TRUYỆN KIỀU BẢN 1866

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 110 bài trong đề mục
Tác giả Bài
sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 12:50:05
 






Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau,

Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.

Gần miền nghe có - -

Phi phù sát quỷ, cao tay thông huyền.

1685    Trên tam bảo, - - - - -

Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.

Sắm sanh lễ vật rước sang,

Xin tìm cho thấy mặt nàng, hỏi han.

Đạo nhân phục trước tĩnh đàn.

1690    Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương

Trở về minh bạch nói tường:

"Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra.

Người này nặng kiếp oan gia,

Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!

1695    Bột cung đang mắc nạn to,

Một năm nữa mới thăm dò được tin.

Hai bên giáp mặt chiền chiền,

Muốn nhận mà chẳng dám nhận lạ thay!"

Nghe lời nói lạ dường này,

1700    Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin.

Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,

Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?

Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,

Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!
 




Chú Thích:




Câu 1682:
Rấp thảm quạt sầu:  chôn lấp được nỗi buồn thảm, xua tan được nỗi sầu đau trong lòng.

Câu 1682:
Khuây:  khuây khoả, ý nói nguôi bớt nỗi buồn mà cảm thấy thanh thản đôi chút trong lòng.

Câu 1684:
Phi phù:  ("phi": bay, "phù": bùa) đốt lá bùa thổi tan cho bay đi.

Câu 1684:
Trí quỷ:  ("trí": đến) gọi quỷ thần đến.

Câu 1684:
Thông huyền:  thông được đến cõi huyền bí, hiểu suốt được đến quỉ thần.

Câu 1685:
Tam đảo:  ba núi tiên là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Trong bài "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị cũng có nói đến chuyện đạo sĩ gọi hồn nàng Dương Quí Phi phải lên cả non tiên để tìm. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "Tam bảo".

Câu 1685:
Cửu tuyền:  chín suối, tức âm phủ.

Câu 1689:
Đạo nhân:  tức đạo sĩ, thầy pháp.

Câu 1689:
Tĩnh đàn:  ("tĩnh": thanh tĩnh hư vô, chỉ cõi Phật, "đàn": nền đắp cao để tế lễ) bàn thờ để làm lễ, chỗ đắp nền cao để làm lễ.

Câu 1690:
Xuất thần:  thần hồn của đạo sĩ thoát ra khỏi thể xác để vào cõi thần linh dò xét.

Câu 1695:
Mệnh cung:  cung vận mệnh theo phép tính lá số tử vi. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "Bột cung".

Câu 1697:
Chiền chiền:  ý nói giáp mặt, rành rành ra đó.

Câu 1701:
Đồng cốt:  (nam gọi là "ông đồng", nữ gọi là "bà cốt") chỉ những người tin vào thần thánh rồi lên đồng cầu khấn xin thánh thần giáng để chỉ bảo mọi việc.

Câu 1701:
Quàng xiên:  ("quàng": bậy bạ) bậy bạ, xiên xẹo.

Câu 1703:
Tiếc hoa:  tiếc thương Thuý Kiều.

Câu 1703:
Ngậm ngùi xuân:  buồn bã cho mối tính xuân của mình ngắn ngủi.
 




sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 12:52:52
 





1705    Nước trôi hoa rụng đã yên,

Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!

Khuyển Ưng đã đắt mưu gian!

Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.

Buồm cao lèo thẳng cánh xuyền,

1710    Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.

Giã đò, lên trước sảnh đường,

Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.

Vực nàng tạm xuống môn phòng,

Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.

1715    Hoàng lương nghe tỉnh hồn mai,

Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?

Bàng hoàng dở tỉnh, dở say,

Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.

Ả hoàn trên dưới giục mau,

1720    Hãi (?) hùng nàng mới theo sau một người.

Nhìn trông toà rộng dãy dài.

Thiên quan gia tể có bài treo lên.

Ban ngày sáp thắp hai bên.

Trên giường thất bảo, ngồi trên một bà.

1725    Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,

Sự mình nàng đã cứ mà gửi thân.

Bất tình nổi trận mây mưa.

Việc nàng những giống bơ thờ quen thân.







Chú Thích:





Câu 1705:
Nước trôi hoa rụng:  tức hoa rụn nước trôi, dịch ở câu "hạc hoa lưu thuỷ" ý nói Thuý Kiều đã chết như đoá hoa rụng bị nước cuốn trôi đi mất.

Câu 1706:
Địa ngục:  ngục tù dưới âm phủ giam và trừng phạt linh hồn những kẻ có tội ở thế gian.
  Cả hai câu 1705-1706 ý nói: tưởng Thuý Kiều đã chết ai ngờ nàng vẫn còn sống và bị đày đoạ khổ sở ở trên thế gian này.

Câu 1709:
Lèo thẳng:  ("lèo": dây buộc để điều khiển cánh buồm) dây lèo căng thẳng vì cánh buồm gió thổi lên.

Câu 1709:
Cánh xuyền:  ("xuyền": đi nhanh, KOM chú) cánh buồm đi mau.

Câu 1711:
Giã đò:  dời đò lên bộ.

Câu 1711:
Sảnh đường:  ("sảnh": chỗ làm việc công, "đường": nhà chính), dinh thự, chỗ công thự, đây là nhà ở của mẹ Hoạn thư, chỗ tư dinh.

Câu 1713:
Môn phòng:  phòng của bọn môn hạ, của những người làm trong nhà.

Câu 1715:
Hoàng lương:  ("hoàng": vàng, "lương": kê) giấc mộng kê vàng. Theo "Chẩm trung ký", Lư sinh đi thi không đậu, vào quán gặp đạo sĩ Lã ông đương nấu nồi kê, Lư sinh than vãn, Lã ông đưa cho cái mượn gối nằm nghỉ. Lư sinh chiêm bao thấy mình thi đậu, lấy vợ giàu, làm quan tọ.. chợt tỉnh dậy, nồi kê vẫn chưa chín. Lã ông cười, nói: "Việc đời thì cũng như giấc mộng thôi!". Bởi thế mới gọi là giấc mộng hoàng lương.

Câu 1715:
Hồn mai:  giấc ngủ nhẹ nhàng của người đẹp. Theo sách "Long thành lục", Triệu Sư Hùng đi chơi núi La Phù (tỉnh Quảng Đông) gặp một người con gái đẹp dẫn vào quán rượu, uống say, nằm ngủ thiếp đi. Sáng dậy thấy mình nằm ngủ dưới gốc cây mai. Nghĩ lại thì chỉ là một giấc mộng.
  Cả câu này ý nói Thuý Kiều bị đánh thuốc mê bây giờ mới tỉnh.

Câu 1718:
Mảng tiếng:  chợt nghe tiếng.

Câu 1719:
Ả hoàn:  đày tớ gái trong các gia đình quyền quí xưa.

Câu 1722:
Thiên quan chủng tể:  chức quan lớn nhất triều đình, ngang với chức Tể tướng hoặc Thượng thư bộ Lại. Hoạn thư đã được giới thiệu là con quan Lại bộ...

Câu 1722:
Thiên quan chủng tể:  chức quan lớn nhất triều đình, ngang với chức Tể tướng hoặc Thượng thư bộ Lại. Hoạn thư đã được giới thiệu là "Con quan Lại bộ... "

Câu 1724:
Thất bảo:  bảy thứ vật quí dùng để khảm đồ là san hô, hổ phách, xa cừ, mã mão, vàng bạc, trân châu và lưu ly.

Câu 1724:
Giường thất bảo:  giường có khảm các vật quí.

Câu 1725:
Ngọn hỏi ngành tra:  tra hỏi đầu đuôi mọi việc.

Câu 1727:
Bất tình:  việc không ngờ, không nghĩ đến.

Câu 1727:
Trận mây mưa:  cơn giận dữ nổi lên đột ngột như mây kéo mưa sa.
  Cả câu ý nói đột nhiên Hoạn bà nổi giận mắng Thuý Kiều.

Câu 1728:
Bơ thờ:  ý nói không có gốc gac gì, cầu bơ cầu bất, sống lang bạt, không có nết na gì.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 12:55:34
 





Con này chẳng phải thiện nhân,

1730    Chẳng màu đạo chúa thì quân lộn chồng.

Ra tuồng mèo mả gà đồng,

Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

Đã đem mình bán cửa tao,

Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!

1735    Nào là gia pháp nọ bay!

Hãy cho ba chục biết tay một lần!

Ả hoàn trên dưới dạ rân,

Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!

Trúc côn ra sức đập vào,

1740    Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!

Xót thay đào lý một cành,

Một phen mưa gió, tan tành một phen!

Hoa nô truyền dạy đổi tên,

Phòng đào dạy ghép vào phiên thị tì.

1745    Ra vào theo lũ thanh y,

Dãi đèn mây rối da chì quản bao!

Quản gia có một mụ nào,

Thấy người thấy nết, ra vào mà thương.

Khi chè chén, khi thuốc thang,

1750    Đem lời phương tiện, mở đường hiê'u sinh.

Dạy rằng: "May rủi đã đành,

Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.







Chú Thích:





Câu 1729:
Thiện nhân:  người lương thiện.

Câu 1730:
Phường trốn chúa:  chỉ bọn nô tì bỏ chủ trốn đi, bọn bất lương.

Câu 1730:
Quân lộn chồng:  chỉ bọn con gái đàn bà hư hỏng, bỏ chồng mà đi theo trai.

Câu 1731:
Mèo mả gà đồng:  nói mèo ở mả, gà ở đồng, tức mèo hoang và gà hoang; dùng để ví với hạng con gái đi hoang, đồ vô lại không biết giữ phẩm tiết gì.

Câu 1735:
Gia pháp:  phép tắc nhà, được dùng để chỉ cái roi.

Câu 1735:
Nọ bay:  nọ tụi bay, chỉ bọn đầy tớ.

Câu 1738:
Khôn phân:  không phân giải được, không giải thích được.

Câu 1739:
Trúc côn:  gậy bằng tre.

Câu 1741:
Đào lý:  cây đào, cây mận ví với người phụ nữ đẹp.

Câu 1742:
Mưa gió:  mưa sa, gió táp.
  Cả hai câu 1741-1742 ý nói xót thay cho nàng Kiều như một cành đào, cành lý mà bị trận đòn tơi bời như gió táp mưa sa thì cũng phải tan tành hoa lá.

Câu 1743:
Hoa nô:  người đầy tớ gái. Hoạn bà truyền đổi tên Thuý Kiều và gọi là Hoa nô.

Câu 1745:
Thị tỳ:  người đày tớ gái.

Câu 1745:
Thanh y:  áo xanh, chỉ người đày tớ gái vì ngày xưa thường mặc áo màu xanh.

Câu 1746:
Tóc rốị.. da chì:  cả câu ý nói Thuý Kiều phải làm con hầu thì không có thì giờ mà chải chuốt, tóc rối không gỡ, ga dạm như chì cũng chẳng quản chi.

Câu 1747:
Quản gia:  người đứng cai quản các việc trong nhà trông coi cả bọn đày tớ.

Câu 1750:
Phương tiện:  như nhà Phật, "tuỳ phương nhân tiện dĩ vi lợi đạo = nhằm tuỳ phương tiện để dìu dắt chúng sinh. Nói rộng ra có thể giúp ai đôi chút cũng là phương tiện.

Câu 1750:
Lời phương tiện:  chỉ lời chỉ bảo cho Thuý Kiều về cách giữ gìn cư xử cho hợp với phép nhà họ Hoạn để tránh mọi sự trừng phạt khác.

Câu 1750:
Hiếu sinh:  lòng nhân đức muốn cứu sống cho người ta.

Câu 1752:
Liễu bồ:  hai thứ cây mềm yếu, chỉ người con gái.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 12:58:22
 





Cũng là oan nghiệp chi đây,

Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.

1755    Ở đây tai vách mạch rừng.

Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.

Kẻo khi sấm sét bất khi,

Con ong cái kiến kêu gì được oan!"

Nàng càng giọt ngọc như chan,

1760    Nỗi lòng no những bàng hoàng niềm tây.

Phong trần kiếp đã chịu đầy,

Lầm than lại có thứ này bằng hai!

Làm sao bạc chẳng vừa thôi,

Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!

1765    Đã đành túc trái tiền oan,

Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!

Những là nương náu qua thì,

Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia,

Mẹ con trò chuyện lân la,

1770    Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:

"Tiểu thư dưới trướng thiếu người,

Cho về bên ấy theo đòi lầu trang."

Lĩnh lời nàng mới theo sang,

Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu!

1775    Sớm khuya khăn mặt, lược đầu,

Phận con hầu giữ con hầu dám sai.









Chú Thích:





Câu 1753:
Oan nghiệp:  tiền oan nghiệp chướng, ý nói cái nghiệp do điều oán ở kiếp trước gây thành mà kiếp này mình phải chịu.

Câu 1755:
Tai vách mạch rừng:  vách có tai, rừng có mạch ý nói phải giữ gìn lời ăn tiếng nói vì ở đâu cũng có người nghe ngóng cả.
Cũng có người viết là "dừng" và hiểu "dừng" là do chữ "dứng" tức cốt vách bằng tre, nứa.

Câu 1756:
Quen thuộc:  chỉ Thúc sinh. Mụ quản gia cũng chỉ dám dặn như vậy, không dám nói rõ tên ra, sợ bị liên luỵ. Bản LVĐ chép là "người cũ".

Câu 1758:
Con ong cái kiến:  chỉ thân phận hèn mọn như hai con vật nhỏ bé ấy.

Câu 1759:
Giọt ngọc:  giọt nước mắt.

Câu 1760:
Bàn hoàn:  băn khoăn, nghĩ quanh quẩn.

Câu 1760:
Niềm tây:  nỗi niềm riêng.

Câu 1762:
Lầm than:  (bùn và than) cực khổ. Cả câu ý nói cái cảnh làm thanh y này còn khổ bằng hai cái cảnh ở thanh lâu.

Câu 1763:
Bạc:  phận bạc.

Câu 1764:
Khăng khăng:  cứ giữ chặt lấy không buông ra.

Câu 1764:
Người hồng nhan:  người đàn bà con gái đẹp mà bạc phận.

Câu 1765:
Túc trái:  (túc: trước, trái: nợ) nợ kiếp trước.

Câu 1765:
Tiền oan:  oan nghiệt đời trước gây ra.

Câu 1766:
Ngọc nát hoa tàn:  ý nói tấm thân tàn tạ của Thuý Kiều ví như ngọc đã nát, hoa đã tàn.

Câu 1768:
Ninh gia:  về thăm nhà cha mẹ.

Câu 1769:
Mẹ con:  Hoạn bà và Hoạn thư.

Câu 1771:
Tiểu thư:  ("tiểu": nhỏ, "thư": nàng) tiếng dùng để gọi con gái những nhà quyền quí.

Câu 1771:
Trướng:  bức màn.

Câu 1772:
Lầu trang:  chỗ phụ nữ ở và là nơi trang điểm.

Câu 1774:
Địa ngục... thiên đàng:  cả câu ý nói biết đâu là chỗ khổ sướng, bên nhà Hoạn bà hay bên nhà Hoạn thư, chưa thể biết được.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.02.2007 12:59:38 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:02:10
 





Phải đêm êm ả chiều trời,

Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.

Lĩnh lời nàng mới giở dây,

1780    Nỉ non thánh thót dễ say lòng người!

Tiểu thư xem cũng thương tài,

Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

Warning: imagepng(): Unable to open 'kieu/image_kieu/Nom14.png' for writing in /var/www/html/vnpf/kieufuncs.php on line 43

Warning: imagepng(): Unable to open 'kieu/image_kieu/Nom12.png' for writing in /var/www/html/vnpf/kieufuncs.php on line 43

Cửa người, đày đoạ chút thân,

Sớm năn nỉ bóng, đêm ngơ hận lòng.

1785    Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng,

Nước non để chữ tương phùng kiếp sau!

Bốn phương mây trắng một màu,

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.

Lần lần tháng trọn (?) ngày qua,

1790    Nỗi gần nào biết đường xa thế này?

Lâm Truy từ thuở uyên bay,

Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.

Mày xanh trăng mới giáp ngần,

Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa!

1795    Sen tàn, mai lại nở ra,

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.

Tìm đâu cho thấy cố nhân.

Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.

Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,

1800    Nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê.







Chú Thích:





Câu 1777:
Phải đêm:  gặp được đêm.

Câu 1778:
Trúc tơ:  ("trúc": là các thứ sáo, địch làm bằng cây trúc, "tơ": tức ti là các thứ đàn có dây tơ) đây ý nói nghề đàn, âm nhạc.

Câu 1782:
Khuôn uy:  khuôn phép, oai quyền của Hoạn thư "Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường".

Câu 1784:
Năn nỉ:  than vãn, than thở.

Câu 1784:
Ân hận:  day dứt trong lòng và tự trách mình về việc không hay đã xảy ra.

Câu 1785:
Đèo bòng:  mang lấy vào mình cho vường víu, bận bịu thêm.

Câu 1786:
Nước non:  chỉ lời thề thốt gắn bó với nhau.

Câu 1786:
Tương phùng:  gặp gỡ nhau.
  Cả hai câu 1785-1786 nói: Thuý Kiều nhớ đến Thúc sinh ở Lâm Truy nhưng lời thề thốt trăm năm đành để kiếp sau gặp lại vậy.

Câu 1787:
Mây trắng:  ý nói nhớ quê hương. Xem chú thích chữ "Mây bạc" câu 1599.

Câu 1788:
Cố quốc:  nước cũ, đây chỉ quê nhà.

Câu 1792:
Thương kẻ:  thương cho Thúc sinh.

Câu 1793:
Mày xanh... in ngần:  cả câu ý nói Thúc sinh thấy mặt trăng về đầu tháng trông còn mờ nét như lông mày xanh nhạt mà nhớ đến nàng Kiều. Chữ "xanh" đi với chữ "ngần". Nếu thay bằng chữ "ai" như bản KOM thì có vẻ cầu kỳ.

Câu 1794:
Phấn thừa hương cũ:  đây nói phấn thừa hương cũ của nàng Kiều để lại. Thực ra đó chỉ là tâm tưởng thôi chứ phòng lương của nàng Kiều đã bị đốt ra tro rồi.

Câu 1795:
Sen tàn, maị.. hoa:  ý nói hè đã qua từ lâu nay xuân đã tới.
  Cả câu 1795 và câu 1796 ý nói vừa giáp một năm rồi: hè qua, thu tới, đông hết, xuân sang.

Câu 1797:
Cố nhân:  người cũ, chỉ nàng Kiều.

Câu 1798:
Lấy câu vận mệnh:  ý nói để tự an ủi mình, cho rằng Thuý Kiều có bị chết cũng là do số mệnh.

Câu 1799:
Gia hương:  quê nhà.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:06:24





Tiểu thư đón cửa giã giề,

Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.

Nhà hương cao cuốn bức là,

Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.

1805    Bước ra một bước một dừng,

Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:

Phải rằng nắng quáng đèn loà.

Rõ ràng ngồi đó, chẳng là Thúc sinh?

Bây giờ tình mới rõ tình,

1810    Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai!

Chước đâu có chước lạ đời!

Người đâu mà lại có người tinh ma!

Rõ ràng thật lứa đôi ta,

Làm ra con ở, chúa nhà đôi nơi!

1815    Bề ngoài thơn thớt nói cười,

Mà trong nham hiểm chết người không dao.

Bây giờ đất thấp trời cao,

Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?"

Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ,

1820    Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời,

Sợ uy, dám chẳng vâng lời,

Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.

Sinh đà phách lạc hồn xiêu:

"Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?









Chú Thích:





Câu 1801:
Dã dề:  hỏi thăm vồn vã, vui mừng trò truyện khi gặp nhau.

Câu 1803:
Nhà hương:  như nhà lan, tức nhà có hương thơm, nơi ở của những người có đạo đức, có danh vọng. Cũng dùng để chỉ phòng ở của phụ nữ, như phòng hương, buồng lương.

Câu 1803:
Bức là:  bức màn the, màn lụa.

Câu 1807:
Nắng quáng đèn loà:  ý nói bị chói mắt mà không nhìn rõ được. Cả câu này và câu dưới ý nói rằng: Thuý Kiều trông thấy rõ ràng người ngồi đó là Thúc sinh, đâu có phải bị nắng quáng đèn loà mà nhìn lầm.

Câu 1809:
Bây giờ tình mới tỏ tình:  Thuý Kiều thông minh lẽ ra phải biết từ khi mới bị bắt về chứ! Sao đến bây giờ mới biết?

Câu 1810:
Mắc vào vành:  mắc vào vòng cạm bẫy.

Câu 1812:
Tinh ma:  tinh quái, quái ác.

Câu 1814:
Chúa nhà:  chủ nhà.

Câu 1815:
Thơn thớt:  nói cái bộ hời hợt giả dối bề ngoài, xoen xoét cái miệng.

Câu 1817:
Đất thấp trời cao:  ý nói không có cách gì kêu cứu được.

Câu 1820:
Ruột tằm đòi đoạn:  ruột rối như tơ tằm, đau đớn như đứt ra làm nhiều đoạn.

Câu 1821:
Dám chẳng vâng lời:  không dám ngỏ ra lời. Thúc sinh sợ Hoạn thư đến như vậy, thế mà lúc dụ dỗ Thuý Kiều lấy mình thì lại quả quyết rằng "Đường xa chớ ngại Ngô - Lào, trăm điều hãy cứ trông vào một ta".
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:01:54 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:09:36





1825    Nhân làm sao đến thế này?

Thôi thôi, ta đã mắc tay ai rồi!"

Sợ quen dám hở ra lời,

Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.

Tiểu thư trông mặt hỏi tra:

1830    Mới về có việc chi mà động dong?"

Sinh rằng: "Hiếu phục vừa xong,

Suy lòng trắc khởi (dĩ) đau lòng chung thiên.

Khen rằng: "Hiếu tử đã nên!

Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu."

1835    Vợ chồng chén tạc chén thù,

Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.

Bắt khoan bắt nhặt đến lời,

Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.

Sinh càng như dại như ngây,

1840    Giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi.

Dựng (?) đi, chợt nói chợt cười,

Cáo say, chàng đã đạm bài lảng ra.

Tiểu thư vội thét: "Con Hoa!

Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!"

1845    Sinh càng nát ruột tan hồn.

Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay!

Tiểu thư cười nói tỉnh say,

Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.







Chú Thích:





Câu 1830:
Động dong:  biến đổi sắc mặt vì có sự xúc động trong lòng.
  Sinh rằng: "Hiếu phục vừa xong,
  Suy lòng trắc khởi (dĩ), đau lòng chung thiên!"

Câu 1831:
Hiếu phục:  đồ y phục để tang. Mẹ của Thúc sinh như vậy mất đã ba năm rồi, Thúc sinh mới bỏ đồ tang.

Câu 1832:
Trắc khởi (dĩ) chữ này các bản Trương Vĩnh Ký, Hổ Đắc Hàm, Ưng Dự chép là "trắc ty".
  Quyển Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng phiên âm là "trắc tỵ". Quyển Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh cũng phiên âm là dĩ (trắc dĩ).
  Quyển Tự điển Trung Việt của Văn Tân đã phiên âm chữ là "kỷ".
  Các bản Truyện Kiều của Phạm Kim Chi, Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Thạch Giang, Đào Duy Anh... đều chép là "trắc dĩ" mà hầu hết đều viết hoa chữ "Dĩ", coi chữ ấy là tên một ngọn núi.
  Đúng ra chữ phải phiên là "khởi" (khỉ) mới có nghĩa. Bài "Trắc hỗ" (Kinh Thi, Nguỵ Phong 4) có câu: "Trắc bỉ khởi (khỉ) hề, chiêm vọng mẫu hề". Ta leo lên núi trọc (không có cây) kia, để ngóng trông mẹ. "Trắc khởi" (sau được dùng để chỉ người

Câu 1832:
Trắc hỗ:  được dùng để chỉ người con nhớ cha.

Câu 1832:
Trắc khởi:  được dùng để chỉ ngươi con nhớ mẹ.

Câu 1832:
Trắc cương:  được dùng để chỉ người em nhớ anh.

Câu 1832:
Chung thiên:  hết những ngày, ý nói cả cuộc đời.

Câu 1835:
Chén tạc chén thù:  ("tạc": mời, "thù": trả) chén chủ mời khách, chén khách mời trả lại chủ.

Câu 1836:
Trì hồ:  ("trì": cầm, "hồ": bầu rượu) cầm bầu rượu dứng hầu mà rót.

Câu 1837:
Bắt khoan bắt nhặt:  ("khoan": rộng, không vội, "nhặt": liền, mau, khít chặt) bắt bẻ từng li từng tí.

Câu 1841:
Ngảnh đi:  ý nói Thúc sinh không dám ngó mặt Kiều vì vừa thương vừa sợ nên phải tìm cách ngảnh đi mà vừa nói vừa cười (thiếu hẳn tự nhiên).

Câu 1846:
Chén mời:  chén Hoạn thư mời Thúc sinh do Thuý Kiều rót.

Câu 1846:
Ngậm bồ hòn:  bồ hòn thì đắng mà phải ngậm bồ hòn làm ngọt tất hẳn đau khổ lắm nhưng Thúc sinh cũng phải cạn chén mời ngay.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:12:22
 





Rằng: "Hoa nô đủ mọi tài,

1850    Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!"

Nàng đà tán hoán tê mê,

Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:

Bốn dây như khóc như than,

Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!

1855    Cùng trong một tiếng tơ đồng,

Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!

Giọt châu lã chã khôn cầm,

Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương.

Tiểu thư lại nẹt lấy nàng:

1860    "Cuộc vui gảy khúc đoạn tràng ấy chi!

Sao chẳng biết ý tứ gì?

Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi!"

Sinh càng thảm thiết bồi hồi,

Vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua.

1865    Giọt rồng canh đã điểm ba,

Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.

Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:

"Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!"

Sinh thì gan héo ruột đầy,

1870    Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.

Người vào chung gối loan phòng,

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.









Chú Thích:





Câu 1851:
Tán hoán:  tan nát cả tinh thần, mất cả tinh thần mà sinh ra ngơ ngẩn.

Câu 1852:
Bình the:  bình phong có căng the (vải thưa).

Câu 1855:
Tơ đồng:  (đồng: gỗ cây ngô đồng dùng làm đàn) chỉ chung cây đàn. "Tiếng tơ đồng": tiêng đàn.

Câu 1857:
Giọt châu:  giọt lệ, giọt nước mắt.

Câu 1857:
Lã chã:  ý nói nước mắt chảy dòng dòng.

Câu 1858:
Giọt sương:  giọt nước mắt. Thơ Nguyễn Khuyến có câu: "Tuổi già hạt lệ như sương", có bản chép là giọt Tương, lấy điển bà Nga Hoàng (xem chú thích câu 238) nhưng có vẻ cầu kỳ và cũng không hợp với Thúc sinh là đàn ông.

Câu 1860:
Khúc đoạn trường:  khúc đàn buồn bã nghe muốn đứt ruột.

Câu 1861:
Chẳng biết ý tứ:  chẳng biết giữ gìn gì, ngày vui mà lại gảy khúc đàn buồn.

Câu 1863:
Thảm thiết:  đau đớn như cắt ruột.

Câu 1863:
Bồi hồi:  bồn chồn ở trong lòng.

Câu 1865:
Giọt rồng:  giọt nước ở chiếc đồng hồ có chạm hình con rồng nhỏ xuống để đo thời gian. Bài "Cung từ" của Đường Tiết Phùng có câu: "Thuỷ trích đồng long trú lậu trường" = giọt nước của cái đồng hồ khắc hình con rồng nhỏ xuống đều đều (lậu) suốt cả ngày dài.

Câu 1865:
Canh đã điểm ba:  đêm có năm canh, khi sang canh ba thì đã nửa đêm rồi.

Câu 1866:
Can tâm:  thoả lòng, hả dạ.

Câu 1867:
Khấp khởi:  mừng hí hửng trong lòng.

Câu 1869:
Gan héo ruột đầy:  ý nói buồn bã đến héo cả lá gan và uất ức đầy cả trong ruột.

Câu 1871:
Loan phòng:  phòng đàn bà ở. Loan là con mái, phụng là con trống. Chung gối loan phòng: ý nói vợ chồng vào chung chăn gối với nhau.

Câu 1872:
Đèn chong:  đèn đốt để thâu canh.
 
 
______________
 





Bây giờ mới rõ tăm hơi,

Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!

1875    Chước đâu rẽ thuý chia uyên.

Đã ra đường đao, ai nhìn được ai!

Bây giờ một vực một trời,

Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi!

Nhẹ như bấc, nặng như chì,

1880    Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên!

Lỡ làng chút phận thuyền quyên,

Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?

Một mình âm ỉ đêm chầy,

Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.

1885    Sớm khuya hầu hạ đài doanh.

Tiểu thư chạm mặt, đè tình hỏi tra.

Lựa lời nàng mới thưa qua:

"Phải khi mình lại xót xa nỗi mình."

Tiểu thư lại hỏi Thúc sinh:

1890    "Cậy chàng tra lấy, thực tình cho nao!"

Sinh đà rát ruột như bào,

Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang!

Những e lại luỵ đến nàng,

Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.

1895    Cúi đầu quì trước sân hoa.

Thân cung nàng mới lên qua một lời.







Chú Thích:





Câu 1873:
Tăm hơi:  ("tăm": bọt ở dưới đáy nước nổi lên cho biết là có cá) tin tức lộ ra ngoài, bể sâu kín của câu chuyện, mưu sâu bị lộ ra.

Câu 1874:
Lạ đời nhà ghen:  ke ghen tuông ít thấy có ở đời.

Câu 1875:
Rẽ thuý chia uyên:  ("thuý": chim phỉ thuý, "uyên": chim uyên ương) thuý và uyên là hai loại chim thường hay đậu cặp, bay cặp. "Rẽ" và "chia" là nói cảnh đôi chim trống mái bị chia rẽ, đây nói việc Hoạn thư làm cho Thúc sinh và Thuý Kiều phải rời bỏ nhau.

Câu 1877:
Một vực một trời:  ý nói bên là Thuý Kiều bị đày làm con ở như rớt xuống vực sâu, một bên là Thúc sinh bị Hoạn thư bắt lên vai ông chủ như mình ở ngôi cao ví như trên trời, hai bên không còn sánh với nhau được nữa.

Câu 1878:
Khinh trọng... thị phi:  cả câu ý nói địa vị Hoạn thư và Thuý Kiều đã rõ ràng không còn có chuyện so sánh bên trọng bên khinh, không còn có chuyện thi phi của những người đồn đại về tin Thúc sinh có vợ lẽ nữa.

Câu 1879:
Nhẹ như bấc, nặng như chì:  ý nói cách ăn nói của Hoạn thư thật thâm trầm nham hiểm, khi thì nhẹ như bấc, khi thì nặng như chì, không làm sao mà lường cho được.

Câu 1880:
Gỡ cho ra nữa:  có nghĩa là gỡ cho ra được đi nữa tức là khi Thuý Kiều có gỡ ra được khỏi tay Hoạn thư đi nữa thì cũng chẳng còn gì là duyên.
  Bản QVĐ khắc chữ thì phải đọc là nữa.
  KOM đã sửa lại là (nợ). Trương Vĩnh Ký đã chép câu này là: "Gỡ ra cho được còn gì là duyên?" thì đúng ý với câu bản QVĐ đã chép.

Câu 1882:
Bể sâu sóng cả:  ý nói Thuý Kiều đã sa vào tay Hoạn thư, người có lòng sâu hiểm, thì cũng như đi trên chiếc thuyền nhỏ giữa bể sâu sóng lớn khó an toàn được.

Câu 1885:
Đài doanh:  lâu đài dinh thự của những bậc quyền quí, đây chỉ nhà ở của Hoạn thư.

Câu 1886:
Đè tình:  đoán theo tình ý.

Câu 1890:
Cho nao:  chữ "nao" chính là chữ "nào" đọc theo thượng bình thanh, cũng như "nghĩ nao", "lắm nao".

Câu 1892:
Chẳng đang:  chẳng đành lòng, chẳng nỡ lòng.

Câu 1896:
Thân cung:  ("thân": tỏ bày, "cung": khai ra) trình bày ra cho rõ ràng.
 
 
__________________
 





Diện tiền trình với tiểu thơ,

Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.

Liền tay trao lại Thúc sinh,

1900    Rằng: "Tài nên trọng mà tình nên thương!

Ví chăng có số giàu sang,

Trái này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!

Bể trần chìm nổi thuyền quyên,

Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!"

1905    Sinh rằng: "Thật có như lời,

Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!

Nghìn xưa âu cũng thế này,

"bây giờ âu liệu bớt tay mới vừa."

Tiểu thư rằng: "Ý trong tờ,

1910    Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không.

Thôi thì thôi cũng chiều lòng,

Cũng cho nghỉ nghị trong vòng bước ra.

Sẵn Quan âm các vườn ta,

Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

1915    Có cổ thụ, có sơn hồ,

Cho nàng ra đó, giữ chùa chép kinh."

Tâng tâng trời mới bình minh,

Hương hoa ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.

Đưa chàng đến trước Phật đường,

1920    Tam qui ngũ giới cho nàng xuất gia







Chú Thích:





Câu 1897:
Diện tiền:  trước mặt.

Câu 1898:
Ngẩn ngơ:  ý nói hơi đờ người ra vì xúc cảm và cũng vì ngạc nhiên.

Câu 1902:
Nhà vàng:  do chữ "kim ốc" là nhà cửa rất đẹp đẽ, sang trọng.
  Theo "Hán Vũ cố sự", Hán Vũ đế hồi còn bé, có lần được bà cô hỏi đùa: "Cháu có muốn lấy vợ không?" Nhà vua cười đáp: "Nếu lấy được A Kiều thì cháu sẽ làm nhà vàng cho nàng ở" (Nhược đắc A Kiều đương dĩ kim ốc trữ chi). Về sau lên ngôi vua, Vũ Đế lập A Kiều làm hoàng hậu.

Câu 1908:
Từ bi:  ("từ": yêu thương, "bi": thương xót). Đức Phật lấy lòng từ bi thương xót chúng sinh, muốn cho ai cũng được vui sướng và thoát được cảnh khổ não.

Câu 1910:
Cửa không:  cửa chùa gọi là cửa không (không môn) vì nhà Phật coi mọi sự, moi vật đều là hư không cả. Cũng gọi là "cửa từ", "cửa thiền".

Câu 1912:
Luỵ:  điều khổ vướng phải, vòng gian khổ.

Câu 1913:
Quan âm các:  gác thờ đức Quan Thế Âm, vị Bồ tát thường cứu khổ chúng sinh.

Câu 1914:
Có cây trăm thước, hoa bốn mùa:  do câu Bồ đề bách xích thụ, bát nhã tứ thời hoa = cây bồ đề cao trăm thước, hoa bát nhã nở bốn mùa.
  Câu 1913-1914 chỉ có ý nói Quan Âm các nhà Hoạn thư cũng không kém gì một cảnh chùa chứ không phải là tả cảnh thực. Cảnh thực ở nhà Hoạn thư được tả tiếp theo ở câu 1915. "Có cổ thụ, có sơn hồ": nghĩa là có cây cổ thụ, có núi giả và có cả hồ nước nữa.

Câu 1916:
Tụng kinh:  tụng kinh niệm Phật là việc chính còn chép kinh chỉ là việc làm thêm để Thuý Kiều lúc nào cũng bận, không có thì giờ rảnh mà nghĩ đến Thúc sinh nữa.

Câu 1918:
Ngũ cúng:  năm thức cũng Phật là: hương, đèn, trà, hoa và quả (trái cây).

Câu 1920:
Tam qui:  ("qui": dốc lòng tin theo) nhà Phật có ba phép qui y : qui y Phật, qui y pháp, qui y tăng. "Qui y" là bỏ nơi tối tăm mà đem cả thân tâm quay về nơi sáng tỏ.

Câu 1920:
Ngũ giới:  năm điều răn cấm đối với người tu theo đạo Phật: cấm sát sinh, cấm ăn trộm, cấm tà dâm, cấm uống rượu và cấm nói càn nói bậy.

Câu 1920:
Xuất gia:  rời khỏi nhà vào chùa đi tu.
 
 
__________________________
 





Áo xanh đổi lấy cà sa,

Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.

Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,

Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.

1925    Nàng từ lánh dấu vườn hoa,

Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.

Nhân duyên đâu lại còn mong,

Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi!

Phật tiền thảm lấp sầu khơi

1930    Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.

Cho hay giọt nước cành dương,

LÒ lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

Sồng nâu từ trở mầu thiền,

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.

1935    Cửa phòng then nhặt lưới mau,

Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người.

Gác kinh viện sách đôi nơi,

Trong gang tấc lại gấp mười quan san.

Những là ngậm thở nuốt than,

1940    Tiểu thơ phải buổi vấn an về nhà.

Thừa cơ sinh mới lẻn ra,

Xăm xăm đến mé vi hoa với nàng.

Sụt sùi giở nỗi đoạn trường,

Giọt châu tầm tã đượm dài áo xanh:







Chú Thích:





Câu 1921:
Áo xanh:  áo của những người đày tớ gái ở các nhà quyền quí mặc.

Câu 1921:
Cà sa:  áo của nhà sư mặc. "Cà sa" chính nghĩa là hoại sắc (nhuộm cho xuống màu, cho mất cái giá trị nơi thương trường, như nhuộm nâu). Mặc áo cà sa tức là xa lìa việc thế tục, rời bỏ cảnh lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).

Câu 1922:
Pháp danh:  nhà Phật gọi đạo là pháp cho nên giảng đạo gọi là thuyết pháp, tên của người tu theo đạo Phật gọi là pháp danh.

Câu 1924:
Xuân, Thu:  Xuân Hoa, Thu Nguyệt, là tên hai đứa hầu gái được cắt ra để lo việc thắp hương, pha trà. Thực ra Hoạn thư đã cho hai đứa hầu gái ra để canh chừng Thúy Kiều, không cho có dịp được gặp Thúc sinh.

Câu 1926:
Rừng tía:  do chữ "tử trúc lâm" ở truyện Tây du, là nơi đức Quan Thế Âm Bồ tát ở.

Câu 1926:
Xa bụi hồng:  xa cõi trần tục.

Câu 1928:
Thẹn phấn tủi hồng:  cả câu ý nói đi tu cho Hoạn thư khỏi làm nhục mình là được rồi.

Câu 1930:
Pho thủ tự:  pho kinh chép tay ra. Hoạn thư giao cho Thuý Kiều chép bộ kinh để nàng có việc làm qua ngày, khỏi nghĩ vơ vẩn đến Thúc sinh.

Câu 1930:
Nồi tâm hương:  nồi hương, đốt để tụng niệm cầu nguyện, cũng như bát hương.

Câu 1931:
Giọt nước cành dương:  theo "Pháp uyển châu lâm" có người Thiên Trúc tên là Đồ Trừng lấy nước cành dương rẩy lên mình con trai ông Thạch Lặc gần chết lại tỉnh dậy. Đây nói đến phép mầu của đạo Phật.

Câu 1933:
Nâu sồng:  áo màu nâu của người tu hành mặc.
  Cả câu ý nói từ khi khoác áo tu hành ở Quan Âm các.

Câu 1933:
Thiền:  yên tịnh, lặng lẽ suy xét. Đạo Phật lấy thanh tĩnh xét tỏ chân lý làm tôn chỉ nên gọi là "thiền".

Câu 1935:
Quan phòng:  đóng cửa canh giữ. Cả câu ý nói Hoạn thư cho canh phòng nghiêm nhặt, cửa đóng cài then không cho Thúc sinh gặp được Thúy Kiều. Sự canh gác cẩn mật chẳng khác nào như căng lưới bao kín chung quanh.

Câu 1937:
Gác kinh:  gác ngồi chép kinh, chỉ Quan Âm các.

Câu 1937:
Viện sách:  chỉ phòng đọc sách của Thúc sinh.

Câu 1938:
Quan san:  cửa ải và núi non, chỉ sự xa xôi cách trở.

Câu 1939:
Ngậm thở ngùi than:  ngậm ngùi than thở, buồn rầu than thở.

Câu 1940:
Vấn an:  hỏi thăm sức khoẻ.

Câu 1944:
Áo xanh:  do chữ thanh sam dịch ra, là áo của người học trò, khác với thanh y là áo của người hầu gái.

Câu 1944:
Đượm:  ướt đẫm.
 
 
______________________
 





1945    "Đã cam chịu bạc với tình,

Chúa xuân để tội một mình cho hoa.

Thấp cơ thua trí đàn bà,

Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.

Vì ta cho luỵ đến người,

1950    Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh.

Quản chi trên gác dưới duềnh,

Cũng toan sống thác với tình cho xong.

Tông đường chút chửa cam lòng,

Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.

1955    Thẹn mình đá nát vàng phai,

Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?"

Nàng rằng: "Chiếc bách sóng đào,

Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!

Chút thân quằn quại vũng lầy,

1960    Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?

Cũng liều một giọt mưa rào,

Mà cho thiên hạ trông vào cũng thay!

Chút vì cầm đã bén dây,

Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.

1965    Liệu bài mở cửa cho ra,

Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu!"

Sinh rằng: "Riêng tưởng bấy lâu,

Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường?







Chú Thích:





Câu 1946:
Chúa xuân:  tức Thanh đế, thần giữ việc mùa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Thơ nàng Chu Thục Chân: "Nguyện giao Thanh đế thường vi chủ, mạc khiển phân phân điểm thuý đài" = mong cho Thanh đế thường làm chúa, giữ đừng để hoa rụng điểm xuống làm rêu xanh. Câu 1946 ý nói Thúc sinh không bảo vệ được cho Thuý Kiều, đã để tội cho nàng một mình phải gành chịu cảnh đày đạo.

Câu 1950:
Cát lầm ngọc trắng:  cát làm mờ đục cả viên ngọc trong sáng. Cả câu ý nói Thuý Kiều bị Hoạn thư đày đoạ như vậy thì cũng thiệt cả một thời trẻ trung.

Câu 1953:
Tông đường:  nhà thờ tổ tiên. Cả câu ý nói Thúc sinh còn chưa có con trai để nối dõi tông đường nên phải ở lại với Hoạn thư mà không thể bỏ trốn với Thuý Kiều được.

Câu 1954:
Chữ đồng:  chữ đồng tâm, cùng một lòng với nhau.
  Cả câu ý nói Thúc sinh đành phải cắn răng (cam chịu) chia cắt mối tình với Thuý Kiều.

Câu 1955:
Đá nát vàng phai:  ý nói không giữ được lời thề vàng đá.

Câu 1956:
Trăm thân dễ chuộc một lời:  một lời là lời Thúc sinh đã nói với Thuý Kiều: "Trăm điều hãy cứ trông vào một ta". Nay lời ấy đã không giữ được tì dẫu có đem trăm mạng người ra cũng không chuộc lại được.

Câu 1957:
Chiếc bách:  chiếc thuyền bằng gỗ bách, chỉ thân phận người con gái bấp bênh như chiếc thuyền gỗ ở giữa dòng nước chảy.

Câu 1957:
Sóng đào:  ("đào": sóng lớn) sóng to, sóng lớn.

Câu 1961:
Hạt mưa rào:  Thuý Kiều ý nói cũng liều mình cho sự may rủi như hạt mưa rào rơi vào đâu cũng đành chịu.
  Cả hai câu 1961 - 1962 là ý Thuý Kiều muốn nói thân mình như hạt mưa sa, rơi vào đâu thì ở yên đó, cũng muốn ở luôn Quan Âm các mà cho thiên hạ trông vào thấy cái cảnh trớ trêu ấy cũng hay.

Câu 1963:
Cầm đã bén dây:  cái đàn đã hợp với sợi dây, ý nói vợ chồng đã quen hơi bén tiếng với nhau.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:08:08 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:15:28
 





Nữa khi giông tố phũ phàng,

1970    Thiệt riêng đấy, cũng lại càng cực đây.

Liệu mà cao chạy xa bay,

Ái ân ta có ngần này mà thôi!

Bây giờ kẻ ngược người xuôi,

Biết bao giờ lại nối lời nước non?

1975    Dẫu rằng sông cạn đá mòn,

Con tằm đến chết cũng còn kéo tơ."

Cùng nhau kể lể sau xưa,

Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.

Mặt trông tay chẳng nỡ rời,

1980    Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.

Nhận ngừng nói tủi (?) đứng ra,

Tiểu thư đâu đã lánh hoa bước vào.

Cười cười nói nói ngọt ngào,

Hỏi: "Chàng mới ở chốn nào lại chơi?"

1985    Dối quanh sinh mới liệu lời:

"Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh."

Khen rằng: "Bút pháp đã tinh,

So vào với thiếp hương đình nào thua!

Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

1990    Nghìn vàng thực cũng nên mua lấy tài!

Thuyền trà cạn nước hồng mai,

Thong dong nối gót thư trai cùng về.







Chú Thích:





Câu 1969:
Dông tố:  mưa to gió lớn. Cả câu ý nói sợ nhỡ khi Hoạn thư giận dữ mà gây nên chuyện bất bình.

Câu 1974:
Nối lời nước non:  nối được lời thề trăm năm chung sống với nhau.

Câu 1975:
Sông cạn đá mòn:  ý nói trải qua thời gian lâu dài, đã có nhiều biến đổi.

Câu 1976:
Con tằm... vương tơ:  cả câu ý nói lòng Thúc sinh không bao giờ quên được Thuý Kiều dù có xa cách cũng vẫn còn vương vấn.

Câu 1977:
Sau xưa:  trước sau mọi chuyện.

Câu 1980:
Hoa tì:  người hầu gái ở các nhà quyền quí xưa, cũng gọi là hoa nô.

Câu 1981:
Nhận ngừng:  nén chặn sự cảm động và ngừng ngay sự tâm tình, làm ra vẻ tự nhiên. Vì chữ nhận ngừng hơi khó hiểu và không được thông dụng nên bản Hồ Đắc Hàm đã chép là "Ngại ngần nuốt tủi lảng ra" và hai bản Bùi Khánh Diễn - Tản Đà đã chép là: "Ngập ngừng nuốt tủi lảng ra".

Câu 1983:
Ngọt ngào:  nói êm dịu như không, vẫn vui vẻ tươi cười làm như không có chuyện gì.

Câu 1987:
Bút pháp:  phép viết, lối viết chữ nho.

Câu 1988:
Thiếp Lan đình:  Vương Hy Chi, người đời Tấn, nổi danh về chữ tốt hơn là về văn thơ nên các sách văn học sử không chép tên ông và ông cũng chỉ lưu truyền có mỗi một bài "Lan đình tập tự" (Lan đình là tên một cái đình bên sông Lan Chữ xưa Vương Hy Chi và mấy người bạn hay ngâm thơ ở đó). Bài tự tập thơ Lan đình này ông làm rồi viết ra thiếp, văn đã hay, chữ lại đẹp, người ta gọi là thiếp Lan đình.
  Cả câu ý nói: chữ Thuý Kiều chép kinh rất đẹp nếu đem so với chữ của Vương Hy Chi trong thiếp Lan đình thì cũng không thua kém gì. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "Thiếp Hương đình".

Câu 1989:
Lưu lạc giang hồ:  ý nói bị xa lìa quê hương lang thang khắp nơi.

Câu 1991:
Thiền trà:  ("thiền": hoặc thuyền chỉ nhà chùa) chén trà của nhà chùa. Bản TVK-BK-TTK đều viết "thuyền" như ở các câu:
  1933. Nâu sồng từ trở màu thuyền
  2061. Cửa thuyền vừa cữ cuối năm.
  Bản LVĐ-DMT viết là (thuyền = cái thuyền) chữ cốt ghi âm. Chữ "thiền" nguyên gốc không phải là chữ Hán mà chỉ là chữ phạn Dhyana tức là "thiền na" sau rút gọn lại là "thiền". Có nghĩa là Phật gia, Phật tự, tăng già, thiền, thiền định.

Câu 1991:
Hồng mai:  các sách thường giảng là nước gỗ mai già, sắc nước đỏ hồng nên gọi là "hồng mai".

Câu 1992:
Thư trai:  phòng đọc sách, cũng như viện sách.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:18:02
 





Nàng càng e lệ ủ ê,

Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.

1995    Hoa rằng: "Bà đến bấy lâu,

Dón chân đứng núp độ đâu nữa giờ.

Rành rành kẽ tóc chân tơ,

Mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường:

Bao nhiêu đoạn khổ tình thương.

2000    Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.

Ngăn tôi đứng lại một bên,

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu."

Nghe thôi, kinh hãi xiết đâu:

Đàn bà thể ấy, thấy âu một người!

2005    Ấy mới gan, ấy mới tài,

Nghĩ càng thêm nỗi đắng cay rụng rời!

Người đâu sâu sắc nước đời,

Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!

Thực tang, bắt được dường này,

2010    Máu ghen ai cũng chau mày cắn răng.

Thế mà im chẳng đãi đằng,

Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng!

Giận dầu ra dạ thế thường,

Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu.

2015    Thân ta, ta phải lo âu,

Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!







Chú Thích:





Câu 1995:
Hoa:  tức hoa tì.

Câu 1996:
Dón chân:  đi nhẹ trên đầu ngón chân để không gây ra tiếng động.

Câu 1997:
Kẽ tóc chân tơ:  ý nói nghe hết câu truyện từng li từng tí một, không sót điều gì.

Câu 2000:
Vật vã:  ý nói giậm chân vật mình tỏ ý đau khổ.

Câu 2006:
Sởn gai:  rợn ốc gai mình, ý nói kinh sợ.

Câu 2008:
Thúc... bó tay:  Thúc là họ của Kỳ Tâm tức Thúc sinh. Chữ "thúc" lại có nghĩa là bó tay chịu thua (thúc thủ) được dùng ở đây như một cách chơi chữ của Nguyễn Du.

Câu 2009:
Thực tang:  quả tang, có tang chứng rõ ràng trước mắt cũng như nói bắt được tại chỗ khi công việc đang xảy ra.

Câu 2010:
Chau mày nghiến răng:  ý nói tức giận lắm đến nỗi phải chau mày nghiến răng.

Câu 2011:
Đãi đằng:  nói đả động đến.

Câu 2013:
Giận dầu:  chữ dầu có thể hiểu là "thế ru" hoặc cũng có thể coi như tiếng thêm lót như Tản Đà đã ghi chú.
  Câu 2013-2014 là mượn ý ở câu: "Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả trắc dã" của Ngư Triều Ân (đời Đường) có nghĩa là giận ấy là tình thường, cười ấy mới không sao lường được. Ở đây Thuý Kiều nghĩ rằng thấy việc như vậy mà Hoạn thư không tức giận như thường tình lại vẫn tươi cười vui vẻ thì thật là nham hiểm không thể lường được.

Câu 2016:
Miệng hùm nọc rắn:  ý nói nguy hiểm chết người.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:20:29
 





Ví chăng chắp cánh cao bay,

Trèo cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!

Phận bèo bao quản nước sa,

2020    Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.

Chỉn e quê quán một mình,

Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!"

Nghĩ đi, nghĩ lại quanh co.

Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.

2025    Bên mình giắt để hộ thân,

Lần nghe canh đã một phần trống ba.

Cất mình qua ngọn tường hoa,

Lần đường theo bóng trăng tà về tây.

Mịt mù dặm cát đồi cây,

2030    Tiếng gà điếm cỏ, dấu giày cầu sương.

Canh khuya thân gái dặm trường.

Phần e đường sá, phần thương dãi dầu.

Trời đông vừa rạng ngàn dâu,

Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!

2035    Chùa đâu trông thấy nẻo xa,

Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.

Xăm xăm gõ mé cửa ngoài,

Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong.

Thấy âu ăn mặc nâu sồng,

2040    Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.







Chú Thích:





Câu 2017:
Ví chăng:  ví chăng, nếu không.

Câu 2018:
Rào cây:  cắm cọc chung quanh để giữ gìn cho cây khỏi bị phá hoại. Cả hai câu 2017-2018 ý nói nếu chẳng chạy trốn đi mà cứ ở lại trong sự bao vây theo dõi của Hoạn thư thì tất cũng sẽ có ngày bị hãm hại. Bản LVĐ 66 và 71 chép là "trèo cây".

Câu 2021:
Chỉn e:  chỉ sợ.

Câu 2024:
Đồ kim ngân:  chỉ chuông vàng khánh bạc.

Câu 2025:
Hộ thân:  phòng bị cho thân mình gặp lúc khó khăn.

Câu 2027:
Cất mình:  nhảy qua.

Câu 2027:
Tường hoa:  tường nhà ngăn cách với ngoài đường cái, vì ở chân tường hay trồng hoa nên gọi là "tường hoa". Cũng có khi được dùng cho đẹp lời như "tường gấm".

Câu 2030:
Điếm cỏ... cầu sương:  điềm canh dưới trăng, cầu ván có sương ướt. Câu thơ này mượn ý tư hai câu thơ của Ôn Đình Quân: "Kê thanh mao điếm nguyệt, nhân tích bản kiều sương" = tiếng gà gáy ở dưới bóng trăng bên điếm cỏ, vết chân người đi đã thấy có dấu để lại trên cái cầu gỗ có sương phủ. Câu thơ của Nguyễn Du còn tả thêm được tâm trạng của Thuý Kiều nghe tiếng gà gáy sợ trời sáng và thấy vết chân người sợ có kẻ đã đuổi theo.

Câu 2036:
Chiêu Ẩn am:  tên của chùa nhỏ này có ý nghĩa là chiêu gọi những người đi ẩn tránh.

Câu 2036:
Chữ bài:  chữ đề.

Câu 2038:
Trụ trì:  ("trụ": còn đấy, "trì": giữ) trụ trì tam bảo. Phật tuy nhập Niết bàn rồi nhưng tượng Ngài còn lưu lại cũng như Phật còn mãi ở đời thế là "trụ trì Phật bảo", kinh sách của Phật còn lưu truyền mãi ở đời thế là "trụ trì Pháp bảo", các vị sư còn kế tục lo Phật sự thế là "trụ trì tăng bảo". Vì thế vị sư nào làm chủ trông nom một ngôi chùa cũng gọi là trụ trì.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:23:10





Gạn gùng ngành ngọn cho tường,

Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh:

"Tiểu thiền quê ở Bắc kinh,

Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu.

2045    Bản sư rồi cũng đến sau,

Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh."

Rày vâng diện hiến rành rành,

Chuông vàng, khánh bạc bên mình giở ra.

Xem qua sư mới dạy qua:

2050    "Phải ni Hằng Thuỷ là ta hậu tình.

Chỉn e đường sá một mình,

Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày."

Gửi thân được trốn am mây,

Thái dưa đắp đổi, tháng ngày thong dong,

2055    Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,

Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.

Sớm khuya ra mái, phướn mây,

Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nặng sương.

Thấy nàng thông tuệ khác thường,

2060    Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.

Cửa thiền vừa đã cuối xuân,

Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.

Gió quang mây tạnh thảnh thơi,

Có người đàn việt lên chơi cửa già.







Chú Thích:





Câu 2043:
Tiểu thiền:  những người mới đi tu ở chùa gọi là tiểu, Thuý Kiều còn trẻ nên tự xưng như vậy.

Câu 2045:
Bản sư:  sư thầy của mình.

Câu 2046:
Pháp bảo:  đây chỉ các đồ thờ tức chuông vàng và khánh bạc mà Thuý Kiều đã lấy ở Quan Âm các.

Câu 2046:
Sư huynh:  Thuý Kiều gọi ni Giác Duyên là sư huynh để tỏ ý tôn kính, coi như hơn cả sư thầy của mình.

Câu 2047:
Diện hiến:  đem dâng ngay lên trước mặt.

Câu 2050:
Ni Hằng Thuỷ:  thực ra Thúy Kiều làm gì có sư thầy nào đâu. Khi vào gặp ni sư Giác Duyên, thấy ni sư nói có quen sư huynh Hằng Thuỷ ở tỉnh Trấn Giang thì nhận liều ngay là phải. Như vậy chữ phiên âm là "ni" thì đúng hơn là "nơi".

Câu 2050:
Hậu tình:  ("hậu": dày) tình trân trọng quí mến.

Câu 2053:
Am mây:  chỗ tu hành của các nhà sư thường ở chỗ núi cao có mây phủ nên gọi là "am mây".

Câu 2055:
Kệ kinh:  ("kệ": câu kệ, câu chú, các bài thơ của nhà Phật cũng gọi là kệ) nói chung về kinh của đạo Phật tức những sách chép giáo lý của đức Phật.

Câu 2056:
Trai phòng:  phòng tăng hoặc ni ở, phòng chay.

Câu 2057:
Lá bối:  lá cây bối đa xưa dùng để chép kinh Phật; đây chỉ kinh Phật.

Câu 2057:
Phướn mây:  thứ cờ của nhà Phật có bức vóc hay lụa nhiều màu rủ xuống, cũng gọi là "trướng phan". Vì lá phướn rất dài nên cột phướn phải cao và khi lá phướn gặp gió bay cao ta trông cảm tưởng như lá phướn rợp mây. Ca dao có câu: Chùa Tàu mở hội bên Ngô, cớ sao bóng phướn sang chùa An Nam.

Câu 2058:
Ngọn đèn khêu nguyệt:  ý nói khêu bấc ở ngọn đèn cho sáng thêm để được tỏ như ánh trăng.

Câu 2058:
Tiếng chày nện sương:  ý nói đánh chuông lúc trời còn sớm như lay động cả màn sương.
  Cả câu ý nói thức khuya và dậy sớm để lo công việc trong chùa như đèn hương và tụng kinh.

Câu 2059:
Thông tuệ:  thông minh sáng trí.

Câu 2061:
Cửa thiền:  cửa chùa.

Câu 2062:
Vẻ ngân vang trời:  vẻ sáng của ánh trăng ngang trên trời.

Câu 2064:
Đàn việt:  phiên âm của tiếng Phạn Dânapati có nghĩa là thí chủ tức những vị có hằng tâm hằng sản hay cúng dường cho chùa.

Câu 2064:
Cửa già:  của chùa, phiên âm của tiếng Phạn samghàràma (tăng già lam ma) có nghĩa là nơi thanh tịnh để tăng chúng tu hành. Chữ này sau được rút gọn là "già lam" để chỉ ngôi chùa.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:26:04





2065    Giở đồ chuông khánh xem qua,

Khen rằng: "Khéo giống của nhà Hoạn nương!"

Giác Duyên thực ý lo lường,

Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.

Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,

2070    Sự mình, nàng mới gót đầu bày ngay:

"Bây giờ, sự đã dường này,

Phận hèn, dù rủi dù may tại người."

Giác Duyên nghe nói rụng rời.

Nửa thương, nửa sợ bồi hồi chẳng xong.

2075    Rỉ nghe nàng mới giãi lòng:

"Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;

E chăng những sự bất kỳ,

Để nàng cho đến thế này cũng thương!

Lánh xa trước liệu tìm đường,

2080    Ngồi chờ nước đến nên dường còn quê."

Có nhà nàng Bạc bên kia,

Am mây quen lối đi về dầu hương,

Nhắn sang dặn hỏi mọi đường,

Dọn nhà hãy tạm cho nàng chứa chân,

2085    Những mừng được chốn an thân,

Vội vàng nào kịp tính gần, tính xa.

Nào ngờ cũng tổ bợm già,

Bạc bà học với Tú bà đồng môn!







Chú Thích:





Câu 2069:
Giấu mầu:  giấu kín như có phép mầu nhiệm.

Câu 2073:
Rụng rời:  ý nói sợ hãi quá chân tay như muốn rụng rời ra.

Câu 2074:
Bồi hồi:  bồn chồn ở trong lòng mà lo nghĩ không sao thôi được.

Câu 2077:
Bất kỳ:  ý nói những tai hoạ có thể bất chợt xảy ra.

Câu 2080:
Ngồi chờ nước đến:  theo câu tục ngữ "Nước đến châm mới nhảy" ý nói không biết lo xa, định trước.

Câu 2080:
Còn quê:  còn quê mùa dại dột.

Câu 2081:
Họ Bạc:  chữ (Bạc) là họ Bạc đồng âm với chữ (bạc) là bạc tình, bạc nghĩa, bội bạc.

Câu 2084:
Trú chân:  nghỉ chân ở tạm. Các bản nôm và quốc ngữ hầu hết đều chép là chứa chân. Bản TVK-E.N nôm Kim Vân Kiều Quảng tập (Khải Định cửu niên) chép là trú chân.

Câu 2087:
Bợm già:  kẻ gian xảo đã lão luyện về cách đi lừa người.

Câu 2088:
Đồng môn:  cùng một thầy, cùng một trường học; đây dùng theo nghĩa xấu là cùng một nghề, cùng một phường buôn phấn bán hương.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:29:15
 





Thấy nàng lạt phấn sạm son,

2090    Mừng thầm được buổi bán buôn có lời.

Hư không đặt bỏ nên lời,

Nàng đà lớn sợ, rụng rời lắm phen.

Mụ càng xui đuổi cho liền,

Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần.

2095    Rằng: "Nàng muôn dặm một thân,

Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa.

Hại oan gia, của phá nhà,

Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!

Kíp toan kiếm chốn xe dây,

2100    Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!

Nơi gần thì chẳng tiện nơi,

Nơi xa được chẳng có người nào xa.

Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà.

Cùng trong thân thích ruột rà chẳng ai.

2105    Cửa nhà buôn bán Châu Thai,

Thật thà có một, đơn sai chẳng ngờ.

Thế nào nàng cũng phải nghe.

Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai.

Bấy nay ai lại biết ai,

2110    Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh,

Nàng dù chẳng quyết thuận tình.

Trái mình nẻo trước, luỵ mình đến sau."







Chú Thích:





Câu 2089:
Lạt phấn sàm son:  ý nói Thuý Kiều tuy để mộc mạc không trang điểm gì nhưng nếu có thoa phấn tô son thì cũng rất đẹp. (Xem thêm trang 58).

Câu 2091:
Hư không:  ý nói không có chuyện gì.

Câu 2092:
Nhớn nhác:  trỏ bộ hoảng hốt nhìn quanh như có sự gì sắp xảy đến.

Câu 2093:
Cho liền:  cho xong ngay.

Câu 2094:
Hung hiểm:  ác độc nham hiểm.

Câu 2094:
Châu Trần:  duyên đôi lứa, duyên vợ chồng.
  Xem chú thích câu 1458.

Câu 2096:
Dữ gần lành xa:  tục ngữ có câu: "Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa". Thuý Kiều ăn chộm chuông khánh của nhà Hoạn thư thì tiếng dữ ấy cũng đồn xa đồn gần như câu tục ngữ chứ chẳng riêng gì tiếng lành. Ở đây vì phải hiệp vần nên Nguyễn Du đã đổi chữ "xa" ra chữ "gần".

Câu 2097:
Khéo oan gia, của phá gia:  ý Bạc bà muốn vu tội cho Thuý Kiều rằng kông khéo nhà họ Bạc lại bị tội oan vì chứa chấp nàng, coi nàng như "của phá gia".

Câu 2099:
Xe dây:  xe duyên vợ chồng.

Câu 2100:
Không dưng:  không làm như thế thì...

Câu 2104:
Thân thích:  ("thân": bà con bên nội, "thích": bà con bên ngoại) chỉ chung bà con họ hàng.

Câu 2104:
Ruột già:  nói tình thân cùng dòng máu.

Câu 2105:
Châu Thai:  tức là Thai Châu, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Câu 2108:
Thành thân:  thành vợ chồng.

Câu 2109:
Ai lại biết ai:  ý nói không còn ai biết Thuý Kiều là Trạc Tuyền nữa.

Câu 2110:
Thênh thênh:  thư thái nhẹ nhàng, không bị ràng buộc gì cả.
  Cả câu ý nói Thuý Kiều được thoải mái tự do muốn đi đâu thì đi chẳng còn lo sợ gì nữa.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:32:04





Nàng càng mặt ủ mày chau,

Càng nghe mụ nói càng đau như dần.

2115    Nghĩ mình túng đất sẩy chân,

Thế cùng, nàng mới xa gần thở than.

"Thiếp như con én lạc đàn,

Phải cung, rày đã sợ làn mây cong!

Cùng đường dù tính chữ tòng,

2120    Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?

Nữa khi muôn một thế nào,

Bán hùm, buôn hổ, chắc vào lưng đâu?

Dù ai lòng có sở cầu,

Tâm minh, xin quyết với nhau một lời.

2125    Chứng minh có đất, có trời,

Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?"

Được lời mụ mới ra đi,

Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.

Một nhà dọn dẹp linh đình,

2130    Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp hương

Bạc sinh quì xuống vội vàng,

Quá lời xin hết thành hoàng, sĩ công.

Trước sân, lòng đã giãi lòng,

Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.

2135    Thành thân mới rước xuống thuyền,

Thuận buồm một lá, xuôi miền Châu Thai.







Chú Thích:





Câu 2113:
Mặt ủ mày chau:  tỏ vẻ buồn bã ở trong lòng.

Câu 2114:
Dần:  đập cho đến mềm ra.

Câu 2115:
Túng đất sẩy chân:  lỡ bước mà không có chỗ nương thân, ở vào bước đường cùng.

Câu 2116:
Thế cùng:  ở vào hoàn cảnh bế tắc, không có lối thoát.

Câu 2117:
Con én lạc đàn:  ý nói bị lạc lõng một mình, không có ai thân thích.

Câu 2118:
Sợ làn mây cong:  con chim bị cung bắn thì thấy cây nào cong cũng tưởng là cây cung mà bay cao để tránh tên. Kiều Oánh Mậu có chú thích: Kinh cung chi điểu kiến thúc mộc nhi cao phi = con chim sợ cung thấy cành cây cong cũng vội bay cao.
  Cả câu ý nói Thuý Kiều đã bị mắc lừa với Mã Giám sinh một lần rồi nên lại sợ bị mắc lừa một lần nữa.

Câu 2119:
Chữ tòng:  chữ "tòng phu" là theo chồng. Xem chú thích câu 506.

Câu 2122:
Bán hùm buôn hổ:  Kiều Oánh Mậu chú: "Kỳ quan: mại lang mãi hổ, tả khoán vô bằng" = sách Kỳ quan: bán sói mua hổ viết văn tự đâu có bằng cớ. Cả câu ý nói với những người buôn bán không có bằng cớ gì rõ rệt thì còn có thể tin vào đâu được (vì hùm sói ở trong rừng chưa săn bắn được thì làm sao có thể coi là những món hàng để đem ra mua bán).

Câu 2123:
Sở cầu:  cầu điều ấy, tức muốn lấy Thuý Kiều làm vợ.

Câu 2124:
Tâm minh:  thề giữ tấm lòng chung thuỷ với nhau.

Câu 2125:
Chứng minh:  soi tỏ mà biết rõ cho, làm chứng cho.

Câu 2126:
Quản gì:  không ngại gì. Cả hai câu 2125-2126 ý nói một khi đã có trời đất chứng minh cho lời thề của Bạc Hạnh thì dầu có phải đi đâu nàng cũng chẳng ngại gì.

Câu 2130:
Trác:  cái hương án nhỏ đặt trước bàn thờ để hương đèn.

Câu 2132:
Quá lời:  ý nói Bạc Hạnh khấn nguyện với trời đất rồi còn quá lời khấn nguyện thêm cả với thành hoàng, thổ công.

Câu 2132:
Thành hoàng:  vị thần coi một khu như một làng hoặc một thành.

Câu 2132:
Thổ công:  vị thần coi đất đai trong khu vực của một nhà nào.

Câu 2134:
Lễ tơ hồng:  khi hai vợ chồng làm lễ hợp cẩn thì có cúng thần ti hồng nguyệt lão thiên tiên.

Câu 2136:
Một lá:  chỉ chiếc thuyền nhỏ mỏng manh.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:34:55
 





Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,

Bạc sinh xuống trước tìm nơi hỏi ngày.

Cũng nhà hàng viện xưa nay,

2140    Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.

Xem người định giá vừa rồi,

Mối hàng một, đã ra mười thì buông.

Mướn người thuê kiệu rước nàng,

Bạc đem mặt Bạc kiếm đường cho xa!

2145    Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,

Bên trong thấy một mụ ra vội vàng,

Đưa nàng vào lạy gia đường,

Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!

Thoạt trông nàng đã biết tình,

2150    Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.

Chém cha cái số hoa đào,

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!

Nghĩ đời mà ngán cho đời,

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!

2155    Tiếc thay nước đã đánh phèn,

Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!

Hồng quân với khách hồng quần,

Đã xoay đến thế còn hờn chưa tha.

Lỡ từ lạc bước, bước ra,

2160    Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.









Chú Thích:





Câu 2139:
Hành viện:  cũng như thanh lâu là nhà chứa gái điếm.

Câu 2140:
Phường bán thịt:  chỉ bọn chứa gái điếm.

Câu 2140:
Tay buôn người:  chỉ bọn mua con gái về ép phải làm điếm.

Câu 2142:
Buông:  nhả mối hàng ra, chịu bán.

Câu 2144:
Bạc đem mặt bạc:  trong bản QVĐ cả hai chữ Bạc đều viết chỉ họ Bạc, trong bản KOM cả hai chữ "bạc" đều viết "bạc" là mỏng, bạc bẽo. Theo chúng tôi nghĩ thì bản QVĐ viết đúng hơn. Cứ để chữ Bạc viết hoa, cho là họ là tên mà chữ thứ hai theo cách chơi chữ vẫn có cái nghĩa bóng là bạc bẽo, bạc ác. Cả câu ý nói Bạc Hạnh bán được tiền xong xuôi vội đem cái mặt bạc ác của mình trốn đi mất không giám từ giã Thuý Kiều.

Câu 2145:
Kiệu hoạ.. thềm hoa:  chữ "hoa" ở đây được dùng cho đẹp lời thôi.

Câu 2147:
Gia đường:  gian nhà thờ tổ tiên, đây chỉ chỗ thờ tổ sư, tức thần mày trắng.

Câu 2150:
Chim lồng:  Thuý Kiều biết mình đã bị bán vào tay Bạc bà rồi, ví như con chim đã bị nhốt trong lồng, thì không có cách gì trốn đi đâu được nữa.

Câu 2151:
Số đào hoa:  theo sách Tử vi đẩu sổ thì con gái gặp phải sao đào hoa ở cung mệnh sẽ có nhiều đời chồng hoặc sẽ gặp phải cảnh giang hồ.

Câu 2155:
Nước đã đánh phèn:  nước đã đánh phèn cho trong.

Câu 2156:
Lại vẩn lên:  ý nói tấm thân đã muốn giữ cho trong sạch lại bị mắc vào vòng dơ bẩn như cũ.

Câu 2157:
Hồng quân:  ("hồng": lớn, quân: cái khuôn, cái bàn xoay để nặn đồ bằng đất) chỉ ông trời, đấng tạo hoá.

Câu 2157:
Hồng quần:  chỉ phụ nữ vì ở bên Trung Quốc xưa kia con gái mặc quần hồng.
 
 
_____________
 





Đầu xanh đã tội tình gì?

Má hồng đền quá nửa thì chưa thôi!

Biết thân chạy chẳng khỏi trời,

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

2165    Lần thâu gió mát đêm thanh,

Bỗng đâu có khách biên đình đến chơi.

Râu hầm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Đường đường một đấng anh hào,

2170    Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.

Đội trời, đạp đất ở đời,

Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông.

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

2175    Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều,

Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.

Thiếp danh đưa đến lầu hồng,

Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ,

2180    Phải người trăng gió câu vờ hay sao?

Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào động không?

Một đời được mấy anh hùng,

Bõ chi cá chậu, chim lồng, mà chơi!"







Chú Thích:





Câu 2162:
Đền:  các bản nôm đều viết hoặc thì phải phiên âm là "đền". Cả câu ý nói cái nợ má hồng đã trả, đã đền quá nửa thì xuân xanh còn chưa hết.

Câu 2165:
Lần thâu:  ý nói thời gian đã lần lữa qua đi khá lâu rồi.

Câu 2166:
Biên đình:  chỗ biên giới xa xôi.

Câu 2168:
Râu hùm, hàm én, mày ngài:  tả cái tướng của người anh hùng. Từ Hải có "râu hùm, cằm én" là tướng mạo của Trương Phi và "mày ngài" là tướng mạo của Quan Vân Trường.

Câu 2168:
Thân mười thước cao:  Ở Trung quốc xưa, chiều dài của một tấc và một thước cũng thay đổi theo từng thời đại và cũng không có sự thống nhất trong cả nước.
  Dưới thời nhà Chu (1066 tr CN - 221 sau CN) một thước (xích) chỉ dài có 20 cm chứ không phải 3,5 m như phép đo lường sau này.
  Từ Hải mà Nguyễn Du tả thân mười thước cao thì cũng chỉ cao như vua Văn Vương mà thôi, nhưng thực ra con số này cũng thường chỉ có tính cách ước lệ để chỉ một người cao lớn phi thường.

Câu 2170:
Côn quyền:  ("côn": gậy, "quyền": nắm tay) phép đành võ bằng gậy và bằng tay, chỉ chung về tài võ nghệ.

Câu 2170:
Lược thao:  (tam lược và lục thao, tên hai bộ binh thư xưa truyền lại do Thái Công Vọng soạn) nói chung về tài dùng binh có mưu cơ.

Câu 2172:
Việt Đông:  thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay.

Câu 2173:
Giang hồ:  sông với hồ, chỉ người phiêu lưu nay đây mai đó.

Câu 2174:
Gươm đàn... một chèo:  cả câu này mượn ý ở hai câu thơ của Hoàng Sào: "Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng, nhất trạo giang sơn tận địa duy" = nửa vai cung kiếm tung trời đất, một mái chèo đi khắp núi sông.
  Nguyễn Du đã đổi chữ "cung kiếm" ra là "gươm đàn" và cho rằng thanh gươm và cây đàn là hai vật tuỳ thân của người giang hồ phong lưu.
  Hai chữ "gươm" và "đàn" đều là chữ nôm. Chữ "đàn" trong Hán văn chỉ được dùng làm động từ thôi.

Câu 2177:
Thiếp danh:  tấm giấy nhỏ có ghi tên họ.

Câu 2179:
Tâm phúc tương cờ:  ("tâm": lòng, "phúc": bụng dạ, "tương": cùng, "cờ" tức kỳ: hẹn) lấy tấm lòng chân thành cùng hẹn với nhau.

Câu 2180:
Vật vờ:  lông bông, lang thang, không nhất tâm.

Câu 2182:
Mắt xanh:  ý nói con mắt nhìn thẳng và kính trọng. Theo Tấn thư, Nguyễn Tịch khi tiếp người mà ông trọng thì nhìn thẳng lên để lộ tròng mắt xanh, khi tiếp người mà ông coi rẻ thì nhìn nghiêng nên để lộ tròng mắt trắng.
  Cả câu 2182 ý Từ Hải muốn hỏi xem có phải Thuý Kiều chưa để ý đến ai không hoặc chưa cho ai là người tri kỷ không?

Câu 2184:
Cá chậu chim lồng:  chỉ hạng người tầm thường, chỉ mong sống an thân trong vòng kiềm toả.
 
 
__________________
 





2185    Nàng rằng: "Người dạy quá lời,

Thân này còn dám xem ai làm thường!

Xót riêng chọn đá thử vàng,

Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?

Còn như vào trước ra sau,

2190    Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?

Từ rằng: "Lời nói hữu tình,

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.

Lại đây xem lại cho gần,

Phỏng tin được một vài phần hay không?

2195    Thưa rằng: "Lượng cả bao dong,

Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.

Rộng thương cỏ nội hoa hèn,

Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!"

Nghe lời vừa ý, gật đầu,

2200    Cười rằng: "Tri kỉ trước sau mấy người!

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đứng giữa trần ai mới già!

Một lời đã biết đến ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!"

2205    Hai bên ý hợp, tâm đầu,

Khi thân, chẳng lọ là cầu mới thân!

Ngỏ lời nói với băng đại,

Tiền (?) trăm lại cứ nguyên quân chiếu hoàn.







Chú Thích:





Câu 2187:
Chọn đá thử vàng:  chọn đá xem có đá quí, có ngọc không, thử vàng xem có vàng tốt không. Cả câu ý nói: riêng trong lòng cũng muốn tìm một người tử tế, một người tri kỷ trong đám khách đến chơi ở thanh lâu.

Câu 2188:
Can tràng:  gan ruột, ý nói nỗi lòng.

Câu 2190:
Kén chọ vàng thau:  ý nói lựa chọn kẻ tốt người xấu. Cả hai câu 2189-2190 ý nói đối với khách làng chơi thì phải "đưa người cửa trước, rước người cửa sau" đâu có quyền kén chọn kẻ tốt người xấu để tuỳ ý mà tiếp đâu.

Câu 2192:
Câu Bình Nguyên quân:  chỗ này Tản Đà có nhận xét rằng: "Nhân ở trên, lời Kiều có câu". Biêt đâu mà gửi can tràng vào đâu? Cho nên đây có câu này lời Từ Hải, là lấy bởi hai câu thơ Đường: "Bất tri can đảm hướng thuỳ thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân" song mà nhận ra hơi ngang nghĩa, chỗ ngang ở một chữ "câu".
  Nhận xét ấy của Tản Đà là đúng vì chữ "câu" đây phải hiểu là "câu nói" của Bình Nguyên quân chứ không phải "câu thơ" của Cao Thích nói về Bình Nguyên quân.
  Chúng ta đã biết rằng Bình Nguyên quân (Triệu Thắng) là một vị tướng thời Chiến quốc, có tính hào hiệp, mời khách ăn trong nhà hằng đến ba ngàn người. Khi nước Tần đem quân sang đánh kinh đô Hàm Đan, ông có kén một đoàn tuỳ tùng để sang cầu cứu bên nước Sở nhưng tìm mãi vẫn thiếu một người. Mao Toại cũn

Câu 2195:
Bao dung:  chỉ người có độ lượng che chở cho người khác.

Câu 2196:
Tấn Dương:  tên đất nay thuộc tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Cả câu ý nói Thuý Kiều tin rằng Từ Hải sẽ làm nên được nghiệp đế như Đường Cao tổ đã từ đất Tấn Dương dấy lên.

Câu 2200:
Tri kỷ:  ("tri": biết, "kỷ": mình) kẻ hiểu biết lòng mình.

Câu 2202:
Trần ai:  bụi bậm, ý nói lúc còn chưa làm nên, còn phải chịu gian nan khổ sở.

Câu 2204:
Muôn chung nghìn tứ:  ("chung": đồ dùng đong thóc đựng được 6 hộc 4 đấu, "tứ": xe đóng bốn ngựa) muôn chung thóc, nghìn cỗ xe bốn ngựa, ý nói được quyền cao chức trọng giàu sang phú quí.

Câu 2205:
Ý hợp tâm đầu:  ("đầu": hợp) ý hợp với nhau, lòng hợp với nhau, tức tình ý hoàn toàn hợp nhau.

Câu 2208:
Nguyên ngân:  nguyên số bạc đã bỏ ra mua Thuý Kiều.

Câu 2208:
Phát hoàn:  đưa trả lại.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:16:46 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:37:20
 





Phòng riêng, sửa chốn thanh nhàn,

2210    Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên.

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.

Nửa năm hương lửa đang nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

2215    Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng dong.

Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi."

Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,

2220    Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

2225    Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bạn biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì?"

Quyết lời dứt áo ra đi,

2230    Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi.

Nàng thì chiếc bóng song mai,

Đêm thâu đằng đẵng ngày cài then mây.







Chú Thích:





Câu 2210:
Màn bát tiên:  màn có thêu tàm vị tiên là Lã Động Tân, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quản, Chung Ly Muội, Lam Thái Hoà, và Trương Quả Lão. Trong tàm vị tiên này chỉ có Hà Tiên cô là đàn bà.

Câu 2212:
Sánh phượng:  ý nói sánh đôi vợ chồng. Do câu "phượng hoàng vu phi, hoà minh tương tương" (chim phượng chim hoàng cùng bay, tiếng hót hoà nhau nghe vang vang).

Câu 2212:
Cưỡi rồng:  ý nói lấy được chồng xứng đáng.
  Theo Sở quốc tiên hiền truyện, Hoàng Hiếu và Lý Ưng là hai danh sĩ đời Hậu Hán đều lấy con gái thái uý Hoàn Yên. Người đời khen rằng con gái của thái uý được cưỡi rồng.

Câu 2214:
Trượng phu:  người đàn ông có chí khí lớn.

Câu 2214:
Động lòng bốn phương:  có ý đi lập nghiệp lớn, tung hoành bốn phương để phỉ chí tang bồng.

Câu 2219:
Tâm phúc tương tri:  ("phúc": bụng) lòng dạ cùng hiểu nhau.

Câu 2220:
Nữ nhi thường tình:  cái tình thông thường của phụ nữ là hay lưu luyến trước cảnh chia ly.

Câu 2221:
Tinh binh:  quân lính tinh nhuệ.

Câu 2222:
Bóng tinh:  bóng cờ.

Câu 2223:
Phi thường:  khác thường, ý nói người thường không bì kịp, cũng như xuất chúng.

Câu 2224:
Nghi gia:  ("nghi": nên, "gia": nhà) chữ lấy trong Kinh Thi, bài "Đào yêu" (Chu Nam): "Chi tử vu qui, nghi kỳ gia thất" = nàng ấy đi lấy chồng thì ắt thuận hoà êm ấm cảnh gia đình, chữ "nghi gia" được dùng để nói về người con gái đi lấy chồng.

Câu 2230:
Gió mây bằng đã...:  ("bằng": chim bằng) ý nói người anh hùng đã tới kỳ tung hoành như chim bằng gặp gió lướt mây bay tới vạn dặm. "Chim bằng" đây chỉ Từ Hải.

Câu 2230:
Dặm khơi:  dặm xa.

Câu 2231:
Song mai:  cửa sổ, chữ "mai" được dùng cho đẹp lời và cũng để hiệp vần chứ không nhất thiết phải có cây mai ở bên cạnh cửa sổ.

Câu 2232:
Nhặt cài:  cài chặt, cài cẩn thận.

Câu 2232:
Then mây:  then cửa. Chữ "mây" được thêm vào cho đẹp lời cũng như then hoa.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:39:34





Sân rêu chẳng vẽ dấu đầy,

Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.

2235    Đoái thương muôn dặm tử phần,

Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa.

Xót thay huyên cỗi xuân già,

Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?

Chốc là mười mấy năm trời,

2240    Còn ra khi đã da mồi tóc sương.

Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,

Dầu lìa tơ ý còn vương tơ lòng.

Duyên em dù nối tơ hồng,

May ra khi đã tay bồng tay mang.

2245    Tấc lòng cố quốc tha hương.

Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,

Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.

Đêm ngày luống những âm thầm,

2250    Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương!

Ngất trời sát khí mơ màng,

Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.

Người quen kẻ thuộc chung quanh,

RỦ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.

2255    Nàng rằng: "Trước đã hẹn lời,

Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!"







Chú Thích:





Câu 2233:
Chẳng vẽ dấu giày:  ý nói ít người lui tới.

Câu 2235:
Tử phần:  chỉ quê nhà. Chữ "tử" lấy ở Kinh Thi: Duy tang dữ tử, tất cung kính chỉ = cây dâu và cây tử do cha mẹ trồng tất phải cung kính giữ gìn.
  Chữ "phần" do tên làng của Hán cao tổ là Phần du ở ấp Phong. Khi đã lên ngôi vua, Cao tổ có về quê cũng lễ. Người đời sau mới dùng chữ đó để chỉ quê hương.

Câu 2236:
Mây Tần:  mây trên núi Tần Lĩnh, ý nói đến sự nhớ nhà. Thơ Hàn Dũ có câu "Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại" = mây kéo ngang núi Tần Lĩnh, nhà ta ở chỗ nào?

Câu 2237:
Huyên cỗi xuân già:  xuân huyên chỉ cha mẹ (xem chú thích câu 759), đây nói cha mẹ đã già cả rồi.

Câu 2240:
Da mồi tóc sương:  da lốm đốm như màu mai đồi mồi, tóc trắng như sương, ý nói đã già lắm rồi.

Câu 2242:
Ngó ý:  ngó sen (đúng ra chữ ý là tim đắng trong hạt sen). Cả câu ý nói dẫu phải lìa xa nhau nhưng vẫn vương vấn nhớ nhau như ngó sen tuy bị bẻ gãy làm đôi mà tơ trong lòng vẫn vương lấy nhau.

Câu 2243:
Nối chỉ hồng:  chắp mối duyên với Kim Trọng.

Câu 2245:
Cố quốc:  nước cũ tức quê hương.

Câu 2245:
Tha hương:  ("tha": khác, "hương": làng) ý nói ở nơi đất khách quê người.

Câu 2247:
Cánh hồng:  ("hồng": loài ngỗng trời) cánh chim hồng, ý nói người anh hùng tung hoành bốn phương như cánh chim hồng bay bổng.

Câu 2248:
Mòn con mắt:  ý nói trông chờ đã lâu lắm mà không thấy.

Câu 2251:
Sát khí:  cái vẻ dữ dội của cuộc chém giết do chiến tranh gây ra.

Câu 2252:
Kình ngạc:  ("kình": cá mập, "ngạc": cá sấu) hai thứ cá dữ, ví với quân giặc dữ tợn.

Câu 2252:
Giáp binh:  ("giáp": áo giáp, "binh": binh khí) nói chung là binh khí, dùng rộng nghĩa là để chỉ binh sĩ có trang bị khí giới.

Câu 2256:
Ước xưa:  Từ Hải khi ra đi có dặn Thuý Kiều ở lại chờ ngày nghi gia nên dù có binh lửa nàng cũng giữ ước xưa không dám đi chỗ khác.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:42:32
 





Còn đang dùng dắng ngẩn ngơ,

Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.

Giáp binh kéo đến quanh nhà,

2260    Đồng thanh cùng gửi: "Nào là phu nhân?"

Hai bên mười vị tướng quân,

Đặt gươm, cởi giáp trước sân khấu đầu.

Cung nga thể nữ nối sau,

Rằng: "Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui."

2265    Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa bay chấp chới, hài y rỡ ràng.

Dựng cờ, nổi trống lên đàng,

Trúc tơ nối trước, đào vàng cất sau.

Hoả bài tiền lộ ruổi mau,

2270    Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.

Kéo cờ luỹ, phát súng thành,

Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài:

Rỡ mình lạ vẻ cân đai,

Hãy còn cằm én mày ngài như xưa.

2275    Cười rằng: "Cá nước duyên ưa,

Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

Anh hùng mới biết anh hùng,

Rày xem phỏng (?) đã cam lòng ấy chưa!"

Nàng rằng: "Chút phận ngây thơ,

2280    Cũng may dây cát được nhờ bóng cây!







Chú Thích:





Câu 2257:
Dùng dắng:  tức dùng dắng, ngập ngừng chưa biết quyết định làm sao.

Câu 2258:
La:  thanh la, một thứ nhạc khí như cái chiêng, mặt tròn và phẳng. Các bản Nôm đều viết (la). Bản Hồ Đắc Hàm và bản Tản Đà chép là "loa", tức là thứ ống bằng đồng, có một đầu nhỏ một đầu loe rộng để làm tiếng vang to ra, trong quân ngũ thường dùng để truyền lệnh.

Câu 2260:
Đồng thanh:  cùng lên tiếng.

Câu 2260:
Gửi:  tức thưa gửi, tỏ ý cung kính.

Câu 2262:
Khấu đầu:  làm lễ cúi đầu sát đất. Kinh Lễ có nói: Người đội mũ trụ và mặc áo giáp thì không lạy ai bao giờ, cho nên mười vị tướng quân phải bỏ gươm ra và cởi giáp rồi mới làm lễ.

Câu 2263:
Cung nga thể nữ:  gọi chung là những người con gái hầu hạ ở trong cung vua.

Câu 2264:
Lệnh chỉ:  lệnh của nhà vua hoặc chiếu chỉ của nhà vua, đây là lệnh của đại vương Từ Hải.

Câu 2264:
Vu qui:  ("vu": đi, "qui": về) con gái về nhà chồng.

Câu 2264:
Rước chầu vu qui:  chữ chầu đây được dùng để bày tỏ sự tôn kính đối với Thuý Kiều này đã là một vương Phi.

Câu 2265:
Phượng liễn loan nghi:  kiệu có trang hoàng hình chim phượng và đồ nghi trượng có trang hoàng hình chim loan, chỉ chung nghi vệ của vương phi.

Câu 2266:
Hoa quan:  mũ có bông vàng chạm kết ở trên.

Câu 2266:
Chấp chới:  lung linh sáng, nói những bông vàng hoặc đá quí rung rinh lấp lánh.

Câu 2266:
Hà y:  ("hà": ráng, "y": áo) áo sắc đẹp rực rỡ như sắc ráng trời màu hồng tía.

Câu 2269:
Hoả bài:  ("hoả": lửa, "bài": cái thẻ bài) cái thẻ bài trên có cột lửa để đi đòi việc quan cho mau.

Câu 2269:
Tiền lộ:  đi phía trước.

Câu 2270:
Nam đình:  triều đình ở phương nam, tức dinh của Từ Hải đóng quan.

Câu 2270:
Đại doanh:  doanh trại lớn của Từ Hải.

Câu 2272:
Thân nghênh:  đích thân mình ra đón.

Câu 2273:
Rỡ mình lạ vẻ cân đai:  ý nói Từ Hải mang mũ áo cân đai trông rực rỡ chắc là Thuý Kiều phải lấy làm lạ.

Câu 2275:
Cá nước duyên ưa:  duyên may mắn. Ca dao có câu: "Tình cớ bắt gặp nàng đây, như cá gặp nước như mây gặp rồng".

Câu 2278:
Cam lòng:  thoả lòng mong đợi.

Câu 2279:
Ngây thơ:  trẻ dại.

Câu 2280:
Dây cát:  thứ dây leo chỉ sống nhờ cây lớn. Xem chú thích câu 902, chữ "cát đằng". Đây Thuý Kiều nói mình cũng như thứ cây leo chỉ mong được sự bao dung của Từ Hải.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:45:12
 





Đến bây giờ mới thấy nhau,

Mà lòng đã chắc những ngày một hai."

Cùng nhau trông mặt cả cười,

Dan tay về chốn trướng mai tự tình.

2285    Tiệc bày thưởng tướng khao quân,

Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.

Vinh hoa bõ lúc phong trần,

Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.

Trong quân có lúc vui vầy,

2290    Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:

"Khi thương Tích, khi Lâm Truy,

Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.

Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,

Chút còn ân ái đôi đường chưa xong."

2295    Từ công nghe nói thuỷ chung,

Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.

Nghiêm quân, tuyển tướng sẵn sàng

Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.

Ba quân chỉ ngọn cờ đào,

2300    Đạo ra thương Tích, đạo vào Lâm Truy.

Mấy người phụ bạc xưa kia.

Chiếu danh tầm chọn bắt về hỏi tra.

Lại sai lệnh tiễn truyền qua,

Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.







Chú Thích:





Câu 2282:
Một hai:  ý nói chắc chắn, không thể thay đổi được, một cách cương quyết, hoàn toàn tin tưởng.

Câu 2283:
Cả cười:  cười lớn tiếng.

Câu 2284:
Trướng mai:  màn có thêu hoa mai, đây chỉ phòng riêng của hai vợ chồng. Chữ "mai" cũng có thể chỉ được dùng cho đẹp lời như trướng đào, trướng hổ, trướng hồng...

Câu 2284:
Tự tình:  ("tự": bày tỏ) chuyện trò bày tỏ tình cảm với nhau.

Câu 2285:
Khao binh:  thưởng cho quân sĩ ăn uống rượu chè.

Câu 2287:
Vinh hoa:  vẻ vang, sung sướng.

Câu 2287:
Phong trần:  khổ sở vất vả.

Câu 2288:
Thêm xuân:  thêm đằm thắm.

Câu 2290:
Hàn vi:  ("hàn": lạnh, "vi": nhỏ) lúc còn chưa làm nên, lúc còn nghèo hèn.

Câu 2291:
Vô Tích:  nơi Thuý Kiều bị Hoạn thư bắt về hành hạ.

Câu 2291:
Lâm Truy:  nơi Thuý Kiều bị Tú bà đánh đập, lừa gạt bắt phải tiếp khách.

Câu 2292:
Lừa đảo:  Kiều bị Mã Giám sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh lừa gạt.

Câu 2292:
Xót thương:  Kiều đã được Mã Kiều, bà quản gia, sư Giác Duyên thương xót.

Câu 2295:
Thuỷ chung:  ("thuỷ": bắt đầu, mới; "chung": cuối cùng, hết) đầu đuôi câu chuyện.

Câu 2297:
Nghiêm quân:  ra lệnh cho quân sĩ phải nghiêm chỉnh hàng ngũ.

Câu 2298:
Ruổi sao:  chạy mau như sao băng, do chữ "tinh trì" dịch ra.

Câu 2299:
Ba quân:  ba đạo quân theo tổ chức binh đội xưa gồm tiền quân, trung quân và hậu quân; đây chỉ quân sĩ.

Câu 2299:
Cờ đào:  cờ đỏ, cờ hiệu của quân đội.

Câu 2300:
Vô Tích:  một huyện thuộc phủ Thường Châu, tỉnh Giang Tô. Bản LVĐ chép sai là "Thương Tích".

Câu 2301:
Phụ bạc:  phụ tình ở bạc.

Câu 2302:
Chiếu danh:  chiếu theo tên.

Câu 2302:
Tầm nã:  tìm bắt.

Câu 2303:
Lệnh tiễn:  tên cây cờ, giữa lá cờ có viết chữ (lệnh) và trên đầu cán cờ có hình mũi tên để làm hiệu lệnh cho việc hành quân, cờ này có nghĩa là lệnh quân đi mau như tên.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:47:57
 





2305    Mụ Hoạn Thư, vãi Giác Duyên,

Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.

Thệ sư kể hết mọi lời,

Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy,

Đạo trời báo phục chỉn ghê,

2310    Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.

Quân trung gươm lớn giáo dài.

Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi,

Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,

Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.

2315    Trướng hùm mở giữa trung quân,

Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.

Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi

Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.

Từ rằng: "Ân oán hai bên,

2320    Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh."

Nàng rằng: "Nhờ cậy uy linh,

Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.

Báo ân rồi sẽ trả thù.

Từ rằng: "Việc ấy để cho mặc nàng."

2325    Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ (dế) run.

Nàng rằng: "Nghĩa trọng nghìn non,

Lâm Truy người cũ, chàng còn nhớ không?







Chú Thích:





Câu 2307:
Thệ sư:  ("thệ": thề, "sư": quân) lời tuyên thệ trước lúc xuất quân, lời hiểu dụ trước khi xuất quân.

Câu 2308:
Chấp uy:  chấp hành nghiêm lệnh.

Câu 2309:
Báo phục:  báo trả lại, tức ân trả ân, oán trả oán.

Câu 2309:
Chỉn ghê:  ("chỉn": vốn) vốn thật đáng sợ.

Câu 2311:
Quân trung:  trong chỗ đóng quân.

Câu 2312:
Vệ... cơ:  (vệ là toán quân năm trăm người, cơ là một toán quân) nói chung các đơn vị trong quân đội.

Câu 2312:
Thị lập:  ("thị": chầu, "lập": đứng) đứng chầu, đứng hầu.

Câu 2312:
Song phi:  ("song": sóng đôi, "phi": mở) mở ra hai hàng, dàn ra làm hai hàng.

Câu 2314:
Bác đồng:  ("bác": súng lớn) súng lớn bằng đồng.
  Bản HĐH chép là vác đòng (lưỡi mác và chiếc lao) bản TVK chép là vác đồng và chú là binh khí. Câu 2510 cũng có chữ "bác đồng" đúng hơn "vác đòng" vì sau đó ở câu 2514, Hồ Tôn Hiến đã ra lệnh "Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ".

Câu 2314:
Tinh kỳ:  ("tinh": cờ hiệu, cờ có ngù lông ở trên đầu, "kỳ": cờ) cờ xí, nói chung các thứ cờ của từng cơ vệ.

Câu 2315:
Trướng hùm:  do chữ hổ trướng, bức màn da hổ chỉ chỗ ngồi chỉ huy của ông tướng, nơi làm việc quân cơ.

Câu 2317:
Tên nghiêm:  hồi trống đánh để ra lệnh nghiêm chỉnh quân sĩ và ra uy cho mọi người phải tôn trọng quân lệnh.

Câu 2318:
Cửa viên:  ("viên": càng xe) chỗ đóng quân có quây các xe lại làm thành hàng rào và có dựng càng hai xe làm cửa ra vào.

Câu 2320:
Xử quyết:  xét xử quyết định.

Câu 2322:
Cho phu:  cho bõ, cho đáng, cho thoả.

Câu 2326:
Mặt như chàm đổ:  ý nói sợ xanh cả mặt lại như bị chàm đổ vào.

Câu 2326:
Minh dường dế (dẽ) run:  ý nói sợ lắm run rẩy cả tay chân. Ta thường nói sợ chết run chết dê. Câu này bản K-TK, BKD, NVV chép là: "Mặt như chàm đổ, mình dường "giẽ giun"". Nguyễn Văn Vĩnh dịch "giẽ giun" sang tiếng Pháp là bécassine. Trương Vĩnh Ký phiên âm là: "Mặt như chàm đổ, thân dường "cầy run"". Trần Ngươn Hạnh trong bản Abel des Michels đã viết chữ nôm, "cầy run" là . Như vậy chữ cầy viết theo bộ .
  Như vậy chữ "cầy" viết theo bộ "khuyển", chữ "giẽ" viết theo bộ "điểu" và chữ "dế" viết theo bộ "trùng". Bản QVĐ đã viết theo bộ "trùng" nên Hồ Đắc Hàm và Ưng Dự đã phiên âm là "dế". (Hồ Đắc Hàm viết sai chính tả là rế).
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=97&IDcat=153

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:50:31
 





Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

2330    Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?

Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

EM chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!

2335    Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!"

Thúc sinh trông mặt bấy giờ,

Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.

Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,

2340    Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai!

Mụ già, sư trưởng thứ hai

Thoắt đưa đến trước, vội mời lên trên.

Dắt tay mở mặt cho nhìn:

"Hoa kia nô với Trạc Tuyền cũng tôi!

2345    Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,

Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.

Nghìn vàng gọi chút lễ thường.

Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!"

Hai người trông mặt tần ngần,

2350    Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.

Nàng rằng: "Xin hãy rốn ngồi,

Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!"







Chú Thích:





Câu 2329:
Sâm Thương:  tức sao mai và sao hôm, hai ngôi sao ấy cứ ngôi này mọc thì ngôi kia lặn, không bao giờ gặp nhau. Đây ý nói Thuý Kiều và Thúc sinh không bao giờ sum họp được nữa, sẽ bị cách biệt mãi mãi.

Câu 2330:
Cố nhân:  người thân cũ.

Câu 2334:
Kẻ cắp bà già gặp nhau:  ngạn ngữ có câu "bà già bắt được kẻ cắp" nói sự bất ngờ mà xảy ra, cũng là chuyện hiếm có, thật tức cười.

Câu 2335:
Kiến bò miệng chén chưa lâu:  con kiến bò quanh miệng chén chưa lâu, cũng chỉ quanh quẩn đấy thôi, ý nói Hoạn thư có chạy đi đâu cũng chẳng thoát vì đã nằm trong vòng giam hãm của Thuý Kiều.

Câu 2340:
Sợ thay:  sợ cho Hoạn thư thay.

Câu 2340:
Cho ai:  cho Thuý Kiều. Thúc sinh mừng thầm cho Thuý Kiều nay được hiển vinh.

Câu 2341:
Mụ già:  tức mụ quản gia.

Câu 2341:
Sư trưởng:  tức ni sư Giác Duyên.

Câu 2341:
Thứ hai:  thứ nhất là Thúc sinh được mời vào trước rồi đến mụ già và sư trưởng được mời vào là thứ hai.

Câu 2345:
Sẩy vời:  lỡ hụt chân mà bị ngã, ý nói bị sa vào cảnh khổ.

Câu 2348:
Phiếu mẫu:  ("phiếu": đập vải bằng cái chày để giặt). Hàn Tín lúc còn hàn vi, đi câu ở dưới thành, một hôm đói quá, gặp một bà già giặt quần áo cho ăn một bữa cơm. Hàn Tín sau theo giúp Hán Cao tổ, được lập làm Sở vương, đóng đô ở Hạ Bì, nhớ đến bà Phiếu mẫu (bà già giặt quần áo) đã đem nghìn vàng đến để tạ ơn.
  "Lòng Phiếu mẫu": lòng tốt giúp người trong lúc hoạn nạn.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:52:46





Kíp truyền chư tướng hiến phù.

Lại đem các tích phạm đồ hậu tra

2355    Dưới cờ, gươm tuốt hộp ra,

Chính danh thủ phạm tên là Hoạn thư!

Thoắt trông, nàng đã chào thưa:

"Tiểu thư cũng có bây giờ đến nơi!"

Đàn bà dễ có mấy tay,

2360    Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!"

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng giở điều kêu ca.

2365    Rằng: "Tôi chút dạ đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,

2370    Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!"

Khen cho: "Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời,

2375    Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.







Chú Thích:





Câu 2353:
Hiến phù:  ("hiến": dâng nộp, "phù": người bị bắt) dẫn tù ra, dẫn kẻ có tội đến.

Câu 2354:
Các tích:  các bản ghi tội của những phạm nhân, các án tích.

Câu 2354:
Phạm đồ:  ("phạm": người có tội, "đồ": kẻ bị đi đày) kẻ phạm tội bị bắt giữ.

Câu 2354:
Hậu tra:  ("hậu": chờ, "tra": xét hỏi) còn chờ để xét hỏi tội.

Câu 2356:
Chính danh thủ phạm:  chính tên có tội nặng nhất đứng đầu hàng phạm nhân, khác với các tòng phạm chỉ là những tên đồng loã. Đây Hoạn thư là thủ phạm, còn tòng phạm là các tên tay sai như bọn Khuyển, Ưng.

Câu 2358:
Tiểu thư:  đâu dùng có ý mỉa mai.

Câu 2359:
Mấy tay, mấy mặt, mấy gan:  ý nói mấy người nhưng dùng để chỉ những hạng người ghê gớm, đáng sợ.

Câu 2361:
Thói hồng nhan:  thói đàn bà thường ăn ở dễ dàng với mọi người.

Câu 2362:
Cay nghiệt:  khắt khe, độc ác.

Câu 2362:
Oan trái:  ("trái": nợ) nợ do việc làm ác của mình gây ra.

Câu 2363:
Hồn lạc phách xiêu:  hồn phách xiêu lạc, ý nói sợ quá mất cả tinh thần.

Câu 2367:
Khi gác viết kinh:  ý nhắc lại việc bắt được quả tang Thúc sinh ra thăm Thuý Kiều ở Quan Âm các mà không ghen tuông.

Câu 2368:
Khỏ cửạ.. chẳng theo:  ý nhắc lại việc Thuý Kiều bỏ trốn Quan Âm các lấy trộm chuông vàng khánh bạc mà không cho người đuổi theo.

Câu 2372:
Lượng bể:  lòng khoan dung rộng như bể.
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:56:06





Đã lòng tri quá thời nên!"

Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Tạ lòng, lạy trước sân mây,

2380    Cửa hiên lại dắt một dây dẫn vào.

Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao.

Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?

Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,

Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh;

2385    Tú bà với Mã Giám sinh,

Các tên tội ấy đăng (đáng) tình còn sao?"

Lệnh quân truyền xuống nội đao,

Thề sao thì lại cứ sao gia hình.

Máu rơi thịt nát tan tành,

2390    Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời!

Cho hay muôn sự tại trời,

Phụ người chẳng bỏ khi người phụ ta!

Mấy người bạc ác tinh ma,

Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương!

2395    Ba quân đông mặt pháp trường.

Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi.

Việc nàng báo phục vừa rồi,

Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui.

Nàng rằng: "Thiên tải nhất thì,

2400    Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.







Chú Thích:





Câu 2377:
Tri quá:  ("quá": lỗi) biết lỗi.

Câu 2378:
Quân lệnh:  mệnh lệnh trong quân đội.

Câu 2378:
Trướng tiền:  trước trướng (màn), tức trước chỗ ngồi xử án, nơi Từ Hải đặt bộ chỉ huy.

Câu 2380:
Cửa viên:  cửa ra vào nơi đóng quân.
  Xem thêm chú thích câu 2318.

Câu 2382:
Hại nhân nhân hại:  hại người thì bị người hại lại.

Câu 2387:
Nội đao:  quân lính giữ việc chém người có tội bị hành hình, cũng như nói quân đao phủ.

Câu 2388:
Thề sao:  ý nhắc lại các lời thề của Mã Giám sinh, Tú bà, Sở khanh, Bạc Hạnh khi trước.

Câu 2388:
Gia hình:  thi hành hình phạt đối với tội nhân. Nguyễn Du đã không theo nguyên truyện khi để cho Thuý Kiều tha tội cho Hoạn thư và không nói gì đến Kế thị (mẹ Hoạn thư).
  Theo nguyên truyện thì: "Vương phu nhân lại truyền cho tả hữu đem Kế thị (mẹ Hoạn thư) ra nọc đánh 30 roi. Quân lính sắp ra tay thì Hoạn thư xin chịu đòn thay và mụ quản giạ.. xin tình nguyện chết thay cho nhũ mẫu. Vương phu nhân nể lời mụ quản gia tha tội cho Kế thị... nhưng Kế thị sợ quá đã chết ngay tức thì.
  Vương phu nhân lại truyền lệnh đem Hoạn thư ra, lột trần áo xiêm, chỉ để cho một cái khố, buộc tóc lên xà nhà rồi sai đánh 100 trượng... Hoạn thư luôn giãy giụa kêu trời, toàn thân chẳng còn miếng da nào lành lặn."

Câu 2395:
Pháp trường:  chỗ thi hành pháp lệnh chém những tội nhân bị án tử hình.

Câu 2396:
Thanh thiên bạch nhật:  ("thanh": xanh, "thiên": trời, "bạch": trắng, "nhật": ngày) ý nói giữa chính ban ngày ai ai cũng thấy rõ.

Câu 2397:
Báo phục:  trả lại điều thù oán, đây ý nói đến việc báo thù các người đã xử ác với mình khi trước.

Câu 2398:
Từ qui:  từ giã ra về.

Câu 2399:
Thiên tải nhất thì:  ("tải": năm) nghìn năm mới có một lần.

Câu 2400:
Bàn hoàn:  nói chuyện với nhau, tâm sự với nhau. Tương dữ bàn hoàn: chuyện vãn cùng nhau, vui chơi cùng nhau (ĐNQATV)
 
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 13:58:20
 





Rồi đây bèo hợp mê tan,

Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?"

Sư rằng: "Cũng chẳng mấy lâu,

Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.

2405    Nhớ ngày hành cước phương xa,

Báo sư Tam Hợp vốn là tiên tri.

Bảo cho hội hợp chi kỳ,

Năm nay là một, nữa thì năm năm.

Mới hay tiền định chẳng lầm,

2410    Đã tin điều trước, ắt nhằm điều sau.

Còn nhiều ân ái với nhau,

Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?"

Nàng rằng: "Tiền định tiên tri,

Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.

2415    Hoạ bao giờ có gặp người,

Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân."

Giác Duyên vâng dặn ân cần,

Tạ từ thoắt đã dời tuy cõi ngoài.

Nàng rằng ân oán rạch ròi,

2420    Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.

Tạ ân lạy trước Từ công:

Chút (?) thân bồ liễu mà mong có rày!

Trộm nhờ sấm sét ra tay,

Tấc riêng như cất gánh (?) đầy đổ đi!







Chú Thích:





Câu 2401:
Bèo hợp mây tan:  ý nói mới gặp nhau đã lìa xa nhau ngay ví như bèo mây hợp lại rồi lại tan đi ngay.

Câu 2402:
Hạc nội mây ngàn:  ý nói Giác Duyên thường đi nay đây mai đó như hạc ở cánh đồng, mây ở trên ngàn (rừng trên núi cao) không ở yên một chỗ.

Câu 2405:
Hành cước:  ("hành": đi, "cước": gót chân) đi bộ, chỉ việc các tăng ni đi học đạo hoặc truyền đạo cho các tín đồ.

Câu 2406:
Tiên tri:  đoán trước được các việc sẽ xảy ra.

Câu 2407:
Hội ngộ chi kỳ:  kỳ họp mặt với nhau, kỳ hẹn gặp nhau.

Câu 2409:
Tiền định:  mọi sự xảy ra trong cuộc đời đều đã được tạo hoá định trước.

Câu 2411:
Ân ái:  âu yếm, quí mến nhau.

Câu 2412:
Cơ duyên:  duyên nợ mà tạo hoá đã định sẵn.

Câu 2416:
Chung thân:  ("chung": hết) trọn hết cả cuộc đời.

Câu 2419:
Rạch ròi:  rõ ràng, rành mạch đâu ra đó.

Câu 2422:
Bồ liễu:  ý nói yếu đuối. Xem chú thích câu 746.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 14:01:36
 





2425    Nét xương ghi dạ xiết chi,

Dễ đem gan ốc (óc) đền nghì trời xanh!

Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,

Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?

Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

2430    Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!

Huống chi việc cũng việc nhà,

Lọ là thâm tạ mới là tri ân.

Xót nàng còn chút song thân,

Bấy nay kẻ Việt, người Tần cách xa.

2435    Sao cho muôn dặm một nhà,

Cho người thấy mặt là ta cam lòng."

Vội truyền sửa tiệc quân trung,

Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.

Thừa cơ trúc chẻ khối tan,

2440    Binh uy nhật ấy sấm ran trong ngoài.

Triều đình riêng một góc trời

Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.

Đòi cơn gió quét mưa sa,

Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam.

2445    Phong trần mài một lưỡi gươm,

Những loài da áo, túi cơm sá gì!

Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,









Chú Thích:





Câu 2425:
Ghi dạ:  ghi chép ở trong dạ. Các bản nôm đều viết (chép). TVK-BKD-HĐH-TĐ chép là "ghi dạ".

Câu 2426:
Gan óc:  do chữ "can não đồ địa" nghĩa là dù có đem gan óc mà làm lầy đất cũng không đền được ơn; ý nói dù có hy sinh chịu chết cũng không báo đền được cái ơn.

Câu 2427:
Quốc sĩ:  kẻ sĩ có tiếng ở trong nước.

Câu 2428:
Tri kỷ:  người hiểu được lòng mình.

Câu 2432:
Thâm tạ:  tạ ân sâu, bày tỏ tấm lòng sâu sắc biết ơn.

Câu 2432:
Tri ân:  biết ơn.

Câu 2433:
Song thân:  cha mẹ.

Câu 2434:
Kẻ Việt người Tần:  ý nói Thuý Kiều xa cách với cha mẹ như kẻ Việt (ở phía đông nam Trung Quốc ngày nay) với người Tần (ở phía tây bắc Trung Quốc ngày nay).

Câu 2436:
Cho người:  chỉ cha mẹ Thuý Kiều.

Câu 2436:
Cam lòng:  vui lòng, thoả lòng.

Câu 2437:
Quân trung:  trong quân, trong doanh trại nơi quân sĩ đồn trú.

Câu 2438:
Hội đồng:  cùng họp lại với nhau.

Câu 2438:
Tẩy oan:  rửa sạch các mối oán thù. Từ Hải cho mở tiệc để khao quân và để rửa sạch oan cho Thuý Kiều.

Câu 2439:
Trúc chẻ ngói tan:  ý nói đánh đâu được đấy, một cách dẽ dàng như chẻ tre, như ngói sụt vỡ tan (ngói đã sụt một lớp, mấy lớp khác đều sô sụt cả). Bản LVĐ chép là "Khối tan".

Câu 2440:
Binh uy:  uy thế cầm binh của Từ Hải.

Câu 2440:
Sấm ran trong ngoài:  nổi tiếng như sấm nổ ran khắp nơi, ai ai cũng biết đến uy danh.

Câu 2441:
Triều đình:  ("triều": chỗ ngự chầu, "đình": sân, chỗ vào chầu vua) chỗ các quan vào chầu vua, sau được dùng để chỉ chính phủ ở thời quân chủ.

Câu 2445:
Phong trần:  gió bụi, đây chỉ thời loạn.

Câu 2446:
Giá áo túi cơm:  chỉ hạng người vô dụng, thân cũng như cái giá để treo áo và cái túi để đựng cơm, chứ trong lòng không có tư tưởng trí lực gì. Bản LVĐ 66 chép là "da áo".

Câu 2448:
Cô quả:  ("cô": cô lậu, "quả": ít đức) tiếng khiêm xưng của vua các nước chư hầu thời xưa.

Câu 2448:
Bá vương:  ("bá": bá giả, người lấy sức mà ép người; "vương": vương giả, người lấy đức mà hoá người) chỉ chung các vị vua chúa có quyền lực.

Câu 2448:
Thiếu gì cô quả:  theo nguyên truyện thì: Từ Hải đã mắng Hoa Nhân (sứ giả của Hồ Tôn Hiến) rằng: "Ngã tại hoá ngoại, tuy bất năng khai cương thác thổ, dã bất thất đạo cô xưng quả, nễ khước giáo ngã đầu hàng"... (Ta đây vốn ở ngoài vòng giáo hoá, dẫu chưa chiếm lĩnh riêng một cương thổ nhưng đã từng (chẳng thiếu gì cơ hội xưng cô, xưng quả, xưng bá, xưng vương, thế mà mi lại dám khuyên ta đầu hàng... ).

Câu 2448:
Thiếu gì bá vương:  ý nói thiếu gì kẻ phải tôn xưng Từ Hải bằng bá, bằng vương mỗi lần tâu bày.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 14:17:14
 





Trước cờ ai dám tranh cường,

2450    Năm năm hùng cứ một phương hải tần.

Có quan Tổng đốc trọng thần,

Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài.

Dẩy xe vâng chỉ đặc sai,

Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung

2455    Biết Từ là đấng anh hùng,

Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.

Đóng quân làm chước chiêu an,

Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.

Lại riêng một lễ với nàng,

2460    Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân.

Tin vào gửi trước quân trung,

Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.

Một tay gây dựng cơ đồ,

Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!

2465    Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?

Áo xiêm buộc trói lấy nhau,

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Sao bằng riêng một biên thuỳ,

2470    Sức này đã dễ làm gì được nhau?

Chọc trời, quấy nước mặc dầu,

Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?







Chú Thích:





Câu 2451:
Trọng thần:  vị quan to của triều đình có quyền lớn.

Câu 2452:
Kinh luân:  lấy từng mối tơ mà chia ra gọi là "kinh", so những sợi tơ cùng một thứ mà hợp lại gọi là "luân". Nghĩa bóng dùng để chỉ việc sửa sang xếp đặt về chính trị.

Câu 2453:
Dẩy xe:  xưa kia, khi vua sai quan tướng đi đánh giặc thì dẩy cái bánh xe để tỏ lòng phó thác công việc cho người ấy.

Câu 2454:
Tiện nghi:  ý nói được tuỳ tiện mà làm không phải tâu trình trước, không phải đợi lệnh vua.

Câu 2454:
Bát tiễu:  ("bát": trừ dẹp đi) dẹp giặc.

Câu 2454:
Đổng nhung:  ("đổng": coi sóc, "nhung": việc quân) coi việc quân cơ ở ngoài, đem binh đi đánh giặc.

Câu 2457:
Chiêu an:  khuyến dụ quân giặc đầu hàng để lập lại an ninh trật tự.

Câu 2460:
Thể nữ:  con gái hầu hạ ở trong cung vua.

Câu 2462:
Hồ đồ:  chưa được rõ ràng, chưa thể tin được.

Câu 2463:
Cơ đồ:  ("cơ": nền, "đồ": bức đồ hoạ) cơ nghiệp bản đồ, kể về cả nước hoặc việc bá vương.

Câu 2464:
Bể Sở sông Ngô:  vùng đất của Từ Hải tung hoành gồm hai nước Sở và Ngô nay thuộc miền đông nam Trung Quốc.

Câu 2466:
Hàng thần:  kẻ bề tôi làm loạn đầu hàng triều đình.

Câu 2468:
Công hầu:  tước công và tước hầu, chỉ quan tước cao ở triều đình.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 14:19:39
 





Nàng thì thật dạ tin người,

Cũng nhiều, nói ngọt nghe lời dễ xiêu.

2475    Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,

Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.

Bằng nay chịu tiếng vương thần.

Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!

Công tư vẹn cả hai bề,

2480    Dần dà rồi sẽ liệu về cố vũ.

Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,

Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.

2485    Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,

E dè sóng gió, hãi hùng cỏ hoa.

Nhân khi bàn bạc gần xa,

Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào.

Rằng: "Trong Thánh đế dồi dào,

2490    Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu.

Bình thành công đức bấy lâu,

Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao!

Ngẫm từ gây việc binh đao,

Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.

2495    Làm chi để tiếng về sau,

Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!









Chú Thích:





Câu 2477:
Vương thần:  bề tôi của nhà vua.

Câu 2478:
Thanh vân:  mây xanh, dùng để chỉ bước đường công danh lên cao đến chỗ hiển đạt.

Câu 2480:
Cố hương:  làng cũ, quê cũ.

Câu 2481:
Mệnh phụ:  vợ các quan to được tước phong.

Câu 2482:
Rỡ ràng:  sáng ngời một cách đẹp đẽ, ý nói đẹp mặt.

Câu 2485:
Chiếc bách:  chiếc thuyền bằng gỗ bách.

Câu 2486:
Hãi hùng nước sa:  bản LVĐ-QVĐ chép là "cỏ hoa" cũng như các bản BK-TTK, HĐH, TĐ nhưng vì chữ "cỏ hoa" không rõ nghĩa nên có một số bản nôm và quốc ngữ như KOM, PKC, BKD đã chép là "nước sa" cho dễ hiểu hơn.

Câu 2488:
Thừa cơ:  lợi dụng cơ hội (khi được dụ bàn việc quân).

Câu 2489:
Thánh:  vua thánh, ý nói đến ơn đối với nhà vua chẳng khác nào ơn đối với thánh thần.

Câu 2491:
Bình thành:  chữ trong Kinh Thư tức "địa bình thiên thành", nói nhà vua sửa sang việc đời giúp cho trời đất được bằng phẳng nên việc. Do đó chữ này có nghĩa là công đức to lớn của nhà vua.

Câu 2494:
Vô Định:  tên một con sông ở tỉnh Thiểm Tây vì nước xoáy cuốn theo cát nên lòng sông chỗ nông và chỗ sâu không thể biết được. Thơ Trần Đào, bài "Lũng tây hành" có câu: "Khả liên Vô Định hà biên cốt, do thi thâm khuê mộng lý nhân" = Đáng thương cho những kẻ chết xương chất đống ở bên sông Vô Định mà đến nay vẫn còn là người trong mộng của khách buồng the sâu kín. Ở đây Thuý Kiều nhắc đến cảnh chiến tranh chết nhiều người như vậy để làm xiêu lòng Từ Hải hãy nghe mình mà qui hàng.

Câu 2496:
Hoàng Sào:  người đất Tào Châu, đã nỗi dậy chống Đường Hy Tông, tung hoành trong mười năm trời ở Hà Nam, Giang Nam, Phúc Kiến, Lạc Dương... Hoàng Sào đã vây hãm cả kinh đô Tràng An nhưng sau bị một hạ thủ ám hại.
 
 
________________
 





Sao bằng lộc trọng quyền cao,

Công danh ai dứt lối nào cho qua?"

Nghe lời nàng nói mặn mà,

2500    Thế công, Từ mới trở ra thế hàng.

Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,

Hẹn kỳ thúc dụng, quyết đường giải binh.

Tin lời thành hạ yêu minh,

Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.

2505    Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,

Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.

Hồ công quyết kế thừa cơ,

Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ lý chính.

Kéo cờ chiêu phủ đem phong,

2510    Lễ nghi dàn trước, bác đồng phục sau.

Từ công hờ đầu biết đâu?

Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên

Hồ công ám hiệu trận tiền,

Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ.

2515    Đang khi bất ý chẳng ngờ,

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!

Tử sinh liều giữa trận tiền,

Dạn dày cho biết dụng liền tướng quân!

Khí thiên khi đã về thần,

2520    Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!







Chú Thích:





Câu 2499:
Mặn mà:  đậm đà, tỏ ra có tình cảm chân thật làm cho người ta dễ xiêu lòng.

Câu 2500:
Thế công:  trận thế lập để tấn công.

Câu 2500:
Thế hàng:  sắp đặt quân sĩ để ra đầu hàng.

Câu 2501:
Chỉnh nghi:  sửa soạn chỉnh đốn nghi vệ.

Câu 2502:
Thúc giáp:  bó áo giáp lại, tức xếp khí giới lại.

Câu 2502:
Giải binh:  giải tán binh đội.

Câu 2503:
Thành hạ yêu minh:  (yêu: cầu, xin, minh: thề) ép người thất thế phải cầu hoà với mình và phải thề với mình ở dưới chân thành. Theo Tả truyện: "Thành hạ yêu minh chư hầu sở thậm sỉ" = sự thề ở dưới chân thành là điều cực kỳ xấu hổ (vì trong thành không chống cự được nữa, phải xin ăn thề ngay nơi đó) của các nước chư hầu. Trường hợp Từ Hải có khác. Từ Hải đâu có phải là người thất thế phải xin hàng mà chỉ vì nghe lời Thuý Kiều mới chịu "bó thân về với triều đình". Khi nhận hàng, Từ Hải có yêu cầu ba điều với Lợi Tiện là người được Hồ Tôn Hiến sai đi dụ hàng:
  - Xin được phong tước hầu.
  - Xin ở lại nguyên chỗ không phải đổi đi nơi khác.
  - Xin không phải giải binh.
  Lợi Tiện về báo tin trên với Hồ Tôn Hiến. Tổng đốc chấp nhận, lập kế hoạch phúc kích rồi sai Lơ

Câu 2505:
Giữ giàng:  cũng như giữ gìn nhưng có ý coi sóc cẩn thận hơn. Cả câu ý nói việc quân bỏ chẳng giữ gìn cẩn thận như trước nữa.

Câu 2506:
Vương sư:  ("vương": vua; "sư": quân) quân của nhà vua, do Hồ Tôn Hiến chỉ huy.

Câu 2507:
Quyết kế thừa cơ:  quyết định thi hành mưu kế thừa lúc Từ Hải để trể tràng việc canh gác.

Câu 2508:
Lễ tiên binh hậu:  đồ lễ dẫn đi trước nhưng cho quân phục sẵn ở đằng sau.

Câu 2508:
Khắc cờ tập công:  ("cờ": kỳ hẹn, "tập": đánh úp) định kỳ hẹn để đánh úp.

Câu 2509:
Chiêu phủ:  ("chiêu": vời, "phủ": vỗ về) dụ hàng dùng lời vỗ về để vời kẻ chống đối qui phục.

Câu 2509:
Tiên phong:  toán quân đi trước. Cả câu ý nói toán quân đi đầu kéo lá cờ chiêu dụ quân của Từ Hải ra hàng.

Câu 2510:
Bác đồng:  súng lớn. Xem chú thích câu 2314, chữ này đi với chữ "phát súng" ở câu 2514.

Câu 2511:
Hờ hững:  tỏ vẻ coi thường, không chú ý đề phòng.

Câu 2512:
Đại quan lễ phục:  Bản KOM, viết chữ đại quan là đội mũ lớn. Bản QVĐ viết chữ đại quan là quan lớn. Như vậy có hai cách giải thích: nếu theo bản KOM thì đại quan lễ phục có nghĩa là đội mũ cao, mặc áo lễ, không mặc đồ chiến phục; nếu theo QVĐ thì đại quan lễ phục có nghĩa là mặc lễ phục của một vị quan lớn.

Câu 2512:
Ra đầu:  ra đầu hàng.

Câu 2512:
Cửa viên:  cửa làm bằng hai chiếc xe dựng càng lên trời, cửa doanh trại.

Câu 2513:
Ám hiệu:  hiệu lệnh kín dùng trong việc binh.

Câu 2515:
Bất ý:  không để ý đề phòng.

Câu 2516:
Sa cơ:  rơi vào bước khốn cùng.

Câu 2518:
Dạn dày:  tức dày dạn, đã từng trải, từng chịu đựng nguy hiểm khó khăn đến mức đã quen đi.

Câu 2519:
Khí thiêng:  tinh khí của non sông tích chứa lại mà sinh ra bậc anh hùng.

Câu 2519:
Về thần:  trở về cõi tinh thần. Cả câu ý nói Từ Hải đã chết.
 
 
_________________
 





Trơ như đá, vững như đồng,

Ai lay cho chuyển, ai rung chẳng dời.

Quan quân truy sát đuổi dài,

Ù Ù sát khí, ngất trời ai đang!

2525    Trong hào, ngoài luỹ tan hoang,

Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi,

Trong vòng tên đá bời bời,

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.

Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,

2530    Bởi nghe lời thiếp nên (?) cơ hội này.

Mặt nào trông thấy nhau đây?

Thà liều sống thác một ngày với nhau!"

Dòng thu như giội cơn sầu,

Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.

2535    Lạ thay oan khí tương triền!

Nàng vừa phục hạ Từ liền ngã ra.

Quan quân kẻ lại người qua,

Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.

Dẫn vào đến trước trung vũ,

2540    Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.

Rằng: "Nàng chút phận vướng nhan,

Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương!

Đã hay thành toán miếu đường,

Giúp công cũng có lời nàng mới nên.







Chú Thích:





Câu 2523:
Truy sát:  đuổi theo mà giết.

Câu 2527:
Tên đá:  tên đạn vì xưa các viên đạn làm bằng đá.

Câu 2529:
Trí dũng:  kẻ anh hùng vừa có trí thông minh vừa có sức lực phi thường.

Câu 2530:
Cơ hội:  dịp xảy ra, đây chỉ cảnh ngộ.

Câu 2533:
Dòng thu:  dòng nước mắt.

Câu 2535:
Oan khí:  cái khí oan.

Câu 2535:
Tương triền:  quấn quít lấy nhau.

Câu 2540:
Ân cần:  tình ý chu đáo và có cảm tình thân mật.

Câu 2541:
Chút phận hồng nhan:  ý nói người có nhan sắc mà phận số lại không gặp may mắn.

Câu 2542:
Binh cách:  ("binh": đồ binh khí như súng ống gươm giáo, "cách": đồ dùng bằng da như yên ngựa) nói chung các binh khí. "Cơn binh cách": là cơn loạn lạc, cuộc chiến tranh.

Câu 2542:
Nàn:  do chữ "nạn" (tai nạn) đọc chuyển sang thanh bằng cho hợp vần.

Câu 2543:
Thành toán:  ("toán": trù tính, mưu kế) sự tính toán đã thành được rồi, mưu kế đã thành rồi.

Câu 2543:
Miếu đường:  ("miếu": tôn miếu, "đường": minh đường) nhà nước hễ có việc đánh dẹp thì làm lễ cáo ở nhà tôn miếu mà trú nghỉ tại minh đường.
  "Miếu đường": nói rộng ra cũng như triều đình.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2007 04:22:37 bởi sóng trăng >

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 14:22:11
 





2545    Bây giờ sự đã vạn tuyền,

Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?"

Nàng càng tủi ngọc tuôn dào,

Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.

Rằng: "Từ là đấng anh hùng,

2550    Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi!

Tin tôi nên quá nghe lời,

Đưa thân bách chiến làm tôi triều đình.

Ngỡ là phu quý, phụ vinh,

Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!

2555    Năm năm trời bể ngang tàng.

Dấu mình đi bỏ chiến trường như không.

Khéo khuyên kể lấy làm công,

Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!

Xét mình công ít tội nhiều,

2560    Sống thừa, tôi đã nên liều mình tôi.

Xin cho tiện sĩ một doi,

Gọi là đắp để lấy người tử sinh!

Hồ công nghe nói thương tình,

Truyền cho cảo táng di hình bên sông.

2565    Trong quân mở tiệc hạ công,

Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan.

Bắt nàng thị yến dưới màn,

Giở say lại ép vặn đàn nhặt tâu,







Chú Thích:





Câu 2552:
Thân bách chiến:  ý nói thân thiện chiến, kẻ đã dạn dày về trận mạc.

Câu 2553:
Phu quí, phụ vinh:  chồng làm nên quan sang, vợ được vinh hiển.

Câu 2555:
Ngang tàng:  tỏ ra không sợ ai, không chịu khuất phục ai.

Câu 2557:
Kể lấy làm công:  Thuý Kiều đã khuyên Từ Hải đầu hàng để rồi bị giết thì chỉ nên hối hận chứ không nên kể là công.

Câu 2561:
Một doi:  dải đất cát bồi ở dọc bờ sông. Chữ ? đọc theo âm Hán Việt là "đôi", có nghĩa là đống đất, nhưng nghe không thuận nên thường được phiên là doi. Chữ doi này chiếu xuống câu 2564: "Truyền cho cảo táng di hình bên sông" thì hợp nghĩa.

Câu 2564:
Cảo táng:  chôn sơ sài.

Câu 2564:
Di hình:  xác, thân xác còn lại.

Câu 2565:
Hạ công:  ("hạ": mừng) mừng sự thành công.

Câu 2567:
Thị yến:  ("thị": theo hầu) hầu việc ăn yến, ăn tiệc.

Câu 2568:
Nhặt tâu:  các bản nôm viết thì có thể đọc là "nhặt tâu" hoặc "nhật tâu". Chữ lẽ ra phải đọc là "tấu" tức đánh đàn nhưng ở đây đọc theo thanh bằng cho hợp vần. "Nhặt tâu": (nhặt: mau liền) gảy đàn trong suốt buổi tiệc.
  Nếu chép là "nhật tâu" thì cũng có thể hiểu là cung đàn thường ngày Thuý Kiều vẫn hay đánh.
 

sóng trăng
  • Số bài : 1013
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.02.2006
RE: TRUYỆN KIỀU BẢN 1866 - 13.02.2007 14:24:37




Phải tuồng trăng gió hay sao?

Sự này, biết tính thế nào được đây?

2595    Tảo nha vừa buổi rạng ngày,

Quyết tình công mới đoán ngay một bài.

Lệnh quan ai dám cãi lời,

Ép tình mới gán cho người sĩ quan.

Ông tơ thực nhé đa đoan!

2600    Xe tơ sao khéo vơ càn vơ xiên.

Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,

Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao.

Nàng càng ủ liễu phai đào,

Trăm phần nào có phần nào phần tươi?

2605    Đành thân cát lấp sóng vùi,

Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh.

Chân trời mặt biển lênh đênh,

Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?

Duyên đâu ai dứt tơ đào,

2610    Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!

Thân sao thân đến thế này,

Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!

Đã không biết sống là vui,

Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!

2615    Một mình cay đắng trăm đường,

Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!







Chú Thích:





Câu 2595:
Công nha:  chỗ các quan ngồi làm việc.

Câu 2596:
Đoán:  quyết định, phán quyết, dứt khoát ý định.

Câu 2598:
Thổ quan:  quan người địa phương thuộc những vùng dân tộc ít người. Theo nguyên truyện thì là viên tù trưởng Vĩnh Thuận, thuộc tỉnh Hồ Nam. Đoạn này, "nguyên truyện" viết: "Sáng hôm sau Hồ Tôn Hiến nhớ lại việc đêm trước đã khoác tay nâng chén với vợ tướng giặc, còn gì phong thể của một phương diện quốc gia? Nghĩ càng hối hận, không biết tính sao?... Suy tính giờ lâu, Hồ mới gật gù lẩm nhẩm: Được rồi, được rồi, ta sẽ gán nàng cho một quân trưởng để cho việc này mất tích và nàng cũng được tính mệnh bảo toàn... "
  Về việc dụ hàng của Hồ Tôn Hiến, "Minh sử" có chép: "Còn Hồ Tôn Hiến, trong chiến dịch này dẫu có công to nhưng sau lại bị triều thần hạch hỏi về tội giết kẻ đã hàng. Vì có hươu trắng, rùa trắng đem về hiến vua, nên được miễn nghị. Cách mấy năm sau, nhân

Câu 2599:
Đa đoan:  nhiều mối, nói có ý rắc rối, lắt léo.

Câu 2600:
Xe tơ:  xe duyên vợ chồng. Xem chú thích câu 333. Phê bình thái độ Thuý Kiều ở đoạn này. Tản Đà có viết:
  "Tổng đốc có thương người bạc phận,
  Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan"

Câu 2609:
Tơ đào:  tơ duyên vợ chồng. Xem chú thích câu 333.

Câu 2612:
Cũng dư:  cũng thừa, ý nói không có nghĩa gì nữa, không còn gì là vui nữa.

Câu 2616:
Nát ngọc tan vàng:  ngọc và vàng thường được dùng để ví với tấm thân quí giá của người con gái, người đàn bà, nay đã không biết sống là vui thì chỉ còn liều thân chịu chết mà thôi, tức cũng như để cho nát ngọc tan vàng.
 
http://sager-pc.cs.nyu.edu/vnpf/nfkieu.php?page=109&IDcat=153

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 110 bài trong đề mục