Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi, Bạc sinh xuống trước tìm nơi hỏi ngày. Cũng nhà hàng viện xưa nay, 2140 Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người. Xem người định giá vừa rồi, Mối hàng một, đã ra mười thì buông. Mướn người thuê kiệu rước nàng, Bạc đem mặt Bạc kiếm đường cho xa! 2145 Kiệu hoa đặt trước thềm hoa, Bên trong thấy một mụ ra vội vàng, Đưa nàng vào lạy gia đường, Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh! Thoạt trông nàng đã biết tình, 2150 Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao. Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen! 2155 Tiếc thay nước đã đánh phèn, Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần! Hồng quân với khách hồng quần, Đã xoay đến thế còn hờn chưa tha. Lỡ từ lạc bước, bước ra, 2160 Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Chú Thích: Câu 2139: Hành viện: cũng như thanh lâu là nhà chứa gái điếm.
Câu 2140: Phường bán thịt: chỉ bọn chứa gái điếm.
Câu 2140: Tay buôn người: chỉ bọn mua con gái về ép phải làm điếm.
Câu 2142: Buông: nhả mối hàng ra, chịu bán.
Câu 2144: Bạc đem mặt bạc: trong bản QVĐ cả hai chữ Bạc đều viết
chỉ họ Bạc, trong bản KOM cả hai chữ "bạc" đều viết
"bạc" là mỏng, bạc bẽo. Theo chúng tôi nghĩ thì bản QVĐ viết đúng hơn. Cứ để chữ Bạc viết hoa, cho là họ là tên mà chữ thứ hai theo cách chơi chữ vẫn có cái nghĩa bóng là bạc bẽo, bạc ác. Cả câu ý nói Bạc Hạnh bán được tiền xong xuôi vội đem cái mặt bạc ác của mình trốn đi mất không giám từ giã Thuý Kiều.
Câu 2145: Kiệu hoạ.. thềm hoa: chữ "hoa" ở đây được dùng cho đẹp lời thôi.
Câu 2147: Gia đường: gian nhà thờ tổ tiên, đây chỉ chỗ thờ tổ sư, tức thần mày trắng.
Câu 2150: Chim lồng: Thuý Kiều biết mình đã bị bán vào tay Bạc bà rồi, ví như con chim đã bị nhốt trong lồng, thì không có cách gì trốn đi đâu được nữa.
Câu 2151: Số đào hoa: theo sách Tử vi đẩu sổ thì con gái gặp phải sao đào hoa ở cung mệnh sẽ có nhiều đời chồng hoặc sẽ gặp phải cảnh giang hồ.
Câu 2155: Nước đã đánh phèn: nước đã đánh phèn cho trong.
Câu 2156: Lại vẩn lên: ý nói tấm thân đã muốn giữ cho trong sạch lại bị mắc vào vòng dơ bẩn như cũ.
Câu 2157: Hồng quân: ("hồng": lớn, quân: cái khuôn, cái bàn xoay để nặn đồ bằng đất) chỉ ông trời, đấng tạo hoá.
Câu 2157: Hồng quần: chỉ phụ nữ vì ở bên Trung Quốc xưa kia con gái mặc quần hồng.
_____________
Đầu xanh đã tội tình gì? Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi! Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. 2165 Lần thâu gió mát đêm thanh, Bỗng đâu có khách biên đình đến chơi. Râu hầm, hàm én, mày ngài, Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao. Đường đường một đấng anh hào, 2170 Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời, Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông. Giang hồ quen thú vẫy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. 2175 Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng. Thiếp danh đưa đến lầu hồng, Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa. Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ, 2180 Phải người trăng gió câu vờ hay sao? Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào động không? Một đời được mấy anh hùng, Bõ chi cá chậu, chim lồng, mà chơi!"
Chú Thích: Câu 2162: Đền: các bản nôm đều viết
hoặc
thì phải phiên âm là "đền". Cả câu ý nói cái nợ má hồng đã trả, đã đền quá nửa thì xuân xanh còn chưa hết.
Câu 2165: Lần thâu: ý nói thời gian đã lần lữa qua đi khá lâu rồi.
Câu 2166: Biên đình: chỗ biên giới xa xôi.
Câu 2168: Râu hùm, hàm én, mày ngài: tả cái tướng của người anh hùng. Từ Hải có "râu hùm, cằm én" là tướng mạo của Trương Phi và "mày ngài" là tướng mạo của Quan Vân Trường.
Câu 2168: Thân mười thước cao: Ở Trung quốc xưa, chiều dài của một tấc và một thước cũng thay đổi theo từng thời đại và cũng không có sự thống nhất trong cả nước.
Dưới thời nhà Chu (1066 tr CN - 221 sau CN) một thước (xích) chỉ dài có 20 cm chứ không phải 3,5 m như phép đo lường sau này.
Từ Hải mà Nguyễn Du tả thân mười thước cao thì cũng chỉ cao như vua Văn Vương mà thôi, nhưng thực ra con số này cũng thường chỉ có tính cách ước lệ để chỉ một người cao lớn phi thường.
Câu 2170: Côn quyền: ("côn": gậy, "quyền": nắm tay) phép đành võ bằng gậy và bằng tay, chỉ chung về tài võ nghệ.
Câu 2170: Lược thao: (tam lược và lục thao, tên hai bộ binh thư xưa truyền lại do Thái Công Vọng soạn) nói chung về tài dùng binh có mưu cơ.
Câu 2172: Việt Đông: thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay.
Câu 2173: Giang hồ: sông với hồ, chỉ người phiêu lưu nay đây mai đó.
Câu 2174: Gươm đàn... một chèo: cả câu này mượn ý ở hai câu thơ của Hoàng Sào: "Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy" = nửa vai cung kiếm tung trời đất, một mái chèo đi khắp núi sông.
Nguyễn Du đã đổi chữ "cung kiếm" ra là "gươm đàn" và cho rằng thanh gươm và cây đàn là hai vật tuỳ thân của người giang hồ phong lưu.
Hai chữ "gươm" và "đàn" đều là chữ nôm. Chữ "đàn" trong Hán văn chỉ được dùng làm động từ thôi.
Câu 2177: Thiếp danh: tấm giấy nhỏ có ghi tên họ.
Câu 2179: Tâm phúc tương cờ: ("tâm": lòng, "phúc": bụng dạ, "tương": cùng, "cờ" tức kỳ: hẹn) lấy tấm lòng chân thành cùng hẹn với nhau.
Câu 2180: Vật vờ: lông bông, lang thang, không nhất tâm.
Câu 2182: Mắt xanh: ý nói con mắt nhìn thẳng và kính trọng. Theo Tấn thư, Nguyễn Tịch khi tiếp người mà ông trọng thì nhìn thẳng lên để lộ tròng mắt xanh, khi tiếp người mà ông coi rẻ thì nhìn nghiêng nên để lộ tròng mắt trắng.
Cả câu 2182 ý Từ Hải muốn hỏi xem có phải Thuý Kiều chưa để ý đến ai không hoặc chưa cho ai là người tri kỷ không?
Câu 2184: Cá chậu chim lồng: chỉ hạng người tầm thường, chỉ mong sống an thân trong vòng kiềm toả.
__________________
2185 Nàng rằng: "Người dạy quá lời, Thân này còn dám xem ai làm thường! Xót riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu? Còn như vào trước ra sau, 2190 Ai cho kén chọn vàng thau tại mình? Từ rằng: "Lời nói hữu tình, Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Lại đây xem lại cho gần, Phỏng tin được một vài phần hay không? 2195 Thưa rằng: "Lượng cả bao dong, Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!" Nghe lời vừa ý, gật đầu, 2200 Cười rằng: "Tri kỉ trước sau mấy người! Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đứng giữa trần ai mới già! Một lời đã biết đến ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!" 2205 Hai bên ý hợp, tâm đầu, Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng đại, Tiền (?) trăm lại cứ nguyên quân chiếu hoàn.
Chú Thích: Câu 2187: Chọn đá thử vàng: chọn đá xem có đá quí, có ngọc không, thử vàng xem có vàng tốt không. Cả câu ý nói: riêng trong lòng cũng muốn tìm một người tử tế, một người tri kỷ trong đám khách đến chơi ở thanh lâu.
Câu 2188: Can tràng: gan ruột, ý nói nỗi lòng.
Câu 2190: Kén chọ vàng thau: ý nói lựa chọn kẻ tốt người xấu. Cả hai câu 2189-2190 ý nói đối với khách làng chơi thì phải "đưa người cửa trước, rước người cửa sau" đâu có quyền kén chọn kẻ tốt người xấu để tuỳ ý mà tiếp đâu.
Câu 2192: Câu Bình Nguyên quân: chỗ này Tản Đà có nhận xét rằng: "Nhân ở trên, lời Kiều có câu". Biêt đâu mà gửi can tràng vào đâu? Cho nên đây có câu này lời Từ Hải, là lấy bởi hai câu thơ Đường: "Bất tri can đảm hướng thuỳ thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân" song mà nhận ra hơi ngang nghĩa, chỗ ngang ở một chữ "câu".
Nhận xét ấy của Tản Đà là đúng vì chữ "câu" đây phải hiểu là "câu nói" của Bình Nguyên quân chứ không phải "câu thơ" của Cao Thích nói về Bình Nguyên quân.
Chúng ta đã biết rằng Bình Nguyên quân (Triệu Thắng) là một vị tướng thời Chiến quốc, có tính hào hiệp, mời khách ăn trong nhà hằng đến ba ngàn người. Khi nước Tần đem quân sang đánh kinh đô Hàm Đan, ông có kén một đoàn tuỳ tùng để sang cầu cứu bên nước Sở nhưng tìm mãi vẫn thiếu một người. Mao Toại cũn
Câu 2195: Bao dung: chỉ người có độ lượng che chở cho người khác.
Câu 2196: Tấn Dương: tên đất nay thuộc tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Cả câu ý nói Thuý Kiều tin rằng Từ Hải sẽ làm nên được nghiệp đế như Đường Cao tổ đã từ đất Tấn Dương dấy lên.
Câu 2200: Tri kỷ: ("tri": biết, "kỷ": mình) kẻ hiểu biết lòng mình.
Câu 2202: Trần ai: bụi bậm, ý nói lúc còn chưa làm nên, còn phải chịu gian nan khổ sở.
Câu 2204: Muôn chung nghìn tứ: ("chung": đồ dùng đong thóc đựng được 6 hộc 4 đấu, "tứ": xe đóng bốn ngựa) muôn chung thóc, nghìn cỗ xe bốn ngựa, ý nói được quyền cao chức trọng giàu sang phú quí.
Câu 2205: Ý hợp tâm đầu: ("đầu": hợp) ý hợp với nhau, lòng hợp với nhau, tức tình ý hoàn toàn hợp nhau.
Câu 2208: Nguyên ngân: nguyên số bạc đã bỏ ra mua Thuý Kiều.
Câu 2208: Phát hoàn: đưa trả lại.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:16:46 bởi sóng trăng >