TRUYỆN KIỀU BẢN 1866
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 8 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 110 bài trong đề mục
sóng trăng 13.02.2007 05:57:48 (permalink)
 





865    Những là đo đắn ngược xuôi,

Tiếng gà nghe đã gáy thôi mé tường.

Lầu mai vừa rúc còi sương,

Mã sinh giục rạo vội vàng ra đi.

Đoạn trường thay lúc phân kỳ,

870    Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.

Bề ngoài mười dặm trường đình,

Vương Ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.

Ngoài thì chủ khách dập dìu,

Một nhà huyên với một Kiều ở trong.

875    Nhìn càng lã chã giọt hồng,

Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao.

"Hổ sinh ra phận thơ đào,

Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?

Lỡ làng nước đục bụi trong,

880    Trăm năm để một tấm lòng từ đây.

Xem gương trong bấy nhiêu ngày,

Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.

Khi về bỏ vắng trong nhà,

Khi vào dồi dắng, khi ra vội vàng.

885    Khi ăn, khi nói lỡ làng,

Khi thầy, khi tớ xem thường xem khinh.

Khác màu kẻ quý người thanh,

Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn







Chú Thích:





Câu 865:
Đo đắn:  tính đi tính lại xem hơn thiệt ra sao.

Câu 866:
Gáy sôi:  gáy vang dội lên vì có nhiều con cùng gáy một lúc.

Câu 867:
Lầu mai:  lầu canh, chòi canh lúc gần sáng.

Câu 867:
Còi sương:  nói rúc còi lúc trời chưa sáng, hãy còn hơi sương.

Câu 870:
Vó câu:  vó ngựa.

Câu 871:
Trường đình:  ("trường": dài, "đình": cái đình, cái quán) cái nhà trạm. Đời tần cứ mười dặm đường thì đặt một cái nhà trạm để cho khách nghỉ chân.

Câu 872:
Tiễn hành:  ("tiễn": đưa chân, "hành": đi) khi sắp đi xa người ta thường làm tiệc rượu đưa nhau gọi là "tống tiễn" hay "tiễn hành".

Câu 874:
Nhà huyên:  "huyên đường" chỉ người mẹ, đây là Vương bà.
  Xem chú thích câu 224.

Câu 875:
Giọt hồng:  giọt lệ. Xem chú thích câu 762.

Câu 877:
Thơ đào:  chỉ thân phận yếu đuối như cây đào non. Ta thường nói: yếu liễu thơ đào.

Câu 879:
Nước đục bụi trong:  nước trong mà hoá ra đục, bụi bẩn đục mà hoá ra trong sạch, chỉ cảnh huống trái ngược, như thân ngàn vàng mà lại ngửi vào giống hôi tanh không còn phân biệt gì đục trong nữa.

Câu 881:
Xem gương:  xem bộ dạng Mã Giám sinh.

Câu 882:
Chẳng kẻo:  e rằng, chắc rằng.

Câu 884:
Dùng dắng:  coi bộ ngập ngừng, không đàng hoàng. Bản nôm KOM viết là dồi dằng ; vì chữ dồi giống chữ đôi và chữ dắng giống chữ đoá , nên BK-TTK đã phiên âm là đôi đoá. Thực ra hai chữ ấy là "dồi dắng". Trương Vĩnh Ký đã phiên âm là "dùi dắng": chữ này cúng có nghĩa như "dồi dắng", "dùi dắng", "dùng dắng". Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của có ghi đủ mấy chữ này.
 
#31
    sóng trăng 13.02.2007 06:01:15 (permalink)





    Thôi, con còn nói chi con,

    890    Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người!"

    Vương bà nghe bấy nhiêu lời,

    Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.

    Vài tuần chưa cạn chén khuyên,

    Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.

    895    Xót con lòng nặng chề chề,

    Trước yên ông đã nằn nì thấp cao.

    "xót thân yếu liễu thơ đào,

    Rấp nhơ đến đỗi giấn vào tôi ngươi.

    Từ đây góc bể bên trời,

    900    Nắng mưa thui thủi quê người một thân.

    Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,

    Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

    Cạn (?) lời khách mới thưa rằng:

    "Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.

    905    Mai sau dầu dến thế nào,

    Kìa gương nhật nguyệt, nọ dao quỉ thần."

    Đùng đùng gió giục mây tần,

    Một xe trong cõi hồng trần như bay,

    Trông vời gạt lệ phân tay,

    910    Góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm.

    Nàng thì cõi khách xa xăm,

    Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.







    Chú Thích:





    Câu 889:
    Thôi, con còn nói chi con:  Thôi! Mẹ ơi! Thân con còn nói làm chi, con tự nay sống là kẻ lưu lạc quê người, chết là con ma nơi đất khách.

    Câu 893:
    Chén khuyên:  chén rượu khuyên nhủ lúc đưa chân lên đường.

    Câu 894:
    Nghỉ:  hắn. Ở đây dùng chữ "nghỉ" mới thích hợp vì Mã Giám sinh là "đứa phong tình" đáng khinh bỉ. Nguyễn Du còn dùng chữ "nghỉ" để chỉ Sở Khanh ở câu 1188.

    Câu 896:
    Trước yên:  trước yên ngựa.

    Câu 897:
    Yếu liễu:  ví thân người con gái yếu ớt như cây liễu.

    Câu 898:
    Rấp:  điều rủi, điều không may xảy đến một cách ngặt nghèo.
      Chữ "rấp" cũng viết là "rớp".

    Câu 898:
    Tôi ngươi:  làm tôi tớ cho người.

    Câu 899:
    Góc bể bên trời:  nói ở chỗ xa xôi đất khách quê người.

    Câu 901:
    Tùng quân:  cây tùng, cây trúc hai cây mọc rất thẳng cà cao, tượng trưng cho người trượng phu, kẻ quân tử.

    Câu 902:
    Cát đằng:  ("cát": dây sắn, "đằng": dây bìm) hai thứ cây leo chỉ sống nhờ vào cây khác che chở cho mọc lên.

    Câu 904:
    Xích thằng:  sợi dây đỏ để buộc chân những cặp trai gái thành vợ chồng. Xem chú thích câu 333.

    Câu 904:
    Nhiệm trao:  Mã Giám sinh nói để an ủi Vương ông rằng duyên vợ chồng cũng là do nguyệt lão xe nên một cách nhiệm màu lắm.

    Câu 907:
    Gió giục mây vần:  ý nói xe đi nhanh lắm.

    Câu 908:
    Hồng trần ("hồng":  đỏ, "trần": bụi) bụi đỏ, đây chỉ cảnh đi đường, xe chạy cuốn tung bụi đỏ lên.

    Câu 911:
    Dặm khách:  dặm đường xa nơi đất khách.

    Câu 912:
    Cầu giá:  ("giá: nước đóng thành lớp băng mỏng) cầu có giá phủ.

    Câu 912:
    Ngàn mây:  ("ngàn": rừng cây mọc trên núi) rừng núi ở chân trời có mây phủ.
     
     
    #32
      sóng trăng 13.02.2007 10:57:41 (permalink)




      Vi lau san sát hơi may,

      Một trời thu để riêng ai một người.

      915    Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,

      Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.

      Lầu thu từng biếc chen hồng,

      Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.

      Những là lạ nước lạ non,

      920    Lâm Truy vừa một tháng tròn đến nơi.

      Xe châu dừng bánh cửa ngoài,

      Rèm trong đã thấy một người bước ra.

      Thoắt trông nhờn nhợt màu da,

      Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?

      925    Trước xe lôi lả han chào,

      Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.

      Bên thì mấy ả mày ngài,

      Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.

      Giữa thì hương lửa hẳn hoi,

      930    Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.

      Lầu xanh quen lối xưa nay,

      Nghề này thì lấy ông này tiên sư,

      Hương hôm hoa sớm phụng thờ,

      Cô nào xấu vía cho thưa mối hàng,

      935    Cổi xiêm lột áo chán chường,

      Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.







      Chú Thích:





      Câu 913:
      Hơi may:  hơi gió heo may thổi về mùa thu.

      Câu 915:
      Ngất tạnh:  nói trời cao ngất và quang đãng.

      Câu 916:
      Lời non sông:  lời thề nguyền có nước non làm chứng. Cả câu ý nói Thuý Kiều trông thấy vừng trăng thì nhớ đến những lời thề xưa với Kim Trọng mà tự thẹn.

      Câu 917:
      Rừng thu:  rừng phong về mùa thu.

      Câu 917:
      Từng biếc chen hồng:  cây phong về mùa thu có lá đỏ toàn cành nên trông lên khu rừng trên núi thấy từng vòm lá đỏ hồng chen lẫn với những vòm lá cây khác màu xanh. Kiều Oánh Mậu sửa là "rỗ biếc ố hồng" thì sai vì ông đã hiểu lầm cây phong là cây bàng.

      Câu 918:
      Thần hôn:  ("thần": buổi sớm, "hôn": buổi chiều tối) nói đến việc con cái sớm tối thăm nom cha mẹ, xem cha mẹ có được mạnh khoẻ luôn không.

      Câu 920:
      Lâm Truy:  tên huyện thuộc tỉnh Sơn Đông. Chữ ? phải đọc là "Truy" mới đúng.

      Câu 921:
      Xe châu:  xe có rèm trang sức bằng những hạt cườm, hạt châu.

      Câu 925:
      Han chào:  chào mừng hỏi han về việc đi đường.

      Câu 927:
      Ả mày ngài:  gái làng chơi.

      Câu 929:
      Hương án:  án để trước bàn thờ bày hương hoa, bộ ngũ sự, quả phẩm...

      Câu 930:
      Tượng trắng đôi lông mày:  tức bức hình vẽ thần Bạch mi là tổ sư của chỗ thanh lâu.

      Câu 931:
      Lầu xanh:  dịch chữ "thanh lâu", xem chú thích câu 809.

      Câu 932:
      Tiên sư:  người đã có công lập ra một nghề nghiệp gì, cũng gọi là ông tổ.

      Câu 934:
      Xấu vía:  ở lầu xanh nếu cô nào không đắt khách thì người ta cho là xấu vía.

      Câu 935:
      Chán chường:  tỏ tường, bày ra trước mắt (Đại Nam quốc âm tự vị, Huỳnh Tịnh Của). Quyển Dictionnaire Annamite Francais của J.F.M. Génibrel đã giảng là "qui saute aux yeux" thì cũng có nghĩa như "bày ra trước mắt". Cả câu ý nói: Tú bà bắt Thuý Kiều phải cổi bỏ quần áo ra trước bàn thờ thần Bạch mi và trước mắt mọi người.
       
      http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=39&IDcat=153
      #33
        sóng trăng 13.02.2007 11:00:29 (permalink)




        Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,

        Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi!

        Kiều còn ngơ ngẩn biết gì?

        940    Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:

        "Cửa hàng buôn bán cho may,



        Muôn nghìn người thấy cũng yêu,

        Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.

        945    Tin nhạn vẩn, lá thơ bài,

        Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!"

        Lạ tai nghe chửa biết đâu,

        Xem tình ra cũng những màu dở dang.

        Lễ xong hương hoả gia đường,

        950    Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.

        Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây,

        Lạy rồi thì lạy cậu mày ngộ kia!"

        Nàng rằng: "Phải bước lưu ly,

        Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.

        955    Điều đâu lấy yến làm anh,

        Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì.

        Đủ điều nạp thái vu qui,

        Đã khi xuồng xã, lại khi đứng ngồi.

        Giờ ra thay bậc đổi ngôi,

        960    Dám hô gửi lại một lời cho minh."







        Chú Thích:





        Câu 938:
        Bướm ong:  ví với khách làng chơi hiếu sắc.

        Câu 938:
        Tứ vi:  ("vi": vòng vây) bốn phía.

        Câu 942:
        Đêm đêm:  đúng ra phải nói là ngày ngày.

        Câu 942:
        Hàn thực:  ngày ăn đồ nguội (lạnh), ở vào khoảng 105 ngày sau tiết Đông Chí, để tưởng nhớ Giới Tử Thôi. Theo Hậu Hán thư, Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục được đất nước nhưng đã không được nhà vua trọng dụng, ông bèn vào rừng ở ẩn. Vua cho người đi mời về, ông nhất định không chịu về. Nhà vua không biết làm thế nào đã cho đốt rừng. Ông vẫn ở trong đó chịu chết. Nhà vua thương tiếc mới đặt ra lễ Hàn thực, cấm lửa ba ngày chỉ ăn đồ nguội.

        Câu 942:
        Ngày ngày:  đúng ra phải nói là "đêm đêm".

        Câu 942:
        Nguyên Tiêu:  đêm tiết Thượng nguyên, tức rằm tháng riêng âm lịch. Tục xưa ở Trung Quốc đêm ấy thắp đèn vui chơi suốt đêm.

        Câu 944:
        Anh yến:  tên hai thứ chim, con trống con mái thường hay cặp với nhau nên được dùng để ví với cảnh trai gái giao du thân mật với nhau.

        Câu 944:
        Trúc mai:  cây trúc, cây mai, vì hai cây thường đươcj bày gần nhau hoặc được vẽ thành cặp với nhau nên được dùng để ví với tình nghĩa thân thiết. Cả câu ý nói lúc nào cũng có đông khách làng chơi đến với Thuý Kiều.

        Câu 945:
        Tin nhạn:  ("nhạn": loài ngỗng trời). Hán thư chép rằng: Tô Vũ đời Hán samg sứ Hung Nô bị bắt đi chăn dê ở phương Bắc. Sau hai nước hoà thân với nhau. Vua Hán đòi lại Tô Vũ nhưng chúa Thiền Vu nói rằng Tô Vũ đã chết. Thường Huệ bày mưu cho vua Hán, nói rằng có bắt được một con chim nhạn, chân nó có buộc lá thư của Tô Vũ gửi về. Thiền Vu sau đó phải tìm Tô Vũ để trả lại cho vua nhà Hán. Do điển đó tin nhạn được dùng để chỉ tin tức.

        Câu 945:
        Vẩn:  đến thật nhiều, rối bời lên.

        Câu 945:
        Lá thư:  tức những bức thư của khách làng chơi gửi tới.

        Câu 945:
        Bài bày ra đầy bàn, ý nói thật nhiều. Chữ cũng có thể đọc là bời có nghĩa là ngổn ngang, nhiều đến rối bời lên, hết lá thư này lại đến lá thư khác.

        Câu 949:
        Hương hoả gia đường:  bàn thờ tổ tiên, đây là bàn thờ thần Bạch mi, ông tổ thanh lâu.

        Câu 950:
        Vắt nóc:  ngồi lên cao và vắt chéo hai chân lại.

        Câu 952:
        Cậu mày:  chữ cậu có nghĩa là bố chồng. "Cậu" là chữ nôm, "cữu" là chữ Hán. Chữ "cữu" có mấy nghĩa như sau:
          1. anh em với mẹ mình;
          2. bố chồng (con dâu gọi bố chồng bằng cữu);
          3. bố vợ (chồng gọi bố vợ là ngoại cữu);
          4. các anh em vợ cũng gọi là cữu.
          Như vậy Tú bà bắt Kiều gọi mình là mẹ thì cũng coi Kiều là con dâu nên đã bắt Thuý kiều gọi Mã Giám sinh bằng cậu tức bố chồng là đúng rồi. Tú bà coi Mã Giám sinh là chồng của mình. Nguyên truyện đã viết: "Kiều đạo: Tha thị trượng phu, dữ ngã đồng miên đồng túc, kim nhật chẩm ma giáo ngã khiếu tha tố cá cữu cữu? Tú mụ thính liễu; cấp đắc tam thi thần bạo khiêu. Đạo: Giá đẳng thuyết lai, nễ yếu chiếm ngã đích lão công liễu!"
          (Kiều rằng: Ông ấy là chồng tôi, đã ăn nằm với tôi, hôm nay sao lại bảo tôi kêu ông

        Câu 953:
        Lưu ly:  trôi nổi xa lìa quê hương.

        Câu 954:
        Tiểu tinh:  sao nhỏ, chỉ người vợ lẽ, chữ lấy trong Kinh Thi, bài Tiểu tinh.

        Câu 955:
        Lấy yến làm anh:  ý nói đâu có sự đổi ngôi, từ chỗ lấy lẽ xuống làm con dâu được.

        Câu 956:
        Danh phận:  danh hiệu và chức phận, vợ lẽ hay con dâu.

        Câu 957:
        Nạp thái:  lễ dẫn cưới.

        Câu 957:
        Vu qui:  lễ rước dâu.

        Câu 960:
        Cho minh:  cho rõ ràng.
         
        http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=40&IDcat=153
        #34
          sóng trăng 13.02.2007 11:02:43 (permalink)




          Mụ nghe nàng nói hay tình,

          Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:

          "Này này sự đã quả nhiên,

          Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!"

          965    Bảo rằng: "Đi dạo lấy người,

          Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.

          Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân,

          Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.

          Màu hồ đã mất đi rồi,

          970    Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!"

          "Con kia đã bán cho ta,

          Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây!

          Này (?) kia có giở bài bây,

          Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!

          975    Cớ sao chịu tót một bề,

          Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

          Phải làm cho biết phép tao!"

          Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.

          Nàng rằng: "Trời thẳm đất dày,

          980    Thân này đã bỏ những ngày ra đi.

          Thôi thì thôi có tiếc gì!"

          Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.

          Sợ gan nát ngọc liều hoa,

          Mụ còn trông mặt, nàng đà quá tay.







          Chú Thích:





          Câu 962:
          Tam Bành:  Theo kinh của Đạo gia thì trong thân người ta có ba vị thần là Bành Kiểu, Bành cứ và Bành Chất. Ba vị thần ấy thường hay xui người ta làm điều ác rồi lên tâu với Ngọc Hoàng thượng đế.

          Câu 962:
          Nổi tam Bành:  nổi giận lên mà làm dữ, dùng riêng để chỉ về đàn bà.

          Câu 964:
          Chông min:  chồng ta, chồng tao. Bản Quan văn đường chép là "của min" thì cũng có thể hiểu là chồng của tao, chữ chồng tuy không nói ra nhưng ta vẫn nhận ngay được.
            Câu 963-964 là lời Tú bà mắng Thuý Kiều.
            Câu 965-970 là lời Tú bà mắng Mã Giám sinh.
            Câu 971-977 là lời Tú bà mắng Thuý Kiều.

          Câu 965:
          Lấy người:  mua lấy người.

          Câu 967:
          Vô nghĩa:  không biết điều nghĩa lý, không biết điều phải trái.

          Câu 967:
          Bất nhân:  không có nhân đức, ăn ở độc ác.

          Câu 968:
          Tần mần:  mó máy trong lúc buồn mình.

          Câu 969:
          Màu hồ:  lớp hồ láng trên vải lụa cho đẹp bóng.
            Cả câu ý nói Thuý Kiều đã mất trinh tiết thì cũng như tấm vải đã mất mầu hồ.

          Câu 971:
          Con kia:  chỉ nàng Kiều. Lời của Tú bà mắng Kiều đã hết sức gay gắt vì nàng đã dám cãi lại.
            Nguyên truyện viết:
            Thuý Kiều cãi lại:
            - Rõ ràng trước đây y bảo cưới tôi làm thiếp, giờ sao lại bảo ai cướp chồng?
            Nguyễn Du đã lược bỏ đi đoạn này.

          Câu 972:
          Nhập gia:  vào nhà, ý nói vào nhà ai thì phải theo phép tắc nhà ấy, không được cãi lại.

          Câu 973:
          Lão kia:  chỉ Mã Giám sinh.

          Câu 973:
          Bài bây:  ý nói giở trò lần khân muốn làm chuyện bậy bạ.

          Câu 974:
          Văng vào mặt:  mắng xả vào mặt hoặc đập vào mặt mà chửi bới cho một trận.

          Câu 975:
          Chịu tốt:  chịu yên một bề.

          Câu 976:
          Ngứa nghề:  thích chuyện ân ái, ham chuyện nguyệt hoa.

          Câu 977:
          Phải làm cho biết phép tao:  Nguyễn Du đã chấm dứt lời mắng của Tú bà ở câu lục một cách đột ngột như vậy để cho ta thấy được hành động tức thì của Tú bà "giật bì tiên" mà "sấn vào ra tay".

          Câu 978:
          Bì tiên:  (bì: da; tiên: cái roi) cái roi da.

          Câu 979:
          Trời thẳm đất dày:  lời kêu trời, cũng như nói: "Ới trời đất ơi!".

          Câu 983:
          Nát ngọc liều hoa:  ý nói Tú bà sợ nàng Kiều có gan liều mình làm cho ngọc nát hoa tàn.
           
          http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=41&IDcat=153
          #35
            sóng trăng 13.02.2007 11:05:32 (permalink)




            985    Thương ôi, tài sắc mực này,

            Một dao oan nghiệt, dứt dây phong trần.

            Nỗi oan vỡ lở xa gần,

            Trong nhà người chật một lần như nêm.

            Nàng thì bằn bặt giấc tiên,

            990    Mụ thì mồn một, mặt nhìn hồn bay.

            Vực nàng vào chốn hiên tây,

            Cắt người coi sóc, liền thầy thuốc thang.

            Nào hay chưa hết trần duyên,

            Trong mây thôi đã đứng bên một nàng.

            995    Rỉ rằng: "Nhân quả dở dang,

            Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?

            Số còn nặng nghiệp má đào,

            Người dù muốn quyết, trời nào đã cho!

            Hãy xin hết kiếp liễu bồ,

            1000    Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau."

            Thuốc thang suốt một ngày thâu,

            Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.

            Tú bà chực sẵn bên màn,

            Gieo lời khuyên giải miên man gỡ dần.

            1005    "Một người dễ có mấy thân.

            Hoa xuân đăng nhuỵ, ngày xuân còn dài.

            Cũng là lỡ một lầm hai,

            Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa.







            Chú Thích:





            Câu 986:
            Oan nghiệt:  mầm tai hại tự mình gây ra.

            Câu 986:
            Phong trần:  gió bụi, chỉ chung những sự gian khổ ở đời.
              Cả câu ý nói một lưỡi dao gây mối oan trái kia đã cắt đứt cuộc đời khổ sở không còn vương víu gì nữa.

            Câu 987:
            Nỗi oan:  nỗi oan ức của Thuý Kiều bị Tú bà hành hạ.

            Câu 987:
            Vỡ lở:  lan ra khắp nơi không giữ kín được.

            Câu 988:
            Một lần:  một vòng.

            Câu 988:
            Chật như nêm:  chật cứng như nêm lại, chữ "nêm" ở đây là một động từ, khác với chữ "nêm" ở câu 48 là một danh từ.

            Câu 989:
            Giấc tiên:  giấc ngủ mê man không biết gì như linh hồn đã thoát lên cõi tiên.

            Câu 990:
            Cầm cập:  ý nói run cả tay chân vì sợ.

            Câu 991:
            Hiên tây:  hiên nhà ở về phía tây.

            Câu 993:
            Trần duyên:  duyên nợ ở cõi đời.

            Câu 994:
            Một nàng:  chỉ Đạm Tiên.
              Cả câu ý nói nàng Kiều những tưởng kiếp mình đến thế là xong nào ngờ chưa dứt đi được, trong cơn mê đã thấy có Đạm Tiên đứng bên.

            Câu 995:
            Rỉ rằng:  nói nhỏ bên tai rằng.

            Câu 995:
            Nhân quả dở dang:  nhân quả báo ứng từ kiếp trước sang kiếp này còn dở dang, chưa dứt bỏ được, cho nên muốn chết mà chưa chết được.

            Câu 996:
            Nợ đoạn tràng:  cái nợ của kẻ hồng nhan phải chịu nhiễu nỗi gian truân khổ sở ở đời.

            Câu 997:
            Nghiệp má đào:  (nghiệp: những việc do mình làm ra và phải chịu mang vào thân) nghiệp của người đàn bà có nhan sắc phải mang, thường bị tạo hoá ghét ghen và phải chịu nhiều gian truân vất vả.

            Câu 999:
            Kiếp liễu bồ:  ví cuộc sống của người phụ nữ yếu đuối như cây liễu cây bồ.

            Câu 1002:
            Nghe:  xem chừng.

            Câu 1002:
            Dàu dàu:  buồn ủ rũ, kém tươi vui. Đây có thể hiểu là dìu dịu, có hơi giảm dần đi.

            Câu 1004:
            Mơn man:  vuốt ve dỗ dành.

            Câu 1006:
            Hoa xuân đương nhuỵ:  tức hoa vừa mới nở, nhuỵ còn nguyên ví với người con gái đương thì nhan sắc còn lộng lẫy, tấm thân còn trong trắng.

            Câu 1007:
            Lỡ một lầm hai:  ý nói Thuý Kiều đã lầm lỡ làm điều dại dột một hai lần, thiếu suy nghĩ.

            Câu 1008:
            Đá vàng:  ví với tình yêu chung thuỷ.

            Câu 1008:
            Mây mưa:  ám chỉ sự ân ái của trai gái. Cả câu ý nói nếu Thuý Kiều muốn giữ lòng trinh tiết thì Tú bà cũng không ép phải tiếp khách nữa.
             
            http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=42&IDcat=153
            #36
              sóng trăng 13.02.2007 11:07:45 (permalink)




              Lỡ chân trót đã vào đây,

              1010    Khoá phòng xuân để hành ngày đào non.

              Người còn thì của hãy còn,

              Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.

              Làm chi tội báo oan gia,

              Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?

              1015    Kề tai mấy mỗi nằn nì,

              Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.

              Vả trong thần mộng mấy lời,

              Túc nhân thì cũng có trời ở trong.

              Kiếp này nợ trả chưa xong,

              1020    Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau.

              Lặng nghe tẩm thấm gót đầu,

              Thưa rằng: "Ai có muốn đâu thế này.

              Được như lời thế là may,

              Hẳn rằng mai có như vầy cho chăng.

              1025    Sợ khi ong bướm đãi đằng,

              Đến điều sống đục sao bằng thác trong."

              Mụ rằng: "Con hãy thong dong,

              Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi.

              Mai sau ở chẳng như lời,

              1030    Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.

              Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,

              Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.







              Chú Thích:





              Câu 1010:
              Khoá buồng xuân:  ý nói cấm cung không tiếp ai.

              Câu 1010:
              Đợi ngày đào non:  đợi ngày lấy chồng. Xem chú thích câu 503.

              Câu 1013:
              Oan gia:  gây thù hại ai thì bị điều dữ báo hại. Chữ Hán có câu: "Oan oan tương báo" nghĩa là gây mối thù với người thì lại bị báo lại băng mối thù.

              Câu 1016:
              Thị phi:  điều phải, điều trái.

              Câu 1017:
              Thần mộng:  vị thần báo cho biết trong mộng, đây chỉ Đạm Tiên.

              Câu 1018:
              Túc nhân:  cái nhân duyên có sẵn từ trước, do tiền định.

              Câu 1020:
              Chồng:  chồng chất thêm lên.

              Câu 1025:
              Đãi đằng:  đả động đến, nhắc nhở đến.
                Cả câu ý nói Thuý Kiều sợ có khách yêu thích nàng mà Tú bà lại đả động đến chuyện tiếp khách, ép nàng phải làm vừa lòng họ thì thà chết đi cho được tiếng thơm trong sạch còn hơn là sống để chịu tiếng xấu xa.

              Câu 1031:
              Quyết đoán:  xác định một cách chắc chắn, không bao giờ có sự thay đổi nữa.
               
              http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=43&IDcat=153
              #37
                sóng trăng 13.02.2007 11:10:17 (permalink)




                Trước sau Ngưng bích khoá xuân,

                Vết non xa, tấm trăng gần ở chung.

                1035    Bốn bề bát ngát xa trông,

                Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

                Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

                Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

                Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

                1040    Tin sương luống hãy rày trông mai chờ.

                Bên trời góc bể bơ vơ,

                Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

                Xót người tựa cửa hôm mai,

                Quạt nồng đắp lạnh những ai đó giờ?

                1045    Bồng Lai cách mấy nắng mưa,

                Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

                Buồn trông cửa bể gần hôm,

                Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

                Buồn trông ngọn nước mới sa,

                1050    Hoa trôi man mác biết là về đâu?

                Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

                Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

                Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

                OM thòm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

                1055    Chung quanh những nước non người,

                Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.







                Chú Thích:





                Câu 1033:
                Ngưng Bích:  ("ngưng": đọng lại, "bích": màu xanh), tên cái lầu, nơi đây bốn chung quanh đều có màu xanh của non nước, cây cỏ. Bản LVĐ 71 chép là "Trước sau".

                Câu 1035:
                Bát ngát:  bao la không biết đến đâu là cùng (Việt Nam tự điển. K.T.T.Đ). Theo Đ.N.Q.Â.T.V. của Huỳnh Tịnh Của thì "bát ngát" có nghĩa là áy náy, lo xa, lo buồn nhiều nỗi. Nghĩa này cũng hợp với câu thơ của Nguyễn Du.

                Câu 1037:
                Bẽ bàng:  đỗi với cảnh, đối với tình lấy làm ngượng ngùng hổ thẹn.

                Câu 1037:
                Mây sớm đèn khuya:  ý nói Thuý Kiều ở có một mình ở lầu Ngưng Bích, sáng thì làm bạn với mây, tối thì làm bạn với ngọn đèn cho đến tận khuya.

                Câu 1038:
                Tấm lòng:  tấm lòng buồn rầu, nỗi sầu.

                Câu 1039:
                Người dưới nguyệt chén đồng:  (chén đồng: chén rượu uống cùng thề đồng tâm với nhau) chỉ Kim Trọng.

                Câu 1040:
                Tin sương:  cho chữ "sương tín". Khi sương xuống nhiều là báo tin mùa đông đã đến nên gọi là "tin sương". Cũng như "tin nhạn" vì chim nhạn hễ thấy mùa sương đến là bay về phương nam.

                Câu 1042:
                Tấm son:  tấm lòng son, tấm lòng son sắt của Thuý Kiều đối với Kim Trọng.

                Câu 1043:
                Người tựa cửa hôm mai:  chỉ người mẹ thường tựa cửa trông con. Đây nói Thuý Kiều thương xót cha mẹ ở nhà chắc vẫn trông mong tin tức của mình.

                Câu 1044:
                Quạt nồng ấp lạnh:  ý nói người con có hiếu với cha mẹ thì mùa hạ nóng nực phải quạt cho mát, mùa đông lạnh lẽo phải vào chăn nằm trước cho ấm để cha mẹ vào nằm đỡ bị lạnh.

                Câu 1045:
                Sân Lai:  sân nhà ông Lão Lai, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thuý Kiều. Theo "Hiếu tử truyện", Lão Lai, người nước Sở, rất có hiếu tuy đã già mà còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ. Bản LVĐ 71 chép là "Bông Lai".

                Câu 1046:
                Gốc tử:  cây tử. Chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Tiểu bàn (Tiểu nhã): "Duy tang dữ tử, tất cung kính chỉ" = chỉ có cây dâu và cây tử do cha mẹ trồng là ta ắt phải cung kính. Theo điển này về sau người ta dùng chữ "gốc tử để chỉ quê hương."

                Câu 1053:
                Duềnh:  vùng biển ăn sâu vào đất liền.

                Câu 1056:
                Lưu lạc:  lang thang nay đây mai đó.

                Câu 1056:
                Nên vài bốn câu:  theo nguyên truyện thì Thuý Kiều có làm một bài thơ Đường luật, thất ngôn bát cú.
                 
                http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=44&IDcat=153
                #38
                  sóng trăng 13.02.2007 11:13:31 (permalink)
                   





                  Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,

                  Cách lầu nghe có tiếng đâu hoạ vần.

                  Một chàng vừa trạc thanh xuân,

                  1060    Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

                  Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,

                  Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở khanh.

                  Bóng nga thấp thoáng dưới mành.

                  Trông chàng, nàng cũng ra tình đeo đai.

                  1065    "Than ôi! Sắc nước hương trời,

                  Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

                  Giá đành trong nguyệt trên mây,

                  Hoa sao hoa khéo dã dày mấy hoa?

                  Nhớ gan riêng giận trời già,

                  1070    Lòng này ai tỏ cho ai hỡi lòng!

                  Thuyền quyên ví biết anh hùng,

                  Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!"

                  Song thu đã khép cánh ngoài,

                  Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.

                  1075    Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,

                  Cám lòng chua xót, lạt tình như vi.

                  Những là lần lữa nắng mưa,

                  Kiếp phong trần biết bao giờ là thôi?

                  Đánh liều nhắn một hai lời,

                  1080    Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.







                  Chú Thích:





                  Câu 1057:
                  Rèm châu:  bức rèm lấy hạt châu mà kết thành, nói bức rèm quí.

                  Câu 1058:
                  Hoạ vần:  làm bài thơ đáp lại dựa theo nguyên vần của bài xướng.

                  Câu 1059:
                  Thanh xuân:  người còn trẻ tuổi đang thời xuân sắc.

                  Câu 1060:
                  Dịu dàng:  ý nói nền, ra vẻ nho nhã.

                  Câu 1061:
                  Thư hương:  mùi thơm của sách, con nhà dòng dõi có học.

                  Câu 1063:
                  Bóng nga:  bóng người con gái đẹp, đây chỉ Thuý Kiều.

                  Câu 1064:
                  Trông chàng, nàng cũng ra tình đeo đai:  bản LVĐ và bản QVĐ đều chép như trên. Nguyên truyện: "Lại một ngày Sở khanh lại đứng cách lầu ngâm thơ, Kiều đứng tựa vào cửa lầu để mắt nhìn kỹ. Sở khanh vẫn biết là Kiều đang nhìn mình, song vờ đi như không thấy, chờ cho Kiều ngắm no ngắm chán, lúc ấy mới quay lại vái một vái chào Kiềụ.. "

                  Câu 1064:
                  Đeo đai:  lưu luyến, trông thấy rồi muốn đi cũng không được.

                  Câu 1065:
                  Sắc nước hương trời:  do chữ "quốc sắc thiên hương" chỉ người con gái đẹp nổi tiếng và cao quí.

                  Câu 1067:
                  Giá đành trong nguyệt trên mây:  Cả câu ý nói cái giá về nhan sắc chắc phải quí trọng như cây quế, cây đào ở trong cung trăng hoặc cây hạnh ở bên mây, ở trên trời.

                  Câu 1069:
                  Nổi gan:  phát giận, nổi giận.

                  Câu 1071:
                  Anh hùng:  ("anh": phần tốt đẹp nhất trong loài cây cỏ tức bông hoa, "hùng": giống thú mạnh nhất trong loài thú) chỉ người có tài năng, có trí dũng hơn người.

                  Câu 1074:
                  Đồng vọng:  ý nói còn nghe văng vẳng tiếng của Sở Khanh từ phía dưới vọng lên.

                  Câu 1074:
                  Sắt đanh:  ý nói vứng bền, chắc chắn như sắt như đanh.

                  Câu 1076:
                  Cám lòng chua xót:  cảm lòng Sở khanh thương xót đến mình là kẻ lưu lạc.

                  Câu 1076:
                  Lạt tình như vi:  Thuý Kiều thấy mình bớt bơ vơ ở nơi đất khách.

                  Câu 1077:
                  Lần nữa nắng mưa:  ý nói đã trải qua lâu ngày mưa nắng đã chịu nhiều vất vả.

                  Câu 1078:
                  Kiếp phong trần:  ("phong": gió; "trần": bụi) kiếp sống gian khổ như chịu cảnh gió bụi trên đường dài.

                  Câu 1080:
                  Tế độ:  ("tế": đưa qua sông; "độ": đưa lên bờ) cứu vớt chúng sinh ra khỏi bể khổ.

                  Câu 1080:
                  Trầm luân:  ("trầm": chìm; "luân": mất, dìm mất) chìm đắm trong bể khổ.
                   
                  #39
                    sóng trăng 13.02.2007 11:15:33 (permalink)
                     





                    Mảnh tiên kể hết xa gần,

                    Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài.

                    Tan sương vừa rạng ngày mai,

                    Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang.

                    1085    Trời tây lãng đãng bóng vàng,

                    Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.

                    Mở xem một bức tiên mai,

                    Rành rành tích việt có hai chữ đề.

                    Lấy trong ý tứ mà suy,

                    1090    Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng?

                    Chim hôm thoi thót về rừng,

                    Giá trà mi đã ngậm trăng nửa mành.

                    Tường đông lay động bóng cành,

                    Đẩy song đã thấy Sở khanh lẻn vào.

                    1095    Sượng sùng đánh dạn ra chào,

                    Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần.

                    Rằng: "Tôi (*) bọt chút thân,

                    Lạc đàng mang lấy nợ nần yến anh.

                    Dám nhờ cốt nhục tử sinh,

                    1100    Còn nhiều kết cỏ ngậm đà về sau!

                    Lặng ngồi tủm tỉm gật đầu:

                    "Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!

                    Nàng đà biết đến ta chăng,

                    BỂ trầm luân lấp cho bằng mới thôi!







                    Chú Thích:





                    Câu 1081:
                    Mảnh tiên:  lá thư viết trên giấy hoa tiên.

                    Câu 1084:
                    Tiện hồng:  ("tiện": nhân có, tiện có; "hồng: chim hồng như chim nhạn"), nhân tiện có người đưa thư. Người ta thường nói "tin nhạn" nhưng ở đây Nguyễn Du dùng đã dùng chữ hồng vì chữ thứ hai ấy thuộc thanh bằng.

                    Câu 1085:
                    Lãng đãng:  lơ lửng chập chờn.

                    Câu 1086:
                    Phục thư:  thư trả lời lại.

                    Câu 1087:
                    Tiên mai:  giấy hoa tiên có vẻ hoa mai.

                    Câu 1088:
                    Tích Việt hai chữ ám hiệu của Sở khanh hẹn ngày đi trốn. Theo phép chiết tự thì chữ (tích) tách ra thành (trấp nhất nhật) nghĩa là ngày 21, chữ tách ra thành (việt) (tẩu) nghĩa là vượt tường chạy chốn. Vì chữ (việt) có tự dạng gần giống (tuất) nên Nguyễn Du mới để cho Thuý Kiều đoán "tuất thì phải chăng?" Tự điển Khang Hi có ghi chữ gồm (mậu) và (tẩu). Chữ "huấn" ấy khác với chữ "việt". Trong nguyên truyện, cũng có viết: "Tha ước ngã nhị thập nhất nhật tuất thì việt tường tương kiến". (Chàng hẹn ta ngày 21 giờ tuất sẽ vượt tường vào gặp mặt ta). Như vậy Sở khanh chỉ hẹn với Thuý Kiều là sẽ vượt tường vào gặp mặt chứ chưa rủ đi chốn ngay.

                    Câu 1090:
                    Tuất thì phải chăng:  Nguyễn Du đã để cho Thuý Kiều thắc mắc ngờ vực không biết có phải là giờ tuất ? không, vì khi tách chữ (việt) ra lại là chữ (việt) chứ không phải chữ (tuất). Chữ "phải chăng" có ý nghĩa như vậy.

                    Câu 1091:
                    Thoi thót:  mệt mỏi vì đã bay từ xa về, cũng có thể hiểu là lác đác về trễ bay vội vã.

                    Câu 1092:
                    Giá trà mi ("trà mi": cũng viết là đồ mi). Các bản nôm đều chép là (giá), các bản quốc ngữ phần nhiều chép là đoá. Sự nhầm lẫn ấy do chữ đoá có tự dạng giống chữ "giá".
                      "Giá trà mi": là cái giàn gỗ bắc cho cây đồ (trà) mi leo lên.
                      (xem thêm trang 34)
                      "Ngậm trăng nửa vành": cái giá đồ (trà) mi nó ngậm lấy vành trăng hạ huyền chứ hoa đồ (trà) mi nhỏ như hoa tường vi làm sao mà ngậm được vừng trăng.

                    Câu 1093:
                    Tường đông:  tường nhà bên phía đông.

                    Câu 1094:
                    Lẻn vào:  bước vào một cách lén lút. Sở khanh làm ra như vậy chứ thực ra hắn là người của mụ Tú bà thuê để thực hiện kế thâm độc.

                    Câu 1096:
                    Rỉ trao:  nói nhỏ nhẹ.

                    Câu 1097:
                    Bèo bọt:  cánh bèo bọt nước ví với thân phận con người bị lưu lạc.

                    Câu 1098:
                    Nợ nần yến anh:  cái nợ của người con gái phải bán thân vào chỗ lầu xanh làm gái làng chơi.

                    Câu 1099:
                    Cốt nhục tử sinh:  ý nói xương khô mà làm cho có thịt, chết mà cứu cho sống lại. Đây Thuý Kiều muốn nhờ Sở khanh cứu giúp cho.

                    Câu 1100:
                    Kết cỏ:  ý nói báo ơn sâu. Theo Tả truyện: Nguỵ Khoả người nước Tấn đã cho người thiếp của cha mình đi lấy chồng khác chứ không chôn sống theo xác cha. Sau Khoả đánh nhau với Đỗ Hồi (nước Tần) thấy có một ông già cứ kết cỏ cho vướng chân ngựa của Hồi. Hồi bị ngã ngựa và bị Khoả giết chết. Đêm chiêm bao Khoả thấy người thiếp ấy nói: "Con gái tôi đã được ông cho đi lấy chồng, tôi kết cỏ để ngựa của Đỗ Hồi ngã, xin đền đáp ân sâu ấy".

                    Câu 1100:
                    Ngậm vành:  cũng có nghĩa là trả ơn. Theo Hậu Hán thư. Dương Bảo đời Hậu Hán bắt được một con chim sẻ bị thương, đem về nuôi cho nó khoẻ lại rồi thả đi. Về sau có một đứa bé mặc áo vàng đến nói: "Tôi là sứ giả của Tây Vương mẫu, cậu là người đã cứu sống tôi nên nay đem bốn chiếc vòng đến tạ ơn".

                    Câu 1104:
                    Bể trầm luân:  tức bể khổ (người ta phải đắm chìm trong đó).
                     
                    http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=46&IDcat=153
                    #40
                      sóng trăng 13.02.2007 11:17:49 (permalink)
                       





                      1105    Nàng rằng: "Muôn sự ơn người,

                      Thế nào xin quyết một bài cho xong?"

                      Rằng: "Ta có ngựa truy phong,

                      tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.

                      Thừa cơ lẻn bước ra đi,

                      1110    Ba mươi sáu chước, chước gì lại hơn?

                      Dù khi gió kép, mưa đơn,

                      Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!"

                      Nghe lời, nàng đã sinh nghi.

                      Song đà quá đến, quản gì được thân.

                      1115    Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

                      Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu!

                      Cùng nhau lẻn bước dưới lầu,

                      Song song, ngựa trước ngựa sau một đoàn.

                      Đêm thu khắc lậu canh tàn,

                      1120    Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.

                      Lối mòn cỏ lợt mùi (màu) sương,

                      Lòng quê đi một bước đường một đau.

                      Tiếng gà xao xác gáy mau,

                      Tiếng người đâu đã sau dậy dàng.

                      1125    Nàng càng thổn thức gan vàng,

                      Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

                      Một mình khôn biết làm sao,

                      Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.







                      Chú Thích:





                      Câu 1106:
                      Thế nàọ.. cho xong:  câu này ý nói Sở khanh cứ chần chừ chưa quyết định đưa Thuý Kiều đi trốn nên nàng mới yêu cầu chàng hãy "quyết một bài cho xong".

                      Câu 1107:
                      Truy phong:  đuổi theo được gió, ý nói chạy rất nhanh.

                      Câu 1108:
                      Tên dưới trướng:  người hầu hạ dưới màn tức kẻ theo hầu.

                      Câu 1108:
                      Kiện nhi:  người trẻ tuổi có sức mạnh.

                      Câu 1109:
                      Thừa cơ:  nhân dịp người ta không để ý.

                      Câu 1110:
                      Ba mươi sáu chước:  lấy ý ở câu: "Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách" = ba mươi sáu chước, chạy trốn là chước hay nhất.

                      Câu 1111:
                      Gió kép mưa đơn:  ý nói đến những sự trở ngại lớn nhỏ ở dọc đường.

                      Câu 1112:
                      Cơn cớ:  tức "can cớ" nghĩa là liên can vì duyên cớ gì.

                      Câu 1114:
                      Quá đỗi:  quá chừng, lỡ đã làm sai quấy quá rồi không lấy lại được nữa. Chữ này mang một ý nghĩa kín đáo. Theo nguyên truyện thì Sở khanh, ngày 21 có vượt tường đến với Thuý Kiều nhưng chưa đưa nàng đi trốn ngay mà còn lợi dụng đêm đầu tiên ấy để ăn nằm với nàng. Kiều đã phải chiều lòng Sở khanh vì muốn được chàng cứu vớt và nghĩ mình cũng chẳng còn trinh trắng gì nữa. Đêm sau chàng lại đến. Kiều đã phải yêu cầu: "Thế nào xin quyết một bài cho xong". Sở khanh mới rủ Kiều đi trốn, cho đó là cách hay nhất. Kiều nghe như vậy đã sinh nghi, nhưng tấm thân mình đã phó thác cho hắn rồi, đã "quá đỗi" rồi biết làm sao? Đành phải liều vậy.

                      Câu 1119:
                      Khắc lậu:  (khắc: thời khắc, lậu: dỏ giọt xuống). Đồng hồ đời xưa làm bằng một cái bình đổ đầy nước rồi để cho nước dỏ (lậu) giọt ra ngoài dần. Hễ nước vơi đi, ngấn nước đến khắc nào thì biết là giờ ấy.

                      Câu 1119:
                      Canh tàn:  đêm đã khuya. Thuý Kiều theo Sở khanh đi trốn như vậy không phải là ngày 21 giờ tuất (9 giờ tối) mà vào ngày hôm sau lúc đêm đã khuya lắm rồi. Có hiểu như vậy chúng ta mới khỏi thắc mắc tại sao ngày 21 lúc 9 giờ tối mà Nguyễn Du lại tả "trăng ngàn ngậm gương".

                      Câu 1124:
                      :  chữ nôm viết thì có thể phiên là mái hoặc mé. Ở đây phiên là mé thì đúng nghĩa hơn, tức là ở mé đắng sau.

                      Câu 1124:
                      Dậy dàng:  ầm ĩ, ồn ào.

                      Câu 1125:
                      Gan vàng:  tức lòng dạ, chữ vàng được dùng cho đẹp lời.

                      Câu 1126:
                      Rẽ:  cũng viết trẽ như bản Kom . Ta thường nói rẽ. Ở đây tả Sở khanh đã kéo dây cương cho ngựa rẽ vào con đường tắt rồi lẩn đi mất.

                      Câu 1128:
                      Dặm rừng:  đường đi ở trong rừng.
                       
                      #41
                        sóng trăng 13.02.2007 11:20:51 (permalink)
                         





                        Hoá nhi thật có nỡ lòng,

                        1130    Làm chi dày tía vò hồng lắm nau!

                        Một đoàn đổ đến trước sau,

                        Vuốt đâu dưới đất, cánh đâu trên trời?

                        Tú bà tốc thẳng đến ngay,

                        Hằm hằm áp điệu một hơi lại nhà.

                        1135    Hưng hành chẳng hỏi, chẳng tra,

                        Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.

                        Thịt da ai cũng là người,

                        Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau!

                        Hết lời thú phục, khẩn cầu,

                        1140    Uốn lưng núi đổ, cất đầu máu sa.

                        Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,"

                        Nước non lìa cửa, lìa nhà đến đây.

                        Bây giờ sống chết ở tay,

                        Thân này đã đến thế này thì thôi!

                        1145    Nhưng tôi có sá chi tôi.

                        Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?

                        Thân lươn bao quản lấm đầu,

                        Xót lòng trinh bạch từ lâu đến giờ"

                        Được lời mụ mới tuỳ cơ,

                        1150    Bắt người bảo lãnh, làm tờ cung chiêu.

                        Bày vai có ả Mã Kiều,

                        Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.







                        Chú Thích:





                        Câu 1129:
                        Hoá nhi:  trẻ tạo, gọi như vậy là có ý trách ông trời (đấng tạo hoá) như đứa trẻ con hay bày ra lắm chuyện khi thế này khi thế khác làm khổ người ta.

                        Câu 1130:
                        Giày tía vò hồng:  giày vò những đoá hoa màu tía màu hồng, ý nói giày vò người con gái đẹp.

                        Câu 1130:
                        Lắm nau:  lắm cơn đau lòng, lắm nỗi khổ sở.

                        Câu 1131:
                        Một đoàn:  toán người nhà của Tú bà.

                        Câu 1132:
                        Xuống đất... lên trời:  cả câu ý nói không còn cách trốn đi đâu được nữa vì muốn xuống đất cũng không có vuốt, muốn lên trời cũng không có cánh.

                        Câu 1133:
                        Tốc thẳng:  xông thẳng tới.

                        Câu 1134:
                        Hằm hằm:  vẻ giận dữ nóng nảy.

                        Câu 1134:
                        Áp điệu:  dẫn lôi về vừa đi vừa canh giữ.

                        Câu 1135:
                        Hưng hành:  đánh đập tàn nhẫn.

                        Câu 1136:
                        Vùi liễu dập hoa:  ý nói đánh đập một cách phũ phàng.

                        Câu 1138:
                        Hồng rụng thắm rời:  "hồng thắm" là nói sắc đẹp của một bông hoa, ví với sắc đẹp của người con gái. "Rụng" rời là nói tan nát từng cánh hoa không còn gì. Đây tả cảnh Thuý Kiều bị tan xương nát thịt.

                        Câu 1139:
                        Thú phục:  chịu nhận tội.

                        Câu 1139:
                        Khẩn cầu:  năn nỉ kêu xin tha cho.

                        Câu 1140:
                        Thịt đổ... máu sa:  câu này tả một cách quá đáng cái cảnh "hồng rụng thắm rời" ở câu trên.

                        Câu 1146:
                        Phận tôị.. vốn người:  Thuý Kiều đã nói đúng tâm lý Tú bà, nếu nàng có chết đi thì cái thân nàng đành chịu vậy chứ cái vốn của Tú bà (450 lạng bạc) sao lại để đâu mà không nghĩ đến.

                        Câu 1147:
                        Thân lươn:  con lươn ở dưới bùn còn không quản lấm đầu thì cái thân hèn này đâu còn ngại việc gì.

                        Câu 1148:
                        Chút lòng trinh bạch:  Thuý Kiều cũng tự nhận mình chỉ còn một chút lòng trinh bạch, chứ tấm thân nàng đâu còn có trong trắng nữa. Nàng đã ăn nằm với Mã Giám sinh và Sở khanh rồi đâu còn "nước trước" để khách bẻ hoa nữa.

                        Câu 1148:
                        Cũng chừa:  chữ cũng này nói lên được sự miễn cưỡng bó buộc Thuý Kiều phải từ bỏ lòng trinh bạch. Thuý Kiều đâu có xin chừa một cách tự nguyện. Đây chẳng qua là vì bị đánh đập đau quá nên mới đành phải chịu như vậy khiến Nguyễn Lượng phải phê rằng: "Trinh bạch hữu thời nhi hối dã, trào hước chi cực" = Đến sự trinh bạch có khi còn phải từ bỏ như vậy thật là hài hước quá lắm!

                        Câu 1150:
                        Bảo lĩnh:  đứng đảm bảo nhận lãnh trách nhiệm.

                        Câu 1150:
                        Cung chiêu:  làm tờ khai nhận mọi tội lỗi.

                        Câu 1151:
                        Bày vai:  băng vai, ngang vai, cùng lứa.

                        Câu 1152:
                        Chịu đoan:  chịu làm giấy cam đoan đứng ra bảo lãnh.
                         
                        #42
                          sóng trăng 13.02.2007 11:22:56 (permalink)





                          Mụ càng kể nhặt, kể khoan,

                          Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha,

                          1155    Vực nàng vào nghỉ trong nhà,

                          Mã Kiều lại hở ý ra dặn lời:

                          "Thôi đà mắc lận thì thôi!

                          Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?

                          TỰ tình nổi tiếng lầu xanh,

                          1160    Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

                          Đà đao lập sẵn chước dùng,

                          Lạ gì một cốt, một đồng xưa nay!

                          Có ba trăm lạng trao tay,

                          Không dưng chi có người này, nọ kia!

                          1165    Rồi ra trở mặt tức thì,

                          Bớt lời kêu chớ lây chi mà đời.

                          Nàng rằng: "Thề thốt nặng lời,

                          Có đâu mà lại là người hiểm sâu!

                          Còn đương suy trước nghĩ sau,

                          1170    Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.

                          Sở Khanh lên tiếng rêu rao:

                          ĐỘ nghe nàng có con nào ở đây,

                          Phao cho quyến gió rủ mây,

                          Hãy xem có biết mặt này là ai?

                          1175    Nàng rằng: "Thôi thế thì thôi!

                          Rằng không, thì cũng vâng lời rằng không."







                          Chú Thích:





                          Câu 1153:
                          Kể nhặt kể khoan:  kể liên hồi lúc nói mau sa sả, lúc nói chậm khoan thai.

                          Câu 1154:
                          Gạn gùng:  hỏi cặn kẽ đủ điều cho đến hết lý lẽ mới thôi.
                            "Gạn gùng đến mức nồng nàn mới tha": Tú bà đã theo lời khai của Thuý Kiều mà gạn hỏi dần ra cho đến tận cùng của sự việc rồi mới tha.

                          Câu 1154:
                          Nồng nàn:  gắt gao đến hết lý lẽ.

                          Câu 1157:
                          Mắc lận:  mắc lừa. Tú bà đã thuê Sở khanh ba mươi lạng bạc để thực hiện mưu kế của mình mà đánh lừa Thuý Kiều.

                          Câu 1159:
                          Phụ tình:  phải bội với tình, lừa gạt tình yêu. Bản QVĐ đã chép phụ tình là đúng vì ở câu 1187 Nguyễn Du đã khẳng định: "Phụ tình án đã rõ ràng". Án phụ tình nặng hơn án bạc tình vì kẻ bạc tình chỉ ăn ở thiếu chung thuỷ chứ kẻ phụ tình thì phản bội người tình ngay từ đầu.

                          Câu 1160:
                          Phù dung:  theo Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển thì "phù dung" có hai loại: loại mọc ở dưới nước gọi là thảo "phù dung" tức là một thứ hoa sen, loại mọc ở trên đất gọi là "mộc phù dung" tức là mộc liên.
                            Cây phù dung cao chừng hơn một thước, lá to, hoa trắng hoặc hồng đậm nở về mùa thu và mùa đông.

                          Câu 1160:
                          Cành phù dung:  tức cành cây mộc phù dung (vì thảo phù dung không có cành, chỉ có cuống lá và cuống hoa) chỉ người đẹp.

                          Câu 1161:
                          Đà đao:  miếng vỏ hiểm lừa cho người ta đuổi theo rồi bất ngờ quay trở lại mà chém. Đây nói Sở khanh theo mưu của Tú bà rủ Thuý Kiều đi trốn rồi nửa đường bỏ chạy mất.

                          Câu 1162:
                          Một cốt một đồng:  bà cốt với con đồng là cùng một phường với nhau. Đây nói Tú bà và Sở khanh là cùng một bọn, liên kết với nhau để lừa Thuý Kiều.

                          Câu 1163:
                          Trao tay:  trả tiền trước cho Sở khanh ba mươi lạng bạc.

                          Câu 1166:
                          Chớ dây:  chữ Trương Vĩnh Ký đã phiên là lay. Ed.Nordemann đã phiên là "dây" như trên.

                          Câu 1166:
                          Mà đời:  mà thiệt đời.

                          Câu 1170:
                          Mặt mo:  mặt như đeo mo, không biết xấu hổ.

                          Câu 1173:
                          Phao cho:  nói vu cho.

                          Câu 1173:
                          Quyến gió rủ mây:  ý nói quyến rũ con gái cũng như quyến anh rủ yến. Đây ý nói phao cho Sở khanh đã quyến rũ Thuý Kiều đi trốn.
                           
                           
                          #43
                            sóng trăng 13.02.2007 11:25:22 (permalink)
                             





                            Sở Khanh quát mắng đùng đùng,

                            Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay.

                            Nàng rằng: "Trời nhé có hay!

                            1180    Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?

                            Đem người dảy xuống giếng thơi.

                            Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!

                            Còn tiên Tích Việt ở tay,

                            Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?"

                            1185    Lời ngay, đông mặt trong ngoài,

                            Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương.

                            Phụ tình án đã rõ ràng,

                            Chờ xong nghỉ mới kiếm đường tháo lui.

                            Buồng riêng, riêng những sụt sùi,

                            1190    Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân:

                            Tiếc thay trong giá trắng ngần,

                            Đến phong trần, cũng phong trần như ai!

                            Tẻ vui cũng một kiếp người,

                            Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!

                            1195    Kiếp xưa đã vụng đường tu,

                            Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!

                            Dẫu sao bình đã vỡ rời,

                            Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!

                            Vừa tuần nguyệt rạng gương trong,

                            1200    Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:







                            Chú Thích:





                            Câu 1178:
                            Thị hùng ("thị":  cậy, "hùng": mạnh) ỷ có sức mạnh doạ người, bặt nạt người.

                            Câu 1180:
                            Quyến anh rủ yến:  quyến rũ con gái.

                            Câu 1181:
                            Dảy xuống giếng thơi:  ("thơi": sâu) ý nói hãm hại người ta một cách thâm độc như dảy ngã xuống giếng sâu rồi còn liệng đá theo. (Mạnh Tử: Thôi nhân nhập tỉnh nhi hạ chi thạch).

                            Câu 1183:
                            Tiên Tích Việt:  Tờ giấy hoa tiên có viết hai chữ Tích Việt.

                            Câu 1186:
                            Bất nghĩa:  không có tình nghĩa, bội bạc.

                            Câu 1186:
                            Vô lương:  không có lương tâm, không có lòng lành, lòng tốt, ác độc.

                            Câu 1188:
                            Dơ tuồng:  xấu hổ.

                            Câu 1188:
                            Nghỉ:  chữ dùng có tính cách khinh bỉ để chỉ Sở khanh.

                            Câu 1191:
                            Trong giá trắng ngần:  (ngần là bạc vì viết có bộ kim) ý nói tấm lòng trinh tiết trong như giá, trắng như bạc. Đại Nam quốc âm tự vị cũng giảng "trắng ngần" là trắng lốp, trắng bong, trắng như bạc.

                            Câu 1192:
                            Phong trần:  cực khổ vất vả như kẻ đi đường bị gió thổi bụi bay vào mặt.

                            Câu 1193:
                            Tẻ vui:  buồn vui.

                            Câu 1194:
                            Hồng nhan phải giống... :  cái sắc đẹp của người phụ nữ có phải là cái mầm mống, cái mối sinh ra mọi nỗi khổ sở ở đời không?

                            Câu 1195:
                            Vụng:  không khéo, kém.

                            Câu 1196:
                            Chẳng kẻo:  e phải. Cả câu ý nói kiếp trước đã không khéo tu nhân tích đức nên kiếp này e phải trả nợ đời cho xong.

                            Câu 1197:
                            Bình đã vỡ:  ý nói Thuý Kiều đã thất tiết với Mã Giám sinh và Sở khanh rồi thì cũng không khác gì chiếc bình đã vỡ, còn gì nữa mà phải giữ gìn.

                            Câu 1199:
                            Nguyệt sáng gương trong:  ý nói buổi đẹp trời, mặt trăng sáng như tấm gương.
                             
                            #44
                              sóng trăng 13.02.2007 11:27:32 (permalink)
                               





                              "Nghề chơi cũng lắm công phu,

                              Làng chơi ta phải biết cho đủ điều."

                              Nàng rằng: "mây gió dập dìu,

                              Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!"

                              1205    Mụ rằng: "Ai cũng như ai,

                              Người ta ai mất tiền (?) hoài đến đây?

                              Ở trong còn lắm điều hay,

                              Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.

                              Này con thuộc lấy làm lòng:

                              1210    Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề.

                              Chơi cho liễu chán hoa chê,

                              Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.

                              Khi khoé yểu lúc nét ngài,

                              Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười răn hoa.

                              1215    Đều là nghề nghiệp trong nhà,

                              Đủ ngần ấy nết mới là người soi.

                              Gót đầu vâng dạy mấy lời,

                              Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng.

                              Những nghe nói đã thẹn thùng,

                              1220    Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!

                              Tủi mình cửa các phòng khuê,

                              Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!

                              Khéo là mặt dạn mày dày,

                              Kiếp người đã đến thế này thì thôi!







                              Chú Thích:





                              Câu 1202:
                              Làng chơi:  chỉ chung bọn gái tiếp khách bà bọn khách tới chơi ở thanh lâu. Cũng dùng để gọi chỗ thanh lâu.

                              Câu 1203:
                              Mưa gió dập dìu:  ý nói khách đến ái ân hết lớp này đến lớp khác, tha hồ phá hại cánh hồng nhan.

                              Câu 1204:
                              Liều thân:  ý nàng Kiều nói dù có phải tiếp khách thì cũng phải liều thân cho họ thoả lòng chứ còn biết làm sao hơn được nữa.

                              Câu 1208:
                              Nỗi đêm khép mở:  ý nói về ban đêm khi tiếp khách có thể lúc thì khép nép giữ ý, lúc thì cởi mở tự nhiên.

                              Câu 1208:
                              Nỗi ngày riêng chung:  ý nói về ban ngày thì tiếp khách có thể nói chuyện với riêng một người hay với nhiều người.

                              Câu 1210:
                              Bảy chữ:  bảy cách để làm cho khách phải say mê.
                                1. Khấp (khóc với khách làm giả bộ thương họ)
                                2. Tiển (cắt tóc đưa cho khách làm tin)
                                3. Thích (thích tên khách vào cánh tay mình cho khách thương)
                                4. Thiêu (đốt hương châm vào da làm khổ nhục kế để cùng nhau thề nguyền)
                                5. Giá (ước lấy nhau làm vợ chồng).
                                6. Tẩu (rủ khách đi trốn để rồi bóc lột khách)
                                7. Tử (giả chết cho khách luyến tiếc không nỡ bỏ)

                              Câu 1210:
                              Tám nghề:  tám cách để ăn nằm với khách, tuỳ theo mỗi người mà chiều chuộng.

                              Câu 1211:
                              Liễu chán hoa chê:  liễu hoa chán chê, ý nói chơi cho đến chán thì thôi.

                              Câu 1212:
                              Lăn lóc đá:  ý nói chiều đãi khách sao cho những kẻ vô tình như đá cũng phải chết lăn chết lóc mà tới lui chơi bời.

                              Câu 1212:
                              Mê mẩn đời:  ý nói chiều đãi khách sao cho họ phải say mê không còn biết sự gì khác nữa.

                              Câu 1213:
                              Khoé hạnh ("hạnh":  quả hạnh) Thơ của Trương Nguyên Nhất có câu: "Tiên tác hạnh tử nhãn khổng" = làm ngay ra con mắt quả hạnh.
                                Cả câu ý nói khi khách nhìn mình thì mình phải đưa mắt liếc tình, phải đưa mày gợi tình sao cho khách thấy đầu mày cuối mắt càng nhìn càng yêu.

                              Câu 1216:
                              Người soi:  người sành sỏi biết đủ mọi ngón chơi.

                              Câu 1218:
                              Chau nét nguyệt:  nhăn lông mày vì ngượng ngùng, e sợ trước những lời dạy của Tú bà.

                              Câu 1218:
                              Phai vẻ hồng:  tái mặt đi vì ngượng ngùng e sợ.
                                "Vẻ hồng": là vẻ mặt hồng hào của người con gái.

                              Câu 1220:
                              Nước đời:  cảnh ngộ ở đời, nỗi đời, trò đời.

                              Câu 1220:
                              Khắt khe:  cay nghiệt, điêu đứng, éo le (do những kẻ bụng dạ hẹp hòi, ác độc gây ra để hành hạ người ta).

                              Câu 1221:
                              Cửa các buồng khuê:  do chữ "khuê" các chỉ chỗ ở của người phụ nữ sang trọng. Đây ý Kiều muốn nói mình cũng là con nhà tử tế sang trọng.

                              Câu 1222:
                              Vỡ lòng:  bắt đầu học, cũng nói như "khai tâm".

                              Câu 1223:
                              Mặt dạn mày dày:  ý nói trơ ra rồi không còn biết xấu hổ gì nữa.
                               
                              #45
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 8 trang, bài viết từ 31 đến 45 trên tổng số 110 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9