Điển hay tích lạ -Nguyễn Tử Quang
Kẻ được khen bị tội, người bị chê được thưởng
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
Bấy giờ các quan trong triều, ai cũng khen quan đại phu đất A là người hiền mà chê quan đại phu đất Tức Mặc. Sô Kỵ tâu với Tề Uy Vương, rồi sai người đi dò xét, kiểm tra xem sự thực thế nào?
Khi đã dò xét được sự thực rồi, Tề Uy Vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến. Tề Uy Vương chẳng nói gì cả. Các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao? Một lúc sau, quan đại phu đất A cũng đến. Tề Uy Vương truyền họp tất cả triều thần lại để định thưởng phạt. Triều thần ai cũng nghĩ thầm: quan đại phu đất A phen này ắt được trọng thưởng; trái lại quan đại phu đất Tức Mặc thế nào cũng có vạ đến nơi.
Lúc bấy giờ, giữa triều, Tề Uy Vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến, bảo:
- Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người chê bai. Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương đông ấy được yên. Thế là do nhà ngươi chuyên tâm trị dân mà không chịu lễ đút lót những người tả hữu gần ta, thành ra bị họ chê bai đó. Nhà ngươi thật là một ông quan hiền.
Nói xong liền gia phong cho. Đoạn gọi quan đại phu đất A đến, bảo:
- Từ khi nhà ngươi ra trấn giữ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy lời người khen ngợi. Ta sai người dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét. Hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu. Thế là nhà ngươi chỉ đem tiền của đút lót những kẻ tả hữu gần ta, thành ra được họ khen ngợi đó. Nhà ngươi thật là một ông quan rất dở.
Quan đại phu đất A sụp lạy xin tha tội.
Tề Uy Vương không tha, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu. Dầu sôi sùng sục.Tề Uy Vương sai trói quan đại phu đất A bỏ vào vạc dầu. Đoạn bắt tất cả những người xưa vẫn khen ngợi quan đại phu đất A mà chê bai quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến, quở mắng:
- Các ngươi là người tả hữu gần ta tức là tai mắt của ta. Các ngươi lại tham ăn của lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải để lừa dối, ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! Nên đem mà mổ cả đi.
Chúng đều khóc lóc kêu van.
Tề Uy Vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy mười người, toàn là những người xưa nay nhà vua có lòng thân yêu đem ra mà mổ. Chúng đều run sợ, mặt tái như gà cắt tiết.
Từ bấy giờ Tề Uy Vương kén chọn những người hiền tài cho đi trấn nhậm các quận. Nhờ đó mà trong nước ngày càng cường thịnh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.08.2007 15:02:51 bởi sweet >
Sa nang ủng thủy
Theo "Tây Hán chí ", "Sa nang ủng thủy" là một kế hoạch của tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Sở tại ngọn sông Duy thuộc tỉnh Sơn Đông. Đây là kế hoạch lấy bao cát (sa nang) để chận nước nguồn lại (ủng thủy) rồi chờ giặc đổ đến thì cạy bao cát lên, xổ nước xuống làm ngập quân địch.
Long Thơ là tướng của Sở đem binh đánh Hán. Hàn Tín lui binh 5 dặm, nói với các tướng:
- Long Thơ là danh tướng, ỷ mình mạnh mà đến đây, ta phải dùng trí thắng chớ nên dùng sức.
Hôm sau, Hàn Tín ra ngựa đối địch với Long Thơ. Thơ đánh mỗi lúc càng hăng, càng mạnh. Hàn Tín bỏ chạy. Thơ xua quân, đuổi theo. Đến sông Duy, nước cạn khô. Binh của Hàn Tín giục ngựa qua sông một cách dễ dàng. Tướng Sở là Chu Lan theo sau lấy làm nghi hoặc, tiến đến ngăn Long Thơ:
- Sông Duy sâu dài, nước cuồn cuộn chảy, nay lại không có nước chắc là chúng đã chận ở trên nên nước không đổ xuống được. Chúng đợi binh ta qua sông rồi xổ nước thì bấy giờ ta làm sao ngăn kịp.
Long Thơ không tin, nói:
- Hàn Tín đã thua chạy, còn rảnh đâu mà bày mưu kế. Vả lại nước sông tùy mùa hạn lụt. Lúc này là tháng chạp nhằm tiết đông, ấy là lúc nước kém nên sông cạn, có lấy chi làm lạ.
Bấy giờ trời đổ tối. Vừa lúc ấy có quân báo là Hàn Tín còn ở gần trước đây. Long Thơ lập tức huy động ba quân qua sông đuổi theo, quyết bắt Hàn Tín cho kỳ được. Vừa đến giữa sông, thấy có chiếc lồng đèn treo trên cao, Long Thơ tò mò đến xem. Bên cạnh đèn ấy có dựng một mộc bài đề 6 chữ lớn: "Điếu đăng cầu trảm Long Thơ" (treo lồng đèn chém Long Thơ). Long Thơ nói:
- Hàn Tín thấy binh ta rượt gấp, muốn cho binh ta lui nên dựng mộc bài dọa ta.
Chu Lan suy nghĩ một lúc nói:
- Đêm hôm tăm tối lẽ nào hắn làm gấp được. Hay hắn đã làm sẵn để dẫn dụ binh ta đuổi theo đến chỗ này đặng binh Hán coi chừng lồng đèn mà tiến đến. Vậy ta chặt ngã đèn tất binh Hán phải loạn.
Long Thơ đưa dao chặt ngã đèn.
Ánh đèn vừa tắt thì đột nhiên binh Hán đã mai phục từ đâu nhứt loạt đổ đến như vũ bão. Tiếng la hét vang dậy cả một vùng trời. Rồi nước từ trên ngọn sông Duy ầm ầm đổ xuống nhanh như tên bắn.
Binh Sở khủng khiếp. Đương ở giữa sông, chúng không sao đứng vững được. Nước tràn đến cuồn cuộn, cuốn phăng chúng đi như cuốn phăng những chiếc lá vàng. Long Thơ hốt hoảng, giục ngựa chạy khan. Ngựa của Long Thơ là Thiên lý cu nên nhảy vài bước là đến bờ. Hắn vừa muốn tìm đường chạy thì một tiếng súng nổ vang, tướng Hán là Tào Kham, Hạ Hầu Anh cùng một số tướng tá xông ra bao vây. Long Thơ tả xông hữu đột, không thoát khỏi được. Đêm tối dày đặc lại ở vào một thế bị động, địa hình địa vật không biết nên không phương xoay trở, giữa lúc vòng vây mỗi lúc càng siết chặc, Long Thơ dầu có sức mạnh cử đảnh bạt sơn cũng khó lòng mong thoát khỏi.
Ngọn đao của Tào Kham phạt ngang chiếu một ánh sáng loang loáng. Long Thơ trở tay chẳng kịp bị một đao ngã gục tại phía bắc sông Duy. Còn tướng Chu Lan thừa lúc binh loạn và trời tối, trốn thoát được, hú hồn hú vía.
Đó là trận đánh lịch sử "Sa nang ủng thủy" của nhà quân sự đại tài Hàn Tín đời Tây Hán trong cuộc Hán Sở tranh hùng.
Nước Việt Nam ta cũng có trận đánh như thế.
Thực dân Pháp chiếm lấy Việt Nam. Cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp. Cuộc kháng chiến kéo dài đến 10 năm. Tuy chí phấn đấu kiên trung có thừa nhưng sức người có hạn nên lực lượng nghĩa quân ngày càng hao mòn. Quân Pháp đánh rát quá, năm 1895, cụ Phan phải rút quân về đóng ở thung lũng của núi Vụ Quang, cách đồn Pháp không bao xa. Cụ dự đoán sớm muộn nay mai giặc Pháp cũng đến vây đánh. Nhìn dòng sông Vụ Quang thấy quanh co một giải trắng phau, nước cuồn cuộn chảy, cụ Phan vui vẻ nói:
- Nếu quân Pháp kéo đến đánh ta thì con sông kia có thể cự địch được lắm. Ta sẽ dùng kế "Sa nang ủng thủy" của Hàn Tín đánh quân Sở ngày xưa mới được.
Quả thực, lúc quá nửa đêm, giặc Pháp kéo đến đánh trái núi có đồn nghĩa quân đóng. Nhưng trước khi chúng chưa đến thì cụ Phan đã kéo quân dời qua đóng trên một thung lũng núi khác.
Giặc Pháp bao vây, chĩa súng bắn như mưa nhưng không thấy nghĩa quân bắn trả lại một tiếng. súng nào. Đồn tại bằng cây lá bị đạn phát cháy. Bấy giờ giặc mới đoán chắc là nghĩa quân đã sợ bỏ chạy từ lúc nào. Chúng xông lên núi xem rõ hư thực. Đến nơi chẳng thấy bóng một người. Còn lại và nhà chưa bị cháy, thấy có ít nhiều khí giới là dao cùn, gươm mẻ bỏ nằm ngổn ngang. Giặc Pháp bấy giờ càng tin chắc là nghĩa quân hoảng sợ bỏ chạy thực.
Giữa lúc bọn giặc Pháp đương lục lạo ngẩn ngơ trong những đồn trại bỏ trống như thế thì bỗng nghe có tiếng trống, tiếng hò hét vang dậy từ dưới chân núi đưa lên. Nhìn xuống, thấy lô nhô một toán quân độ trên trăm người phất cờ, gióng trống toan xông lên núi để đánh. Đồng thời tiếng súng bắt đầu nổ đoành đoàn tứ phía.
Giặc Pháp biết là nghĩa quân, tức tốc đổ xuống núi chận đánh và đuổi bắt. Từ xa, hai bên ứng chiến bằng súng đạn. Một lúc, đạo quân này xem chừng núng thế, vội vàng rút lui, nương theo những lùm cây và mô đất để tránh đạn. Giặc Pháp thừa thế đuổi theo và bắn dữ dội. Nhưng đạo quân bại tẩu chỉ chạy được một quãng đường thì nằm phục xuống bắn trả lại. Rồi một lúc lại bỏ chạy. Cứ chạy lại bắn. Cứ bắn lại chạy. Giặc Pháp càng tức, càng giận, phát ghét càng cố rượt theo quyết giết ráo cho kỳ được mới nghe.
Ra tới sông Vụ Quang, đạo quân bại tẩu cư" chạy dựa bên mé sông. Đến một chỗ nước hơi cạn, họ bỏ hết cả cờ trống và quân giới tại mé sông, rồi tranh nhau lội qua sông mong thoát thân cho mau. Giặc Pháp đuổi nà tới, đến chừng thấy đạo quân bại tẩu đã sang sông thì chúng ùa xuống sông để đuổi cho kịp. Nước chỉ đến đầu gốị
Nhưng khi chúng lội đến giữa sông thì bỗng trên núi cao có tiếng súng lịnh làm hiệu. Chúng chưa hiểu ất giáp ra sao thì bỗng dưng nước cuồn cuộn đổ đến. Tiếng nước chảy ầm ầm như đất lở trời nghiêng...
Nguyên cụ Phan truyền cho nghĩa quân lấy những khúc gỗ lim to ghép liền vào nhau thành từng bè lớn. Đoạn đóng suốt thân cây này qua cây kia thật chặt, và lấy mây rừng buộc cứng lại, rồi đặt ngay đầu nguồn sông Vụ Quang là sông phát nguyên từ núi Vụ Quang đổ xuống. Nghĩa binh cốt chận đầu nguồn cho nước dưới sông cạn nhiều, rồi dùng kế dụ địch, đợi giặc Pháp qua đến giữa sông thì chặt dây cho nước đưa cây trôi xuống. và hai bên sông lại phục binh chờ sẵn.
Lạ gì nước trên nguồn bị cây chặn lại, tức đường bí lối đã lâu, nay cây tháo ra, nước được tự do hoạt động mà chảy. Gỗ lim to tướng theo nước từ trên cao trôi phăng xuống mạnh mẽ hung hăng như đàn sấu đói. Trời có sương mù, giặc Pháp vô ý lại không thấy được xa, vả lại bị phục binh bắn xuống dữ dội, chúng hốt hoảng lúng túng vừa bị nước cuốn vừa bị cây đẩy, lại thêm đạn bắn tứ tung, thật là một trận cực kỳ kinh khủng.
Trận này, giặc Pháp không kể lính tập, chết mất ba viên võ quan. Nghĩa quân đoạt lấy gần 50 khẩu súng cùng đồng hồ, dây nịt bằng da vô số.
Đây là trận "Sa nang ủng thủy" ở Việt Nam. Có khác với Hàn Tín là không dùng bao cát mà dùng cây chận nước.
Về sau, một người chí sĩ là Phạm Văn Ngôn đi qua chỗ trận đánh này, có làm hai bài thơ "Hoài Vụ Quang sơn cố sự". Dưới đây là một trong hai bài ấy:
Phi vi hiểu vụ tỏa hàn khê,
Châu lạp ô thương phục ngạn tê.
Nhất hưởng đồng la ham sát tặc.
Đại gia tề quyết thượng lưu đê.
Nhà văn Đào Trinh Nhất dịch đại khái:
Gió lạnh sương mù buổi rạng đông,
Ba quân phục sẵn ở bên sông,
Chiêng khua một tiếng quân reo dậy,
Đê phá trên nguồn nước chảy hung.
Đạo binh 80 mỹ nhân phá tan nước Lỗ
Vua Định Công nước Lỗ cử Khổng Tử làm Tướng quốc. Nước Lỗ ngày càng cường thịnh.
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế:
- Bản tính con người hễ được cường thịnh thì hay sinh lòng kiêu dật. Xin chúa công lập bộ nữ nhạc dâng cho vua Lỗ. Được bộ nữ nhạc, vua Lỗ tất sinh lười biếng mà chán bỏ Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất bỏ Lỗ mà đi, chúa công mới có thể ngồi yên được.
Tề Cảnh Công bằng lòng, sai Lê Di kiểm điểm trong đám nữ lư chọn những nàng xinh đẹp độ 18, 20 tuổi, cả thảy 80 nàng, chia làm 10 đội đều cho trang phục gấm vóc lộng lẫy và dạy múa hát. Khúc hát ấy gọi là Khang nhạc, điệu bộ mới lạ, ẻo lả, có nhiều cử chỉ hấp dẫn, gọi tình. Khi luyện tập đã thành, lại dùng 120 cỗ ngựa cương vàng, yên nạm, mỗi con một sắc đẹp đẽ như gấm hoa, đem dâng cho Lỗ Định Công.
Tám mươi mỹ nữ trải qua các con đường trong kinh thành nước Lỗ, tha thướt như những nàng tiên trong những truyện truyền kỳ diễm ảo. Vua nước Lỗ ngự chu trên bờ hồ nhìn thân hình uyển chuyển của các nàng từ trên bờ nhảy xuống thuyền nhẹ nhàng, phất phới như một đàn bướm trắng lượn hoa.
Thuyền vừa đổ bến, các mỹ nữ ấy nhẹ nhàng nhảy lên, reo cười trong trẻo vui tươi như đàn chim non. Rồi người đàn, kể múa, họ nô đùa viên hoàng môn quan và tiến đến ngân loan điện. Vua mỉm cười khoan khoái kêu hỏi, cả bọn đồng thanh đáp:
- Chúng tôi đều là thế nữ của nương nương đây.
Vừa nói họ vừa trỏ vào một người đẹp nhất trong bọn, uy nghi, đường bệ như một bà chúa, một nữ hoàng. Nàng mặc một chiếc áo trắng thưa như màn sương khói mỏng để lộ ra những đường cong của bắp thịt, của một vóc hình thon chắc, yểu điệu tuyệt mỹ. Thật là một tác phẩm linh động, vĩ đại do một kỳ công kỹ xảo của Hóa công. Nhà vua đến gần hoa khôi, ngập ngừng ngọt dịu hỏi tên. Nàng mỉm nở một nụ cười như hoa hàm tiếu e lệ dưới ánh trăng thanh, đoạn cất giọng oanh thỏ thẻ:
- Tâu bệ hạ, thần thiếp chính là Văn Khương, nay được diễm phúc vào hầu bệ hạ.
Lỗ Định Công ngây ngất, truyền ngay bãi chầu.
Tiết xuân hòa ấm, cành quế đều mọc chồi non. Hai bên đường, hoa thủy tiên đâm chồi nẩy lộc. Nhà vua cảm thấy như mình ở chốn Đào nguyên, được gần giai nhân là người mà nhà vua đã từng khao khát mơ ước từ lâu. Trên đường về cung, nhà vua nhẹ mình cúi xuống hái mấy cành thủy tiên, âu yếm trao cho mỹ nhân.
Người đẹp không từ chối. Nàng đưa bàn tay trắng nuột, xinh xắn cầm lấy cánh hoa. Hoa và bàn tay là một. Nàng ngoan ngoãn đưa hoa lên mũi, nhoẻn một nụ cười tươi thắm mê hồn.
Trông vào mỹ nhân, hai má ửng hồng, đôi mắt lóng lánh hữu tình như nước hồ thu, một nụ cười tươi thắm nở mãi trên đôi môi son hé ra bày đôi hàm răng trắng nhỏ đều như ngọc làm nhà vua ngây ngất, bàng hoàng. Tâm trí rối loạn, thần hồn mê mẩn, tấm thân bảy thước, địa vị ngai vàng của vua Lỗ đã bị nhận chìm trong sóng sắc biển tình. Cầm lấy cườm tay ngà ngọc của giai nhân, nhà vua nhìn giai nhân bằng đôi mắt say đắm mờ mệt và chỉ lẩm bẩm được có một câu:
- Ta yêu mỹ nhân lắm lắm!
Rồi cả hai, đôi thân mình ép sát vào nhau lần bước vào chốn thâm cung.
Trời sâm sẩm tối.
Bốn phía, đèn đuốc nổi lên sáng rực như một hội hoa đăng.
Một đoàn mỹ nữ, trang phục bằng một thứ tơ trắng mỏng như sương lả lướt theo một vũ khúc mê ly trên con đường chung quanh hồ Thưởng Nguyệt. Thân hình uyển chuyển, tha thướt theo điệu nhạc, nhìn họ có lúc ẩn lúc hiện, lúc mờ như hình bóng của khói, của sương... đương bao phủ hoàng cung.
Bấy giờ, hàng võ quan bỏ cả binh thư.
Bấy giờ, hàng văn thần quên hết kinh sách.
Trên hồ, thuyền bè đua nhau tấp nập, rượu trà yến ẩm, đàn dịu hát hay, tiếng nói giọng cười lả lơi, diêm dúa bay bổng đến mấy từng sao.
Thỉnh thoảng, một vị hoàng thân, một viên đại tướng ghé thuyền vào bờ, ôm lấy một mỹ nữ đem về tư thất; rồi mày xanh tóc bạc bên cốc rượu nồng tha hồ ân ái phỉ tình.
Rồi từ ấy ...
Tiếng đàn, điệu vũ từ giữa hồ trong thâm cung truyền đến ngoài thành, sự hoan lạc từ kẻ quyền quý trong vòng khuê các lan tràn đến hàng trưởng giả phong lưu. Chỉ có bọn dân đen ngày ngày tắm mưa gội gió, dãi nắng dầm sương, chui rúc trong những túp lều tranh xiêu vẹo thiếu cơm, thiếu thuốc ở chốn bùn lầy nước đọng.
Thói xấu, tật dâm là những ngòi thuốc rất nhạy, những chất men dễ cho con người tập nhiễm, say đắm. Thế rồi, ai ai cũng nong nả cởi bỏ đạo nghĩa, cho là một cái ách nặng nề quàng cổ bấy lâu. Những cửa phòng khuê bỗng mở to. Trong bóng tối, thấp thoáng những bóng nữ nhi đi tìm hoan lạc. Nhiều vị Lễ quan đương cúng tế ở Thái miếu cũng vội vàng ném hương, đốt giấy cho mau để bươn bả đi tìm đến chốn yêu hoa. Nơi Tam pháp tư, một viên Đô sát già lụ khụ dừng chân trước cửa viện, thỏ một hơi dài cất giọng phều phào thiểu não:
- Hỡi ơi! Thời niên thiếu của ta đâu rồi!
Không còn đủ sức ngăn cản được, Khổng Tử phải bỏ nước Lỗ mà đi. Lỗ suy nhược dần, cuối cùng bị Tề thôn tính. Đạo binh mỹ nhân 80 người phá tan nước Lỗ, quê hương của một đấng thánh nhân.
Bối thủy trận
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình:
- Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng. Trong chốc lát phá Triệu rồi sẽ ăn no.
Tướng sĩ chưa dám tin nhưng phải gắng gượng vâng theo. Hàn Tín lại đem một muôn binh đóng nơi mé nước, sau lưng là một con sông to. Tướng sĩ của Triệu thấy Hàn Tín dàn mặt trận như thế thì cho là cầm quân vụng về. Họ tin tưởng sự thắng lợi sẽ nắm chắc trong tay; và bao nhiêu quân Hán đóng ởnước sông không chỗ rút lui sẽ bị tiêu diệt hay làm mồi cho thủy chúa.
Hàn Tín nổi trống kéo quân ra khỏi vàm Tỉnh Hình. Binh Triệu khai đồn ra đánh. Hai bên giáp chiến được một lúc, Hàn Tín cùng tướng sĩ quăng cờ ném trống bỏ chạy xuống bờ sông. Binh Triệu thấy thắng thế, bỏ đồn trống, xông ra giành lấy cờ trống của Hán, đồng thời rượt theo Hàn Tín. Bấy giờ, quân đội đóng ở bờ sông đổ xô ra chận đánh binh Triệu. Chỉ có một con đường tiến tới, quân Hán nỗ lực đánh nhầu, một chống với mười, khí thế rất hăng. Binh Triệu phải rút lui trở về, thì thấy đồn đã bị quân Hán chiếm lấy. Trên đồn cờ Hán bay phất phới như ngạo nghễ.
Nguyên hai ngàn binh Hán theo lịnh của Hàn Tín núp tại Kỳ Sơn, chờ binh Triệu bỏ đồn hăng hái ra giành cờ trống và đuổi theo Hàn Tín thì xung phong vào đồn Triệu, chiếm lấy một cách dễ dàng. Binh Triệu bấy giờ như chim mất ổ, rối loạn hàng ngũ, vỡ chạy tứ tán. Tướng Triệu là Trần Dư ra sức cản ngăn, giết hết mấy tên quân nhưng cũng không thể ổn định được tình thế.
Trần Dư lại bị binh Hán bao vây, cuối cùng chết tại trận. Binh Hán thừa thắng đánh thẳng vào thành bắt vua Triệu.
Các tướng hỏi Hàn Tín rằng:
- Phép đóng binh, bên hữu phải có gò núi, bên tả phải có bưng chầm, sao tướng quân khiến bọn tôi lập bối thủy trận mà thắng được giặc.
Hàn Tín nói:
- Ấy cũng ở trong binh pháp cả, tại các ông không nghĩ đến. Trong binh pháp có nói: để vào chỗ tử địa thì sống, để vào chỗ vong địa thì còn. Nếu đem người đến chỗ sinh địa mà đánh, gặp địch mạnh thì bỏ chạy hết, như vậy còn gì binh!
Các tướng đều chịu cho là hay.
Tiêu Lang
Thôi Giao học giỏi, thơ phú rất hay. Nhà nghèo xơ xác nhưng Thôi cũng phong lưu hào phóng rất mực.
Trong vùng có nàng họ Lương tên Bích Nga, sắc đẹp lộng lẫy, duyên dáng cực kỳ. Cha mẹ mất sớm, nàng họ Lương phải ở nhờ cô ruột. Trai tài gái sắc, Thôi Giao và Bích Nga gặp nhau rồi tha thiết yêu nhau. Nhưng mộng xây dựng gia đình của hai họ Thôi Lương chưa thành, thì chẳng may nhà cô ngày càng sa sút. Cuối cùng, người cô phải đem bán Bích Nga làm nàng hầu cho một viên Liên soái là Vu Địch.
Cầm được giai nhân trong tay, họ Vu rất mực yêu thương. Lại xuất ra 40 vạn đồng tiền, xây một lâu đài cho người cô ở.
Mất người yêu đẹp, chàng Thôi đau xót, từ đó như kẻ mất hồn. Suốt ngày, chàng đứng tựa bên cội cây ngoài dinh quan Liên soái ngóng trông bóng hình người đẹp, mong được nhìn người yêu cho đỡ nỗi nhớ thương. Trên lầu, nàng Lương nhìn qua cửa sổ thấy chàng Thôi thẫn thờ buồn bã mà lòng đau như cắt.
Gặp tiết Hàn Thực, nàng Lương có việc ra ngoài dinh. Thấy chàng Thôi đứng bên cội liễu, hình vóc võ gầy, nàng Lương cảm động, ngồi trên kiệu mà khóc nức nở. Gặp nhau, nhìn nhau nhưng cả hai không dám mở lời. Bốn mắt lã chã bốn dòng châu. Thôi đau đớn làm bốn câu thơ:
Theo chân bao kẻ ngớp mùi hương,
Tầm tã khăn the lệ mấy hàng.
Một tới cửa hầu sâu tựa bể,
Chàng Tiêu từ đó khách qua đường.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Có kẻ ghét Thôi, bắt được bài thơ ấy, muốn hại Thôi nên lòn bàn thơ để trên bàn của quan Liên soái. Họ Vu xem thơ, thấy lời đã hay ý lại nhã, đẵm vẻ ai oán não nùng nên có chiều cảm động, cho lính đòi chàng Thôi vào. Thôi hoảng sợ quá. Có người xúi chàng trốn đi kẻo bị tai vạ nhưng không biết trốn đi đâu, đành phải liều vào hầu.
Vừa gặp Thôi, Vu Địch liền cầm lấy tay chàng nói:
- Câu: "Một tới cửa hầu sâu tựa bể, Chàng Tiêu từ đó khách qua đường" hẳn tiên sinh đau khổ lắm! Bốn mươi vạn đồng, một lâu đài có là bao mà tiên sinh nỡ tiếc lời thơ không sớm cho tôi biết. Kẻ này có hẹp gì mà chẳng cho châu về Hợp Phố!
Đoạn, Vu Địch bảo mã phu xe đưa nàng Bích Nga về với chàng Thôi để cùng xum họp. Vu Địch còn đem tặng nàng Lương tất cả những nữ trang đắt tiền, trước kia đã sắm cho nàng.
Nguyên văn:
Hầu môn nhứt nhập thâm như hải,
Tùng thử Tiêu lang thị lộ nhân.
Thôi Giao đã dùng điển Tiêu lang (chàng Tiêu) trong bài thơ của mình.
Nguyên đời nhà Đường, chàng Tiêu có người vợ rất đẹp tên Lục Châu. Người nghèo, không quyền thế nên Lục Châu chẳng may bị người bắt đem dâng Quách Tử Nghi là một quan lớn đương thời. Lục Châu trở thành một nàng hầu sủng ái của Quách Tử Nghi; và từ đó, chàng Tiêu trông thấy vợ cứ dửng dưng như khách qua đường.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn Thúy Kiều và Kim Trọng tái hợp, chàng Kim lý luận về chữ trinh của Kiều để bác bỏ cái ý tự ty mặc cảm của người yêu cũ khi chàng xin chấp nối lại mối tơ tình, có câu:
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Có điều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu.
Ý của Kim Trọng muốn nói nếu Kiều không ưng kết duyên với chàng là nàng cố ý bắt buộc chàng phải hờ hững không nhận nàng nữa. Hay nói một cách khác là tại sao Kiều lại cố ý làm cho chàng phải coi nàng như chàng Tiêu coi vợ cũ?
TchyA (Đái Đức Tuấn)(*), nhà thơ hiện đại có câu:
Đỡ ly ân ái qua môi thắm.
Uống chẳng vơi cho mới bẽ bàng.
Khổ nhục mảnh thân vì bát gạo,
Đường tình kia lại số Tiêu lang.
***
chú thích thêm (ngoài tác phẩm): TchyA
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 12:53:51 bởi sweet >
Người chặt cây quế trong cung trăng
Truyện thần thoại, sách "Dậu dương tạp trở" có nói: Trong mặt trăng có cây quế cao 500 trượng. Dưới gốc có một người cầm búa chặt mãi, nhưng chặt xong thì dấu chặt dính liền lại như cũ. Người ấy tên Ngô Cương quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi bị phạt chặt cây.
Kịch thần thoại "Lên cung trăng" của Ngô Tổ Quang cũng có chép:
Ngô Cương và Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ. Nghệ sinh ở bờ biển Đông tức nước Hữu Cùng, võ nghệ phi thường, sức có thể nhổ núi lấp sông lại giỏi về kỵ xạ. Hai người học trò cũng đều tài ba xuất chúng.
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân. Ngô Cương lại tòng theo thầy làm nhiều điều tàn ác, giết chóc sinh linh vô số. Phùng Mông là người hiền, can thầy can bạn không được, bỏ đi theo dân nghèo chống lại thầy.
Hậu Nghệ bắt Hằng Nga làm hoàng hậu. Sợ nàng trốn, Nghệ giam một nơi và bắt Ngô Cương canh giữ. Một hôm, Nghệ đi săn, Hằng Nga lấy cỏ Linh chi (cỏ trường sinh) của Nghệ uống vào, mình nhẹ bổng nên nàng cùng con Ngọc Thố bay lên cung trăng. Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga nên tức giận, bóp cổ Ngô Cương cho đến chết. Vong hồn Ngô Cương bay lên cung trăng gặp Hằng Nga, định giết nàng báo thù. Hằng Nga hoảng hốt thì vừa lúc ấy Nguyệt Lão đến, quát to:
- Ngày trước nhà ngươi giết hàng triệu sinh linh, ngày nay phải chịu quả báo, thế chưa biết ăn năn hối cải sao?
Ngô Cương đáp:
- Tôi chết rồi... vì Hằng Nga trốn nên đại vương giết tôi. Tôi chết oan uổng nên hồn không tiêu tan, tôi muốn trả thù.
Cụ già mỉm cười:
- Nhà ngươi chết như thế phải lắm, còn muốn sống làm sao nữa?
- Tôi hết lòng trung vì chúa, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo việc trị dân.
Cụ già gật gù hỏi:
- Nhà người có trị được không? Hay càng trị càng rối.
- Tại đại vương quá giận giết tôị Nếu không, tôi có cách trị an thiên hạ.
- Cách gì?
Ngô Cương tỏ vẻ cương quyết:
- Giết.
Cụ già cười ha hả:
- Nhà ngươi giết mấy chục năm rồi mà càng giết càng đông, càng loạn. Đồ khùng! Thân xác đã chết rồi mà hồn chưa tỉnh ngộ. Ngô Cương, có thấy cây quế kia không?
Cụ già vừa nói vừa đưa tay trỏ cây quế. Ngô Cương đáp:
- Thấy, mà có quan hệ gì tới tôi.
- Nhà ngươi chặt cây kia ngã được thì mới có thể giết người để bình thiên hạ được.
Cụ già vừa nói xong, đưa tay móc túi lấy ra một cây búa trao cho Ngô Cương. Hắn tiếp lấy búa, đưa thẳng tay lên chặt vào cây quế. Lửa trong cây quế văng ra. Cương buông búa, xuýt xoa kêu:
- Cây cứng quá!
Cụ già cười xòa:
- Phải. Nó còn cứng hơn nhà ngươi.
Ngô Cương thẹn thùa, đưa tay nhặt lấy búa đưa thẳng tay chặt lia lịa. Lửa lại bắn ra tứ tung. Mỗi lần giở búa ra thì dấu chặt lại dính liền như cũ.
Cụ già bảo:
- Thôi, chặt không được đâu.
Ngô Cương càu nhàu:
- Thây kệ tôi.
- Đồ ngu đến chết vẫn không tỉnh. Nhà ngươi không thấy cây quế ấy, mày càng chặt thì cây càng lớn, càng cao, càng đẹp sao? Được. Mặc kệ cho mày chặt. Ta đi đây.
Cụ già nói xong biến mất.
Ngô Cương vẫn cầm búa chặt mãi... chặt mãi mà cây quế kia không bao giờ đứt, vẫn tươi sống kiếp kiếp đời đời.
Mỹ nhân cười người què bị chém đầu
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
Bình Nguyên Quân cũng có lòng hiếu sĩ như Mạnh Thường Quân ở nước Tề. Khi đã quý hiển càng chiêu nạp tân khách. Trong nhà, số khách ăn thường ngày có đến vài ngàn người. Phủ đệ của Bình Nguyên Quân có một cái họa lâu để một mỹ nhân ở đấy.
Lầu ấy trông sang nhà của một thường dân. Chủ nhân nhà này què chân sáng dậy khập khiễng ra xách nước. Mỹ nhân trên lầu trông thấy cười ồ lên. Một lúc sau, người què ấy đến phủ đệ của Bình Nguyên Quân xin vào yết kiến. Bình Nguyên Quân vái chào, mời ngồi. Người què nói:
- Nghe ngài có lòng yêu kẻ sĩ. Kẻ sĩ không ngại xa xôi mà đua nhau đến. Ngài quý kẻ sĩ mà khinh gái đẹp, tôi không may bị què chân, đi lại không vững, người hậu cung của ngài cứ trông tôi mà cười. Tôi không thể chịu để cho một người đàn bà làm nhục. Vậy tôi xin ngài cho tôi cái đầu của kẻ cười tôi.
Bình Nguyên Quân cười đáp xin vâng.
Người què đi về. Bình Nguyên Quân cười nói:
- Thằng ấy ngu quá. Vì một cái cười mà muốn giết mỹ nhân của ta ư!
Nhà của Bình Nguyên Quân có lệ thường: người giữ việc đãi khách mỗi tháng phải dâng trình sổ khách để xem số khách ít nhiều mà lượng tính xuất phát chi tiêu tiền thóc gạo vào ra. Trước kia số khách chỉ tăng thêm, nay mỗi ngày mỗi ít đi. Hơn một năm mấy kém mất một nửa. Bình Nguyên Quân lấy làm lạ, đánh chung hợp cả khách lại hỏi:
- Thắng này đãi các người chưa dám có điều gì thất lễ, thế mà lại đua nhau bỏ đi là tại làm sao?
Trong bọn khách có một người đứng lên nói:
- Ngài không giết bỏ mỹ nhân cười người què kia, nên ai nấy đều không bằng lòng, cho rằng ngài yêu sắc đẹp mà khinh kẻ sĩ. Do đó mà họ bỏ đi. Chúng tôi bất nhật cũng sẽ xin đi.
Bình Nguyên Quân cả sợ nhận tội:
- Thực là lỗi ở Thắng này!
Nói xong, cởi ngay thanh gươm đeo, sai kẻ tả hữu chém đầu vị mỹ nhân ở trên lầu, rồi tự tay đi đến cửa nhà người què, quỳ xin chịu tội. Người què lấy làm mừng. Từ đó những tân khách trong nhà đều ngợi khen đức hiền của Bình Nguyên Quân. Bấy giờ, những khách đã bỏ đi lại trở về như cũ.
Chiêu Tương vương nước Tần nghe chuyện, thuật với bề tôi là Hướng Thọ và khen Bình Nguyên Quân là người hiền.
Hướng Thọ nói:
- Còn chưa hiền. Bình Nguyên Quân để cho mỹ nhân cười người què mà không giết, mãi đến lúc tân khách bỏ đi mới chém đầu để tạ, chẳng là muộn lắm ru!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.08.2007 12:58:58 bởi sweet >
Loạn Kiêu Binh
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn. Dưới quyền khống chế của họ Trịnh, vua Lê chỉ còn hư vị.
Nguyên từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên ngôi chúa về sau, đất kinh kỳ chỉ dùng lính ở ba phủ: Thiệu Thiên, Tỉnh Gia và Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An gọi là lính Tam Phủ hay cũng gọi là Ưu Binh để làm quân túc vệ.
Lính này rất cậy công làm nhiều điều trái phép. Đối với họ Trịnh, nhứt là chúa Trịnh Tông, lính này tỏ ra "dày công hãn mã" hơn nữa, nên chúng càng hoành hành. Vì Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ (tục gọi bà Chúa Chè), bỏ con trưởNg là Trịnh Tông mà lập con của Thị Huệ là Trịnh Cán làm chúa. Bọn lính Ưu Binh này phò Tông, làm một cuộc đảo chính, giết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), lật đổ Cán, đưa Tông lên ngôi. Thôi thì từ đó, lính Ưu Binh có tiếng gọi là Kiêu Binh, mặc sức hống hách. Ngay đến chúa cũng sợ họ như cọp.
Hàng ngày họ họp nhau lại một chỗ để cùng làm việc triều đinh. Rồi họ viết giấy đệ vào triều nói thẳng việc này nên để, việc kia nên thay. Nhiều khi những việc vô lý, họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Họ lại còn xin gia ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Trong triều có ai bàn chuyện phải chăng thì họ dọa sẽ phá nhà, đánh chết. Những lúc xử kiện, có khi họ nhận bên nguyên cáo là người của họ; có khi họ nhận bên bị là người quen rồi ép các người đương sự thay đen đổi trắng. Những người có quan hệ đến họ, nếu có kiện ai, thì họ bắt luôn người ấy và tự đưa ra xử đoán, không cần gì đến quan chức!
Các quan đều phải nhịn hơi nuốt tiếng, không dám động chạm đến họ. Triều đình bàn nên xét công ban thưởng trọng hậu, tỏ ý đền ơn cho họ để họ đều được mãn nguyện, rồi sau sẽ dùng phép vua trị họ dần dần.
Bọn Kiêu Binh được trọng thưởng bấy giờ mới bảo nhau:
- Chúng ta đã phò ông ấy làm chúa thì cũng đừng làm quấy nhiễu quá, để cho ông biết làm chúa là vui. Chớ xem sau này dần dần thuận cảnh, ông ấy cư xử ra sao. Nếu mà gàn rỡ thái quá, bấy giờ mình sẽ liệu cách mà trị. Quyền mình nguyên vẫn là lính kia mà.
Một hôm trong đám Kiêu Binh có 4 tên lính cưỡng bách một người lái buôn ở Đông Hà để mượn chiếc thuyền bị người đội trưởng phát giác. Cả bốn tên đều bị xử chém. Bọn Kiêu Binh thán oán cho là hình phạt quá nặng, nhưng vì việc đó tự họ trót bới ra nên đành phải im.
Triều đình tự đắc cho là họ đã nép oai, trừng trị họ được.
Nhân thái tử Lê Duy Vĩ bị bịnh, Trịnh Sâm bức thắt cổ chết, con là Duy Kỳ bị bắt giam trong ngục Đề Lĩnh, khi Kiêu Binh lập Tông làm chúa thì đem kiệu đến tận nhà giam đón Kỳ về. Tông bị ép nên cùng triều đình lập Kỳ lên ngôi Đông cung, tức Hoàng tự tôn. Kiêu Binh nhân đó kể công, làm giấy tâu lên vua Lê để cầu ân huệ.
Nhà vua tuyên chỉ ủy lạo cả bọn. Lại truyền đãi tiệc và bàn cách thưởng công. Giữa lúc bọn Kiêu Binh họp ở trên điện ăn uống, có người chạy đi báo tin với chúa Trịnh Tông. Tông bàn với Quốc sư Nguyễn Khản và Quốc cựu Dương Khuông (em của Dương Thái phi, cậu của Tông). Cả hai chủ trương đem quân vây bắt và giết đi. Tông liền sai Chiêm Vũ hầu đi bắt.
Chiêm Vũ vốn có can đảm và sức khỏe, xách gươm ra thẳng cửa phủ. Vừa đi vừa tuốt gươm ra, Vũ sờ vào lưỡi gươm, tự hào nói:
- Sắc. Gươm ta sắc. Gươm ta chém được đầu Kiêu Binh.
Đoạn dẫn quân đến bao vây. Bọn Kiêu Binh còn đương ăn uống chè chén, nghe tin có lính bắt, ai nấy hỏa tốc chạy trốn. Chiêm Vũ bắt được 7 tên đem về phủ. Tông nghe lời Khản và Khuông đem ra xử tử. Lúc ấy trong triều, ngoài quê đều lấy làm khoái!
Bọn Kiêu Binh cả thảy lấy làm oán tức. Họ lại họp nhau bàn bạc. Có người nói:
- Ngày nay được có triều đình, khiến cho vua tôi ngồi yên mà hưởng phú quí đều là sức của chúng mình. Thế mà ... chẳng ơn thì chớ lại còn xem là kẻ thù, động một tí là cho đè nén. Nếu cứ nấn ná nén nhịn, khiến cho cái mưu "bẻ đũa" của họ được thành, thì rồi bọn mình không mặt nào sống sót.
Lại có người chêm vào:
- Chúng ta không biết "bẻ", chỉ biết "đả". Vậy hãy mau mỗi người đấm cho bọn họ một cái để họ đi theo Quận Huy, thử xem họ có bẻ nổi hay không?
Rồi họ hẹn hôm sau, khi tan triều sẽ khởi sự.
Các quan trong triều bắt được tin, bán tín bán nghi. Sáng lại, Dương Khuông và Chiêm Vũ hầu đi lén vào phủ chúa. Nguyễn Khảm đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan triều, bọn Kiêu Binh chia nhau đi vây các dinh. Vào nhà Dương Khuông và Chiêm Vũ hầu không thấy hai người, bọn họ tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát cả hai tư dinh đó hóa thành đất bằng.
Nguyễn Khảm bắt được hung tin, hoảng hốt thay đổi y phục, theo ngõ tắt chạy trốn thoát được. Còn nhà cửa đều bị Kiêu Binh phá tan tành.
Không bắt được ba người, lòng càng căm tức. Họ dò được tin quốc cựu Dương Trung và Chiêm Vũ hầu trốn trong phủ chúa, bèn cùng chia ra chắn kín cửa phủ. Đoạn cho một bọn kéo vào phủ đường đòi Tông đưa hai người ra cho họ. Tông bảo là không có. Họ nói:
- Hai thằng ấy trốn vào phủ, đã có người thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi vào nữa, thế mà chúa còn chối à? Xưa nay chúa nói dối bao giờ?
Dương Thái phi vừa khóc vừa nói:
- Cái thân góa bụa nhờ có ba quân phò chúa mới được thế này. Xin chư quân hãy tha mạng hắn cho già được vẹn tình cốt nhục.
Bọn Kiêu Binh quát to:
- Tha mạng cậu cấy à? Thế còn hôm nọ bảy mạng chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung khuyết sẽ hóa thành tro lập tức.
Tông và Thái phi hoảng sợ quá cùng ngồi xuống đất, chấp tay vái lạy.
Bọn Kiêu Binh lại nói:
- Không nói chuyện với đàn bà, chỉ nói chuyện với nhà chúa mà thôi.
Tông nói:
- Bức nhau thế này, thà rằng đừng lập làm chúa cho rảnh.
Họ lại nói:
- Tưởng rằng chúa muốn nên mới cố lập. Không muốn thì có ai ép.
Một người trong bọn chêm vào:
- Nói làm gì nữa? Hãy hạ xuống bệ ...
Tông sợ quá không dám hó hé.
Bấy giờ trời sẩm tối, bọn Kiêu Binh bảo nhau giải tán. Trước khi ra về, họ còn nói dọa:
- Bắt chúng ví như bắt cá. Nước sâu thì cá còn lặn. Ngày mai tháo cho cạn nước, thử xem nó có mà bay lên trời.
Đêm ấy, họ canh phòng cửa phủ rất cẩn mật.
Tông bàn với Thái phi là phải mất nhiều của tiền đút cho chúng, may ra mới xong. Thái phi đồng ý. Biết có tên thư lại tên Nhưng Thọ vốn đứa xảo quyệt, bọn Kiêu Binh bàn việc gì cũng phải hỏi nó, nên Tông đưa cho một ngàn lượng bạc, nhờ nó làm sứ giả phân chia cho chúng. Tông còn hứa "công việc xong sẽ còn trọng thưởng."
Hôm sau, Kiêu Binh lại kéo sát vào phủ. Tông và Thái phi lại ra yêu cầu. Họ nói:
- Việc gì phải lắm lời. Cứ vào cửa cấm lùng khắp tòa phủ rồi túm búi tóc lôi ra, hỏi xem cái nắm đũa ấy bẻ được mấy chiếc.
Nhưng Thọ ra hòa giải. Quân lính vốn sẵn tham lợi nên dịu giọng nói:
- Đã thế thì tha cho em ruột Thái phi. Nhưng còn Chiêm Vũ là người giữa trời, chúng tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ giải tán ngay.
Tông nói:
- Tha thì tha cả. Sao lại còn phân biệt người nọ người kia.
Bọn họ giận nói:
- Nhà của chúa nếu còn quanh co che chở Chiêm Vũ, hễ chúng tôi điên tiết thì cả Quốc cựu cũng không thể thoát.
Tông sợ quá cho người đến an ủi Chiêm Vũ và khuyên phải ra. Chiêm Vũ trốn trên Lân Các bất đắc dĩ phải trèo xuống thang ra mắt Tông và nói:
- Chết thì chết, nhưng thần xin đôi tay đôi thanh kiếm, đánh với chúng nó một trận, giết chơi vài ba trăm đứa cho hả cái giận của nhà chúa.
Tông khuyên giải:
- Không nên. Như thế chỉ làm cho Thái phi kinh sợ, quả nhân cũng chẳng được yên.
Tông khóc, đoạn hứa với Chiêm Vũ là sau khi Vũ chết, sẽ cấp một ngàn mẫu ruộng làm của nối đời, và phong làm phúc thần, bắt dân 10 làng thờ cúng. Tông lại tự viết 6 chữ "Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Chiêm Vũ. Vũ quỳ xuống nhận lấy, vo tròn mà nuốt rồi lạy tạ Tông bước ra. Khi qua điếm Tiểu Bút, Chiêm Vũ bị bọn Kiêu Binh lôi kéo hỏi:
- Gươm sắc của mày ra sao?
Chiêm Vũ đáp:
- Ta không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo lịnh chúa và vì xã tắc đó thôi. Nhưng mà chẳng lâu gì đâu!
Chúng toan đánh. Vũ bảo:
- Đây là cấm địa, không thể làm việc vũ phu. Hãy để tao ra cửa phủ ngồi yên, tha hồ chúng bay muốn làm gì thì làm.
Rồi Chiêm Vũ khoan thai bước đến cạnh cầu đá, ung dung ngồi xuống mặt đường, bảo bọn Kiêu Binh:
- Đứa nào muốn làm gì tao, cứ việc mà làm.
Bọn Kiêu Binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu. Máu chảy đầy mặt. Chiêm Vũ ngồi yên không động, khẽ lấy tay lau mặt, vừa cười vừa nói:
- Bây giờ tao không thi võ nhưng vẫn còn thi can đảm.
Một tên Kiêu Binh đứng sau dùng dao đâm thẳng vào lưng, bấy giờ Chiêm Vũ mới ngã chết.
Vậy mà chưa hả giận, bọn Kiêu Binh lại buộc chúa Trịnh Tông phải xử án trước. Tông bất đắc dĩ phải thi hành. Nguyễn Khản, Dương Khuông đều bị bãi chức làm dân. Bảy tên Kiêu Binh bị chém ngày trước đều được đền mạng.
Từ đó bọn Kiêu Binh càng ngông nghênh. Tại các đường phố, họ cứ dắt tay nhau đi. Các vị vương hầu vừa thấy bóng dáng của họ từ xa là phải quay xe lại đi đường khác.
Oai tợn như thế đó, nhưng rất buồn cười là khi chúa Tây Sơn Nguyễn Huệ đem binh từ miền Nam đánh ra, chúng nghe hơi đã run, chưa thấy bóng dáng là đã cuốn vó co giò phóng chạy. Dân chúng đã sẵn căm thù, nên chúng lẻ tẻ chạy đến đâu là bị dân bắt giết.
Hợp cũng không oai danh mà rã cũng không oai danh!
Tào Tháo thèm kỹ nữ
Đời Tam Quốc, Tào Tháo là chúa nước Ngụy, lúc làm Thừa tướng cho Hán triều, oai quyền hống hách, nhứt hô bá ứng. Lúc nào cũng ra vẻ nghiêm trang đạo mạo. Tuy vậy cũng có khi, họ Tào thấy khao khát dục tình, trổ mòi lắm chuyện... để lộ chân tướng.
Nguyên Tào Tháo đem binh đánh Trương Tú đương đóng ở Uyển Thành.
Tú là cháu của Trương Tế. Tế dẫn quân đánh Nam Dương bị tên chết. Tú thấy lực lượng của Tháo quá mạnh nên xin hàng. Tháo bằng lòng, đãi Tú rất hậu, rồi dẫn quân vào Uyển Thành đóng đồn. Quân còn lại thì đóng ngoài thành. Dinh trại liên tiếp nhau dài hơn 10 dặm. Để vừa lòng họ Tào, Trương Tú ngày nào cũng bày tiệc khoản đãi.
Một buổi tối, sau khi rượu thịt no say, Tháo lui về phòng ngủ. Phòng vắng lạnh, men rượu ngà ngà, Tháo cảm thấy con người bức rức, sự thèm khát trỗi dậy, mới hỏi nhỏ kẻ tả hữu:
- Trong thành này có ... kỹ nữ không?
Con người anh của Tháo là Tào An Dân biết ý chú, bí mật thưa rằng:
- Chiều hôm qua, cháu thấy ở cạnh quán xá có người đàn bà nhan sắc mười phần diễm lệ. Hỏi ra mới biết là thím của Trương Tú tức là vợ của Trương Tế. Vậy nếu có thể ... thì ...
- Hẳn mi thấy rõ là đẹp đấy chớ?
- Người rất đẹp, chú thấy chắc vừa lòng ngay.
Tháo thấy lòng dục bừng bừng nổi dậy, lấy làm mừng rỡ, vội bảo An Dân đem ngay 50 giáp sĩ đi bắt. Lát sau, đem về trung quân, Tháo ngắm nhìn nàng quả nhiên tuyệt đẹp. Tháo đắc ý hỏi họ. Thiếu phụ đáp:
- Thiếp là vợ của Trương Tế, người họ Chu.
Tháo hỏi:
- Phu nhân có biết tôi chăng?
Chu thị thưa:
- Nghe danh Thừa tướng đã lâu, đêm nay mới được chiêm bái, hân hạnh cho thiếp biết chừng nào.
Tháo ra vẻ nghiêm nghị, lên giọng tán:
- Chính vì tôi nể phu nhân mới chấp nhận cho Trương Tú hàng đấy. Nếu không thì đã giết cả ba họ rồi.
Chu thị chấp tay vái tạ rằng:
- Cảm ơn tái sinh này biết mấy.
Tháo lại dỗ:
- Hôm nay được gặp phu nhân quả là trời dun dủi. Vậy bây giờ xin hãy cùng nhau vui vầy cá nước, rồi mai đây cùng ta về Hứa Đô an hưởng phú quý. Phu nhân lòng nghĩ thế nào?
Chu thị tỏ vẻ bẽn lẽn, một lúc mỉm cười tạ ơn. Thế rồi đêm ấy, cả hai mặc sức giao hoan thủ lạc. Đêm trường ân ái, Chu thị thấy cảm ngay họ Tào nên thỏ thẻ:
- Nếu ở lâu trong thành này ắt Trương Tú sinh nghi, và cũng sợ người bàn tán nữa.
Tháo an ủi:
- Được rồi, ngày mai ta đưa phu nhân cùng ra ở trại lớn là yên.
Hôm sau cùng nhau dời ra ngoài thành ở. Tháo truyền cho tướng mạnh là Điển Vi vào trung quân, bảo ngủ ngay bên ngoài trướng phòng vệ. Ngoài ra bất cứ ai, nếu không có lịnh gọi đến bị cấm hẳn, không được vào. Tháo ngày đêm vui thú với Chu thị, say sưa hoan lạc, mê mẩn đến quên hẳn ngày về.
Chuyện dâm loạn khó dấu được. Tú có người mật báo, lấy làm tức giận cho là một sỉ nhục ghê gớm nên bí mật hội chư tướng của mình lại, giữa đêm tấn công vào trướng của Tháo và Chu thi đương ở.
Tướng Điển Vi dù mạnh nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, cuối cùng bị tên chết tại trận. Tào An Dân bị băm nát như bùn. Người con cả của Tháo là Tào Ngang trong cuộc ủng hộ Tháo chạy trốn bị loạn tên chết. Tháo chạy bán sống bán chết, may nhờ các tướng kéo quân đến tiếp cứu, không thì cũng táng mạng.
Trận này, họ Tào hú hồn hú vía.
Thế là tướng yêu, cháu ruột, con cưng cùng một số lính chết oan mạng vì Thừa tướng trong một lúc thèm kỹ nữ.
Chim Việt, ngựa Hồ
Cổ thi có câu:
Hồ mã tê Bắc phong,
Việt điểu sào Nam chi.
Nghĩa là:
Ngựa Hồ hí gió Bắc,
Chim Việt ở cành Nam.
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn. Vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín, lại thêm có nhiều hoa quả. Trái lại ở phương nam vì mới giao mùa, lúa vừa đọng sữa, cây trái hiếm. Do đó, chim Việt phải đổ sang đấy kiếm ăn.
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm ổ, chúng chọn cành cây chĩa về phương Nam, tức là phương của quê nhà mà chim sinh trưởng.
Chim Việt (Việt điểu) để chỉ chim nhớ quê hương cố quốc.
Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến trận. Nước Hồ vốn là xứ lạnh. Khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái.
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ tê lạnh, mỗi độ đông về. Vì thế khi có gió bấc là gió phương bắc thổi đến, tuyết rơi lả tả nơi đất Trung nguyên thì ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.
Có sách lại chép: nước Hồ đem ngựa cống vua Hán ở Trung nguyên. Ngựa được nhốt vào chuồng cho ăn uống thật ngon và được chăm sóc rất kỹ. Nhưng khi gió bấc thổi đến thì ngựa lại bỏ cả ăn uống, ngóng về phương bắc hí vang lên những tiếng bi thảm.
"Chim Việt ngựa Hồ" trở nên thành ngữ, có nghĩa bóng là không quên nơi quê hương cố quốc dù ở nơi đất khách quê người.
Trong tác phẩm "Trinh thử" của Hồ Huyền Qui có câu: "Chỉ con chim Việt đỗ rày cành Nam".
Lễ hôn
Ở Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
Hẳn vào thời kỳ xa xưa, người Việt Nam xây dựng hôn nhân có lẽ giản dị lắm. Thế nên quan lại Trung Hoa sang cai trị đất Giao Chỉ phải dạy dân cưới gả theo nghi lễ phiền phức của họ.
Theo cổ tục, hôn lễ có 6 lễ:
1/ Nạp thái: lễ coi mắt, chọn lựa.
2/ Vấn danh: lễ hỏi tên họ, tuổi.
3/ Nạp kiết: lễ bói xem hai tuổi có hợp nhau không.
4/ Nạp trưng: nạp sính lễ như tiền bạc, quần áo, nữ trang...
5/ Thỉnh kỳ: định ngày cưới.
6/ Thân nghinh: lễ rước dâu.
Tuy kết hôn theo kiểu Tàu nhưng người Việt Nam đã bỏ bớt một số nghi lễ phiền phức mà chỉ còn giữ ba lễ chính:
1/ Lễ vấn danh (lễ giạm) là lễ do nhà trai nhờ mối (mai) đến hỏi tên tuổi người con gái để so hai tuổi trai gái xem có hợp nhau không (sung khắc hoặc tương hợp theo số tử vi).
2/ Lễ nạp trưng (lễ hỏi) là lễ đem đồ sính lễ đến nhà gái.
3/ Lễ thân nghinh là lễ họ nhà trai đến nhà gái rước dâu về.
Việc hôn nhân do cha mẹ định đoạt (phụ mẫu chi mạng) hay do lời nói của người mối lái (môi chước chi ngôn). Con cái không có quyền định đoạt mối lương duyên của mình.
Khi cha mẹ ưng ý một người con gái nào hoặc vì nết na, đảm đang, hoặc vì địa vị gia đình (môn đăng hộ đối) thì nhờ người mối (băng nhân) đến điều đình. Nếu nhà gái thuận thì người mối đem lễ đến nhà gái xin "lộc mạng" hay "bát tự", tức là giấy ghi chép giờ, ngày, tháng, năm sinh của người con gái. Nếu thấy số so tuổi hai người trai gái được tương hợp thì nhà trai cùng người mối đem lễ vật đến nhà gái để sính ước. Lễ này gọi là lễ nạp trưng, lễ nạp lệ hay cũng gọi là lễ hỏi.
Từ đấy, cứ đến ngày nhà gái có giỗ, người con trai phải đến cúng. Và theo những ngày lễ tết trong một năm, phải đem đồ lễ tết đến nhà vợ chưa cưới. Lễ tết dài trong bao nhiêu năm không chừng. Vì người Nam có tục hỏi vợ cho con ngay từ lúc con còn nhỏ, đợi đến gần tuổi trưởng thành mới cưới hẳn, hoặc bị tang chế phải đợi.
Cũng có tục bắt con trai đến nhà gái làm giúp đỡ công việc trước khi cưới, tục gọi làm rể hay giữ rể. Nhưng thường con trai nhà nghèo mới chịu cách này.
Sau lễ hỏi, nhà gái đem trầu cau biếu người trong họ, bằng hữu để báo tin mừng. Nếu đôi trai gái đã trưởng thành mà lỡ gặp người trong họ chết thì có thể hỏi cưới ngay để tránh sự ngăn trở bởi tang chế. Như vậy tục gọi là cưới chạy tang.
Trước ngày cưới (lễ nghinh thân) nhà trai cho mối đến điều đình về món tiền và lễ vật cưới. Đến ngày đón dâu, chú rể cùng họ hàng khăn áo tốt đẹp chỉnh tề, họp thành một đoàn, chọn giờ hoàng đạo, kéo đến nhà gái do một người chủ hôn đi đầu hướng dẫn. Người chủ hôn (thường chọn người cao tuổi, vợ chồng song toàn có con cháu đông đúc) mặc lễ phục, bưng quả hộp đựng trầu cưới và tư trang của cô dâu, mở lối, rồi đến các người dẫn lễ, sau đến chú rể cùng hai người phù rể, sau là cha mẹ và họ hàng đàng trai.
Tất cả lễ vật cũng như số người đều không được lẻ mà phải đủ đôi đủ cặp.
Trong khi đến nhà gái, dọc đường, họ nhà trai thường gặp những đám giăng dây. Phải nộp tiền, họ mới mở lối cho đi. Nếu lấy vợ ở làng khác, lệ giăng dây còn sinh ra nhiều phiền nhiễu. Vì mỗi ngõ phải qua, họ nhà trai thường gặp nhiều đám giăng dây. Có đám bày cả hương án với đỉnh trầm, đèn nến, giá hương, độc bình, trên giăng một sợi dây điều kèm một cây kéo cắm trong bình hương do tuần tráng bầy ra. Khi họ đàng trai nạp tiền rồi mới cắt dây cho đi. Đó là một thứ tiền phụ, còn có số tiền nộp cheo phải trả cho làng để làng công nhận việc hôn thú.
Nhiều khi, trong họ nhà gái, có người ra đón tại cổng để lấy tiền nhà trai rồi mới mở cổng cho vào. Hoặc chính người em hay người cháu đích trưởng nhà gái đóng cả cửa từ đường lại để đòi tiền rồi mới mở ra. Những tục lệ này không được phổ thông bằng tục lệ giăng dây.
Bấy giờ vị chủ nhân họ nhà trai (hay mai nhân) đem đồ nữ trang và đôi đèn cầy đi thẳng lại bàn thờ để khai hộp giữa bàn. Hai ông sui trai gái, mỗi người lãnh lấy một cây đèn cắm vô chưn đèn rồi đốt lên. Mai nhân họ nhà trai trình cho mai nhân họ nhà gái những lễ cưới. Đoạn chú rể cô dâu làm lễ từ đường, rồi lạy cha mẹ, mai dong, thân tộc. Bà con họ hàng muốn cho tiền thì cho ngay lúc cô dâu chú rể đương lạy mình.
Lễ xong, nhà họ gái đãi trà mứt rồi tiệc rượu. Trong lúc này cũng như trong họ nhà trai đến, họ thường đốt pháo để cảnh thêm tưng bừng vui vẻ.
Ăn uống xong đoạn rước dâu về.
Khi đưa dâu, họ nhà gái chọn người cao tuổi cầm bó hương đi trước. Rồi họ hàng dẫn cô dâu theo sau. Có hai cô phù dâu đi cạnh hai bên cô dâu.
Về đến nhà trai, cô dâu chú rể đến bàn thờ làm lễ gia tiên, rồi lạy cha mẹ, mai dong, thân tộc như bên nhà gái, đoạn làm lễ nhập phòng. Trước khi vào phòng, cô dâu phải bước qua cái hỏa lò than hồng để xua đuổi tà khí.
Trong phòng cưới có đặt sẵn một mâm trầu rượu gọi là "mâm tơ hồng". Người chồng lấy trầu lễ tơ hồng trao một nửa cho vợ lại rót một chén rượu, uống một nửa trao cho vợ uống. Đó là lễ Hợp Cẩn hay lễ Giao Bôi.
Ba hôm sau, hai vợ chồng cùng trở về nhà vợ làm lễ từ hỉ hay "lại mặt" hay cũng gọi là lễ "giở mâm trầu". Rồi vợ chồng cùng đi chào họ hàng nhà vợ. Sau lễ cuối cùng này, hai vợ chồng lại trở về nhà chồng. Từ đấy, người vợ không còn quan hệ mật thiết đến gia tộc mình nữa (nữ nhân ngoại tộc).
Hỏa ngưu trận
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tứ c Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên. Riêng thành Tức Mặc bị bao vây rất ngặt.
Tướng giữ thành Tức Mặc chết. Điền Đan được cử lên thay. Hàng ngày, Điền Đan tay cầm ván, thuổng cùng sĩ tốt làm việc. Họ hàng thê thiếp đều ghép vào hàng ngũ cả. Người trong thành đều sợ mà được yên.
Nhạc Nghị vây suốt ba năm mà không hạ được thành, bèn rút quân lui ra 9 dặm, đắp lũy để giữ. Lại hạ lịnh rằng: Dân trong thành Tức Mặc nếu có ai ra kiếm củi thì cứ cho ra tự do, ai đói thì cho cơm ăn, ai rét thì cho áo mặc. Ý muốn cho dân trong thành cảm phục mến đức mà qui hàng.
Quan đại phu nước Yên là Kỵ Kiếp gièm pha với vua Yên là Nhạc Nghị không muốn hạ thành Tức Mặc sớm, cố kéo dài để xem ân uy kết chặt lòng dân Tề, mục đích sẽ tự lập làm vua Tề vậy. Dò được tin đó, Điền Đàn liền bí mật cho người sang Yên đồn đãi lên rằng: người Tề chỉ sợ nhất là Nhạc Nghị đến, thì thành Tức Mặc sẽ bị phá, Nghị hoãn thành là để chờ cơ hội lên làm vua.
Yên Huệ vương đã sẵn nghi Nhạc Nghị nay nghe lời đồn đãi hợp với lời nói của Kỵ Kiếp nên sai Kỵ Kiếp thay Nhạc Nghị và rút Nghị về nước. Nghị sợ bị giết, nghĩ mình vốn người nước Triệu nên bỏ trốn về Triệu.
Kỵ Kiếp được thay quyền làm tướng, vừa đến lũy được ba ngày liền đem quân đánh Tức Mặc, bao vây thành mấy vòng, tưởng con kiến con ong cũng khó chui ra.
Trong thành phòng giữ rất vững. Tuy vậy quân sĩ cũng lấy làm lo.
Một buổi sáng, Điền Đan sớm dậy nói với người trong thành:
- Đêm hôm ta nằm mộng thấy Thượng đế bảo ta rằng Tề sẽ thắng, Yên phải thua. Ngày nào đây sẽ có thần nhân làm quân sư cho ta, đánh trận nào thắng trận nấy.
Giữa lúc ấy có một tên lính đứng thập thò bên cột trông vẻ ngớ ngẩn, Điền Đan liền bước đến chụp lấy tay nó, nói với mọi người:
- Đây rồi. Vị thần nhân mà ta thấy đêm hôm chính là người này.
Đoạn, Đan kính cẩn mời nó vào trướng. Tên lính ngẩn ngơ, không biết ất giáp gì, sợ tái mặt lập cập thưa:
- Tôi thực không có tài gì, xin tướng quân tha cho.
Điền Đan nghiêm nghị bảo:
- Mày bôi mặt đỏ, mặc áo đỏ, đội mũ đỏ, mang hia đỏ, ngồi trên cái ghế cao kia để tao lạy mày nghe chưa?
- Không dám.
Điền Đan trợn mắt, quát:
- Không dám thì tao đập đầu mày vỡ như cám. Mày phải vâng lời, nghe chưa?
Tên quân hoảng sợ:
- Dạ, xin nghe.
Đan lại bảo:
- Mày tự xưng là "Tướng nhà Trời" do Ngọc Hoàng Thượng đế sai xuống để cứu nước Tề đây, nghe chưa?
- Dạ!
- Rồi mày ngồi yên lặng trên ghế cao đó, để cho tao lạy mày và các tướng sĩ lạy mày. Mày nghe chưa?
- Dạ!
- Rồi mày nói to lên: "Các tướng sĩ hãy lui ra hết, một mình tướng quân ở lại đây nghe ta truyền mật lịnh để cứu nước Tề". Mày nghe chưa?
- Dạ!
- Xong rồi, mày làm thinh, đừng nói gì nữa hết, nghe chưa?
- Dạ!
- Nếu mày không làm đúng như lời tao dặn, tao sẽ chém đầu mày cho mày chết không kịp ngáp. Nghe chưa?
- Dạ!
Tên lính ngờ nghệch ấy răm rắp tuân lịnh, bôi mặt đỏ, mặc quần áo đỏ, đội mũ đỏ rồi trèo lên chiếc ghế cao ngồi chóc ngóc trên đó.
Tướng Điền Đan liền truyền lịnh cho tất cả tướng sĩ tụ họp vào trong dinh để nghe lịnh của "Tướng nhà Trời". Hàng ngàn tướng sĩ đến nơi thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ dị: chủ tướng Điền Đan mình đang mặc cẩm bào đương sụp lạy một hình người mặt đỏ, áo đỏ, mũi đỏ, hia đỏ, ngồi chót vót trên ghế cao. Bỗng hình người phán:
- Ta là tướng nhà Trời do Ngọc Hoàng Thượng đế sai xuống để cứu nước Tề đây, nghe chưa?
Điền Đan cúi đầu cung kính đáp:
- Dạ!
Đoạn sụp xuống lạy "Tướng nhà Trời".
Toàn thể tướng sĩ lúc bấy giờ không ai bảo ai, cũng răm rắp một loạt lên tiếng:
- Dạ!
Rồi sụp xuống lạy.
"Tướng nhà Trời" lại bảo:
- Các tướng sĩ hãy lui ra hết, một mình tướng quân ở lại đây nghe ta truyền mật lịnh để cứu nước Tề. Nghe chưa?
- Dạ!
Nghe "Tướng nhà Trời" truyền dạy như thế nên tất cả mọi người lạy 3 lạy rồi lui ra, chỉ để Điền Đan ở lại lãnh mật lịnh. Bấy giờ ai cũng sợ sệt nhưng rất mừng vì tin tưởng có Tướng nhà Trời làm quân sư thì nước Tề sẽ thắng trận và được hưng vượng. Tin "Tướng nhà Trời" được loan truyền ra tận ngoài thành đến dinh Yên. Nhưng quân Yên chưa tin.
Điền Đan truyền lịnh của Tướng nhà Trời cho dân chúng trong thành: ngày 2 buổi, trước bữa ăn phải đem hoa quả thực phẩm bày ra sân để tế tổ tiên. Như thế sẽ được tổ tiên phò hộ cho. Dân chúng đều triệt để tuân theo. Những chim chóc bay ngang thấy có đồ tế liền sà cách xuống đớp mỗi ngày hai buổi. Chúng lượn đi lượn lại rợp trời rợp đất. Được mồi ngon, chúng lại kêu hót líu lo, cực kỳ vui thích.
Quân Yên bao vây bên thành trông thấy lấy làm lạ lùng quái dị, chuyến này tin chắc là có hẳn tướng nhà Trời. Chúng hoang mang vô cùng. Đã có Trời giúp thì làm sao địch nổi. Nếu địch lại thì trái mạng Trời. Nếu trái mạng trời thì phải toi mạng.
Quân Yên bấy giờ cực kỳ hoang mang, tinh thần bắt đầu giao động.
Điền Đan lại cho thám tử lẻn qua trại Yên đồn đãi rằng: "Nhạc Nghị trước kia hiền quá, bắt được người Tề không giết, nên người trong thành không sợ. Nếu thẻo mũi đi thì người Tề trong thành Tức Mặc kinh khủng mà đầu hàng". Kỵ Kiếp nghe thế liền truyền đem những quân lính Tề bị bắt trước kia, cả đến những quân lính hàng đều thẻo mũi cả.
Người trong thành nghe thế vừa sợ vừa tức, bảo nhau nhứt quyết giữ thành. Nếu lôi thôi, chẳng may thành hạ thì họ bị bắt, dù có đầu hàng cũng bị địch bắt thẻo mũi.
Điền Đan lại cho người đồn đãi qua trại Yên. Dân chúng ở trong thành nhưng mồ mả tổ tiên của họ đều xây đắp ở ngoài thành. Nếu quân sĩ nước Yên đào những mồ mả ấy thì người nước Tề vì sợ cái nạn quật mồ tổ tiên mà đầu hàng hết. Kỵ Kiếp liền sai quân lính đào hết mồ mả ở ngoài thành, đốt thây người chết, quăng bỏ hài cốt.
Dân chúng trong thành nhìn thấy đều khóc nức nở, căm thù quân Yên cực độ, quyết một phen rửa hận và nguyện uống máu ăn gan của quân bạo tàn man rợ. Họ cùng kéo nhau đến quân môn, yên cầu Điền Đan cho họ ra đánh một trận để báo thù cho tổ tông. Thấy lòng căm phẫn của dân đã đến cực độ, Điền Đan mừng thầm cho là quân lính đã đến lúc dùng được. Nhưng Đan chưa cho đánh vội.
Đan sai sứ đưa lễ sang quân Yên bảo rằng lương thực trong thành đã hết, và định ngày đầu hàng. Kỵ Kiếp tự đắc hỏi các tướng sĩ:
- Ta sánh với Nhạc Nghị thế nào?
Các tướng đều nói:
- Thật tài hơn Nghị vạn bội.
Rồi chúng lại nhảy nhót, vui mừng, tung hô vạn tuế.
Điền Đan thu trong dân chúng được hơn ngàn vàng, sai những nhà giàu đem biếu riêng các tướng Yên, yêu cầu trong ngày hạ thành, họ bảo toàn gia quyến cho. Các tướng Yên cả mừng, nhận vàng rồi giao cho mỗi nhà một lá cờ nhỏ, cắm ở trước cửa để làm dấu hiệu. Chúng rất tin chắc, không phòng bị, chờ ngày Điền Đan khai thành đầu hàng.
Điền Đan liền chuẩn bị tổng phản công.
Đan sung công tất cả trâu của dân chúng. Trâu đực, trâu cái, trâu mẹ, trâu con, trâu già, trâu nghé ... có hơn ngàn con đều được tập trung ở một khu đất trống trong thành. Đan lại tuyên bố đây là mưu kế củaTướng nhà Trời bày ra cho ông để tiêu diệt quân Yên mà đem thắng lợi cho nước Tề.
Tất cả một ngàn con trâu đều mang một lớp áo đỏ vào thân, vẽ thêm màu sắc lòe loẹt. Gươm, giáo, mác cột chặt vào sừng trâu đưa mũi nhọn sắc ra trước. Mỗi đuôi trâu lại buộc một nùi cỏ khô tẩm dầu chai.
Người ta không hiểu để làm gì.
Hoàng hôn xuống. Điền Đan liền cho giết một con trâu làm tiệc. Đoạn cho năm trăm quân cường tráng ăn uống no say, vẽ 5 màu sắc vào mặt, mặc y phục đỏ, cầm k hí giới và chạy theo sau trâu.
Trời đã khuya. Giờ khởi binh đã điểm. Tức thì cửa thành mở hoác, lùa trâu ra. Đồng thời đốt bó cỏ buộc ở đuôi trâu. Lửa cháy, trâu bị nóng quá, rống lên đâm đầu chạy xông qua dinh Yên. Năm trăm tráng quân cắm cổ chạy theo.
Quân Yên cứ tin chắc là hôm sau, quân Tề đầu hàng, sẽ kéo vào thành nên đang đêm chỏng cẳng ngủ thẳng. Thốt nhiên có tiếng ầm ầm như đất lở trời đổ, chúng giựt mình tỉnh dậy, trông ra thấy có hàng ngàn ngọn đuốc sáng rực như ban ngày. Những con vật kỳ quái xồng xộc băng băng chạy đến, lại rống lên những tiếng rùng rợn. Theo sau đó, một đoàn người dị thường hung hăng xông theo. Quân Yên hồn bay phách tán tưởng như một đoàn mãnh thú quái dị và lũ quỷ sứ mặt ngũ sắc của tướng Trời chỉ huy.
Hàng ngũ quân Yên rối loạn. Chạy đâu cũng không thoát. Những cặp sừng húc vào đâu thì người bị thương toi mạng, ruột gan lòng thòng, máu chảy dẫy đầy. Năm trăm tráng quân chẳng nói chẳng rằng, tay cầm dao lớn búa to cứ gặp người là chém, là bửa. Năm trăm người mà khí thế bằng mấy vạn quân.
Khủng khiếp quá, quân Yên mặt mày không còn một hột máu, tiểu đại xổ ra một lần. Nhưng nào thoát mạng được.
Điền Đan lại thân xuất người trong thành reo hò chạy đổ đến. Những kẻ già yếu và phụ nữ đều cầm dùi đánh vào những đồ đồng, đồ thiếc, tiếng vang dội khắp trời đất. Quân Yên càng khiếp đảm, chạy tán loạn, đạp nhau chết vô số. Thây nằm ngổn ngang như rạ, máu đổ lan mặt đất như nước sông.
Tướng Kỵ Kiếp ôm đầu lủi chạy, bị Điền Đan đâm một giáo chết không kịp la.
Quân Yên đại bại.
Thừa thắng, Điền Đan cử một cuộc tấn công, đánh thẳng đến sông Hoàng Hà, phía bắc nước Tề, khôi phục hơn 70 thành. Các thành ấy nghe quân Tề đắc thắng đều phản Yên mà trở lại với Tề.
Thật là một trận giặc trâu kinh khủng trong lịch sử thế giới.
Trong bài "Con trâu" của Học Lạc (Nguyễn Văn Lạc) có câu:
Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,
Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.
Cụ Huỳnh Mẫn Đạt, trong bài "Con trâu già" cũng có câu:
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa,
Tai điếc buồn nghe Ninh Thích ca.
"Đốt đít" và "Điền Đan hỏa" là do điển tích trên.
Tam bành, lục tặc
Đạo gia (tức Đạo giáo, theo học thuyết của Lão Tử) cho rằng cái Thần (tinh thần) của con người ở vào ba nơi. Một ở óc, hai ở minh đường (quả tim), ba ở dạ dày. Theo sách "Chư chân huyền ảo" thì cái Thần ấy có thể làm hại người. Ba nơi chư Thần ấy, Đạo giáo gọi là Tam thi.
Theo sách "Thái thượng tam thi trung kính" thì: thượng thi tên Bành Cứ vốn ở đầu con người; trung thi tên Bành Chất vốn ở bụng người; hạ thi tên Bành Kiêu ở chân người. Ba thần này gọi là thần Tam Bành hay xúi giục người làm bậy. Đến ngày Canh Thân, ba vị thần này lén tâu với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho người mau chết để khỏi phải theo dõi nữa. Người ta tin rằng những sự giận dữ, nóng nảy là do thần Tam Bành xúi giục gây ra để cho người dễ làm bậy. Vì giận dữ, nóng nảy dễ làm cho người làm những điều sai lầm. Nhiều việc không thành, đổ vỡ vì giận giỗi, nóng nảy.
Cũng như tục ngữ ta có câu: "No mất ngon, giận mất khôn".
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn Tú Bà nghe Kiều đã lấy Mã Giám Sinh (chồng bình phong của mụ), mụ ghen tức, có câu:
Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên.
Nghĩa là mụ nghe Kiều nói rõ sự tình (tình hình, tình trạng về việc nàng đã thất thân với Mã Giám Sinh, coi Giám Sinh là chồng rồi) tức thì mụ mới nổi giận lên đùng đùng.
"Lục tặc" là sáu thứ hại.
Theo Phật giáo thì sáu thứ hại cho sự tu hành là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc đẹp, tiếng thanh tao, mùi thơm, vị ngọt, ấm áp, êm ái dễ làm lòng người giao động xao xuyến. Chúng như có một ma lực huyền bí để quyế rũ, hấp dẫn lôi cuốn người vào bến mê, đọa lạc. Bởi vậy, người tu hành mắt không xem sắc đẹp, tai không nghe tiếng thanh, mũi không ngửi mùi thơm, miệng không nếm vị ngọt, thân thể xa kẻ khác, lòng không tưởng điều tà vậy.
Con người, một khi để Tam Bành, Lục Tặc dậy lên thì tất nguy khốn cho thân mạng, cho cuộc đời. Người nào giết được Tam Bành, Lục Tặc tức là một vị chân tu vậy.
Suối vàng hay chín suối
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc Thúy Kiều cùng hai em đi dự hội đạp thanh và lễ thanh minh thấy mộ của Đạm Tiên vắng lạnh hoang tàn, Kiều động lòng thương xót hỏi thăm. Được Vương Quan kể lại cuộc đời bi thảm của nàng ca nhi nằm dưới mộ, Kiều ngậm ngùi khóc, có câu:
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
"Suối vàng" do chữ "Huỳnh tuyền" tức là suối nước màu vàng. Người Tàu ngày xưa tin rằng ở dưới âm phủ có chín cái suối nước vàng, nên có chữ "Cửu tuyền" tức là "Chín suối". Huỳnh tuyền hay Cửu tuyền, Suối vàng hay Chín suối đều chỉ chỗ ở của người chết.
Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), chúa nước Trịnh là Trịnh Trang công tên Ngộ Sinh rất có hiếu với mẹ. Vì mẹ bất chính nên Trang công có lời thề rằng: "Chẳng phải chốn suối vàng thì chẳng nhìn nhau" (Bất cập huỳnh tuyền vô tương kiến dã).
Nguyên vợ của Trịnh Vũ công là Khương thị sinh được hai con. Con trưởng là Ngộ Sinh, con thứ tên là Đoạn. Cái tên Ngộ Sinh là do sự đẻ thình lình làm cho Khương thị chịu nhiều đau đớn. Vì đó mà Khương thị đâm ra ghét Ngộ Sinh, thương Đoạn. Lại Đoạn người khôi ngô, thông minh, mặt trắng như dồi phấn, môi đỏ như son, sức khỏe lạ thường, thêm tài kỵ xạ. Khương thị rất mực thương yêu, muốn sau này được nối ngôi nên thường khoe Đoạn là người hiền trước mặt chồng và tỏ ý muốn Đoạn được nối ngôi thế tử. Trịnh Vũ công bảo:
- Anh em có thứ bực, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa Ngộ Sinh không có tội lỗi gì, sao lại bỏ trưởng mà lập thứ được.
Trịnh Vũ công lập Ngộ Sinh làm thế tử. Còn Đoạn thì đem đất Cung phong cho. Khương thị càng bất bình.
Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức là Trịnh Trang công. Khương thị rất buồn bả, bảo Trịnh Trang công:
- Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm mà chỉ để cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ bé không đủ dung thân, sao yên lòng được?
- Vậy xin mẫu thân dạy cho biết ý muốn?
- Sao con không lấy đất Chế Ấp mà phong cho em con.
- Chế Ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho bất cứ ai. Vậy trừ đất ấy, mẫu thân muốn chỗ nào, con sẽ vâng lời.
- Nếu vậy phong cho Đoạn ở Kinh Thành.
Trịnh Trang công im lặng, không nói gì. Khương thị thấy thế nổi giận, nói:
- Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Đoạn đi sang nước khác, để nó kiếm cách gì làm ăn được thì nó làm!
Trịnh Trang công thở dài:
- Con đâu lại làm thế được!
Hôm sau, Trang công vời Đoạn vào phong cho đất Kinh Thành.
Đại phu là Sái Túc can rằng:
- Kinh Thành là một ấp lớn, đất rộng, người đông. Nếu đem phong cho Đoạn thì mai hậu người tất cậy thế chuyên quyền.
Trang công nói:
- Mẫu thân ta muốn như vậy thì ta phải làm theo vậy.
Đoạn được phong đất Kinh Thành, vào cáo biệt mẹ. Khương thị đuổi kẻ hầu cận rồi bảo Đoạn:
- Anh mày không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi mày lắm điều bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản, nó mới phong đất Kinh Thành cho mày, ấy là vị nể chưa chắc thành thật. Con về Kinh Thanh nên lo luyện tập binh mã, phòng bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng cho mà chiếm lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có chết cũng được hả dạ.
Đoạn lãnh lịnh mẹ rồi ra đóng ở đất Kinh Thành.
Từ đấy, Đoạn giả cách đi săn bắn mà luyện tập binh mã, tìm kiếm mưu mô chiếm lấy nước Trịnh. Đoạn lại chiếm luôn cả hai ấp gần đó. Quan ấp tể trốn vào Trịnh kêu cứu. Trịnh Trang công không nói gì chỉ cười lạt mà thôi.
Đại phu Sái Túc và quan thượng khanh là công tử Lữ nằng nằng tâu xin Trang công cho đem quân đi dẹp. Trang công nói:
- Đoạn dẫu vô đạo nhưng chưa rõ tội lỗi. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu, bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Đoạn tất làm càn, không hề kiêng nể, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước chẳng ai giúp Đoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không trách oán gì được.
Công tử Lữ nói:
- Mặc dù vậy nhưng tôi sợ thế lực Đoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu cách gì cho Đoạn phản nghịch, nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.
Trang công cho là phải. Bấy giờ cả hai mới tính kế nhau.
Sáng hôm sau, Trang công ra lịnh giao việc quốc chính cho Sái Túc để vào triều nhà Chu. Khương thị nghe biết mừng lắm, cho là có dịp cướp được nước, vội vã viết thư sai người tâm phúc đem đến Kinh Thành, hẹn với Đoạn chiếm lấy nước Trịnh. Nhưng công tử Lữ đã cho người đón đường, giết tên đưa thư và đoạt lấy thư. Trang công xem xong niêm lại, rồi sai kẻ tâm phúc giả làm người của Khương thị đem thư sang đưa cho Đoạn và lấy thư trả lời về. Thư của Đoạn hẹn đến ngày mùng 5 tháng 5 thì khởi sự.
Trang công tiếp được thư, mừng nói:
- Tờ cung chiêu của Đoạn sẵn có đây rồi. Mẫu thân hẳn không còn binh vực thế nào được.
Đoạn từ khi tiếp được thư mẹ liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh; rồi phao tin rằng mình về Trịnh phụng mạng coi việc quốc chính và mở cửa thành tiến quân. Công tử Lữ sai quân giả dạng lái buôn vào thành, đợi khi Đoạn cất quân thì đốt lửa làm hiệu cho Lữ biết mà đem quân đến, trong thành sẽ mở cửa đón.
Lữ vào được thành liền kể tội trạng của Đoạn và đem những đức tính của Trang công yết cho nhân dâng biết. Đoạn biết cớ sự không thành, rút quân về Cung Thanh. Trịnh Trang công đem quân tiến đánh. Đoạn tự tử.
Trang công vào thành, ôm thây Đoạn than khóc, lại đem tất cả thư từ của mẹ gởi cho Đoạn và thư của Đoạn gởi cho mẹ gói làm một gói, truyền Sái Túc trao lại cho Khương thị. Trong lúc buồn tức, Trang công truyền an trí mẹ ở Đỉnh Ấp và thề rằng: "Chỉ đến khi xuống suối vàng, mẹ con mới gặp mặt được".
Khương thị trông thấy cả hai bức thu, lấy làm hổ thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trang công nữa nên theo lịnh an trí ở Đỉnh Ấp.
Trang công về cung, thấy vắng mẹ, lòng chua xót than thở: "Ta buộc lòng mà để em chết, nay nỡ tình nào lìa mẹ nữa. Ta thật có tội với luân lý." Nhà vua rất lấy làm hối nhưng đã lỡ thề rồi. Quan trấn Đỉnh Ấp là Đĩnh Khảo Thúc biết ý Trang công nên mới bày cách giải lời thề là cho người đào đất đến tận mạch nước, rồi làm một cái nhà dưới hầm bên cạnh suối đem Khương thị xuống ở, đặt thang dài để Trang công xuống gặp mẹ. Trang công sụp lạy mẹ, nói:
- Ngộ Sinh này bất hiếu, lâu nay thiếu sự phụng thờ mẹ, xin mẹ tha tội cho.
Khương thị nói:
- Đó là lỗi của mẹ, con không có tội gì.
Đoạn đỡ Trang công dậy, mẹ con khóc lên não ruột. Trang công liền dắt mẹ lên thang rồi ngồi xe, và tự tay cầm cương đưa mẹ về cung.
Hình thức đào đất tận mạch nước suối để xuống tận nơi gặp mẹ cho đúng lời thề "gặp nhau ở suối vàng".
Cơm Phiếu mẫu, trôn Ác Thiểu
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn. Tín tạ ơn, nói:
- Tôi ngày sau được đắc đạo sẽ xin báo đáp.
Một hôm, Hàn Tín đem cá ra chợ bán, gặp đứa tiểu nhân tên Ác Thiểu đón đường làm nhục, bảo:
- Chà, bán cá mà còn đeo gươm cho oai, nhưng có dám đâm ta không?
Tín ngẩn ngơ. Tên Ác Thiểu lại tiếp:
- Nếu không dám thì hãy chui dưới trôn của ta đây mà qua ...
Tín không do dự, cúi mình chui dưới trôn của nó mà đi. Người ở chợ đều cười ồ lên, cho Tín quá hèn nhát. Có người tên Hứa Phụ vốn xem tướng giỏi, nói với Tín:
- Tướng ngươi sang lắm, hưởng đến tước vương hầu, oai danh thiên hạ.
Hàn Tín phì cười:
- Một ngày chẳng có một bữa cơm no, còn trông giàu sang sao được.
Khi Hạng Lương khởi binh đánh Tần Thủy Hoàng, Hàn Tín đến đầu mong lập công, nhưng Lương khinh Tín, chỉ cho làm chức Chấp kích lang để dùng hầu hạ nơi trướng mà thôi. Sau Hạng Lương chết, cháu là Hạng Võ lên thay cầm quân, vẫn khinh thường Tín, cho Tín là tên "lòn trôn", hèn nhát nên không dùng vào việc lớn.
Trương Lương là quân sư của Hán Lưu Bang, biết Hàn Tín là người có tài kinh bang tế thế nên tìm đến, yêu cầu Tín bỏ Sở sang giúp Hán. Tín bằng lòng.
Hàn Tín được Hán Lưu Bang đăng đàn bái tướng phong chức Nguyên nhung, cầm quân đánh Sở. Đánh được nhiều trận thắng lợi to, cuối cùng hạ được Sở Hạng Võ, gồm thâu thiên hạ, thống nhứt đất nước, giúp Lưu Bang lập nên cơ nghiệp Hán triều, Tín được phong làm Sở vương.
Về quê cũ cai trị, Hàn Tín cho người tìm Phiếu mẫu và Ác Thiểu đến. Cả hai phủ phục, gầm đầu không dám nhìn lên. Hàn Tín sai người lấy ngàn vàng thưởng cho Phiếu mẫu gọi là đền đáp ơn ngày xưa. Phiếu mẫu lạy tạ ra về. Đoạn Tín lại phong cho Ác Thiểu làm chức Trung húy.
Ác Thiểu cực kỳ ngạc nhiên, thờ thẫn một lúc mới nói:
- Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, chẳng biết đại nhân mà xúc phạm uy nghiêm, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu được ban chức tước.
Hàn Tín ôn hòa bảo:
- Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng cừu hận. Hành động đối xử của nhà ngươi ngày xưa xem qua tuy có vẻ quá đáng nhưng cũng là một bài học luyện chí cho ta. Vậy nhà ngươi đừng tị hiềm, mà hãy nhận lấy chức ta ban.
Ác Thiểu cảm mến lạy tạ ra về. Hàn Tín lại nói với kẻ tả hữu:
- Tráng sĩ đó trước kia làm nhục ta. Lúc ta còn hàn vi, không thế lực gì, nếu ta chống cự, giết nó đi thì chưa chắc ta được như ngày hôm nay. Nhờ ta biết nhẫn nhục nên mới yên thân mà giúp được nước lập nên công danh. Nó giúp ta đấy, nên ta mới phong thưởng chớ không phải là việc vô cớ.
Cổ thi có câu: "Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân".
Mang ơn người, đền đáp ơn âu cũng một lẽ thường. Bị người làm nhục mà cũng đền đáp, cho là công ơn "mạ nhân như giáo nhân", thật là thái độ của một sĩ quân tử.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: