Rằng: "Hoa nô đủ mọi tài, 1850 Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!" Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn: Bốn dây như khóc như than, Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng! 1855 Cùng trong một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm! Giọt châu lã chã khôn cầm, Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương. Tiểu thư lại nẹt lấy nàng: 1860 "Cuộc vui gảy khúc đoạn tràng ấy chi! Sao chẳng biết ý tứ gì? Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi!" Sinh càng thảm thiết bồi hồi, Vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua. 1865 Giọt rồng canh đã điểm ba, Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm. Lòng riêng khấp khởi mừng thầm: "Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!" Sinh thì gan héo ruột đầy, 1870 Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng. Người vào chung gối loan phòng, Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.
Chú Thích: Câu 1851: Tán hoán: tan nát cả tinh thần, mất cả tinh thần mà sinh ra ngơ ngẩn.
Câu 1852: Bình the: bình phong có căng the (vải thưa).
Câu 1855: Tơ đồng: (đồng:
gỗ cây ngô đồng dùng làm đàn) chỉ chung cây đàn. "Tiếng tơ đồng": tiêng đàn.
Câu 1857: Giọt châu: giọt lệ, giọt nước mắt.
Câu 1857: Lã chã: ý nói nước mắt chảy dòng dòng.
Câu 1858: Giọt sương: giọt nước mắt. Thơ Nguyễn Khuyến có câu: "Tuổi già hạt lệ như sương", có bản chép là giọt Tương, lấy điển bà Nga Hoàng (xem chú thích câu 238) nhưng có vẻ cầu kỳ và cũng không hợp với Thúc sinh là đàn ông.
Câu 1860: Khúc đoạn trường: khúc đàn buồn bã nghe muốn đứt ruột.
Câu 1861: Chẳng biết ý tứ: chẳng biết giữ gìn gì, ngày vui mà lại gảy khúc đàn buồn.
Câu 1863: Thảm thiết: đau đớn như cắt ruột.
Câu 1863: Bồi hồi: bồn chồn ở trong lòng.
Câu 1865: Giọt rồng: giọt nước ở chiếc đồng hồ có chạm hình con rồng nhỏ xuống để đo thời gian. Bài "Cung từ" của Đường Tiết Phùng có câu: "Thuỷ trích đồng long trú lậu trường" = giọt nước của cái đồng hồ khắc hình con rồng nhỏ xuống đều đều (lậu) suốt cả ngày dài.
Câu 1865: Canh đã điểm ba: đêm có năm canh, khi sang canh ba thì đã nửa đêm rồi.
Câu 1866: Can tâm: thoả lòng, hả dạ.
Câu 1867: Khấp khởi: mừng hí hửng trong lòng.
Câu 1869: Gan héo ruột đầy: ý nói buồn bã đến héo cả lá gan và uất ức đầy cả trong ruột.
Câu 1871: Loan phòng: phòng đàn bà ở. Loan là con mái, phụng là con trống. Chung gối loan phòng: ý nói vợ chồng vào chung chăn gối với nhau.
Câu 1872: Đèn chong: đèn đốt để thâu canh.
______________
Bây giờ mới rõ tăm hơi, Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen! 1875 Chước đâu rẽ thuý chia uyên. Đã ra đường đao, ai nhìn được ai! Bây giờ một vực một trời, Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi! Nhẹ như bấc, nặng như chì, 1880 Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên! Lỡ làng chút phận thuyền quyên, Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? Một mình âm ỉ đêm chầy, Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh. 1885 Sớm khuya hầu hạ đài doanh. Tiểu thư chạm mặt, đè tình hỏi tra. Lựa lời nàng mới thưa qua: "Phải khi mình lại xót xa nỗi mình." Tiểu thư lại hỏi Thúc sinh: 1890 "Cậy chàng tra lấy, thực tình cho nao!" Sinh đà rát ruột như bào, Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang! Những e lại luỵ đến nàng, Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra. 1895 Cúi đầu quì trước sân hoa. Thân cung nàng mới lên qua một lời.
Chú Thích: Câu 1873: Tăm hơi: ("tăm": bọt ở dưới đáy nước nổi lên cho biết là có cá) tin tức lộ ra ngoài, bể sâu kín của câu chuyện, mưu sâu bị lộ ra.
Câu 1874: Lạ đời nhà ghen: ke ghen tuông ít thấy có ở đời.
Câu 1875: Rẽ thuý chia uyên: ("thuý": chim phỉ thuý, "uyên": chim uyên ương) thuý và uyên là hai loại chim thường hay đậu cặp, bay cặp. "Rẽ" và "chia" là nói cảnh đôi chim trống mái bị chia rẽ, đây nói việc Hoạn thư làm cho Thúc sinh và Thuý Kiều phải rời bỏ nhau.
Câu 1877: Một vực một trời: ý nói bên là Thuý Kiều bị đày làm con ở như rớt xuống vực sâu, một bên là Thúc sinh bị Hoạn thư bắt lên vai ông chủ như mình ở ngôi cao ví như trên trời, hai bên không còn sánh với nhau được nữa.
Câu 1878: Khinh trọng... thị phi: cả câu ý nói địa vị Hoạn thư và Thuý Kiều đã rõ ràng không còn có chuyện so sánh bên trọng bên khinh, không còn có chuyện thi phi của những người đồn đại về tin Thúc sinh có vợ lẽ nữa.
Câu 1879: Nhẹ như bấc, nặng như chì: ý nói cách ăn nói của Hoạn thư thật thâm trầm nham hiểm, khi thì nhẹ như bấc, khi thì nặng như chì, không làm sao mà lường cho được.
Câu 1880: Gỡ cho ra nữa: có nghĩa là gỡ cho ra được đi nữa tức là khi Thuý Kiều có gỡ ra được khỏi tay Hoạn thư đi nữa thì cũng chẳng còn gì là duyên.
Bản QVĐ khắc chữ
thì phải đọc là nữa.
KOM đã sửa lại là
(nợ). Trương Vĩnh Ký đã chép câu này là: "Gỡ ra cho được còn gì là duyên?" thì đúng ý với câu bản QVĐ đã chép.
Câu 1882: Bể sâu sóng cả: ý nói Thuý Kiều đã sa vào tay Hoạn thư, người có lòng sâu hiểm, thì cũng như đi trên chiếc thuyền nhỏ giữa bể sâu sóng lớn khó an toàn được.
Câu 1885: Đài doanh: lâu đài dinh thự của những bậc quyền quí, đây chỉ nhà ở của Hoạn thư.
Câu 1886: Đè tình: đoán theo tình ý.
Câu 1890: Cho nao: chữ "nao" chính là chữ "nào" đọc theo thượng bình thanh, cũng như "nghĩ nao", "lắm nao".
Câu 1892: Chẳng đang: chẳng đành lòng, chẳng nỡ lòng.
Câu 1896: Thân cung: ("thân": tỏ bày, "cung": khai ra) trình bày ra cho rõ ràng.
__________________
Diện tiền trình với tiểu thơ, Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình. Liền tay trao lại Thúc sinh, 1900 Rằng: "Tài nên trọng mà tình nên thương! Ví chăng có số giàu sang, Trái này dẫu đúc nhà vàng cũng nên! Bể trần chìm nổi thuyền quyên, Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!" 1905 Sinh rằng: "Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay! Nghìn xưa âu cũng thế này, "bây giờ âu liệu bớt tay mới vừa." Tiểu thư rằng: "Ý trong tờ, 1910 Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không. Thôi thì thôi cũng chiều lòng, Cũng cho nghỉ nghị trong vòng bước ra. Sẵn Quan âm các vườn ta, Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. 1915 Có cổ thụ, có sơn hồ, Cho nàng ra đó, giữ chùa chép kinh." Tâng tâng trời mới bình minh, Hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. Đưa chàng đến trước Phật đường, 1920 Tam qui ngũ giới cho nàng xuất gia
Chú Thích: Câu 1897: Diện tiền: trước mặt.
Câu 1898: Ngẩn ngơ: ý nói hơi đờ người ra vì xúc cảm và cũng vì ngạc nhiên.
Câu 1902: Nhà vàng: do chữ "kim ốc" là nhà cửa rất đẹp đẽ, sang trọng.
Theo "Hán Vũ cố sự", Hán Vũ đế hồi còn bé, có lần được bà cô hỏi đùa: "Cháu có muốn lấy vợ không?" Nhà vua cười đáp: "Nếu lấy được A Kiều thì cháu sẽ làm nhà vàng cho nàng ở" (Nhược đắc A Kiều đương dĩ kim ốc trữ chi). Về sau lên ngôi vua, Vũ Đế lập A Kiều làm hoàng hậu.
Câu 1908: Từ bi: ("từ": yêu thương, "bi": thương xót). Đức Phật lấy lòng từ bi thương xót chúng sinh, muốn cho ai cũng được vui sướng và thoát được cảnh khổ não.
Câu 1910: Cửa không: cửa chùa gọi là cửa không (không môn) vì nhà Phật coi mọi sự, moi vật đều là hư không cả. Cũng gọi là "cửa từ", "cửa thiền".
Câu 1912: Luỵ: điều khổ vướng phải, vòng gian khổ.
Câu 1913: Quan âm các: gác thờ đức Quan Thế Âm, vị Bồ tát thường cứu khổ chúng sinh.
Câu 1914: Có cây trăm thước, hoa bốn mùa: do câu Bồ đề bách xích thụ, bát nhã tứ thời hoa = cây bồ đề cao trăm thước, hoa bát nhã nở bốn mùa.
Câu 1913-1914 chỉ có ý nói Quan Âm các nhà Hoạn thư cũng không kém gì một cảnh chùa chứ không phải là tả cảnh thực. Cảnh thực ở nhà Hoạn thư được tả tiếp theo ở câu 1915. "Có cổ thụ, có sơn hồ": nghĩa là có cây cổ thụ, có núi giả và có cả hồ nước nữa.
Câu 1916: Tụng kinh: tụng kinh niệm Phật là việc chính còn chép kinh chỉ là việc làm thêm để Thuý Kiều lúc nào cũng bận, không có thì giờ rảnh mà nghĩ đến Thúc sinh nữa.
Câu 1918: Ngũ cúng: năm thức cũng Phật là: hương, đèn, trà, hoa và quả (trái cây).
Câu 1920: Tam qui: ("qui": dốc lòng tin theo) nhà Phật có ba phép qui y
: qui y Phật, qui y pháp, qui y tăng. "Qui y" là bỏ nơi tối tăm mà đem cả thân tâm quay về nơi sáng tỏ.
Câu 1920: Ngũ giới: năm điều răn cấm đối với người tu theo đạo Phật: cấm sát sinh, cấm ăn trộm, cấm tà dâm, cấm uống rượu và cấm nói càn nói bậy.
Câu 1920: Xuất gia: rời khỏi nhà vào chùa đi tu.
__________________________
Áo xanh đổi lấy cà sa, Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn, Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. 1925 Nàng từ lánh dấu vườn hoa, Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nhân duyên đâu lại còn mong, Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi! Phật tiền thảm lấp sầu khơi 1930 Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. Cho hay giọt nước cành dương, LÒ lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. Sồng nâu từ trở mầu thiền, Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu. 1935 Cửa phòng then nhặt lưới mau, Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người. Gác kinh viện sách đôi nơi, Trong gang tấc lại gấp mười quan san. Những là ngậm thở nuốt than, 1940 Tiểu thơ phải buổi vấn an về nhà. Thừa cơ sinh mới lẻn ra, Xăm xăm đến mé vi hoa với nàng. Sụt sùi giở nỗi đoạn trường, Giọt châu tầm tã đượm dài áo xanh:
Chú Thích: Câu 1921: Áo xanh: áo của những người đày tớ gái ở các nhà quyền quí mặc.
Câu 1921: Cà sa: áo của nhà sư mặc. "Cà sa" chính nghĩa là hoại sắc (nhuộm cho xuống màu, cho mất cái giá trị nơi thương trường, như nhuộm nâu). Mặc áo cà sa tức là xa lìa việc thế tục, rời bỏ cảnh lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Câu 1922: Pháp danh: nhà Phật gọi đạo là pháp cho nên giảng đạo gọi là thuyết pháp, tên của người tu theo đạo Phật gọi là pháp danh.
Câu 1924: Xuân, Thu: Xuân Hoa, Thu Nguyệt, là tên hai đứa hầu gái được cắt ra để lo việc thắp hương, pha trà. Thực ra Hoạn thư đã cho hai đứa hầu gái ra để canh chừng Thúy Kiều, không cho có dịp được gặp Thúc sinh.
Câu 1926: Rừng tía: do chữ "tử trúc lâm" ở truyện Tây du, là nơi đức Quan Thế Âm Bồ tát ở.
Câu 1926: Xa bụi hồng: xa cõi trần tục.
Câu 1928: Thẹn phấn tủi hồng: cả câu ý nói đi tu cho Hoạn thư khỏi làm nhục mình là được rồi.
Câu 1930: Pho thủ tự: pho kinh chép tay ra. Hoạn thư giao cho Thuý Kiều chép bộ kinh để nàng có việc làm qua ngày, khỏi nghĩ vơ vẩn đến Thúc sinh.
Câu 1930: Nồi tâm hương: nồi hương, đốt để tụng niệm cầu nguyện, cũng như bát hương.
Câu 1931: Giọt nước cành dương: theo "Pháp uyển châu lâm" có người Thiên Trúc tên là Đồ Trừng lấy nước cành dương rẩy lên mình con trai ông Thạch Lặc gần chết lại tỉnh dậy. Đây nói đến phép mầu của đạo Phật.
Câu 1933: Nâu sồng: áo màu nâu của người tu hành mặc.
Cả câu ý nói từ khi khoác áo tu hành ở Quan Âm các.
Câu 1933: Thiền: yên tịnh, lặng lẽ suy xét. Đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lý làm tôn chỉ nên gọi là "thiền".
Câu 1935: Quan phòng: đóng cửa canh giữ. Cả câu ý nói Hoạn thư cho canh phòng nghiêm nhặt, cửa đóng cài then không cho Thúc sinh gặp được Thúy Kiều. Sự canh gác cẩn mật chẳng khác nào như căng lưới bao kín chung quanh.
Câu 1937: Gác kinh: gác ngồi chép kinh, chỉ Quan Âm các.
Câu 1937: Viện sách: chỉ phòng đọc sách của Thúc sinh.
Câu 1938: Quan san: cửa ải và núi non, chỉ sự xa xôi cách trở.
Câu 1939: Ngậm thở ngùi than: ngậm ngùi than thở, buồn rầu than thở.
Câu 1940: Vấn an: hỏi thăm sức khoẻ.
Câu 1944: Áo xanh: do chữ thanh sam dịch ra, là áo của người học trò, khác với thanh y là áo của người hầu gái.
Câu 1944: Đượm: ướt đẫm.
______________________
1945 "Đã cam chịu bạc với tình, Chúa xuân để tội một mình cho hoa. Thấp cơ thua trí đàn bà, Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời. Vì ta cho luỵ đến người, 1950 Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh. Quản chi trên gác dưới duềnh, Cũng toan sống thác với tình cho xong. Tông đường chút chửa cam lòng, Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai. 1955 Thẹn mình đá nát vàng phai, Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?" Nàng rằng: "Chiếc bách sóng đào, Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may! Chút thân quằn quại vũng lầy, 1960 Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cũng liều một giọt mưa rào, Mà cho thiên hạ trông vào cũng thay! Chút vì cầm đã bén dây, Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta. 1965 Liệu bài mở cửa cho ra, Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu!" Sinh rằng: "Riêng tưởng bấy lâu, Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường?
Chú Thích: Câu 1946: Chúa xuân: tức Thanh đế, thần giữ việc mùa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Thơ nàng Chu Thục Chân: "Nguyện giao Thanh đế thường vi chủ, mạc khiển phân phân điểm thuý đài" = mong cho Thanh đế thường làm chúa, giữ đừng để hoa rụng điểm xuống làm rêu xanh. Câu 1946 ý nói Thúc sinh không bảo vệ được cho Thuý Kiều, đã để tội cho nàng một mình phải gành chịu cảnh đày đạo.
Câu 1950: Cát lầm ngọc trắng: cát làm mờ đục cả viên ngọc trong sáng. Cả câu ý nói Thuý Kiều bị Hoạn thư đày đoạ như vậy thì cũng thiệt cả một thời trẻ trung.
Câu 1953: Tông đường: nhà thờ tổ tiên. Cả câu ý nói Thúc sinh còn chưa có con trai để nối dõi tông đường nên phải ở lại với Hoạn thư mà không thể bỏ trốn với Thuý Kiều được.
Câu 1954: Chữ đồng: chữ đồng tâm, cùng một lòng với nhau.
Cả câu ý nói Thúc sinh đành phải cắn răng (cam chịu) chia cắt mối tình với Thuý Kiều.
Câu 1955: Đá nát vàng phai: ý nói không giữ được lời thề vàng đá.
Câu 1956: Trăm thân dễ chuộc một lời: một lời là lời Thúc sinh đã nói với Thuý Kiều: "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta". Nay lời ấy đã không giữ được tì dẫu có đem trăm mạng người ra cũng không chuộc lại được.
Câu 1957: Chiếc bách: chiếc thuyền bằng gỗ bách, chỉ thân phận người con gái bấp bênh như chiếc thuyền gỗ ở giữa dòng nước chảy.
Câu 1957: Sóng đào: ("đào": sóng lớn) sóng to, sóng lớn.
Câu 1961: Hạt mưa rào: Thuý Kiều ý nói cũng liều mình cho sự may rủi như hạt mưa rào rơi vào đâu cũng đành chịu.
Cả hai câu 1961 - 1962 là ý Thuý Kiều muốn nói thân mình như hạt mưa sa, rơi vào đâu thì ở yên đó, cũng muốn ở luôn Quan Âm các mà cho thiên hạ trông vào thấy cái cảnh trớ trêu ấy cũng hay.
Câu 1963: Cầm đã bén dây: cái đàn đã hợp với sợi dây, ý nói vợ chồng đã quen hơi bén tiếng với nhau.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:08:08 bởi sóng trăng >