờ giật lại không trao tờ giấy cho tôi. Đó là một phụ bản giấy đánh máy của Quyết Định tha. Có lẽ là bản thứ 3 hay thứ 4 gì đó, nét chữ không rõ nhưng đọc được dễ dàng. Trong danh sách có tên 14 người và tên tôi nằm ở sau cùng. Có cả tên cha Nguyễn Bình Tĩnh, anh Nguyễn Đức Khuân và một tu sĩ miền Bắc.

          Tôi chăm chú đọc mảnh giấy khá lâu, không phải để coi có những ai nhưng vì lúc đó tôi đang ở trong một tâm trạng  hết sức lạ lùng. Tôi đọc đi đọc lại tên của tôi, nhưng tôi lại có cảm tưởng không phải là tôi mà là một cái tên rất quen thuộc. Tên trong tờ giấy này không thể là của tôi, vì chẳng bao giờ tôi nghĩ là tên tôi có thể nằm trong một mảnh giấy bắt đầu bằng hàng chữ “Quyết Định Tha” được. Thấy tôi cầm tờ giấy khá lâu, KT đưa tay đón lấy. Tôi trả lại nàng với tâm trạng bàng hoàng khiến nàng phải kêu lên:

             - Anh Lễ! Được tha mà trông anh sao lại buồn thế?

          Tôi chỉ thinh lặng lắc đầu, vì nói sao cho nàng hiểu được tâm trạng tôi. Lúc đó tôi chợt nhớ tới Trung úy T. và những lời úp mở của anh khi từ giã tôi ngày hôm qua. Anh biết tôi được về nhưng không thể nói ra được và tôi đã đoán sai. Thay vì anh đổi đi thì tôi sẽ ra về trong thời gian anh đi vắng. Tôi đoán là anh cũng buồn như tôi.
           

          Kẻ ở người đi

          Đêm cuối cùng ấy, khi tôi đến từ giã anh em, nhất là những người con tinh thần tôi sinh họ lại trong đức tin, nước mắt chúng tôi chảy ra khá nhiều. Tôi ôm lấy từng người con vào lòng, như muốn truyền sức mạnh cho những người tôi đã Rửa tội và đức tin họ còn non nớt. Lúc ban chiều, tôi cũng đã đi các buồng để từ giã anh em trong nhóm “Cộng đoàn tình thương”. Tôi trao lại tất cả những gì tôi có cho người tôi chỉ định thay thế tôi điều khiển Cộng đoàn. Tâm trạng chúng tôi đêm ấy đau buồn vì biết là cha con sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại nhau nữa!
          Hôm sau, trại công bố chính thức, sau đó, những người được tha về ra cơ quan để lăn tay và ký tên vào giấy ra trại. Trong giấy ra trại có ghi:“Đương sự phải về trình diện chánh quyền địa phương trong thời hạn một tháng kể từ ngày ký”.
           
          Xếp tờ giấy làm tư, tôi cho vào túi áo trước ngực được may phía bên trong, cài kim băng cẩn thận để ngăn ngừa trộm cắp.

          Tôi bước sang phòng KT kế bên làm các thủ tục về tiền nong. Còn một số tiền ở nhà mới gởi ra cho tôi, KT chưa kịp ra bưu điện lãnh, tôi gửi lại cô làm quà cho cháu. Tôi là người cuối cùng lên cơ quan làm thủ tục, vì trước khi bước ra khỏi cổng trại, tôi phải dừng lại khá lâu để bắt tay từ giã quá nhiều anh em còn ở lại. Họ tiễn đưa tôi tới cổng trại và mỗi người cố nói với tôi một vài lời trước giờ chia ly. Riêng các anh em ở chung buồng, đêm qua chúng tôi đã thức với nhau gần suốt đêm.

          Sau khi hoàn tất mọi việc, tôi khoác chiếc ba-lô nhẹ hẫng lên vai và bước ra khỏi phòng tài vụ. KT xếp sổ sách giấy tờ trên bàn, đứng lên đi vòng ra phía sau chiếc ghế dài bằng gỗ nặng chắc chắn, bước theo ra, tiễn chân  tôi. Chúng tôi đi song song bên nhau trong một hành lang dài và hẹp dẫn ra phía mặt tiền nhà nằm dọc theo đường cái.

          Chúng tôi yên lặng bước đi, chẳng ai nói với ai câu gì, nhưng tôi có cảm tưởng chính sự thinh lặng trong lúc này lại nói lên nhiều hơn. Tự nhiên tôi chợt nhận ra, người con gái đang bước đi bên cạnh tôi lúc này không còn là người cán bộ tài vụ nữa, mà là người thân thiết của tôi. Nàng đã trở lại thành một người phụ nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ khác với những xúc cảm tự nhiên trước lúc chia tay người thân và không còn hy vọng gặp lại.

          Khi cả hai ra gần tới ngõ, tôi bất chợt dừng lại, quay sang nhìn KT và bắt gặp đôi mắt màu đen đang mở thật to nhìn tôi, hai hàng mi dài và cong. Nàng đang chớp mắt để che giấu sự xúc động. Tôi nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhanh mấy câu giã từ:

             - Thôi giã biệt KT! Chúc cô và gia đình ở lại gặp nhiều may mắn. Xin cám ơn sự lo lắng và giúp đỡ của cô trong thời gian qua.

             - Anh Lễ! Đừng nói lời cám ơn! Những gì tôi làm là do lòng quý mến của tôi đối với anh. Cháu trai sẽ mừng khi nhận quà của anh. Anh được ra về tôi mừng lắm. Tôi thật không biết phải nói gì trong lúc này. Chúc anh lên đường bình yên, nhớ bảo trọng thân thể và cầu mong anh xây dựng một tương lai tốt đẹp. Về Nam, có gặp các anh ở trại này cho tôi hỏi thăm.

          Vừa nói, nàng vừa tiến lại sát bên tôi trong một cung cách rất tự nhiên của người em gái trong lúc tiễn biệt người anh. Tôi nắm lấy và bóp nhẹ bàn tay bé nhỏ có các ngón thon dài của K.T. Nàng để yên bàn tay trong tay tôi. Tôi nghe tay nàng nóng, đang run nhẹ. Đây là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cầm lấy bàn tay nàng, mặc dù trong thời gian mấy tháng qua, đã nhiều lần gặp nhau. KT từ tốn quay lại trong tư thế mặt đối mặt và đặt bàn tay còn lại lên tay tôi, nắm chặt lấy và nâng thật chậm lên cao tới cằm. Mắt nàng ướt long lanh, chớp thật nhanh và đang ngước nhìn tôi trong lúc lập lại lời từ biệt. Giọng nàng nhẹ như hơi thở:

             - Anh đi bằng yên.

          Tôi buông tay nàng ra. Chẳng nói thêm lời nào, tôi quay đi, xốc lại chiếc ba-lô trên vai và bước vội mấy bậc tam cấp lên đường cái. Vừa bước lên mặt đường, tôi nghe tiếng KT gọi với theo:
           
             - Anh Lễ, tôi nói cái này!

          Tôi dừng bước, quay lại và đã thấy nàng đứng ngay sau lưng. Trong lúc hai người đứng giữa vùng ánh sáng của nắng ấm ban mai, tôi thấy nàng đẹp một cách thật hồn nhiên. Một vẻ đẹp kín đáo và đơn sơ của loài hoa dại trong đồng nội.

          Thời gian qua, tôi vẫn nhận thấy nơi nàng sự duyên dáng qua thái độ đối xử và cách nói năng, nhưng hôm nay, tôi thấy nàng còn có một cái gì khác biệt hơn. KT mặc áo sơ-mi màu hoa cà, quần đen, tóc quấn ngược lên cao để lộ cái ót trắng ngần. Hình ảnh này tôi đã thấy nhiều trong những lần nàng vào khu giam thăm tôi trước đây. Nhưng sao hôm nay, tôi thấy nàng như một con người khác. Có lẽ nhờ vị thế ngăn cách giữa hai người không còn nữa, hay vì vẻ thân thương và gần gũi đã làm nàng xinh đẹp hơn mọi ngày? Tôi bỗng buột miệng nói lên ý nghĩ trong đầu:

             - Hôm nay tôi trông KT như một người khác!

              Nàng mở thật to đôi mắt đen láy, nhìn tôi cách ngạc nhiên hỏi lại:

             - Khác thế nào hở anh?

              Tôi đáp gọn:

             - Trông xinh hơn mọi ngày!

          Mặt nàng tự nhiên đỏ ửng. Nàng vội ngoái đầu theo phản ứng tự nhiên, tỏ vẻ e thẹn và lắc lư người như để từ chối lời khen của tôi. Nàng bước tới gần, nói thật nhỏ, mặc dù gần đó chẳng có ai:

             - Sau này anh ở đâu và làm gì, anh nhớ thư cho biết nhé!

             - Viết thư từ, tôi sợ trở ngại cho công tác của cô.

             Nàng đáp nhanh:

             - Anh cứ viết thẳng về địa chỉ ở Thái Bình ấy, chẳng hề gì đâu!

          Tôi ngần ngừ một lúc và gật đầu, trong lúc vẫy tay từ giã nàng và quay gót bước đi. Bên tai còn nghe vọng tiếng nói cuối cùng của nàng:
           
            - Anh đi bằng yên, nhớ nhá.
           

          Quãng đường trước mặt

          Tôi bước nhanh theo dọc con đường lớn chạy trước mặt dãy nhà dài dùng làm khu hành chánh của cơ quan, hướng về phía khu nhà của gia đình cán bộ nằm cách xa cổng trại khoảng vài trăm thước, để ra đường cái đón xe khách đi Phủ Lý, để từ đó lên Hà Nội. Ánh nắng chói chang và khung cảnh mới lạ làm tôi choáng ngộp. Tôi lầm lũi bước đi như người trong cơn mộng du đang lâng lâng giữa thực và mộng.

          Tới chỗ chờ xe tôi dừng lại, quay nhìn trại Nam Hà lần cuối. Trại trông sao thật vắng lặng và buồn tênh, không ngờ nơi đó lại chôn giữ một phần lớn kỷ niệm của đời tôi. Lúc đứng đó tôi chợt nhận ra, trong số không biết là bao nhiêu chục ngàn tù nhân trong Nam bị đưa ra Bắc cách nay đã hơn một thập niên, tôi là người tù miền Nam cuối cùng bước ra khỏi trại giam miền Bắc! Tôi bỗng buột miệng nói:“Thời gian qua mau! Mới ngày nào mình ngỡ ngàng trên chuyến xe ca từ Hải Phòng đến đây trong đêm sương mù giá lạnh, mà bây giờ đã gần 12 năm! Đời người như một giấc chiêm bao....”

          Có chiếc xe khách đang từ xa chạy tới. Tôi giơ tay lên đón.


          nguồn: Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
          dactrung.com
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.02.2007 12:36:34 bởi sóng trăng >
          #20
            sóng trăng 12.02.2007 06:31:42 (permalink)
            .

            Cuối Chuyện
             


            Đèn đường vẫn hắt nhẹ những tia sáng yếu ớt vào phòng. Tiếng côn trùng rả rích gọi bạn về khuya. Đâu đây nghe tiếng gió đưa xào xạc như nhẹ rơi những cánh lá vàng không buồn sống. Tôi ngồi lên, bước tới bật đèn và nhìn đồng hồ trên tường, thấy đã gần hai giờ sáng. Vì nằm lâu nhưng không ngủ được nên thấy người hơi choáng váng. Tôi đưa hai bàn tay lên xoa mặt, đan các ngón tay vào đầu tóc rối bù vì trăn trở mãi trên gối.

            Nhà Chung Hà Nội thật êm ắng. Thỉnh thoảng, vài tiếng thạch sùng tắc lưỡi tìm mồi đêm. Hình ảnh quá khứ cứ nhảy múa trong đầu. Cái nọ nối tiếp cái kia, có lúc lại đan chặt và dính trùm vào nhau như một vở bi hài kịch kéo dài. Tôi cảm thấy hơi nóng đầu như một bộ máy chạy liên tiếp mấy tiếng đồng hồ không nghỉ.

            Tôi bước vào nhà tắm bật đèn lên. Nhà tắm và cầu tiêu chung trong một phòng lớn, có lẽ lớn hơn buồng giam bốn người trong khu kỷ luật trại Thanh Cẩm một chút, thật sạch sẽ, tường lát gạch men bóng láng. Trên tường có 2 cái giá máng khăn, một chiếc khăn tắm lớn và chiếc khăn mặt nhỏ được gấp làm tư cẩn thận. Trên bàn rửa mặt bằng men trắng kiểu cổ, có vòi nước máy và một chiếc khay nhỏ đựng bàn chải đánh răng, cây kem nhỏ, cái lược và dao cạo râu loại rẻ tiền nhưng mới toanh. Trong lúc đang dùng phương tiện trong nhà vệ sinh, tôi chợt mỉm cười khi nhớ tới hai cái ống bẩu bằng tre trong buồng kỷ luật trại Thanh Cẩm!

            Sau khi rửa mặt, chải đầu và lau khô bằng chiếc khăn mặt thơm mùi bột giặt, tôi đứng ngắm mình trong gương, mỉm cười lần nữa. Lần này thì cười tươi hơn và nghĩ thầm: “Trông mình cũng chưa đến nỗi nào!” Mặc dù biết là rửa mặt xong sẽ rất khó ngủ lại nhưng lúc đó con người tôi quá bần thần, như người đang ốm nên phải rửa mặt mới dễ chịu được. Và thật vậy, sau khi rửa mặt, tôi thấy khỏe khoắn, dễ chịu và tươi mát ra.

            Tôi không trở lại giường nhưng mở cửa ra hành lang, đứng tựa lan can nhìn xuống. Phố xá giờ này đang vắng tanh. Lâu lắm mới có tiếng xe máy và bóng vài người đi xe đạp thoáng qua phố chánh, nơi mà trưa hôm qua, bộ ba tướng sĩ tượng chúng tôi bỡ ngỡ bước vào Nhà Chung này. Bên kia đường, nơi chiều qua, các người trẻ tới khiêu vũ, giờ này không một bóng người. Tất cả đều trở nên yên lặng trong đêm tĩnh mịch.


            Tờ giấy ra trại

            Kể từ lúc cho vào túi tờ “Giấy Ra Trại” màu nâu rách mép và làm bằng chất liệu kém nhất mà tôi mới thấy lần đầu, cho tới giờ, thời gian qua đi chưa đầy 24 tiếng. Lúc vừa bước ra khỏi cơ quan của trại Nam Hà để đón xe lên Hà Nội sáng hôm qua, tôi cứ suy nghĩ vẩn vơ về tờ “Giấy Ra Trại”, đang nằm sâu trong túi áo ngực được may bên trong và cài hai lần kim băng, lúc nào cũng cồm cộm trên ngực.

            Tôi suy nghĩ mãi về sự tương phản quá lớn lao giữa hình dạng và nội dung của nó. Khi người cán bộ đặt “Giấy Ra Trại” trên bàn và bảo ký tên vào, tôi ngạc nhiên đến bất lịch sự khi nhận cây bút, cúi khom người, kéo một hàng ngoằn ngoèo như con giun vào chỗ dành cho đương sự ký tên. Nói rõ hơn là mảnh giấy đó không đáng để tôi ký tên vào. Ngay lúc đó, tôi nghĩ mình như bị xúc phạm khi cơ quan trại Nam Hà cấp cho tôi một thứ giấy tờ có giá trị pháp lý lâu dài mà lại là một tờ giấy đen thủi đen thui, chất lượng còn kém hơn giấy bao xi măng và bìa thì rách nát như cái răng cưa. Như vậy có ý gì? Chẳng lẽ Nhà nước không có thể cấp cho tôi một tờ giấy ra trại bằng chất liệu thông thường khác hay sao?
            Lúc nhận tờ giấy, tôi cầm thật nhẹ tay, chỉ sợ vô ý làm nó rách ra từng mảnh thì phiền! Tôi đã thầm nghĩ: Trời! Cuộc đời mình trong 13 năm tù đã đen và rách nát mà miếng giấy ra trại này nó còn đen và rách nát hơn cả đời mình! Nhưng tôi mỉm cười, tự an ủi: Ít ra, nó cũng có giá trị nhờ các hàng chữ đánh máy!

            Trên đường từ trại Nam Hà qua phà Phủ Lý rồi lên Hà Nội, tôi không ghi nhận được nhiều hình ảnh. Lúc đó tâm trạng tôi còn lâng lâng và khá mệt mỏi nên chỉ nhắm mắt tựa đầu vào băng ghế xe suốt quãng đường. Nhưng từ lúc đặt chân xuống Hà Nội và nhất là sau khi vào Nhà Chung Hà Nội, tôi ghi nhận được nhiều hình ảnh và có nhiều cảm nghĩ. Từ Đức Hồng y Căn, Đức cha Sang, hai anh em  thầy Trác và thầy Trạc, Cha Sinh, và các Cha, các Thầy tôi gặp trong nhà cơm chiều tối hôm qua. Rồi khung cảnh Nhà Chung Hà Nội với lối kiến trúc cổ điển, cộng với nét sinh hoạt thứ tự lớp lang từ trên xuống dưới trong cơ sở này, đều là những kinh nghiệm lạ đối với tôi.

            Tôi đứng thẳng người, ưỡn ngực về phía trước và hít một hơi thật dài và sâu. Làn không khí trong lành của thủ đô Hà Nội trong buổi sáng tinh sương lúc này làm tôi sảng khoái. Tôi bật thành tiếng:“Tạ ơn Chúa đã cho con có làn khí trong lành này để thở!”

            Sau khi nói câu đó, tôi hồi tưởng lại những đêm mùa hè trong buồng giam khu kỷ luật trại Thanh Cẩm. Tình cảnh tôi lúc đó chẳng khác gì đang bị cùm trong một cái thùng sắt kín mít và đang mở lò sưởi ở số cao. Có những đêm gần chết ngạt vì không thể hít vào buồng phổi chất khí nóng hừng hực đó, không cách gì hơn, chúng tôi phải gào thét khan cả cổ gọi cán bộ lên vì có người gần chết ngạt. Khi cán bộ mở cửa buồng ra, làn không khí bên ngoài ập vào làm tôi sung sướng và hạnh phúc, tưởng là trên đời này không còn thứ hạnh phúc nào lớn lao hơn! Nhưng khi cánh cửa sắt buồng giam đóng lại rồi, đám tù nhân khốn khổ trần truồng và đang bị cùm chân lại phải trở về tình trạng cũ.

            Lúc bấy giờ, trong cơn vật vờ của loài sinh vật đang cố gắng dùng hết khả năng thích ứng của cơ thể để bảo tồn sự sống đó, tôi đã quyết tâm nếu còn sống sót, về sau này, mỗi lần tôi có thể hít thở được vào buồng phổi làn khí trong lành, tôi phải tạ ơn Chúa vì hồng ân vĩ đại mà Ngài ban cho tôi. Tôi cũng quyết tâm phải chia sẻ kinh nghiệm này với tất cả mọi người:“Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân vĩ đại là Ngài đã ban cho ta có đủ không khí trong lành để thở.”

            Tôi biết chắc là có người sẽ không nghe, không nhớ, thậm chí có người sẽ mỉm cười vì cho rằng tôi đã bất bình thường sau những năm tù tội kéo dài khi kêu gào nhân loại phải tạ ơn Chúa về một chuyện chẳng ra đâu! Vì hít thở không khí là một việc tự nhiên và vô thức của cơ thể, ngay cả lúc ngủ con người vẫn hô hấp thì làm gì phải bận tâm? Trong cuộc đời này còn quá nhiều chuyện lớn khác phải lo, phải nghĩ và phải tạ ơn khi mình có được. Tôi sẽ trả lời: “Thưa bạn, vì bạn chưa lâm vào cảnh của tôi nên bạn chưa cảm thấy làn không khí trong lành quý báu như tôi cảm nhận”.

            Lúc này, đã gần ba giờ sáng và sau một ngày đi đường vất vả hôm qua, tôi vẫn chưa thấy buồn ngủ. Thì ra, làn  không khí trong lành lúc đó cộng với tâm trạng trong đêm đầu tiên được ra khỏi tù và sau khi đã rửa mặt, chải tóc và lau mặt bằng chiếc khăn trắng, sạch và thơm, ba yếu tố đó cộng lại đã làm tôi tỉnh hẳn ra. Tôi cảm thấy yêu đời, yêu cuộc sống này một cách mãnh liệt và quyết tâm  sống quãng thời gian thần tiên độc nhất vô nhị của đời mình trong lúc này thật tích cực. Tôi vẫn biết là quãng đường trước mặt sẽ còn nhiều thử thách, nhưng chuyện đó tính sau. Tôi không muốn những lo âu phiền muộn chưa xảy ra đó làm giảm đi cảm giác tuyệt vời tôi đang được hưởng trong lúc đứng một mình ở hành lang bên ngoài phòng khách của Nhà Chung Hà Nội này.

            Đứng một lúc, tôi thấy mỏi chân nên vào phòng nhắc ghế ra ngồi. Đó là chiếc ghế mây khá to nhưng rất nhẹ, lòng ghế sâu và có chỗ tì tay hai bên. Tôi kê ghế sát vào hàng rào chắn phía trước để khi ngồi tôi có thể gác chân lên một trong những thanh của hàng rào trong một tư thế thoải mái nhất. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế trong tư thế tự do, riêng tư, lười biếng và bất lịch sự, đầu ngửa về phía sau tựa hờ lên thành ghế, hai tay dang rộng, đôi chân duỗi thẳng gác lên một thanh của hàng rào. Trong tư thế đó, tôi đưa mắt nhìn cảnh vật trước mắt ẩn hiện cái được cái mất qua những ánh đèn điện bóng tròn của đường phố Hà Nội.

            Tôi nhìn một cách bâng quơ nhưng không chú ý tới một điểm nào. Tôi muốn tận dụng phút giây thư giãn tinh thần trong lúc này sau mấy tiếng đồng hồ tôi nằm trăn trở trên giường nhưng không ngủ được khi những chuyện của hơn chục năm qua lần lượt hiện lên trong tâm trí tôi như một cuốn phim quay chậm. Trong lúc đang ngồi thoải mái tựa đầu vào thành ghế, tôi nhắm mắt lại và tự hỏi: Quãng đời 13 năm tù và những kinh nghiệm buồn vui mình đã trải qua đó có giá trị gì cho bản thân mình và cho người khác? Tôi ngồi yên và cố trả lời câu hỏi đó.
            Đối với tôi, giai đoạn đó cho tôi khá nhiều điều hiểu biết.


            Bài học của trường đời

            Trước tiên, về phương diện tôn giáo, trong cảnh khốn cùng đó, tôi nhận thấy vai trò của một Linh mục thật vô cùng cần thiết để mang lại tình thương và niềm hy vọng trong khung cảnh mà hai thứ giá trị này rất hiếm, nếu không muốn nói là không có. Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa và tôi chia sẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung.

            Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đày đó, tôi đã sống sứ mệnh Linh mục có nhiều kết quả hơn 6 năm trước ngày tôi vào tù, và có lẽ hơn cả những năm về sau này trong cuộc đời còn lại, mặc dù tôi chưa biết được cuộc đời rồi sẽ ra sao, ở đâu và làm gì. Hơn nữa, qua các biến cố xảy ra tưởng chừng như vô tình, nhưng sau này, tôi nhận ra đó chính là sự quan phòng của Thiên Chúa, và tôi luôn nghĩ rằng, trong hết mọi hoàn cảnh, luôn có bàn tay của Thiên Chúa che chở cuộc đời tôi.

            Về con người, trước tiên tôi khẳng định là không than phiền hoặc oán trách gì những cán bộ làm việc trong tù. Tôi biết đa số họ làm việc vì cuộc sống và miếng cơm manh áo. Vai trò của một cán bộ trong tù cũng như bao nhiêu công việc của người dân khác đang làm nơi các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp khác. Đôi lúc, có vài cán bộ vì bản chất hung ác và được huấn luyện để phục vụ cho bộ máy kềm kẹp của đảng, làm cho cảnh sống tù đày chúng tôi khốn khổ, ngược lại, cũng có những cán bộ sống thân tình và biểu lộ lòng nhân đạo một cách rất cảm động.

            Vào thời gian cuối cùng trước khi được tha về, tôi đã có dịp tiếp xúc thân mật hơn với nhiều cán bộ và tôi thấy họ là những người đáng thương hơn là đáng trách. Có người còn để lại trong lòng tôi sự quý mến và biết ơn sâu xa. Do đó, tôi không hề oán trách bất cứ một cán bộ nào tôi đã gặp trong suốt 13 năm tù, ngay cả những cán bộ đã từng chửi mắng, đánh đập hành hạ tôi cách này cách khác. Tôi cũng không hề oán trách những anh em tù đã ngược đãi và vì sự nhẹ dạ đã hãm hại tôi.

            Điều đáng nói chính là chủ trương trong chế độ lao tù cộng sản. Chúng tôi vào tù với cái tên rất đẹp là “ Tập trung Cải tạo” kèm theo lời hứa “Chừng nào cải tạo tốt thì về!”. Và như vậy, chúng tôi bị tước đoạt quyền hy vọng là lý do sống của con người. Câu nói‘‘chừng nào cải tạo tốt thì về” đó, đã ngầm khuyến khích sự chia rẽ và phản bội nhau trong số tù chính trị miền Nam. Nói về tâm trạng tuyệt vọng lúc đó, sau khi vào tù, tôi nhớ lại có lần đọc ở đâu mấy câu thơ của thi sĩ Dante người Ý, tả cảnh địa ngục, tạm dịch như sau:


                     Trên ngưỡng cửa địa ngục có khắc câu này:
            “Hỡi những kẻ sắp bước vào đây
            Hãy để niềm Hy Vọng lại bên ngoài!”

            Sống trong tình trạng tù mù đó, tôi luôn nghĩ , nếu bị kêu án 5 năm, 10 năm hoặc 20 năm hay lâu hơn nữa, tôi vẫn vui hơn vì ít ra còn có một cái mốc thời gian để hy vọng. Đàng này không ai thực sự biết được số phận của mình ra sao! Không còn gì khốn khổ hơn tâm trạng của một con người sống trong tuyệt vọng!

            Cái kiểu treo củ cà rốt trước mõm  con lừa đang kéo xe bằng luận điệu:‘‘Các anh đang chơi bóng đá và đang ở gần cuối của hiệp hai rồi, chỉ còn mấy phút cuối cùng nữa là có tiếng còi tan trận đấu! Cố gắng lên!” Chúng tôi nghe đến nhàm tai cách nói đó của cán bộ giảng huấn khắp các nơi, và các “trận bóng đá” này trại nào cũng có! Nhưng khổ nỗi, mấy phút cuối cùng của trận đấu lại là thời giờ bằng dây thun chất liệu tốt, có thể kéo giãn ra đến vô tận!

            Trong hoàn cảnh đó, lời hứa mù mờ "cải tạo tốt được về” đã thành cơn cám dỗ cho một số người nhẹ dạ cố gắng cải tạo tốt. Có vài người còn muốn cải tạo “thật tốt!” Mà cách tốt nhất là quên đi mình là ai, quên đi những người đang mặc bộ đồng phục tù như mình là ai, để rồi phản bội lại chính mình và phản bội anh em đồng cảnh. Lời hứa mù mờ đó, theo tôi, là chủ trương thâm độc nhất của chế độ nhà tù cộng sản. Nó đã hành hạ tâm trí chúng tôi và đã gây ra bao nhiêu tác hại, khiến những con người khờ khạo tin vào lời hứa đó để hãm hại chính anh em mình.

            Và như tôi đã nói, sự đau thương và nhục nhã mà tôi đã phải chịu 13 năm trong ngục tù cộng sản, không phải là cực hình trên thân xác như  sự hành hạ, cùm kẹp, đánh đập đói khát, trần truồng, chết ngạt, chửi mắng...như tôi đã nhớ lại, nhưng là tình trạng tuyệt vọng và nhất là khi phải chứng kiến và chịu đựng sự phản bội của một vài  người trong số tù chính trị miền Nam.

            Cũng từ kinh nghiệm đó cho tôi hiểu biết hơn về lòng dạ con người. Khi con người lâm vào cảnh túng cùng và không còn được che giấu dưới những bộ y phục, những huy hiệu, cấp bậc, chức vụ trước kia, họ đã lộ nguyên hình là những con người. Khi con người sống chen chúc nhau trong cảnh khốn cùng, đói khát và tuyệt vọng trong thời gian dài hơn chục năm trời, đã cho tôi rút được bài học đắng cay sau đây:“Lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người thì vô tận, nhất là khi sự ác độc đó được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu xa.”


            Dân Tộc Việt Nam của tôi

            Thời gian dài, nhất là 3 năm lăn lộn trong đáy địa ngục khu kỷ luật trại Thanh Cẩm, đã cho tôi cơ sở để nói rằng trong mỗi con người đều có phần THIỆN và phần ÁC ngang ngửa nhau, và tùy thuộc vào môi trường sống mà phát triển. Nếu con người được sống trong một môi trường đạo đức và luật pháp được tôn trọng thì phần THIỆN sẽ phát triển và đè bẹp phần ÁC. Ngược lại, nếu con người rơi vào hoàn cảnh xấu xa, hận thù và không luật lệ thì phần ÁC sẽ ngoi lên và ngự trị.

            Trong tù, tôi đã chứng kiến và chịu đựng  những hành động ác độc của một số cán bộ và những người tù phản bội. Tôi biết một phần cũng do bản chất tàn bạo của họ, nhưng nếu không có sự dung dưỡng và khuyến khích của chế độ thì các việc đó đã không xảy ra, hoặc nếu có xảy ra, cũng không đi tới chỗ quá tàn nhẫn như thế. Từ nhận xét đó, tôi kết luận: “Không bao giờ oán trách con người, không bao giờ thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người nhưng bằng mọi giá phải loại bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù giữa người với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được phát triển phần LƯƠNG THIỆN của mình.”

            Những năm tù cũng cho tôi có dịp chia sẻ và sống với nỗi đau thương chung của Dân tộc mà nếu không trải qua kinh nghiệm đó, có lẽ tôi không biết hoặc biết rất hời hợt về số phận đau thương của đồng bào Việt Nam. Qua đó, tôi thương  và gắn bó với Dân tộc tôi nhiều hơn.

            Tôi cũng nghĩ rằng, sau này, tôi có bổn phận phải chia sẻ kinh nghiệm của đời tôi với nhiều đồng bào của tôi, nhất là với thế hệ trẻ Việt Nam là những người không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh tương tàn do ý thức hệ gây ra.

            Tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau một lời tâm huyết là đừng bao giờ mê muội vì một chủ thuyết ngoại lai nào mà quên đi tình Dân Tộc, để rồi cảnh nồi da xáo thịt lại tái diễn. Thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, triều đại nào rồi cũng sẽ sụp đổ, chỉ có Dân Tộc là trường tồn. Lịch sử đã chứng minh, chế độ nào càng tàn ác, càng bạo ngược bao nhiêu thì càng mau sụp đổ bấy nhiêu. Không một chế độ nào dùng họng súng và nhà tù để cai trị mà vững bền được, chỉ có lòng nhân mới cảm hóa được con người.

            Tôi vẫn biết là trên quê hương tôi tiếng súng đã im từ nhiều năm qua, nhưng trong lòng người dân Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn, và cuộc chiến đó càng kéo dài bao nhiêu thì càng tác hại cho Dân Tộc tôi bấy nhiêu.


            Cuộc chiến chưa tàn

            Bên cạnh đó, tôi biết những hệ lụy của một cuộc chiến tương tàn kéo dài mấy chục năm trên quê hương và đã giết hại và làm khổ hàng triệu đồng bào ở cả hai miền Nam Bắc như là một vết thương còn đang chảy máu, khó mà có thể quên ngay được. Tôi vẫn biết sự căm tức và lòng hận thù nhau giữa những người Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến tương tàn ấy, còn đang cao ngút trời, khó mà có thể kêu gọi sự tha thứ ngay được.

            Tôi kính trọng và cầu nguyện cho những người đã chết trong cuộc chiến tại Việt Nam. Tôi cảm thông nỗi khổ đau và căm hờn của tất cả những nạn nhân cả hai bên trong cuộc chiến. Tôi cảm thương cho số phận của những thương phế binh của cả hai bên trong cuộc chiến, đang phải kéo lê quãng đời còn lại trong cảnh tật nguyền, thiếu thốn và bị lãng quên. Tôi chia sẻ sự đau thương tủi hờn của các bạn tù chính trị của tôi trong các trại tù mang tính chất trả thù và tiêu diệt mang tên“trại cải tạo” của chế độ cộng sản sau khi quê hương đã im tiếng súng.

            Chính bản thân tôi là một chứng nhân và cũng là một nạn nhân còn sống sót của chế độ lao tù đó. Tôi đã lăn lộn trong một giai đoạn đen tối của lịch sử  Trong đó, sự ác độc của con người được dung dưỡng và khuyến khích, và đã có những con người hành động ác độc  hơn loài ác thú thả lỏng dây cương. Có lúc, sự tàn ác của người đối với người đã vượt quá sự tưởng tượng và khả năng chịu đựng của con người.

            Chính tôi, mặc dù là một Linh mục, tôi đã có lần phải buông ra những lời nguyền rủa gớm ghê, độc ác nhất mà lúc bình thường tôi không bao giờ dám nghĩ tới.  Đó là một thực tế đau lòng đã và có thể là còn đang xảy ra trên quê hương tôi, giữa những người Việt Nam với nhau.

            Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, sau khi quê hương đã im tiếng súng, và mỗi người bắt buộc phải có một câu trả lời:

            “ Đứng trước tình cảnh của Dân Tộc Việt Nam như thế, bạn phải làm gì, và làm như thế nào?”

            Câu hỏi này được đặt ra cho tất cả mọi người Việt Nam, không phân biệt đang sống trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt đang ở vị thế cầm quyền hay là người dân bình thường, không phân biệt thuộc về phía nào trong cuộc chiến trước kia, không phân biệt là kẻ đã gây ra tội ác hay là nạn nhân của những tội ác do kẻ khác gây ra.


            Can Đảm và Khoan Dung

            Chúng ta biết rằng  Dân Tộc bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tương tàn vượt ra ngoài sự kiểm soát của mình. Toàn thể dân tộc Việt Nam là nạn nhân  của một trò chơi chính trị lớn. Khi hai miền Nam Bắc đã bị những thế lực ngoại bang dẫn đưa vào cuộc chiến rồi, lúc đó, dù có muốn dừng tay lại cũng không dừng được. Như thế, toàn thể dân tộc Việt Nam là những nạn nhân, là những người thua cuộc.

            Đây là lúc người Việt Nam phải có can đảm đặt vấn đề một cách thẳng thắn và tìm phương cách giải quyết vấn đề trong tinh thần hiểu biết và thái độ bao dung như thế mới mong thoát ra khỏi sự ràng buộc của dây hận thù oan trái đang trói chặt thân thể Dân Tộc do hậu quả của bao năm chiến tranh tương tàn để lại.
            Trong cuộc chiến không có tiếng súng này, dân tộc Việt Nam không còn chiến đấu vì một chế độ này hay chế độ khác. Không chiến đấu để khôi phục lại một chế độ vừa sụp đổ, cũng không chiến đấu để cố bảo vệ chế độ độc tài thối nát đang ngự trị trên quê hương. Đây phải là cuộc chiến của lương tri con người để chọn cái Đúng và loại bỏ cái Sai, để chọn cái Thiện và loại bỏ cái Ác cho con đường Dân Tộc phải đi.

            Kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc này không còn phải là những con người đã đứng bên này hay bên kia chiến tuyến trong quá khứ, nhưng là bất cứ thể chế chính trị nào cướp đi quyền lợi tự nhiên của những thành phần Dân Tộc khác. Đã đến lúc lương tri tổng hợp của dân tộc Việt Nam phải nhận diện và loại bỏ bất cứ một chế độ bất nhân nào, cho dù là mang tên tuổi gì, chủ nghĩa gì mà trong đó các quyền sống căn bản của người dân bị những kẻ nắm quyền cướp đoạt. Một chế độ chính trị không phải tốt hay xấu vì tên gọi của nó, nhưng tốt hay xấu là do đường lối, chính sách, và cách hành xử của những kẻ cầm quyền.
            Đây là một vấn đề khó khăn nhưng là vấn đề sống còn cho tương lai dân tộc Việt Nam. Không phải vì vấn đề quá lớn hoặc cảm thấy khó khăn mà chúng ta không muốn hoặc không có can đảm tìm một giải pháp cho vấn đề. Theo tôi nghĩ, không có một vấn đề gì mà chúng ta không thể giải quyết được trừ ra việc chúng ta không muốn giải quyết vấn đề.

            Ngày nay xã hội Việt Nam sau một thời gian im tiếng súng giống như bề mặt của một đại dương chỉ hơi gợn sóng lăn tăn. Trong thực tế dưới đáy đại dương đó, đang có những đợt sóng ngầm chỉ chờ cơ hội bộc phát. Những đợt sóng ngầm này là kết tinh của bao nhiêu bất công, chém giết, cướp đoạt tài sản, hận thù, oan nghiệt đang tích lũy trong lòng dân tộc. Nhất là qua cảnh bất công gây ra bởi những kẻ đang nắm quyền. Họ tự coi là chủ nhân ông và giữ độc quyền lãnh đạo đất nước. Họ cấu kết nhau trong đồng phục đã nhạt màu của một chủ nghĩa ngoại lai để vơ vét tài sản của Dân Tộc. Họ đè đầu cỡi cổ thành phần thất thế và hút máu thành phần dân tộc khác qua nạn tham nhũng công khai và có hệ thống.

            Những đợt sóng ngầm đó phải được loại ra khỏi lòng đại dương dân tộc Việt Nam càng sớm càng tốt. Vì càng kéo dài nó càng tích lũy sức tàn phá tinh thần dân tộc. Tôi có thể khẳng định là dần dần sẽ có những con người đang nằm trong guồng máy cai trị nói lên tiếng nói của lương tri. Có lúc họ sẽ thức tỉnh trước sự sai trái về con đường có hại cho Dân Tộc mà họ đã đi.

            Tôi đã có dịp nghe được những tâm tư thầm kín này nơi một số cán bộ trong nhà tù trong thời gian cuối cùng trước khi tôi được tha về. Tôi biết hiện tượng này rất phổ biến và đang dày dò tâm can của một số người đang nằm trong bộ máy cầm quyền nhưng chưa tới lúc thuận tiện để họ có thể bày tỏ công khai. Khi hoàn cảnh cho phép để họ bày tỏ sự thức tỉnh, lúc đó họ là những người đáng quý và đáng kính trọng cho dù trước kia và ngay trong hiện tại họ đã ở đâu và làm gì. Họ sẽ là những người trong vị trí thuận lợi để đóng góp cho sự nghiệp tranh đấu cho cái THIỆN và loại bỏ cái ÁC ra khỏi chế độ cầm quyền.

            Khi nguồn sức mạnh của ý chí quật cường và lương tri tổng hợp của dân tộc được khơi dậy sẽ không có một thế lực chính trị nào cho dù bạo ngược tới đâu có thể cưỡng lại được. Trong khi đó, những kẻ thù của Dân Tộc không mừng gì hơn là có những người lúc nào cũng chỉ gầm gừ chực loại nhau trong một bài toán không có đáp số và họ được rảnh tay để ngang nhiên tự tại nắm quyền. Theo tôi, chừng nào mà những người trong cuộc chiến trước kia biết nhận ra nhau, hiểu biết nhau và hợp tác nhau trong cuộc chiến tranh đấu cho cái THIỆN của dân tộc, chừng đó mới có thể nói tới việc đưa dân tộc Việt Nam chúng ta tới một tương lai tươi sáng.

            Lúc đang đắm chìm trong suy tư về vấn đề này, tự nhiên tôi nhớ lại một câu chuyện đã nghe khá lâu, còn nhớ mãi. Năm 1966, khi tôi đang học năm Thần học thứ nhất tại Đại chủng viện Sài Gòn, có lần Linh mục Gérard Gagnon vào thăm và nói chuyện với tất cả chủng sinh. Cha Gagnon là Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, người Canada, đã sống ở Việt Nam trên 30 năm nên nói tiếng Việt lưu loát. Trong lần nói chuyện đó, ngài có kể lại câu chuyện, trong một lần ngài cỡi xe mô-tô từ Đà Lạt về Sài Gòn, tới khúc đường vắng, bị Việt cộng chặn lại, bắt dẫn vào rừng tuyên truyền. Cảnh Việt cộng chặn xe, bắt người vào rừng để tuyên truyền là chuyện thường xuyên lúc bấy giờ. Vì biết ngài là Linh mục nên người cán bộ tuyên truyền hỏi:

              - Anh nghĩ thế nào, Đạo Công Giáo của anh đã hoạt động gần hai ngàn năm rồi mà mới được mấy trăm triệu tín đồ, còn chủ thuyết cộng sản mới ra đời có 50 năm mà đã chiếm một phần ba nhân loại. Như thế, giữa đạo của anh và chủ thuyết cộng sản cái nào hay hơn?

               Cha Gagnon trả lời:

              -Tôi cũng không biết, nhưng phải đợi chủ thuyết cộng sản được gần hai ngàn tuổi  như đạo Công Giáo, lúc bấy giờ tôi mới trả lời anh được!

               Câu chuyện cha Gagnon kể tuy đã 20 năm rồi nhưng tôi còn nhớ rất rõ, vì tôi thích câu trả lời đầy ý nhị của ngài.

            Trong khi ngồi nghĩ miên man, lúc đó tôi quyết định khi nào thuận tiện tôi sẽ ghi lại chi tiết những gì đã xảy ra trong tù và những suy tư của tôi qua những biến cố đó. Nếu tôi có ghi lại, không phải để than oán cuộc đời, cũng không phải để trách cứ con người. Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm của tôi với nhiều người.

            Tôi cũng muốn viết để bày tỏ lòng biết ơn những tâm hồn cao thượng trong số những anh em đồng cảnh và cả một vài cán bộ mà tôi đã gặp được trong tù. Tôi cũng viết để tưởng nhớ những người đã cùng sống với tôi và đã chết trong tù.
            Nhưng quan trọng hơn cả là tôi muốn ghi lại như một bài học của lịch sử, gửi tới đồng bào Việt Nam mà tôi yêu mến, nhất là những người trong thế hệ trẻ, không phân biệt Nam hay Bắc, không phân biệt đang sống trong nước hay ở hải ngoại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt bây giờ và trước kia thuộc về thể chế chính trị nào, không phân biệt đã từng đứng về phía nào trong cuộc chiến tương tàn trên quê hương, không phân biệt là nạn nhân hay là tác nhân đã gây nên nỗi khổ cho các nạn nhân, những lời tâm huyết sau đây:




            Đồng bào Việt Nam thương mến,

            Máu dân tộc Việt Nam đổ ra đã đủ rồi.

            Vết tích đau thương còn lưu lại trên thân thể trong cuộc đời còn lại và trong tâm hồn của những thương phế binh của cả hai bên trong cuộc chiến tương tàn đã gây đau khổ đủ rồi.

            Nỗi đau thương của người dân vô tội Việt Nam đã quá nhiều rồi.

            Cơn điên loạn vì tôn thờ chủ nghĩa ngoại lai đã giết hại đồng bào đủ rồi.

            Bom đạn của ngoại bang đã cày xé nát thân thể Mẹ Việt Nam quá nhiều rồi.

            Sự nghi ngại nhau giữa các thành phần dân tộc, giữa các tôn giáo đã từng tác hại cho tình đoàn kết dân tộc đã quá nhiều rồi.

            Lòng hận thù và lòng tham lam vô độ của những kẻ có thế lực qua các thời đại như con thú dữ thả lỏng dây cương, đã hoành hành và hãm hại thành phần thất thế và không có tiếng nói trong dân tộc đủ rồi. Hãy nhớ rằng thể chế chính trị nào rồi cũng sẽ qua đi, chỉ có Dân Tộc là trường tồn.”


            Hãy để những dị biệt của quá khứ lại phía sau và cùng nhau xây dựng một tương lai sáng lạng cho Dân Tộc trong một xã hội Tự Do, Công Bằng và Phát Triển.

            Và chủ yếu là tôi muốn gửi tâm tình thiết tha sau đây tới thế hệ trẻ Việt Nam




                       Các bạn trong thế hệ trẻ thương mến,

            Dân tộc chúng ta đã trải qua một giai đoạn u buồn đầy máu và nước mắt. Những người trong thế hệ trước, mặc dù có nhiều cố gắng  nhưng chưa mang lại được tình thương và sự đoàn kết dân tộc. Tôi ước mong điều đó sẽ thành tựu trong thế hệ của các bạn. Xin các bạn đừng để cho những biến cố đau thương của lịch sử trói buộc mình, hãy dùng lịch sử như một bài học để có thể  tránh tái diễn thảm cảnh cho dân tộc.

            Hãy để cho những người chết được nghỉ yên. Hãy kính những anh hùng nhưng không sống vì ho. Lịch sử dân tộc là một cuộc hành trình tiếp diễn và mỗi thời đại sẽ sinh ra những anh hùng dân tộc mới. Theo tôi nghĩ, những anh hùng dân tộc thực sự  là những người có can đảm  vượt ra ngoài sự ràng buộc của quá khứ để hướng về tương lai với sự hiểu biết và khoan dung.

            Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử hay than van oán trách con người, nhưng hãy dùng lịch sử như ngọn đèn soi sáng con đường dân tộc ta phải đi.

            Khi nhìn lại giai đoạn lịch sử cận đại, tôi thấy cuộc chiến tương tàn đầy máu và nước mắt kéo dài mấy mươi năm trên quê hương chúng ta, cuối cùng đã im tiếng súng. Nhưng trong lòng dân tộc Việt Nam, cuộc chiến vẫn chưa tàn. Điều thật trớ trêu là cuộc chiến đó  không có kẻ thắng mà chỉ có những  người thua, và những người thua cuộc đó chính  là DÂN TỘC VIỆT NAM. Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của BÌNH MINH DÂN TỘC trong cuộc sống Công Bằng, Tự Do và Phát Triển.


            Tôi ngồi trên ghế, gục đầu yên lặng khá lâu để cầu nguyện theo ý hướng đó.
            Bước vào tương lai vô định.

            Một lúc sau, tôi cảm thấy lạnh và nghĩ là tốt hơn nên vào phòng cố gắng ngủ một chút sau một ngày đi đường mệt nhọc. Vả lại, sáng ngày còn nhiều việc khác để làm. Tôi tính việc đầu tiên trong ngày là phải tìm đến làng Bưởi để dò hỏi tin tức về Bình Thanh mà sáu năm qua tôi không nghe biết tin tức gì. Tôi quay vào phòng, đóng cửa lại và leo lên giường ngồi đọc kinh. Đọc kinh xong tôi nằm xuống, quyết tâm sẽ dỗ giấc ngủ bằng câu nói:“Quên hết mọi chuyện! Phải ngủ cho khỏe để mai còn đi. Đừng có như cái đêm vừa được ra khỏi nhà kỷ luật!”

            Vừa liên tưởng tới cái đêm được ra khỏi nhà kỷ luật ở trại Thanh Cẩm sáu năm về trước, đầu óc tôi lại căng thẳng và suy nghĩ.

            Tôi nhớ lại đêm hôm đó vừa được chuyển từ kỷ luật qua khu kiên giam sống với một số Linh mục khác. Đêm đó, mọi người trong buồng ngủ say, nhưng sao tôi cứ trằn trọc mãi không ngủ được. Tôi nằm trăn trở từ bên này qua bên kia để cố dỗ giấc ngủ nhưng không tài nào chợp mắt. Khổ hơn nữa, khi phải nằm nghe tiếng ngáy đều của anh em trong buồng.

            Tôi khó ngủ có lẽ vì nhiều lý do. Một phần vì tâm trạng người tù được tha cùm sau gần ba năm trong kỷ luật, tôi nằm tính lại đúng 1020 ngày đêm! Một phần nhớ em tôi là tướng cướp Bình Thanh ở chung buồng kỷ luật mà tôi vừa từ giã ra đi. Phần nữa, tôi cảm thấy thiếu một thứ gì đó rất quen thuộc. Chừng nhớ ra mới biết là thiếu cái móng cùm ngoạm vào cổ chân. Thì ra trong 1020 đêm liên tiếp đó, đêm nào tôi cũng đi ngủ với một chân xỏ vào cùm, và đêm nay cả hai chân nằm ngoài. Thừa một chân, tự nhiên sao cảm thấy nó vướng víu kỳ dị!
            Tới quá nửa đêm vẫn chưa chợp mắt, tôi lò mò xuống ngồi ở lối đi trong buồng, hút thuốc lào. Nghe tiếng động, cha Lê Đức Triệu, tức nhạc sĩ Hoài Đức, cũng thức giấc và bước xuống ngồi hút thuốc với tôi. Cha Triệu mà tôi gọi là Bố Triệu, là tác giả bài Thánh ca Giáng Sinh “Cao Cung Lên” rất phổ biến. Người cao và gầy ốm, tướng đi khoan thai đĩnh đạc, bộ râu cằm không nhiều nhưng khá dài. Nhìn qua phong thái, cha giống như một tiên ông đạo cốt trong truyện tàu.
            Trước đó, cha Triệu đã giúp phổ nhạc cho bài thơ tôi làm sau khi vào tù một năm. Tôi cũng chẳng biết người Linh mục nhạc sĩ này thực sự có hứng, hay vì nể nang trước lời tôi yêu cầu, mà phổ nhạc bài thơ lục bát 12 câu tôi soạn, có tựa đề khá trữ tình: “Đếm hạt mưa rơi!”, như sau:


                       Phòng giam vắng lạnh về đêm,
            Ngoài trời mưa đo  tăng thêm nỗi sầu.
            Xa người xa đã bấy lâu
            Đêm nay gởi nhớ thương sầu về ai?
            Nhớ ai tôi nhớ đêm ngày,
            Bao đêm thức trắng đắng cay mỏi mòn.
            Nhạc buồn tiếng dế nỉ non!
            Dế ơi!  Không ngủ dế còn gọi ai?
            Hay lòng dế cũng đắng cay,
            Thương vay khóc mướn cho hai cuộc đời?
            Lặng nhìn đếm hạt mưa rơi,
            Bao nhiêu giọt nước bấy lời nhớ thương!”

                      Tôi không biết làm thơ và cũng chưa bao giờ làm thơ cả, mặc dù tôi rất thích thơ. Đêm đó, vào năm 1977, một mình trong xà lim trại Phan Đăng Lưu buồn quá, nhìn ra ngoài qua cái lỗ vừa đút lọt cái ca đựng nước trên cửa sắt buồng giam, bên ngoài lại mưa rỉ rả. Tôi bèn thử thời vận, đánh bạo ê a vài câu thơ đó, và cố nhớ trong lòng.

                    Tôi chẳng biết nó có đúng niêm đúng luật gì hay không. Nếu quý vị nào thấy mấy câu thơ đó kỳ quá, xin cứ xé bỏ trang sách này cho tôi đỡ ngượng. Dù vậy, tôi cũng xin sự rộng lượng của độc giả, vì bài thơ con cóc này là bài thơ duy nhất tôi sáng tác trong 13 năm tù, và đúng hơn là trong cả đời tôi, ít ra là cho tới lúc này.

               Cha Triệu vui vẻ hỏi thật nhỏ:

              - Chú Lễ chưa ngủ à?

               Tôi trả lời:

              - Sao đêm nay con khó ngủ quá bố Triệu ơi! Cứ nằm lăn lộn trở trăn hoài!

               Cha Triệu vê bi thuốc lào vào nõ điếu, hỏi:

              - Sao khó ngủ? Bộ nóng lắm hả?

              - Không phải đâu bố, phòng này mát hơn bên kỷ luật nhiều!

               Bố Triệu ngửa mặt lên trời, nhả khói xong hỏi:

              - Thế sao không ngủ được?

              - Con ngủ bên kỷ luật bị cùm một chân quen rồi, qua đây thiếu cái móng cùm con thấy một chân bị thừa thãi và nhẹ tong. Cứ nằm quơ quơ  trên không hoài không biết để chân đó ở đâu!

               Nghe tôi nói cha Triệu bật cười thành tiếng, quên cả có người đang  nằm ngủ kế bên. Vẫn giữ nụ cười thoải mái và rạng rỡ, vị Linh mục nhạc sĩ nói:

              - Cái chú này! Thiệt tình tôi chẳng biết chú ra làm sao!                       
                            
                 
            Trở về thực tại

            Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Một giấc ngủ thật say, yên lành và không mộng mị. 
             
            Có tiếng gõ cửa khá to, tôi giật mình choàng dậy, tưởng là đang còn trong tù, nghĩ vội:“Chết cha rồi, mình ngủ quên để cán bộ phải vào gọi, chắc là đội đã báo số xuất trại rồi!” Tôi ngồi bật dậy như cái máy, mở mắt ra và ngạc nhiên thấy khung cảnh lạ. Không biết  mình đang ở đâu. Nhưng một giây sau tôi nhận ra thực tại, nên vội tuột xuống giường và bước ra mở cửa phòng.

            Khi vừa đưa tay chạm cái quả nắm bằng sứ trắng tinh trên cánh cửa phòng khách ở Nhà Chung Hà Nội, tôi cảm thấy lạnh nơi lòng bàn tay đồng thời với tâm trạng hạnh phúc của con người TỰ DO. Tôi cảm nhận giây phút sung sướng tuyệt vời lúc đó như đang được bay bổng lên chín tầng mây vì đây là lần đầu tiên sau 13 năm trời tôi được tự tay mở cửa buồng vào buổi sáng sau khi thức dậy.

            Nhớ lại trong thời gian hơn chục năm trong tù, sáng nào tôi cũng nghe tiếng kẻng vang lên ở cổng trại, sau đó là tiếng chìa khóa khua rổn rẻng cộng với tiếng lòi tói va chạm vào cửa sắt. Có khi là tiếng rít chói tai của song sắt cài cửa to như cổ tay trẻ em, khi cán bộ hoặc người tù trật tự rút một cách mạnh bạo và hối hả thanh sắt đó ra khỏi các khoen sắt để mở cửa buồng giam.

            Vì đã quen nghe âm thanh ấy như một điệu nhạc buồn mỗi buổi sáng nên lúc đó tôi không chú ý nhiều. Bây giờ nhớ lại tôi mới rùng mình ghê rợn. Lúc đó, sau khi cửa buồng giam mở ra, đám tù nhân chúng tôi xếp thành hàng một bước ra cho người ta đếm. Cảnh này giống y như ở một nông trại, mỗi sáng người chủ nông trại đếm lại từng con thú trong bầy súc vật đang từ chuồng chen lấn nhau ra. Cái khác nhau duy nhất là bầy súc vật có khi chạy nhảy vô trật tư,ï còn đám tù chúng tôi thì đi ngay hàng thẳng lối, đầu cúi gầm xuống. Mới sáng hôm qua đây tôi cũng còn sống trong khung cảnh “cúi đầu bước ra” ấy ở trại tù Nam Hà.

            Lúc này, khi cách cửa phòng khách mở ra, tôi thấy bên ngoài ánh nắng ban mai đã chói chang và báo hiệu một ngày đẹp trời. Một thầy phòng bộ có mái tóc đầu đinh, mặc quần đen, áo sơ mi trắng ngắn tay, bỏ ngoài quần, chân mang săn-đan màu đen, đứng bên ngoài cửa tươi cười: “Chào cha! Chắc hôm qua cha đi đường mệt nên ngủ ngon, con đã gọi cửa khá lâu. Xin lỗi con phải đánh thức cha. Đức Hồng Y mời cha xuống ăn điểm tâm.”

            Tôi không kịp nhìn đồng hồ trên tường, vội đáp lại:“Chào thầy...” và lí nhí thêm câu gì tôi cũng không nhớ. Nhưng tôi còn nhớ là lúc bước vội vào nhà tắm, tôi tự hỏi:“Ông này là Trác hay Trạc đây hả trời?!” 
                                                                                                                                                                                                                                 Mùa Thu Năm Quý Mùi  2003


            nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
            dactrung.com
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.02.2007 06:47:44 bởi sóng trăng >
            #21
              sóng trăng 14.02.2007 04:56:27 (permalink)
              Phần Phụ Trương
               

              Phụ Trương
              Tôi Phải Sống
               

                                  Phụ Trương Một:  
              Cái chết của tướng cướp Bình Thanh.


               
              Sau khi ra tù tôi ở lại miền Bắc nửa tháng. Trong thời gian này, tôi đã tìm tới làng Bưởi để tìm Bình Bưởi, dò hỏi tin tức về Bình Thanh, nhưng không ai biết. Bình Bưởi có thể biết nhưng người nhà cho hay là Bình Bưởi đã bị bắt lại vào tù rồi. Vì vậy, tôi không thể nào tìm ra manh mối. Sau đó, tôi đi thăm khá nhiều địa điểm du lịch ở nội thành Hà Nội và một số Giáo phận miền Bắc như Bắc Ninh, Hải Phòng, Bùi Chu và Thái Bình. Ngoài việc thăm các Giám mục và Linh mục để tìm hiểu về hoàn cảnh Giáo hội miền Bắc, tôi còn thăm một số bạn tù đã về trước tôi.

              Sau đó, tôi xuôi tàu Thống Nhất về Sài Gòn vào đầu tháng 8 năm 1988. Về Sài Gòn tá túc ở nhà một người cô và có một lần lén về quê thăm mộ cha má . Má tôi đã chết 11 năm trước, khi tôi còn trong tù. Tôi không thể về nhà quê cách công khai vì sợ chính quyền địa phương có thể bắt lại bất cứ lúc nào, trong khi ở thành phố lớn như Sài Gòn dễ sống trà trộn hơn. Hoàn cảnh tôi lúc đó không thể sống ở lại quê hương vì tôi không được trả quyền công dân, không có hộ khẩu và dĩ nhiên là không được thi hành những công việc thuộc chức vụ Linh mục. Do đó, tôi đã trình bày hoàn cảnh với Giám mục Vĩnh Long, bấy giờ là Đức cha Nguyễn Văn Mầu, với những lý do trên và ý định vượt biên.

              Tôi vượt biên bằng cách cải trang, thay danh đổi họ và đi đường bộ qua Campuchia. Từ Camphuchia, tôi qua Thái Lan bằng tàu đánh cá Thái và tới được trại tị nạn Banthat, nằm ngay sát biên giới Thái-Camphuchia vào tháng Giêng năm 1989. Vào trại tị nạn tôi ở chung nhà với hai thanh niên là hai anh em Văn và Võ mà lần đầu tiên tôi gặp trong trại này.

              Một buổi trưa nọ, khi ba cha con tôi đang ngồi trong nhà, có một người đàn ông lạ mặt, khoảng ngoài 40, bước vào nhà. Anh mặc áo thun trắng, quần dài và người anh có nhiều vết xâm trổ, lòi ra từ hai cánh tay. Nhận xét đầu tiên của tôi không mấy tốt đẹp về con người này. Vì lúc đó, trại rất đông và anh ta ở khác khu, lại không phải là người Công giáo nên tôi chưa từng có dịp gặp và biết anh. Bước vào nhà, tôi chưa kịp mời ngồi thì anh ta đã lên tiếng hỏi:

                  - Xin lỗi, anh là cha Lễ và có phải là cha Lễ ở Bưng Trường không?

                   Tôi giật mình vì người đàn ông xa lạ này biết quá nhiều về tôi. Tôi trả lời:

                  - Vâng, tôi là cha Lễ ở Bưng Trường đây. Nhưng sao anh lại biết tôi?

                   Người đàn ông lạ mặt chẳng lộ vẻ gì khác trên mặt, vẫn giữ thái độ xa lạ nói tiếp:

                  - Như vậy, chắc anh biết Bình Thanh?

                   Tôi bật đứng lên, bước tới chụp lấy vai anh:

                  - Anh nói gì? Anh biết Bình Thanh à? Trời! Tôi mong tin Bình Thanh đã 7 năm nay. Anh nói tôi nghe hiện nay Bình Thanh, em tôi ra sao?

                   Tôi hỏi một thôi một hồi làm anh ta đứng chết trân, không trả lời tôi câu nào, nhưng chỉ nói:

                  - Thế thì sáng ngày mai, quãng 9 giờ, mời anh tới chỗ tôi để chúng ta nói chuyện.

              Nói xong, anh ta cho tôi số nhà và khu vực anh ở rồi quày quả bước ra trước sự ngạc nhiên của tôi và hai thanh niên trong nhà. Thái độ của người đàn ông lạ mặt này càng làm tôi nôn nóng hơn. Đêm đó, tôi lại trằn trọc không ngủ được, cứ băn khăn mãi về thái độ có vẻ bí mật của người đàn ông lạ mặt, làm tôi lo sợ về một hung tin liên quan tới Bình Thanh. Dầu sao, tôi cũng phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận tin đó.

              Hôm sau, tôi tới nhà anh ta theo giờ hẹn và thấy anh chỉ ngồi một mình, có đứa bé chừng 3 tuổi đang chơi ngoài sân. Thấy tôi tới, anh mời vào nhà ngồi xuống ghế có chiếc bàn ọp ẹp trước mặt. Anh ngồi đối diện và rót nước mời. Tôi móc bao thuốc lá mời lại. Anh rút một điếu, ngậm nơi môi và bật lửa cho tôi trước. Anh làm các việc này trong thinh lặng khác thường, không có gì là vội vã và cũng chẳng tỏ ra dấu gì đặc biệt khi mời một người khách tới nhà. Tôi chẳng hỏi han gì, vì mục đích hôm nay tôi tới đây đã rõ ràng không cần phải hỏi, không cần thúc giục. Tôi thấy có cái gì hơi khác lạ trong sự chần chừ của người chủ nhà lạ mặt này.

              Sau khi kéo hơi thuốc lá đầu tiên, anh ta với lấy chén trà nhưng không uống, chỉ kê lên môi rồi hạ xuống. Tôi đoán chừng như anh ta có tâm sự gì khó nói, tôi càng đâm ra lo lắng hơn. Nãy giờ tôi vẫn ngồi thinh lặng đợi chờ. Anh ta đặt chén trà xuống bàn, vừa xoay xoay chén vừa nhìn thẳng vào tôi, và lên tiếng gọi tên tôi một cách rất bất ngờ:

                  - Anh Út!

                   Tôi giật mình, vì chỉ có Bình Thanh mới gọi tôi bằng tên này, ngoài ra, không ai biết được, nếu Bình Thanh không nói cho người đó biết.

                   Thấy tôi giật mình sửng sốt, anh ta nói tiếp luôn: 
                           
                  - Anh Út, Bình Thanh đã chết rồi anh!

              Tôi ngồi chết lặng! Hình như anh ta nói tiếp theo một câu gì nhưng tôi không còn nghe được nữa. Tâm trạng tôi lúc đó như người vừa bị  trúng đạn. Có một cái gì như một cú đập vào thái dương quá nặng làm tôi lảo đảo. Tôi gỡ điếu thuốc trên môi ra, dí vào cái đĩa gạt tàn trước mặt, gục đầu xuống trên hai tay đang ôm trán.

               Tôi ngồi chết lặng! Một lúc sau, nước mắt bỗng tuôn trào thành dòng. Càng lúc cơn xúc động càng lúc càng dâng cao, cổ tôi như bị tắc nghẽn. Tôi khóc thực sự, và không kềm hãm được trước mặt người đàn ông xa lạ vừa báo tôi một hung tin. Tôi vẫn ngồi tại chổ, cho tay vào túi quần, nhưng không có khăn tay, tôi kéo vạt áo sơ-mi, tháo cặp kính để lên mặt bàn và dùng vạt áo chùi nước mắt đang tuôn trào, không kềm hãm được.Tôi đứng dậy lảo đảo bước ra ngoài.

              Ra tới đầu nhà, tôi bước tới, đứng dựa vào một thân cây, cúi đầu xuống và ôm mặt khóc như một đứa trẻ con. Tôi chưa nghe anh bạn nói lý do và Bình Thanh đã chết lúc nào nhưng tôi cũng có thể đoán ra là em tôi đã chết từ lâu rồi, và phải là cái chết không bình thường. Tự nhiên trong  lúc đó, tôi thấy lại con người của Bình Thanh đang vui vẻ, cười đùa, nói năng trước mặt như lúc anh em tôi còn sống chung trong tù. Tôi nhớ lại Bình Thanh có lần nói với tôi:“Em không bao giờ chết trên giường bệnh”. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao hôm qua anh bạn này không báo tin tại nhà tôi, mà lại mời tôi tới nhà anh, lúc không có người chung quanh.

              Một lúc sau, anh chủ nhà bước ra mời tôi trở vào nhà. Tự nhiên, tôi thấy quý anh, vì lúc này, anh là người có thể chia sẻ với tôi nỗi đau quá bất ngờ này.

                   Vừa ngồi xuống ghế, anh bắt đầu nói, không cần đợi tôi hỏi gì thêm:

                  - Anh Út, tên em là Đạo, em là bạn của Bình Thanh. Em và một thằng bạn nữa cùng đi với Bình Thanh xuống Bưng Trường thăm chị Hai. Lần đó, chị Hai sợ cuống cuồng khi thấy bọn em đóng giả làm bộ đội bước vào nhà. Chắc là chị Hai đã kể lại chuyện này với anh?

                   Tôi ngồi yên gật đầu. Đạo nói tiếp:

                  - Bình Thanh đã chết lâu lắm rồi anh ạ, chỉ vài tháng sau khi tụi em xuống nhà thăm chị Hai thôi.

                   Tôi trả lời là tôi cũng đoán biết như vậy, vì nếu Bình Thanh còn sống thì làm gì sáu, bảy năm rồi không tin cho anh. Đạo nói tiếp theo:

                  - Bọn em quen nhau từ miền Bắc. Khi Bình Thanh vượt ngục ra gặp lại và một tháng sau bọn em tìm đường vô Nam, cũng đóng giả làm bộ đội. Bình Thanh quyết tâm phải xuống Vĩnh Long thăm chị Hai mà Bình Thanh đã coi là người chị từ sau khi kết nghĩa với anh trong tù. Bình Thanh nhắc về anh luôn với sự quý mến rất đặc biệt.

              Sau đó, Đạo kể lại thời gian ở Sài Gòn, có mấy ngày Bình Thanh một mình đi Hố Nai, nói là đi vì một việc riêng. Lúc đó, Bình Thanh có ý hoạt động cầm chừng và chờ tôi về để cùng nhau vượt biên ra nước ngoài. Nhưng Bình Thanh cũng biết là tôi khó mà về sớm nên đã nghĩ tới việc trở ra Bắc lại để đánh cướp và giải thoát tù, vì Bình Thanh biết hết ngõ ngách và giờ giấc sinh hoạt trong trại tù Thanh Cẩm. Nhưng kế hoạch này, trước tiên, phải có nhiều tiền mới thực hiện được. Đó cũng là lý do cả bọn kéo qua Camphuchia bằng xe tải của bộ đội.

                   Uống chút nước, Đạo kể tiếp:

                  - Lúc đó, ở Nam Vang người Việt mình đông lắm và các băng đảng hoạt động rất mạnh, cả người Việt lẫn Campuchia. Các băng đảng phải loại nhau để làm chủ tình thế. Chẳng may trong một cuộc chạm súng với băng Việt khác gần Nam Vang, Bình Thanh bị thương nặng và chết ngày hôm sau trong lúc anh em vây quanh.

                       Sau khi an táng Bình Thanh gần một ngôi chùa ngoài thủ đô Nam Vang, bọn em kéo về Việt Nam. Từ đó, em ở lại sinh sống trong Nam và cưới vợ, có một cháu trai anh thấy đó. Sau đó, bọn em vượt biên qua đây và không ngờ được gặp anh.

              Ngồi nghe Đạo kể về cái chết của Bình Thanh, lòng tôi buồn vô hạn. Tôi hỏi thăm về Hường thì Đạo cho biết Bình Thanh nói với anh rằng, lúc còn trong tù, tôi dặn rất kỹ là khi vượt ngục ra, Bình Thanh đừng bao giờ gặp Hường, cho dù bất cứ nơi nào trong đất nước, vì Bình Thanh vượt ngục là người ta sẽ theo dõi Hường từng bước đi. Do đó, Bình Thanh chỉ báo tin cho Hường và thu xếp để cả hai ra nước ngoài, nhưng việc này còn phải chờ đợi tôi. Sau khi Bình Thanh chết, các anh em cũng không báo hung tin cho Hường, sợ Hường buồn khổ và làm liều!
              Sau đó, chúng tôi trao đổi thêm nhiều điều tôi muốn biết về Bình Thanh và trước khi từ giã ra về, Đạo đứng lên nói nghiêm trang:

                  - Anh Út, anh có tin là oan hồn của Bình Thanh xui khiến cho chúng mình gặp nhau ở đây không?

                   Tôi đứng yên một lúc, đưa tay ra bắt lấy tay Đạo và nói thay cho câu trả lời:
                  - Bình Thanh là con người rất nặng tình nặng nghĩa!

              Đêm đó, trong căn nhà lá nhỏ của trại tị nạn tôi thức khuya, chong đèn ngồi một mình ở phòng ngoài trong khi hai anh em Văn và Võ ngủ bên trong. Hai thanh niên xa lạ này đã ở trại tị nạn một thời gian trước khi tôi tới trại Banthat. Ba cha con tôi sống chung nhà và rất thương yêu, quý mến, lo lắng cho nhau.

              Tôi ngồi một mình đốt hết điếu thuốc này sang điếu khác, nhưng chỉ hút một hơi rồi để xuống cái gạt tàn trên bàn. Tin Bình Thanh chết làm tôi gần như kiệt lực. Ngày còn với nhau trong tù, anh em quyết định sẽ ra nước ngoài sinh sống và chừng đó Bình Thanh sẽ từ bỏ kiếp sống giang hồ mà hoàn cảnh trong đất nước đã tạo nên. Lúc này, tôi đã vượt biên qua Thái Lan, đang đứng trước ngưỡng cửa của thế giới tự do thì Bình Thanh không còn nữa.

               Tôi ngồi ôn lại từng kỷ niệm với Bình Thanh. Tôi nhớ lại hàng chữ xâm trổ sau lưng em tôi, bên dưới hình cái lư hương đang tỏa khói và trên cùng là hình Phật Bà Quan Âm thật to:“Khi tôi chết ai là người xây nấm mộ. Cỗ quan tài ai khóc tiễn đưa tôi”. Bình Thanh là một tướng cướp có thể bị nhiều người ghét bỏ và nguyền rủa, nhưng với riêng tôi, Bình Thanh là một trong những người tôi thương mến nhất trên đời. Là một tướng cướp, nhưng là một tướng cướp hào hiệp. Tình người của Bình Thanh đã mang đến cho tôi khoảng trời màu hồng trong cái đêm đen của đáy địa ngục trong khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Bình Thanh là một tướng cướp có nhiều hành động tàn ác, nhưng tàn ác vì hoàn cảnh mà không vì bản chất. Ngược lại, tôi đã chứng kiến và là nạn nhân của một vài người mang danh hiệu và chức vụ rất cao đẹp, nhưng vào tù lại hành động tàn ác không phải chỉ vì hoàn cảnh mà cả do bản chất nữa. Sánh với những con người này thì tướng cướp Bình Thanh đứng ở một nấc cao hơn trong  bậc thang giá trị làm người.

               Tôi đứng lên bước vào buồng trong, mở túi ra tìm cái bấm móng tay nhỏ, đã rỉ sét, mà Bình Thanh giao lại tôi như một vật kỷ niệm trong buổi chiều cuối cùng trước khi vượt ngục từ khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm 7 năm về trước. Cái bấm móng tay này lúc nào tôi cũng mang theo, ngay cả lúc ra đi vượt biên.

               Trở ra ghế ngồi và nhìn vật kỷ niệm nhỏ này khiến tôi nhớ lại từng chi tiết của buổi chiều cuối cùng còn thấy nhau. Trong giờ phát thức ăn ban chiều hôm đó, Bình Thanh trèo tường ngăn hai khu Kiên Giam và Kỷ Luật, qua gặp tôi và cho biết đêm đó sẽ đi và xin tôi cầu nguyện. Lúc đó, anh em tôi đã chảy nước mắt khi Bình Thanh ôm tôi nói:“Em từ giã anh và có thể là vĩnh biệt anh.” Lúc bấy giờ tôi cũng có cảm tưởng đó là lần cuối cùng anh em còn thấy nhau trên cõi đời.  Không ngờ điều tôi lo lắng đó đã trở thành sự thật.

              Tôi lại nhớ tới một kỷ vật khác, và giở bàn chân trái lên, kề đèn lại để nhìn cho rõ cái dấu xâm trổ rất nhỏ gần mắt cá phía trong. Dấu xâm chữ “H” chỉ to bằng đầu ngón tay mà tự tay Bình Thanh đã xâm cho tôi trong buồng 2 khu kỷ luật trại tù Thanh Cẩm vào năm 1982. Lúc đó, Bình Thanh nói:“Em xâm cho anh cái dấu này trên bàn chân, chỗ dễ nhìn thấy nhất để mỗi khi xỏ chân vào cùm anh cũng nhìn thấy, và sau này nếu anh còn có dịp mang giày, khi xỏ chân vào giày anh cũng thấy cái dấu chữ “ H”, nghĩa là “ HẬN”, để nhắc anh nhớ thời gian này.”

              Cái dấu xâm trổ đó dĩ nhiên là còn trên bàn chân tôi và sẽ theo tôi suốt đời, nhưng cái ý nghĩa của nó đã đổi khác. Chữ “H” ở đây không còn là “HẬN” nữa, nhưng tôi coi đó là bắt đầu của chữ “HOPE” trong tiếng Anh, là niềm “Hy Vọng”.
              Vì qua những kinh nghiệm đau thương mà tôi đã từng trải, tôi Hy Vọng vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam và sẽ không để cho sự hận thù của hoàn cảnh lịch sử trói buộc.

              Có tiếng bước chân nhè nhẹ phía sau lưng, tôi quay lại, thấy Võ từ trong buồng bước ra đến bên tôi nói nhỏ:

                  - Khuya lắm rồi sao cha chưa ngủ? Để con dọn ghế bố cho cha.

              Trong hai anh em thì Võ gần gũi tôi nhất. Nó lo lắng từng miếng ăn giấc ngủ cho tôi. Tôi thương nó nhất và cũng bị tôi la rầy nhiều nhất! Vừa nói, Võ vừa bước lại gần bàn viết nhỏ hẹp của tôi trong căn nhà lá ọp ẹp mà ba cha con tôi sống. Võ xê dịch bàn ra một chút để lấy chỗ bước vào phía trong mắc màn cho tôi. Vừa mắc màn, Võ hỏi tôi bằng cái giọng rề rề cố hữu:

                  - Con thấy từ sáng tới giờ, hình như cha có chuyện gì rất buồn. Chuyện gì vậy cha?

                   Tôi lắc đầu trả lời:

                  - Bây giờ khuya rồi, sáng ngày cha kể con nghe.

              Ngồi nhìn Võ đang với tay mắc màn trên chiếc ghế bố cho tôi, tự nhiên tôi nhớ tới Bình Thanh. Hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi vào tù gặp Bình Thanh và cũng lại hoàn cảnh đưa đẩy tôi tới trại tị nạn Thái Lan và gặp Võ. Tôi biết là tôi sẽ còn gắn bó với anh thanh niên xa lạ này lâu dài, vì những ngày tháng sống chung, tôi rất thương Võ, và coi như đứa con trai của tôi.
               
               
                                                 *****
               
              nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
              dactrung.com
              #22
                sóng trăng 16.02.2007 09:35:03 (permalink)
                .
                 
                Phụ Trương hai:   
                Những cuộc gặp gỡ
                 

                 
                A. Gặp lại các bạn tù.
                 
                Tôi sống trong trại tị nạn Thái Lan một năm rưỡi, cho tới giữa năm 1990, qua định cư và làm việc tại thành phố Auckland, nước Tân Tây Lan (New Zealand), một quốc gia quần đảo trong vùng Nam Thái Bình Dương. Tôi đến đây theo lời mời của Giám Mục Denis Browne, Giám mục Giáo phận Auckland, để phụ trách Cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Giáo phận này.

                Hai năm sau, 1992, tôi bắt đầu đi khá nhiều nơi trên thế giới để cùng với đồng bào Việt Nam hải ngoại tranh đấu cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Trong thời gian đi lại nhiều nơi, tôi có dịp gặp lại rất đông những người tôi đã từng quen biết trước kia trong nhiều lãnh vực. Có những người bà con, đồng hương, bạn học, giáo dân trong các giáo xứ ở Việt Nam ngày trước, những người ở trại tị nạn với tôi và những người đã từng ở tù chung với tôi trong nhiều trại tù khác nhau từ Nam ra Bắc. Đặc biệt nhất là hai người đã cùng tôi chịu đựng gian khổ trong kỷ luật, sau khi vượt ngục bất thành tại trại Thanh Cẩm ở miền Bắc năm 1979, là anh Trịnh Tiếu và anh Nguyễn Sỹ Thuyên.

                 Anh Trịnh Tiếu tới Mỹ và định cư tại Sacramento. Anh hoạt động rất hăng say và có uy tín trong Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Sacramento. Anh giữ chức vụ Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, trong khi một chiến hữu rất tích cực khác là anh Trần Văn Ngà, giữ chức Chủ tịch Ban Chấp Hành.

                Nhưng chẳng may, mấy năm sau anh Tiếu bệnh và qua đời vài ngày trước Tết năm 1996. Vì cận ngày Tết, tôi không thể có mặt trong đám tang anh, nhưng sau đó, tôi qua làm Lễ Giỗ 100 ngày cho anh. Hiện nay, chị Phi Nga là người vợ sau của anh Tiếu và con gái là cháu Thảo Trâm đang sống ở Sacramento. Ngoài ra, hai người con đời hôn nhân trước của anh là Trịnh Xuân Thọ và Trịnh Thị Trúc Mai đang sống ở Virginia, Hoa Kỳ.

                Anh Nguyễn Sỹ Thuyên qua Mỹ và định cư tại San Jose. Tôi có tới thăm anh tại đó. Sau một thời gian có lẽ vì cuộc sống quá cô đơn và buồn tẻ nên anh đã quay trở lại Việt Nam.

                Trong số những người ở tù chung, đa số khi gặp lại, chúng tôi rất mừng và đầy tình thân ái vì cùng chung cảnh khổ và cũng đã từng giúp nhau, chia sẻ với nhau trong cảnh khốn cùng. Thứ tình nghĩa này rất sâu đậm mà người ngoài cuộc nhiều khi khó có thể cảm thông được. Gặp lại nhau, tất cả anh em bạn tù rất vui mừng và đầy thân ái. Nhất là khi ngồi nhắc lại các tình huống trong thời gian tù mà chúng tôi sống với nhau.

                 Nhân cơ hội này, tôi cũng muốn bày tỏ sự vui mừng và biết ơn khi các anh em đã giúp tôi khi vừa vượt biên tới trại tị nạn Thái Lan năm 1989, và sau này đã ân cần tiếp đón tôi trong nhiều năm qua. Tất cả các anh em đều là những người tôi quý mến, cho dù một số người tôi chưa được dịp biết trong tù nhưng vì sống chung trại nên sau này chúng ta vẫn nhận nhau là những người anh em.

                Tôi đã gặp một số đông anh em tại nhiều Tiểu bang của Hoa Kỳ, một số tại Canada, Pháp và vài anh em ở Úc Châu là nước láng giềng với tôi. Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi không thể kể ra hết tên từng người. Ngoài hai anh Trịnh Tiếu và Nguyễn Sỹ Thuyên, tôi muốn nhắc tới với sự biết ơn và quý mến hai anh Nguyễn Văn Bảy (Bảy Chà, Virginia) và Nguyễn Tiến Đạt (San Barnadino. CA) là những người đã giúp tôi rất nhiều lúc tôi đang bị cùm trong nhà kỷ luật. Xin các anh em còn lại nhận lòng quý mến và biết ơn của tôi.
                 
                 
                B. Gặp thân nhân anh Đặng Văn Tiếp
                 
                Ngay từ khi ra tù về tới Sài Gòn, tôi đã cố công dò hỏi tìm chị Hoàng Thị Huyền Thanh và anh Đặng Văn Thụ, hai người mà anh Tiếp đã nói với tôi rất nhiều trong thời gian anh em tôi sống chung nhau ở Cổng Trời và sau này trong khu Kiên Giam, trại Thanh Cẩm.

                          Có người chỉ, tôi tìm đến gia đình ông Hoàng Xuân Tửu để hỏi thăm nhưng được cho biết là chị Huyền Thanh cũng như anh Thụ đã sống ở nước ngoài. Tôi nghĩ là không có cơ hội được gặp, vì lúc đó tôi chưa biết là có thể ra khỏi Việt Nam được không. Sở dĩ tôi quyết tìm ra manh mối gia đình vì anh Đặng Văn Tiếp và tôi đã kết nghĩa anh em. Tôi muốn tìm gặp những người thân yêu mà tôi chưa một lần được gặp gỡ này để nói lại những gì tôi đã biết về những ngày sau cùng của anh Tiếp và nhất là bí ẩn về cái chết của anh Tiếp mà người ngoài không bao giờ có thể biết được.

                Cũng may, sau đó tôi vượt biên thành công qua trại tị nạn Thái Lan vào đầu năm 1989. Lúc ở trại tị nạn Thái Lan, tôi có gặp anh Thành là bạn luật sư với anh Đặng Văn Tiếp, vì Tiếp cũng là một luật sư. Anh Thành có nhắc với tôi nhiều kỷ niệm về anh Tiếp. Tôi cố dò hỏi tin tức và gửi lời nhắn đăng trên báo Việt Nam bên Mỹ, bên Pháp với hy vọng ai đó có thể giúp tôi tìm ra manh mối liên lạc với những người mà tôi rất muốn tìm kiếm, nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Sau đó, tôi tới định cư tại New Zealand vào giữa năm 1990.

                Năm 1992, tôi có dịp qua Mỹ lần đầu tiên để tham dự Đại Hội của Hội Đồng Việt Nam Tự Do theo lời mời của Tiến sĩ Lê Phước Sang. May mắn trong dịp đó, tôi tìm gặp được gia đình anh Đặng Văn Thụ tại Maryland, chị Hoàng Thị Huyền Thanh ở Paris bay qua Mỹ, và các người khác trong gia đình họ Đặng.

                Về phía gia đình họ Đặng, trên Thụ còn có anh Đặng Văn Giám, sau đó có chị Đặng Thị Nhâm và sau cùng là Đặng Văn Thủy ở Virginia. Về phía chị Huyền Thanh, còn có chị Hoàng Thị Bích Đào ở California và anh Hoàng Văn Khuê ở bên Pháp với chị. Từ đó, hai gia đình nhận tôi là một thành phần trong gia đình và ngược lại tôi cũng coi hai gia đình về phía anh Thụ cũng như về phía chị Huyền Thanh là gia đình của tôi. Về sau này, mỗi khi qua vùng phía Đông Hoa Kỳ tôi đều ở tại nhà của gia đình anh chị Thụ - Liên và ba cháu Sâm, Bi và Bé mà tôi rất thương mến. Khi qua Pháp chị Thanh cũng thương và lo cho tôi như một người em.

                 Qua anh Tiếp, tôi đã nhận được tình cảm mới trong hai gia đình. Cái chết của anh Tiếp là nỗi đau đớn chung của chúng tôi. Mặc dù chúng tôi đau đớn vì mất người thân yêu, nhưng chúng tôi biết là cái chết của anh Tiếp đã mang lại rất nhiều ý nghĩa. Đầu tiên hết là bày tỏ tính nghĩa khí và hiên ngang của con người không chịu khuất phục trước bạo quyền. Cái chết của anh Tiếp còn mang lại ý nghĩa của sự nối kết tình thân.

                Ngày 2 tháng 5 năm 1999, gia đình chúng tôi tổ chức Lễ Giỗ 20 năm ngày anh Đặng Văn Tiếp qua đời tại nhà anh Thụ ở Bethesda, Maryland. Lần đó, tôi được các anh chị cho phép đứng ra thay mặt cả họ, cám ơn tất cả quý khách và bạn bè thân hữu. Tôi đã nói:“Đời người ai cũng chết một lần, không chết cách này thì cũng chết cách khác. Anh Tiếp đã chọn một cái chết để làm bài học cho nhiều người. Anh chết để mang lại tình thân. Anh cũng không ra đi trong cô đơn, vì anh đã nằm chết trên chính thân thể của một người em. Hôm nay, đã 20 năm qua rồi, nhưng tôi biết  anh đang mỉm cười nhìn thấy cảnh này. Mọi người đến đây vì thương anh và mến anh”. 
                 
                 
                C. Những cuộc gặp gỡ bất đắc dĩ
                 
                Nhưng đau đớn thay, cũng có những trường hợp gặp lại nhau trong sự cay đắng, phũ phàng!
                  
                 Khi tôi phải gặp lại anh Bùi Đình Thi, thì quả là một điều nặng nề và đau khổ cho cả hai. Trong chuyến đi Âu Châu năm 1995, tôi có ghé qua California một thời gian để thăm viếng bạn bè, đa số là các bạn cựu tù chính trị. Khi vừa gặp tôi ai cũng hỏi là tôi đã gặp Bùi Đình Thi hiện ở Santa Ana chưa? Anh ta và gia đình đã tới Mỹ theo diện HO.

                 Từ đó, tên tuổi Bùi Đình Thi là đề tài chính trong câu chuyện của anh em cựu tù nhân chính trị. Khi sang Pháp và một số nước Âu Châu, tôi có gặp một số anh bạn tù, họ cũng lôi đề tài này ra nói, mặc dù có người không hề ở chung trại Thanh Cẩm với tôi. Trên đường về, tôi có ghé lại Orange County một lần nữa và lần này, tôi đã có dịp nói chuyện với anh ta qua điện thoại. Việc gặp lại Bùi Đình Thi làm tôi khổ tâm, vì bao nhiêu kỷ niệm đau thương của 15 năm trước trong nhà tù Thanh Cẩm mà tôi đã cố chôn vùi, bây giờ lại bừng sống dậy trong tôi.

                Để bày tỏ sự tha thứ cho Bùi Đình Thi, năm sau, khi trở lại Mỹ, tôi đã đích thân tới thăm và bắt tay anh vào buổi chiều tối ngày 9 tháng 9 năm 1996, tại nhà của anh ở Westminster. Cùng đi với tôi, có anh Lê Sơn và Nguyễn Tiến Đạt là hai người cũng đã ở tù chung trong trại Thanh Cẩm và biết rất rõ những việc Bùi Đình Thi đã làm trong thời gian giữ chức trật tự trại tù Thanh Cẩm.

                Tôi muốn mời hai người bạn tù này chứng kiến cảnh tôi gặp Bùi Đình Thi, phần khác cũng phải nói thẳng ra là tôi không dám đi một mình . Để đánh dấu sự kiện này, anh Nguyễn Tiến Đạt có chụp một vài tấm hình mà hiện tôi còn giữ. Lần đó, ngồi đối diện nhau tại chiếc bàn nhỏ, bên cạnh là Lê Sơn, có vợ của Bùi Đình Thi đang đứng kế bên, tôi có hỏi:“Anh Thi, tôi tới đây tức là tôi đã tha thứ tất cả cho anh. Nhưng còn một thắc mắc ám ảnh tôi mãi mà tôi không sao giải tỏa được và hôm nay tôi muốn hỏi anh, ‘‘Tại sao anh cố ý giết tôi?’’ Giữa tôi và anh không hề biết nhau, không thù không oán, hơn nữa tôi là một Linh mục còn anh là một giáo dân. Tại sao anh quyết tâm giết tôi?” Lúc đó Bùi Đình Thi cúi đầu khá lâu mới ngẩng mặt lên nói nhỏ: “Thưa cha, con khó nói lắm!” Tôi đáp: “Nếu anh không nói được thì tôi không ép, nhưng như thế thì sự thắc mắc này sẽ theo tôi cho tới ngày tôi chết!” Chúng tôi ở lại nhà Bùi Đình Thi chừng nửa giờ đồng hồ. Trên đường về, tâm hồn tôi thấy nhẹ.

                Nhưng khổ nỗi, Bùi Đình Thi không những chỉ đánh đập một mình tôi mà còn đánh đập nhiều người khác, trong đó có vài ba Linh mục. Nặng nề nhất là anh đã giết chết hai người tù miền Nam là Thiếu tá Dân Biểu Đặng Văn Tiếp và anh Lâm Thành Văn. Vì thế, sự xuất hiện của Bùi Đình Thi cũng như việc ngang nhiên sinh sống ngay bên cạnh các gia đình, anh em, thân nhân, bạn bè của những nạn nhân mà anh đã giết được coi như hành động thách thức lương tâm tất cả mọi người.

                Riêng tôi, trong suốt gần 20 năm qua, nhiều lần tôi định ngồi ghi lại vụ sát nhân thật dã man trong nhà tù cộng sản mà tôi vừa là nhân chứng vừa là một trong những nạn nhân may mắn còn sống sót. Nhưng mỗi lần cầm bút để ghi lại, tôi vẫn phân vân tự hỏi: “Có ích lợi gì không việc khơi lại đống tro tàn của quá khứ? Việc ghi lại này sẽ có tác dụng như thế nào đối với thủ phạm, đối với các bạn tù, đối với thân nhân của các nạn nhân và các người quen biết tôi, đối với thân nhân và những người quen biết thủ phạm và cả đối với những người sẽ đọc câu chuyện này? Với tư cách là một Linh mục, tôi có nên ghi lại những điều mà tôi biết sẽ gây nên những đau xót hay công phẫn nơi nhiều người hay không.

                 Sau thời gian dài suy nghĩ và nói chuyện với nhiều người, tôi thấy đã đến lúc phải nói lên tất cả sự thật của vụ sát nhân đó để làm sáng tỏ những khúc mắc đang âm ỉ làm nhức nhối tâm hồn của nhiều người, và để rút ra một bài học cho những người chỉ vì những suy nghĩ nông nổi mà đã hành động bất chấp lương tri để mưu cầu những lợi ích thấp hèn. Khi phải ngồi viết lại những dòng này, lòng tôi đau đớn vô cùng. Tôi dùng chữ “phải ngồi viết lại” vì trước đây tôi đã cố chôn vùi câu chuyện kinh hoàng này vào dĩ vãng. Trước đó, tôi nghĩ rằng người chết thì đã chết rồi, còn thủ phạm thì đang ung dung sống dưới sự che chở của chế độ cộng-sản tại Việt Nam. Nếu tôi viết lên câu chuyện này ở nước ngoài, có thể còn bị mang tiếng là vu cáo người vắng mặt.

                 Nay thủ phạm đã được đến Hoa Kỳ, tôi không còn ngại bị hiểu lầm là vu cáo người vắng mặt, và tôi sẽ gửi cho đương sự một bản của bài viết này. Nhiều anh em bạn tù đã thúc giục tôi phải nói lên sự thật để xác định một thái độ, dù đó là một thái độ bao dung.

                Tôi đã tha thứ cho Bùi Đình Thi, mặc dù những hậu quả mà anh ta đã gây ra trên thân thể tôi khi ở trại Thanh Cẩm nay vẫn còn nguyên vẹn đó. Nhưng tôi và một số anh em vẫn nghĩ rằng tôi có trách nhiệm phải tường thuật mọi chuyện đã xảy ra để giúp anh ta có sự sám hối , và những người khác khi ở vào vị thế của anh ta, đừng vì những suy nghĩ nông cạn mà gây ra đau khổ cho đồng loại.

                Mặc dù tôi đã tha thứ, nhưng tha thứ không có nghĩa là che giấu hoặc chối bỏ sự thật. Tôi phải kể lại, vì chuyện này có liên quan tới nhiều người và nhiều giới khác nhau. Hơn nữa, đây còn là một bổn phận buộc tôi phải nói lên, như một nhân chứng trước tòa án của lương tâm con người. Tôi phải nói lên trước công luận thế giới về thực chất của chế độ nhà tù cộng sản. Chính vì những lý do đó mà tôi gọi câu chuyện này là "Một Vấn Đề của Lương Tâm". Xin đọc chi tiết trong tập Bút Ký này.

                Tôi viết bài đó như là nén hương lòng thắp lên trước bàn thờ hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn, để vong linh hai anh được nhẹ nhàng ở thế giới bên kia. Tiếp đến, qua bài đó, tôi xin gởi đến những anh em tù nhân đã từng bị hành hạ đánh đập như tôi, để chia sẻ những tổn thương mà chúng tôi phải gánh chịu trong suốt cả cuộc đời còn lại. Tôi cũng muốn viết lên câu chuyện đó như những lời phân ưu của tôi gởi tới thân nhân của những người đã chết trong ngục tù cộng sản về những đau thương mà quý vị đã phải gánh chịu.

                Tôi viết lên chi tiết vụ vượt ngục ngày 2 tháng 5 năm 1979, về cái chết của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn và về những lần Bùi Đình Thi đánh đập tôi. Sau đó tôi xác định thái độ của cá nhân tôi. Tôi tha thứ cho Bùi Đình Thi, nhưng còn những nạn nhân mà anh đã giết chết và đánh đập thì anh phải đến van xin sự tha thứ, qua bức thư tôi gửi cho anh dưới đây kèm theo với bài viết:
                 

                Anh Bùi Đình Thi,
                 
                 Tôi biết chắc là trước sau gì rồi anh cũng sẽ đọc bài này. Mặc dù tôi không thể dùng ngòi bút vẽ lại thật giống con người và lòng dạ của anh, cũng như phác họa này có thể coi như một cái gương cũ khá lu mờ, để anh nhìn vào đó mà nhận ra chính mình. Khi đọc những gì tôi đã viết trên, có thể có người cho rằng, mặc dù đã hơn 17 năm qua, sự oán giận trong lòng tôi vẫn còn. Tôi biết có người sẽ chỉ trích tôi và tôi có thể viết khác hơn để khỏi bị chỉ trích như thế, nhưng tôi muốn ghi lại một cách trung thực các việc đã xẩy ra trong trại tù Thanh Cẩm. Tôi biết sau khi đọc câu chuyện này, sẽ có người không tin, cho là tôi bịa đặt ra câu chuyện. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì họ không thể nào ngờ có chuyện thương tâm như thế. Ngay cả chính tôi cũng không ngờ! Còn có nhiều thiếu sót về các hành động của anh trong câu chuyện này và chỉ có hai người biết rõ những thiếu sót đó là anh và tôi. Tôi còn nhớ và nhớ rất rõ nhiều chuyện về anh, không phải tôi cố ý hoặc ghét bỏ gì anh, nhưng xin anh hiểu cho, dù có muốn quên đi tôi cũng không thể nào quên được vì tôi là nạn nhân trực tiếp của anh. Những gì mà tôi đã bỏ qua cũng có thể được giải thích một cách khá dễ dàng: Tôi muốn viết bài này không phải với mục đích để hài tội anh, nhưng với mục đích nói lên một số tình trạng bi thảm đã xẩy ra trong nhà tù cộng sản, trong đó có sự tiếp tay của anh, mặc dù ở đó, anh và tôi cũng như các anh em khác đều là nạn nhân.
                 
                      Trong suốt những năm qua, gần như lúc nào tôi cũng nhớ anh. Cái tên của anh đã đi liền với cuộc đời tôi! Mỗi khi có ai nhắc tới chuyện tù tội là tôi nhớ đến anh. Mỗi khi trở trời trái gió, cơ thể tôi đau nhức như dần, là tôi nhớ đến anh. Mỗi năm làm Lễ Giỗ anh Tiếp và anh Văn, tôi lại nhớ đến anh nhiều hơn. Nhiều lần trong giấc mơ tôi cũng thấy anh, và từ khi nói chuyện với anh qua điện thoại vào tháng Tám năm 1995 tại Santa Ana, tôi gần như không quên anh được. Có điều lúc này tôi nhớ không phải để tức giận như những ngày đầu sau khi anh đánh đập tôi, mà nhớ để cầu nguyện và xin ơn tha thứ cho anh. Cũng qua điện thoại hôm đó, vợ anh khóc lóc xin tôi nói giùm với các nạn nhân khác của anh, mà phần lớn đang có mặt tại Mỹ, xin họ tha thứ cho anh. Tôi sẽ làm chuyện đó, nhưng tôi cũng xin dùng câu chuyện này để nói với anh một vài lời.

                Chắc anh còn nhớ rất rõ cái ngày anh và tên cán bộ có đôi mắt xước, đánh đấm tôi dữ dội vì tôi cho thằng Hà cái áo vàng?  Tôi biết anh nhớ chuyện này rất rõ vì trong lần nói chuyện qua điện thoại, tôi có hỏi là lúc đó anh suy nghĩ như thế nào mà anh đánh đập tôi quá tàn nhẫn như vậy? Anh ngần ngừ một lúc lâu, sau cùng anh không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi mà anh lại nói: “Thưa cha, con chỉ nhớ là con đánh cha có một lần, khi cha cho thằng Hà cái áo!”

                Anh biết không? Sáng hôm đó, sau khi anh đánh tôi gần chết, may mà tôi tháo chạy được vô buồng, tôi đã chụp lấy cái móng cùm, nhảy lên bệ nằm, đứng thách thức và chờ đợi anh. Bản năng sinh tồn bắt buộc tôi phải có hành động quyết liệt như thế, vì nếu không có hành động quyết liệt đó, tôi không còn đến ngày hôm nay. Lúc đó, tôi đã thật sự sẵn sàng! Đã 17 năm qua rồi mà mỗi lần nhớ lại cảnh ấy tôi vẫn còn rùng mình! Tôi cám ơn anh lúc đó đã kịp thời dừng chân lại. Nếu anh bước vô buồng, chắc chắn là tôi sẽ đập nát đầu anh ra, vì anh đã hành tôi phát điên lên và dồn tôi vào con đường cùng. Dĩ nhiên, sau khi tôi đập vỡ sọ anh thì cộng sản cũng sẽ giết tôi. Cái chết thì tôi đã sẵn sàng chấp nhận, nhưng những hậu quả tiếp theo có thể không lường được và rất đáng buồn. Hình ảnh một Linh mục giết một bạn tù bao giờ cũng là một hình ảnh khó dung tha được, nhất là khi bạn tù đó là một tín đồ Công giáo và tôi là người có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho anh và mọi người. Người đời không biết lý do, sẽ nguyền rủa và gọi tôi là Linh mục sát nhân. Cộng sản được cơ hội tốt nhất để phỉ báng các tôn giáo, nhất là Công giáo. Gia đình tôi cũng như bạn bè và những người thân yêu của tôi sẽ tủi nhục khi có ai nhắc đến tên tôi. Giáo hội Công giáo đau buồn vì có một Linh mục vào tù không kềm chế được tính nóng nảy, đã giết chết một con chiên tín hữu của mình để rồi bị lãnh án tử hình. Tôi cám ơn Chúa và cám ơn anh đã không để hậu quả đó xảy ra bằng việc anh dừng chân ngoài cửa mà không xông vào buồng để tóm lấy tôi!

                Tâm tôi đã trở lại an bình từ lâu rồi. Chính tình thương và sự tha thứ đã đem an bình đến cho tôi và làm cho cuộc sống tôi tốt đẹp lại sau những năm tháng dài bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần. Mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại đọc lời kinh nguyện cho anh và tôi vẫn ước mong anh có lúc hồi tâm suy nghĩ và sám hối tội lỗi của mình. Thời gian mười mấy năm qua chắc cũng đủ dài để anh nhận ra được những tội ác anh đã gây ra trong nhà tù Thanh Cẩm. Tôi tin rằng, đến nay, anh đã nhận ra được ác tâm của cán bộ cộng sản đã nhờ bàn tay anh để giết chết những người không cùng tư tưởng với họ. Họ đã dùng tay anh để đánh đập, hành hạ và giết chết những chiến hữu trước đây đã cùng đứng chung một chiến tuyến với anh. Họ đã nhờ tay anh để đánh đập và hành hạ các Linh mục mà trước kia và ngay cả lúc này, anh dùng chữ "cha" để gọi họ. Khi mấy cán bộ võ trang định nhảy vào đánh anh Tiếp, Chuẩn úy Lăng phụ trách về an ninh đã gọi giựt lại và bảo: “Hãy để cho chúng nó thanh toán nhau!” Họ muốn bắt chước Philatô ngày xưa để nói: “Ta vô tội trong việc giết những người này. Các anh cứ xử sự với nhau”. Họ không muốn lãnh tiếng xấu là đã đối xử hung ác với các tù nhân chính trị mà luôn luôn họ tuyên bố là sẽ được đối xử khoan hồng. Tôi xin hỏi anh, chế độ đó đã đền ơn cho anh được những gì? Có lẽ lúc đó anh nghĩ rằng nếu anh hành động như thế, anh sẽ được về sớm. Anh muốn đổi sự tự do của anh bằng chính máu của các chiến hữu trước đây của anh. Tôi tin rằng nay anh đã nhận ra đó là một sự lầm lẫn lớn, việc anh phải xin được đến định cư tại Hoa Kỳ đã chứng minh cho điều đó.

                Có lẽ cái hình phạt nặng nề nhất đối với anh là cái nhìn của các bạn bè khi gặp lại anh ở bất cứ nơi nào tại Việt Nam hay tại Hoa Kỳ. Tôi nghe nói lúc nào anh cũng muốn chạy trốn tất cả. Điều đó chứng tỏ là anh cũng biết tên anh đã được khắc ghi trong lòng những người ở trại Thanh Cẩm bằng một nét mực đen. Tên của anh cũng đã được ghi vào “lịch sử đen” của trại tù Thanh Cẩm. Tôi rất thương cho vợ anh. Khi nói chuyện với tôi qua điện thoại, chị ấy đã khóc lóc:
                 
                “Cha ơi! Từ ngày chồng con được về, gia đình con như sống trong địa ngục. Con có nghe người ta nói là trong tù chồng con đã đánh đập các cha, bây giờ nghe cha nói con mới biết thêm là chồng con giết người! Con không ngờ là ảnh đã làm chuyện đó, và con biết là chúng con bị Chúa phạt!”Lời khóc than của chị đã xác nhận những gì từ lâu tôi nghĩ về anh và gia đình anh là đúng, mặc dù tôi không bao giờ mong việc đó xảy ra.
                 
                            Anh Bùi Đình Thi, hôm nay tôi viết cho anh không phải trong tâm trạng đầy uất hận và sợ hãi của lúc đang sống với anh trong trại Thanh Cẩm, mà viết với tâm hồn thanh thản của một người đã lấy lại được sự an lành, cả trên thể xác lẫn trong tâm hồn. Các thương tích do anh gây ra trên thân xác và trong tâm hồn tôi đã hóa thành sẹo. Tối hôm đó, chúng tôi ở nhà anh Lê Sơn tại Fullerton, khi anh Nguyễn Tiến Đạt gọi anh, sau đó trao máy điện thoại cho tôi và nói: “Cậu Bảy nói chuyện với Bùi Đình Thi đi!” Khi cầm ống nghe, tôi vẫn chờ đợi anh gọi tôi như lúc ở trại Thanh Cẩm, nên tôi lên tiếng: “Chào anh Thi, tôi là Lễ thăm anh đây!” Khi anh ngần ngừ chưa xác định được người bên kia đầu dây, tôi phải nói thêm: “Chắc lâu rồi anh không còn nhớ. Tôi là thằng Nguyễn Hữu Lễ, vượt ngục và bị cùm trong nhà kỷ luật trại Thanh Cẩm đó, anh nhớ ra chưa?” Lúc đó anh trả lời: “Cha Lễ đó hả, cha có khỏe không?” Câu trả lời của anh làm tôi ngạc nhiên vì không ngờ anh đã dùng lối xưng hô “cha, con”ù một cách rất tự nhiên. Tôi thấy thương anh và cảm động vì anh đã gọi tôi bằng tiếng “cha”.
                Không phải tôi ham thích khi có ai xưng hô theo tước hiệu của tôn giáo này, nhưng với anh, tôi thực sự sung sướng vì tôi còn được nghe tiếng gọi ấy từ cửa miệng của anh. Lúc đó tôi nghĩ rằng từ nay tôi có trách nhiệm đối với anh.

                Lúc này, sau 17 năm qua đi, tôi đang nói với anh bằng tâm tình của một Linh mục muốn nói với một tín hữu, một người anh em có chung với tôi một Phép Rửa, một Niềm Tin và một Niềm Hy Vọng. Tôi muốn thông đạt lại với anh chân lý của Phúc Âm: “Tình Yêu của Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn tội lỗi con người”. Qua điện thoại, anh nói là anh hối hận về những việc làm sai trái của anh. Như thế, anh đã đưa ra một lời thú tội và nếu anh thật lòng sám hối, anh sẽ được lãnh ơn tha thứ.

                Về phần tôi, anh hãy yên tâm vì tôi đã tha thứ tất cả cho anh. Nhưng trong thời gian làm Trật Tự trại Thanh Cẩm, anh không chỉ hành hạ cá nhân tôi mà còn đánh đập nhiều người khác, chẳng hạn các Linh mục Mai Quang Bao, Phạm Quý Hòa và Phạm Hữu Nam. Nhưng việc anh phải chịu hậu quả nặng nề và lâu dài nhất là việc anh giết chết hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Đó là một món nợ máu mà anh đang mắc với các nạn nhân của anh cũng như đối với thân nhân, bằng hữu và chiến hữu của họ. Muốn được tha thứ, anh cũng phải nhìn nhận tội lỗi của mình và trực tiếp xin được tha thứ. Những người anh đã đánh đập, nhất là các Linh mục, tôi nghĩ họ cũng bỏ qua cho anh, nhưng dù sao anh cũng phải xin tha thứ. Gia đình Lâm Thành Văn, tới nay tôi chưa nhận được tin tức gì, nhưng thế nào tôi cũng sẽ liên lạc được và thông báo cho anh biết sau. Với gia đình anh Đặng Văn Tiếp, từ sau ngày liên lạc được năm 1992, họ đã coi tôi như là một thành phần trong gia đình. Tôi hiểu được sự đau đớn và mất mát thật lớn lao mà anh đã gây ra cho gia đình họ Đặng. Riêng đối với chị Huyền Thanh, người vợ sắp cưới của anh Tiếp, chị đã phải sống trong u sầu, đau xót và thương tiếc, kể từ khi nghe tin anh Tiếp bị anh giết tới nay. Khi nghe anh qua Mỹ, sự đau khổ của chị ấy lên đến cùng cực! Xác anh Tiếp được chôn vùi sơ sài tại đồi tranh gần K2, tôi tin rằng anh còn nhớ nơi này. Khoảng một năm sau, nhờ có người giúp đỡ, người nhà anh đã lén đến Thanh Cẩm bốc mộ anh và đưa hài cốt anh về an táng tại Nam Định, là cố hương của anh.

                Anh Thi! Tuy giờ này nắm xương tàn của Lâm Thành Văn và Đặng Văn Tiếp đã nằm yên trong lòng đất, nhưng tôi nghĩ rằng vong linh của họ vẫn còn vương vấn bên anh. Để giúp hai anh ấy được siêu thoát, anh cũng cần đốt một nén hương, thành tâm xin họ tha thứ cho anh. Nếu có thể được, anh xin phép thân nhân cho anh được đến lạy trước bàn thờ anh Tiếp. Tôi có thể đi với anh để làm chuyện này. Tôi tin rằng, sau khi làm chuyện đó, thân nhân của anh Tiếp được giảm bớt ưu sầu, và anh cùng với gia đình anh có thể được sống bình an hơn trên đất Mỹ. Những người khác nhận thấy sự thành tâm thống hối của anh, họ cũng sẽ tha thứ cho anh. Tôi sẽ giúp anh trong việc này, vì đây là một trong những nhiệm vụ của linh mục.
                 
                Tôi cũng gửi tới các bạn cựu tù nhân chính trị, nhất là bạn tù Thanh Cẩm mấy lời như sau:
                 
                  Các anh em thân mến,
                 
                Tôi cảm thông thật sâu xa tâm trạng của những nạn nhân bị Bùi Đình Thi đánh đập trong tù. Tôi cũng chia sẻ sự đau khổ với gia đình và bạn bè của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn. Bản thân tôi là một nạn nhân may mắn còn sống sót. Dù vậy, tôi cũng xin bày tỏ tâm tình sau đây:

                 Trong trại tù cũng như sau khi ra ngoài xã hội, các anh em đã từng tỏ dấu khinh bỉ và có khi nguyền rủa những người khi ở trong trại đã làm “ăn-ten” báo cáo gian dối để hại anh em và lập công với cán bộ cộng sản. Dĩ nhiên, lúc đó, chúng ta không thể chấp nhận và dung tha cho những kẻ đã hành hạ và giết chết anh em thay cho cán bộ cộng sản.

                Nhưng những gì chúng ta suy nghĩ và uất hận khi còn ở trong trại tù đã dần dần phôi phai đi với thời gian. Những người có hành vi bất xứng khi ở trong trại, nay bất chợt gặp anh em ở một nơi nào đó, tuy anh em không tiếp đón họ một cách ân cần và thân mật như những anh em khác, nhưng ít ai còn nghĩ rằng phải bắt những người này đền tội như khi còn ở trong trại. Riêng các hành động của Bùi Đình Thi, một số anh em đã nghĩ rằng ít ra cũng bắt anh ta phải chịu một hình phạt nào đó, vì không thể để cho một tên sát nhân sống ung dung tự tại như vậy được. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, mặc dầu không ai muốn tiếp xúc với anh ta, tôi thấy rằng hình như không ai còn muốn đòi nợ máu nơi anh ta nữa mà chỉ muốn Bùi Đình Thi có một hành vi sám hối nào đó.
                 
                             Tôi nghĩ rằng, Bùi Đình Thi đang chịu một thứ hình phạt rất nặng nề đó là mặc cảm tội lỗi, vì thế luôn luôn phải tìm cách lẩn tránh anh em, ngay cả khi đã đến được Hoa Kỳ. Tôi tin rằng, hình ảnh của hai anh Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn luôn theo đuổi Bùi Đình Thi trong suốt 17 năm qua, như cặp mắt đã nhìn Cain trong Thánh Kinh, sau khi Cain đã giết người em của mình là Abel. Đối với Bùi Đình Thi, không có gì đáng sợ bằng hai hình ảnh đó. Theo tôi nghĩ, mặc dù Bùi Đình Thi hung ác tự bản chất, nhưng nếu không có cán bộ cai ngục dung dưỡng và lợi dụng anh ta để thực hiện ý đồ thâm độc của chúng, thì anh ta không có dịp để bộc lộ tính chất ác độc của anh ta một cách dữ dằn như vậy.
                 
                             Francis Bacon đã nói: “Một người khi báo thù thì chỉ ngang hàng với kẻ thù của mình, nhưng khi bỏ hết những thù hận, họ là người trên”. Những gì Bùi Đình Thi đã chịu 17 năm qua, tôi nghĩ rằng đã tạm đủ, nay, nếu anh ta thật lòng sám hối và muốn làm một cái gì để chuộc lại lỗi lầm của mình, tôi xin các anh em cũng sẵn sàng bỏ qua. Bằng tình thương và sự tha thứ, chúng ta không những tìm được sự bình an trong tâm hồn mình, mà còn đem lại bình an cho một con người đã quay trở lại và cả gia đình anh ta nữa.

                Xin tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến trên tất cả chúng ta.
                 
                Sau đó, tôi có nhờ Linh mục Mai Khải Hoàn, lúc bấy giờ là người phụ trách Cộng đoàn Công giáo nơi Bùi Đình Thi và gia đình anh sống, chuyển giúp cho anh một bản.

                 Khi bài viết của tôi phổ biến, có một số người muốn có thái độ với Bùi Đình Thi, nhưng tôi đã cản ngăn tất cả vì chủ trương của tôi trong vấn đề này là tha thứ và tha thứ vô điều kiện, và câu chuyện này sau đó trở nên lắng dịu. Gia đình và thân nhân của anh Đặng Văn Tiếp cũng không muốn có thái độ gì với Bùi Đình Thi. Mặc dù Bùi Đình Thi có gọi điện thoại nhắn vào máy mấy lần cho anh Đặng Văn Thụ ở Maryland, nhưng Thụ không muốn tiếp xúc với người đã giết anh mình. Ngày 2 tháng 5 năm 1999, gia đình cùng thân nhân và bạn bè của anh Đặng Văn Tiếp tổ chức lể giỗ 20 năm ngày chết của anh tại nhà anh Thụ ở Bethesda, Maryland. Dịp này, tôi cũng nói lên thái độ của cá nhân tôi và gia đình họ Đặng mà qua anh Tiếp, đã coi tôi như một người trong gia đình. Chúng tôi không muốn nhắc tới Bùi Đình Thi.

                Cho tới năm 2001, Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển đưa vụ này ra trước Sở Di Trú Hoa Kỳ. Những người có trách nhiệm trong cơ quan Di trú có phỏng vấn tôi thêm vài chi tiết liên quan tới bài viết của tôi. Có mấy nhà báo tiếng Việt và tiếng Anh ở California cũng phỏng vấn tôi về vụ này. Tôi chỉ trả lời những gì tôi biết, tôi đã viết ra và đó là sự thực.

                Lúc đó, câu chuyện lại trở nên nóng và nhiều người bàn tán. Có người cho tôi biết là một vài bài báo tiếng Việt lên tiếng “lý luận” rằng, câu chuyện tôi viết về hành động của Bùi Đình Thi trong trại tù Thanh Cẩm là câu chuyện tưởng tượng, thực tế làm gì có chuyện như vậy!
                 
                Tôi không có giờ đọc các bài báo đó, nhưng điều này không làm tôi ngạc nhiên vì ngay cả chính tôi là người trong cuộc mà đôi lúc còn không thể ngờ có chuyện như thế xảy ra thì một vài người nào đó ngồi nhà “suy luận” thì làm sao có thể tin được! Như thế những người đã viết các bài báo đó không có gì đáng trách cả, mà ngược lại, chúng tôi rất đồng quan điểm với nhau là việc làm của Bùi Đình Thi lúc làm trật tự trong trại tù Thanh Cẩm, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của mọi người. Có lẽ cũng còn nhiều người nghĩ như vậy, nhưng chỉ có một vài người muốn viết ra.

                Ngược lại, thái độ của Bùi Đình Thi thật đáng trách!

                Lúc đó, anh lại công khai chối bỏ hết qua khứ! Bùi Đình Thi lên tiếng trên báo chí và đài phát thanh ở California nói là anh chẳng có làm gì sai trái trong khi làm trật tự trại tù Thanh Cẩm. Và còn thách thức là ai có thể đưa ra bằng chứng anh đã đánh người trong trại Thanh Cẩm! Một lần nữa, anh lại bắt buộc tôi phải có nhận xét về con người anh, một điều mà tôi không bao giờ muốn. Nếu trước kia khi làm trật tự trong tù cộng sản đã có những hành động độc ác, thì qua Mỹ, anh lại là con người điêu ngoa khờ khạo. Điêu ngoa vì anh đã thẳng thừng chối bỏ hết tội ác anh đã gây ra làm đau khổ cho bao nhiêu người, bao nhiêu gia đình. Khờ khạo vì anh quên rằng có rất nhiều nạn nhân và chứng nhân đang sống chung quanh anh và biết hết các việc anh đã làm. Hơn nữa, trong những xứ tự do với hệ thống thông tin ngày nay, việc kiểm chứng không có gì là khó. Và anh buộc tôi phải trưng ra bằng chứng!

                Tôi thiết nghĩ, giữa tôi và Bùi Đình Thi đã biết nhau quá nhiều rồi, chúng tôi chẳng cần bằng chứng gì với nhau, vì bằng chứng rõ rệt nhất mà cả hai người chúng tôi đều biết là cái thân thể đầy tật nguyền thương tích của tôi do hậu quả những trận đòn của anh. Nhưng vì sự việc đã ra công khai và để một số người khỏi phải hoang mang, tôi nói chuyện này với một nan nhân khác của Bùi Đình Thi là Linh mục Phạm Quý Hòa, hiện đang sống ở New Caledonia. Cha Hòa có gửi một số giấy tờ mà tôi kèm theo đây. Khi đưa ra bằng chứng này, tôi cũng muốn nhắn với các bạn nào đã viết báo trước kia rằng: “Thưa các bạn, các bạn đã viết rất đúng! Ngồi nhà suy luận như các bạn thì chuyện Bùi Đình Thi giết đồng cảnh và đánh đập các bạn tù, kể cả các Linh mục là ngoài sức tưởng tượng và không thể nào xảy ra được. Nhưng thưa các bạn, thực tế cuộc đời không đơn giản như mình suy luận. Chính tôi cũng vậy, trước khi đi tù,  tôi cũng  khờ khạo,  cho đến nỗi nghĩ rằng tù chính trị miền Nam ai cũng là người tốt cả. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, tôi đã chứng kiến cảnh những người bạn tù trẻ và cương trực rượt đánh bọn ăn-ten, có người vỡ đầu, có kẻ què chân. Chừng đó tôi bắt đầu sáng mắt ra, và khi rơi vào tay Bùi Đình Thi rồi, tôi mới biết là lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người quả là vô tận. Những hành động của Bùi Đình Thi mà tôi kể lại khá chi tiết vì chuyện đó xảy ra cho chính bản thân tôi làm sao tôi không biết? Nếu trước kia, khi đọc bài đó các bạn cho là chuyện khó tin, thì nay hy vọng là sau khi đọc qua thủ bút bằng chứng của nạn nhân khác, các bạn sẽ nói ‘Chuyện khó tin nhưng có thật!’’
                Các bằng chứng này sẽ được in trong phần hình ảnh, nhưng vì chữ viết tay khó đọc, nên tôi đánh máy lại vào đây và bản viết tay thư này của Linh mục Phạm Quý Hòa và một số chứng từ khác cũng sẽ được in để rộng đường dư luận. Việc phải đưa ra các bằng chứng này là một việc làm ngoài ý muốn của tôi.
                 
                Linh Mục Phạm Quý Hòa
                Eglise du Christ Roi
                10, rue Berthelot
                2è Vallée du Tir
                98800 NOUMEA
                Ph/Fax.27.20.29                                                       Nouméa 22-06-01
                Nouvellle Calédonie.
                (Pacifique du Sud)
                 
                 Cha Nguyễn hữu Lễ thân mến,

                Qua báo chí và do 1 người cháu từ Hoa Kỳ cho biết thì U.B cứu người vượt biển sẽ đưa ra tòa tên Bùi Đình Thi để tước quyền tỵ nạn, rồi trục xuất về Việt Nam, vì lúc ở trong trại Thanh cẩm, Thi đã làm tay sai đắc lực cho Cộng sản và cùng với tên Trương minh Phát đã đánh chết anh Đặng Văn Tiếp, rồi còn tiếp tục hành hạ anh Lâm Thành Văn đến chết bằng cách bỏ đói. Ngoài hai người tù bị chết, hai tên hung thần Thi và Phát còn đánh đập tàn nhẫn nhiều người khác như cha Nguyễn hữu Lễ, ông Nguyễn Sĩ Thuyên và Trịnh Tiếu trong vụ trốn trại ngày 2-5-1979. Đó là vụ tôi biết rõ, vì lúc xảy ra, tôi đang ở buồng 3 khu kiên giam trại Thanh Cẩm cùng khu với các nạn nhân vừa nêu. Nhưng vừa rồi cha gọi điện thoại cho tôi và báo tin cho biết là tên Thi đã chối tất cả tội ác nó đã đối xử với anh em bạn tù. Do đó cha yêu cầu tôi biên cho cha một lá thơ làm chứng rằng tôi có biết rõ vụ đó. Vậy đây tôi xin đáp lời yêu cầu của cha.

                Nhưng trước tiên, tôi xin được nói về tôi là nạn nhân của tên Thi và Phát, sau đó sẽ nói lại về các người khác.

                 Thời gian hai tên Thi và Phát làm trật tự là thời gian kinh hoàng nhất trong suốt 10 năm tôi bị giam tại trại Thanh Cẩm. Hai tên này đối xử với anh em rất tàn ác. Chúng đánh đập bất cứ ai, già trẻ lớn bé nó đánh tất, đánh bất cứ vì lý do gì, hễ nó muốn đánh là nó đánh, không cần biết cái cớ nó đánh đúng hay không. Có một lần tên Phát đã đánh tôi tại buồng 3 Kiên giam. Vì quá uất ức trước sự tàn ác của nó, nên tôi đã đánh lại tên Phát. Sau đó tên Phát đã chạy xuống báo cáo với cán bộ trực là Thiếu úy Vân. Lập tức, ông Vân và 2 cán bộ võ trang cùng với tên Thi kéo lên, lôi tôi ra ngoài cổng khu kiên giam, rồi tên Bùi đình Thi khóa hai tay tôi lại sau lưng không cho tôi đỡ đòn, thế là hai tên mặc sức đấm đá tôi túi bụi, trước sự hiện diện của ông Vân và 2 tên võ trang. May mà nhờ ông Vân bảo thôi, nên hai tên Thi- Phát mới ngưng tay, không thì tôi cũng đã bỏ xác tại khu kiên giam như anh Đặng Văn Tiếp. Sự việc xảy ra lúc 6 giờ chiều ngày 26-7-1979.

                Trước ngày này chừng một tuần thì hai tên Thi Phát cũng đã đánh cha Mai Quang Bao ở buồng 4 Kiên giam một trận tơi bời. Số là cha Mai Quang Bao bị nhốt ở buồng 4 Kiên giam cùng chung buồng với anh Nguyễn Đức Khuân. Anh Khuân có nhận được bưu kiện từ gia đình trong Nam gởi ra. Một bữa nọ, giờ mở cửa phát cơm sáng, cha Mai Quang Bao lợi dụng xin tên Phát qua buồng 3 để xin đốt đèn hút thuốc, luôn tiện anh Khuân có gởi qua biếu cha già Chương một gói bột Bích Chi nhỏ. Khi cha Bao chuyền túi bột qua cửa sổ thì chẳng may tên Phát thấy. Thế là sau khi đã phát cơm cho 2 khu xong thì tên Thi và Phát trở lên buồng 4 lại, có cả cán bộ đi theo, mở cửa lôi cổ cha Bao ra, đóng cửa lại, đoạn hai tên Thi Phát đấm đá cha Bao túi bụi, nghe đùi đụi như đấm vào 1 tấm ván cửa, làm vang cả qua phòng bên cạnh cũng nghe thấy. Đánh chán tay tụi nó kéo cha Bao qua cùm bên khu kỷ luật.

                Sau đây tôi nói rõ hơn về vụ tên Thi đánh chết bạn tù sáng ngày 2-5-1979. Vụ này xảy ra khi tôi ở buồng 3 Kiên giam, cùng khu với các nạn nhân của Thi Phát. Đêm 1 rạng 2 -5-1979 các bạn tù là cha Định, cha Lễ, anh Tiếp, anh Văn, và ông Tiếu, ông Thuyên ở buồng 1. Các bạn này đã đào tường để trốn, chỉ trừ cha Định. Nhưng cuộc vượt ngục thất bại, nên sáng ngày 2-5-1979 các bạn đã bị bắt lại. Thế là hai tên hung thần Thi Phát trút đổ tất cả sự sục sôi căm tức lên đầu các bạn trốn trại. Chúng đã đánh chết anh Đặng Văn Tiếp ngay sáng ngày 2-5-1979. Còn cha Nguyễn hữu Lễ và ông Nguyễn Sĩ Thuyên thì bị hai tên Thi Phát đánh, đá, đạp, bầm dập thân xác, đến nỗi hai người phải chết ngất từ 6 giờ sáng ngày 2-5-1979 đến sáng hôm 3- 5- 79 mới tỉnh lại. Đánh đập bầm giập xong, khi hai người đã bất tỉnh không đi được thì tên Thi cầm chân kéo nạn nhân như kéo 1 con chó chết vào cùm ở khu kỷ luật.
                 
                Còn ông Trịnh Tiếu và anh Lâm Thành Văn thì chúng lôi đi cùm ở nhà đen, tức nhà kỷ luật cũ. Đến ngày 6 -5-79 thì tôi được biết là anh Văn cũng đã chết, vì bị thấm đòn và bị tên Thi không cho ăn, nên chết đói; vì anh Văn bị bịnh đau bao tử, không ăn sắn được, nên phải ăn cháo, mà Thi đem cháo từ nhà bếp lên, xong hất đổ ra chỗ đổ phân tù, chứ không cho anh Văn ăn. Tôi biết được vậy là vì sau đó tôi ở chung với ông Trịnh Tiếu bên khu kỷ luật mới, nên nghe ông kể lại.
                 
                Tất cả những gì tôi viết trên đây đều là sự thật. Sở dĩ Bùi Đình Thi chối các tội ác nó đã gây ra cho anh em bạn tù là vì hắn đã đi học tập cải tạo nên thầy nó là bọn cộng sản đã dạy cho nó phải nói láo, phải chối tội đã phạm, như chính tên phát ngôn viên bộ ngoại giao Hà Nội Phan Thúy Thanh đã nói với phóng viên hãng AP rằng: “Việt Nam kiên quyết khẳng định không hề tra tấn bất cứ một tù nhân chiến tranh nào”. Thầy nào trò nấy mà!
                 
                Chẳng những tên Bùi Đình Thi đáng trục xuất về với Việt cộng, mà tôi xin đề nghị với Ủy Ban là phải vận động các Đoàn thể chính tri viết kiến nghị lên Quốc Hội và Chính Phủ Mỹ phải ra luật trục xuất tất cả mọi tên mang danh tỵ nạn để hoạt động cho Cộng sản việt Nam trên đất Mỹ, như tên Trần Trường chẳng hạn. Vì như thế thì đâu còn đúng với danh nghĩa và quy ước về người tỵ nạn. Tôi rất mong các đoàn thể chính trị nghiên cứu đề nghị này.

                Thưa cha Lễ. Đó là tôi nói đúng như tôi biết xin cha tùy nghi sử dụng. Chúc cha khỏe và thành công.
                 
                Mến.

                (Ký tên)
                 
                Đây, thêm một nhân chứng sống trong nhà tù Thanh cẩm thời gian xảy ra vụ Bùi- đình -Thi làm trật tự  2-5-1979. Muốn biết thêm chi tiết xin liên lạc với Linh-mục Phạm-quí-Hòa tại địa chỉ trên.
                 
                Một lá thư khác đề ngày 30-7-01 của cha Hòa  như sau:
                 
                Nouméa 30-7-01
                Thăm cha Lễ và anh Xuân
                Và tất cả các bạn Thanh Cẩm.
                 
                Tôi xin gởi lời thăm cha Lễ và tất cả các bạn. Chúc cha và các bạn luôn khỏe mạnh. Phần tôi không được khỏe lắm.

                Xin gởi tới các bạn bản sao mà hôm nay tôi gởi cho ông Peter Nguyễn ở Los Angeles theo lời yêu cầu của ông, để các bạn dễ theo dõi.

                Trong bì này tôi gởi 2 xấp. 1 xấp là do ông Peter Nguyễn Fax qua cho tôi. Còn 1 xấp là do tôi sửa chữa lại.

                Số là vào lúc 11 giờ ngày 17-7-01, 1 cú điện thoại gọi cho tôi từ Mỹ. Người gọi không nói tên và nghề nghiệp gì, chỉ nói là muốn nói chuyện với cha Hòa. Tôi xưng: Tôi là cha Hòa đây. Người bên kia hỏi: cha có biết Bùi Đình Thi đánh và mấy người chết ở Thanh Cẩm?Vâng tôi biết Bùi Đình Thi đánh và chính Bùi Đình Thi đã đánh tôi. Tôi kể lại cho người đầu dây nghe và họ ghi lại. Sau cuộc điện đàm, người đó hỏi cha có E-mail không? Không, tôi chỉ có Fax. Nhưng Fax của tôi lại bị hỏng. Chỉ nhận được mà không gởi đi được. Cuộc điện đàm chấm dứt. Sau chừng nửa tiếng, thì tôi nhận được Fax mà người lúc nãy phỏng vấn tôi. Tôi xin kèm theo đây bản Fax mà ông đối thoại hồi nãy đã gởi cho tôi.. Trong đó có nói là cứ sửa chữa rồi kể thêm rồi gởi lại cho ông ở Los Angeles theo địa chỉ ở cuối thư Fax.

                Tôi thấy bản ông ta ghi có nhiều điểm sai, không rõ. Nên tôi đã làm lại 1 bản mới , đồng thời kể thêm truyện cha Mai Quang Bao bị Thi- Phát đánh tại trước cửa buồng 4 Kiên giam Thanh Cẩm. Xong tôi đem ra tòa Thị Trưởng Nouméa  xác nhận chữ ký của tôi, rồi gởi lại cho ông Peter Nguyễn theo địa chỉ ở cuối thư Fax. Tôi xin gởi cha và các bạn biết, để tùy nghi mà ứng xử.

                Trong thư gửi cho cha Lễ hôm 22-6-01, nơi trang 2 tôi đã vô ý viết sai một con số khi kể lại việc cha Lễ bị Thi Phát đánh chết ngất.Thay vì ngày 2 tháng 5 năm 79 thì tôi đã viết lộn là ngày 2 tháng 7 năm 79.

                Sau khi phát hiện ra chỗ sai thì tôi có gọi điện thoại cho anh Xuân để bảo sửa lại thì Tổng Đài điện thoại  cho biết là số điện thoại đó không còn được sử dụng nữa. Vậy nếu thật sự anh Xuân đã đổi số điện thoại thì xin anh vui lòng cho biết số mới để tiện việc liên lạc khi cần. Nhất là trong vụ Bùi(thối thì có!) này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ chỉ huy và các đơn vị lẻ tẻ rải rác khắp thế giới.
                Ở trong 1 thư Fax có hàng ghi: Opreration “TWO FACES” Phải chăng nay là một chiến dịch tống cổ hết  mọi tên tay sai của VC về với bố chúng nó. Nếu có như vậy thì Hòa này hoan hô hết mình. Xin các bạn cố sức hoạt động để mở mắt cho bọn Mỹ Mù, cứ nhắm mắt nhận bừa tất cả vào đất Mỹ để tự vỗ ngực xưng mình là nhân đạo! Xin các bạn gào thét vào tai tụi mỹ cái chân lý này:  “Nhân đạo là tự sát".

                Nếu tụi Mỹ mù biết mở mắt ra thì sẽ khám phá ra hàng chục ngàn Trần Trường còn ẩn mặt chứ không chỉ có 1 Trần Trường đâu. Không biết bao giờ thì tụi Mỹ nó hết ngu!

                Chào tạm biệt cha Lễ , anh Xuân và tất cả các bạn. Chúc tất cả khỏe.

                Mến

                (Ký tên)  Hòa
                 
                Ngoài hai lá thư viết tay này, Linh mục Phạm Quý Hòa cũng có  một bản tường thuật dài 2 trang bằng Anh ngữ  gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ, một bản sao gửi cho tôi và cũng được in trong phần hình ảnh này.

                Bản tường thuật bằng Anh ngữ của Linh mục Phạm Quý Hòa gởi Sở Di Trú Hoa Kỳ:
                 
                My name is PHAM, Hoa Quy. I was born on 04/20/1930, in Ha tinh, Vietnam. I became a priest in 1960. I am a citizen and national of New Caledonia (France). I am presently residing in New Caledonia.

                I met a man called BUI Thi Dinh(BUI) at Camp Thanh Cam. BUI was  al TRAT TU VIEN(Head of prisoners)in the camp. Another prisoner named TRUONG Phat Minh assisted BUI.

                I remember an incident that  happened to me on 07/26/1979, at approximately 6:00 PM, in Camp Thanh Cam. BUI's assistant TRUONG was doing the evening security roll call in the camp. TRUONG opened the door to my cell and entered to check the toilet area. As he walked past me, TRUONG suddenly hit at my knee very badly with his wooden hammer. Once he finished checking the toilet area, and as he was leaving the cell, TRUONG stared at me with furious eyes,. I also stared back at him with a scornful smile, and he did't like the way I looked at him, so TRUONG came back into the cell in order to hit me again. But as he raised the hammer, I immediately got up and attacked him to protect myself. TRUONG was terrified running out of the cell. As I was chasing TRUONG, I called upon a friend named LE, Bao Thien, another prisoner in the same cell to come and help me. A policeman standing there ordered me to return into the cell, and told TRUONG to shut the door. Later, TRUONG returned with BUI and a Lieutenant named VAN, from communist army. TRUONG opened the door, pulled me out, and they started to beat me. BUI held my arms behind me anh punched me repeatedly in the back and hip, while TRUONG hit me in the face, chest and stomach. They hit me constinuously until the Lieutenant told them “it was eneough”. After that, they pulled me into the cell and closed the door.

                I remember another incident that happened approximately one week before that. At that time BUI and TRUONG also beat Father MAI, Bao Quang very heavily. Father MAI was a Priest belonging to the diocese of Bui Chu. He was locked in cell 4 with a fellow prisoner named KHUAN, Nguyen Duc. During the lunch time of food distribution, Father MAI asked TRUONG to go to cell 3 to have a smoke. Taking advantage of this. MAI passed to Father NGUYEN, Chuong Huy a small pocket of rice powder, gift of NGUYEN, Khuan Duc. But TRUONG saw what he did. When the food distribution was over, TRUONG returned with BUI, opened the door to cell 4 and pulled Fr MAI out. TRUONG and BUI started to beat Father MAI, very heavily. The beating  was so severe that the sound  of each hit could be heard from the surrouding ceells, including mine, which all had closed doors. When they finished, TRUONG and BUI took Father MAI toput him to lock his legs. When passing my cell(cell 3), I saw that Father MAI's face was swollen, and that he was bleeding from the nose.

                I remember another incident that happpened on or about May 2 1979. I remember that day well. On that day, 5 people attempted to escape:

                1.NGUYEN Thuyen Si, a high school professor.
                2.TRINH Tieu, an old Colonel in the Republic of Vietnam  army
                3.DANG Tiep Van, a congressman from the Republic of Vietnammade
                4.LAM Van Thanh, a bus owner and driver
                5.NGUYEN Le Huu, a Catholic Priest
                 
                They were all in cell 1 which was located next to my cell(i.e.cell 3). I could hear them digging the entire night before they finally dug through the wall. Their escape was discovered in the morning of May 2, 1979, when the guards made the morning security roll call. Father NGUYEN Le Huu, DANG Tiep Van, and NGUYEN Thuyen Si had made it out of the camp, and they were down river when the guards arrested them.

                From my cell, I could hear BUI and the guards cursing and beating the escapees when they got back into the camp. DANG Tiep Van died that day as  a result of  of the extreme beating he receiandved. Rev.NGUYEN Le Huu and another escapees were beaten  very heavily as well; Rev. NGUYEN Le Huu and NGUYEN Thuyen Si, lost consciousness for almost a day. After the beating, TRINH Tieu who was left in the same cell with LAM Van Thanh, told me later when he was locked with the same cell as me, that LAM Van Thanh had died as a result  of the beating and starvation. TRINH Tieu told me that everyone in the camp including BUI knew that LAM Van Thanh had stomach problems and could only eat soup. After the escape attempt, BUI had to take food to them, but BUI threw the soup away instead of giving it to LAM Van Thanh. LAM Van Thanh died on May 6 1979.

                I was released from the re-education camp on 11/3/1987. I subsequently escaped from Vietnam by boat to the Philippines.
                 
                I am available and I am willing to testify against BUI if needed.
                 
                I have read the foregoing statement, consisting of 2 pages. I state that the answers made herein are true and correct to the best of my knowledge and belief., and that this statement is a full, true and correct record mine interview on the date indicated by the above-named officers of the Immigration and Naturalization Service. I have initiallled each page of this statement.
                 
                Signature:
                                     PHAM Hoa Quy
                Interpreter : *
                 

                *****
                 
                 

                Phụ Trương ba:
                 
                 Hoạt động tại hải ngoại
                 
                 

                Từ năm 1992 về sau, đồng thời với các bổn phận tôn giáo tại Tân Tây Lan (New Zealand), tôi cũng đã đi lại nhiều quốc gia trên thế giới khá nhiều lần để gặp gỡ đồng hương và vận động cho phong trào Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Tôi đã gặp gỡ thân ái với các chức sắc và làm việc chung với các tôn giáo bạn, vì tôi quan niệm rằng các tôn giáo là sức mạnh của ý chí dân tộc Việt Nam và việc ngồi lại làm việc giữa các tôn giáo là bước đầu tiên để tạo sự đoàn kết và phát huy sức mạnh của đân tộc. Tôi vững tin vào chân lý này: “Thể chế chính trị nào cũng chỉ tồn tại một giai đoạn rồi sẽ qua đi, chỉ có dân tộc là trường tồn.”

                Trong chiều hướng đó, tôi cố gắng ghi lại trong tập Bút Ký tiếp theo về bước đường tôi đã trải qua trong hơn 10 năm ở hải ngoại sát cánh với đồng hương, với các chức sắc trong tôn giáo bạn và với những người yêu chuộng tự do của các Chính phủ, Quốc hội các nước tự do trên thế giới trong cố gắng nói lên nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Dân tộc tôi ước mong cuộc sống Tự Do, Công Bằng và Phát Triển.
                 
                 

                                        ***
                 
                 
                nguồn: Linh mục Nguyễn Hữu Lễ
                dactrung.com
                #23
                  sóng trăng 26.02.2007 05:27:06 (permalink)
                  .
                   
                  Theo bước chân người linh mục


                  tâm bút Trần Trung Ðạo
                  Kính tặng Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ



                  Tôi là người Phật Tử nhưng phải thú nhận rằng ít khi tôi ngồi nghe hết một bài thuyết pháp của các chư tôn đức Phật Giáo, ngay cả khi bổn sư tôi còn tại thế. Kính thầy, đúng ra là sợ thầy lắm tôi mới ngồi năm mười phút rồi kiếm chuyện mà đi. Không phải các thầy tôi giảng không hay, không cao siêu sâu sắc, nhưng bởi vì lòng tôi còn quá nhiều vọng động, mấy mươi năm chưa có một ngày yên. Thân trú tại chùa mà tâm thì trôi lang thang trên nhánh sông đời với trăm bến bờ xuôi ngược.

                  Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Trung, chinh chiến triền miên và thiên tai dồn dập. Tuổi thơ tôi được ru bằng tiếng súng đêm đêm vọng về bên kia sông Thu Bồn. Mỗi buổi sáng trên con đường ra quận đều có người khiêng xác chết đi qua và khiêng xác chết đi về. Ngày đó, tôi quá nhỏ để có một ý niệm rõ ràng về Quốc Gia hay Cộng Sản nhưng có một điều tôi biết chắc họ là người Việt Nam. Tôi từng chứng kiến cảnh người anh họ là lính nghĩa quân, đào huyệt chôn một người em là du kích Cộng Sản, và chính anh họ tôi cũng ngã xuống sau đó vài ngày khi những người du kích khác về đặt mìn ngay giữa đường ra quận. Cả hai đều chết. Cô tôi chôn họ cạnh nhau trên một mảnh đất sau vườn để bà tiện bề hương khói. Mỗi đêm rằm nhìn qua cửa sổ, tôi thấy cô tôi khóc, chiếc bóng cô tôi rung rinh dưới ánh trăng tròn. Cỏ trên hai ngôi mộ đều xanh hơn, có lẽ vì thấm quá nhiều nước mắt của một bà mẹ Việt Nam bất hạnh.

                  Từ đó, những điều tôi cần biết không phải là sau khi tôi chết tôi sẽ đi về đâu, Thiên Đàng hay Cực Lạc? Tôi là ai và tôi sẽ là ai sau cõi đời nầy? Tôi tiếp tục làm người hay làm trâu ngựa? Là một người có niềm tin tôn giáo nhưng thú thật rất ít khi tôi nghĩ đến những điều, tôi cho là, xa xôi đó. Câu hỏi lớn nhất là tại sao đất nước tôi lại phải chịu đựng nhiều chết chóc khổ đau như thế. Tôi cũng không mơ ước gì to lớn, cao xa. Như một nhà nghèo cơm không có đủ ăn, áo không đủ mặc làm sao dám mơ nhà cao cửa rộng, giấc mơ của tôi vô cùng gần gũi và đơn giản, rằng máu Việt Nam đừng chảy nữa trên quê hương tôi đã quá nhiều thống khổ. Năm mười ba tuổi tôi từ giã quê nghèo ra đi. Tôi đi mang theo những câu hỏi, những ám ảnh triền miên về cuộc chiến và đất nước.

                  Mãi tới hôm nay sau nhiều năm lưu lạc tôi mới được nghe một bài pháp trọn vẹn từ đầu. Điều khác nhau duy nhất, bài pháp tôi nghe không phải do các thầy tôi giảng, nhưng do một vị Linh Mục Công Giáo mà tôi chưa hề quen biết: Cha Nguyễn Hữu Lễ. Đối với tôi, tôn giáo nào đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người thì tôn giáo đó là tôn giáo của tôi và bất cứ ai đeo đuổi mục tiêu đem lại an lạc, tự do, cơm áo cho đồng bào tôi người đó là Thầy tôi, là Cha tôi. Trong suốt hai giờ ngồi nghe Cha nói, tôi tự nhiên cảm thấy rằng tôi là một người cùng một đạo với Cha, đạo tình người, đạo dân tộc, đạo Việt Nam.

                  Cha Nguyễn Hữu Lễ nói với chúng tôi: "Trước khi làm một Linh Mục, tôi là một người Việt Nam". Câu nói là một chân lý hiển nhiên và không có gì khó khăn để nói. Thế nhưng, không phải ai cũng nói được và làm được như Cha. "Trước khi là một Thượng Tọa tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một Giám Mục tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một Mục Sư tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, tôi là người Việt Nam", "Trước khi là một người theo đạo Cao Đài, tôi là người Việt Nam". Đức Giáo Hoàng cũng đã từng tuyên bố một câu tương tự rằng ngài sẵn sàng về lại Ba Lan để đấu tranh cho nhân quyền của đồng bào ngài khi nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan đe đọa đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan mà ngài ủng hộ tinh thần. Mang trọng trách lãnh đạo tinh thần của gần một tỉ người trên thế giới, câu nói của ngài chưa hẳn hàm chứa ý nghĩa một hành động nhưng là một cách để biểu hiện lòng yêu nước của ngài và đồng thời là một thách thức vô cùng lớn lao đối với nhà cầm quyền Cộng Sản Ba Lan.

                  Hơn bao giờ hết mỗi người Việt chúng ta phải biết đặt mình trọn vẹn trong ý nghĩa câu nói và thái độ cao cả của Đức Giáo Hoàng. Điều đó có nghĩa rằng, mỗi người Việt Nam phải biết đặt mình trong số phận của đất nước dù chúng ta đang ở bất cứ một cương vị nào trong xã hội hay trong tôn giáo. Hơn bao giờ hết, những người Việt Nam yêu thương đất nước mình phải biết nói lớn lên như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết sống vì đất nước như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết quý cái tổ mà chúng ta đã được ấp thành người như Cha Nguyễn Hữu Lễ, dù chiếc tổ đó làm bằng rơm rạ Việt Nam chứ không phải bằng nệm ấm chăn êm nước Mỹ, biết thương củ sắn cha trồng, củ khoai mẹ mót như Cha Nguyễn Hữu Lễ thay vì vong thân trong bơ sữa quê người.

                  Tôi đứng dậy ca ngợi Cha và xưng con với Cha bằng tất cả lòng kính yêu và kính trọng mặc dù như đã thưa, tôi không phải là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Chúng tôi không quen biết nhau và Cha cũng chẳng cần được ca ngợi. Ngày mai tôi sẽ trở về với đời sống của một chuyên viên kỹ thuật lo đi làm kiếm cơm nuôi vợ nuôi con và Cha sẽ về lại xứ Tân Tây Lan xa xôi ngàn dặm. Hai bờ đại dương cách trở, biết Cha còn có dịp trở lại nơi đây nữa hay không. Dù mai đây tôi có thể không còn cơ hội gặp lại Cha, nhưng viên than hồng mà Cha đã nhuốm lên trong lòng tôi chắc sẽ còn ấm mãi.

                  Cha Nguyễn Hữu Lễ kể lại một câu chuyện mà Cha đã thưa với Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ của Phật Giáo Việt Nam: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có Đạo. Chúng ta có Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành nhưng trong quá khứ chúng ta chẳng những không biết giữ gìn ơn phước mà Thượng Đế ban cho, trái lại tự mình cứa da thịt của mình. Tôi mong rằng những điều đó sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa". Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ tuy không nói ra nhưng người nghe có thể hiểu ngay là Cha muốn nhắc những xung khắc tôn giáo bắt đầu từ chính biến 1963. Cám ơn Cha đã nhắc. Tôi không nghĩ Cha cho đó là xung đột giữa hai tôn giáo. Tôi cũng thế. Ngày đó tôi còn quá nhỏ để hiểu những gì xảy ra cho đất nước tuy nhiên tôi thành thật tin không có xung khắc tôn giáo tại Việt Nam nhưng đó chỉ là xung khắc giữa một số người, một nhóm người có quyền lực chính trị hay tinh thần trong giai đoạn mà ý thức dân chủ vừa thai nghén. Những xung đột phe nhóm, đặc biệt với sự khai thác tận tình của Cộng Sản, đã đẩy đất nước Việt Nam vào thảm họa rẽ chia và thù hận. Nhìn lại lịch sử của các tôn giáo tại Việt Nam, chúng ta ghi nhận rằng phần lớn các tôn giáo lớn được truyền vào Việt Nam cùng lúc với những biến động lịch sử lớn của đất nước. Phật Giáo được truyền vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc tức khoảng thế kỷ thứ hai tây lịch. Một số không ít các vị tổ Phật giáo là người Trung hoa hoặc theo ngã Trung hoa mà vào Việt Nam. Thiên Chúa Giáo được truyền vào Việt Nam nhiều nhất thời Tây thuộc. Tin Lành được xem là tôn giáo mới mẻ nhất và phát triển mạnh trong thời gian người Mỹ có mặt tại Việt Nam. Ảnh hưởng và vai trò của tôn giáo trong dòng phát triển văn hóa dân tộc cũng như trong quá trình bảo vệ và xây dựng đất nước khác nhau tùy theo mỗi thời kỳ lịch sử. Cũng như số phận đất nước, tôn giáo có khi thịnh khi suy nhưng sự hưng thịnh của một tôn giáo hay nói khác hơn là sự phát triển về số lượng và ảnh hưởng tinh thần của một tôn giáo nào đó chưa bao giờ trong lịch sử đã dẫn đến sự tiêu diệt một tôn giáo khác.

                  Trong thời đại Lý Trần, thời đại vàng son của Phật giáo Việt Nam, nhiều nhà sư đã tham gia trực tiếp vào việc trị nước chăn dân như Quốc Sư Vạn Hạnh, Thiền Tổ Trúc Lâm, v.v... Hầu hết vua chúa không những đều là Phật tử và còn là tổ sư của các Thiền tông lớn như thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chẳng hạn. Tuy giữ vị trí đặc biệt thời bấy giờ nhưng không phải vì thế mà Phật giáo trở thành lực lượng thống trị xã hội như trường hợp các quốc gia Hồi giáo miền cận đông. Trái lại các tôn giáo khác vẫn tồn tại và có ảnh hưởng quan trọng trong mọi sinh hoạt văn hóa xã hội từ các triều đại phong kiến cho mãi tới ngày nay.

                  Trong lịch sử Việt Nam cận đại có xuất hiện thêm của nhiều tôn giáo khác như Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Tin Lành, v.v...Và mặc dù các biến động chính trị đã tạo ra một số ngộ nhận, các tôn giáo cũng đã tồn tại bên nhau với sự tương kính. Nhiều tôn giáo một thời gian đã võ trang quân đội như Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, v.v... nhưng mục tiêu của việc võ trang là để chống Thực Dân và Cộng Sản chứ không phải nhằm chống lại các tôn giáo bạn hay để bành trướng tôn giáo mình qua con đường võ lực. Nhìn qua một số quốc gia như Ấn Độ, các nước vùng Trung Đông, Ái Nhĩ Lan,v.v... chúng ta thấy rằng sự thù địch tôn giáo tại các quốc gia nầy đã dẫn đến việc tàn sát nhau một cách dã man. Hiểu điều đó để thấy cái may mắn rất lớn cho dân tộc ta, mặc dù hoàn cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, các tôn giáo vẫn chưa hề có những tranh chấp nào đáng tiếc.

                  Chính biến năm 1963, như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ngầm nhắc nhở, cũng không phải là một xung đột tôn giáo, nhưng dù sao cũng đã làm thiệt hại lớn lao cho nền dân chủ trong giai đoạn phôi thai của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cùng trong lúc đó biến cố nầy lại là một chiến thắng lớn cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Biến cố chính trị của những năm đầu của thập niên 60 tại miền Nam, đã giúp cho CSVN từ một nhóm du kích vừa mới được khai sinh trong rừng núi thành một lực lượng bán công khai và hoạt động hữu hiệu ở thành phố.

                  Những cuộc đảo chánh, chỉnh lý để tranh quyền đoạt lợi giữa các tướng lãnh trong những năm sau đó đã giúp cho Cộng sản cơ hội vàng son để gầy dựng các cơ sở hạ tầng tại các trung tâm dân cư và đô thị. Căn nhà dân chủ tại miền Nam vừa mới xây dựng chưa được bao lâu đã phải bị tàn phá trước cơn bão lốc chính trị triền miên của thời đại. Số phận dân tộc Việt Nam giống như trái bóng tròn trên sân cỏ. Đây là một bài học lớn cho các thế hệ đang đấu tranh vì tự do dân chủ hiện nay cũng như cho các nhà lãnh đạo đất nước mai sau. Học quá khứ không phải để sống, để ngủ trên quá khứ nhưng để tránh những lỗi lầm, những vết xe đổ của quá khứ.

                  Tôi tin rằng những điều mà thế hệ tôi và các thế hệ em tôi muốn biết, ít ra trong lúc này, không phải là Đức Giám Mục Ngô Đình Thục là ai, Hòa Thượng Trí Quang là ai, ông Ngô Đình Nhu là ai, ông Ngô Đình Cẩn là ai. Điều chúng tôi muốn biết là bao giờ các em bé Việt Nam bất hạnh ở quê nhà có được một căn nhà để ở, một ngôi trường để học thay vì phải lê lết bụi bờ, ăn cơm thừa canh cặn trên các bến xe đò khắp ba miền nước Việt. Chúng tôi muốn biết những bà mẹ Việt Nam khổ nhọc bao giờ mới hết sắp hàng bán máu đổi gạo nuôi con tại các trung tâm hiến máu ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn.

                  Chúng tôi muốn biết bao giờ những người chị Việt Nam mới hết đứng giữa công viên trong đêm ba mươi Tết để bán thân mình mua áo mới cho con.

                  Chúng tôi muốn biết bao giờ nước Việt được lấy tên ra khỏi danh sách những quốc gia nghèo nàn và chậm tiến nhất thế giới.

                  Tủi nhục biết bao nhiêu khi hàng năm chúng ta phải đọc trên báo cáo của cơ quan Liên Hiệp Quốc tên nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến nằm bên cạnh của các nước Phi Châu còn sinh sống trong thời kỳ bộ lạc. Hãy để việc giải thích các biến cố lịch sử lại cho các nhà sử học và đi làm những điều công ích cho đồng bào bất hạnh. Thay vì xát muối vào vết thương của dân tộc, xin đoàn kết nhau để cùng tranh đấu cho một đất nước tự do, dân chủ và thịnh vượng.

                  Một đất nước Việt Nam tương lai phải là căn nhà của mọi tôn giáo sống chung như một đại gia đình Việt Nam tương kính, thương yêu nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Các tôn giáo sẽ là những cột kèo, sẽ là những mái vách gìn giữ cho căn nhà đạo đức dân tộc thêm bền bỉ với thời gian và khi cần, sẽ cùng nhau chống đỡ sức công phá của văn hóa ngoại bang xâm lược. Cha Nguyễn Hữu Lễ nói khá nhiều về tuổi trẻ trong một hội trường mấy trăm người nhưng chỉ có hai người bạn trẻ. Chắc Cha chẳng mấy làm vui. Đi đây đi đó nhiều, hơn ai hết, Cha có lẽ cũng biết rằng tuổi trẻ hiếm hoi có mặt trong các buổi hội thảo chính trị của cộng đồng và các đoàn thể đấu tranh. Thỉnh thoảng lắm mới có vài cô chú trẻ nhiệt tình ráng đến, thì được xướng danh như là Tổng Hội Sinh Viên nầy, phong trào thanh niên nọ cho buổi hội thảo thêm phần trẻ trung, đa diện, chứ thật ra chưa chắc họ đã hiểu các chú các bác nói gì.

                  Lý do đơn giản bởi vì họ không sống cuộc đời các chú bác đã sống, không đi qua con đường mà các chú bác đã đi qua, và không học tại các trường mà các chú bác đã học. Các chú các bác thường đổ lỗi cho các bạn trẻ hay dị ứng với hai chữ chính trị, lơ là trước nỗi đau đất nước và nhiều chú bác còn đi hơi xa khi cho rằng con cháu mình đã bị Cộng Sản giật dây.

                  Tôi cũng đi rất nhiều, tham gia hàng chục trại hè, tâm tình với mấy chục hội sinh viên, trao đổi hàng ngàn thư điện toán (email) qua lại với các bạn trẻ, ăn ở với họ, hát hò với họ và khóc cười với họ. Tôi hiểu ra một điều rằng là tuổi trẻ không lơ là trước nỗi đau của đất nước, trái lại họ rất yêu đất nước Việt Nam, ngay cả nhiều em chưa một lần đặt chân đến. Tuổi trẻ cũng không dị ứng với các vấn đề chính trị và tuổi trẻ không thích chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam. Vấn đề khác biệt giữa hai thế hệ, vì thế, không nằm ở mục đích nhưng là phương pháp để giải quyết vấn nạn Việt Nam. Thành thật mà nói tôi không nghĩ các bạn trẻ hôm nay có thể đồng ý với các bậc cha mẹ, chú bác ngay cả trong định nghĩa căn bản của một vài danh từ quen thuộc như chính trị, dân chủ, tự do, đối thoại, tranh luận mà các bậc chú bác hay dùng.

                  Trong vài năm qua, tôi cũng có dịp tiếp xúc với các cộng đồng người Việt, học hỏi được rất nhiều từ các bác các chú, các bậc đàn anh. Tôi thương vết hằn trên trán cha và đau với niềm đau trong lòng mẹ. Tôi đã ngồi suốt đêm để nghe một bác HO kể lại cuộc đời tù ngục đầy đau xót của bác. Đời của bác HO mà tôi quen là một cuộc đời kiểu mẫu của một thanh niên Việt Nam sinh ra giữa thời chinh chiến, chịu đựng quá nhiều mất mát khổ đau. Hình ảnh của bác với mái tóc hoa râm, dáng người xiêu vẹo, đứng trên góc đường mỗi sáng chờ xe chở đi làm tiền mặt, chiều chở trả về chỗ cũ, ghé tiệm mua một bó rau rồi về lụi cụi nấu cơm ăn, đã nhiều lần làm tôi đau nhói. Lẽ ra giờ nầy, các chú các bác đang sống trên một quê hương thanh bình, bên con bên cháu, với một tâm hồn thảnh thơi lắng đọng của tuổi về chiều thay vì phải mang nỗi buồn đi lang thang trên xứ người xa lạ.

                  Tôi đã thức nhiều đêm để làm thơ thương xót một người lính già ngã xuống trên xa lộ 101 ở San Jose. Bác chết đi không một phát súng chào, không vợ không con, không có ngay cả một người họ hàng xa nhất. Sở cảnh sát không cho người quen của bác nhận xác về chôn cất. Bác nằm cô đơn lạnh lùng trong nhà xác bịnh viện hơn một tháng để chờ người vợ cũ từ Việt Nam đồng ý ký thư ủy nhiệm cho bạn bè bác quyền nhận xác về chôn.

                  Bất cứ ai trải qua con đường mà các chú các bác đã phải đi qua đều không tránh khỏi mang theo trong lòng những hờn căm u uất đó. Nỗi đau của các chú các bác là nỗi đau chung của dân tộc. Tuy nhiên, với tất cả sự khiêm cung và kính trọng, tôi xin thưa tôi rất đồng ý với Cha Nguyễn Hữu Lễ khi ngài cho rằng lực lượng chính để giải phóng đất nước ra khỏi xích xiềng Cộng Sản hiện nay và đưa đất nước lên ngang tầm thiên niên kỷ không phải là các cha các chú nhưng là tuổi trẻ Việt Nam.

                  Sau hơn 25 năm lưu vong, một thế hệ trẻ Việt Nam tài ba về mọi lãnh vực đã hình thành tại hải ngoại. Không phải vài trăm, vài ngàn nhưng có thể lên đến hàng mấy trăm ngàn. Các trường đại học lớn của Mỹ như Harvard, MIT không cho phép sinh viên Việt Nam miễn điểm và hưởng đặc quyền thiểu số vì họ quá giỏi. Sinh viên Việt Nam thường được xếp ngang hàng với sinh viên da trắng xuất sắc, và dĩ nhiên bỏ xa sinh viên thuộc các dân tộc khác. Trong muôn vạn điều buồn, ít ra chúng ta còn có một niềm vui.

                  Tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại, mặc dù, là những chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật được cưng chìu trong xã hội Mỹ, hưởng thụ một đời sống trung lưu hay cao hơn nhưng trong đáy tâm hồn họ dải đất hình cong chữ S Việt Nam vẫn đậm đà soi bóng.

                  Giới trí thức trẻ Việt Nam tại hải ngoại là những người yêu nước cô đơn, đứng bên nầy giòng sông sâu chia rẽ, phân hóa trong cộng đồng người Việt và các thế hệ cha anh. Nhiều trong số họ đã cố đến với cộng đồng, với sinh hoạt Việt Nam để mong góp một bàn tay xây dựng cộng đồng người Việt và yểm trợ cho các phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ của đồng bào trong nước nhưng cuối cùng cũng phải bó tay trước những ngăn cách quá sâu và những hiện tượng tiêu cực quá nhiều trong cộng đồng người Việt. Nhiều trong số các bạn trẻ đó đã bỏ cộng đồng mà đi.

                  Xin hãy đến với tuổi trẻ và giao cho họ trách nhiệm cứu lấy đất nước và dựng xây đất nước.

                  Xin đặt những nhu cầu của đất nước lên trên nỗi đau riêng của mỗi chúng ta.

                  Xin hãy nhìn xa hơn vào tương lai đất nước để thấy những nhu cầu của đất nước không phải chỉ để thỏa mãn những oan ức của thế hệ hôm nay mà thôi nhưng còn là trách nhiệm đối với an nguy của dân tộc trong hàng ngàn năm tới. Xin đừng bắt tuổi trẻ phải hô những khẩu hiệu mà họ hoàn toàn không hiểu gì về nội dung, thay vào đó, hãy đến và nói với họ bằng ngôn ngữ thời đại họ, trao cho họ con tim, tặng cho họ tấm lòng để họ làm hành trang trên hành trình dân chủ hóa đất nước.

                  Tuổi trẻ cũng sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đen tối của đất nước, do đó, họ cũng có những khó khăn riêng của thế hệ họ về ngôn ngữ, về giáo dục và cả về văn hóa. Xin hãy thông cảm với những khó khăn mà tuổi trẻ phải đương đầu. Hãy đi và sống với tuổi trẻ để thấy rằng họ đáng thương và đáng quý hơn chú bác cha anh đang nghĩ về họ. Và nhất là, xin đừng quên phía sau bụi cây, những con chồn, con cáo khôn lanh quỷ quyệt đang chờ đón tuổi trẻ Việt Nam như đang chờ những miếng mồi ngon. Đừng bao giờ ném họ và tài năng của họ vào nanh vuốt kẻ thù.

                  Tôi ngồi viết bài nầy nhưng lòng miên man nghĩ đến Cha Nguyễn Hữu Lễ. Hôm qua đọc báo nghe tin Cha đi đây đi đó vận động cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo. Xin cầu mong ngài luôn mạnh khỏe và cám ơn Mẹ Việt Nam vẫn còn có những người con hiếu thảo đang nặng lòng cùng đất nước. Nhờ những hy sinh đó, những tấm lòng đó mà "non nước sẽ ngàn thu" như Thượng Tướng Trần Quang Khải dặn dò sau khi ngài cầm quân từ Thanh Hóa về giải phóng Thăng Long gần một ngàn năm trước. Tôi ngồi viết bài nầy trong lúc quê tôi đang trong mùa lụt lớn. Quê hương miền Trung của tôi vốn đã nghèo chắc sẽ nghèo hơn. Những bản tin xé lòng đứt ruột được gởi ra nước ngoài từ nửa vòng trái đất. Một gia đình ở Huế cột chung nhau chặt để hoặc cùng sống với nhau hay nếu phải chết họ sẽ chết bên nhau. Cả gia đình cuối cùng đã chết bên nhau. Một bà mẹ Quảng Trị phải buông tay theo giòng nước để con mình khỏi phải bận tâm và lo tìm đường sống. Một người cha Quảng Nam bám trên ngọn cây nhìn căn nhà tranh của mình sụp cuốn theo vợ và ba đứa con thơ. Đất miền Trung, đất của đau thương và nghèo khó, đất của bão lụt thiên tai. Người miền Trung, những con người yêu đất, những con người, qua bao nhiêu thế hệ, dù đói khát cam go, dù gian lao vất vả, vẫn không chịu bỏ đi, vẫn cố bám lấy nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Người miền Trung, sống với tình yêu đất và tháng 11 năm 1999, 570 người con của miền Trung nước Việt đã chết trên mảnh đất hiển linh và đầy thống khổ Việt Nam. Thân xác của 570 đồng bào ruột thịt đã trở về với lòng đất mẹ.

                  Đêm nay, từ vùng đất tạm dung nước Mỹ, tôi ngồi một mình trong phòng vắng, ngưỡng vọng về quê hương xứ Việt xa xôi, thắp nén hương lòng tưởng niệm đồng bào tử nạn. Xin cầu nguyện cho hương linh đồng bào được yên nghỉ trong cõi bình an miên viễn, giữa hồn thiêng sông núi và trong tình thương của tổ tiên giòng giống Lạc Hồng.

                  Dù cuộc sống nơi xứ người còn đầy gian lao vất vả nhưng tôi không bao giờ quên giọt nước mắt mà tôi đang nhỏ xuống trên quê người lận đận đêm nay là nước mắt Việt Nam. Nước mắt của tôi xin hòa chung với nước mắt của hàng triệu đồng bào thống khổ ở quê hương, xin hòa chung với nước sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Vệ để làm xanh thêm cây cỏ và cho quê hương sớm được hồi sinh.

                  Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho những đồng bào còn sống sót sau trận bão lụt vừa qua để họ sớm có được chén cơm để ăn, căn nhà để ở, sớm có cơ hội gầy dựng lại cuộc đời sau vô vàn mất mát.

                  Xin hương linh đồng bào quá cố phò hộ cho dân tộc Việt Nam sớm có một ngày được sống trong tự do, được thở không khí thanh bình, qua đi thời đại của độc tài, hận thù, rẽ chia, ghen ghét, xin phò hộ cho các thế hệ Việt Nam mai sau được sống trong dân chủ, tự do, no ấm, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.

                  Trần Trung Đạo
                   

                   
                  #24
                    sóng trăng 26.02.2007 06:46:38 (permalink)
                    .
                     
                    Nặng Với Quê Hương Một Tấm Lòng

                    Giới thiệu bút ký
                     Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ

                    Trần Trung Đạo



                    Cách đây hơn 4 năm, cũng tại thành phố Boston này, lần đầu tiên tôi có duyên được nghe Linh mục Nguyễn Hữu Lễ nói về những áp bức nhân quyền và đấu tranh tôn giáo đang diễn ra tại Việt Nam. Dựa theo những ý chính trong buổi nói chuyện của Cha, tôi đã viết thành một bài tâm bút có tên "Theo Bước Chân Người Linh Mục". Trong bài viết, tôi nhiều lần lập lại câu nói ngày nay đã trở thành quen thuộc của Cha Nguyễn Hữu Lễ: "Trước khi trở thành linh mục, tôi là người Việt Nam". Câu nói đó thật ra không phải là một khám phá thiên tài nhưng trái lại rất bình thường. Ai cũng có thể nói được và ai cũng biết đó là sự thật. Tuy nhiên biết đúng và sống đúng với những điều mình biết nhiều khi là chuyện khác nhau. Tôi nghĩ rằng, hơn bao giờ hết, những người Việt Nam yêu thương đất nước mình không phải chỉ biết nói lớn như Cha Nguyễn Hữu Lễ, nhưng còn biết sống vì đất nước như Cha Nguyễn Hữu Lễ, biết quý cái tổ mà chúng ta đã được ấp thành người, dù chiếc tổ đó làm bằng rơm rạ Việt Nam chứ không phải bằng chăn êm nệm ấm xứ người.

                    Tôi nhận rất nhiều điện thư hồi đáp về bài viết Theo Bước Chân Người Linh Mục. Đa số hồi đáp rất tích cực. Bài viết đã dựng nên một nhịp cầu cảm thông, không những chỉ giữa cá nhân tôi và Cha, không những giữa các thế hệ Việt Nam ở hải ngoại, mà cả nhiều tín đồ của hai tôn giáo lớn. Bởi vì chúng ta, trước khi trở thành bất cứ một cương vị nào trong xã hội hay trong tôn giáo, đều là người Việt Nam, và trước hết phải có bổn phận đối với sinh mệnh của dân tộc Việt Nam. Tôi vẫn nhớ bài viết của võ sư Việt Võ Đạo Nguyễn Tiến Hóa đọc trong một Thánh Đường: "Con xin mượn lời của Cha Nguyễn Hữu Lễ trong câu: Trước khi làm linh mục, tôi là người Việt Nam trong bài Theo Bước Chân Người Linh Mục của Trần Trung Đạo, để xác tín: tất cả chúng ta đang hiện diện trong ngôi thánh đường nhỏ bé này đều là người Việt Nam. Vì thế, ngoài bổn phận thiêng liêng đối với Thiên Chúa, chúng ta còn một bổn phận thứ hai không kém phần quan trọng: Đó là tình yêu quê hương và tổ quốc Việt Nam". Tôi trích dẫn câu nói của võ sư Nguyễn Tiến Hóa bởi vì cá nhân ông, mặc dù không bị tù đày như Cha Lễ, cũng là một trong những biểu tương của sự chịu đựng và lòng yêu nước. Võ sư Nguyễn Tiến Hóa đến được bến bờ tự do năm 1981 với một giá rất đắt. Ông đã bỏ lại trên biển cả một vợ, hai con, một người em dâu và người cháu ruột, cùng tất cả những người trên tàu, hầu hết là anh em bà con trong dòng họ. Ông đã bị bệnh tâm thần hết gần tám năm sau chuyến hải hành đầy máu và nước mắt đó. Nhưng tinh thần dân tộc, qua môn phái Việt Võ Đạo, đã giúp ông vượt qua cửa chết để trở về với đường sống trong tình người Việt Nam.

                    Trong số những hồi đáp tôi cũng nhận được là một câu hỏi của một nữ sinh viên Việt Nam: "Cám ơn anh đã nhắc lại câu nói của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, trước khi trở thành linh mục ông là người Việt Nam. Thế nhưng tôi thắc mắc là sau khi trở thành linh mục rồi, ông có còn là người Việt Nam nữa hay không?" Tôi trả lời cô, theo tôi, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ chịu đựng gian lao tù tội không phải vì ông là linh mục nhưng là vì cái tội ông đã yêu thương mảnh đất từng nuôi ông lớn, vì cái tội ông kính trọng các truyền thống đạo đức, tôn giáo tốt đẹp mà tổ tiên ông đã để lại, vì cái tội ông đã đeo đuổi cuộc đấu tranh cho một xã hội công bằng bác ái, dân chủ, tự do cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Tóm lại ông bị tù đày vì ông là người Việt Nam yêu nước. Dù sao, câu trả lời cũng chỉ dựa theo hiểu biết giới hạn của tôi về những chịu đựng, gian nan mà Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã trải qua trong nhà tù Cộng Sản. Hôm nay, tôi tin rằng cô nữ sinh kia và quý đồng hương quan tâm ở trong cũng như ngoài nước, đã nhận được câu trả lời rõ ràng hơn và đầy đủ chi tiết hơn về hành trình gian khổ của Cha Nguyễn Hữu Lễ, được tích chứa trong bút ký dài 650 trang, Tôi Phải Sống, của ông.

                    Hồi ký, trong trường hợp này là bút ký, là một thể văn quen thuộc trong văn chương Anh Mỹ. Bước vào một nhà sách Mỹ, hồi ký bao giờ cũng chiếm một số lượng lớn so với nhiều thư mục khác. Các tổng thống, các nhà chính trị, các kinh tế gia, các văn nghệ sĩ nổi danh, các nhân vật từng tạo nên thời thế đều muốn để lại cho đời sau những bài học sống động qua những thiên hồi ký viết về cuộc đời của chính họ. Trong dòng văn học Việt Nam lưu vong, hồi ký cũng đã trở nên thể văn phổ biến bằng một lý do tương tự. Các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự Việt Nam sau mùa bão lửa dài của đất nước, đã có cơ hội nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, có cơ hội ghi lại những biến cố mà họ đã chủ động tham gia hay chứng kiến, để qua đó các thế hệ Việt Nam mai sau có cơ hội học hỏi những kinh nghiệm thành công và cả không thành công của các thế hệ ông cha.

                    Hồi ký rất cần thiết và rất giá trị. Nhưng có lẽ điều khó khăn và cần thiết nhất của một hồi ký là giữ được đặc tính khách quan, không phải chỉ khi mô tả bối cảnh đất nước, khi viết về người khác mà quan trọng hơn khi viết về chính tác giả. Nếu không, các thế hệ Việt Nam tương lai khi vẽ lại hình ảnh đất nước qua những hồi ký của ông cha, họ sẽ phải bâng khuâng và đặt nhiều nghi vấn. Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20, theo họ biết, phải là thời đại của nhiễu nhương, thống khổ, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, chết giữa rừng sâu, chết trong lao tù, chết ngoài biển cả, thì trái lại, trong nhiều hồi ký, các tác giả viết về mình như là những anh hùng, những gương hy sinh cao cả, những nhà lãnh đạo vô cùng tận tụy với nhân dân, những chính khách suốt đời thanh liêm trong sạch. Không ít tác giả viết rất nhiều về những đóng góp của họ vào việc xây dựng đất nước nhưng không nhắc gì đến những đóng góp khác của họ vào việc làm sụp đổ đất nước. Bức tranh Việt Nam, mà các tác giả đó vẽ nên, là một khu vườn toàn kỳ hoa dị thảo rực rỡ sắc màu giữa một bầu trời quê hương đầy sao sáng. Và trong bầu trời đó, không ngôi sao nào chịu thừa nhận mình là ngôi sao xấu. Con cháu chúng ta sẽ hỏi, các ông các bà đã đứng đâu trong cảnh máu xương của dân tộc? Các ông các bà đã làm gì trước những điêu linh thống khổ của Việt Nam trong thế kỷ 20?

                    Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã vượt qua những chướng ngại quá khứ nặng nề đó. Ngay khi cầm bút viết dòng đầu tiên "Kính dâng lên Mẹ Việt Nam", ông đã không có ý định viết để đổ thừa, không có ý định viết để khoe khoang thành tích tù đày, và cũng không có ý định về mình hay viết cho mình. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ viết cho những người Việt Nam còn biết đau nỗi đau của đất nước dù họ đang ở đâu trên trái đất này. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn tặng cho các thế hệ Việt Nam tương lai một cơ hội để nhìn khuôn mặt còm cõi của nhau, để nếm mùi nước mắt cùng mặn đang lăn trên má của nhau. Cuộc đời trầm luân thống khổ của ông từ trước cổng trời cho đến tầng cuối của địa ngục nhân gian, nói cho cùng, không phải là lý do của tác phẩm nhưng đó chỉ là cái cớ cho cuộc hành trình chữ nghĩa của ông mà thôi. Ông đã dùng khổ đau của mình để gióng kêu tiếng kêu trầm thống của dân tộc Việt Nam.

                    Tập bút ký được chia làm 3 phần. Phần thứ nhất với tiểu đề Cuộc Đời và Bóng Đen. Trong phần này tác giả mô tả hình ảnh đầu đời của ông, sinh ra từ một gia đình nông dân và lớn lên trong bóng mát của ngôi nhà thờ Bưng Trường nhỏ nhoi xinh xắn, thuộc vùng quê của tỉnh Vĩnh Long. Thời thơ ấu của tác giả giống như các trẻ em miền Tây, gắn liền với đồng ruộng, với những đàn cá tung tăng trên sông rạch và những đàn chim, đàn chuột trên đồng. Cho đến khi 10 tuổi, lần đầu tiên cậu bé Lễ chứng kiến cảnh cốt nhục tương tàn xảy ra cho chính gia đình cậu khi hai người bà con, một đi lính cho Pháp và một đi kháng chiến chống Pháp đã giết nhau trên bờ ruộng. Thảm cảnh như một cơn bão nhỏ, tuy qua đi, nhưng tâm hồn của cậu bé Lễ cũng từ đó không còn vô tư trong trắng nữa. Cậu miên man suy nghĩ về lý do, về chính nghĩa, về Việt Minh, về thực dân Pháp. Họ là ai, họ từ đâu đến, bao giờ chiến tranh sẽ tàn trên quê hương cậu? Một ước muốn hiến dâng và tinh thần phục vụ con người, cũng từ đó, bắt đầu nhen nhúm trong lòng cậu. Tháng 8 năm 1963, cậu xin phép cha mẹ, từ giã đời sống của một thiếu niên trong gia đình nông dân êm ấm để trở thành một chủng sinh với tâm nguyện trở thành Linh Mục Thiên Chúa Giáo.

                    Khoảng thời gian ba năm, từ khi ông được thụ phong linh mục vào năm 1972 cho đến 1975, linh mục hai mươi bảy tuổi Nguyễn Hữu Lễ đã chứng kiến một thực tế xã hội miền Nam chiến tranh điêu linh với tất cả các phó sản tiêu cực do cuộc chiến tạo ra. Ông đã chứng kiến những bất công xã hội, nạn tham nhũng lộng hành trong các quận huyện hẻo lánh. Ông nhìn thấy cảnh máu Việt Nam đổ trên những cánh đồng lúa Việt Nam. Dù bên này hay bên kia, như ông đã viết trong Tôi Phải Sống, những giọt máu bất hạnh đó "đều có chung một huyết thống đó là Dòng Máu Việt Nam." Trên hành trình phục vụ, ông đã chọn đứng về phía những kẻ bị áp bức, những người dân thấp cổ bé miệng, những con người bị ngược đãi không được ai quan tâm chăm sóc. Ông không được ưa chuộng trong hàng linh mục thời bấy giờ, bởi vì ông thẳng thắng chống lại những kẻ gây nên hay bao che cho những bất công sai trái, dù họ là ai.

                    Biến cố ba mươi tháng Tư năm 1975 đã làm thay đổi khuôn mặt đất nước. Ba mươi tháng Tư như một nhát dao chém xuống cuộc đời đầy hy vọng của tuổi thanh niên. Ba mươi tháng Tư như cơn bão quét ngang qua những ngọn cây xanh vừa mới đâm chồi. Chiến tranh chết chóc đã được thay bằng nghèo đói, ngục tù. Tiếng rú của đạn bom được thay bằng tiếng khua của xiềng xích. Hàng trăm ngàn người bỏ nước ra đi. Biển cả. Rừng sâu. Non mờ. Núi thẳm. Tiếng xích T54 tưởng như đã nghiền nát bao ước vọng đang đâm chồi nẫy lộc trong lòng vị linh mục trẻ. Những gian truân sau cuộc đổi đời tưởng đã xô ông ngả gục. Nhưng không. Nhà thơ Phùng Quán đã vịn thơ mà đứng dậy, còn ông, ông không làm thơ nhưng vẫn có một niềm tin son sắt vào chân lý của tình thương dân tộc. Ông đã vịn niềm tin dân tộc mà đứng dậy. Trong bóng đêm đất nước, ngọn diêm nhỏ của hy vọng trong lòng ông vẫn sáng. Ông tiếp tục chọn đứng về phía dân tộc, đi về phía dân tộc và tìm cách cứu dân tộc khỏi nanh vuốt vô thần. Ông bị bắt trong khi đang chuẩn bị những bước thăm dò đầu tiên trong con đường dài đó.

                    Từ buổi chiều cuối tháng 5 năm 1976 cho đến cuối năm 1988 là thời gian mà tác giả Nguyễn Hữu Lễ gọi là Chiếc Lá Giữa Dòng. Ông đã dành trên 400 trang trong phần 2 của tập bút ký, để kể lại hơn 12 năm trôi nổi giữa dòng đời, từ trại tạm giam đầu tiên ở Ban Mê Thuộc đến An Ninh Nội Chính, Phan Đăng Lưu, Gia Rây, Nam Hà, Cổng Trời, Thanh Cẩm.

                    Nếu độc giả nào nói với tôi rằng vị đó có thể đọc một mạch toàn bộ tác phẩm dày 650 trang của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ như đọc một truyện dài đầy ly kỳ gay cấn, tôi sẽ không tin. Mặc dù rất dể bị cuốn hút vào câu chuyện hồi hộp và đầy bi tráng của ông, tôi đã nhiều lần phải dừng lại, để sách xuống và bước ra vườn. Tôi cần được thở, cần một chút gió và cần lấy lại bình tĩnh trước khi cùng đi với tác giả cho đến bước cuối cùng trong hành trình gian khổ của ông. Trước mắt tôi, hình ảnh của Linh mục Vũ Đức Khâm đang dọn mình rửa tội trong những lời kinh đọc vội vàng của Cha Lễ. Trước mắt tôi hình ảnh một tù nhân Nguyễn Hữu Lễ ốm yếu trong manh áo rách tả tơi, nằm co ro trong ngục đá của trại Cổng Trời, giữa cái rét căm căm của mùa đông Việt Bắc. Trước mắt tôi thân hình đẫm máu của cố Dân Biểu Đặng Văn Tiếp và tiếng kêu đau xót của ông gởi về miền Nam xa xôi cho người mẹ già đang chờ đợi ông "Chắc con chết mất mẹ ơi" trước khi tắt thở dưới bàn tay độc ác của Bùi Đình Thi. Và bao nhiêu câu chuyện khác, chi tiết khác đã làm trái tim tôi nặng hơn, làm lòng tôi chùng xuống.

                    Tôi rất thường ca ngợi từ bi, bác ái và kêu gọi lòng nhân bản, bao dung trong những bài thơ, bài viết, bài nói chuyện của mình. Nhưng khi đọc tác phẩm Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ tôi cảm thấy nghi ngờ sự thành thật và giá trị đạo đức trong lời kêu gọi của chính mình. Tôi chưa bước vào tù. Tôi chưa hề cầm súng. Tôi chưa ai hề bị ai đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, bỏ đói, rẻ khinh. Việc nhân danh những điều tốt đẹp nhất trên đời, vì thế, đối với tôi là một việc dể dàng. Nhưng liệu tôi có thể tiếp tục ca ngợi từ bi, bác ái sau khi bị biệt giam suốt ba năm trong phòng kỹ luật ở trại tù độc ác nhất thế gian như trại tù Cộng Sản hay không? Liệu tôi còn có thể tiếp tục kêu gọi bao dung tha thứ sau khi bị đánh chết đi sống lại suốt ngày đêm hay không? Tôi không dám hứa. Nhưng Cha Lễ đã chịu đựng được, đã đứng lên được, không chỉ đứng lên như một linh mục, không chỉ đứng lên như một người Việt Nam, nhưng còn là một Linh Mục trung thành với lý tưởng cao cả của mình và như một người Việt Nam có con tim đầy ắp lòng nhân bản, vẫn ôm chặt vào lòng mảnh quê hương khốn khổ của ông.

                    Thưa quý vị. Trong tác phẩm Anna Karenina, văn hào Nga Leon Tolstoy đã viết: "Những kẻ có hạnh phúc thường giống nhau, nhưng đau khổ thì mồi người mỗi khác." Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cũng đã từng viết: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay." Tại sao lại "mỗi người mỗi khác" ? Tại sao lại "ai có qua cầu mới hay"? Bởi vì, một lý do, niềm vui khi có một căn nhà đẹp, một người vợ hiền, một người chồng gương mẫu, một công việc tốt, một gia đình êm ấm bao giờ cũng dể dàng được thấy, được chia xẻ, được biểu lộ ra ngoài. Thế nhưng sự khổ đau thì khác. Đặc tính lớn của khổ đau là chịu đựng, riêng tư và câm nín. Khổ đau chỉ thức dậy khi mọi người đã ngủ yên. Khổ đau nhức nhối nhiều hơn trong những đêm vắng lặng. Khổ đau là những lời rên không để lại một âm vang, là những tiếng khóc không làm rơi nước mắt. Một lý do khác, quan trọng hơn, không giống như một vết đau trên xác thịt, mức độ thuyên giảm theo thời gian của một vết thương tâm linh thường tùy thuộc vào sự chịu đựng, khả năng để vượt thoát, hoài bảo để hướng đến những mục đích cao đẹp hơn, của kẻ bị thương. Saddam Hussein có một thời thơ ấu gian nan, bị người thân ruồng bỏ và lớn lên chỉ để trả thù đời, để trở thành một nhà độc tài hung bạo, giết người bằng hơi ngạt, bằng tra tấn dã man. Nelson Mandela chịu đựng gần 30 năm dài trong lao tù khốn khổ trên một hoang đảo xa xôi, nhưng vẫn giữ được tấm lòng nhân hậu, biết đến khi cần phải đến và biết đi khi cần phải ra đi, biết chọn cho mình cách sống khiêm cung, giản dị ngay cả khi trở thành Tổng Thống. Cái đẹp của một viên kim cương không phải chỉ nhờ vào sự trong sáng, rực rỡ bên ngoài nhưng còn tích chứa trong đó bao gian lao vất vả, mồ hôi nước mắt của những người thợ mỏ.

                    Nhà thơ Tô Thùy Yên đã viết trong bài thơ tổng kết một chặng đường tù đày đầy bi tráng của ông:

                    Ta về cúi mái đầu sương điểm
                    Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
                    Cảm ơn hoa đã vì ta nở
                    Thế giới vui từ nỗi lẻ loi


                    Sau mười năm tù tội, nhà thơ trở về. Hành trang của nhà thơ không phải là hận thù mang nặng trĩu trên vai nhưng là một lượng từ tâm bát ngát. Cám ơn cuộc đời, cám ơn cỏ cây, sông núi. Nhà thơ vẫn tìm được niềm an ủi ngay giữa lúc cô đơn tẻ lạnh nhất của một kiếp con người.

                    Suốt 650 trang trong tác phẩm của một linh mục Công Giáo Việt Nam, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, cũng để mô tả một điều tương tự, rằng, từ trong tầng cuối cùng của địa ngục trần gian đen tối, ông đã tìm thấy một viên kim cương tình thương, bao dung, nhân bản mà dân tộc Việt Nam đang cần có. Từ vết thương đã mọc lên những bông hoa tuyệt mỹ của lòng bác ái và tâm hồn hướng thiện. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ bước ra khỏi trại tù không phải như một kẻ được tha nhưng là một người chiến thắng. Đất nước đang lầm than nhưng đất nước vẫn còn đó và tấm thân của tác giả tuy trầy trụa, đau thương nhưng hơi thở chưa tắt và niềm tin chưa chết. Ông vẫn hãnh diện nói lớn rằng:

                    Lưng ta đời chém hàng trăm nhát
                    Còn đây nguyên vẹn một con tim


                    Để kết thúc tác phẩm, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ viết: "Những năm tù cũng cho tôi có dịp chia xẻ và sống với nỗi đau thương chung của Dân Tộc, mà nếu không trải qua kinh nghiệm đó, có lẽ tôi không biết hoặc biết rất hời hợt về số phận đau thương của đồng bào Việt Nam. Qua đó, tôi thương và gắn bó với dân tộc tôi nhiều hơn." Đúng vậy, tôi rất đồng ý với Cha. Mẫu số chung tinh thần dân tộc vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Cái chung tinh thần đó, có thể đang sôi sục trong lòng Cha hay tạm ngủ quên trong lòng tôi, lòng anh chị nhưng chắc chắn đã và đang hiện hữu trong mỗi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước. Nếu chúng ta biết đánh thức cái chung tinh thần đó dậy, sống trọn vẹn với cái chung đó, tôi tin rằng đại gia đình dân tộc Việt Nam sẽ sớm một ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp ước Geneve hay hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của các đế quốc đã diễn ra dưới nhiều hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong hơn một thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như hiện nay.

                    Buổi sáng hôm nay, khi ngồi viết phần kết luận cho bài viết về tác phẩm Tôi Phải Sống của Cha Nguyễn Hữu Lễ, tôi chợt nhớ ra, tôi đang sống trong một ngày quan trọng của lịch sử Việt Nam. Hôm nay là ngày 1 tháng 11. Tôi tự nhủ, giờ này, những ngôi chùa Phật Giáo chắc đang có lễ cầu siêu cho hương linh các thánh tử đạo đã dâng hiến nhục thể để tranh đấu cho quyền bình đẳng tôn giáo trong mùa Pháp Nạn 1963. Giờ này, trong nhiều thánh đường Việt Nam chắc cũng có lễ cầu nguyện cho anh linh cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các bào đệ của ông. Và giờ này, những mái tóc bạc Việt Nam của thế hệ 1963, nếu còn sống, đang ngồi ôn lại câu chuyện buồn lịch sử trong căn nhà riêng ở California, Paris, Berlin hay trên khung gát hẹp Việt Nam nào đó. Bốn mươi năm đã trôi qua. Tôi tự hỏi trong số những người đang nhìn lui, nhìn lại 40 năm trước, liệu có ai đang nhìn vào 40 năm sắp tới hay không. Quá khứ quan trọng nhưng không ai có thể sống bằng quá khứ. Trong lòng tôi chợt dấy lên một ước mơ. Tôi mơ một ngày không xa, tiếng chuông chùa ngân vang trong buổi sáng ngày 1 tháng 11 mỗi năm, không phải chỉ để cầu nguyện cho anh linh của Bồ Tát Quảng Đức, nữ sinh Quách Thị Trang, sinh viên Nhất Chi Mai, v.v. mà thôi, nhưng còn cầu nguyện cho anh linh của cố Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa và các bào đệ của ông được yên nghĩ trong cõi vĩnh hằng. Và tương tự, hòa nhịp trong tiếng chuông nhà thờ đang đổ chậm, không chỉ là lời cầu nguyện cho cố tổng thống Ngô Đình Diệm và hai bào đệ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn mà còn cho những người Phật Tử, những người Việt Nam không phải là Công Giáo, đã chết trong mùa bão lửa 1963. Trong chúng ta, có thể có người còn e ngại để nói lên điều đó, nhưng trong đáy lòng, tôi tin, đều ấp ủ một giấc mơ chung tuyệt vời như thế. Bởi vì, cuối cùng, máu là máu Việt Nam, nước mắt là nước mắt Việt Nam và tương lai là tương lai của dân tộc Việt Nam, đúng như Cha Nguyễn Hữu Lễ đã kết luận trong tác phẩm của ông: "Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc". Trong cùng tâm thức đó, tôi xin được trân trọng giới thiệu đến quý vị và độc giả bốn phương tập bút ký Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ.

                    Trần Trung Đạo

                    http://dactrung.net/truyen/noidung.aspx?BaiID=N%2fciY8OnCEInKS6mRPQGNA%3d%3d
                    #25
                      sóng trăng 04.03.2007 13:29:13 (permalink)
                      .
                       
                      THỜI ĐIỂM LINH MỤC NGUYỄN HỮU LỄ: TÔI PHẢI SỐNG.

                      Lm. Trần Cao Tường



                      Mùa thu đến, lá mùa thu úa vàng rơi lả tả trong gió lạnh. Lá nào mất, lá nào còn? Mỗi chiếc lá thu rơi như một công án phá vỡ "breakthrough" cái màn vô minh, phá vỡ cái vô thường, nổ tung cái hữu hạn của một kiếp người, nổ tung cái thành trì tưởng rằng đỉnh cao với những so đo thắng thua hơn thiệt, miếng to miếng bé, để mở ra một khoảng trống mênh mang, để mở ra một nhãn quan mới trong một tầm nhìn mới. Mỗi chiếc lá thu rơi gợi lên những bâng khuâng, những trăn trở, những bồng bềnh xa vắng...

                      Bao nhiêu người đã nằm xuống, mà tôi vẫn còn sống. Có liên hệ gì đến tôi không? Tôi phải sống? Bạn phải sống? Sống mà làm gì? Sao chúng ta lại vẫn hiện hữu trên mặt đất này? Phải có một mục đích và một lý do nào chứ?!

                      Sống trên đời nhiều chuyện ghê gớm quá,
                      Vậy mà ta sống có kỳ không?
                      (thơ Tô Thùy Yên)


                      TỪ ĐÁY CÙNG ĐỊA NGỤC ĐEN KHỦNG KHIẾP

                      Đấy, tôi phải vòng vo một chút vậy để diễn tả cái xúc động không sao diễn tả được của tôi khi gặp lại linh mục Nguyễn Hữu Lễ bằng xương bằng thịt người (chứ không phải hình ảnh một con thú vật đang bị hành hạ vẫn lởn vởn trong đầu), và dự buổi ra mắt sách "Tôi Phải Sống.".

                      Cách đây cả mười năm gì đó, trên chuyến máy bay từ California về New Orleans, tôi đã đọc một loạt bài viết "Một Vấn Đề của Lương Tâm" (tức chương 7, chương 8 và chương 9 trong sách "Tôi Phải Sống" bây giờ). Từ đó tôi cứ bị ám ảnh hoài, như một tiếng nghẹn trong đời không sao phát ra được lời, về hình ảnh một linh mục bị một bộ máy theo đúng bài bản cố ý biến con người thành khốn nạn hơn những con vật trần truồng trong cõi đen kịt đáy cùng địa ngục khủng khiếp nhất của một kiếp người. Cái bộ máy huấn luyện này khủng khiếp đến nỗi có thể biến cả một con chiên hiền thành một con sói dữ, khi dùng cái bao tửđể chôn sống tinh thần, tạo ra được một cõi ác để tước đoạt lẽ sống khi "tước đoạt quyền hy vọng là lý do sống của con người." (trang 596).

                      "Khi con người sống chen chúc nhau trong cảnh khốn cùng, đói khát và tuyệt vọng trong thời gian dài hơn chục năm trời, đã cho tôi rút được bài học sau đây: "Lòng nhân đạo của con người có giới hạn, nhưng sự ác độc của loài người thì vô tận, nhất là khi sự ác độc đó được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu xa." (trang 597) Cuốn sách dày 650 trang với cái hình bìa rất gợi cảm nói lên tất cả nội dung bên trong. Cái màu đen kịt thật rùng rợn. Màu đen của chết chóc. Màu đen của hận thù. Màu đen của tuyệt vọng, của đường hầm tối không một kẽ sáng, không một lối thoát. Màu đen khủng khiếp này đang muốn nuốt chửng cả mấy cái bông hoa hướng dương có vẻ đang rũ héo cố hút lấy một vài giọt nước cuối cùng để sống còn giữa một vũng máu đỏ.

                      Tôi mở cuốn sách với cái cảm giác màu đen ghê rợn này. Rùng mình. Nổi da gà. Bị hút thật mạnh, tôi đọc một hơi từ trang đầu đến trang cuối cùng, không bỏ sót một hàng. Rôì lại đọc lại, chầm chậm, giữa hai hàng chữ. Tôi ít khi đọc một cuốn sách nào kiểu như thế. Thử tập đặt mình một phần nào vào chính cái rung cảm của người viết qua những "chặng đường thương khó" của đất nước mình từ những ngày hống hách của những người Tây trắng và cái vòng đai những tai to mặt lớn trâng tráo bất công đè nén người dân quê thấp cổ bé miệng, đến những cái xác bị mổ bụng trôi sông mà trẻ con miền thơ ấu gọi là "thằng chổng." Tôi chảy nước mắt.

                      Tôi biết nhiều người đọc "Tôi Phải Sống" đã khóc. Không phải chỉ thương người viết, thương bao người bị tù đầy trong tuyệt vọng, mà thương cả cái dân tộc khổ đau quằn quại của mình. đầy máu. đầy nước mắt. Người mình bị các thế lực xâu xé hành hạ, rồi các "ông thần nhiều râu" đến từ phương tây lại dạy cho người mình biết đỉnh cao mà hành hạ nhau, chú Sáu giết dượng Tư anh em trong nhà, móc mắt nhau, mổ bụng nhau, chặt đầu nhau, chôn sống nhau, làm tế vật tế "thần nhiều râu." Râu đỏ hay râu xanh. Bị đẩy vào những hệ thống, như những móc xích, cứ thế mà chạy, không sao ra khỏi, không cần dùng đầu nữa, chất nhân tính biến mất dần, lòng nhân ái và cái tâm lương thiện bị thui chột dần!

                      Chả lẽ dân tộc mình đã đến thời mạt vận hết đường ngóc đầu lên được?! Chả lẽ dân tộc mình cứ mãi phải nuốt nhục cúi đầu trước cộng đồng nhân loại đang tiến quá xa về mọi phương diện?! Nghe những vụ buôn con gái Việt Nam sang Tàu mà đau. Con mình đấy chứ, cháu mình cả đấy chứ!!!

                      "Cuối cùng rồi trên quê huơng ta đã im tiếng súng, nhưng trong lòng dân tộc Việt nam cuộc chiến vẫn chưa tàn. Mộtđiều trớ trêu là mặc dù đã im tiếng súng nhưng cuộc chiến đó không có kẻ thắng mà chỉ có những người thua. Những người thua cuộc chính là toàn thể dân tộc Việt nam.” (trang 605)

                      ĐẾN THỊ KIẾN PHỤC SINH

                      Từ lâu tôi vẫn nghĩ, thế nào rồi từ những đầy đọa cùng tột, từ những xâu xé tương tàn phi lý ghi đậm một vết nhơ nhất của lịch sử dân tộc mình, cũng sẽ nẩy sinh ra những tác phẩm lớn, có sức bật sáng và đánh thức, mở cửa thay chuyển cả một hướng đi, và hồi sinh như bông hoa hướng dương mọc lên từ nấm mồ thối tha và đen kịt. Cuộc tái lập quốc cuả dân Do Thái vào năm 1948 đã chỉ thành hình từ một cuốn sách mỏng cuả Herzl: Quốc Gia Do Thái. Cuốn sách này manh nha từ cuối thế kỷ 19 tại Âu châu, đã là linh hồn cho phong trào Sion phục hưng đất nước.

                      Nhưng cái tinh thần này lại bắt nguồn tự Bộ Kinh Dân Tộc của họ, mà bây giờ đã là một phần của Cựu Ước trong Bộ Kinh Thánh của đạo Chúa. Điển hình là Thị Kiến Phục Sinh của tiên tri Ezekiel trong cảnh lưu đày thảm khốc vào thế kỷ thứ 6 trước công nguyên.

                      Không ai có thể tin nổi trạng huống của dân Do Thái lưu đầy bi thảm và tuyệt vọng như một đống xương khô nằm rải rác khắp cánh đồng như kiểu "Killing Fields” mà lại có một chút hy vọng nào được!
                      Thế mà tiên tri Ezekiel và đám môn đệ của ông đã dám tin vào một cuộc phục sinh Do Thái. Sở dĩ ông có niềm tin ấy là vì dưới con mắt ông, đấng Toàn Năng vẫnđang dẫn đầu cuộc hành trình của dân tộc ông, mặc dầu đang đi qua đêm đen hãi hùng, đang mò mẫm qua vùng mồ mả đầy xác chết và xương trắng ngổn ngang.

                      Lịch sử của dân tộc Do Thái phải có một ý nghĩa, mặc dù dưới con mắt của nhiều người là phi lý chán chường. Cái hướng lịch sử này đang được mở tới theo một con đường huyền bí, nói theo kiểu người mình là do Ông Trời xếp đặt, đúng thời, đúng điểm. Ta về ta dựng mây lên Trời xe mây lại một bên hòn Lèn.

                      Đã đến thời điểm chiếc xe lịch sử chuyển bánh thì không một sức mạnh nào cản ngăn được nữa. Ezekiel đã thành công trong việc khắc sâu niềm tin này vào tâm khảm những kẻ lưu đầy khi họ phải đương đầu với một tương lai mịt mù đen tối của dân tộc họ:

                      Tay quyền phép Đức Giavê chạm đến,
                      Thần Khí Người chợt giáng xuống mênh mông,
                      Ngài đem tôi đặt chính giữa cánh đồng,
                      Ôi ghê rợn đầy xương khô rải rác.
                      Ngài hỏi tôi ”Xương có nhập với xác?”
                      Tôi trả lời ”Ngài biết rất tỏ tường”.
                      Rồi bảo tôi ”truyền sấm chỉ trên xương,
                      Ta cho chúng Thần Linh và sức sống.
                      Ta cho gân là sinh lực chuyển động, Ta cho thịt mọc lấp kín xương người,
                      Ta căng da và khí lực bởi trời,
                      Cho dương sức chúng trở về cõi thế.
                      để chúng biết một mình Ta Chúa Tể”
                      Vâng lời Ngài tôi tuyên sấm trên xương,
                      Sấm truyền xong, kìa huyên náo lạ thường,
                      Các bộ xương đã từ từ ráp nối,
                      Cả thịt da mọc đùn lên tựa thổi,
                      Nhưng vẫn là những đống xác vô tri.
                      Ngài lại bảo ”Truyền sấm đến tử thi,
                      Để Thần Khí Ta nhập vào xác ấy”.
                      Dứt lời truyền, cả đoàn người đứng dậy
                      Đông đảo thay người người sát vai chen.
                      Ngài bảo ” đó toàn thể Israel,
                      Ta cho chúng phục sinh từ cõi chết.”
                      Chúng nhủ thầm "Xương héo khô gần hết,
                      Hy vọng gì sắp mục nát tiêu ma.”
                      Ngài bảo chúng "Ta mở mộ ngươi ra,
                      Cứu ngươi sống làm dân Ta tuyển chọn,
                      Đưa ngươi đến đất lành Ta đã chọn,
                      Nơi sữa mật triền miên chảy không ngơi,
                      Cho Thần Lực nguyên khí sống muôn đời,
                      Ta thi hành lời sấm truyền đã hứa.
                      (Ezekiel 37:1-14; Hoàng Vũ chuyển thành thơ)


                      Quả thực, người Do Thái đã dựng lại quê hương của họ từ một niềm tin, từ một Bộ Kinh Tin làm nên Bộ Kinh Dân Tộc của họ. Và người diễn lên viễn tượng cho một cuộc dựng lại quê hương chính là Ezekiel.

                      HOA ƠI TÊN GÌ CÓ PHẢI HOA HƯỚNG DƯƠNG?

                      Cách đây mấy năm, nhạc sĩ Phạm Duy trong "Ngụ Ngôn Mùa Xuân" đã thấy một viễn kiến một người đội khăn tang đi chôn xác. Cả triệu xác chết không phải là phi lý, nhưng đang thành hoa màu cho muà xuân mới của dân tộc. Người đội khăn tang cũng đang chôn luôn các chủ nghĩa giết người, chôn "cả tội hèn của chúng ta." Tiếng hát Thái Hiền rất truyền cảm đang vang lên êm ả như một lời vỗ về ru con, ru những trẻ em bất hạnh trên khắp nẻo đường quê hương.

                      Người đi trong mùa đông đội khăn tang
                      mang tình thương theo người phu đi vùi lấp mộ phần...
                      Chôn mộ xong nghe mùa xuân đang rộn rã tới gần.
                      Mai đây nấm mồ một nụ vàng sẽ hé
                      Hoa ơi tên gì có phải hoa hướng dương?
                      Hoa ơi tên gì hoa tình yêu đó em...


                      Phải đọc tới Cuối Chuyện, người ta mới thấy được khá rõ điều tác giả muốn nói trong suốt những bước ngoặt ngoèo tại sao "Tôi Phải Sống."

                      Toàn tập Bút Ký rất giá trị này không chỉ nhằm nói lên cõi ác tối đen thăm thẳm trong những năm tù đầy của mình và của biết bao người như nhiều người đã nói, mặc dù rất khủng khiếp, nhưng chính là để cho thấy sự vượt thắng của cái Thiện, của Nhân Ái, của Thứ Tha, của Tình Thương của Đấng vẫn dẫn đầu hướng đi lịch sử đời mình và của cả dân tộc. Chính chất Nhân Ái này mới có đủ nhựa sống làm hồi sinh những bông hoa hướng dương kia, mà mới là chất keo gắn liền tình dân tộc, mở ra viễn kiến chung cho dân tộc. Chính bông Hoa Tình Yêu luôn hướng về Mặt Trời mới có thể còn chất sống mà vươn lên.

                      "Trước tiên, về phương diện tôn giáo, trong cảnh khốn cùng đó, tôi nhận thấy vai trò của một linh mục thật vô cùng cần thiết để mang lại tình thương và niềm hy vọng trong khung cảnh mà hai thứ giá trị này rất hiếm, nếu không muốn nói là không có. Chính tình yêu và niềm hy vọng của chân lý Phúc Âm đã cho tôi điểm tựa và tôi chia sẻ hồng ân này với các bạn tù mà tôi có dịp sống chung. Tôi nghĩ rằng, trong môi trường tù ngục đọa đầy d-ó, tôi đã sống sứ mệnh linh mục có nhiều kết quả hơn sáu năm trước ngày tôi vào tù... Hơn nữa, qua biến cố xảy ra tưởng như vô tình, nhưng sau này, tôi nhận ra đó chính là sự quan phòng của Thiên Chúa, và tôi luôn nghĩ rằng, trong hết mọi hoàn cảnh, luôn có bàn tay Thiên Chúa che chở cuộc đời tôi." (trang 595)

                      "Không bao giờ oán trách con người, không bao giờ thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người, nhưng phải bằng mọi cách loại bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù giữa người với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được phát triển phần Lương Thiện của mình.” " Không một chế độ nào dùng họng súng và nhà tù để cai trị mà vững bền được, chỉ có lòng nhân mới cảm hóa con người."

                      Như thế " Tôi Phải Sống" không phải là một tập bút ký mang màu sắc chính trị nào cả, mà là một lời chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Thương thắng được bạo tàn, mở ra một viễn kiến về một bình minh dân tộc, vượt lên trên được mọi xung khắc để góp phần khai triển bộ Kinh Tin dân tộc.

                      "KHI CON NGƯỜI TÌM RA LẼ SỐNG."
                      (Man's Search For Meaning)

                      Từ trong trại "tập trung sát tế" thời Đức Quốc Xã, Viktor Frankl đã tìm ra lẽ sống còn và giúp nhiều bạn tù Do Thái đứng vững giữa những đấy đọa tột cùng.

                      Frankl bị mất hết người thân trong gia đình, thân xác bị lột trần, nhân phẩm bị tước đoạt, mà vẫn còn là mình, mà vẫn cứ là mình. Và ông đã để lại cho nhân loại một cuốn sách mỏng nhưng mang giá trị siêu việt về tâm lý, tâm linh và giáo khoa. Đó là cuốn " Khi Con Người Tìm Ra Lẽ Sống," (Man's Search For Meaning) với khám phá về Logotherapy.

                      Khám phá đó là: Con người khác con vật ở chổ biết tự thức về bản ngã của mình, mang tự do căn bản để chọn lựa thái độ sống mình vẫn cứ là mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi mọi thứ quyền khác bị tước đoạt thì mình vẫn còn cái quyền căn bản đó. Và khi con người đã tìm ra lý do để sống, thì không một quyền lực nào hay hoàn cảnh nghiệt ngã nào lay chuyển nổi. Sở dĩ có những người phải tự tử vì thấy đời buồn chán, phi lý và tẻ lạnh. Hãy bắt đầu làm một cái gì cho mình và giúp người khác được thì tìm ra được lẽ sống. Stephen Covey đã áp dụng thành công vào trong chương trình "The Seven Habits of Highly Effective People" rất nổi tiếng ngày nay.

                      So sánh như vậy ta mới thấy "Tôi Phải Sống" quả là một tác phẩm lớn và giá trị về văn chương cũng như đường hướng. Chuyện kể của Viktor Frankl rất khô khan và đầy tính lý luận. Đang khi "Tôi Phải Sống" lại rất sống động hào hứng đọc mà không rời ra nổi.

                      Những chuyện "Ngày xưa còn bé" kể lại lần đầu được đi Sài gòn thì tuyệt quá. Tôi có cảm tưởng chuyện "Tô Phở Đầu Đời" hay hơn Phở Tráng trong Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng xa. Hạnh phúc dân mình giản đơn vậy đó mà người ta lại đưa cho bánh vẽ cùng với những trái bom. Nhiều người đọc "Tôi Phải Sống" với một cung cách hơi lạ đời: cứ xụt xùi thương cảm khóc một hồi rồi lại phá ra cười. Cái cười thật tinh vi hóm hỉnh lẫn xả láng. Cười xong rồi lại khóc! Khổ sở vậy đấy mà cứ phải đọc! Trong "Tôi Phải Sống," nhiều lần những tù nhân khốn khổ đã dùng những cái cười để gọi là ngạo nghễ "cười vào mặt nhân gian." Cười để thấy rằng những người đang hành hạ mình thực ra chẳng có quyền gì trên mình cả. Như chuyện Lm. Phạm Quý Hòa "bị ngựa đá," chuyện Lm. Trần Văn Nghị vì quá thương tình cho anh em một cái khăn tay mà bị đánh nhừ tử rồi bị cùm bảy ngày đêm. Thế mà vẫn nhe răng cười hề hề...

                      Một khi đã thấy được lẽ để sống, thấy được một sứ mạng để đi tới thì không gì chế ngự được nữa. Đó là trường hợp khi 28 anh em linh mục được thả về mà tác giả phải ở lại một mình. Cái cảm giác bị bỏ rơi cô đơn tuyệt vọng quá xót xa thân phận mình.

                      Nhưng "qua sáng ngày, tôi cảm thấy mình đã trở nên một con người khác," khi nhận ra tiếng Chúa: "Cha muốn con tiếp tục ở lại đây với những tù nhân khốn khổ còn lại, để con yêu thương, an ủi, giúp đỡ và chia xẻ đời con với họ..." (trang 552)

                      TÌM RA LẼ SỐNG TRONG MỘT NHÀ TÙ MỚI

                      Hồi còn làm học trò từ nhà quê lên "du học" tại Sài gòn, mỗi lần từ giã Bố tôi thường dặn: " Ra đường có ai hạ nhục con, con đừng nổi giận đánh lại hoặc nguyền rủa họ. Hãy dành sức mà làm một cái gì cho con có thể ngẩng đầu lên. Hãy dành sức mà làm một cái gì ý nghĩa hơn cho đời."

                      Bây giờ bước vào trường đời tôi vẫn còn phải học nhiều lắm. Và đọc "Tôi Phải Sống," tôi càng thấm thía câu Bố dặn cũng như câu Mẹ ru văng vẳng trong tâm:

                      Ầu ơ, Ví dầu cầu ván đóng đinh,
                      Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.
                      Khó đi mẹ dắt con đi.
                      Con đi trường học mẹ đi trường đời.


                      Trong những ngày cuối tại trại tù Nam Hà ngoài Bắc, có người báo tin sắp có tên trong danh sách được tha, cậu Đức Mẫm ngày xưa hay Cậu Bảy Nguyễn Hữu Lễ ngày nay đã tỏ ra chẳng mấy hào hứng. "Vì nếu có về đi nữa thì cũng là chuyển từ một nhà tù nhỏ sang một nhà tù lớn. Khi bước chân ra khỏi đây để trở về xã hội bên ngoài chắc gì tôi đã yên thân. Trong khi đó, tôi đã tìm được ý nghĩa đích hực của cuộc đời phục vụ trong nếp sống ở đây." (trang 582)

                      Không phải là vô tình mà tác giả đã mở đầu bằng chuyện khi ra khỏi nhà tù nhỏ. Vào tòa giám mục Hà nội thì gặp ngay thầy Trác rồi thầy Trạc. Hai người này giống nhau quá không sao phân biệt được, anh em sinh đôi mà. Chưa chi mà đã lẫn ông này với ông kia. Đêm hôm đó, đêm đầu tiên ra khỏi tù mà lại trằn trọc không sao ngủ được. Thế là một cuốn phim từ tuổi thơ cho đến lúc này quay chậm lại trước mắt. Bố cục và diễn tiến cuốn sách như thế thật tuyệt. Đời người như một giấc mơ qua đêm. Buồn đau vật vã rồi cũng qua đi như thế. Nhưng có cái gì đó vẫn còn lại. Sáng hôm sau, lại cũng một trong hai thầy lên gõ cửa mời xuống ăn sáng. Tập Bút Ký đã kết xem ra rất đột ngột, như có người gõ cửa gọi dẫn mình đi vào một nhà tù lớn. Và đây là câu cuối cùng thật dí dỏm:

                      "Tôi không kịp nhìn đồng hồ trên tường, vội đáp lại: "Chào thầy..." và lí nhí thêm câu gì tôi không nhớ, nhưng còn nhớ là lúc bước vội vào nhà tắm tôi tự hỏi: "Ông này là Trác hay Trạc đây hả trời?!" (trang 610)

                      Thì ra chúng ta tất cả cũng đang ở trong một loại nhà tù mới, tinh vi hơn và, biết đâu, còn cằn cỗi đen kịt khủng khiếp hơn. Hoa chưa chắc đã mọc lên nổi. Vì bị tước đi nhiều chất người. Bên kia hay bên này. Ở cái thời còn kháng chiến, Doãn Quốc Sỹ trong "Ba Sinh Hương Lửa" đã chợt nhận ra: " Bên kia không óc, bên này không tim." Duy vật hay duy con vật thì cũng vậy. Sau một cuộc chiến không có kẻ thắng mà chỉ có người thua là cả dân tộc, chúng ta lại trở thành những nạn nhân của một vòng hệ lụy nghiệt ngã hận thù vay trả trả vay không có lối thoát và không có đáp số. Vết thương tâm lý này lại đẩy xa hơn tới hiện tượng "giận chó đá mèo, giận cá băm thớt." Người bị thương phải giẫy giụa làm người khác bị thương theo. Và cứ thế lây lan, trong gia đình, trong cộng đồng. Kẻ thù luôn ẩn mặt. Hiện tượng phân hóa nơi các cộng đồng cũng do đó. Chẳng ai nói ai nghe vì thiếu viễn kiến chung. Vậy là mình lại quằn quại một lần nữa bởi chính những vết bầm mưng mủ mà mình không d-ủ can d-ảm buông xả nổi, thành những đợt sóng ngầm "càng kéo dài nó càng tích lũy sức tàn phá tinh thần dân tộc." (trang 602)

                      Biết đâu mình cũng đang bị quẳng vào một vòng xích mới, trở thành một tên tù mới có mặc quần jean và áo Polo hẳn hòi, nhưng chất nhạy cảm nhân ái có thể đã bị tê liệt mất đi kháng thể, lương tri có thể đã bị gậm nhấm, khi tôi không còn cảm thấy đau cái đau tột cùng của anh em tôi, tim và óc đã bị cả một hệ thống "trật tự mới" móc đi, mà tiếng thời mới gọi là sức ép xã hội (society pressure). Có những lúc tôi chả cảm thấy liên đới trách nhiệm gì với những người đã bị hành hạ, hay ngay cả với những người mê muội một thời đã đang tâm hành hạ anh em mình, với những người d-ã nằm xuống bỏ xác nơi góc rừng u tối hay trong lòng biển cả mênh mông... Chả lẽ họ chết một cách lãng xẹc như vậy hay sao?! Và đây là lúc tôi cảm thấy thật sâu xa thế nào là cần thiết của một cuộc "Sám Hối Tập Thể"

                      HỒN DÂN TỘC ĐÂU RỒI?

                      Một thế hệ đã nằm xuống đã trở thành hoa màu cho một thế khác phải mọc lên. Làm một cái gì cho người mình ngóc đầu lên đi chứ! Khi còn sống, triết gia Kim Định hay nói vậy. "Tôi Phải Sống," cũng đặt ra câu hỏi: "Đứng trước tình cảnh của dân tộc Việt nam như thế, bạn phải làm gì, và làm như thế nào?"

                      Câu hỏi đặt ra cho người khác mà cũng là đặt ra cho chính mình. "Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử và than van oán trách, nhưng hãy dùng lịch sử như một bài học để có thể tránh tái diễn tảm cảnh cho dân tộc... Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc.” Giữa cảnh đen kịt tù mù của cả một bài toán không đáp số, dân tộc mình còn gặp được túc duyên mà cùng thấy được một viễn kiến chung, một con đường đi tới, thì có phúc biết chừng nào. Và điều này người mình vẫn gọi là cái Đức, cái HỒN DÂN TỘC, là kết tinh của biết bao xương máu, tim óc trăn trở và tinh thần khảng khái quyết giữ cho được chất người, chất nhân ái của dòng tộc mình, dù phải lấy cả mạng sống mình mà đối đầu với những đầy đọa có bài bản đẩy con người đến bên vực cầm thú. điều này ta thấy được rất rõ trong lời khẳng định: " Khi nguồn sức mạnh của ý chí quật cường và lương tri tổng hợp của dân tộc được khơi dậy sẽ không có một thế lực chính trị nào dù bạo ngược tới đâu có thể cưỡng lại được." (trang 602)

                      Tôi xúc động và hãnh diện biết bao vì thấy dòng máu nòi giống mình có quá nhiều người đã góp phần trồng cây đức đó, những người đã bị bầm dập đầy đọa, nhưng vẫn cứ nhất định ngẩng đầu lên lấy mạng sống mình làm mố cầu bác cho thế hệ sau bước tới. Nhìn như vậy, chúng ta mới cảm thấy mình mắc nợ nhiều quá. Món nợ nào rồi cũng đến lúc phải trả. Người ra đi cũng như người người ở lại. Và cũng chính vì thế mà nhiều người đang nhìn thấy "Tôi Phải Sống" quả là một tác phẩm lớn, mang tính lương tri nhân bản lấy lại phẩm giá cho chủng loại người, và góp phần thổi sinh khí cho một Việt Nam phục sinh trong một viễn kiến chung. Với sức hút nổi bật như thế, chẳng ai lạ gì, "Tôi Phải Sống" đã trở thành một hiện tượng lạ với số sách bán chạy nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ xưa đến nay trong nước cũng như ngoài nước.

                      Vì "Tôi Phải Sống" không phải chỉ được viết bằng óc, bằng tim, mà bằng máu, bằng chính mạng sống. Và nhất là bằng con đường tìm ra lẽ sống.

                      Vì chính lúc bị dồn vào đáy vực của cái chết, linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã hét lên ba đợt:

                      TÔI PHẢI SỐNG...
                      TÔI PHẢI SỐNG...
                      TÔI PHẢI SỐNG...

                      Tiếng hét này vẫn tiếp tục vang lên trong tim mỗi người Việt khi mình cứ phải cúi đầu chung phận với một Việt Nam nghèo khổ nhục nhằn trước đà tiến của ngay cả những nước láng giềng thua mình xa mấy chục năm về trước. Bây giờ đã chậm lắm rồi. Nhưng vẫn chưa quá muộn để bắt đầu.

                      Tôi Phải Sống để làm chứng một chuyện gì. Tôi Phải Sống để biết rằng tôi có một sứ mạng, một ơn gọi, một món nợ phải trả cho dân tộc tôi, cho sự hiện hữu của tôi trên mặt đất này, làm một điều gì có ý nghĩa hơn cho đời. Đó là lẽ sống.

                      Tại sao tôi phải sống? Tại sao bạn phải sống? Và tại sao chúng ta vẫn còn tiếp tục sống? Đặt câu hỏi tức là đang tìm ra cho mình câu trả lời làm lẽ sống.

                      Hình bìa "Tôi Phải Sống" đang được đặt ngay trước mặt tôi đây như công án để chiêm nghiệm.

                      Lẽ sống của mỗi người là nhận lấy trách nhiệm góp giọt máu trong tim của mình tưới cho những bông hoa hướng dương kia hồi sinh, bật sáng được lối đi cho đàn con bước tới trong một viễn kiến chung: mùa xuân đang rộn rã tới gần. Hoa ơi tên gì? Hoa Tình Yêu đó. Dòng sinh mệnh dân tộc đang chảy tới đó.

                      Đúng vậy. "Hãy để cho bóng tối đi qua và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân Tộc.”

                       
                      #26
                        Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 26 trên tổng số 26 bài trong đề mục
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9