Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi! Kiều còn ngơ ngẩn biết gì? 940 Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay: "Cửa hàng buôn bán cho may, Muôn nghìn người thấy cũng yêu, Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai. 945 Tin nhạn vẩn, lá thơ bài, Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!" Lạ tai nghe chửa biết đâu, Xem tình ra cũng những màu dở dang. Lễ xong hương hoả gia đường, 950 Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay. Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây, Lạy rồi thì lạy cậu mày ngộ kia!" Nàng rằng: "Phải bước lưu ly, Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh. 955 Điều đâu lấy yến làm anh, Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì. Đủ điều nạp thái vu qui, Đã khi xuồng xã, lại khi đứng ngồi. Giờ ra thay bậc đổi ngôi, 960 Dám hô gửi lại một lời cho minh."
Chú Thích: Câu 938: Bướm ong: ví với khách làng chơi hiếu sắc.
Câu 938: Tứ vi: ("vi": vòng vây) bốn phía.
Câu 942: Đêm đêm: đúng ra phải nói là ngày ngày.
Câu 942: Hàn thực: ngày ăn đồ nguội (lạnh), ở vào khoảng 105 ngày sau tiết Đông Chí, để tưởng nhớ Giới Tử Thôi. Theo Hậu Hán thư, Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục được đất nước nhưng đã không được nhà vua trọng dụng, ông bèn vào rừng ở ẩn. Vua cho người đi mời về, ông nhất định không chịu về. Nhà vua không biết làm thế nào đã cho đốt rừng. Ông vẫn ở trong đó chịu chết. Nhà vua thương tiếc mới đặt ra lễ Hàn thực, cấm lửa ba ngày chỉ ăn đồ nguội.
Câu 942: Ngày ngày: đúng ra phải nói là "đêm đêm".
Câu 942: Nguyên Tiêu: đêm tiết Thượng nguyên, tức rằm tháng riêng âm lịch. Tục xưa ở Trung Quốc đêm ấy thắp đèn vui chơi suốt đêm.
Câu 944: Anh yến: tên hai thứ chim, con trống con mái thường hay cặp với nhau nên được dùng để ví với cảnh trai gái giao du thân mật với nhau.
Câu 944: Trúc mai: cây trúc, cây mai, vì hai cây thường đươcj bày gần nhau hoặc được vẽ thành cặp với nhau nên được dùng để ví với tình nghĩa thân thiết. Cả câu ý nói lúc nào cũng có đông khách làng chơi đến với Thuý Kiều.
Câu 945: Tin nhạn: ("nhạn": loài ngỗng trời). Hán thư chép rằng: Tô Vũ đời Hán samg sứ Hung Nô bị bắt đi chăn dê ở phương Bắc. Sau hai nước hoà thân với nhau. Vua Hán đòi lại Tô Vũ nhưng chúa Thiền Vu nói rằng Tô Vũ đã chết. Thường Huệ bày mưu cho vua Hán, nói rằng có bắt được một con chim nhạn, chân nó có buộc lá thư của Tô Vũ gửi về. Thiền Vu sau đó phải tìm Tô Vũ để trả lại cho vua nhà Hán. Do điển đó tin nhạn được dùng để chỉ tin tức.
Câu 945: Vẩn: đến thật nhiều, rối bời lên.
Câu 945: Lá thư: tức những bức thư của khách làng chơi gửi tới.
Câu 945: Bài:
bày ra đầy bàn, ý nói thật nhiều. Chữ
cũng có thể đọc là bời có nghĩa là ngổn ngang, nhiều đến rối bời lên, hết lá thư này lại đến lá thư khác.
Câu 949: Hương hoả gia đường: bàn thờ tổ tiên, đây là bàn thờ thần Bạch mi, ông tổ thanh lâu.
Câu 950: Vắt nóc: ngồi lên cao và vắt chéo hai chân lại.
Câu 952: Cậu mày: chữ cậu có nghĩa là bố chồng. "Cậu" là chữ nôm, "cữu" là chữ Hán. Chữ "cữu" có mấy nghĩa như sau:
1. anh em với mẹ mình;
2. bố chồng (con dâu gọi bố chồng bằng cữu);
3. bố vợ (chồng gọi bố vợ là ngoại cữu);
4. các anh em vợ cũng gọi là cữu.
Như vậy Tú bà bắt Kiều gọi mình là mẹ thì cũng coi Kiều là con dâu nên đã bắt Thuý kiều gọi Mã Giám sinh bằng cậu tức bố chồng là đúng rồi. Tú bà coi Mã Giám sinh là chồng của mình. Nguyên truyện đã viết: "Kiều đạo: Tha thị trượng phu, dữ ngã đồng miên đồng túc, kim nhật chẩm ma giáo ngã khiếu tha tố cá cữu cữu? Tú mụ thính liễu; cấp đắc tam thi thần bạo khiêu. Đạo: Giá đẳng thuyết lai, nễ yếu chiếm ngã đích lão công liễu!"
(Kiều rằng: Ông ấy là chồng tôi, đã ăn nằm với tôi, hôm nay sao lại bảo tôi kêu ông
Câu 953: Lưu ly: trôi nổi xa lìa quê hương.
Câu 954: Tiểu tinh: sao nhỏ, chỉ người vợ lẽ, chữ lấy trong Kinh Thi, bài Tiểu tinh.
Câu 955: Lấy yến làm anh: ý nói đâu có sự đổi ngôi, từ chỗ lấy lẽ xuống làm con dâu được.
Câu 956: Danh phận: danh hiệu và chức phận, vợ lẽ hay con dâu.
Câu 957: Nạp thái: lễ dẫn cưới.
Câu 957: Vu qui: lễ rước dâu.
Câu 960: Cho minh: cho rõ ràng.
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=40&IDcat=153