Nghĩ rằng: "giận ghẻ hờn ghen, 1610 Xấu chàng mà có ai khen chi mình! Vậy nên ngảnh mặt làm thinh, Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày, Lâm Truy đường bộ tháng chầy, Mà đường hải đạo sang ngay thì gần. 1615 Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây thắm buộc chân nàng về. Làm cho, cho mệt, cho mê, Làm cho đau đớn, ê tòng cho coi! Trước cho bõ ghét những người, 1620 Sau cho để một tiếng cười về sau!" Phu nhân khen chước rất mầu, Chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay. Sửa sang buồm gió lèo mây, Khuyển Ưng lại chọn một vài côn quang. 1625 Dặn dò hết các mọi đường, Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. Nàng từ chiếc bóng song the, Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu. Bóng dâu đã xế ngang đầu, 1630 Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi. Tóc thề đã chấm quanh vai, Nào người non nước, nào người sắt son?
Chú Thích: Câu 1609: Ngứa ghẻ hờn ghen: ý nói hờn ghen như ngứa ghẻ, gãi chừng nào lại ngứa thêm chừng ấy, cũng như sự hờn giận nghen tuông càng nghĩ đến lại càng tăng thêm, không sao dập tắt đi được.
Câu 1614: Hải đạo: đường biển.
Câu 1615: Gia nhân: kẻ ăn ở trong nhà.
Câu 1618: Ê chề: đau đớn đến tái tê cả tinh thần, xấu hổ cả mặt mũi.
Câu 1621: Phu nhân: vợ của vị quan chức lớn. Đây chỉ Hoạn phu nhân, vợ của Quan Lại bộ Thượng thư.
Câu 1623: Buồm gió lèo mây: cánh buồm và dây lèo, dây lái ý nói đi mau như gió, như mây.
Câu 1624: Khuyển Ưng: chó săn và chim cắt. Trong chuyện hai chữ ấy được dùng để chỉ hai tên đày tớ đắc lực của Hoạn thư, sai đi bắt Thúy Kiều.
Câu 1624: Côn quang: gậy gộc, ý nói đến bọn du côn, côn đồ.
Câu 1626: Thuận phong: xuôi theo chiều gió.
Câu 1626: Một lá: một lá buồm.
Câu 1626: Biển Tề: Thuý Kiều ở Lâm Truy thuộc về phần đất nước Tề.
Câu 1627: Song the: cửa sổ có căng bức màn the.
Câu 1629: Bóng dâu: ý nói cha mẹ đã già rồi. Xem chú thích câu 1254.
Câu 1630: Ấm lạnh: ý Thuý Kiều lo lắng cho cha mẹ ở nhà không biết có được mạnh khoẻ không. Xem chú thích câu 918.
Câu 1630: Ngọt bùi: ý Thuý Kiều lo cho cha mẹ ở nhà không biết có được phụng dưỡng đầy đủ không. Xem chú thích câu 1258
Câu 1631: Tóc thề: tóc cắt lúc thề nguyền với Kim Trọng.
Câu 1632: Lời sắt son: lời thề chung thuỷ với nhau như son không thể phai, như sắt không thể hỏng.
_________________________
Sắn bìm chút phận con con, Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng? 1635 Thân sao lắm nỗi bất bằng? Liều như cung Quảng, ả Hằng, nghĩ nao! Đêm thu gió lọt song đào, Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời. Nén hương đến trước thiên đài, 1640 Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vi. Dưới hoa dậy lũ ác nhân, Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra! Đầy sân gươm tuốt sáng (?) loà, Thất kinh nàng chửa biết là làm sao. 1645 Thuốc mê đâu đã rưới vào, Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì! Dảy ngay lên ngựa tức thì, Phòng đào viện sách, tư bề lửa giong. Sẵn thây vô chủ bên sông 1650 Đem vào để đó, lận sòng ai thay? Tôi đòi phách lạc hồn bay, Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình. Thúc ông nhà cũng gần quanh, Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời. 1655 Tớ thầy nhảy thẳng đến nơi, Tơi bời tưới lửa, tìm người lao ....
Chú Thích: Câu 1633: Sắn bìm: cây dây leo vì với thân phận làm lẽ.
Câu 1634: Khuôn duyên: ý nói duyên số do trời định.
Câu 1635: Bất bằng: không bình yên gặp nhiều trắc trở.
Câu 1636: Cung Quảng: cung Quàng Hàn tức cung trăng. Cả câu ý nói khi Thúc sinh đi vắng. Thuý Kiều ở nhà một mình đành liều như Hằng Nga ở trong cung Quảng một mình.
Câu 1637: Song đào: cửa sổ có căng màn màu hoa đào. Thực ra các chữ "đào", "sa", "the", "mai", "hồ"... dùng với chữ "song" chỉ cốt cho đẹp lời mà thôi.
Câu 1638: Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời: câu này tả cảnh về ban đêm lúc đã khuya, khi ấy trên trời trăng hạ huyền đã lên cao và có lác đác vài ba ngôi sao. Hình ảnh của vành trăng và ba ngôi sao ấy gợi ra chữ
(tâm) khiến Thuý Kiều càng thêm nhớ Thúc sinh tức Thúc Kỳ Tâm.
Câu 1639: Thiên đài: bệ cao thờ ở ngoài sân tức cây hương. Ở đây phải chép là "thiên đài" mới đúng, vì theo nguyên truyện, Thuý Kiều đã vái trời: "Đê đê cao bái thiên đình" (lầm rầm khấn vái trời).
Câu 1641: Ác nhân: người hung ác, bọn côn đồ.
Câu 1642: Khốc quỉ kinh thần: ý nói bọn côn đồ hung dữ đến nỗi quỉ phải khóc, thần phải kinh.
Câu 1644: Thất kinh: sự mất vía mất hồn.
Câu 1648: Phòng đào: phòng của phụ nữ ở, màu hồng đào.
Câu 1649: Vô chủ: không có ai nhận làm thân nhân.
Câu 1650: Lận sòng: đánh tráo để lừa người ta. Cũng nói là lộn sòng.
Câu 1651: Tôi đòi: đày tớ trai và gái, nói chung kẻ hầu hạ trong nhà.
Câu 1651: Phách lạc hồn bay: ý nói sợ quá mất cả hồn vía.
Câu 1652: Pha càn: nhảy bừa vào, chạy vội vào.
____________
Gió cao ngọn lửa càng cao, Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu! Hớt hơ hớt hải nhìn nhau, 1660 Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng. Chạy ra chốn cũ phòng hương, Trông than thấy một đống xương cháy tàn, Tình ngay ai biết mưu gian, Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai! 1665 Thúc ông sùi sụt ngắn dài, Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na. Di hài nhặt sắp về nhà, Nào là khâm liệm, nào là tang trai Lễ thường đã đủ một hai, 1670 Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. Bước vào chốn cũ lầu thơ, Tro than một đống, nắng mưa bốn tường. Sang nhà cha, tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. 1675 Hỡi ôi! Nói hết sự duyên, Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan! Gieo mình vật vã khóc than: Con người thế ấy, thác oan thế này! Chắc rằng mai trúc lại vầy, 1680 Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau (?).
Chú Thích: Câu 1659: Hớt hơ hớt hải: tả bộ dạng hoảng hốt, sớn sác.
Câu 1660: Tìm quàng: tìm lung tung cả, tìm vội vã.
Câu 1661: Phòng hương: phòng phụ nữ ở.
Câu 1666: Nghĩ con: nghĩ đến Thúc sinh.
Câu 1666: Thương người: thương Thuý Kiều.
Câu 1667: Di hài: thi thể cháy chưa hết còn sót lại, đống xương tàn.
Câu 1668: Khâm liệm: ("khâm": lấy vải bọc xác người chết, "liệm": để xác người chết vào quan tài và đặt các đồ niệm vào) bọc xác người chết trước khi niệm quan.
Câu 1668: Tang trai: ("tang": làm đám ma, "trai": làm đám chay) làm ma, làm chay.
Câu 1669: Một hai: ý nói đủ cả, không thiếu gì.
Câu 1670: Lục trình: đi đường bộ.
Câu 1671: Lầu thơ: phòng đọc sách, phòng văn. Cũng nói là "lầu thư".
Câu 1673: Trung đường: ngôi nhà giữa hoặc gian chính giữa nhà.
Đây là ngôi nhà giữa. Các nhà giàu có thường làm thành ba dãy hình chữ tam
gọi là tiền đường, trung đường và hậu đường (tức nhà ngoài, nhà giữa và nhà trong). Thúc ông cho đặt bàn thờ Thúy Kiều ở trung đường vì Thuý Kiều mới chết còn thờ riêng, chưa đặt bài vị thờ chung với bàn thờ tổ tiên (thường đặt ở gian giữa ngôi nhà chính hoặc tiền đường).
Câu 1673: Đến: chữ "đến" đã tỏ rõ được vị trí của trung đường. Thúc sinh phải qua tiền đường rồi mới đến được trung đường.
Câu 1674: Linh sàng: ("sàng": giường) giường thờ, bàn thờ.
Câu 1674: Bài vị: tấm gỗ viết tên hiệu người chết để thờ (linh vị).
Câu 1675: Sự duyên: ("sự": việc, "duyên": căn nguyên, gốc rễ) câu chuyện từ đầu đến cuối, kể hết đầu đuôi ngọn ngành.
"Nói hết sự duyên": Thúc ông kể hết lại câu truyện cho Thúc sinh nghe.
Câu 1679: Mai trúc: chỉ vợ chồng. Xem chú thích câu 1381.
Cả câu ý nói: tưởng rằng vợ chồng lại sẽ vui vầy sum họp.
Câu 1680: Vĩnh quyết: ("vĩnh": lâu mãi, "quyết": từ biệt) từ biệt mãi, không bao giờ gặp lại nhau nữa, ý nói từ biệt hẳn, kẻ sống người chết.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 03:57:25 bởi sóng trăng >