(url) “Nhân Văn Giai Phẩm”

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 47 bài trong đề mục
Tác giả Bài
LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
(url) “Nhân Văn Giai Phẩm” - 23.02.2007 10:53:51
Thảm kịch “Nhân Văn Giai Phẩm”

Kính dâng hương hồn các nạn nhân
dưới chế độ độc tài toàn trị



Nguyễn Minh Cần

Đúng 50 năm trước, khi tấn thảm kịch Cải cách Ruộng đất (1953-1956) vừa hạ màn, để lại cả một vùng nông thôn tan hoang đầy tang thương trên miền Bắc vì trận bão diệt chủng rợn người với 172008 nạn nhân (1), thì cũng bắt đầu một tấn thảm kịch khác có tên là “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm”! Lần này, nạn nhân phần lớn là những trí thức, văn nghệ sĩ có khát vọng tự do dân chủ và đầu óc suy tư độc lập. Cả thảm kịch trước cũng như thảm kịch sau đều do các lãnh tụ Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCS) đạo diễn và đều khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử mấy ngàn năm của Đất nước ta.

Về cuộc CCRĐ, chúng tôi đã từng có dịp nói đến, hôm nay xin kể lại với bạn đọc về “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm”.

Bối cảnh chung

Trước hết, chúng tôi xin nói sơ qua bối cảnh chung của miền Bắc hồi giữa thập niên 50 thế kỷ trước để bạn đọc ngày nay dễ hiểu được nguyên nhân của trào lưu tư tưởng đòi tự do trong sáng tác văn nghệ cũng như đòi mở rộng dân chủ trong xã hội hồi đó.

Sau Hiệp định Genève và nhất là sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp thu miền Bắc từ tay quân đội Pháp trao trả thì một tâm trạng khao khát được tự do, nhất là tự do sáng tác, tự do suy tư nổi lên trong trí thức, văn nghệ sĩ đã tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp. Thời chiến tranh, chính trị được coi là “thống soái” nên cán bộ chính trị tha hồ kiểm duyệt sáng tác của trí thức, văn nghệ sĩ, từ câu văn, cấu trúc, văn phong cho đến nội dung tư tưởng. Mà than ôi, trình độ của cán bộ chính trị hồi đó quá thấp, mà lại thường kênh kiệu về cái vai trò “thống soái” của mình, họ coi thường trí thức văn nghệ sĩ là “tạch tạch sè” (tiểu tư sản) thậm chí là “đại biểu tư tưởng tư sản”. Trong chiến tranh, trí thức, văn nghệ sĩ kháng chiến phải ép mình chịu đựng tình cảnh đó, nhưng khi hoà bình đã được lập lại rồi thì họ muốn được nới rộng tự do hơn, ít nhất là trong sáng tác: ai mà không thấy xót xa đau đớn khi những “đứa con tinh thần” của mình bị cắt xén vô tội vạ! Đấy là tâm trạng chung của trí thức văn nghệ sĩ kháng chiến hồi đó.

Còn tâm trạng của dân chúng, đặc biệt là dân chúng sống trong vùng trước đây bị Pháp chiếm, là nỗi khiếp sợ bị thành kiến là dân vùng địch, bị trả thù, bị đấu tố như trong CCRĐ, khiếp sợ chế độ đăng ký hộ khẩu rất ngặt nghèo, lo sợ bị bóp nghẹt quyền tự do tôn giáo, bị “mất đạo”, “mất Chúa”... Chính vì thế, một làn sóng di cư ào ạt đã nổi lên lôi cuốn cả một triệu người bỏ nhà cửa, bỏ ruộng vườn chạy vào Nam.

Sự đời éo le

Trong bối cảnh đó, hồi cuối năm 1954 đầu năm 1955, một nhóm nhỏ văn nghệ sĩ đảng viên trong quân đội gồm có Trần Dần, Tử Phác, Đỗ Nhuận (về sau Đỗ Nhuận sớm xin rút lui) đã gặp Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, uỷ viên Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) Nguyễn Chí Thanh để đề nghị “cải tiến công tác văn nghệ trong quân đội”. Khi trình bày về những can thiệp quá đáng của cán bộ chính trị đối với các tác phẩm thì Trần Dần đã kết luận “xin trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”. Chính cái câu nói đó làm cho Nguyễn Chí Thanh và những người lãnh đạo văn nghệ, đứng đầu là Tố Hữu, buộc tội cho nhóm văn nghệ sĩ này là “phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng”, là “tư tưởng tự do tư sản phản động”. Khốn nỗi, hồi đó, Trần Dần lại đang gặp phải bi kịch lớn trong đời riêng: anh yêu một cô gái Hà Nội (bị coi là dân vùng tạm chiếm), mà lại là một giáo dân Công giáo, lại được uỷ quyền cho thuê mấy ngôi nhà (mà chị đã tự nguyện giao lại cho chính quyền thành phố). Dưới con mắt đầy cảnh giác của Đảng hồi đó, Trần Dần bị nghi ngờ là đã “sa lưới địch”, bị “trúng viên đạn bọc đường” của tư sản. Tổ chức Đảng không đồng ý cho Trần Dần kết hôn với người yêu nhưng nhà văn vẫn cứ sống với chị ấy. Lại thêm một chuyện nữa, hồi tháng 3 năm 1955, có cuộc phê bình tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Trong lúc đám nịnh thần tâng bốc thơ Tố Hữu lên mây thì Hoàng Cầm, Lê Đạt, Hoàng Yến, Trần Dần... lại dám nói đến mặt yếu kém của thơ Tố Hữu. Trần Dần nhận xét thơ của Tố Hữu là “nhỏ bé, nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại” và “Tố Hữu mắc sai lầm thần thánh hoá lãnh tụ”... Hồi đó mà dám phát ngôn như thế về thơ của người lãnh đạo văn nghệ đầy quyền uy thì thật là quá bạo. Vì thế, một loạt bài báo đả kích những người đã dám phê bình thẳng thắn, tiếp theo là một loạt buổi họp “kiểm thảo” (nói theo từ ngữ thời ấy, có nghĩa như hạch hỏi, truy đấu) với những lời buộc tội rùm beng, dẫn đến việc Trần Dần và Tử Phác bị bắt giam...

Khi Trần Dần còn bị câu lưu, đầu năm 1956, một số nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng, như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Văn Cao, Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn T‎ý... chủ trương ra tập “Giai Phẩm 1956”, sau này gọi là “Giai Phẩm Mùa Xuân”, do nhà xuất bản Minh Đức ấn hành. Trong tập đó, đáng chú ý có các bài “Chống Công Thức”, “Ông Bình Vôi” của Lê Đạt, “Cái Chổi Quét Rác Rưởi” của Phùng Quán và bài thơ “Nhất Định Thắng” của Trần Dần (của đáng tội, Trần Dần không hay biết gì việc đưa bài của mình vào Giai Phẩm). “Giai Phẩm Mùa Xuân” mới ra liền bị thu hồi.

Sau ba tháng bị giam, Trần Dần và Tử Phác được thả ra. Nhưng chỉ vì một vài câu thơ trong bài “Nhất Định Thắng”, như ...“Tôi bước đi/không thấy phố/không thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa/trên màu cờ đỏ” và ...“Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người/Người vẫn thường hốt hoảng trước tương lai”, mà Trần Dần bị “đánh” rất mạnh, bị đem ra “luận tội” (chữ của Hoàng Cầm) là “bôi đen chế độ”, “xuyên tạc thực tế tốt đẹp của miền Bắc”, là “phản bội”...

Vươn tới tự do

Hồi năm 1956, tình hình thế giới cũng như trong nước có thêm những nhân tố kích thích lòng hăng hái phát biểu của các công dân có đầu óc suy nghĩ và có ý thức trách nhiệm xã hội. Đó là ảnh hưởng lớn lao của việc Đại hội 20 ĐCS Liên Xô (tháng 2.1956) vạch trần những sai lầm (nói đúng hơn là tội ác) trầm trọng của Stalin, ảnh hưởng của phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của ĐCS Trung Quốc đưa ra tháng 5.1956 (hồi đó ít ai biết đó là trò ma giáo của Mao Trạch Đông và ĐCS TQ nhằm đánh bẫy những người bất đồng chính kiến cho họ xuất đầu lộ diện để sau này dễ bề tiêu diệt họ) và tiếng vang của Hội nghị Trung ương ĐLĐVN (tức là ĐCS) tháng 9.1956 chính thức thừa nhân những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và đưa ra nhiệm vụ “sửa sai”.

Vì thế, mặc dù “Giai Phẩm Mùa Xuân” bị thu hồi, nhưng đến tháng 8.1956 “Giai Phẩm Mùa Thu” tập I vẫn cứ ra, rồi tiếp theo là tập II. Trong tập I có những bài khá thẳng thắn, như “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ” của Trương Tửu, “Bức thư gửi một người bạn cũ” của Trần Lê Văn và đặc biệt là bài báo bộc trực “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” của Phan Khôi. Tờ báo tư nhân duy nhất còn lại từ thời Pháp chiếm đóng, báo “Thời Mới” của Hiền Nhân, đã coi bài này của cụ Phan là “quả bom tạ nổ giữa Hà Thành”.

Đến ngày 20.9.1956, báo “Nhân Văn” ra số 1, có ghi rõ tên người chủ nhiệm Phan Khôi, thư ký toà soạn Trần Duy. Ngay trên trang đầu, toà soạn đã tuyên bố rõ ràng: “...báo “Nhân Văn” đứng dưới sự lãnh đạo của ĐLĐVN, theo chủ nghĩa Mác-Lênin với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà, để đi đến thực hiện chủ nghĩa xã hội, theo như ý muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước” (nguyên văn). Trong số 1 có một bài ngắn mang tựa đề: “Ý kiến của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, Giáo sư đại học”, trong đó ông Tường trình bày ý kiến thẳng thắn về mở rộng tự do và dân chủ. Một bài khác với tựa đề: “Chống bè phái trong văn nghệ” của Trần Công với lời lẽ nhẹ nhàng, lịch sự, tác giả dám đề cập đến sự độc đoán của nhóm lãnh đạo văn nghệ. Chắc bài này đã “chạm nọc” một số quan chức văn nghệ hồi đó. Một bài thơ của Lê Đạt nhan đề “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” với câu “Phải hiểu, phải yêu, phải quý trọng con người”. Đặc biệt nhất trong số 1 là bài ký dài của Hoàng Cầm, với tựa đề: “Con người Trần Dần”, đã kể lại bi kịch tình yêu của Trần Dần, việc Trần Dần đã hai lần bị bắt và có lần đã tự cắt cổ mình, những lần bị “kiểm thảo” vì bài thơ “Nhất định thắng” của ông. Qua bài ký đó, Hoàng Cầm đã hé tấm màn bí mật về sự đàn áp tự do tư tưởng, tự do sáng tác. Một bức ký hoạ của Nguyễn Sáng vẽ chân dung Trần Dần với vết thương chéo ngang cổ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Trong ngày báo “Nhân Văn” ra mắt số đầu tiên, cả Hà Nội nhốn nháo, sôi động, người người truyền tin cho nhau, rộn ràng chạy đi tìm mua báo, và số báo hôm đó “bán chạy như tôm tươi”. Nhiều người mua hai, ba số để gửi cho bạn bè các nơi khác. Tờ báo mới ra đời đã gây dư luận xôn xao ở Hà Nội, rồi lan xuống Hải Phòng, Nam Định và truyền đi nhiều nơi khác.

Phản pháo của Đảng

Năm ngày sau, 25.9.1956, báo “Nhân Dân” của Đảng tung ra một bài dài của Nguyễn Chương, phó trưởng ban tuyên huấn trung ương, cố tình ghép tội chính trị cho báo “Nhân Văn” là “muốn nhân việc phê bình lãnh đạo văn nghệ hẹp hòi, mệnh lệnh mà làm cho người ta tưởng rằng toàn bộ sự lãnh đạo của ĐLĐVN và toàn bộ chế độ chính trị ở miền Bắc là độc đoán, độc tài, chà đạp con người, không có nhân văn” (nguyên văn). Những ngày sau, các báo khác của Đảng đồng loạt đăng nhiều bài phê phán kịch liệt “Nhân Văn” với giọng điệu giống nhau, với lời buộc tội tương tự: báo “Nhân Văn” đánh vào đảng lãnh đạo, đánh vào chế độ.

Nhưng những bài trên báo chí “chính thống” thường quá nhiều chất “lưỡi gỗ”, kém tính thuyết phục đối với đông đảo dân Hà Nội, vì họ cảm thấy bằng kinh nghiệm bản thân là báo “Nhân Văn” nói thật. Ai chứ những ông Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo... thì chẳng lạ gì với dân Hà Nội và họ thành thực có cảm tình. Vì thế, dù bị công an doạ dẫm, các cán bộ đảng ở cơ sở răn đe, nhiều trí thức, sinh viên, giáo viên vẫn cứ công nhiên cổ động cho báo “Nhân Văn”, phản bác lại những điều báo Đảng viết. Hăng nhất là sinh viên, nơi các Giáo sư Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường giảng dạy.

Một hiện tượng nữa cho thấy ảnh hưởng của “Nhân Văn-Giai Phẩm” đối với thanh niên là hồi đó họ thường ngâm nga, như lời cửa miệng, mấy câu thơ nổi tiếng“Đem bục công an/đặt giữa trái tim người/Bắt tình cảm ngược xuôi/Theo luật đi đường nhà nước” (Lê Đạt), “Tôi bước đi/không thấy phố/không thấy nhà/Chỉ thấy mưa sa/trên màu cờ đỏ” (Trần Dần). Tôi còn nhớ một chuyện làm dư luận ở Hà Nội hồi đó rất phẫn nộ, là theo lệnh “trên”, Sở Báo chí của Thủ tướng phủ đã phái cán bộ của Sở, tên là Thiết Vũ, đưa một bài phê phán báo “Nhân Văn” đến cho tờ “Trăm Hoa” và yêu cầu đăng. Chủ bút Nguyễn Bính không chịu nhận bài. Thiết Vũ nài ép không được, thế là anh chàng vũ phu kia đã hành hung nhà thơ. Dư luận phản đối ầm lên một dạo.

Đàn áp khủng bố

Vượt qua bao khó khăn do nhà cầm quyền gây ra, báo “Nhân Văn” ra được năm số. Đến số 6, khi nhà in đã lên khuôn, thì trưởng ban tuyên huấn trung ương Tố Hữu hô hoán ầm lên rằng trong số 6, Nguyễn Hữu Đang trắng trợn xúi giục dân chúng biểu tình trong dịp Quốc hội họp, âm mưu gây bạo loạn. Rồi... theo một kế hoạch định sẵn, những tuyên bố đồng loạt được tung lên, đặc biệt là tuyên bố của “235 văn nghệ sĩ Nam Bộ” (thật ra, đây là tác phẩm nguỵ tạo của báo “Thống Nhất”) đăng trên báo “Nhân Dân” ngày 15.12.1956 buộc tội cho báo “Nhân Văn” để cho kẻ địch lợi dụng, gây chia rẽ Bắc Nam, gây sự hiểu lầm về chế độ tốt đẹp của miền Bắc, nguy hại cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Cùng ngày đó, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Hà Nội đã ra lệnh cấm báo “Nhân Văn”, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh ra sắc lệnh báo chí. Thế là những tờ “Trăm Hoa”, “Đất Mới”, “Giai Phẩm”... đều bị bóp chết không kèn không trống.

Về sau, số phận những người tham gia vào trào lưu Nhân Văn-Giai Phẩm này như thế nào thì chắc nhiều người đã biết. Người ta đã trắng trợn biến chuyện văn chương thành một “vụ án gián điệp”. Nhà văn nữ Thuỵ An chẳng dính dấp gì đến báo “Nhân Văn” cũng bị ghép vào nhóm “Nhân Văn” và ngày 21.1.1960 đưa ra xử trong “vụ án gián điệp” cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) và Phan Tài và Lê Nguyên Chi (hai người này bị coi là tòng phạm). Nhà văn Thuỵ An và nhà hoạt động văn hoá Nguyễn Hữu Đang mỗi người lĩnh án 15 năm tù ngồi, nhà xuất bản Minh Đức – 10 năm tù ngồi, tịch thu tài sản, hai tòng phạm – mỗi ông lĩnh 5 năm tù. Nhưng đó chỉ mới là mặt nổi của tảng băng mà thôi. Số còn lại thì người ta không công khai xét xử tại toà án, nhưng lại ngấm ngầm tống vào tù, như các ông Phùng Cung, Trần Duy, Phan Tại, Hoàng Công Khanh, Tuân Nguyễn... Riêng nhà thơ Phùng Cung “âm thầm” ngồi tù đến 12 năm – từ tháng 12.1961 đến tháng 11.1972, qua nhiều nhà tù độc ác nhất trên miền Bắc, bị biệt giam nhiều lần với cùm kẹp man rợ. Nhà văn Phan Khôi, các giáo sư đại học Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh đều bị cách chức, bao vây kinh tế và quản thúc cho đến cuối đời. Có người bị đày đoạ đến đói khổ, như luật sư Nguyễn Mạnh Tường... Các văn nghệ sĩ có dính đến Nhân Văn-Giai Phẩm đều bị “kỷ luật” – trên văn bản ghi hai, ba năm, nhưng thực tế thì kéo dài đến 30 năm. Trong thời gian đó họ bị đưa đi lao động cải tạo, bị cô lập, bị “treo bút”, nghĩa là suốt 30 năm không một tác phẩm nào của họ được phép xuất bản, như Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Hữu Loan, Quang Dũng...

Khốn khổ nhất là những người gọi là “Nhân Văn phường”, “Nhân Văn xã”, “Nhân Văn huyện”... tức là những người có cảm tình với “Nhân Văn” ở khắp nơi, đã từng ủng hộ, bênh vực, chuyền tay báo, thậm chí chỉ đọc hay lưu giữ báo “Nhân Văn”, đều bị công an địa phương ghép tội “liên quan với “Nhân Văn”, thế là suốt đời bị kỳ thị, bị nghi ngờ. Mà “cái án” này thì không bao giờ được xoá cả. Đó là khổ nạn của người dân có chút đầu óc suy nghĩ.

Trận đòn chí mạng mà ĐCS đánh vào trào lưu Nhân Văn-Giai Phẩm không chỉ gây đau thương cho hàng trăm, hàng ngàn con người, mà nghiêm trọng nhất là nó đã đánh gục hầu như cả một thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc, dìm họ trong nỗi khiếp sợ triền miên, đè bẹp trí sáng tạo của họ, tạo nên một nếp nghĩ theo công thức chết cứng của Đảng, tạo nên một thứ “văn nghệ minh hoạ” (hay còn gọi là “văn nghệ phải đạo”) tồi dở. ĐCS đã làm cho cả một nền văn học, nghệ thuật, văn hoá, giáo dục bị lụn bại, méo mó, què quặt, thụt lùi hàng mấy chục năm trời so với trước. Suy cho cùng, đây chính là tội ác lớn nhất của Đảng đối với Dân tộc.

Hồn tự do bất diệt

Một điều cần nhấn mạnh, dù đảng cầm quyền đàn áp tàn bạo trào lưu dân chủ đến thế nào đi nữa, nhưng trong lòng Dân tộc, hồn tự do bất diệt vẫn sống mãi, khát vọng dân chủ mãnh liệt vẫn sục sôi, khi có điều kiện thì lại bùng lên không thể nào dập tắt được. Hồi năm 1987, sau nhiều năm cầu xin, cuối cùng thì “Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ” được thành lập, do nhà cách mạng lão thành Nguyễn Hộ làm chủ nhiệm. Câu lạc bộ đã phát huy tinh thần tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, và dù không được phép vẫn cho ra báo “Truyền Thống Kháng Chiến” với 2 ngàn bản in. Câu lạc bộ đã dám thảo luận những vấn đề chính trị rất hóc búa, như yêu cầu Bộ chính trị và Ban bí thư kiểm điểm công việc của mình trước Trung ương, yêu cầu thi hành kỷ luật những bộ trưởng, thứ trưởng phạm sai lầm để cho 10 triệu dân miền Bắc bị đói năm 1987, yêu cầu Trung ương đừng “độc diễn” khi Quốc hội bầu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà để cho Quốc hội được bầu cử dân chủ... Đảng cầm quyền tức giận, bắt đầu đàn áp những người tham gia Câu lạc bộ thì ông Nguyễn Hộ – người đảng viên với 50 tuổi đảng – đã tuyên bố ra khỏi ĐCSVN (1990).

Trong năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ sĩ – sự thật là chỉ tạm thời nới lỏng dây trói thôi – thì giới trí thức, văn nghệ sĩ, các nhà báo đã biết nhân cơ hội đó vươn lên. Nhà văn Nguyên Ngọc đã đưa ra bản “Đề cương đề dẫn thảo luận ở hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học”, một lần nữa đặt lại quan hệ giữa văn học và chính trị, phản đối dung tục hoá mối quan hệ này, phản đối sự “tuyệt đối hoá chính trị, tuyệt đối hoá sự chi phối tất yếu của chính trị đối với văn học” (nguyên văn), nói một cách khác văn học đòi “tự do”, đòi thoát khỏi sự đè đầu cưỡi cổ của “đảng tính”. Thật ra cũng không khác mấy yêu cầu đòi Đảng “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ” mà Trần Dần đã đưa ra hồi cuối năm 1954 đầu năm 1955, khởi đầu cho trào lưu “Nhân Văn-Giai Phẩm”. Một phong trào sáng tác mạnh mẽ đã được dấy lên: nhiều tác phẩm vang dội một thời đã xuất hiện, như “Thời Xa Vắng” (1986) của Lê Lựu, “Tiểu Thuyết Vô Đề” “Thiên Đường Mù” và “Bên Kia Bờ Ảo Vọng” (1987) của Dương Thu Hương, “Ly Thân” (1987) của Trần Mạnh Hảo, “Lời Khai Của Bị Can” (1987) của Trần Huy Quang, “Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì” (1988) của Phùng Gia Lộc, “Tiếng Đất” (1988) của Hoàng Hữu Cát, “Mùa Lá Rụng Trong Vườn” (1985) của Ma Văn Kháng, “Tướng Về Hưu” của Nguyễn Hữu Thiệp... Văn thơ của Nguyễn Minh Châu, Trần Vàng Sao, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Bùi Minh Quốc, Thanh Thảo, hội hoạ của Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Bửu Chỉ, kịch nghệ của Lưu Quang Vũ, Tất Đạt... đã để lại những dấu ấn đẹp cho thời kỳ đó. Những đổi thay của báo chí cũng khá tích cực, nổi bật là tuần báo “Văn Nghệ” dưới thời tổng biên tập Nguyên Ngọc, “Sông Hương” với tổng biên tập Tô Nhuận Vĩ, “Lang Bian” với tổng biên tập Bùi Minh Quốc, “Tuổi Trẻ” với tổng biên tập Vũ Kim Hạnh. Cũng cần nhắc đến vai trò của ông Trần Độ, hồi đó là trưởng Ban Văn nghệ Trung ương đã có công thuyết phục Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ chính trị ra nghị quyết 05 (công bố đầu tháng 12.1987) với tinh thần nới rộng tự do cho văn nghệ sĩ, phần nào đã có tác dụng mở đường cho các tác phẩm tốt ra đời. Về ấn phẩm bí mật thì phải kể đến tờ “Diễn Đàn Tự Do” do Giáo sư Đoàn Viết Hoạt chủ trương. Một thời gian sau thì đảng cầm quyền hoảng sợ, lại siết chặt dây trói, lại bày ra “vụ án Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ”, đưa vào tù các ông Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu, Đỗ Đình Mạnh... cuối cùng là ông Nguyễn Hộ, “vụ án Lang Bian” với việc khai trừ khỏi ĐCS và quản chế nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và đàn áp Hội Văn nghệ Lâm Đồng. Ông Nguyên Ngọc, bà Vũ Kim Hạnh đều bị gạt ra khỏi cương vị tổng biên tập các báo họ đã phụ trách. Các nhà tu hành từng ủng hộ ĐCS trong cuộc chiến tranh miền Nam, đến khi họ cất tiếng nói chính nghĩa cũng bị đàn áp, tù đày, quản chế, như Linh mục Chân Tín, ông Nguyễn Ngọc Lan... Đó là chưa nói đến vụ án Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt với mức án cực kỳ nặng.

Đấu tranh không ngừng

Trong tình hình vô cùng khó khăn đó, cuộc đấu tranh đòi dân chủ hoá vẫn không ngừng tiến tới. Các nhà cách mạng lão thành Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Lê Giản, La Văn Lâm, Nguyễn Văn Trấn, Ngô Thức, Trần Độ, Nguyễn Văn Đào, Hoàng Hữu Nhân, Lê Hồng Hà, Trần Dũng Tiến, Vũ Huy Cương... đã cất cao tiếng nói chính nghĩa của mình. Ông Nguyễn Hộ đã cho ra tập luận văn “Quan Điểm Và Cuộc Sống”, ông Nguyễn Văn Trấn – tập tạp luận “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”, ông Hà Sỹ Phu (Nguyễn Xuân Tụ) – ba tập sách “Dắt Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ”, “Đôi Điều Suy Nghĩ Của Một Công Dân” và “Chia Tay Ý Thức Hệ”, Trần Thư – “Người Tù Bị Xử Lý Nội Bộ”, Hoà Thượng Thích Quảng Độ – “Nhận Định Những Sai Lầm Tai Hại Của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối Với Dân Tộc Và Phật Giáo Việt Nam”, ông Trần Độ – “Hồi Ký”, Tiêu Dao Bảo Cự – “Nửa Đời Nhìn Lại”, Trần Khuê – “Đối Thoại”... Nhiều người khác, như Lữ Phương, Nguyễn Kiến Giang, Nguyên Phong Hồ Hiếu, Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao Quận... cũng đã công bố những luận văn, những nghiên cứu của mình để chỉ rõ con đường tất yếu phải dân chủ hoá Đất nước. Cũng chính trong thời gian này, một tờ báo bí mật nhỏ nhắn viết rất hay mang tên “Người Sài Gòn” mà người ta đồ rằng do Ông Già Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn làm. Tờ báo được những người dân chủ đón nhận rất nồng nhiệt.

Bước vào thế kỷ mới, nhà văn Bùi Ngọc Tấn cho ra “Chuyện Kể Năm 2000”, nhưng bị thu hồi ngay, ông Nguyễn Thanh Giang tự xuất bản “Suy Tư Và Ước Vọng” cũng bị tịch thu. Tướng Trần Độ định cho ra “Nhật Ký Rồng Rắn” nhưng bị công an cướp đoạt ngay khi sắp đưa đi photocopy. Ông Vũ Cao Quận định ra cuốn “Gửi Lại Trước Khi Về Cõi” cũng bị chặn lại và tước ngay.

Nhiều người đã phải trả giá rất đắt cho quyền tự do phát biểu của mình bằng sự mất tự do, tức là bằng nhiều năm cầm tù, quản chế, bằng những sách nhiễu thường xuyên của nhà cầm quyền...

Phong trào sôi động

Ngày 21.2.2001, từ Thanh Minh thiền viện ở Sài Gòn, Viện trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoà Thượng Thích Quảng Độ đã công bố “Lời Kêu Gọi Cho Dân Chủ Việt Nam” với sách lược 8 điểm cứu nguy đất nước rất rõ ràng và cụ thể. Đến năm 2005, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, thay mặt Cao Trào Nhân Bản, đã đưa ra “Lộ Trình 9 Điểm Nhằm Dân Chủ Hoá Việt Nam”. Và đặc biệt là ngày 8.4.2006, 118 nhà tranh đấu cho dân chủ trong nước đã tung ra bản “Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 2006” có tính chất cương lĩnh của phong trào dân chủ, minh định mục tiêu, phương pháp đấu tranh của những người dân chủ. Tuyên Ngôn đó được nhiều người trong nước nhiệt tình đón nhận, tính đến nay đã có trên 2 ngàn người khắp các tỉnh thành trong cả nước can đảm ký tên và được người Việt ở hải ngoại hoan nghênh nồng nhiệt. Tuyên Ngôn 2006 cũng được dư luận thế giới biết đến và ủng hộ. Mười mấy ngày sau, vào ngày 15.4.2006, tờ bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận” do Linh mục Têphanô Chân Tín làm chủ nhiệm đã ra số đầu tiên từ trong nước mà không cần xin phép. Đây là một tờ báo giấy được phổ biến ở khắp ba miền đồng thời được đưa lên mạng lưới điện tử. Cho đến ngày 15.11.2006, tờ “Tự Do Ngôn Luận” ra được 15 số. Đó là một cố gắng rất lớn của những người chủ trương và những người ủng hộ bán nguyệt san. Nhà văn Hoàng Tiến cùng với bốn nhà trí thức ở Hà Nội định ra tờ báo in “Tự Do Dân Chủ” vào ngày 15.8.2006 thì ba ngày trước đó công an đã xông vào nhà thô bạo lùng sục, cướp đi mọi phương tiện, nên tờ báo in không ra được.Tuy nhiên, đến ngày 2.9.2006 báo “Tự Do Dân Chủ” điện tử đã xuất hiện trên mạng. Và ngày 15.9.2006, tờ bán nguyệt san “Tổ Quốc”, tiếng nói từ suy tư và ước vọng của nhân dân Việt Nam, cũng đã ra số 1 từ trong nước do những cây bút trong nước với sự cộng tác của một số cây bút ngoài nước. Đến nay tờ “Tổ Quốc” đã ra được 5 số. Đây cũng là báo giấy đồng thời là báo điện tử.

Về mặt tổ chức cũng đã xuất hiện những tập hợp, những hiệp hội, nghiệp đoàn rất độc đáo trong năm nay. Ngày 8.5.2006, các bạn trẻ du học sinh Việt Nam ở nhiều nước, như Nguyễn Tiến Trung, Hoàng Lan... đã cùng một số sinh viên, học sinh trong nước thành lập Tập Hợp Thanh Niên Dân Chủ và Tập Hợp này đã có những hoạt động của tuổi trẻ rất ngoạn mục. Tiếp đến, ngày 1.6, ông Hoàng Minh Chính đã tuyên bố phục hoạt Đảng Dân Chủ Việt Nam, thực chất là cho ra đời một Đảng Dân Chủ mới gọi là Đảng Dân Chủ (XXI) với Cương Lĩnh và Điều Lệ hoàn toàn mới. Ngày 8.9, Đảng Thăng Tiến Việt Nam đã tuyên bố thành lập với Cương Lĩnh đấu tranh rõ ràng và có cơ quan đại diện đặt ở nhiều nước. Đến ngày 16.10, sau bao nhiêu ngày tháng vận động vất vả, Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền đã thành lập. Đây là cố gắng lớn để tập hợp mọi lực lượng đấu tranh cho dân chủ vào một mặt trận có tính đại diện rộng rãi. Ngày 20.10, Công Đoàn Độc Lập Việt Nam ra đời với sứ mệnh đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho công nhân lao động Việt Nam, chống ách áp bức bóc lột người lao động. Đây là một sự kiện rất mới trong sinh hoạt chính trị của Việt Nam đến nỗi bà Cù Thị Hậu, đại diện cho Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam đã kêu gọi tại Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cần phải tăng cường giúp đỡ cho Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam không thì Công Đoàn Độc Lập Việt Nam sẽ tranh thủ mất quần chúng công nhân. Để ủng hộ cho phong trào công nhân lao động trong nước, từ ngày 28 đến ngày 30.10, “Hội Nghị Warszawa 2006” quy tụ nhiều đại biểu từ nhiều nước trên thế giới đã họp tại đại sảnh Quốc Hội Cộng Hoà Ba Lan và đã bầu ra Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam, đánh dấu sự kết hợp hài hoà và chặt chẽ cũng như sự ủng hộ lẫn nhau giữa phong trào trong nước và ngoài nước. Cũng cần nói rõ là ngày 27.10, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã tuyên bố thành lập, Hội tuyên bố sẽ kết nạp tất cả mọi tù nhân chính trị, lương tâm và tôn giáo đã từng bị tù đày dưới chế độ độc tài toàn trị trước và sau năm 1975. Tin chắc rằng Hội Ái Hữu này sẽ có số hội viên rất đông đảo ở khắp mọi miền đất nước. Còn đến ngày 30.10, Hiệp Hội Đoàn Kết Công - Nông Việt Nam đã ra đời với các đại biểu công nhân và nông dân. Nếu tất cả các tổ chức này chịu khó đi sâu vào quần chúng và hoạt động vì lợi ích thiết thực của quần chúng, đồng thời biết tự bảo vệ mình, thì cái lực lượng quần chúng này sẽ có sức mạnh lớn lao.

Về mặt đấu tranh của quần chúng, thì một hiện tượng nổi bật nhất trong đầu năm nay là phong trào đình công, biểu tình của công nhân lao động đã bùng nổ, bắt đầu từ Sài Gòn Bình Dương, Vũng Tàu rồi lan rộng ra toàn miền Nam, lan ra miền Trung, miền Bắc thu hút đến trên 100 ngàn người tham gia đấu tranh, bất chấp sự cản trở ngăn cấm của nhà cầm quyền. Các cuộc đình công biểu tình này hoàn toàn có tính tự phát với những yêu sách đơn thuần về mặt kinh tế. Tuy vậy, chúng cũng phần nào mang màu sắc chính trị rõ rệt, vì chúng đi ngược lại ý muốn của kẻ cầm quyền, phơi bày cái mặt thật của đảng cộng sản và giai cấp cầm quyền, ngoài miệng tự xưng là đảng của giai cấp công nhân, chính quyền của công nhân và nhân dân lao động, nhưng lại ra mặt bênh vực giới chủ nhân, đàn áp công nhân lao động, thậm chí bắt bớ nhiều người cầm đầu của công nhân. Một phong trào nữa bền bỉ, dai dẳng hàng chục năm nay, vừa qua lại bột phát mạnh mẽ hơn nữa là phong trào khiếu kiện của dân oan. Những đoàn dân oan từ các tỉnh khắp nước kéo về Hà Nội, Sài Gòn để đòi lại đất đai, nhà cửa bị cưỡng chiếm bởi bọn “cường hào ác bá” mới. Nhiều đại biểu dân oan đã liên kết với những nhà đấu tranh dân chủ trong nước, có nhiều người đã ký tên vào bản Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 2006, điều đó làm cho kẻ cầm quyền rất lo sợ. Vấn đề đất đai ngày nay đã trở thành vấn đề sinh tử của quần chúng, người ta đã lao vào đấu tranh không còn biết sợ nữa. Đó là một điểm rất mới của phong trào quần chúng hiện nay. Chẳng hạn, như cuộc đấu tranh vừa qua của nhân dân ba xã huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã kéo lên Hà Nội để khiếu kiện đất đai. Hàng ngàn dân chúng đã kéo đến trước cửa trụ sở Quốc Hội 35 phố Ngô Quyền phản đối việc lấy đất đai của họ để xây dựng khu đô thị Văn Giang, theo như dự án đã được chính phủ thông qua. Quần chúng đứng chật ních trên vỉa hè trước trụ sở Quốc Hội, bao vây cả ngày liền đêm trong năm ngày, làm cho Văn phòng Quốc Hội phải đóng cửa mấy ngày liền, nhân viên của Văn phòng phải đi cửa sau để đến chỗ làm việc. Trong lúc đó, lực lượng công an chỉ đứng dưới đường chứ không dám hung hăng can thiệp như trước. Đây là biểu hiện rõ nét của sức mạnh quần chúng khiếu kiện.

Thế là trên chặng đường gian khổ đầy máu và nước mắt dài dằng dặc suốt 50 năm qua, biết bao chiến sĩ dân chủ đã bị hy sinh, đã bị đày đoạ khốn khổ trong ngục tù, nhưng hàng loạt các chiến sĩ khác vẫn tiếp tục dũng cảm xông tới không ngừng để chống lại bạo quyền và thúc đẩy cuộc đấu tranh hoà bình, bất bạo động nhằm chuyển hoá Đất nước ta từ chế độ độc đảng toàn trị sang chế độ dân chủ đa nguyên, đem lại tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân ta.

Điều đáng mừng là bên cạnh các nhà tranh đấu cho tự do dân chủ không mệt mỏi trong nhiều năm qua, như các ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Trần Dũng Tiến, Vũ Huy Cương, Vũ Cao Quận, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sỹ Phu, Bùi Minh Quốc, Mai Thái Lĩnh, Hoàng Tiến, Trần Khuê, như hai‎ vị đại lão Hoà Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, các nhà tu hành Thích Tuệ Sỹ, Thích Thiện Hạnh, Thích Thiện Minh, Thích Không Tánh, Chân Tín, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, Lê Quang Liêm, v.v... đã xuất hiện thêm nhiều chiến sĩ dân chủ mới rất dũng cảm, năng động, thông minh, sắc sảo, như Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Khắc Toàn, Phương Nam Đỗ Nam Hải, Trần Mạnh Hảo, Bạch Ngọc Dương, Phan Thế Hải, nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thuỷ, hai mục sư Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Công Chính, các luật sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Bùi Kim Thành, v.v...2 Ngay cả những cán bộ đảng viên, những cựu công thần của ĐCS, như các ông Phạm Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Thi, tướng Nguyễn Nam Khánh, cựu phó thủ tướng Đoàn Duy Thành, cựu thứ trưởng Bộ công an Nguyễn Tài... cũng đã cất cao tiếng nói thẳng thắn vạch mặt những kẻ lãnh đạo độc tài mang tính lưu manh trong Đảng, như Đỗ Mười, Lê Đức Anh. Một số cán bộ đảng viên đã từng giữ những trọng trách trong ĐCS cũng đã nhập cuộc vào việc vận động dân chủ theo cách riêng của họ, như các ông Phan Đình Diệu, Nguyễn Trung Thành, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Trung, Luật sư Trần Lâm, Đặng Văn Việt, Trần Quốc Toản, v.v...

Cũng rất đáng mừng là ngày nay, việc kết hợp đấu tranh giữa trong nước và ngoài nước đã chặt chẽ và nhịp nhàng hơn trước. Cộng đồng người Việt hải ngoại đã có nhiều khả năng chi viện cho phong trào trong nước, cũng như khả năng vận động chính giới của các nước dân chủ, vận động dư luận và các tổ chức quốc tế yểm trợ cuộc đấu tranh để dân chủ hoá Đất nước ta, nhờ đó đã tạo thêm được nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho phong trào trong nước.

Tất cả những điều đó đem lại niềm tin vững chắc cho mọi người đang tranh đấu vì tự do dân chủ: dù có gian nguy thế nào đi nữa, dù kẻ thù của tự do dân chủ có đàn áp, khủng bố ác liệt đến thế nào đi nữa, nhưng cái chế độ độc tài toàn trị lỗi thời nhất định sẽ bị thay thế bởi thể chế dân chủ đa nguyên, có khả năng tạo điều kiện cho Đất nước tiến lên mạnh mẽ, đem lại tự do, công bằng xã hội và phúc lợi chung cho mọi công dân.

Moskva, 11.11.2006

Ghi chú:
1. Số nạn nhân dẫn theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam” gồm 3 tập, tập I (1945-1954), tập II (1955-1975), do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội. Trong sách có ghi rõ CCRĐ đã tiến hành ở 3563 xã với 10 triệu dân số mà tỷ lệ địa chủ được quy định là 5% (xem tr.85-86 tập II) thì số bị quy là “địa chủ” phải lên tới trên 500 ngàn người.
2. Chúng tôi chỉ xin dẫn tên những người trong nước, và chắc chắn là còn thiếu sót nhiều. Xin bạn đọc lượng thứ.

Bài do tác giả gởi đến cho DCVOnline


Re: Thảm kịch “Nhân Văn Giai Phẩm”
2006-11-15 02:40:37


Địa đạo
Củ chi

Bất kì tổ chức nào trên con đường vươn tới sự hoàn mỹ đều phải có những sai sót nhất định,Đảng cộng sản cũng không ngoại lệ.

Nhân văn giai phẩm và cải cách ruộng đất ...là những sai lầm như bao sai lầm khác.

Có thể có một số người bị chết oan ức nhưng điều có là cần thiết chọ sự trưởng thành của cả một đất nước và dân tộc.  Sự mất mát của họ cũng như hàng triệu người khác đã ngã xuống cho một Việt nam tươi sáng như ngày nay.

Không nên ôm mãi hận thù của dĩ vãng,hãy hoà cùng dòng chảy của cách mạng để vươn tới tương lai.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.05.2007 21:49:22 bởi TTL >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
RE: “Nhân Văn Giai Phẩm” - 23.02.2007 11:02:30
15 Tháng 2 2007 - Cập nhật 15h10 GMT



Vĩnh biệt trụ cột Nhân văn giai phẩm




Các nhà văn, nhà báo Hà Nội tham gia diễn đàn Talawas tới viếng ông Nguyễn Hữu Đang

Nhiều nhà văn có tiếng đã tiễn đưa ông Nguyễn Hữu Đang về nơi an nghỉ cuối cùng tại Việt Nam vào ngày mùng 10 vừa qua.
 
Ông qua đời ngày mồng 8 tháng Hai năm 2007, hưởng thọ 94 tuổi.
Ông Nguyễn Hữu Đang được coi là một cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi cuối thập niên 1950.

Ông cũng từng giữ các chức vụ thứ trưởng Bộ Thanh Niên, thứ trưởng Bộ Tuyên Truyền thuộc nội các đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Thập niên 1960, ông Nguyễn Hữu Đang đã bị giam cầm nhiều năm tại Hà Giang vì chống lại chế độ "cực quyền toàn trị " của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông còn bị buộc tội 'làm gián điệp'.
Nhà phê bình văn học Đặng Tiến hiện đang sống tại Pháp nói ông Nguyễn Hữu Đang có nhiều thành tích về văn hoá, nhưng người ta lại biết tới vai trò của ông trong thời kỳ Nhân văn giai phẩm nhiều hơn.

Nghe phỏng vấn ông Đặng Tiến

Được biết, ông Nguyễn Hữu Đang hoạt động cách mạng từ thập niên 1940, tham gia tích cực phong trào truyền bá quốc ngữ, sau đó phụ trách mảng thanh niên trong phong trào Việt Minh.
Ông Đang chính là người đã xây dựng khán đài tại Quảng trường Ba Đình để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập, theo bản vẽ của hoạ sỹ Lê Văn Đệ.
Về sau này, ông bị cho là người lãnh đạo phong trào Nhân văn Giai phẩm.
Theo ông Đặng Tiến, ông Nguyễn Hữu Đang gia nhập Đảng Cộng Sản từ năm 1947, nhưng tới năm 1951 thì ông hầu như không còn liên hệ gì với Đảng.
Ông Đặng Tiến cho biết, ông còn giữ một bài viết của ông Nguyễn Hữu Đang đăng trên báo Nhân Văn số bốn, với tiêu đề "Cần phải chính quy hơn nữa".
Trong bài viết này, ông Nguyễn Hữu Đang đòi Việt Nam phải có một chế độ pháp lý rõ ràng, một bản hiến pháp mới và xây dựng nền dân chủ pháp trị.
Trong bài có đoạn: "Do pháp trị thiếu sót mà cải cách ruộng đất đã hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội chưa có một chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng bên Bờ Hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn mất ngủ. Cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà. Ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung..."
Ông Nguyễn Hữu Đang được phóng thích theo nội dung Hiệp Định Paris, sau 15 năm bị tù.
Khi ông Đang qua đời, báo chí trong nước hầu như không đăng bài nhắc tới ông.
Tuy nhiên mới đây, chủ tịch nước Việt Nam đã ký quyết định trao Giải thưởng Nhà nước cho bốn nhà thơ thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là các ông Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Trần Dần và Phùng Quán. Trong số này chỉ có hai ông Lê Ðạt và Hoàng Cầm là còn sống.
-----------------------------------------------------------
Lê Quang Huy, TP HCM
Lịch sử ĐCS Việt Nam gắn liền với bốn sự kiện lớn "long trời lở đất" : Cải cách ruộng đất, vụ án Nhân văn - Giai phẩm, vụ án Xét lại - chống Đảng, Cải tạo tư sản. Cả 4 sự kiện đó đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng, bức hại hàng vạn người phải bỏ nước ra đi. Tôi vô cùng khâm phục các văn nghệ sĩ đã dám đấu tranh chống chế độ đảng trị muốn bóp nghẹt tiếng nói của nhân dân. Họ đã không chấp nhận làm văn nô cho Đảng, cúi đầu tung hô cường quyền.
Xin thắp lên một nén hương tưởng nhớ hương hồn cụ Đang và những nạn nhân của vụ án Nhân văn - Giai phẩm. Đảng CSVN đừng mong dùng bạo lực mà diệt được tiếng nói đòi tự do của nhân dân.

Mai Ninh, VN
Cha tôi nói, ông hối hận vì tin vào những tuyên truyền sai lệch, bịp bợm, đầy ác ý mà nghĩ rằng cụ Nguyễn Hữu Đang là "phản động". Dẫu sao, biết hối, biết lỗi, thì vẫn còn chất "người". Cha tôi bảo thế.

Tô Ngọc Bình
Xin bái vọng hương hồn cụ,cùng lời tri ân và sự thương tiếc vô vàn. Đọc bài này tôi mới thấy được công lao vô cùng to lớn của những nhà cách mạng VN, trong đó có những nhà văn, nhà báo thực sự góp phần vào chiến thắng thần thánh giành độc lập cho đất nước, và tranh đấu cho tự do, hạnh phúc của dân tộc, tiếc thay những vị hiền tài đã thất thế sa cơ, và cho đến hôm nay dân tộc VN vẫn chưa có được chủ quyền như tiền nhân kỳ vọng.

Ẩn danh
Tai họa gây nên cho nhóm Nhân văn giai phẩm, chính phạm là ngài Tố Hữu. Nguyên bị đều đã qua trang. Nhưng cần biết đây là phương sách " tiên hạ thủ vi cường "của hầu hết những người làm chính trị.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/02/070215_nguyenhuudang.shtml
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.02.2007 11:05:34 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
RE: “Nhân Văn Giai Phẩm” - 23.02.2007 11:09:11
22 Tháng 2 2007 - Cập nhật 06h13 GMT
 
Nhân Văn-Giai Phẩm được tặng giải





Nhà thơ Hoàng Cầm cùng ba người bạn được trao Giải thưởng Nhà nước

Bốn trong số các nhân vật chính của “vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm” đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước, cùng 154 người khác.
 
Đây là giải thưởng văn nghệ lớn thứ hai ở Việt Nam sau giải Hồ Chí Minh.
Các nhà thơ Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm được tặng giải vì các tác phẩm “có giá trị cao về văn học nghệ thuật, ca ngợi đất nước, nhân dân, góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.

Trả lời phỏng vấn BBC ngày 22.02.07, nhà thơ Hoàng Cầm, năm nay 86 tuổi, sống ở Hà Nội nói rằng phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm thực chất là một tiếng nói đòi thay đổi cách lãnh đạo văn nghệ.
Ông nói mong muốn duy nhất của Nhân Văn-Giai Phẩm là có tự do sáng tác chứ không hề muốn "chống Đảng, chống nhà nước."

Phỏng vấn nhà thơ Hoàng Cầm 


Ông cũng tỏ ý buồn rằng các bạn hữu như Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung v.v. đã không còn sống để thấy giải thưởng hôm nay.
Theo ông, thực tế là từ năm 1958 đến nay, tức là 2007, vụ Nhân Văn Giai Phẩm mới "được giải tỏa", vì trước đó, bắt đầu từ thời Đổi Mới, mọi thứ được phục hồi nhưng không công khai.

Nhận xét về thời nay, nhà thơ Hoàng Cầm nói văn nghệ sĩ đã được tự do sáng tác nhưng nhiều khi tự do đã bị lạm dụng quá mức.
Ông mong rằng các nhà văn, nghệ sĩ trẻ viết gì cũng cần giữ lòng tự trọng và vì đất nước.


'Xin lỗi'


 Nhân Văn Giai Phẩm hồi đó cũng chỉ mong có tự do sáng tác
 
 
Nhà thơ Hoàng Cầm

Tại buổi họp báo hôm 13-2, bên cạnh quyết định chung tặng giải thưởng cho 154 nhà văn, nghệ sĩ, Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam đã đọc riêng bốn quyết định trao tặng Giải thưởng Nhà nước cho bốn người từng chịu vạ vì vụ Nhân Văn - Giai Phẩm thập niên 1950.
Nhân Văn - Giai Phẩm - tên của hai tờ báo có tuổi thọ ngắn ngủi - được dùng để chỉ phong trào đòi nới rộng tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ, trí thức miền Bắc.

Nó bắt đầu từ năm 1955 và bị chính thức dập tắt năm 1958.

Các văn nghệ sĩ có dính đến Nhân Văn-Giai Phẩm đều bị kỷ luật. Mặc dù trên văn bản chỉ ghi khoảng hai, ba năm, nhưng thực tế, đa số bị treo bút, cô lập suốt 30 năm cho đến ngày Việt Nam tiến hành Đổi Mới năm 1986.
Nhà văn Đỗ Chu - thành viên của Hội đồng Giải thưởng chuyên ngành Văn học - được báo trong nước dẫn lời rằng Giải thưởng Nhà Nước có thể xem là "lời xin lỗi của anh em đối với các anh”.

Trả lời báo điện tử VietNamNet, nhà thơ Lê Đạt nói: "Đây là cử chỉ đẹp, cho dù là muộn, nhưng muộn còn hơn không."
Ông nói thêm: "Các tác phẩm của bạn bè tôi trong Nhân Văn Giai Phẩm có giá trị khác nhau nhưng đều xứng đáng với giải thưởng."
Còn nhà thơ Hoàng Cầm thì nói với BBC rằng ông nghe thấy người ta kể lại rằng khi "trung ương Đảng họp để quyết định về giải thưởng cho Nhân Văn Giai Phẩm, vẫn có những người chống lại".

Theo ông, điều đó cho thấy đến cả hôm nay không phải ai trong hệ thống chính trị cũng hài lòng với việc phục hồi Nhân Văn.

Giải thưởng Nhà nước kèm theo số tiền trị giá 60 triệu đồng.
Năm nay, Giải thưởng Hồ Chí Minh, với tiền thưởng 100 triệu đồng, được trao cho các tác giả, nghệ sĩ: Đình Quang, Anh Thơ, Đặng Nhật Minh, Hải Ninh và Bùi Đình Hạc.

Lễ trao giải sẽ được chính thức tiến hành vào tháng Ba.

-------------------------------------------------------------------
EM, San Jose
Tôi còn nhớ thời gian cựu Tuớng Trần Độ trông coi Nhân Văn Giai Phẩm thì ông ta kình địch với Trần Dần và viết bài chê bai Trần Dần chỉ vì ganh tị tài năng. Khoảng năm 1998 khi Trân Dần quá cố thì Trần Độ cũng không màng chia buồn và khoảng vài năm sau Trần Độ mới tỉnh hẳn nguời ra và đòi đuợc quyền tự do viết lách. Thật là oái oăm "Đỉnh cao trí tuệ loài người."
 
Minh Đức, Montreal, Canada
Đây là giải thưởng trao cho văn, nghệ sĩ mà không phải cho tác phẩm nào cụ thể của họ. Tôi cho rằng ngay cả một số văn, nghệ sĩ có viết một số bài trong các số báo Nhân Văn Giai Phẩm hay bất cứ báo chí nào khác, không đồng ý với đường lối văn hóa, văn nghệ của nhà nước thì với các tác phẩm khác họ vẫn xứng đáng được khen tặng. Không cần phải đến bây giờ mà đáng lẽ phải từ lâu lắm rồi. Điều này có nghĩa là nên tách rời tác phẩm và con người. Một văn, nghệ sĩ có thể có một số tác phẩm không hay, có chứa đựng nội dung không hay, nhưng nếu họ có các tác phẩm hay khác thì các tác phẩm khác vẫn đáng được ca ngợi và tác giả vẫn nên được có quyền sáng tác. Tác phẩm nào dở, xấu thì chê tác phẩm đó, đừng bắt tội mà trù dập cả đời người nghệ sĩ, cấm họ sáng tác.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/02/070222_state_awards.shtml
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.02.2007 11:11:54 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
“Nhân Văn Giai Phẩm” - 23.02.2007 22:04:34
Post #: 4
 
1. Cải cách ruộng đất
2. Nhân văn - Giai phẩm
3. Xét lại - chống Đảng
4. Học Tập Cải Tạo
5. Cải tạo tư sản
 
>>>>>>>>>>>>>
 
.....
 
1) Quá khứ hận thù Quốc Cộng
Có thể quy lỗi cho chiến tranh có yếu tố ngoại nhập như ông từng đề cập, chiến tranh đã chấm dứt, và cũng không cần tranh cãi là ai phải chịu trách nhiệm về quá khứ hận thù này, nên trả về cho lịch sử phán xét.
Một câu hỏi cần đặt ra là có cần thiết để kêu gọi quên loại quá khứ này không? Có thể quên được chăng? Một khi quá khứ này đã gắn liền với con người từ lúc nhỏ cho đến khi cận kề ranh giới của cuộc sống. Theo quy luật tự nhiên con người càng lão hóa lại càng mong muốn ôn lại quá khứ.
Nên chăng để cho vấn đề này tự lụi tàn theo quỹ thời gian còn lại của mỗi người?
 
2) Quá khứ hận thù dân tộc
 
Đây là loại hận thù phát xuất từ những chính sách sai lầm nhằm thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất nước Việt Nam của đảng cộng sản như cải cách ruộng đất, vụ án “Nhân văn Giai phẩm”, “vụ án xét lại”, “cải tạo công thương nghiệp”, “đánh Hoa kiều”, “bán bãi lấy vàng, đẩy dân ra biển đông”“chính sách cải tạo đối với quân nhân, dân chính của Việt Nam Cộng Hoà”. Loại quá khứ hận thù dân tộc này giữa người cộng sản và dân tộc xảy đến cho tất cả gia đình hai miền Bắc Nam có thể ảnh hưởng đến nhiều thế hệ chứ không riêng gì thế hệ trong chiến tranh.
Loại quá khứ hận thù này xảy ra trong thời gian hòa bình, hoàn toàn không có yếu tố ngoại nhập.
 
Như vậy, phải khẳng định rõ ràng là:
 
....

  http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=115&nid=107413
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2007 01:23:30 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
  http://www.bbc.co.uk/vietnamese/index.shtml
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Oan khiên và vinh dự - 24.02.2007 23:29:19
23 Tháng 2 2007 - Cập nhật 11h47 GMT
 
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm
 
Đặng Tiến
Viết cho BBC từ Orleans, Pháp
 
 
Học giả Nguyễn Hữu Đang qua đời hôm 8-2-2007
 
Đám tang học giả Nguyễn Hữu Đang, qua đời vào tuổi 94, tại Hà Nội ngày 8-2-2007 hốt nhiên nhắc đến một nhân vật tưởng đã chìm vào quên lãng, mặc dù đã tham dự vào nhiều biến cố lịch sử trọng đại.
 
Các cơ quan truyền thông trong nước không mấy đề cập đến sự kiện, trong khi ngoài nước, báo chí, nhất là trên mạng, đã đưa nhiều thông tin.
 
...
 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm - 24.02.2007 23:38:01
23 Tháng 2 2007 - Cập nhật 11h47 GMT

Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm
Đặng Tiến
Viết cho BBC từ Orleans, Pháp

....

Chủ yếu Chủ yếu họ nhắc lại vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong thời kỳ chống Pháp, bị bắt từ 1930, tham gia Mặt Trận Dân chủ Đông Dương (1937-1939), hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), phong trào Văn Hóa Cứu Quốc (1943-1946), Ủy Ban Giải phóng Dân Tộc tại Tân Trào 1945…
Ông là người tổ chức ngày lễ tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, xây dựng khán đài để Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội.

Ông là người tổ chức ngày lễ tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, xây dựng khán đài để Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội.

Vai trò chỉ đạo báo Nhân Văn
 
Báo giới ngoài nước đều nhất loạt ghi nhận vai trò chủ yếu của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Nhân văn Giai phẩm (1956-1958).
Mạng lưới Diễn Đàn gọi ông là lãnh đạo, Talawas cho là chủ chốt, mạng Nhịp Cầu Thế Giới dùng từ thủ lĩnh. Tài liệu thời chửi bới Nhân văn Giai phẩm tại Hà Nội, cũng nói vậy. Báo Nhân Dân, dưới ngòi bút Như Phong khẳng định Nguyễn Hữu Đang trực tiếp chỉ đạo từ đầu đến cuối công cuộc phá hoại bằng báo chí ấy (12-5-1958).

Hồng Vân, bút danh của Hoàng trung Thông, còn chi tiết và chì chiết hơn: "Ngay từ số đầu, tờ Nhân Văn đã lộ rõ là một tờ báo chính trị. Bề ngoài do Phan Khôi và Trần Duy chủ trương, bề trong chính một tay Nguyễn Hữu Đang lo liệu, từ tiền bạc đến bài vở."

"Phần lớn những bài quan trọng đều do hắn trông coi và sửa chữa, hoặc đội tên người khác để viết." (Báo Văn Nghệ, số 12 tháng 5-1958)


 Ngay từ số đầu, tờ Nhân Văn đã lộ rõ là một tờ báo chính trị. Bề ngoài do Phan Khôi và Trần Duy chủ trương, bề trong chính một tay Nguyễn Hữu Đang lo liệu, từ tiền bạc đến bài vở. 
Hồng Vân, tức Hoàng Trung Thông

Mạnh Phú Tư cũng viết đại khái như vậy: "Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, tìm giấy và biết bài nhưng lại ký tên người khác…" (Báo Độc Lập, 24-4-1958).

Nguyễn Hữu Đang là đầu não của tạp chí Nhân Văn. Số 1 ra ngày 20-9-1956, được Tố Hữu cho là lá cờ phản cách mạng, đánh thẳng vào Đảng và nhà nước, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân (…)

"Trong khi cuộc bạo động phản cách mạng đã nổ ra ở Hung ga ri, càng như đổ dầu vào lửa (…) Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại…" (Báo cáo 4-9-1958, sau khi báo đã bị đóng cửa sau 5 số).

Tội phá hoại chính trị
 
Do đó, Nguyễn Hữu Đang bị quy vào tội "phá hoại chính trị", một tội trạng hết sức trầm trọng dưới chế độ Cộng Sản. Ông bị bắt năm 1958 và năm 1960 lãnh 15 năm tù, là cái án nặng nhất so với các bạn cùng liên lụy đến "vụ án Nhân văn Giai phẩm".

Bị biệt giam ở Hà Giang, được phóng thích 1973 theo Hiệp Định Paris, Nguyễn Hữu Đang là người Việt Nam duy nhất không nghe tiếng máy bay, không biết có chiến tranh Việt-Mỹ.

Nhưng người đọc ngày nay vẫn tò mò: sự kiện diễn biến ra sao? Sao chỉ vì dăm ba bài báo, mà tội trạng và bản án nặng thế ?

Theo lời "tự thú" của Trần Dần, một trong vài ba nhà văn đầu tiên trong quân đội đã phát động phong trào đối kháng từ đầu 1955 : "Đến lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, sau nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ, nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị : gặp Trung Ương, ra báo, v.v…. và cũng không có tờ Nhân Văn" (báo Văn Nghệ số 12 , tháng 5-1958).

"Tự thú" là những lời bị cưỡng bách, nhưng chúng ta thử lần theo đó để tìm lại chuỗi sự kiện.

Lớp học 18 ngày
 
Lớp học 18 ngày, từ 1 đến 18 tháng 8-1956 là một đợt học tập do Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ thuật triệu tập tại Hà Nội, gồm hơn 300 cán bộ tham dự trong giới văn nghệ và khoa học xã hội.

Mục đích chính thức là để nâng cao trình độ lý luận, thực tế là để uốn nắn, rèn cặp giới văn nghệ, nhưng kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại.




Báo Văn Nghệ quy ông Đang là chỉ đạo "tờ báo chính trị" Nhân Văn
Lớp học 18 ngày xảy ra trong một hoàn cảnh chính trị, xã hội, tâm lý hết sức đặc biệt.

Về nội tình Việt Nam, dự án Tổng tuyển cử sau hai năm Hiệp định Genève đã không được thực hiện, viễn ảnh thống nhất đất nước sụp đổ. Việc này, lúc ấy và ngày nay, ít ai nói lên, nhưng trong ý thức hay tiềm thức người làm chính trị, người quan tâm đến đất nước, nhất định là có hoang mang.
Đồng thời là cuộc thất bại đẫm máu của Cải Cách Ruộng Đất gây công phẫn, chia rẽ sau cuộc cải tạo thương nghiệp và tư sản làm kinh tế kiệt quệ. Xã hội không biết cơ man nào tệ đoan vì không có công pháp mà chỉ có công an pháp.

Lẻ tẻ, đã có những phong trào nhân dân nổi dậy như ở Quỳnh Lưu, Nam Định và vài nơi miền núi. Trường Chinh trong báo cáo ngày 13-3-1958 trước Mặt trận Tổ quốc đã nêu lên bối cảnh này.
Cùng thời điểm này, giới trí thức biết đại khái tin tức về Đại Hội lần 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô.

Đầu năm 1956, trong đó Khơ Rút Sốp công khai thừa nhận sai lầm của Đảng. Người dân Việt Nam tự hỏi : thế Đảng Ta có sai lầm không? Cải Cách Ruộng Đất thì sao? Báo cáo Khơ Rút Sốp lại yêu cầu Đảng, Nhà nước, Công Đoàn, … phải tôn trọng luật pháp Xô Viết.

Vậy Việt Nam thì sao?

Ngoài ra, còn có tin những phong trào dân chủ nổi dậy ở Ba lan, Hung ga ri, (và sẽ bùng nổ vào tháng 10 sau đó).
Họa vô đơn chí : từ tháng 5-1956, Trung Quốc tung ra phong trào "Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng" qua diễn văn của Lục định Nhất, được một tạp chí đại học Hà Nội dịch ra từ tháng 7, và được báo Nhân Dân loan tin ngày 5 tháng 8, nghĩa là đúng vào lớp học 18 ngày.

Nhân văn Giai phẩm, khát vọng một thời đại
 
Văn nghệ sĩ là những tâm hồn bén nhậy. Họ lại là những người chịu thiệt thòi và o ép trong cuộc sống.
Vậy trong tình hình xã hội căng thẳng, trước thời cuộc quốc tế thôi thúc, họ phải làm gì? Họ có trách nhiệm gì? Tình cờ họ được tụ họp đông đảo ở lớp 18 ngày, nên có sự đồng thuận về mặt tư tưởng hay tâm cảm.
Nguyễn Hữu Đang nhớ lại : "Ở thời đó thì tư tưởng gọi là đấu tranh phê bình của anh em văn nghệ cũng lên cao lắm. Thành thử tư tưởng đấu tranh của tôi gặp tư tưởng đấu tranh của anh em, cho nên cuối cùng gặp nhau thành phong trào Nhân văn Giai Phẩm (…)."

"Anh em có một điểm gặp nhau là dù thế nào đi nữa cũng không thể chấp nhận đựơc cái chế độ cực quyền, chế độ toàn trị là cái biến dạng của chuyên chính vô sản." (NHĐ trả lời Thụy Khuê, đài RFI).




 Tư tưởng đấu tranh của tôi gặp tư tưởng đấu tranh của anh em, cho nên cuối cùng gặp nhau thành phong trào Nhân văn Giai Phẩm
 

Nguyễn Hữu Đang là người đứng tuổi, có uy tín, thành tích, óc tổ chức, tư tưởng chính trị, nên có khả năng tập hợp các khuynh hướng phản kháng. Trong lớp 18 ngày, đại diện cho tổ 2, ngày 26/8, ông đã đọc bản tổng kết phê phán nảy lửa , nhắc lại vụ án Trần Dần, chuyện giải thưởng văn học, nạn bè phái, chuyên quyền.
Ông nói : "Bất cứ vấn đề gì, tổ chúng tôi cũng thấy cái nút cuối cùng ở chỗ lãnh đạo."

Thậm chí ông còn đòi hỏi, quyết liệt và cay đắng : phải làm một cuộc cải cách ruộng đất trong văn nghệ (trích theo Hồng Vân, bài đã dẫn). Nói khác đi, ý ông muốn thay đổi hoàn toàn guồng máy lãnh đạo.

Báo Nhân văn số 1 đã tóm lược bản tham luận:

1. Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ,
2. Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể hẳn hoi về văn nghệ,
3.Tổ chức (bộ phận trực tiếp lãnh đạo văn nghệ) không hợp lý và không trong sạch, nguy hiểm nhất là có tính chất bè phái.
4.Bản tham luận này trước khi đem đọc đã được bàn tán và chờ đợi nhiều, khi đem đọc nó được hoan hô nhiệt liệt (17 lần vỗ tay dài) và sau khi đọc đã có vang dội rất lớn (tr. 5-6)

Đấu tranh chính trị : dân chủ tự do
 
Sau đó Nguyễn Hữu Đang viết những bài xã luận, ký tên thật, bắt đầu từ Nhân Văn số 4, ngày 5-11-1956, đăng ở trang nhất. Đó là bài "Chính quy hơn nữa", đòi hỏi một xã hội pháp trị, thi hành hiến pháp, tạo quyền hành cho ngành tư pháp, cái mà ngày nay ta gọi là xã hội công dân.
Số 5, ngày 15-12, trong bài "Hiến Pháp Việt Nam và Hiến Pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ như thế nào", ông đòi thực thi hiến pháp 1946, với những quyền : tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do cư trú đi lại trong nước và ra ngoài nước.

Ông viện dẫn điều 87 trong hiến Pháp Trung Hoa 1954, thừa nhận các quyền nói trên, thêm quyền tổ chức tuần hành thị uy.




Ông Nguyễn Hữu Đang có công lớn trong truyền bá quốc ngữ

Ông còn cảnh báo: "chuyên chính với nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn.
Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hung ga ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là thiếu chuyên chính."

Bên cạnh bài này, lại có bài Lê Đạt, ký tên Người Quan Sát, thông tin và bình luận "bài học về Ba Lan và Hung ga ri" về những cuộc nổi dậy vừa mới xảy ra.

Trên số 6, dự tính có bài dữ dội của Nguyễn Hữu Đang, nhưng báo bị tịch thu ngay tại nhà in. Vì vậy, tờ báo bị lên án là khiêu khích, kêu gọi biểu tình lật đổ chế độ.

Đôi bờ định mệnh. Oan khiên và vinh dự
 
Mục đích bài này là truy niệm bậc hào kiệt Nguyễn Hữu Đang, bằng cách nhắc lại chính xác và ngắn gọn vai trò chủ yếu của ông trong việc xuất bản tạp chí Nhân Văn, mà về sau để lên án, chính quyền đã đánh đồng chập choạng thành nhóm Nhân Văn Giai phẩm.

Thời gian từ Giai phẩm đến Nhân văn chỉ vỏn vẹn trong một năm, 1956, và "nhóm" này - nếu có thật – chỉ kết hợp trong "lớp học 18 ngày" và không thành một tổ chức nào chính thức. Do đó, những từ : lãnh đạo, lãnh tụ, thủ lĩnh… vừa là vinh dự, vừa là oan khiên thái quá cho ông.
Vinh dự phù du ; mà oan khiên đăng đẳng.

Nguyễn Hữu Đang bị tù, biệt giam trong 15 năm, sau đó bị quản thúc tại quê hương Thái Bình non 20 năm. Và trong tang lễ của ông, đại diện chính quyền đọc điếu văn còn nhắc tội trạng : "phạm sai lầm tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm".

Trong lịch sử nhân loại, vô số người tranh đấu cho tự do, dân chủ đã bị tù đày, lưu đày, thiệt mạng, biệt tích. Nhưng không có ai sai lầm.
Sai lầm chỉ ưu đãi phía cường quyền và bạo lực.

Viết ngày 20/02/2007


http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/02/070223_nguyenhuudang.shtml
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.02.2007 23:42:33 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm - 24.02.2007 23:45:18
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm

 
Đặng Tiến
Viết cho BBC từ Orleans, Pháp
 
.....
 
Sai lầm chỉ ưu đãi phía cường quyền và bạo lực.
Viết ngày 20/02/2007
-----------------------------------------------------------------------
 
Trung, Hamilton, Canada

Tôi không đồng ý với ông Đặng Tiến là Nguyễn Hữu Đang không sai lầm. Có đấy chứ ! Sai lầm của ông là " quá thông minh, quá nhạy bén" - quá "trong sáng và thẳng thắn" nghĩ sao nói vậy và tưởng ai cũng yêu nước như mình mà chịu nghe lời nói phải.
Ông đã đi trước xã hội của ông, thời đại của ông hàng mấy chục năm. Vì vậy, giải thưởng cho những "đồng chí" của ông như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt... cũng phải phát chậm lại đến mấy chục năm sau !!
 
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/02/070223_nguyenhuudang.shtml
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm - 24.02.2007 23:48:43
Phạm Xuân Nguyên
Ông Đang

Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
(E. Evtushenko)
1. Họp mặt cuối năm tạp chí Tia Sáng, vừa thấy tôi ló mặt vào hội trường Bộ Khoa học và Công nghệ, ông Lê Đạt vẫy lại nói: “Anh Đang mất rồi, Nguyên”.

“Mất lúc nào vậy anh?

“Sáng nay (8/2/2007).”

“Trước anh Quán một ngày (nhà thơ Phùng Quán mất vào ngày âm là 22 tháng Chạp).”

“Ừ. Sáng ngày ông Công đưa ma.”

“Nơi nào đứng ra làm tang lễ, anh?”

“Tao bảo thằng Quốc (Dương Trung) đứng ra, nhân danh Hội truyền bá Quốc ngữ. Cứ để anh em trong nhóm làm mãi. Mà mày viết một bài về anh Đang đi.”

“Anh viết mới phải chứ, cùng hội cùng thuyền. Em là lớp hậu sinh.

"Hậu sinh càng phải viết. Mà mày cũng cùng hội chứ sao!"

Tan họp, gọi điện thoại cho một anh bạn thân quen, tổng biên tập của một tờ báo có tiếng: "Ông Nguyễn Hữu Đang mất, tôi muốn viết một bài." – "Không được ông ơi. Có chỉ thị rồi!"

Về nhà mở email, có thư của anh Nguyễn Ngọc Giao ở nhóm Diễn Đàn từ Paris với chữ URGENT: "Choa thân mến, vừa nghe tin ông Nguyễn Hữu Đang từ trần hôm qua. Choa có thông tin gì (xác nhận, précision...) thì cho biết ngay nhé."


2. Tôi biết gì về ông Đang?

Tôi không biết gì về ông Đang!

Tháng 11/1992, nhà thơ Phùng Quán đưa tôi một giấy mời:


"Mừng sống dai
Nguyễn Hữu Đang chiến sĩ kách mệnh. Trưởng ban tổ chức ngày đại lễ của đất nước Tuyên ngôn Độc lập mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội. 1992 (Nhâm Thân) 80 xuân ngồi trầm tư tại bản quán trong căn hộ độc thân - nguyên cái chái bếp của tập thể giáo viên trường phổ thông cơ sở thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Chúng tôi Phùng Cung và Phùng Quán (em kết nghĩa) xin trân trọng kính mời: đúng 10 giờ 30 ngày 20 tháng 11 năm 1992 đến tại nhà riêng chúng tôi số 10 Thụy Khuê - khu tập thể giáo viên trường Chu Văn An, uống chung rượu khổ sâm mừng sự sống dai.
Phùng Cung và Phùng Quán”

In cùng những dòng này là bức ảnh ông Đang ngồi trong xó nhà của mình ở Thái Bình sáng mồng một tết Nhâm Thân (1992) kèm dòng chữ “Nguyễn Hữu Đang. Tám mươi xuân - trai tân - độc thân”. Mặt sau giấy mời là bản chụp lại trang bìa tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số đặc biệt kỷ niệm 45 năm Cách mạng tháng Tám (1990) ghép với phần chụp bài viết trong tạp chí đó nói về vai trò của Nguyễn Hữu Đang, trưởng ban tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2/9/1945. Phần chụp này là đoạn công bố hai bức thư do Nguyễn Hữu Đang viết gửi ông Thị trưởng Hà Nội.

Thư 1:

“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội

Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2-9-1945 một Ngày Độc lập. Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban Tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ phải cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.

Kính thư
Nguyễn Hữu Đang”

Thư 2:

“Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội

Nhân Ngày Độc lập, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn về lễ chào quốc kỳ, chúng tôi nhờ ngài cho sửa soạn một chiếc cột cao 12 thước tây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu Toà Thị chính.

Kính thư
Nguyễn Hữu Đang”

Tôi đã bỏ lỡ dịp gặp ông Đang lần đầu này do “nhát sợ” trước một lời khuyên (chuyện đó tôi đã kể trong bài viết “Nhớ ông Quán”). Mãi sau tôi mới gặp ông khi ông Quán mất và những dịp giỗ ông Quán. Gặp nhưng vẫn không biết gì về ông. Ông Đang vẫn là một khối bí ẩn đối với tôi.

Trong một lần giỗ ông Quán, khi ấy vẫn ở tại nhà bên Hồ Tây, nhân nhắc lại chuyện mừng thọ ông Đang, có người đã chép lại cho tôi bài thơ làm ngay dịp đó tặng “người sống dai”:


Bốn mặt Tây Hồ bát ngát trông
Nơi đây bè bạn tới mừng ông
Sống dai tám chục còn dư sức
Chết ẻo trong tù có uổng công
Tuyệt thế nhân gian ờ cứ thế
Bắc Hà “hào kẹt” có tên ông
Thân hữu xa gần nâng cốc rượu
Trăm năm duyên nợ biết bao xong!
(Tùng Quân)

“Hào kẹt” là viết chại của “hào kiệt” để hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.


3. Khi Đổi mới xướng lên, nhiều vấn đề tồn đọng của lịch sử hiện đại Việt Nam được xới ra, lật lại, nhiều nhân vật bị khuất lấp được chiếu sáng. Ông Đang với tư cách một yếu nhân của Hội truyền bá Quốc ngữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức Ngày lễ Độc lập 2/9/1945 dần dần hiện hình trở lại trên dòng thời gian và lịch sử. Nhưng điều đó không thành được sự “bảo chứng” để nói về ông Đang với tư cách một nhân vật chủ chốt của phong trào Nhân văn-Giai phẩm, như nhiều người mong đợi. Cho đến hôm nay, khi ông nằm xuống, vụ việc này vẫn chưa được bạch hoá và con người ông trong đó vẫn bị che phủ, dẫu đã nửa thế kỷ trôi qua.

Trong một bản viết cho một nhà nghiên cứu nước ngoài về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm vào cuối tháng 11/1998 tại Hà Nội, ông đã phân tích nguyên nhân sâu xa của hiện tượng này như sau:


“1. Ý thức, tư tưởng chủ đạo của phong trào là chống lại sự biến chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ chế độ chuyên chính thông thường đã bắt đầu có xu hướng hướng cực quyền (còn gọi là toàn trị, tiếng Pháp là totalitarisme, tiếng Anh là totalitarianism) trong đó con người bị cưỡng bức toàn diện, triệt để nhiều khi tàn nhẫn đến vô nhân đạo, phi nhân văn, biến con người bị trị thành nô lệ của một tập đoàn thống trị ít người và duy ý chí tuy nhân danh cách mạng mà hành động, nhưng hiệu quả khách quan của hành động lại phản tiến hoá.

Sự biến chất này do ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Stalinchủ nghĩa Mao Trạch Đông, cả hai đều tự nhận là chủ nghĩa Mác-Lênin! Rất tiếc là lúc ấy Đảng Cộng sản Việt Nam tin là như thế.

Phong trào còn lo ngại đáng lẽ chế độ chuyên chính vốn chỉ là một biện pháp bất đắc dĩ cách mạng phải dùng đến, trong thời gian ngắn gọn tiếp theo liền Tổng khởi nghĩa, để củng cố chính quyền vừa mới giành được, nhưng khi nó đã trở thành chế độ cực quyền, toàn trị, nó sẽ kéo dài không thời hạn, nghiễm nhiên tự coi như hình thái “đích thực”, “chân chính” của chủ nghĩa xã hội khoa học mà loài người mong ước sau những mò mẫm vô hiệu quả của chủ nghĩa xã hội không tưởng.

2. Ý thức, tư tưởng chống đối này âm ỷ từ lâu trong lòng những người trí thức và văn nghệ sĩ Việt Nam, ngay trong các đợt chỉnh huấncải cách ruộng đất được tiến hành song song với kháng chiến đánh thực dân Pháp mấy năm cuối. Đến năm 1956, gặp hoàn cảnh thuận lợi, nó nổ bùng ra thành động cơ sôi nổi của một cuộc đấu tranh mãnh liệt trong nội bộ dân tộc Việt Nam. Sự kiện đó sẽ tồn tại mãi trong lịch sử Việt Nam như một cái mốc đánh dấu bước chuyển tiếp từ giai đoạn đấu tranh giành độc lập sang giai đoạn đấu tranh giành dân chủ.

Việc chuyển hướng là cần thiết, nó phù hợp với một tất yếu lịch sử, đáp ứng nhu cầu đời sốngtiến hoá xã hội. Trước mắt, nó là nguyện vọng cao cả của nhân dân. Chính Cụ Hồ, trước khi vĩnh biệt cuộc đời cũng để lại một lời tuyên bố nổi tiếng - sau khi đã nêu ra khẩu hiệu cho toàn dân: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” - vừa mạnh bạo nhận trách nhiệm, vừa thắm thiết ân tình: “Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”. Nếu chúng ta hiểu “tự do” đây là dân chủ thì câu nói chí tình của ông cụ không xa cách cái thiện chí của phong trào Nhân văn-Giai phẩm nhiều lắm”.

Ông Đang viết tay, những từ những đoạn in đậm là của ông.


4. Tôi đang đọc tiểu thuyết Sách cười và lãng quên của Milan Kundera. Đây là đoạn mở đầu của tác phẩm này:


“Tháng hai 1948, nhà lãnh đạo cộng sản Klement Gottwald đứng trên ban công một cung điện baroc ở Praha diễn thuyết trước đám đông hàng trăm nghìn công dân tụ tập trên quảng trường Thành phố Cũ. Đây là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử xứ Bohêm. Một thời khắc định mệnh mà nghìn năm chỉ xảy ra một hay hai lần.

Gottwald được vây giữa các đồng chí của mình, đứng sát ngay cạnh ông là Clementis. Tuyết rơi, trời lạnh, Gottwald để đầu trần. Clementis đầy ân cần cởi chiếc mũ lông không vành của mình ra và đặt nó lên đầu Gottwald.

Ban Tuyên huấn của Đảng đã cho in ra hàng trăm nghìn bản tấm ảnh chụp cái ban công nơi Gottwald đội chiếc mũ lông không vành đứng giữa các đồng chí đang nói chuyện với nhân dân. Chính trên cái ban công đó đã bắt đầu lịch sử của xứ Bohêm cộng sản. Tất cả trẻ em đều biết tấm ảnh này vì đã thấy chúng trên các áp phích, trong sách giáo khoa hay trong các bảo tàng.

Bốn năm sau, Clementis bị kết án phản bội và bị treo cổ. Ban Tuyên huấn của Đảng lập tức cho ông ta biến khỏi Lịch sử, và dĩ nhiên cũng biến khỏi tất cả các tấm ảnh. Từ đây, Gottwald chỉ còn một mình trên cái ban công. Nơi trước đây Clementis đứng giờ chỉ còn lại bức tường trống của cung điện. Còn về Clementis thì chỉ còn lại chiếc mũ lông không vành trên đầu Gottwald.” (Theo bản tiếng Pháp Le livre du rire et de l’oubli, Gallimard, Paris, 1985).

5. Đám tang ông Đang diễn ra sáng ngày ông Táo Bính Tuất về giời (10/2/2007) tại nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Một liên danh các cơ quan có dính dáng đến những ngành nghề ông Đang từng làm đứng ra chủ tang: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban liên lạc Hội truyền bá Quốc ngữ, Ban liên lạc Hội diệt dốt, Báo Văn Nghệ... Trưởng ban tang lễ là ông Chánh văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quan chức cao nhất đến viếng là bà Thứ trưởng bộ này. Ông Bộ trưởng bộ này bận việc, gửi vòng hoa đến viếng. Bà Ngô Thị Kim Thoa (vợ ông Phùng Cung) và bà Vũ Bội Trâm (vợ ông Phùng Quán) chít khăn tang lên đầu, viếng xong, đứng cùng thân quyến ông Đang bên linh cữu chịu tang, thay chồng làm bổn phận người em.




Tôi cùng nhà văn Nguyên Ngọc viếng ông Đang một vòng hoa trắng. Khá nhiều vòng hoa trắng viếng ông Đang. Chị bán hoa tang bảo: cụ ấy không vợ không con thì hoa trắng là đúng rồi, nhưng thọ thế thì em sẽ viền thêm hoa cúc vàng xung quanh. Lại bảo: anh đứng đây chờ em làm hoa xong để theo anh mang vào, chứ đám này bọn em không được tự mình mang hoa vào trong cho khách như các đám khác. Tôi hỏi vì sao. Chị ta bảo là họ đặt biển báo kia rồi.



Tôi đi tới cổng nhà tang lễ và thấy một tấm biển nền đỏ chữ vàng có chân đứng đặt ở lối ra vào: “Chú ý: Khách đến viếng vui lòng tự mang hoa vào. Xin cảm ơn”. Biển làm sẵn thế này là dùng cho những lúc cần dùng như thế này. Vào viếng cùng lượt với chúng tôi là nhà thơ Dương Tường mang vòng hoa bị hàng hoa đề sai tên mình thành ra rất tếu với ông Đang “Thương tiếc Anh, Dương Cường”.

Viếng xong lượt mình, chúng tôi lại đi cùng đoàn viếng của talawas do nhà thơ Hoàng Hưng dẫn đầu. Giới thiệu đoàn này vào viếng, người xướng danh chỉ nói là đoàn nhà văn, nhà báo, vờ như không thấy cái tên talawas trong phiếu đăng ký viếng và trên băng tang vắt ngang vòng hoa.



Ông Đang nằm vây phủ lụa vàng trong quan tài mở nắp. Chín mươi lăm tuổi (âm) một đời người, ông còn gì, để lại gì, sau khi thân thể tan thành tro bụi (hoả thiêu). Cái quan định luận. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chép lại cho họ hàng ông Đang đôi câu đối ông làm khi ra tù về quê (1994) mà ông đã ghi vào sổ tay anh:


“Nào công, nào tội, nào nhục, nào vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi
Vận nước, vận nhà, biết thời, biết thế, quý cuộc đời Phạm Lãi, Trương Lương”

Từ Đà Lạt, nhà thơ Bùi Minh Quốc nhờ chị Vũ Bội Trâm đặt viết trên lụa đôi câu đối viếng ông Đang:


“Dâng Tổ Quốc kỳ đài Độc Lập vun gốc Nhân Văn một đời trong trắng
Hiến Nhân Dân diệu lý Tự Do đắp nền Pháp Trị muôn thuở sáng ngời”

Tôi ghi sổ tang:


Ông Nguyễn Hữu Đang là ai?
Ông truyền bá Quốc ngữ.
Ông tổ chức Ngày Độc lập 2/9/1945.
Ông làm Nhân văn-Giai phẩm.
Ông đã sống và đã chết Một Con Người.
"Mỗi số phận chứa một phần lịch sử 
Nền dân chủ tự do của nước Việt sẽ có ghi tên Ông."

Hà Nội 8-10/2/2007

© 2007 talawas
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9196&amp;rb=0401
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm - 24.02.2007 23:52:15
Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
 1   2   45   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   61 
  19.2.2007  Con đường phản cách mạng của Nguyễn Hữu Đang Hồng Vân Từ bất mãn đến phản bội

Giới văn nghệ biết đến Nguyễn Hữu Đang không phải vì những tài năng nghệ thuật, những công trình sáng tạo của hắn, mà vì hắn đã khéo len lỏi vào trong hàng ngũ những người văn nghệ bằng cái khiếu kinh doanh tổ chức. Hắn vốn không phải là văn nghệ, cũng chẳng phải là một tay trí thức gì. Nhưng vì xưa kia có làm "truyền bá Quốc ngữ" nên khi cách mạng thành công thì hắn nghiễm nhiên trở thành một người "vận động văn hoá", rồi cứ thế mà chơi bời quen biết một số anh chị em văn nghệ sĩ.

Hắn là con một tên chánh tổng ở Thái Bình. Chính gia đình địa chủ cường hào này đã rèn luyện cho hắn từ lâu cái đầu óc thích "ăn trên ngồi trốc", thích địa vị với nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn nhẫn. Lớn lên, học được ít nhiều hắn chạy chọt thi vào làm thư ký Phủ Toàn quyền. Được ít lâu, hắn xin thôi và sống một cuộc đời lang bạt. Lúc này chính là lúc phong trào Mặt trận Bình dân đang phát triển mạnh, là một thanh niên nhanh nhẹn hoạt bát, hắn được phong trào tìm đến. Cũng có khi làm phát hành sách báo, cũng có lúc hắn được phân công viết dăm ba bài. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc lồng lộn khủng bố, toàn bộ Đảng ta rút vào bí mật. Không những các cán bộ, đảng viên, mà cả những đoàn viên thanh niên dân chủ cũng bị lùng bắt. Nguyễn Hữu Đang vẫn hoạt động công khai trong phong trào truyền bá Quốc ngữ. Lúc bấy giờ cụ Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng Hội đó và được Đảng hết sức ủng hộ. Nhưng Nguyễn Hữu Đang lại vận động anh em đánh đổ cụ Tố xuống để Đang làm hội trưởng. Công việc của Đang thất bại. Vì Đảng vẫn ủng hộ cụ Tố. Đến khi bọn mật thám chú ý phong trào truyền bá Quốc ngữ, Đang bỏ nhiệm vụ và tìm cách lẩn trốn. Ngay trong giai đoạn này, bề ngoài Đang làm ra vẻ hăng hái, nhưng rất kín đáo, Đang cũng muốn phất trên trường "chợ đen" và cũng đã nhiều lần lăn lộn ở các sòng bạc trên những chiếc thuyền bên kia Gia Quất.

Mãi đến năm 1942 khi phong trào Việt Minh lên cao Nguyễn Hữu Đang mới được liên lạc lại và tham gia Văn hóa Cứu quốc. Chính trong thời kỳ này, khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên thì hắn trở về mang theo cái chủ trương "cần dựa vào Nhật" của bè lũ tờ-rốt-skít. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang được đề cử nhận một trách nhiệm trong Chính phủ.

Nhưng vì đầu óc địa vị quá nặng, Đang đã tỏ ra bất mãn vì thấy chức vị mình chưa được cử dứt khoát. Sau đó Nguyễn Hữu Đang lại được điều động sang công tác trong Văn hóa Cứu quốc. Vì Đang chưa có uy tín gì trong địa hạt văn nghệ nên không thể để Đang làm Tổng thư ký được. Đang lại kèn cựa với các đồng chí Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng. Ngay từ 1945 Nguyễn Hữu Đang đã câu kết với tên Trần Thiếu Bảo là chủ nhà xuất bản Minh Đức. Đang vận động anh em để Trần Thiếu Bảo về phụ trách nhà xuất bản của Văn hóa Cứu quốc. Nhưng, một nhà xuất bản của một đoàn thể cách mạng không thể để lọt vào tay một tên tư bản cơ hội như tên Trần Thiếu Bảo, các anh em kiên quyết không tán thành đề nghị của Nguyễn Hữu Đang. Bất mãn với đoàn thể Văn hóa Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội Văn hóa Toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội Văn hóa Toàn quốc. Hồi đầu cách mạng, công việc của Đảng và chính phủ rất bận. Tình hình lúc đó lại gặp nhiều khó khăn đối với bọn quân Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch sang tước vũ khí quân đội Nhật Bản và bọn Quốc dân Đảng Nguyễn Tường Tam, bọn Cách mạng Đồng minh Hội Nguyễn Hải Thần và bè lũ của chúng âm mưu phá hoại chế độ ta. Lợi dụng lúc khó khăn đó không ai kiểm tra đôn đốc, Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với các anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết người đó là ai? Thái độ chính trị ra sao? Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ. Nguyễn Hữu Đang không nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến mà chỉ nghĩ đến thích thú cá nhân của mình; làm cái gì cũng muốn làm to, khoa trương, hình thức. Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền. Đầu óc lãnh tụ nổi lên, Đang muốn làm thủ lĩnh thanh niên và ý định đào tạo một lớp thanh niên với danh nghĩa: Thanh niên Nguyễn Hữu Đang (!).

Chủ trương của Đang không sát với hoàn cảnh thực tế rất khó khăn của kháng chiến, và cách tung tiền của Nguyễn Hữu Đang theo kiểu "xắn tay áo xô đốt nhà táng giấy" không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức Thanh niên Xung phong của Đang phải giải tán, Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm thanh tra Bình dân Học vụ. Về đây chẳng bao lâu, đầu óc địa vị lại trỗi dậy, Nguyễn Hữu Đang lại kèn cựa, công kích đồng chí Vương Kiêm Toàn là giám đốc Nha Bình dân Học vụ, một người rất cần cù bền bỉ, một người đã có công rất nhiều từ phong trào truyền bá Quốc ngữ. Nguyễn Hữu Đang lại vận động anh em hòng lật đổ đồng chi Vương Kiêm Toàn. Nhưng anh em rất sáng suốt, Nguyễn Hữu Đang một lần nữa lại thất bại. Con đường cách mạng không phải như một cái thang để cho những kẻ đầu cơ như Nguyễn Hữu Đang trèo lên làm vương làm tướng, cũng không phải như một canh bạc đỏ đen như những canh xóc đĩa Đang đã từng lăn lộn trên những chiếc thuyền trên sông Hồng bên kia Gia Quất. Con đường cách mạng lại cũng không phải những món hàng chợ đen mà Nguyễn Hữu Đang đã lăn lộn trước đây từ Hà Nội đến Sài Gòn hòng mong đầy túi. Đang tham gia phong trào đã lâu nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy nên mãi đến nam 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành, danh không toại Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình dân Học vụ dọn lên Việt Bắc, Đang ở lại Thanh Hóa và làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức. Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc, mọi người đều cố gắng đem khả năng của mình ra để cống hiến cho sự nghiệp quang vinh của tổ quốc thì Nguyễn Hữu Đang, vì bất mãn cá nhân, đã nằm bẹp, không hoạt động gì cho cách mạng, bám vào nhà xuất bản Minh Đức để chia lời với một cái tên cũng khá kêu là "giám đốc chính trị". Từ ngày đó Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đang cắt đứt sinh hoạt của Đảng. Từ đó, khi Cầu Bố khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng chửi cách mạng. Phẩm chất cách mạng của Nguyễn Hữu Đang đã mất. Đang đã trốn trách nhiệm với cơ quan, Đang đã bỏ quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc để đi làm cái việc chia lãi với tên Trần Thiếu Bảo, một tên tư bản cơ hội, bẩn thỉu.

Đã nhiều lần Đảng muốn cứu vớt Nguyễn Hữu Đang, cho Đang đi tham dự các lớp học chính trị của Đảng nhưng Đang tìm hết cách nọ cách kia chối từ sự giáo dục của Đảng.

Hòa bình được lập lại, một số các anh em vốn muốn cứu vớt Nguyễn Hữu Đang, đưa Đang về làm báo Văn nghệ, mong Đang hối cải trở lại công tác cách mạng. Nhưng cái đầu óc lãnh tụ của Đang quá nặng, tư tưởng chống Đảng đã có từ lâu, chứng nào vẫn tật ấy Nguyễn Hữu Đang câu kết với những phần tử xấu và mưu đồ lật đổ sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ. Lợi dụng lớp nghiên cứu tài liệu của Hội Văn nghệ mở cho các anh chị em văn nghệ sĩ học tập, hồi cuối năm 1956, Nguyễn Hữu Đang cùng với những phần tử phản động và bất mãn như Phan Khôi, Thụy An, Trần Dần, Lê Đạt, Sĩ Ngọc, Trần Duy, Hoàng Cầm v.v. khoét sâu vào những khuyết điểm của một số anh em lãnh đạo trong văn nghệ, lung lạc những anh em văn nghệ sĩ lập trường còn bấp bênh, hòng tranh thủ quần chúng văn nghệ sĩ về mình để đối lập với sự lãnh đạo của Đảng. Sau đó Nguyễn Hữu Đang đi vận động một vài nhà tư sản lạc hậu bỏ tiền ra tờ báo Nhân văn. Để che lấp hành vi bỉ ổi của mình, Nguyễn Hữu Đang giở trò bịp bợm cho đăng lên báo tên các anh em văn nghệ sĩ đóng góp người năm nghìn, người một vài vạn để lừa dối nhân dân, tỏ ra nhóm Nhân văn là những người trong sạch, vì "trái tim", vì "con người", anh em phải gom góp nhau lấy tiền ra báo. Cố nhiên danh sách quyên tiền đó là bịa đặt. Như Hoàng Cầm góp 1 vạn, đăng là 10 vạn. Nhiều văn nghệ sĩ không góp đồng nào cũng thấy bị đăng tên mình vào danh sách.

Nguyễn Hữu Đang đưa Phan Khôi và Trần Duy công khai ra làm chủ nhiệm và thư ký tòa soạn còn hắn thì tích cực hoạt động bên trong, liên lạc với nhóm này, người khác để "lấy quần chúng" về mình. Âm mưu của Nguyễn Hữu Đang là tìm những người nào có điều gì bất mãn với Đảng và chính phủ để lung lạc tinh thần trước đã rồi sau cho người vào gây nhân ở các cơ sở như các trường học, chủ yếu là trường đại học, các cơ quan văn nghệ và các cơ quan của Chính phủ.

Một mặt trên tờ báo Nhân văn tung ra những luận điệu rất có hại cho chế độ độ lung lạc tinh thần nhân dân, một mặt Nguyễn Hữu Đang cũng tích cực đi gây cơ sở, hòng có dịp phất cờ. Thấy những hoạt động của Nguyễn Hữu Đang gây nhiều tai hại cho sự nghiệp cách mạng, các đồng chí lãnh tụ của Đảng đã gọi Đang đến khuyên giải, nói cho hắn biết những sai lầm nguy hại của hắn. Đang không nhìn thấy sự ân cần và đại lượng của Đảng. Hắn cho là đã có cơ hội tấn công vào Đảng, hắn càng chiêu binh mãi mã, làm tích cực hơn, ráo riết hơn, càng ra mặt khiêu khích trắng trợn hơn, đi hẳn vào con đường chống Đảng, chống chế độ, thực sự phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân.


Nấp sau chiêu bài "trăm hoa đua nở"

Về làm ở báo Văn nghệ không phải là ý nguyện tha thiết của Nguyễn Hữu Đang vì hắn không có khả năng sáng tác mà cũng chẳng hiểu gì về nghệ thuật. Ngay trong thời kỳ đầu, hắn có viết một số bài phê hình hội họa, treo tên hắn lên rất cao, nhưng rồi cũng chẳng mấy người chú ý. Tuy vậy hắn đã bắt đầu gieo rắc vào trong tòa soạn báo Văn nghệ lúc bấy giờ lối làm báo tư sản với các mục "Chữ với nghĩa", "Cũ và mới", với cách trình bày hình thức, cốt khêu gợi sự tò mò của quần chúng hơn là thực chất nội dung của bài viết. Lúc này, trước những lời phê bình của lãnh đạo và của quần chúng về những bài viết của hắn trên báo Văn nghệ, Nguyễn Hữu Đang thường tỏ ra bất mãn, oán trách, và cùng với Lê Đạt hắn tìm cách đả kích và hạ uy tín của một số nhà văn phụ trách tờ báo kiên quyết bảo vệ đường lối văn nghệ của Đảng.

Cho đến lớp học 18 ngày, từ một tên viết lách tầm thường, hắn nhảy ra như một tên trùm khiêu khích. Trong tổ 2 lúc đó, hắn ngang nhiên phủ nhận văn nghệ kháng chiến mà hắn chẳng có một chút đóng góp gì, mạt sát sự lãnh đạo của Đảng, gọi bài phát biểu của đồng chí Lục Định Nhất về "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là có "tính chất chiến thuật", cho bài "Tổ chức Đảng và văn học Đảng" của Lê-nin là lỗi thời. Nhưng đến khi cần chống Đảng thì hắn lại nấp sau cái chiêu bài "Trăm hoa đua nở" và những ý kiến của Lê-nin. Hắn tụ tập xung quanh hắn những Phan Khôi, Thụy An, Ngọc Giao, Đoàn Phú Tứ, để cho bọn này công nhiên xỉ vả văn nghệ sĩ kháng chiến và chính bản thân hắn cũng tuyên bố là "phải làm một cuộc cải cách ruộng đất trong văn nghệ" nghĩa là phải đánh đổ lãnh đạo đi cho bọn chúng nắm lấy quyền lãnh đạo. Thế rồi như mưu mô đã sắp sẵn, lợi dụng cái "vết sẹo giả vờ" của Trần Dần, hắn khích động những thắc mắc nhất thời của một số văn nghệ sĩ, và làm một bản "tham luận" đầy một giọng khiêu khích hằn học. Với bản "tham luận" này, hắn đã xuyên tạc trắng trợn những sự thật về tinh hình văn nghệ, bịa đặt ra những "vụ" giải thưởng văn học, "vụ" Trần Dần, vu khống cái gọi là "bè phái lãnh đạo", "độc quyền văn nghệ". Tất cả những mưu mô của hắn chỉ nhằm đánh vào đường lối văn nghệ của Đảng, sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng. Chính hắn đã viết: "Vì bất cứ phát hiện sự việc gì, hoặc tìm giải quyết vấn đề gì, tổ chúng tôi cũng thấy cái nút cuối cùng ở chỗ lãnh đạo". Và hắn viết thêm: "Cho tới nay trên thực tế, Đảng dã dùng văn nghệ một cách căn bản là sự vụ chủ nghĩa, căn bản là thực dụng chủ nghĩa, bó buộc về cả nội dung lẫn hình thức, không kể người sáng tác có cảm nghĩ sâu sắc hay không, bó buộc đến cả thời gian bao giờ cũng quá ngặt nghèo". Hắn gọi sự lãnh đạo của Đảng ta là "sự lãnh đạo cay nghiệt", hắn cho "đường lối của Đảng là gò bó, cần sửa đổi". Rõ ràng âm mưu đầu tiên của Nguyễn Hữu Đang và bè lũ là đánh mạnh vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng tiếng chó sủa không làm tắt được ánh trăng. Đường lối văn nghệ mà Đảng ta đề ra trong bao nhiêu năm nay hướng văn nghệ đi vào con đường rộng rãi phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh dù có thực hiện thiếu sót, chưa đầy đủ, vẫn là đường lối duy nhất đúng. Ngoài đường lối văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh ra, chỉ còn là đường lối văn nghệ phục vụ bọn bóc lột, bọn ăn không ngồi rồi, bọn thù địch mà thôi. Giới văn nghệ Việt Nam không bao giờ lại nhắm mắt cho bọn Đang đẩy vào đường lối đen tối đó.

Nguyễn Hữu Đang và bè lũ thường vu khống Đảng ta lãnh đạo văn nghệ theo "thực dụng chủ nghĩa". Nhưng thực dụng chủ nghĩa là gì? Đó là một triết học tối phản động của bọn tư bản Mỹ "sáng tạo" ra, trực tiếp phục vụ cho lợi ích tư bản chủ nghĩa thối nát của chúng. Theo triết học này thì con người có thể dùng bất kỳ phương pháp thủ đoạn gì để có thể đạt mục đích riêng của mình. Đó chính là triết học phản cách mạng để kiếm lãi của công ty Nguyễn Hữu Đang - Minh Đức, của bè lũ Nhân văn, đúng là "đường lối" của chúng, nghĩa là dùng mọi thủ đoạn kể cả gái, rượu, thuốc phiện để trụy lạc hóa, lưu manh hóa, phản động hóa văn nghệ sĩ. Còn đường lối của Đảng là đường lối cách mạng, yêu cầu những người văn nghệ quyết tâm lăn vào quần chúng, tự nâng cao mình, một lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân loại, phục vụ quần chúng lao động; đường lối đó chứa chan lý tưởng cao quí, bọn Nhân văn làm sao hiểu được!

Sau bài "tham luận" đầy giọng khiêu khích tấn công độc ác vào sự lãnh đạo của Đảng, Nguyễn Hữu Đang liền viết thêm hai bài nữa có tính cách vạch đường lối. Một bài là "Từ Pơ-rô-lê-kun đến trăm hoa đua nở" đăng ba kỳ (145, 147, 148) vào tháng 11-1956 trên tuần báo Văn nghệ và một bài là "Phấn đấu cho trăm hoa đua nở" ký mạo tên Trần Duy đăng trên báo Nhân văn. Cũng trong những bài này một lần nữa Nguyễn Hữu Đang đả kích sự lãnh đạo của Đảng là hẹp hòi gò bó mà hắn ám chỉ là Pơ-rô-lê-kun, rồi hắn hò hét kêu gào "phóng tay trăm hoa đua nở" hiểu theo nghĩa hoàn toàn cơ hội, vô chính phủ của hắn.

Để vạch một đường lối văn nghệ hoàn toàn phản động, hắn ném ra những lý luận sặc mùi duy tâm thần bí, phỉnh nịnh văn nghệ sĩ tự thân là tiến bộ, những nào là "họ mang trong người họ một cái khả năng tiến bộ đặc biệt giúp cho họ đi theo cách mạng", những nào là "do cái trí tuệ minh mẫn mà họ có thể tiếp thu kiến thức và khát vọng của đồng loại rồi tổng kết để cuối cùng đem phổ biến. Cũng giống như cái ‘bản năng làm mẹ’ nó thôi thúc người phụ nữ (và các con vật cái). Bởi vậy hướng đi bình thường của họ phải là về phía chân thiện mỹ". Hắn cố bịa ra cái "trí tuệ tính" đối lập với giai cấp tính và theo hắn cái trí tuệ tính mới là căn bản. Lập luận này chẳng có gì là mới mẻ. Từ lâu, bọn duy tâm tư sản đã phát minh ra đủ các thứ lý luận chủ quan thần bí để chứng minh văn nghệ sĩ là siêu nhân, là đứng trên tất cả nhưng rồi cuối cùng vẫn đứng không cao hơn túi tiền của bọn tư sản. Bọn Hồ Phong cũng chả là luôn mồm nói đến "lương tâm nghệ thuật", "tinh thần chiến đấu chủ quan", "lực lượng nhân cách của nhà văn", nhưng cuối cùng cũng tự phơi bày cái lương tâm đen tối phản cách mạng của chúng ra đấy ư? Trong một xã hội có giai cấp mà định bịa đặt ra cái trí tuệ bản chất là tiến bộ, văn nghệ sĩ tự thân là cách mạng, để xóa mờ tính giai cấp của tư tưởng, phủ nhận cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận tư tưởng trong văn nghệ thì thật là lừa bịp một cách trắng trợn. Bè lũ Nguyễn Hữu Đang không phải không biết vậy, nhưng đầu có đi đuôi mới lọt. Có đề cao được văn nghệ tự thân là tiến bộ bản chất là cách mạng thì mới có thể kêu gọi được "không lý gì không để cho trăm hoa đua nở", để cho văn nghệ "tự do không giới hạn". Cái danh từ "tự do không giới hạn" này (liberté illimitée) cũng chẳng phải là của bè lũ Nguyễn Hữu Đang "sáng tạo" ra đâu. Nó là một danh từ của Lukács György, một nhà triết học cơ hội chủ nghĩa đã tham gia chính phủ phản bội Im-rê Na-giơ mà bè lũ Nguyễn Hữu Đang nhập cảng vào. Nếu cái danh từ đó đã trở thành võ khí của bọn phản cách mạng Hung-ga-ri thì ở ta nó cũng đã thành mũi nhọn tiến công vào Đảng, vào chế độ của những phần tử phản bội.

Ở đâu bọn cơ hội chủ nghĩa cũng không giấu giếm được cái chân tướng phản bội của chúng. Dù chúng cố tô son điểm phấn bằng những danh từ "tự do", "dân chủ", cuối cùng cũng chỉ là những bọn chống Tổ quốc chống nhân dân một cách hèn nhát bẩn thỉu mà thôi.

Nguyễn Hữu Đang, tên bất học vô thuật này, nhảy vào văn nghệ với thủ đoạn của một tên khiêu khích, cũng chẳng tài giỏi gì hơn là cóp nhặt một số luận điệu, một số danh từ của những phần tử cơ hội chủ nghĩa đã ném ra, xuyên tạc những chính sách văn nghệ đúng đắn của Lê-nin, của Đảng Cộng sản Trung Quốc, để tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta trên văn nghệ. Nhưng không riêng gì trong văn nghệ. Âm mưu của hắn còn đi xa hơn. Hoạt động về chính trị, chống Đảng, chống chế độ về mọi mặt mới thật là mục đích cuối cùng của hắn.


Những thủ đoạn và luận điệu chính trị phản động

Nhằm đúng lúc Đảng và chính phủ ta phát hiện một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức, đời sống của nhân dân còn gặp những khó khăn, đồng thời tình hình thế giới cũng có những biến cố lớn ở Ba-lan và Hung-ga-ri, bọn theo chủ nghĩa xét lại theo sau những luận điệu của phản động quốc tế đang chửi rủa vu khống phong trào cộng sản quốc tế, tư tưởng phản cách mạng của Nguyễn Hữu Đang cũng trỗi dậy. Hắn tưởng thời cơ đã đến, nên càng đi sâu vào con đường phản động. Nguyễn Hữu Đang vội vàng dựa vào một nhóm văn nghệ sĩ cơ hội, và liên lạc chặt chẽ hơn với tên tơ-rốt-skít Trương Tửu và một số phần tử lạc hậu ở đại học. Hắn chủ trương cùng một lúc ra tờ Nhân văn để tuyên truyền về chính trị, ra các tập Giai phẩm để vận động văn nghệ, tờ Đất mới để vận động sinh viên học sinh và tờ Tự do diễn đàn để tập hợp trí thức.

Ngay từ số đầu, tờ Nhân văn đã lộ rõ là một tờ báo chính trị. Bề ngoài do Phan Khôi và Trần Duy chủ trương, bề trong chính là một tay Nguyễn Hữu Đang lo liệu, từ tiền bạc đến bài vở. Phần lớn những bài quan trọng đều do hắn trông coi và sửa chữa, hoặc đội tên người khác để viết hòng che giấu bộ mặt phản bội của hắn. Bài "Một cuộc đấu tranh trong văn nghệ" ký tên Người quan sát, "Phấn đấu cho trăm hoa đua nở" ký tên Trần Duy, "Chống luận điệu vu cáo chính trị" ký tên Hoàng Cầm, Trần Duy, Hữu Loan, v.v. đều do chính tay Nguyễn Hữu Đang viết. Bài "Con người Trần Dần" được hắn nâng lên thành nhan đề "Một vụ án văn học", bài của Trần Lê Văn được hắn chữa thành "Không sợ địch lợi dụng". Bộ mặt khiêu khích gian hiểm của hắn lúc này còn khéo giấu kín để chờ cơ hội. Đi đâu hắn cũng nói "mình chỉ lo cho ra được số đầu còn thì sẽ giao lại cho bọn Giai phẩm mùa Xuân làm". Nhưng chúng ta thừa biết thủ đoạn xảo trá thâm độc của hắn.

Thế rồi, trên thế giới, tình hình Ba-lan, Hung-ga-ri có những biến chuyển, trong nước cũng có những rắc rối khó khăn. Nguyễn Hữu Đang liền tập hợp những phần tử phản động nhất lại, và trong hội nghị này chúng quyết định từ số 4 chuyển mạnh sang vấn đề chính trị. Nguyễn Hữu Đang liên tiếp trong ba số liền viết ba bài xã luận chính trị ký tên hẳn hoi không còn giấu giếm bộ mặt phản cách mạng của hắn nữa. Đồng thời trên tờ báo, hắn xoay mạnh vào vấn đề dân chủ và chuyên chính, đề lên rất cao vấn đề dân chủ tư sản, hạ thấp đến phủ nhận chuyên chính vô sản. Trong ba bài xã luận tự tay hắn viết, giọng lưỡi cũng thay đổi dần. Từ chỗ kêu gọi dân chủ tư sản, đến chỗ vu cáo miền Bắc là không có dân chủ, từ chỗ còn gọi Đảng và chính phủ một cách kiêng dè đến chỗ ngang nhiên vu cáo Đảng và chính phủ của chúng ta là "tập đoàn thống trị", từ chỗ đòi hỏi "cần chính quy hơn nữa" đến chỗ hô hào quần chúng đứng dậy biểu tình mưu một cuộc biến động. Liên kết với một vài phần tử xấu trong Đảng Dân chủ, dựa vào một bộ phận lạc hậu trong giới tư sản, ngoặc chặt với những phần tử tác động tinh thần, và tờ-rốt-skít như Thụy An, Trương Tửu hắn tưởng có thể thực biện được âm mưu phản cách mạng của hắn.

Đã nhiều lần hắn tuyên truyền trong một số phần tử Nhân văn về việc phải thành lập một cái đảng chính trị để chống chọi với Đảng ta và trong những ngày Quốc hội họp vào cuối năm 1956 hắn tưởng có thể dùng áp lực của những phần tử cơ hội là có thể gây khó khăn trong phiên họp này. Nhưng âm mưu của hắn đã bại lộ. Tờ báo Nhân văn không che giấu nổi bộ mặt phản động của nó đã lộ rõ chân tướng một tờ báo khiêu khích vừa sặc mùi tờ-rốt-skít vừa y hệt cơ quan tác động linh thần của Mỹ Diệm. Đảng ta kịp thời chặn tờ báo Nhân văn lại. Trong những ngày quần chúng sôi nổi đấu tranh, Nguyễn Hữu Đang giả đò nằm im đau ốm nhưng một mặt chỉ đạo cho các phần tử Nhân văn không được tự phê bình. Và chỉ ít lâu sau, khi cuộc đấu tranh đã qua hắn lại nhổm dậy trong nhà xuất bản Minh Đức, ra loại "sách Tết", hòng tập hợp lực lượng và duy trì tinh thần những phần tử trong nhóm phá hoại. Hắn gắn chặt với tên Minh Đức như bóng với hình. Ngoài việc chia tiền lãi 20%, hắn còn dùng nhà xuất bản này để tập hợp lực lượng chống Đảng chống chế độ, và cố nhiên tên lái buôn văn hóa này đã cung đốn đủ các thứ rượu mùi, bơ sữa cho tên lưu manh chính trị Nguyễn Hữu Đang tha hồ trụy lạc và làm chuyện phản phúc.

Vừa viết bài công khai trên báo, hắn vừa đi tuyên truyền bằng miệng, gieo rắc mọi thứ luận điệu khiêu khích của bọn tờ-rốt-skít, truyền bá mọi thứ sách báo phản động, phóng ra đủ các thứ tin bịa đặt của đài phát thanh địch. Tất cả mọi luận điệu của hắn đều xoay quanh vào việc vu khống Đảng ta là "một hệ thống quan liêu" như bọn tờ-rốt-skít xưa nay vẫn thường vu khống. Hắn gọi hàng ngũ cán bộ Đảng ta là "giai cấp mới" y như luận điệu của tên phản bội Gi-lát ở Nam Tư. Hắn dùng hết lời chửi rủa Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và hít lấy rất nhanh những hơi thở thối độc mà bọn phản động quốc tế nhả ra. Hắn tung ra cái lý luận về thuyết phải "tiến hóa" (évolutionisme) chứ không thể "cách mạng" (révolution) được vì theo hắn, cách mạng thì phải đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt, còn tiến hóa thì loài người cứ theo luật tiến hóa tự nhiên rồi cũng đi dần đến mục đích. Đến đây bộ mặt cải lương bịp bợm của hắn đã hiện nguyên hình, hắn không che giấu nổi hy vọng hão huyền của tên địa chủ cường hào trước cuộc cách mạng ruộng đất. Nhưng "tiến hóa luận" chỉ là cái thuyết hắn đưa ra lừa bịp cách mạng mà thôi, còn đối với hắn và bè lũ, có cơ hội nào có thể chống cách mạng là hắn sẽ chống một cách quyết liệt không chịu điều hòa. Chính sau này khi có người hỏi hắn có ý nghĩ gì hiện nay sau khi Nhân văn bị đóng cửa thì hắn không ngần ngại trả lời: "Trước lúc chết, nếu tao có phải kiểm điểm thì tao chỉ kiểm điểm là tại sao hồi đó không làm mạnh hơn nữa mà thôi". Câu trả lời đó chứng tỏ đối vớỉ cách mạng, đối với Đảng và nhân dân ta, hắn đã tỏ rõ thái độ dứt khoát một còn một mất, hắn không hề tự che giấu là kẻ thù bẩn thỉu của nhân dân. Nhưng đến khi lớp học mở ra, các văn nghệ sĩ nô nức đến lớp, thì hắn vội vã đi tìm các phần tử Nhân văn - Giai phẩm để dặn họ: "Chỉ được nói các bài vở trong Nhân văn đều là do tập thể bàn bạc viết ra". Và một mặt khác làm ra vẻ bình tĩnh, hắn đi sắm hoa, viết thư vay tiền của cơ quan để "chữa bệnh". Nhưng thực chất là để che mắt mọi người để dễ bề hành động, vì cũng trong những ngày ấy, hắn đã liên lạc với những "người của hắn" để tìm cách phản bội Tổ quốc một lần cuối cùng.

Nhưng chậm lắm rồi. Một số phần tử Nhân văn - Giai phẩm sau khi học tập đã nhận rõ sai lầm tội lỗi của mình, tố cáo hết mọi âm mưu thủ đoạn phản cách mạng của hắn. Và mặc dù có nhiều thủ đoạn xảo quyệt, nhiều mánh lới nham hiểm của một tên khiêu khích chuyên nghề, hắn cũng không giấu nổi những hành vi phản dân phản nước. Ngày nay bộ mặt thực và tội ác của hắn đã bị bóc trần. Âm mưu của hắn đã bị phơi bày ra trước ánh sáng. Không phải chờ đợi những lời tố cáo của các phần tử Nhân văn-Giai phẩm, Đảng ta và nhân dân ta nhờ một tinh thần cảnh giác chính trị rất cao, sớm đã biết những hành vi tội ác của hắn. Nhân dân ta chỉ còn chờ ngày hắn cúi đầu nhận hết tội ác trước nhân dân cùng với những phần tử phản cách mạng đầu sỏ khác.

Nguyễn Hữu Đang, chẳng phải là "văn nghệ", chẳng phải là "trí thức", mà cũng chẳng phải là "cách mạng lâu năm" gì hết. Hắn chỉ là một tên khiêu khích gian ngoan và hiểm độc, đi vào cách mạng để tìm danh lợi địa vị. Bị thất thế về chính trị, hắn vội tìm cơ hội trong văn nghệ dù hắn biết rằng ở địa hạt này hắn chỉ là một tên bất học vô thuật, lộn sòng vào để kiếm chác. Nhưng rồi, công bất thành danh bất toại, hắn chỉ còn tìm một con đường thích hợp với hắn nhất: con đường phản cách mạng xấu xa và bẩn thỉu.

Nguồn: Văn nghệ, số 12 tháng 5 năm 1958 (Số đặc biệt thứ hai chống Nhân văn-Giai phẩm). Bản điện tử do talawas thực hiện.http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9256&amp;rb=0401
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân văn Giai phẩm - 03.03.2007 23:39:24
Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
 1   2   3   4   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   120121   122123   124125 
24.5.2002Trần Dầnjờ joạcx
Chính tả như một phương tiện nghệ thuật: Talawas xin giới thiệu một trích đoạn
jờ joạcx, một trong những tác phẩm then chốt của sự nghiệp thơ Trần Dần (di cảo, chưa xuất bản).
 jờ joạcx
thơ-tiểu thuyết một bè đệm


joạc jờ jêrô... vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng
tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹo
joạc jờ nào?
              sao cứ thun thút những
sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
                                    tôi biết
jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc
người đi.

hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày
                                        tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp
         một con nữ vận động viên
         ướt
         jượt
         toàn thân
         chạy joạch vòng mưa
         jòng jòng
         1 - 9 - 6 - 3 min mét nữ.

jờ jạchx nở jòn jọtx

                      chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx. tôi
gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx.

tôi lúc nhúc cả ngày tứ phía câu-đố-bé-tí. ẩn số hở
số những hạt cốc tách song song xe cộ. người. giờ.

tôi tòi.
         tôi cốc jâu tươi ướp đường chai bia xuôi vai
sẹo mát hạt mùa nực.
                     tôi chiếc ôtô mui sinh vật-4-chân
bon trong khi jàn jạt sẹo-2-chân nam nữ
joạc bộ hành.
             tôi quần không slip nữ sẹo jọc vườn
hoa kể cả chiếc nữ đồng hồ đeo tay là hạt sẹo
joạc jờ
      nhưng làm jì có thì jờ chỉ có ngày đêm
là sẹo nghỉ ngoài jờ.

tôi từ chức tiến sĩ. phó bác sĩ. sử kí. chân lí. thẩm mĩ.

thi sĩ.

jạch khi truồng mưa lèo lẹo bầu phùn. tôi
không thi hơi nữa với thằng Tìm. vạ jì cởi
trần đăm đắp cộm người 1- 9- 6- 3 nốt sẹo-
mùn-mưa?

            tôi cụt jủn là thằng Tòi.
tôi tòi ja từ cái cống hở vũ trụ nở sẹo khóc
ja ja nhà sẹo hộ sinh
            tôi iêu những chiếc nữ mayô
jính ngấn. capôt nữ. jụng cụ nữ buồng jờ.

toàn thân tôi là một chiếc sinh thực khí jứt
thánh bỏ trí của tất cả nam nữ.
                            tôi thường trực
jục cưới jao cấu phố. buồng. đường. người.
ngày. mùa.

            tôi thíc những cái tòi -
                            tòi tí quần lót
thịt tí nịt ngủ tí sẹo đèn hàn hạt
                            tí câu-đố-bé-tí
chẳng hạn jải jic phố sẹo mưa mùn phùn tí
nữ bộ hành joạc đùi ươn ướt tí...
                            tí tăc xi tòi
sẹo cửa kính jạch
            tí nữ điện thoại jọc vành tai tí
mắt Mông cổ lao sẹo xếchx của nhìn.
                             tí bồn tắm nữ
tòi ja ngoài vòng tròn jờ.

________________________________________________

Mời quý vị và các bạn tìm đọc: Trần Dần, Ghi 1954-1960, nxb td mémoire, Paris, 2001, Văn Nghệ phát hành (vannghe@pacbell.net).

Nguồn: Trần Dần, Ghi 1954-1960, nxb td mémoire, Paris, 2001, Văn Nghệ phát hành (vannghe@pacbell.nethttp://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=50&rb=
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân văn Giai phẩm - 09.03.2007 01:59:00
 
 
 
Nhà thơ Hoàng Cầm nói về sự ra đi của ông Nguyễn Hữu Đang
 
 
 
Nhà thơ Hoàng Cầm: Ông Nguyễn Hữu Đang là một người tham gia cách mạng rất sớm, từ hồi còn trẻ.
Ông ấy làm việc gì cũng rất..., tôi dùng hai chữ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nói, ông Đang là một con người "hùng hổ - kiên quyết". Tính cách của ông Đang lúc làm việc thời trẻ cũng thế làm việc gì cũng rất tận tụy và kiên quyết lắm, đấy là một trong những tính cách mà tôi nhận định về ông ấy.

Tôi với ông Nguyễn Hữu Đang trong thời kỳ Nhân Văn (những năm 50 thế kỷ trước) mới chỉ cộng tác thôi, chứ chưa phải thân gì cả, chúng tôi có cùng ý nghĩ để cùng nhau ra tờ báo Nhân Văn, lúc đầu chỉ vậy thôi chứ gọi là thân mật thì chưa. Sau khi Nhân Văn đóng cửa tôi với ông ấy cũng xa nhau luôn, xa đến gần 20 năm.

Sau đó có một thời gian ông ấy lên Hà Nội ở, các đây độ mươi mười lăm năm ông ấy lên ở hẳn trên Hà Nội, dù là ở một mình nhưng ông ấy rất yêu đời và thường đạp xe đạp đi chơi với các bạn ở dưới phố. Ông ở trên khu chợ Bưởi ngày nào cũng đạp xe xuống phố, xuống Hà Nội rồi lại đạp xe về.

Mỗi ngày ông ấy đạp xe chừng 30 cây số nên ông ấy rất khỏe. Kể cả khi lên Hà Nội ở rồi ông ấy cũng chẳng nghĩ đến chuyện lập gia đình lấy vợ có con gì nữa cả. Gần 15 năm cuối đời tôi lại gần ông ấy nhiều hơn và luôn thấy ông ấy yêu đời, lạc quan, không thấy ông ấy nghĩ nhiều về thời sự chính trị, không thấy ông ấy nói bao giờ, thậm chí có gợi ra đi nữa thì ông ấy chỉ nói qua qua chút rồi lảng sang chuyện khác, thì đấy là cái mà tôi nhận xét rõ ràng trong thời ký cuối đời trong khoảng 15 năm trước khi ông ấy mất.

Việt Hùng: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, lần cuối cùng nhà thơ gặp cụ Nguyễn Hữu Đang là vào thời gian nào?



Ông Nguyễn Hữu Đang là một người tham gia cách mạng rất sớm, từ hồi còn trẻ. Ông ấy làm việc gì cũng rất..., tôi dùng hai chữ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nói, ông Đang là một con người "hùng hổ - kiên quyết".

Nhà thơ Hoàng Cầm

Nhà thơ Hoàng Cầm: Khi mà ông ấy mệt, ốm nằm liệt giường cách đây độ hơn 2 năm, ông ấy mệt lắm, nằm liệt giường không đi lại được nữa.

Cách đây độ 1 tháng, trước khi ông mất có người cháu gọi ông Nguyễn Hữu Đang bằng bác ruột (nuôi ông ấy từ ngày ông ấy lên Hà Nội sống) có đến gặp tôi và mời tôi lên gặp ông Đang, anh cháu nói cũng rất cảm động "thôi thì biết là các bác là bạn cũ với nhau, bây giờ bác cháu sắp sửa đi rồi, già yếu lắm rồi, nên bây giờ chúng tôi tổ chức để mời bác lên chơi gặp bác cháu để nhìn nhau, hay để nói với nhau điều gì, hay làm điều gì đó cho nhau lần cuối cùng... thế thì tôi và anh Lê Đạt (nhà thơ) cũng lên thăm, gặp ông ấy.

Khi chúng tôi lên, thực sự ông Nguyễn Hữu Đang chỉ nằm không nói được điều gì, ông Đang có mở mắt ra và có biết là chúng tôi đến, có biết là chỉ hơi gật gật thôi, chúng tôi cũng ở chơi một lúc rồi chúng tôi về và đấy là lần gặp cuối cùng với ông ấy cách đây độ 1 tháng.

Việt Hùng: Trong cuốn Hồi ký của nhà thơ Phùng Quán khi nói về ông Nguyễn Hữu Đang nhà thơ Phùng Quán có viết "trên thế gian này không biết có còn ai cô đơn như ông Nguyễn Hữu Đang", phải chăng điều nhà thơ Phùng Quán thốt lên như vậy có thể hiểu như thế nào?
 
Nhà thơ Hoàng Cầm: Anh Phùng Quán viết như thế rất thực tế và rất đúng đấy! Anh Đang không có gia đình trong khi bạn bè cũng muốn giúp cho anh ấy lập gia đình nhưng anh ấy không nghe, có người rồi, người ta cũng đã đồng ý rồi nhưng anh ấy không nghe và rồi sau thôi. Ông Phùng Quán ông ấy muốn nói là như vậy, cả đời sống cô đơn, tức là ông Nguyễn Hữu Đang sống cô đơn cả đời không vợ con gì cả.

Việt Hùng: Một khoảng thời gian dài cụ Nguyễn Hữu Đang sống ẩn dật tại miền quê Thái Bình, thậm chí phải trải qua những thời kỳ "thăng trầm" và trong một lần ghé thăm nhà thơ Phùng Quán có viết, điều băn khoăn nhất của cụ Nguyễn Hữu Đang là đến lúc nhắm mắt xuôi tay không biết sẽ chết ở đâu...
 
Nhà thơ Hoàng Cầm: Có, lúc bấy giờ ông ấy về Thái Bình ở ẩn, ở đến gần 20 năm, trong thời gia trước trong số những anh em Nhân Văn còn lại thì có ông Phùng Quán đã về đến tận Thái Bình thăm ông Nguyễn Hữu Đang. Ông Phùng Quán có viết và đã được in rồi, cuốn đó đầu đề là: 3 phút sự thật, trong đó Phùng Quán có viết những chuyện chung quanh ông Nguyễn Hữu Đang.
Trong đó nhà thơ Phùng Quán đặc biệt tả về hoàn cảnh của ông Đang rất yêu đời, đời sống rất khổ cực, tằn tiện nhưng rất chu đáo với bạn khi về thăm có cái gì ăn cái đó. Ông Phùng Quán tả ra thì thấy đó là những cái ông Đang ông ấy tiết kiệm được, thí dụ như con tép, con tôm hay nồi cá kho...,
Ông ấy rất cẩn thận và chu đáo những chuyện đó, nhà văn Phùng Quán có tả những cái đó, thế nhưng mà cuối cùng Phùng Quán cũng phải nói "ở trên đời này tìm được một nhà văn bình thường thì quá dễ, nhưng ở đây ông Nguyễn Hữu Đang không phải là nhà văn, anh em văn nghệ ở Hà Nội thường coi ông ấy là nhà báo, hoặc là một người hoạt động chính trị.



Trước Cách mạng tháng 8 ông Nguyễn Hữu Đang là người làm việc truyền bá Quốc ngữ. Lúc bấy giời ông Nguyễn Hữu Đang tìm ra được một người rất có uy tín đứng đầu Phong trào truyền bá Quốc Ngữ đó là cụ Nguyễn Văn Tố, một nhân sĩ, trí thức có uy tín, danh tiếng trong quần chúng.

Nhà thơ Hoàng Cầm

Trước Cách mạng tháng 8 ông Nguyễn Hữu Đang là người làm việc truyền bá Quốc ngữ. Lúc bấy giời ông Nguyễn Hữu Đang tìm ra được một người rất có uy tín đứng đầu Phong trào truyền bá Quốc Ngữ đó là cụ Nguyễn Văn Tố, một nhân sĩ, trí thức có uy tín, danh tiếng trong quần chúng.
Chính ông Đang đã đưa cụ Nguyễn Văn Tố ra làm Chủ tịch Hội Truyền bá Quốc ngữ thế cho nên cảm tưởng của mọi anh em đều nghĩ rằng, sao ông Đang ông ấy giỏi đến như thế mà sao cuộc đời nghiệt ngã, cô độc đến như thế mà rồi ông ấy vẫn rất "vui vẻ", đấy là điều mà anh em rất quí ông ấy.
Anh em quí về ý chí của ông ấy trong khi đời sống thì cô đơn như thế. Đến bây giờ khi ông ấy vừa qua đời rồi nhưng anh em luôn vẫn rất kính phục một con người như thế mà vẫn say sưa, đàng hoàng, được lòng mọi người, anh em...

Việt Hùng: Cụ Nguyễn Hữu Đang trong cuộc đời dù là không để lại cho hậu thế những tác phẩm, phải chăng nhà thơ có biết được những tác phẩm, những áng văn, hay những bài thơ, hay những bài phân tích lý luận của cụ Nguyễn Hữu Đang?
 
Nhà thơ Hoàng Cầm: Cái thời Truyền bá Quốc ngữ và gia đoạn đầu cuộc cách mạng ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Bộ trưởng không Bộ của Chính phủ Lâm thời, lúc bấy giờ thì tôi cũng chưa thân gì, biết là ông ấy có tác phẩm đấy nhưng mà cũng không chú ý, thành ra bây giờ cũng tiếc là không được đọc cái gì của ông ấy, tôi chỉ được đọc mấy bài báo của ông ấy thôi.

Việt Hùng: Một lời trước khi chia tay, để nói về sự ra đi của cụ Nguyễn Hữu Đang, thưa nhà thơ Hoàng Cầm, nhà thơ sẽ chia sẻ điều gì?
 
Nhà thơ Nguyễn Hữu Đang: Tôi với ông ấy cũng có cộng tác với nhau trong một khoảng thời gian đấy, thế nhưng tình cảm cũng chưa thể gọi là bạn hữu đâu, chỉ là như một người quen biết và cũng có lúc thân mật.

Vì cũng xa cách nhiều nhưng cuối cùng ông ấy cũng để lại cho bạn hữu và con cháu một cái đức tính rất tốt đó là ý chí bất cứ làm một việc gì dù lớn hay nhỏ thì ông ấy đều có một ý chí mạnh mẽ và say sưa làm việc thì đấy là cảm tưởng chung của rất nhiều người và cái đó là rất đáng quí mặc dù sống cô đơn như thế nhưng ông ấy vẫn bình tĩnh, làm việc gì cũng rất say sưa và cho đến lúc già cũng thế...
Tôi tin là ông ấy có thể là có Hồi ký hay một cái gì đó, có thể là có..., nhưng tôi cũng không được biết cái đó.

Việt Hùng: Xin được đa tạ nhà thơ Hoàng Cầm.



Những bài liên quan
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2007 02:01:08 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
RE: Nhân văn Giai phẩm - 10.03.2007 23:29:54
Hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm
Thụy Khuê
 

Nhân văn giai phẩm là phong trào đòi hỏi tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức VN có tầm vóc lớn trong thế kỷ nàỵ Phong trào đã bị dập tắt từ hơn 30 năm nay, nhưng ảnh hưởng và hệ quả đối với đời sống văn hoá và chính trị ở VN vãn còn kéo dài tới ngày naỵ Hôm nay, 38 năm sau, mở lại hồ sơ NVGP, chúng tôi nghĩ rằng không sớm mà cũng chưa muộn.
 
Theo phát biểu mới đây cuả nhà thơ Lê Ðạt trên RFI thì NVGP là cố gắng nghiêm túc đầu tiên của văn nghệ sĩ để đối thoại với nhà nước. Tiếc rằng cuộc đối thoại đã chấm dứt một cách bi kịch. Cuộc đối thoại này khởi nguồn từ đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng Sáu năm 1958 với lao tù và cải tạo.
 
Ðầu năm 58, có 2 hội nghị quan trọng của những người làm công tác văn nghệ. Hội nghị đầu, tháng Hai năm 1958 gồm có 172 người tham dự, Hội nghị sau vào tháng Ba năm 1958 có 304 người tham dự với mục đích chính thức là: nghiên cứu Nghị quyết cuả bộ Chính Trị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Ðộng VN, kết hợp với 2 bản tuyên ngôn và tuyên bố của Hội nghị các đảng Cộng sản và các đảng Công nhân, họp tại Mạc Tư Khoa cuối năm 1957.
 
Qua 2 hội nghị trên đây, những người dính líu đến phong trào NVGP bị phát hiện, bị tố giác. Một danh sách nhiều tên tuổi được thành hình, dường như sắp theo thứ tự từ tên đầu sỏ từ trong nguyên văn trở đi: Thụy An, Nguyễn Hữu Ðan, Trần Thiếu Mão, Trương Tửu, Trầu Ðức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Trần Dần, Lê Ðạt, Từ Phát, Ðặng Ðình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Ðắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Ðại Thanh, v.v ... và v.v ...
 
Vẫn theo ngôn ngữ chính thống thì "trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" đã kết thúc bằng hội nghị của ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật VN, họp lần thứ 3 tại Hà Nội ngày 4-6-1958 với báo cáo tổng kết của Tố Hữu, và nghị quyết của ban chấp hành hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật lên án nhóm NVGP. Ngày 5-6-1958 tại Hà Nội, hơn 800 văn nghệ sĩ thảo bàn nghị quyết gọi là "Nghị quyết cuả 800 văn nghệ sĩ" phụ hoạ với nghị quyết cuả hội Liên hiệp. Sau đó trong tuần lễ từ 21-6 cho đến mùng 3-7-1958, lần lượt các ban chấp hành hội Nhạc sĩ, hội Mỹ thuật, hội Nhà văn hùa nhau thi hành biện pháp kỷ luật đối với các thành viên của hội có chân trong phong trào NVGP: hội Nhà văn khai trừ Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh khỏi ban chấp hành, hội Mỹ thuật cảnh cáo Sĩ Ngọc, chấp nhận Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng rút khỏi ban chấp hành, hội Nhạc sĩ chấp nhận Văn Cao, Nguyễn văn Tý rút khỏi ban chấp hành và cả 3 hội nghị quyết định khai trừ Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An ra khỏi hội Nhà văn, Trần Duy ra khỏi hội Mỹ thuật, khai trừ trong thời hạn 3 năm Trần Dần, Lê Ðạt khỏi Hội nhà văn, Từ Phát, Ðặng Ðình Hưng ra khỏi hội Nhạc sĩ Sáng tác và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm NVGP.
 
Những điều chúng tôi vừa trình bày trên đây rút ra từ quyển sách dầy 370 trang tựa đề "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" do nhà xuất bản Sự Thật phát hành tại Hà Nội năm 1959, ở đây chúng tôi xin gọi tắt là tài liệu cuả nhà Sự Thật.
 
Tập tài liệu này tập hợp những nghị quyết của các buổi họp, "những lời thú tội", nhóm từ trong nguyên văn, của những thành viên trong NVGP. Những bài viết lên án và mạ lỵ phong trào NVGP cuả 83 văn nghệ sĩ, cùng những lời buộc tội khiếm nhã cuả các đoàn thể và báo chí của nhân dân, quần chúng cũng như của các vị trong ban Chấp hành Trung ương Ðảng.
 
Nhưng cũng nhờ vào tập tài liệu của nhà xuất bản Sự Thật này và những bài viết đả kích Lê Ðạt và Văn Cao in trong tập tiểu luận "Dao có mài mới sắc" của Xuân Diệu và cuốn sách "Trăm hoa đua nở trên Ðất Bắc" của Hoàng văn Chí mà ngày nay chúng ta có thể biết rõ hơn về tổ chức và hình thức tranh đấu kéo dài của nhóm NVGP trong những năm 55, 56, 57 và 58.
 
Rời Hà Nội đầu năm 1955, trong 2 năm từ 56 đến 58, Hoàng văn Chí thu thập tài liệu nhờ 1 người bạn làm việc ở ủy ban Kiểm soát Ðình chiến đem báo chí từ Bắc vào Nam. Tập "Trăm hoa đua nở trên đất Bắc" xuất bản tháng giêng năm 1959 tại miền Nam qui tụ phần lớn những tác phẩm tiêu biểu, xuất hiện trong thời kỳ NVGP với tiểu sử tác giả. Nhờ đó mà độc giả miền Nam nhiều người thuộc lòng thơ cuả Trần Dần, Phùng Quán từ hơn 30 năm nay.
 
Phong trào NVGP manh nha từ đầu năm 1955. Trong quân đội Trần Dần, Lê Ðạt, Từ Phát, Hoàng Cầm đã bắt đâù phản đối đảng bằng 2 con đường: một mặt lên tiếng phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu; một mặt đòi thứ nhất trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thứ hai thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, thứ ba thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội, thứ tư thành lập trong quân đội một Chi hội Văn nghệ trực thuộc hội Văn nghệ, không qua cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị. Theo lời buộc tội cuả Tố Hữu, tài liệu cuả nhà Sự Thật trang 24.
 
Cùng lúc đó, báo Nói Thật cuả Hoàng Công Khanh trích đăng bài "Sự Chia tay giữa văn nghệ và chính trị" của Lỗ Tấn.
 
Ðến tháng 6 năm 1956 văn nghệ sĩ mới thực sự chống đối công khaị Giai phẩm mùa Xuân ra đời do Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sĩ Ngọc, Từ Phát, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Tô Vũ lập chủ biên. Ngoài những bài đả kích lãnh đạo văn nghệ của đảng còn có bài "Nhất định thắng" của Trần Dần. Giai phẩm muà Xuân bị tịch thu ngay tức khắc. Trần Dần bị bắt. Trong tập tài liệu của nhà Sự Thật, Hồng Cương xác nhận rằng "Nhân cơ hội đó, tất cả các lực lượng đối lập với chủ nghĩa xã hội đều ngóc đầu dậy chống lại sự lãnh đạo cuả đảng và chính phủ. Bọn phản động trong Công giáo hành động phá rối trật tự ở Nghệ An, Nam Ðịnh, v.v ..."
 
Ba tháng sau đảng phát động chính sách sửa sai. Lợi dụng thời cơ, văn nghệ sĩ cho ra đời Giai phẩm muà Thu, tập một ngày 29-8-1956 với bài Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ của Phan Khôi. Ngày 15-9-1956, bán nguyệt san Nhân Văn số 1 ra đời và cuối tháng 10 năm 1956, ở đại học, các giáo sư Trương Tửu, Trần Ðức Thảo huy động sinh viên cho ra tờ Ðất Mới với Phùng Quán, Bùi Quang Ðoài. Ðất Mới ra được một số thì bị đình bản. Cuối tháng 11 năm 1956, đảng hạ lệnh đóng cửa tờ Nhân Văn và Nhân Văn số 6 bị tịch thu. Sắc lệnh ngày 15-12-56 được ban hành cấm tự do báo chí trừ những báo của đảng, chấm dứt số phận những tờ Giai Phẩm, Trăm Hoa, Ðất Mới. Ðảng cho ra tuần báo Văn thay thế với Nguyên Công Hoan, Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng. Chẳng bao lâu, báo Văn cũng lại đổi thái độ, bỏ bớt những bài ca tụng, thêm dần những bài chỉ trích. Những cây bút cũ của Nhân Văn giai phẩm lại thấy xuất hiện trên báo Văn. Sau khi báo Văn số 36 ra ngày 10-1-58 đăng bài Ông Năm Chuột cuả Phan Khôi thì Văn bị đình bản hẳn, chấm dứt phong trào Nhân văn giai phẩm.
 
Về hoạt động cuả phong trào, theo lời buộc tội cuả Tố Hữu, sự phân phối công tác được chia ra như sau: Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm hoạt động hội Nhà văn.; Trần Duy, Sĩ Ngọc, Nguyễn Sáng ở hội Mỹ thuật; Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở hội Nghệ sĩ Sân khấu; Từ Phát, Văn Cao, Nguyễn văn Tý, Ðặng đình Hưng ở hội Âm nhạc; Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Ðức Thảo là những nhà tư tưởng của phong trào; Thụy An, Nguyễn Hữu Ðang liên lạc, huy động và khuyến khích anh em; Trần Thiếu Bảo, chủ nhà in Minh Ðức, in các giai phẩm, giúp đỡ tiền bạc và phương tiện để phát hành báo Nhân Văn. Nhà in Minh Ðức còn là trụ sở cuả các cuộc họp báo Nhân văn và Ðất Mới.
 
 
Theo lời buộc tội của Nguyễn Ðình Thi thì chủ trương của nhóm NVGP dưạ trên 6 điểm:
 
Thứ nhất cho chủ nghĩa Cộng sản là "không nhân văn, là chà đạp con người, coi những người cộng sản là những người khổng lồ không tim", Trần Duy. Văn học xã hội chủ nghĩa là "công thức giả tạo đẻ ra những thi sĩ máy", Như Mai. Ðòi quyền tự do cá nhân, tự do sống đời sống tình cảm riêng tư của mõi con người "Ðem buộc công an máy móc đặt giữa tim người, Bắt tình cảm ngược xuôi theo luật đi đường nhà nước", thơ Lê Ðạt.
 
Ðiểm thứ nhì phản đối chuyên chính, đòi dân chủ tự do trên mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá; đả kích mậu dịch, quản lý hộ khẩu, các bộ máy nhà nước đòi tự do đối lập.
 
Ðiểm thứ ba chống sùng bái cá nhân, cho sự lãnh đạo của đảng là đảng trị, là độc đoán, mâu thuãn với quyền lợi căn bản của con người. Trong bài Ông Bình Vôi cuả Lê Ðạt có những câu:
 
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi, càng sống càng tồiCàng sống càng bé lại.  Ðiểm thứ tư đề cao chủ nghĩa quốc gia tư sản, đả kích Liên sô, cho sự giáo dục con người ở Liên sô là rập khuôn, văn học nghệ thuật Liên sô là công chức.
 
Ðiểm thứ năm chống chính sách cải cách ruộng đất. Ngày 30-10-56 trước Mặt trận Tổ quốc Hà Nội, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn quan trọng tựa đề "Qua những sai lâm` trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo". Nguyễn Mạnh Tường phân tích những sai lầm của chế độ đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, đến chính sách kinh tế có tính cách bóc lột. Ông truy nguyên nguồn gốc các sai lầm và trình bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị, văn học, kinh tế.
 
Ðiểm thứ sáu và là điểm sau cùng, về văn nghệ NVGP chủ trương phát triển "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng", chối bỏ sự lãnh đạo của đảng, nêu cao khẩu hiệu trả lại văn nghệ cho văn nghệ sĩ, nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo 1 lối với mình thì rồi đến một ngày kia, "hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".
 
 
Những thành viên của phong trào NVGP nhiều người đã khuất và thế hệ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về cuộc sống cuả họ. Nhưng ký ức văn học may mắn không bị thời gian lôi cuốn đi, nhờ đó mà số phận của các tác giả dù có trải những đoạn trường, văn bản của họ vẫn sống, vẫn được người đời đọc lại và viết lại.
Thụy An, trong vụ án NVGP tên bà được nêu lên hàng đầu với cái tựa "Con phù thủy xảo quyệt" cùng bản cáo trạng nặng nề và độc ác nhất dành cho bà. Thụy An là ai Thụy An tên thật là Lưu thị Yến, trong địa hạt tiểu thuyết, bà là nhà văn phụ nữ đi tiên phong với cuốn "Một linh hồn". Thụy An đã cộng tác với báo Phụ Nữ Tân Văn và là chủ nhiệm các báo Ðàn Bà Mới ở Sài Gòn và Ðàn Bà ở Hà Nội. Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà Thụy An đã từng giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xã. Cuối năm 53, Thụy An liên lạc với Hồ Hữu Tường, cổ động cho báo Ðông Phương và Thuyết Trung Lập Chi.
 
Về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồn của Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc An nhận định trong tờ Nhà Văn Hiện Ðại như sau: Một Linh Hồn chính là một tiểu thuyết tình cảm, tác giả Thụy An lại vốn là một nhà thơ, Hàn Mạc Tử đã đem vào thi ca VN lòng tin tưởng ở đạo Gia Tô với một giọng say sưa đầm ấm, Thụy An đã xây dựng cho tiểu thuyết của bà, có những nhân vật tin cậy ở Ðấng Cứu Thế, ở Ðức Mẹ Ðồng Trinh và sản lòng nhịn nhục hy sinh. Hãy đọc bà diễn tả những sự tin tưởng êm đẹp cuả người con gái dòng Thức Ðường: "Trên bàn thờ Chuá và những bàn thờ nhỏ chung quanh, vài ngọn nến le lói trong bóng nửa tối nửa sáng. Ánh nến dập dờn làm linh động những pho tượng, những bức tranh. Mặt Ðức Bà như càng lúc càng rầu rĩ thêm và cứ dần dần sát xuống mặt Vân, và 2 bàn tay mềm dẽo của người thường chắp lại nay từ từ rời ra và đang xoa trên cái trán rạo rực nóng bừng của Vân. Vân tưởng hít thấy cái hơi thở thiêng liêng của người và nghe người thì thào như một cơn gió: "Hỡi con, hãy đem nỗi đau khổ gởi vào lòng ta đây". Vân ngã hẳn đầu, tựa vào bức tường mà bấy giờ Vân mơ màng thấy ấm ấm như tựa vào ngực Ðức Bà."
 
Một câu chuyện bắt đầu giữa nguồn an ủi muôn năm và nỗi đớn đau cực điểm, và Vũ Ngọc Phan kết luận: Một Linh Hồn đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắt nhất cuả phụ nữ VN từ trước đến nay, tác giả đã giầu tưởng tượng, truyện lại xây dựng 1 cách vững vàng, chắc chắn.
 
Thời kỳ NVGP, theo lời khuyên cuả Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An không lộ mặt trên báo, tuy vậy tập tài liệu của nhà xuất bản Sự Thật có nói đến 2 bài viết cuả bà tựa đề "Bích Xu Va" và "Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm". Thụy An thường ra vào hội nhà văn, mạt sát chế độ bần cùng hoá nhân dân và Thụy An liên lạc, nâng đỡ tinh thần, giúp đỡ quần áo, tiền bạc cho văn nghệ sĩ. Thụy An có 1 ảnh hưởng lớn đối với họ. Trong bản tự kiểm thảo, Lê Ðạt viết về Thụy An: Mỗi lần ở nhà Thụy An ra, là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán đảng thêm và chán nản thêm, lòng tin tưởng vào đảng của tôi mất dần khi Thụy An nói đến những con người không đất đứng và tôi cũng tự hỏi đất đứng của mình ở đâu. Không chịu đi chỉnh huấn, Thụy An bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội .
 
Người được nêu tên hàng thứ nhì trong vụ án NVGP ngay sau Thụy An là Nguyễn Hữu Ðang với cái tựa "Tên quân sư quạt mo" với lời buộc tội nặng nề và thô thiển. Nguyễn Hữu Ðang quê quán ở Thái Bình, ông tham gia những phong trào ái quốc rất sớm. Trước năm 1942, ông hoạt động trong phong trào truyền bá Quốc ngữ. Năm 1942, ông tham gia Văn hoá cứu quốc, ngay từ 1945, Nguyễn Hữu Ðang đã liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo, sau này là chủ nhà xuất bản Minh Ðức.
 
Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Nguyễn Hữu Ðang tổ chức Thanh Niên Xung phong và sau đó làm thanh tra bình dân học vụ. Ðến năm 1947, Nguyễn Hữu Ðang mới chính thức vào đảng. Năm 1951, ông ly khai đảng và từ đó khi ở Cầu gỗ, khi ở Hậu hiền, ông lên tiếng đả kích đường lối của đảng.
 
Theo lời buộc tội cuả Mạnh Phú Tư thì Nguyễn Hữu Ðang là linh hồn cuả tờ Nhân Văn, ông tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần viết về Nguyễn Hữu Ðang: nếu không có Ðang, không ai có thể tập họp anh em được, sẽ không có tham luận những đề nghị gặp trung ương ra báo mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn. Nguyễn Hữu Ðang chủ trương tranh đấu triệt để và trực tiếp. Nhân lớp học 18 ngày do hội Văn Nghệ tổ chức, ông đọc 1 bản tham luận nẩy lửa nhằm đả kích đường lối văn nghệ lãnh đạo của đảng. Nguyễn Hữu Ðang không chịu đi chỉnh huấn bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội.
 
Trần Thiếu Bảo xuất thân trong 1 gia đình giàu có ở Thái Bình. Trần Thiếu Bảo mở hiệu sách Minh Ðức sau trở thành nhà xuất bản, trước ở Thái Bình đến năm 1954 dời về phố Phan Bội Châu, Hà nộị Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và ông có tiếng là mạnh thường quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Ðang, Trương Tửu, ông tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng khi ấy Vũ Trọng Phụng chưa được vinh thăng như bây giờ. Nhà xuất bản Minh Ðức lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ để tái bản những sách cuả Tự Lực Văn Ðoàn như Tiêu Sơn Tráng Sĩ, v.v ... Nhà xuất bản Minh Ðức cũng là trụ sở các cuộc hội họp báo Nhân văn, in giai phẩm Ðất Mới. Trần Thiếu Bảo xuất tiền bạc giúp phương tiện in ấn và phát hành.
 
Ba giáo sư đại học đã tham gia phong trào NVGP là Trương Tửu, Trần Ðức Thảo và Ðào Duy Anh. Cả ba đều bị cất chức và bị quản thúc gần như suốt đời .
 
Trương Tửu là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Trương Tửu bước vào làng văn với loạt bài phê bình những tác phẩm cuả Tự Lực Văn Ðoàn trên báo Loa, Hà Nội năm 1935. Ông còn là tác giả của những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hội. Khi mặt trận dân chủ của Việt Minh bắt đầu phát động, ông đã viết bài đả kích mặt trận trên các báo Quốc gia và Thời thế.
 
Trương Tửu tuyên bố "Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập cuả trí thức". Cùng với Nguyễn Ðức Tùng ông thành lập nhóm Hàn Thuyên. Nhóm Hàn Thuyên theo chủ trương cộng sản đệ tứ in những sách của Lương đức Thiệp, Thái văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Lý Hải Âu và các sách của Nguyễn Bách Khoa, tức Trương Tửu như "Nguyễn Du và Truyện Kiều", "Hai bà Trưng". Ngày mùng 10-9-45, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương Lai Văn Nghệ Việt Nam, trong đó ông nhắc đến cái hôm nay đen tối và chật hẹp, và mượn lời André Gide khuyên các văn nghệ sĩ hãy gieo rắt vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng. Tuy vậy, khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng đi theo trào lưu trong 9 năm trời.
 
Về hoạt động của Trương Tửu trong thời kỳ NVGP, Hoài Thanh tố cáo: "Trong 3 tập giai phẩm liên tiếp, nó tức là Trương Tửu đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất Mác XiÓt, tính chất vô sản của đảng" và Bằng Sĩ Nguyên viết: "Tửu đã nói gì khi giảng dạy ? Tửu đã vu khống đảng là hiện tượng tha hoá, trường đại học có đảng trị, có đảng cụ thể và đảng trừu tượng. Cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có 1 đảng mới. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo của đảng, cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của đảng trong bài học. Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng để nói rằng không có đảng lãnh đạo, nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn đảng, cố vấn cho đảng phát hiện vấn đề cho đảng biết.
 
Trần Ðức Thảo nổi tiếng về tài học, đỗ đầu vào trường Normale Superieur ở Pháp năm 1936, thạc sĩ triết học. Trong thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với Jean Paul Sartre tham gia nhóm Les temps modernes. Sau này ông kiện Sartre về 1 cuốn sách viết chung mà Sartre lại không muốn xuất bản.
 
Những năm 44, 45 ông hoạt động cho hội Việt kiều theo lời buộc tội của Phạm Huy Thông. Khi phái đoàn Việt minh đồng chiếu hộ sang Pháp năm 1946, Trần Ðức Thảo đả kịch phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng cộng sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Ðức Thảo chống lại hiệp ước sâu bọ 6-3-1946. Năm 1949, tại đại hội hòa bình thế giới ở Paris, Trần Ðức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Sô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc địa
 
Năm 1951, Trần Ðức Thảo về nước và năm 56, tham gia phong trào NVGP. Sau khi Nhân văn bị cấm, Trần Ðức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài "Nội Dung Xã Hội và Hình thức tự do" đăng trong giai phẩm muà đông, tập 1, năm 1956 lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài "Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ" đăng trên Nhân văn số 3 tháng 10-56 được coi như một đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Ðức Thảo viết: "Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạo. Cái tự do đó là quyền của người công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ ta. Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn.
 
Người trí thức hoạt động văn hoá cần tự do như khí trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản bây giờ đến bắt đầu trở thành 1 thực tế lịch sử ở Liên Sô", ký tên Trần Ðức Thảo.
 
Học giả Ðào Duy Anh đóng góp tiếng nói cuả mình trong Giai phẩm muà Thu tập 3 năm 1956 với bài "Muốn phát triển học thuật", nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: "Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh 2 hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta vô luận bàn về vấn đề gì cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Angel va Lenin, hoặc những ý kiến của Stalin hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài nhưng công thức cũ, những khuôn khổ sản có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu "cải biến chủ nghĩa" chẳng hạn để bịt mồm, bịt miệng người khác.
 
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được, mặc dầu không ai cấm tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận 1 vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Ðối với những người ấy công tác học thuật trở thành trò xiếc leo giây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho người làm xiếc.
 
Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật.
 
Trần Dần là 1 trường hợp đặc biệt quả cảm, bất phục tòng và đã chịu sự trù dập nặng nề nhất. Hăng say theo kháng chiến thời kỳ Ðiện Biên, Trần Dần viết: "người người lớp lớp". Năm 54 yêu 1 người con gái thuộc thành phần tiểu tư sản ở phố Sinh Từ, gia đình đã di cư vào Nam. Bất chấp sự ngăn cấm cuả đảng, Trần Dần vẫn kết hôn với người yêu. Ðầu năm 1955 cùng với Hoàng Cầm, Lê Ðạt, Từ Phát chủ trương việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và phản đối chính sách cai trị văn nghệ trong quân đội. Trần Dần bị kiểm thảo và bị bắt giam. Giai phẩm muà Xuân ra đời vào tháng 3 năm 1956 in bài Ông Bình Vôi cuả Lê Ðạt, "Cái chổi quét rác rưởi" cuả Phùng Quán và bài thơ Nhất Ðịnh Thắng cuả Trần Dần. Ðây là bài trường ca tha thiết và u uẩn về số phận cuả đất nước và con người, nói lên cái hận chia đôi đất nước:
 
Trời vẫn quần muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi Nói đến cảnh đói rét thê thảm cuả quê hương, Trần Dần viết:
Trời mưa to lụt cả gian nhà,

Ôm tất cả che mưa cản gió,
Con chó mực nghe mưa là nó rú,
Tiếng nó lâu nay như khản em ạ. Và sự hoài nghi cuả con người trước tương lai:
Ôi xưa nay Người vẫn thiếu tin Người

Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai  Giai phẩm muà Xuân bị tịch thu, Trần Dần bị kiểm thảo nặng nề và bị bắt giam vào hoả lò Hà Nội. Trần Dần lấy dao cứa cổ tự vận nhưng không chết. Mấy tháng sau, đảng phát động phong trào sửa sai, Giai phẩm muà Thu và Nhân Văn số 1 ra đời, Phan Khôi viết bài Phê Bình Lãnh Ðạo Văn Nghệ, binh vực Trần Dần. Trong Nhân Văn số 1, ngoài bức chân dung cuả Trần Dần do Nguyễn Sáng vẽ, với vết sẹo ở cổ, còn có bài viết tha thiết của Hoàng Cầm về con người Trần Dần. Ðảng xét lại trường hợp của Trần Dần, Trần Dần được thả và hội Văn nghệ phải viết bài tự kiểm thảo đăng trên các báo. Ðến cuối năm 57, báo Văn in bài Hãy Ði Mãi cuả Trần Dần, tính cách tranh đấu quyết liệt hơn:
Tôi có thể mặc thay ngàn tiếng chữi tục tằn

Trừ tiếng chữi sống không sáng tạo  Trong bài tự kiểm thảo, Trần Dần viết về hoạt động của mình: "những sáng tác cuả tôi đều là cái loại đả kích vào các chính sách của đảng cả. Nếu đọc cả một đống như thế, người ta sẽ cảm thấy sự lãnh đạo của đảng là một sự ngột ngạt không thể nào sống nổi. Người sáng tác phải có quyền và có gan như nhà viết sử thời xưa, vua chém đi 6 người đến người thứ 7 vẫn chép sử đúng như sự thật, vua đành chịu vậy, Riết, bây giơ lỡ nên làm xô đổ thôi tức là đả kích xen ca ngợi thì lãnh đạo cũng phải bằng lòng, tôi hay nói với anh em, vó phải kín mới được trước hở quá rồi, đấu tranh bộ đội, Giai phẩm muà Xuân, Nhân văn đều manh động cả, chỉ có chui vào sáng tác, tức là cái xác chủ dẫn nhất đánh cũng không chết."
 
Hoàng Cầm sinh năm 1921 tại làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hải Dương. Trước kháng chiến, Hoàng Cầm nổi tiếng trong văn đàn với 3 vở kịch thơ Viễn Khách, Kiều Loan và Lên Ðường. Thời kỳ NVGP, cùng với Trần Dần và Lê Ðạt, Hoàng Cầm là những cột trụ của tờ Nhân văn và Giai Phẩm, những sáng tác của ông trong thời kỳ này được in lại trong tài liệu của hội Báo chí có 2 bài là bài thơ "Em bé lên 6 tuổi" nói về hoàn cảnh đau thương của 1 em bé con địa chủ, bố bị đấu tố, mẹ bỏ đi Nam: "Chị Ðội bỗng lùi lại nhìn đứa bé mồ côi cố tìm vết thù địch, chỉ thấy một con người" và kịch thơ Tiếng Hát Trương Chi mươn hình ảnh tiếng hát để nói về nghệ thuật và khẳng định "không thể cưỡng bức được nghệ thuật". Bài Con Người của Trần Dần được George Boudarein dịch ra tiếng Pháp tập Trăm Hoa Ðua Nở của ông.
 
Lê Ðạt là người chủ trương đổi mới tư duy văn học, đổi mới thơ ngay từ thời kỳ NVGP. Chủ trương này được Tố Hữu gán cho biệt hiệu "cái thùng sắt Tây Lê Ðạt" và Xuân Diệu viết bài "Những biến hoá cuả chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê Ðạt". Qua bài tự kiểm thảo, Lê Ðạt xác nhận: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận cuả tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Ðang. Ban biên tập lúc đó gồm có 4 người: Nguyễn Hữu Ðang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi. Ðể tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài Mậu Dịch, tôi góp ý, vẽ tranh 1 người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch. Nhân Văn bị đóng cửa nhưng tư tưởng Nhân văn, tư tưởng chống đối vẫn chưa hết. Sau 1 thời gian các báo ngớt đánh, tình hình trở lại bình thường, chúng tôi lại vẫn gặp nhau đả kích đảng, cho là độc đoán". Thơ Lê Ðạt có những lời lẽ rất tiên tri:
Lịch sử muôn đời duyệt lại,

Không ai lừa được cuộc đời. Khuôn mặt văn học tiêu biểu sau cùng mà chúng tôi gợi lại và tưởng niệm là Phan Khôi. Phan Khôi, bút hiệu Trương Dân, nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình, nhà báo, nhà biên khảo là 1 trong những cây bút tiên phong sắc và dạn nhất cuả văn học VN cùng thời với Bùi Kỳ, Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Nguyễn văn Tố, Ðào Duy Anh. Phan Khôi sinh năm 1887, tại làng Bảo An, huyện Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mất năm 1959. Phan Khôi là cháu ngoại Hoàng Diệu. Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội tham gia phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục và viết cho tạp chí Nam Cỗ Tùng Báo. Ít lâu sau, phong trào bị khủng bố, Phan Khôi trở lại Quảng Nam, hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Bị Pháp bắt, ông học tiếng Pháp trong tù. Năm 1914, ra tù, ông làm nghề viết báo.
 
Trong nửa thế kỷ từ Bắc chí Nam, ngọn bút sắc bén của Phan Khôi tung hoành trên các báo Nam Phong, rồi Lục Tỉnh Tân Văn, Ðông Pháp Thời báo, Thần Chung, Phụ Nữ Tân văn, Trung Lập, Thực nghiệp Dân báo, Hữu Thanh, Phụ Nữ Thời Ðàm, Tràng An, Sông Hương. Tác phẩm đầu tiên của Phan Khôi là tập Nam Âm thi thoại, ra đời năm 1920 ở Hà Nội. Ðến năm 1936, tái bản tại Huế và đổi tên là Trương Dân Thi Thoại. Bài thơ Tình Già cuả Phan Khôi đăng lần đầu tiên trên báo Phụ Nữ Tân Văn tháng 3 năm 32 được coi như bài thơ mở đường cho phong trào thơ mới. Là nhà Hán học, lý luận khúc chiết và đanh thép theo phương pháp Tây phương, những bài bút chiến cuả Phan Khôi với Hải Triều gây không khí sôi nổi trên văn đàn những năm 30. Khó có người nào xứng đáng hơn Phan Khôi về kiến thức cũng như về tài năng trong vai trò ngự sử văn đàn.
 
Trong thời kỳ NVGP, ông đứng tên chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Nhân văn để bao che cho các cây bút tre. Trong bài Phê Bình Lãnh Ðạo Văn Nghệ trong Giai Phẩm muà Thu tập 1 với tác phong Ngự sử Văn đàn, ông chỉ trích Trường Chinh ăn nói bưà bãi, chất vấn gắt gao Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Ðình Thi. Những người chủ chốt trong việc kết tội Trần Dần. Sau khi tách bạch 2 giai cấp Lãnh đạo văn nghệ và Quần chúng văn nghệ, Phan Khôi nhắm 3 tiêu đề:
 
Thứ nhất vấn đề tự do của văn nghệ sĩ, sau những dẫn chứng những trường hợp cụ thể về việc lãnh đạo nghiệt ngã bắt bẻ người viết phải theo đúng đường lối, Phan Khôi hỏi lãnh đạo: chính trị muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ thông tri chỉ thị không được hay sao mà phải cần dùng đến văn nghệ rồi ông cảnh cáo: "Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.
Ðiểm thứ hai, về vụ Giai phẩm muà Xuân, Phan Khôi chất vấn ban chủ toạ hội Văn nghệ: "hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công. Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở 1 sân rộng nọ, ông Lê Ngỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng: trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi trong phòng họp hội Văn nghệ"
Về vụ giải thưởng văn học năm 1954, 55, ba tác phẩm Mưa Sao của Xuân Diệu, Truyện Anh Lộc của Nguyễn Huy Tưởng và Nam bộ Mến Yêu của Hoài Thanh đều chiếm giải. Phan Khôi phê rằng đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu, và 3 ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban trung khảo. Nếu ở trong ban trung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì 3 ông còn ở trong ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thể Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tị, không được chấm trường. Bây giờ, đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tị, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ là trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp.
 
Chuyện Ông bình Vôi cuả Phan Khôi đăng trong Giai phẩm muà Thu tập 1 ngẫu hứng từ bài thơ Ông Bình Vôi của Lê Ðạt. Phan Khôi viết để bênh vực Lê Ðạt, đồng thời nhạo báng lãnh tụ, gọi lãnh tụ là Ông Cọp, Ông Trưởng, Ông Ðầu Rau, Ông Tre và Ông Bình Vôi và chế giễu 3 bài vị mà người dân thường phải để chân dung trong nhà. Trong bài Ông Năm Chuột, Phan Khôi gián tiếp đòi hỏi trả văn nghệ cho văn nghệ, chuyên môn cho chuyên môn, ông nhắn lãnh đạo qua lời cuả người thợ bạc rằng: "người ta cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói, tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dậy nghề làm thợ bạc cho tôi"
 
Theo bài viết của Ðoàn Giỏi, đăng trên báo Văn nghệ số 15-8-58 thì tháng 12 năm 1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản hội Nhà văn 1 tập bản thảo dầy, bên ngoài đề 2 chữ Nắng chiều gồm nhiều bài bút ký, tạp văn, viết từ đầu kháng chiến Việt Bắc đến 1957. Ðoàn Giỏi trích đoạn những bài viết cuả Phan Khôi cố ý đả phá, đồng thời cho độc giả biết những nét đại cương của tác phẩm. Ngay trong 2 bài đầu tưạ đề Cầm Vịt và Tiếng Chim, Phan Khôi đã khẳng định: "xã hội không có đấu tranh giai cấp, của ai người nấy ăn. Vấn đề tranh đấu giai cấp chỉ là kiểu rình phần cuả kẻ khác. Về bài viết Cây Cộng Sản, Ðoàn Giỏi tự hỏi, tại sao Phan Khôi lại đem cây cứt lợn cũng gọi là cây chó đẻ và bọ xít toàn những tên không nhã tí nào hết để gọi nó là cây Cộng sản và cỏ cụ Hồ. Ðến bài giới thiệu Nguyễn Trường Tộ, Phan Khôi viết: "Vua thì như thế, còn đám quan liêu từ triều đình đến các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn, cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người này nắm quyền lợi một nước trong tay họ, họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi thì còn ai mà làm gì được. Ðoàn Giỏi bị kiểm thảo về tội "vờ đả kích Phan Khôi để công bố những nét đại cương cuả 1 tác phẩm bị cấm. Bản thảo tập Nắng chiều hiện nay ở đâu, còn hay mất, đó là công việc của những nhà sưu tầm và nghiên cứu văn bản học, trách nhiệm trước hết với Phan Khôi và sau nữa với văn học VN.
 

oOo 
Phong trào NVGP là một cuộc tranh đấu lớn lao cuả trí thức và văn nghệ sĩ nhằm mục đích dân chủ hoá và canh tân đất nước về mọi mặt chính trị, kinh tế, pháp luật, xã hội, văn hoá và tư tưởng. Chính quyền miền Bắc đã dập tắt phong trào, chính quyền miền Nam đã lợi dụng phong trào để làm vũ khí tuyên truyền chống cộng, và đất nước đã rơi vào hoàn cảnh xáo trộn, chiến tranh, lạc hậu và chuyên chính trong gần nửa thế kỷ qua. Trở lại hồ sơ NVGP, tìm lại những văn bản đã bị tịch thu, đã bị thất lạc là trách nhiệm cuả người làm văn học nghệ thuật. Trách nhiệm đối với dĩ vãng và để rút tỉa bài học cho hiện tại và tương lai.
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Việt Nam trao giải thưởng - 11.03.2007 22:20:03
Việt Nam trao giải thưởng cho 4 văn nghệ sĩ với tác phẩm từng bị cấm
Matt Steinglass
Hà Nội
11/03/2007
 
Bốn văn nghệ sĩ Việt Nam thuộc một nhóm trí thức bất đồng chính kiến trong thập niên 1950 với tác phẩm bị kiểm duyệt và bị tù, vừa được trao tặng giải thưởng Văn Học và Nghệ Thuật của Việt Nam. Trong số 4 người chỉ có 2 còn sống là thi sĩ Hoàng Cầm và Lê Đạt. Việc trao giải thưởng này như một lời xin lỗi đối với các văn nghệ sĩ đã trở thành những gương mặt rất được yêu thích trong lãnh vực văn chương Việt Nam thế kỷ 20.
 
 
Thi sĩ Hoàng Cầm
 
Ông Hoàng Cầm năm nay đã 86 tuổi, và bạn ông là Lê Đạt năm này đã 85 tuổi. Hai ông nổi tiếng trong phong trào văn chương mới từ nhiều thập niên qua và đã từng bị chính phủ sách nhiễu và bị tù.
 
Tuy nhiên trong những năm gần đây, chế độ kiểm duyệt của Việt Nam đã nới lỏng, và chính phủ đã chấp nhận những điều mà một thời bị phê phán.  Buổi lễ trao giải đã diễn ra hôm thứ bảy vừa qua.  Hai cố nghệ sĩ cùng thời với ông Hoàng Cầm, và Lê Đạt là Phùng Quán và Trần Dần đã được truy tặng giải. 
 
Trong những năm đầu thập niên 1950, nhà thơ Hoàng Cầm đã sáng tác những vần thơ ái quốc khích lệ tinh thần của bộ đội Hồ Chí Minh trong trận chiến giành độc lập từ tay người Pháp. 
 
Sau khi Việt Nam độc lập năm 1954, ông và các văn nghệ sĩ khác, cũng được tặng giải trong buổi lễ hôm thứ bảy, đã tham gia một tạp chí độc lập là Nhân Văn Giai Phẩm.
 
Nhân Văn Giải Phẩm đã cho đăng các bài viết và thơ phê phán việc thực thi chương trình cải cách ruộng đất tàn bạo của chính phủ Cộng Sản.  Tháng 12 năm 1956, chính phủ đã cho đóng cửa tạp chí và đàn áp thẳng tay nhóm văn nghệ sĩ này. 
 
Trong 30 năm, ông Hoàng Cầm đã không được chính thức phổ biến các sáng tác của ông, song thơ của ông được lén lút loan truyền rộng rãi. Tuy nhiên, từ khi Việt Nam mở cửa trong những năm cuối thập niên 1980, tác phẩm của nhà thơ Hoàng Cầm đã trở thành một phần của văn chương chính thức. 
 
Không khí sáng tác và kiểm duyệt thơ văn ở Việt Nam hiện nay đã bớt ngột ngạt, song giới văn nghệ sĩ vẫn biết phải dừng ở giới hạn nào.  Những lời chỉ trích trực tiếp quyền lực của đảng Cộng Sản vẫn còn là điều cấm kỵ.
 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân Văn Giai Phẩm - 21.03.2007 19:31:01
Mạc Đình
Nhân Văn Giai Phẩm

Không Phải Chuyện Cười
Chung quanh tờ Nhân Văn
 
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3n2n0n31n343tq83a3q3m3237nnn4n&cochu=
 
 
Mạc Đình
Nhân Văn Giai Phẩm

Phùng Quán
 
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3n2n0n31n343tq83a3q3m3237nvn1n&cochu=
 
Thảm kịch “Nhân Văn Giai Phẩm”
Ngày: 14-11-2006
Đề tài: Lịch Sử

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=print&sid=2596
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân Văn Giai Phẩm - 21.03.2007 19:48:17
Nhân Văn giai phẩm
 
Những nhà văn:
 
Cao Niên: Phan Khôi.

Trung Niên: Văn Cao,Trần Duy, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Như Mai.

Thanh niên: Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Đoài, Minh Hoàng, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Hoàng Tích Linh.

Học giả: Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường,Trần Đức Thảo.



Một số văn nghệ sĩ trong phong trào












http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
 
>>>>>>>>>>>>
 
Kết án NVGP: Tố Hữu; Nguyễn Tuân, Hồng Vân.... 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2007 01:06:26 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân Văn Giai Phẩm - 23.03.2007 01:12:40

 
 
Mở lại hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm
 
Tấm lòng muốn đổi mới, đòi trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ của những người chủ trương đã chuyển hoá thành sự náo nức của người dân thành thị đón chào một luồng gíó mới đầy hứng khởi, và khơi dậy niềm khát khao dân chủ tự do nơi không ít thành phần trí thức.
Phong trào bùng phát mạnh mẽ, nhưng chỉ sau ba tháng đã bị dập tắt và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trở thành vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bởi tất cả những ai liên hệ sau đó đều chìm vào cơn ác mộng đoạ đầy suốt mấy chục năm. Ban Việt ngữ nhân dịp này mở lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này bằng một loạt 10 bài do Nguyễn An thực hiện. Mời quý thính giả nghe bài thứ nhất do Thy Nga trình bày.

Một kỷ lục

Báo Nhân văn và các ấn bản Giai Phẩm có mặt tại miền Bắc Việt nam, lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đúng 50 năm trước.
Nhân Văn là một bán nguyệt san xuất bản tại Hà nội, và sống vỏn vẹn chưa đến ba tháng với năm số báo, tính từ số 1 ra ngày 15 tháng 9 năm 1956 và số sáu chưa in xong thì báo bị đóng cửa ngày 15 tháng chạp cùng năm.


Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!
Nhà thơ Lê Đạt

Trước đó, vào tháng hai năm 1956, đã xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng ấn bản này bị tịch thu ngay. Cuối tháng tám, xuất hiện Giai Phẩm mùa Thu, 10 ngày sau tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân, rồi cuối tháng 10, lại có Giai phẩm Mùa Thu tập 2. Qua tháng 11 thì có Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 và đến tháng 12 là Giai Phẩm Mùa Đông.
 
Phải nói thêm một tờ báo nữa xuất hiện đồng thời với Giai phẩm Mùa Thu tập 2, nhưng do giới sinh viên đại học thực hiện, và chỉ ra được đúng một số duy nhất, là tờ Đất Mới, và môt tờ báo khác cũng nương theo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm mà mạnh dạn ăn nói là tờ Trăm Hoa của nhà thơ Nguyễn Binh.
Tính theo thời gian, thì tuổi thọ của Nhân Văn Giai Phẩm chưa đầy một năm. Nói chính xác là chỉ có hơn 10 tháng, kể từ lúc xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân cho đến lúc báo Nhân
 
 Văn bị đóng cửa. Tính theo số ấn phẩm, thì chỉ có 10, gồm 5 Giai Phẩm và 5 số báo Nhân Văn.
Tuy nhiên, Nhân Văn Giai Phẩm đã ghi lại những kỷ lục mà cho đến nay, với 61 năm lịch sử của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chưa có một diễn biến nào vượt qua được. Riêng nhà văn Hoàng Tiến trong bài viết gần cuối thế kỷ 20 đã gọi đây là một “vụ án văn học, có thể nói là kinh thiên động địa, chưa bao giờ xẩy ra ở Việt Nam với tầm vóc quy mô như thế.”

Tác động mạnh mẽ đến xã hội

Nhân Văn Giai Phẩm thường được nói đến như một phong trào, nhưng nếu coi đó là một phong trào, thì phải nói là thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo, và thiếu cả phương tiện.
Mặc dù thế, Nhân Văn Giai Phẩm đã tác động mạnh mẽ đến xã hội đến nỗi ngày đầu tiên phát hành báo Nhân Văn tại Hà nội đã là một ngày hội của quần chúng, như lời nhà thơ Lê Đạt, một trong những người chủ trương kể lại, trong cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thụy Khuê thực hiện tại Paris năm 1999 cho tạp chí Văn học của đài RFI như sau:
 
“Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!
 
Lúc đó tôi đứng đấy tôi nhìn thì tôi mới thấy đúng là " ngày hội của quần chúng", không biết ngày hội ấy có kéo dài nhiều không nhưng đúng là ngày hội của quần chúng thật, tức là: không thể đi được! Bản thân tôi, tôi cũng không đi được.


Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.
Nhà thơ Lê Đạt

Cứ ra thì người ta lấy hết báo, lại vào, lại cứ liên tục như thế mà chẳng phải quảng cáo gì cả. Số 1 báo Nhân Văn ấy, sau khi nó ra rồi, đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc lại hai câu thơ của tôi:
Ðem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
Nhất là sinh viên ủng hộ rất nhiều. Tờ báo Nhân Văn số 1 lập tức là phải in lại sau đâu có một hai ngày gì đó.”


Bị tiêu diệt, đầy đoạ

Đáp lại, nhà nước Cộng sản tại miền Bắc thời bấy giờ đã huy động toàn bộ lực lượng để đối phó, nói thẳng ra là để tiêu diệt. Người trực tiếp đứng ra thực hiện chiến dịch này là nhà thơ Tố Hữu, lúc ấy là trưởng ban Tuyên Huấn trung ương của đảng. Không có ai bị lãnh án tử hình theo nghĩa là đem ra pháp trường bắn, nhưng tất cả những ai liên quan đến Nhân Văn Giai Phẩm đều bị đầy đọa. Đầy đoạ nhiều ít tuỳ theo mức độ liên quan.
 
Người liên quan nhiều thì bị đầy đọa nhiều, ít thì bị đầy đọa ít. Nhiều có nghĩa là bị đưa ra toà kết án tù, bị khóa sổ sáng tác, bị gạt ra ngoài lề mọi sinh họat văn học nghệ thuật và bị bao vây kinh tế - nghĩa là đói, còn ít thì bị đưa đi lao động cải tạo, gọi là để xâm nhập thực tế, rồi cho sống lay lất, và cũng bị gạt ra khỏi sinh họat văn học nghệ thuật, còn nếu chỉ đụng đến nhưng thật nhẹ, như là từng đọc qua một hai bài, từng phát biểu một ý kiến không tích cực chống, thì lý lịch cũng bị coi là có tì vết và ảnh huởng suốt đời.
 
Số người nằm trong trường hợp này không phải là ít, nhưng không rõ là bao nhiêu. Mời quý thính giả nghe nhà thơ Lê Đạt nói về chuyện này như sau, cũng trong một cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê thực hiện năm 1999:
 
“Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.
 
Chính bây giờ tôi cũng tự hỏi đấy: "Không biết là mình đối với họ mình có tội gì không?" Lẽ dĩ nhiên là trong một cuộc đấu tranh cho cái mới thì chúng ta mỗi người phải chịu một ít. Nhưng họ, đúng là họ không có ý thức gì cả, họ chỉ ham muốn, ham muốn tự do, thì không có gì sai lầm cả; đọc một tờ báo, gửi một cái viện trợ... mà sau này nó kéo, nó kéo có khi cả một đời họ...


“Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.
Nhà văn Hoàng Tiến

Cho nên đến bây giờ tôi vẫn không biết là công mình nhiều hay tội mình nhiều và lúc nào tôi cũng nghĩ đến họ. Mà ở Việt Nam thì không có gì rõ ràng cả. Cái chữ nó rất neutre mà lại rất gay go, người ta gọi là liên quan. Liên quan là dính líu đấy thôi. Nhưng mà anh đã liên quan là anh... gay go lắm.
Liên quan với Nhân Văn, liên quan với địa chủ, liên quan với tư sản... thì tất cả những người này cũng là một thứ liên quan mới; liên quan với Nhân Văn là khổ lắm, nhất là lớp sinh viên trẻ, đi lao động, đi cải tạo... mà có phải chỉ Hà Nội đâu, ở những các nơi, các tỉnh đều có người ủng hộ cả. Thì những người đó mình không bao giờ biết thân phận họ ra sao.”


Một vụ án kỳ quặt

Vì có người bị tù tội, bị trừng phạt, nên Nhân Văn Giai Phẩm còn là một vụ án. Chỉ có trên dưới một chục người bị lãnh án, và không một ai bị nêu tội danh là Nhân Văn Giai Phẩm, cả mặc dù ai cũng biết đó là lý do đích thực.
 
Còn lại hầu hết không bị tuyên án chính thức, không bị bỏ tù, nhưng bị đưa đi lao động cải tạo tại các công nông trường. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sau này nhớ lại, trong cuộc chuyện trò với một phái viên của RFA:
 
“Lúc bấy giờ là năm 1958. Chúng tôi năm người là Nguyễn Huy Tưởng, bí thư đảng đoàn hội nhà văn, Hùynh văn Đứng phụ trách hội Mỹ thuật, là đại biểu quốc hội, Nguyễn Tuân, phó chủ tịch hội nhà văn, Văn Cao và tôi được lệnh đi thực tế lao động ở quân khu Tây bắc.
 
Khi đến nơi thì ông Chu Huy Mân đưa cho coi giấy của trung ương gửi, chỉ vỏn vẹn có mấy câu thôi, như thế này: Đây là năm người lãnh đạo có vấn đề, nhờ anh chăm sóc, dưới ký tên, Lành, tức là ông Tố Hữu. Đây là một chuyến đi lạ lùng vì văn nghệ sĩ chúng tôi không bao giờ phải đi lâu như thế cả, nhưng lần này là vì “có vấn đề”, vấn đề gì thì anh biết rồi đấy.”
 
Ngoài ra, họ đều bị kết án tử hình tinh thần. Đối với những người trực tiếp liên quan, thì tác phẩm của họ không được xuất hiện với công chúng 30 năm, 40 năm, tức là suốt thời gian mà sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, và có thể đóng góp nhiều nhất cho đời sống, cho xã hội. Khi họ được phục hồi trở lại, thì hầu hết sức khỏe đã tàn tạ và có những người tinh thần đã suy sụp.
 
Nhà văn Hoàng Tiến 40 năm sau vụ án phát biểu: “Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.


Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org
Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

Kéo dài hàng 30 năm trời. Không có cái vụ án nào mà kỳ quặc đến như thế. Đấy là cái nỗi oan khuất mà nhiều anh em văn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, tiếp quản Hà nội xong thì đến cái vụ Nhân Văn Giai Phẩm ấy thì không thể nào quên được.”


Trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ

Điều mà những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm mong muốn và đạo đạt lên Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay từ đầu chỉ là trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ. Họ đạo đạt một cách rất nhẹ nhàng, lịch sự, có rào trước đón sau và luôn luôn xác nhận sự lãnh đạo của đảng, nhưng đáp lại, đảng đã quyết tâm tiêu diệt không chỉ Nhân Văn Giai Phẩm, mà cả những gì được gọi là “nọc độc của Nhân Văn Giai Phẩm” nữa.
Không chỉ đánh tờ báo lúc nó đang sống, mà vài năm sau vẫn còn đánh. Không phải chỉ đánh bằng các biện pháp hành chính và cô lập, mà còn vận dụng tất cả mọi thế lực xã hội, từ các văn nghệ sĩ đến công nhân để dồn những ai dám chân thành góp ý, hay dám đồng tình với sự góp ý ấy vào chân tường. Còn yêu cầu được nêu ra từ 50 năm trước, thì nay, 50 năm sau vẫn chưa giải quyết, và những ai thẳng thắn góp ý xây dựng thì vẫn bị trù dập, mặc dù không toàn diện và triệt để như trước kia.
Đó chính là lý do khiến ban Việt ngữ chúng tôi mở lại hồ sơ này, hồ sơ của những vấn đề cũ mà vẫn mới, của những người ôm mối oan khuất trong suốt mấy chục năm trời. Có những người đã chết, có những người đã suy sụp hoàn toàn, nhưng cũng có những người còn đang sống những năm tháng cuối cùng của cụôc đời, và cần một trái tim thanh thản để về với vĩnh cửu. Họ xứng đáng được như vậy, bởi họ đã hành động theo lương tri.
 
Loạt bài này sẽ kéo dài 10 kỳ, mở đầu là phần bối cảnh với cụôc phỏng vấn nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng, sau đó là diễn tiến vụ án qua lời kể của ông Nguyễn Minh Cần, khi đó là phó chủ tịch uỷ ban hành chánh Hà nội và cũng là chủ nhiệm báo Thủ Đô, của các vị chủ chốt trong Nhân Văn Giai Phẩm bao gồm nhà thơ Lê Đạt, ông Nguyễn Hữu Đang, nhà thơ Hoàng Cầm, cũng như qua tài liệu “ Trăm Hoa đua nở trên đất Bắc của cụ Hoàng Văn Chí,”
 
Chúng tôi cũng sẽ có phát biểu của một số văn nghệ sĩ mà chính bản thân, hay bằng hữu có liên hệ với phong trào như nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, nhạc sĩ Tô Vũ, nhạc sĩ Văn Cao, qua người con trai của ông là ông Văn Thao.
 
Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin trước hết cảm ơn các quý vị đã tích cực giúp đỡ trong việc mở lại bộ hồ sơ này, đặc biệt là nhà nghiên cứu, nhà báo Thuỵ Khuê của đài RFI tại Paris, Pháp quốc. Chúng tôi cũng mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng.

 
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/nhanvangiaiphamP1_NAn/
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân Văn Giai Phẩm - 30.03.2007 01:43:49
Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm
 
Cơ quan ngôn luận của phong trào này là Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm chủ nhiệmTrần Duy làm thư kí toà soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng 3 năm 1956, do nhà thơ Hoàng CầmLê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, với hai câu thơ nổi tiếng:

Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.
Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trong Giai phẩm Mùa thu.
Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân trong khiếm khuyết về dân chủ:

a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.

b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.//
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v., nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 5 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành.
Sau đó, các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương. Một số còn bị đem đi thủ tiêu[cần chú thích]. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm".

 Một số văn nghệ sĩ trong phong trào













[sửa] "Tác giả" của việc dập tắt phong trào
Người được coi là "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm thường quy về cho Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).

Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

Những tư tưởng chính trị thù địch
  1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
  2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
  3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
  4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.


Những quan điểm văn nghệ phản động
  1. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
  2. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
  3. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
  4. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.


[sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.

 Giải thưởng Nhà nước
Tháng 2 năm 2007, 4 nhà văn thuộc Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm gồm Lê Đạt, Trần Dần, Phùng QuánHoàng Cầm được Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định tặng thưởng giải thưởng Nhà nước [3].

 Chú giải

Tiếng Pháp, ý nói Trường Chinh.
Đại từ tiếng Pháp "lui", tức ông ấy.
Công bố danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước trên trang chủ của Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, 13 tháng 2, 2007.

 Xem thêm


Liên kết ngoài

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_tr%C3%A0o_Nh%C3%A2n_V%C4%83n-Giai_Ph%E1%BA%A9m
 
 http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

silverbullet
  • Số bài : 450
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2006
RE: Nhân Văn Giai Phẩm - 30.03.2007 05:56:41
Chào LXMai,
Đã đọc những bài bạn đăng.  Cám ơn bạn và xin phép cho có chút ý kiến. 
Kính, SB

****

LXMai
[sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.



Wikipedia
Nhà thơ là người sáng tác thơ - một thể loại khác với văn xuôi hay kịch. Nhà thơ thường bị chi phối bởi nền văn hóa và tri thức truyền thống và viết ra ngôn ngữ đặc biệt (gọi là thơ).
Khả năng Nhà thơ
  • Khả năng cảm xúc, tư duy và ngôn ngữ phong phú được diễn tả bằng thơ do khả năng bẩm sinh và do sự rèn luyện mà có.

  • Khả năng gắn kết cuộc sống, xã hội, thiên nhiên... cái hay, cái đẹp và cả những điều xấu, cả những vật vô tri vô giác cũng được nhà thơ làm sống động và có hồn.


Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệtiến bộ cũng như hạnh phúc của con người.
  • Anh Thơ
  • Bùi Giáng
  • Chế Lan Viên
  • Du Tử Lê
  • Đinh Hùng
  • Hồ Xuân Hương
  • Nguyễn Bính
  • Nguyễn Du
  • Nguyễn Nhược Pháp
  • Hàn Mặc Tử
  • Huy Cận
  • Thế Lữ
  • Tố Hữu
  • Xuân Diệu
  • Vũ Hoàng Chương
  • Trần Ngọc Trác

  • Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_th%C6%A1
     

    wikipedia
    Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chân, thiện, mỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâm, trí tuệtiến bộ cũng như hạnh phúc của con người.

    Vài ý kiến :

    1) Nhận xét của Văn Cao (được gán cho Văn Cao và chưa được kiểm chứng) đổ lỗi cho Trường Chinh là người đàng sau vụ Nhân Văn - Giai Phẩm . Nếu nói theo luận điệu này thì  tất cả  những lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam là những người phải chịu trách nhiệm. Và cái người phải đứng ra gánh trách nhiệm nhiều nhất phải là  Hồ chí Minh . Bất cứ luận điệu nào dùng để bào chửa là Hồ chí Minh không hề biết mà là lỗi của Trường Chinh hay của cấp thừa hành  là ngụy biện và không thành thật ... Những sai lầm trong  vụ "Cải Cách Ruộng Đất" cũng như trong  vụ "Nhân văn Giai Phẩm" ... Người có tội nhiều nhất phải là Hồ Chí Minh . Và vâng,  những cấp thừa hành như Trường Chinh, Tố Hữu ... cũng là những kẻ có tội luôn ... Không ai có thể dùng bất cứ luận điệu nào để bào chửa cho  tội của Hồ Chí Minh với lịch sử và dân Việt Nam về việc hủy diệt nền văn học Việt Nam trong giai đoạn đó cho suông sẻ và có thể chấp nhận được với dân Việt Nam. Hiện giờ thì  đảng cộng sản  đang nắm quyền ... nên những người cầm bút hoặc vì sợ sệt hoặc vì lý do nào đó không dám đụng chạm đến thần tượng được đảng cộng sản đánh bóng ...  Nhưng sẽ không có chi là bí mật dưới ánh sáng mặt trời.  Công cũng như tội của Tần Thủy Hoàng, của Hitler, của Stalin, của Mao Trạch Đông, ...  với nhân loại nói chung đã được ghi vào lịch sử thì cũng sẽ như vậy cho Hồ Chí Minh. Dù cho đảng công sản có dùng mọi thủ đoạn để đánh bóng hay che dấu.  Lịch sử sẽ rất công bằng.

    2) Dựa vào định nghĩa "nhà thơ" của chính Wikipedia thì Tố Hữu không đủ tiêu chuẩn, không xứng đáng để được gọi là nhà thơ ...  Wikipedia định nghĩa "nhà thơ" như đã "trích" ở trên mà lại sắp Tố Hữu vào "danh sách nhà thơ": Đây là 1 việc làm tự mâu thuẫn của Wikipedia. 

    "Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong
    Cho Đảng bền lâu... cùng rập bước chung lòng
    Thờ Sit-ta-lin thờ Mao chủ tịch bất diệt "  (Tố Hữu)


    Vì chỉ cần đọc cái đoạn ở trên  thôi.   Dù  Tố Hữu có thể là cái giống chi của đảng cộng sản Việt Nam cũng được (tùy họ). Nhưng dựa trên định nghĩa nhà thơ (như của Wikipedia)  thì Tố Hữu có phục vụ cho:

    a) Chân, thiện, mỹ ?
    b) Ánh sáng?
    c) Lương tâm, trí tụê, tiến bộ, hạnh phúc?

    Căn cứ theo định nghĩa của Wikipedia. Câu trả lời rất rõ ràng là không, không và không. => Tố Hữu chẳng xứng đáng với chữ NHÀ THƠ . Chấm hết!!!
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2007 10:10:48 bởi silverbullet >
    SILVER BULLET, a straightforward solution gives extreme effectiveness.

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 05.04.2007 02:17:46

    silverbullet

     
    Thân chào Bạn Thâm Giao
     
    Chúc Vui
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 05.04.2007 02:27:32
     
     
    Sự thật ở đâu ?
    Nhà văn Hoàng Tiến

    (Nhân đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi)
    Năm 1997, tôi có viết một tiểu luận “Nhìn lại vụ án Nhân văn-Giai phẩm cách đây 40 năm”. Dưới con mắt của người nghiên cứu, tôi đặt ra một vấn đề: trên cái bề mặt nổi của đấu tranh giai cấp về quan điểm tư tưởng vô sản và quan điểm tư tưởng tư sản trong văn nghệ, giấu một cái mạch ngầm là lòng đố kỵ tài năng, là sự đố kỵ của Tố Hữu với những tài năng trong văn nghệ. Đó là cách nhìn của tôi về vụ án văn học kỳ dị nhất trong lịch sử văn chương xứ ta, với mức án không thành văn kéo dài hàng 30 năm. Đến khi được cởi trói (1986 Đại hội Đảng lần VI) thì nhiều người tóc đã bạc phơ, nhiều người đã chết. Cách nhìn nhận ấy đúng hay không đúng, mong được bàn bạc. Chính vì vậy trong tiểu luận tôi phải chỉ ra được những yếu kém trong thơ Tố Hữu, điều mà lâu nay như cấm kỵ; và đi theo nó phải chứng minh được những cái hay của các nhà thơ bị đánh trong vụ án Nhân Văn. Phần phụ lục trích mỗi nhà thơ Nhân Văn hai bài, nhằm cung cấp tư liệu để độc giả tự đánh giá.
     
    Bạn bè thân quen bảo: “Ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp chết anh bất cứ lúc nào.
    Tôi đã trả lời: “Tôi hiểu điều ấy. Chính đấy là lý do khiến tôi phải viết khi ông ấy còn sống.” Bạn cứ lắc đầu hoài. Tôi phải nói thêm: “Nếu không thì trả lời thế nào với câu hỏi của người sau: “Sao khi ông ấy sống không thấy ai viết gì ?”
     
    Tôi đã chính thức gửi bài viết đến Tạp chí Văn học của Viện Văn học và vài tờ báo khác, cũng như gửi đến nhà thơ Tố Hữu. Không thấy đâu đăng, cũng không thấy đâu trả lời.
    Không sao! Không đăng là quyền của họ, trách nhiệm phải viết là quyền của tôi. Cho nên khi Tố Hữu mất, tôi đã không viết gì nữa, cho rằng trách nhiệm của mình đã xong. Nhân đọc trên báo Lao Động thấy nhà thơ Hoàng Cầm, người bị điêu đứng trong vụ án Nhân Văn, có bài thương cảm viếng nhà thơ Tố Hữu, gây cảm xúc mà bật ra mấy câu sau:

    Tố Hữu mất đi
    Hoàng Cầm viết lời ai điếu
    Đăng đầu tiên, báo Lao Động, trang 5.
    Ông trời xanh rõ thật oái oăm
    Khiến dân đen bật cười khúc khích.

    Hoàng Cầm vị thuốc đắng
    Nên giã tật rất tài.
    Chuyện thế gian,
    thôi, gác bỏ ngoài tai
    Phất tay áo,
              đến Trúc Lâm:
    “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
    Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
    (*)




    (*): Bài “Cư trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm thiền phái. Người viết xin phép đảo câu đầu và câu cuối.
    (Tạm dịch:)
         Trước cảnh, tâm không, hỏi gì thiền
         Ở đời vui đạo cứ tùy duyên

    (Xin được nối thêm:)
         Lòng không thù hận, hồn trong sáng
         Mở rộng yêu thương tới mọi miền.

         (12 – 12 – 2002)


    Gần đây, trong dịp toàn dân tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi có được đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” của Nhật Hoa Khanh ghi, và các báo Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội.... trích đăng vài phần, nhất là phần nói về đại tướng Võ Nguyên Giáp (báo Quân Đội Nhân Dân đăng 3 số liền), bỗng lại thấy rằng mình chưa thể thôi viết được. Với góc độ của người nghiên cứu đã viết về Tỗ Hữu, tôi thấy cần phải bàn cho ra sự thật.
     
    Tâm sự Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh ghi hoàn toàn khác với Tố Hữu đã sống trước đây.
    Bản thảo được hoàn thành tháng 2 – 2004, đã được thông qua bà Vũ Thị Thanh, vợ ông Tố Hữu, được tung ra vào dịp cả nước hoan hỉ kỷ niệm Điện Biên Phủ, nhằm cái gì? Muốn thanh minh với đại tướng Võ Nguyên Giáp chăng? Võ đại tướng trong kỷ niệm 50 Điện Biên Phủ, có thể nói ông đã lại thắng một trận Điên Biên Phủ thứ hai. Cả nước ghi ơn ông. Tên tuổi ông và đức độ của ông sống lại, chói ngời trên cả nước.
     
    Một câu hỏi được đặt ra với người nghiên cứu, bản thảo thực sự đã viết xong từ tháng 5 – 1997 (theo Nhật Hoa Khanh), nghĩa là gần 6 năm sau Tố Hữu mới mất. Sao không công bố trong chuỗi thời gian ấy, lại để đến tận bây giờ ? Liệu có sâu xa tính toán gì như thơ di cảo của Chế Lan Viên ?
    Đã từ lâu nhiều người rất mong muốn nhà thơ Tố Hữu hãy xin lỗi anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Như nhiều anh em văn nghệ khác đã hùa theo đánh anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, đã đến xin lỗi từng cá nhân. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm. Nhưng Tố Hữu đã không làm.
     
    Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của Đại hội Đảng lần VI, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh; người đẫ giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ” “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” “không bẻ cong ngòi bút” “dũng cảm trình bày sự thật” ..vv...
     
    Trong cái không khĩ cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" bây giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói: “Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng Cầm, có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao thất bản.
     
     
    Chuyện rỉ tai văn nghệ sĩ về Tố Hữu thì nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng phụ trách giá-lương-tiền, rồi đồn thổi có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn và ông Thọ đưa ra, có thể đã làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, và có thể hồi ấy đã phải biểu lộ những cư xử với Võ đại tướng để chứng tỏ lập trường của mình đứng về phía bên nào, nên sau này hối hận, cứ phải thanh minh trong lời tâm sự với Nhật Hoa Khanh, nói khá kỹ về lòng yêu quý đại tướng Võ Nguyên Giáp, chiếm khá nhiều trang giấy, hai lần viện đến vợ là bà Vũ Thị Thanh làm chứng, không tin xin cứ đến hỏi.
     
    Chuyện rỉ tai từ Đại hội Đảng III (1961), phía ông Duẩn ông Thọ thuộc phái dùng bạo lực quân sự giải phóng miền Nam, được Tố Hữu ủng hộ, thắng thế. Ông Duẩn làm tổng bí thư. Cụ Hồ và ông Giáp là phía chủ trương hoà bình thống nhất đất nước, bị thiểu số, phải phục tùng theo đa số. Điều thực hư diễn biến ra sao thì sau này các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng sẽ phải làm rõ. Đây chỉ là chuyện rỉ tai, ngoài lề cuộc họp. Nhưng nhờ đó có căn cứ để nhìn nhận được thái độ chuyển biến của từng người.
    Chuyện rỉ tai về Tố Hữu nói tổng tư lệnh thực sự công cuộc đánh Mỹ giải phóng miền Nam là đồng chí Lê Duẩn chứ không phải Võ Nguyên Giáp.
     
    Chuyện rỉ tai Tố Hữu xoá câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”.
     
    Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu nhân một chuyến công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến Võ Nguyên Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem cùng tôi bình phẩm: “Quá lắm! Thiếu lịch sự quá lắm!
     
    Tổng tấn công Mậu Thân (1968) ông Duẩn điều ông Giáp đi Đông Âu, điều cụ Hồ sang Trung Quốc nghỉ ngơi, để rảnh tay tổng tiến công nổi dậy đồng loạt bao vây Khe Sanh (định tái diễn Điện Biên Phủ) và đánh vào Sài Gòn dứt điểm giải phóng miền Nam. (Thất bại. Sự việc này rồi lịch sử sẽ định giá).
     
    Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, có vài bài trên báo, nhưng chỉ nói đến Sở chỉ huy chiến dịch chung chung, không nhắc đến tên ông Giáp. Đến Chúc văn giỗ tổ vua Hùng cũng bỏ đi hai câu nói về Điện Biên Phủ và Giải phóng Sài Gòn 30/4, thành ra bài Chúc văn 100 câu để ứng với huyền thoại 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu.
     
    Ông Giáp hồi ấy được phân công phụ trách sinh đẻ kế hoạch. Bỗng lưu truyền những câu ca dao trôi nổi: “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em.”, “Người đi từ cây đa Tân Trào đến cây đa Nhà Bò” (Cây đa Nhà Bò—cơ sở hộ sinh của quận Hai Bà, ở phố Lò Đúc, Hà Nội).
    Rồi những chuyện ông Giáp sợ Mỹ, sợ bom nguyên tử, ông Giáp với Khơ-rúp-sốp, ông Giáp lý lịch mờ ám, chuyện Năm Châu-Sáu Sứ khai báo vu vơ... Lại tin rỉ tai, đảo Tuần Châu tỉnh Quảng Ninh đã được chuẩn bị để ông Giáp ra sống biệt lập, giống Napoléon ở đảo Sainte Hélène. Có cả một cuốn hồi ký của ông phó thủ tướng thời ông Duẩn, khen ông Duẩn hết lời, chê ông Giáp quá đáng được in phôtô chuyền tay nhau ..vv...
    Thái độ ông Giáp là im lặng. Ông ngồi thiền. Lấy chữ Nhẫn của người xưa di dưỡng tinh thần.
    Và bây giờ thì ông sống lại, như một ngọn đèn rực sáng giây phút cuối, ông đã 94 tuổi trời, lá thư ông viết gửi Hội nghị Trung ương 9 Khoá IX đầu năm 2004, có thể coi là những lời tâm huyết cuối đời của vị tướng tài ba lỗi lạc; trong đó về đề mục an ninh nội bộ, ông khẩn thiết đề nghị Trung ương giải quyết dứt điểm vụ T4, một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng từ trước đến nay, và yêu cầu kỷ luật những ai vi phạm bất kể ở cương vị nào. (Không biết Bộ Chính trị sẽ giải quyết ra sao trước khi đại tướng về trời?)
    Ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương Khoá VI (1986), mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, và sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.

    Một tiếng đờn
    Mới bình minh đó đã hoàng hôn
    Đang nụ cười tươi lệ bỗng tuôn
    Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
    Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.

    Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày
    Trời xanh không gợn áng mây bay
    Thủy chung son sắt nên tình bạn
    Êm ấm lòng ta mỗi phút giây.

    Còn khổ đau nào đau khổ hơn
    Trái tim luôn sát muối oán hờn
    Còn đây một chút trong đêm lạnh
    Đầm ấm bên em một tiếng đờn.


    Bài thơ trên được giải thưởng văn học ASEAN. Họ trao giải cũng không phải là vô cớ. Có nhiều bài hoạ lại, vô danh, xin trích một bài trong số đó để bạn đọc được nghe nhiều tiếng chuông:

    Nắng hè sao đã vội hoàng hôn ?
    Sao nụ cười tươi lệ bỗng tuôn ?
    Mới hay nhân quả là như vậy,
    Vui lắm thì ra cũng lắm buồn.

    Danh lợi đua chen được mấy ngày ?
    Phù vân một thoáng gió xua bay.
    Thủy chung không có, đâu bè bạn ?
    Êm ấm làm sao được phút giây ?

    Đúng vậy còn gì đau khổ hơn!
    Đời luôn khơi dậy những oán hờn,
    Còn đây một chút trong cô lạnh,
    Mới thấm Nhân Văn một tiếng đờn.


    Ông Tố Hữu về nghỉ. Sống cô đơn. Giấc mộng quyền lực không thành. Tôi tin là ông đã hối hận. Cho nên trong Lời tâm sự Nhật Hoa Khanh ghi, ông nói nhiều về ông Giáp, ca ngợi ông Giáp hết lời, như muốn thanh minh những điều gì không phải trước đây đã cư xử với ông Giáp. Đúng như một câu châm ngôn của phương Tây: Qui s’excuse s’accuse (Kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận).
    Đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng như thế. Qua “Lời tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi thì tất cả đều là tốt, là đáng ca ngợi, là không ai đáng phải chê trách điều gì cả. Xin trích vài người:

    1). Về cụ Phan Khôi “Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân Văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.” (trg 39. Lời tâm sự)

    2). Về ông Trương Tửu “Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lý luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lý luận văn học.” (trg 39. Lời tâm sự)

    3). Về ông Trần Đức Thảo được Tố Hữu dùng cụm từ người trí thức yêu nước lỗi lạc, rồi tiếp: “Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lý luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.” (trg 51. Lời tâm sự)

    4). Về ông Nguyễn Hữu Đang “người được Bác Hồ trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập mồng 2-9-1945. Anh Đang suốt đời trung thành với Bác Hồ và với lý tưởng Độc lập-Tự do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách mạng nhưng đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng qúy. Những hy sinh ấy chính là tấm gương sáng ngời treo cao trước mắt chúng ta.” (trg 54. Lời tâm sự)

    5). Về ông Đào Duy Anh “Tôi sẽ thiếu sót rất nặng nếu không bày tỏ cảm nghĩ của mình về học giả lớn và nhà yêu nước Đào Duy Anh. Từng là tổng bí thư và sau đó, là một trong những người thuộc bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng, Đào Duy Anh đã lặng lẽ và bền bỉ hiến dâng toàn bộ tài năng và nhiệt huyết của mình cho độc lập và tự do của dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Hàng chục tác phẩm của ông bao gồm các loại từ điển và các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam ..vv... trở nên một hạt ngọc trong chuỗi ngọc di sản văn hoá dân tộc. Hồi ký của ông là hình ảnh trung thực của chính ông và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng thế hệ ông suốt mấy chục năm bão táp đấu tranh cứu nước. Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng Việt Nam thế kỷ 20, Đào Duy Anh được nhìn nhận như một nhà yêu nước, một nhà đạo đức, một bậc hiền tài.” (trg 55. Lời tâm sự)

    6). Nhắc đến các văn nghệ sĩ "Nhân Văn - Giai Phẩm" bị đánh tơi bời Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: “Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.” (trg 34. Lời tâm sự)


    Ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với những lời rất tốt đẹp. Tôi chỉ xin trích vài trường hợp, để làm một việc so sánh, với những nhận xét của Tố Hữu trước đây, khi ông còn đương quyền đương chức, đang chỉ đạo cuộc đánh phá anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm".
    Tài liệu sau đây lấy trong báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm”, do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia.
    Nhận định tổng quát về “Nhân Văn - Giai Phẩm” Tố Hữu viết:

    + Lật bộ áo “Nhân Văn - Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật tham, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)

    + Trong cái công ty phản động “Nhân Văn - Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ. (trg 17. Sđd)

    + Với sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân Văn cũng “chuyển mạnh sang chính trị”, nghĩa là đi đến “hành động quần chúng”. Những bài đánh vào nền chuyên chính, đòi phát triển tự do tư sản, đòi cho hoa độc, hoa thối tự do đua nở và đả kích từ quân đội, công an, mậu dịch, sở báo chí, cho đến cả quốc hội cũng không đủ nữa [ .... ] Chúng muốn gì? Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang và cả bọn họ luôn luôn tuyên truyền “sẽ có biến động lớn”. Rõ ràng chúng không muốn gì khác hơn Mỹ-Diệm: lật đổ chế độ dân chủ cộng hoà và Đảng lãnh đạo. (trg 18. Sđd)

    + Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn, Sĩ Ngọc ở Hội Mỹ thuật, Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ sân khấu, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ .... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn trốt-kít Trương Tửu, “quân sư”Trần Đức Thảo, và những kẻ khác ... (trg 21. Sđd)

    + Không thể che giấu được cái lịch sử phản cách mạng của Phan Khôi một đời những 5 lần phản bội, phá hoại phong trào cách mạng; không thể che giấu được cái dã tâm của tên đầu cơ cách mạng Nguyễn Hữu Đang hơn 10 năm trời vì cái đầu óc cường hào xôi thịt như cái gốc của hắn, mà luôn luôn bất mãn, kèn cựa, hằn học, dần dần đi vào con đường làm phản, bán mình cho kẻ địch, đánh lại nhân dân, tổ quốc, đánh lại chế độ chúng ta; không thể che giấu được cái chân tướng trốt-kít thâm căn ngót 20 năm nay của Trương Tửu và cái cốt cách đen tối của Trần Đức Thảo “đứa con nuôi của đế quốc” như y đã tự nhận; cũng không thể che giấu được chân tướng của bọn gián điệp như Thụy An, mật thám như Trần Duy, trước kia đã từng “lập công” với bọn chủ Pháp, nay lại ngựa quay về đường cũ; và những phần tử phản động trong giai cấp tư sản tích cực ủng hộ bọn chúng như Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) .... (trg 43. Sđd)


    Cũng xin trích dẫn một số đề mục của bản báo cáo tổng kết để bạn đọc thấy cuộc đấu tranh chống “Nhân Văn - Giai Phẩm” dữ dội đến thế nào:

    [.....] Những tư tưởng chính trị thù địch

    1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.

    2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.

    3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.

    4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.

    Những quan điểm văn nghệ phản động

    1. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực té là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “ sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.

    2. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.

    3. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.

    4. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. [......]

    Còn có thể trích dẫn nhiều nữa, nhưng thiết tưởng đã đủ để bạn đọc nhận ra: đã có hai Tố Hữu, khác hẳn nhau như nước với lửa, như lòng bàn tay với mu bàn tay.
    Vậy Tố Hữu nào mới là thật Tố Hữu ?
    Trong bản báo cáo tổng kết về “Nhân Văn - Giai Phẩm” (1958), Tố Hữu có hai lần trích lời Lê Duẩn. Mặc dù lúc ấy Lê Duẩn chưa làm tổng bí thư, nhưng chiều hướng đang lên, rồi sẽ làm. Những câu trích ấy cũng bình thường, chưa phải lời vàng ý ngọc gì - nhưng Tố Hữu cứ trích, vì ông là người khôn ngoan, tính được nước cờ.

    Ví dụ 1: Đúng như đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong kháng chiến chủ nghĩa cá nhân chưa bị đánh tan, nó mới bị dồn ép lại một góc, nên đến khi có điều kiện, thì nó vùng dậy một cách hờn giận.” (trg 31. Sđd)

    Ví dụ 2: Như đồng chí Lê Duẩn nói: “Phải biết thấy cái chồi xanh mọc lên dưới chân cây chuối úa vàng. Nếu không, sẽ chỉ thấy những lá úa che lấp mà không thấy chồi non, sẽ bi quan thất vọng.” (trg 33. Sđd)


    Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi năm 1997, không thấy trích dù một lời của ông Lê Duẩn nữa. Vì ông Duẩn (và cả ông Thọ) đã mất, để lại nhiều tai tiếng. Còn ông Giáp vẫn sống, uy tín ngày càng cao, nhất là trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, tên tuổi ông lại rực sáng lên như một ngọn hải đăng.
    Con người biết sám hối là điều rất đáng được trân trọng. Biết sám hối, biết hối hận làm con người trong trắng hơn lên, cao đẹp hơn lên. Nhưng cần sám hối thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình.
    Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được ông Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng ông Tố Hữu rất tốt với mọi người, rất đáng kính và rất đáng yêu, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được ? Ông Tố Hữu đã viết trong Lời tâm sự:

    Bất cứ một người nào, nếu tìm cách này hoặc cách khác “đánh” đồng đội và đồng nghiệp thì người đó sớm muộn sẽ chết trong trái tim của thế hệ cùng thời hoặc các thế hệ mai sau” (trg 64. Sđd)

    Rất tiếc là ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã mất rồi. Nếu các ông sống lại và được đọc những dòng trên, và tự liên hệ bản thân, thì phải khen ông Tố Hữu nói giỏi, nói rất giỏi.
    Phần viết thêm:
    Chúng tôi phải cảm ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì biết công sức anh bỏ ra thật là không nhỏ cho bài viết “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”dài 67 trang vi tính khổ A4. Tôi hình dung anh phải gỡ những băng ghi âm cuộc hỏi chuyện kéo dài 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối) vất vả đến thế nào, sắp xếp lại câu chữ gọn gàng cho lọt mắt người đọc, vì văn viết khác với văn nói.
    Và như vậy phải thấy là ông Tố Hữu có một trí nhớ phi thường. Người già 77 tuổi, lại đau ốm, cứ ho luôn trong buổi hỏi chuyện, mà nhớ được như vậy, các sự việc, tên người, rất nhiều tên người và tên tác phẩm của từng người, ông Tố Hữu nhớ lại được hết trong một buổi nói chuyện, mạch lạc, đâu ra đó. Thật khó mà tuởng tượng nổi. (Người có trí nhớ như vậy hẳn ông Tố Hữu khó có thể quên những gì ông đã kết tội anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” trước đây.)
    Qua lời văn mà lột tả được tính cách con người, tôi thấy anh Nhật Hoa Khanh thành công ở đoạn Tố Hữu nói về Phạm Duy:
    (Xin trích một chút) Nhật Hoa Khanh hỏi Tố Hữu:

    “- Thưa anh, trong hồi ký về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhac sĩ Phạm Duy có kể: tại hội tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948) Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.

    Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:
    - Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi ký. Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.” (trg 4. Lời tâm sự)


    Một đối thoại nhỏ vậy, bộc lộ hết tính cách của Tố Hữu. Một con người rât vụ vào quyền lực. Khá lạnh lùng với anh em. Có thể Nhật Hoa Khanh không cố ý nhưng anh đã lột tả đúng chân tướng của Tố Hữu. Thật tài tình. Thời xưa là khuyên đỏ, bây giờ thì rất đáng điểm 10.
    Chúng tôi còn phải cám ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì nhờ bài viết của anh mà tôi lại có dịp được bàn thêm về Tố Hữu và anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Ở bài viết này tôi chỉ xin cung cấp một ít tư liệu xưa về “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để độc giả ngày nay tự phán xét.
    Cuối cùng, điều tôi muốn nói là ông Tố Hữu sám hối thật hay chưa thành thật, điều ấy không quan trọng, sự thực là ông đã thanh minh với ông Giáp và với anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”, có nghĩa là trong thâm tâm ông đã nhận ra cái sai của mình trước đây.
     
    Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.
     
    Cái sai của vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, 30 năm sau Đảng đã nhận ra, với lời tuyên bố của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Cởi trói cho văn nghệ sĩ” (1986). Tuy không chính thức xin lỗi, nhưng đã sửa sai, anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được phục hồi công việc, được xuất bản những sáng tác phẩm.
    Thế mà phải 40 năm sau (1997) ông Tố Hữu mới có lời tâm sự để Nhật Hoa Khanh ghi, đã không nhận lỗi phần mình mà chỉ ra sức thanh minh. Thế mới biết tư tưởng con người thay đổi chậm chạp, nhất là những người một thời có quyền lực lớn.
    Còn vụ án Xét Lại - Chống Đảng những năm 1966—1968, thì sau này ông Nguyễn Trung Thành người phụ trách công tác bảo vệ Đảng hồi bấy giờ, người đứng vị trí thứ hai sau ông Lê Đức Thọ thụ lý vụ án Xét lại-Chống Đảng, đã chính thức gửi đơn minh oan cho 38 cán bộ Đảng trung cao cấp bị kết tội oan.
     
    Vậy là trong quá trình cư xử với nhau chúng ta đã có những sai lầm. Đã làm tổn hại đến những thành phần tinh hoa của đất nước.
     
    Tôi tha thiết đề nghị các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay nên rút những kinh nghiệm xưa, để đừng mắc phải những sai lầm đáng tiếc bây giờ. Trước mắt là vụ bắt bớ giam cầm những người lên tiếng về dân chủ, về chống tham nhũng, về đất đai biên giới ..v.v..... vu cho họ tội gián điệp, kết án nặng nề như các ông: cựu chiến binh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Khắc Toàn, cử nhân luật Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình; và đang giam giữ chờ xét xử là các ông: nhà nghiên cứu văn hoá Hán Nôm Trần Khuê, đại tá tổng biên tập tạp chí Lịch sử quân sự, nhà báo Phạm Quế Dương, nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng bác sĩ Nguyễn Đan Quế ...vv...
     
    Những con người ưu tú kể trên mà bị quàng tội là gián điệp thì thật không thể nào hiểu nổi.
    Chúng ta đã nhận ra phần dân chủ của đất nước còn yếu kém. Nên Đại hội Đảng IX đã phải đưa hai chữ dân chủ vào nghị quyết. Có nghị quyết rồi thì phải thi hành. Hiểu đơn giản về dân chủ là phải biết lắng nghe những ý kiến khác với chủ kiến của mình. Nên chấm dứt dùng bạo lực đàn áp những người khác chính kiến. Nên tạo một thói quen bàn bạc, tranh luận, tìm ra đồng thuận.
    Kẻo rồi sau này lại phải hối hận, rằng, bước vào thế kỷ thứ 21, nước ta sao mà lắm gián điệp đến thế ???
    Nói lại chuyện “Nhân Văn - Giai Phẩm” xưa kia, để rút kinh nghiệm cho công việc đất nước hôm nay, như thế gọi là ôn cố tri tân (ôn cũ biết mới), nó là điều cần thiết để đất nước đi lên vậy.
     
    Tôi kính chuyển bài viết này tới các vị lãnh đạo Đảng - Nhà nước, và kính chuyển tới tất cả bạn đọc. Có điều gì không phải mong được thứ lỗi trước.
     
    Hà Nội ngày 6 tháng 6 năm 2004

    Hoàng Tiến, nhà văn

    Địa chỉ:
         Nhà A 11 Phòng 420
         Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.

    Nơi gửi:
         - Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
         - Ban Tư tưởng—Văn hoá
         - Bộ Văn Hoá
         - Bộ Công an
         - Hội Nhà văn Việt Nam
         - Hội Nhà văn Hà Nội
         - Các cơ quan báo chí, thông tấn
         - Bè bạn văn nghệ sĩ
         - Các bạn đọc quan tâm

     
    Hoàng Tiến
     
     http://anhduong.net/LinhTinh/Aug06/HoangTien-ToHuu.htm
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 06.04.2007 02:20:41
    Nhân Văn-Giai Phẩm
     
     
    Có thể nhìn thấy ảnh hưởng của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm trên ba bình diện: cá nhân, nền văn học và cả xã hội. Về ảnh hưởng trên các cá nhân, chúng tôi đã có dịp trình bày hoàn cảnh của một số văn nghệ sĩ mà hoạt động sáng tác của họ bị ngưng trệ trong ba bốn chục năm, và như một phép lạ, một số vị đã vượt thoát đựoc cái định mệnh oan nghiệt để lại vươn lên khi đựơc phục hồi. Tiếc rằng một số vị đã ngã gục và một số đã qua đời.
     
    Trong số những văn nghệ sĩ là nạn nhân và có dịp nói lên tâm trạng và hoàn cảnh của mình trong suốt mấy chục năm bị vứt ra ngoài lề xã hội, chúng tôi chú ý đặc biệt đến nhà thơ Lê Đạt. Ông mô tả cái tâm trạng lúc nào cũng e ngại, sợ hãi của người bị “giang sơn ruồng bỏ giống nòi khinh”, và ông sử dụng từ “rẻ rách hoá” thật là tài tình mà cũng thật là đau xót:
    Ông Nguyễn Minh Cần, trong thời gian xẩy ra vụ án là phó bí thư thành uỷ Hà nội phụ trách tuyên huấn thì nói lên hoàn cảnh của lụât sư Nguyễn Mạnh Tường để minh hoạ tình cảnh bị bao vây chẳng những về chính trị mà cả về kinh tế nữa.
     
    Ông cũng nói lên ảnh hưởng của vụ án đối với nền văn học Việt Nam: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)


    Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org
    Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

    Về điểm này, thì nhà nghiên cứu Sử Trần Gia Phụng từng sống ở miền Nam sau năm 1954 cũng nhận xét: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)
    Và sau hết là ảnh hưởng về lâu về dài của vụ án, xét như một phần trong kế hoạch rộng lớn đã đựơc đảng Lao động Việt Nam hoạch định và thi hành mấy chục năm qua: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

    Theo dòng câu chuyện:

    - Vai trò của nhạc sĩ Văn Cao trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 9)
    - Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm (phần 8)
    - Những nhân vật trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần 7)
    - Sắc lệnh Báo chí bóp chết các tờ Trăm Hoa, Giai Phẩm, và Đất Mới không kèn không trống (phần 6)
    - Giai Phẩm Mùa Thu ra đời với những bài vở nặng về chính trị hơn (phần 5)
    - Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp về diễn tiến của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm (phần 4)
    - Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3)
    - Phỏng vấn ông Trần Gia Phụng về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 2)
    - Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)
     
    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/20/nhanvangiaiphamP10_NAn/
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 19.04.2007 02:30:34

    Nhân Văn Giai Phẩm

     
    Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
     1   2   45   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   52   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   120121   122123   124125   126127   128129   130131   132133   134135   136137   138139   140141 
    8.1.2007 Hữu LoanTự phỏng vấn Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19 năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.
    talawas





    Nhà thơ Hữu Loan (ảnh: talawas)Tiểu sử

    Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.

    Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường.

    Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.

    Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .

    Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3]

    Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?

    Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.

    Phóng viên: Bác ngại sao?

    Hữu Loan: Cũng ngại chứ!

    Phóng viên: Vì sao vậy?

    Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.

    Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.

    Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:

    “Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng.”

    Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:

    “Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương.”


    Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:

    “Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”

    Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:

    “Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”

    Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?

    Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.

    Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?

    Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.

    Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…

    Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.

    Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:

    “Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”

    “Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”

    “Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”

    Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”:

    “Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”

    “Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…”

    Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.

    Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.

    Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.

    Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.

    Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…

    Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.

    Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".

    Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….

    Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết [4] .

    Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ).

    Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?

    Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ [5] .

    Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

    Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]

    Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

    Một người nhà báo hỏi ông:

    “Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”

    Ông Trương Chinh sửng sốt:

    “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.”

    Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.

    Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.

    Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.

    Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn".

    Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.

    Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.

    Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về…

    Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.

    Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.

    Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.

    Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:

    “Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.”

    Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ.

    Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn.

    Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.

    Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"

    Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.

    Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.

    Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?

    Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:

    Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha.

    Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.

    Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.

    Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.

    Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…

    Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.



    *

    Phụ lục:

    Hữu Loan
    Giai thoại về một bài thơ

    Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì chưa thể làm người được".

    Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…

    Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.

    Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:

    “Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”

    Xuân Diệu trấn an ngay:

    "Bài thơ hay quá!"

    Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà không khỏi hoảng.

    “Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”

    Tôi vội hỏi:

    “Câu nào?”

    “Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"

    Tôi hơi bực:

    “Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có câu ấy.”

    Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:

    “Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần chúng à?”

    Tôi khẳng định:

    “Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”

    Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.

    © 2007 talawas





    [1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).
    [2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn.
    [3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học."
    [4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956
    [5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày 20.9.1956
    [6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956
    [7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956
    http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8950&rb=0102
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    RE: Nhân Văn Giai Phẩm - 27.04.2007 01:38:06
    Khởi nguồn
     
    Cơ quan ngôn luận của phong trào này là Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm chủ nhiệmTrần Duy làm thư kí toà soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
    Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng 3 năm 1956, do nhà thơ Hoàng CầmLê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, với hai câu thơ nổi tiếng:

    Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà
    Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.
    Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trong Giai phẩm Mùa thu.
    Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân trong khiếm khuyết về dân chủ:

    a. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.

    b. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.//
    Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi v.v., nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
    Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân văn số 5 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
    Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành.
    Sau đó, các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương. Một số còn bị đem đi thủ tiêu[cần chú thích]. Dư luận chung thường gọi đây là "Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm".

     Một số văn nghệ sĩ trong phong trào













     "Tác giả" của việc dập tắt phong trào
    Người được coi là "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm thường quy về cho Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:

    Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).

    Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
    Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:

    Những tư tưởng chính trị thù địch
    1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
    2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
    3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
    4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.


    Những quan điểm văn nghệ phản động
    1. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
    2. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
    3. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
    4. Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.


    [sửa] Bình luận của Văn Cao về Tố Hữu
    Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về "tác giả" của việc dập tắt phong trào Nhân văn - Giai phẩm (Do những lời nói được cho là của Văn Cao này được dẫn ra trong một cuốn sách mà Văn Cao không phải là tác giả, nên khó có thể kiểm chứng được mức độ chính xác của nó.).

    Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy - Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn - Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche[1] mới là kẻ sáng tác ra Nhân văn - Giai phẩm. Ðể chạy tội Cải cách ruộng đất. Ðể tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Ðừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế - bất cần đời. Ðôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: "Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Ðổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!" Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu - tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.

     Giải thưởng Nhà nước


     Chú giải

    Tiếng Pháp, ý nói Trường Chinh.
    Đại từ tiếng Pháp "lui", tức ông ấy.
    Công bố danh sách Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước trên trang chủ của Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam, 13 tháng 2, 2007.
     
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_v%C4%83n_giai_ph%E1%BA%A9m
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 03.05.2007 03:27:27
    Paris By Night và Nhân Văn Giai Phẩm
     
    Đỗ Thái Nhiên

    Paris By Night, Asia Productions, và Nhân Văn Giai Phẩm
     
    .....
     
    Từ cuộc thi tuyển ca sĩ tại hải ngoại, chúng ta hãy hướng mắt nhìn về một cuộc thi đặc biệt ở Việt Nam. Có hai hình thức thi đua: thi có tổ chức và thi tự phát. Người bộ hành bị một tên trộm giật mất cái ví tiền. Người này lập tức rượt đưổi tên trộm. Như vậy là có cuộc thi chạy bộ giữa nạn nhân và tên trộm. Đó là thi tự phát. Năm 1956 tại Bắc VN, do bị CS tước đoạt quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, giới văn nghệ sĩ miền Bắc đã thành lập nhóm Nhân Văn để đòi lại những nhân quyền đã mất. Từ đó đã khởi sự một cuộc thi tự phát giữa Nhân Văn và CSVN. Đôi bên đều lấy nhân quyền làm đối tượng để thi đua. Nhóm Nhân Văn xem quyền tự do sáng tác là nhân quyền hàng đầu của công dân. CSVN xem nhân quyền là tài sản riêng của đảng CSVN. Trong cuộc thi này CSVN vừa là thí sinh bất đắc dĩ vừa là giám khảo. Qua đến năm 1958, CSVN quyết định thẳng tay đàn áp Nhân Văn, thay vì tiếp tục thi đua tranh cãi về nhân quyền... Cuộc đàn áp này cực kỳ tàn ác, kéo dài nhiều thập niên.
     
     
    Trần Dần và vợ
    Nguồn: vnn.vn

    Thế rồi, 49 năm sau (1958 – 2007), ngày 13/2/2007, CSVN công bố giải thưởng cho bốn người trong nhóm Nhân Văn: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán...
    Xin được nhắc lại nhóm Nhân Văn gồm: Cụ Nguyễn Hữu Đang (trụ cột của nhóm), cụ Phan Khôi (chủ nhiệm Nhân Văn Giai Phẩm), kế đó là các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Dần ... Vào lúc CSVN công bố giải thưởng cho Nhân Văn thì toàn bộ nhóm này đã qua đời, ngoại trừ hai nhân vật tương đối ôn hòa là Hoàng Cầm và Lê Đạt vẫn còn sống. Nhân dịp công bố giải thưởng cho Nhân Văn, nhà văn Đỗ Chu, thành viên của hội đồng giải thưởng chuyên ngành văn học, đã nói với báo chí rằng có thể xem giải thưởng này như là “lời xin lỗi của anh em đối với các anh.” Dư luận gần như không chú ý đến lời xin lỗi quá nguội kia. Dư luận chỉ ghi nhận: giải thưởng cho Nhân Văn đã nhắc nhở quần chúng là tuyệt đa số thành viên Nhân Văn đã qua đời. Công bố giải thưởng dành cho Nhân Văn chính là lời cáo phó đối với Nhân Văn. Ngay khi Nhân Văn bị đàn áp tàn tệ, cụ Phan Khôi đã tiên liệu một ngày kia CSVN sẽ phải xin lỗi Nhân Văn nhưng thể thức xin lỗi sẽ rất lơ mơ và vô nghĩa. Cụ Phan Khôi viết:

    “Làm sao cũng chẳng làm sao
    Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
    Làm chi cũng chẳng làm gì
    Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao.”

    Phan Khôi

    Những trình bày về cuộc thi của Paris by Night , Asia Productions và cuộc thi tự phát của nhóm Nhân Văn đã dẫn đến bốn nhận định chủ yếu:

    - CSVN thường xuyên lớn tiếng kêu gọi hòa hợp hòa giải. CSVN có tòa đại sứ và sứ quán trên khắp thế giới, có dư giả phương tiện tài chánh. Tại sao họ không tổ chức những cuộc thi kiểu Paris by Night, Asia Productions để tạo liện hệ tốt đẹp với người Việt trên khắp thế giới? Câu trả lời nằm ở tâm lý hèn nhát của CSVN: họ không dám để cho người dân được quyền tự do ca hát!

    - CSVN phải chờ cho đến ngày nhóm Nhân Văn qua đời gần hết mới dám công bố giải thưởng, họ sợ nếu còn sống, nhiều người trong Nhân Văn sẽ từ chối giải thưởng của CS. Mặt khác CSVN bắt buộc phải làm hòa với nhóm Nhân Văn để tạo cho dư luận ảo tưởng rằng CSVN ngày nay đã thực sự tiến bộ. Trong thực tế khi công bố giải thưởng cho Nhân Văn, CSVN đã đóng vai con sói già trong câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” .

    - So sánh công việc thi tuyển ca sĩ của Paris by Night và Asia Productions với kiểu công bố giải Nhân Văn của CSVN, công luận nhận biết thật rõ ràng tính trong sáng, minh bạch của sinh hoạt dân chủ và bản chất đen tối, phản văn minh ẩn náu đaằng sau mọi hành động của CS độc tài, tham ô. Đó là lý do giải thích tại sao lời kêu gọi “ mọi người VN hãy đoàn kết sau lưng đảng CSVN để xây dựng quê hương” đã và sẽ chẳng bao giờ được người VN hưởng ứng.

    - Sau cùng, cả Paris by Night lẫn Asia Productions qua việc thi tuyển ca sĩ dành cho người Việt Nam trên toàn Thế giới (nhất là người Việt đang sống trên quê hương) đồng loạt đạt được ba hệ quả rất quan trọng. Một là nuôi dưỡng và phát triển lòng yêu nước, nhớ nhà trong sinh hoạt tình cảm của người Viêt ly hương. Hai là tạo nhịp cầu thương yêu và thông cảm giữa người Việt trong và ngoài nước. Ba là làm cho hoạt động dân chủ trở nên đơn giản và dễ hiểu. Dân chủ là dân chủ, không hề có vấn đề dân chủ Á Châu khác với dân chủ Âu Châu. Quả thực Paris by Night và Asia Productions hoàn toàn xứng đáng dược vinh danh bằng những lời lẽ trang trọng nhất.

    http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3077
    http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3077
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 24.05.2007 02:22:13
    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/TranGiaPhung150.jpg

     
    Tiếp tục loạt bài về Nhân Văn Giai Phẩm, chúng tôi xin trình bày bối cảnh xuất hiện của phong trào qua cuộc trao đổi với hai ông Trần Gia Phụng và Nguyễn Minh Cần.

    Ông Trần Gia Phụng là một nhà nghiên cứu Sử sinh sống tại miền Nam Việt Nam, và ông Nguyễn Minh Cần là một nhân chứng sống, có mặt tại miền Bắc, ở ngay trung tâm của cơn bão Nhân Văn.

    Nhận định của hai ông do đó mà có những điểm nhấn khác nhau mặc dù về đại thể thì tương tự. Lý do là bởi mỗi vị nhìn vấn đề từ những góc độ khác nhau.

    Chúng tôi sẽ trình bày quan điểm của cả hai ông để quý thính già rộng đường thẩm định. Kỳ này, xin gửi đến quý vị nhận định của nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng qua cuộc trao đổi với BTV Nguyễn An của ban Việt ngữ.
    Ông Trần Gia Phụng tốt nghiệp đại học sư phạm Huế và cử nhân giáo khoa khoa Sử trường đại học Văn khoa Huế.

    Chúng tôi mong mỏi nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung từ quý vị và các bạn nghe đài, nhất là những người mà Nhân Văn là một cơn ác mộng. Mọi email xin gửi về Vietweb@rfa.org

    Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do

    (Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên)
    Quý thính giả vừa nghe cuộc trao đổi giữa BTV Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về bối cảnh của phong trào và vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Kỳ tới, chúng tôi sẽ gửi đến quý thính giả ý kiến của ông Nguyễn Minh Cần cũng về vấn đề này. Mong quý thính giả đón nghe.

    Theo dòng câu chuyện:

    - Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 3)
    - Mở lại bộ hồ sơ vụ án Nhân Văn Giai Phẩm (phần 1)


    Những bài liên quan


    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/09/15/nhanvangiaiphamP2_NAn/



     

     

     


     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.06.2007 10:14:57 bởi LXMai >
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 25.05.2007 01:28:14
    Mở lại hồ sơ:
     Vụ án Nhân Văn Giai Phẩm
    2006.09.15  Nguyễn An, phóng viên đài RFA
     
          
     
     
    Ngày này đúng 50 năm trước, Bán nguyệt san Nhân Văn số 1 ra mắt tại thủ đô Hà nội của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, mở đầu cho giai đoạn hai của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

    Tấm lòng muốn đổi mới, đòi trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ của những người chủ trương đã chuyển hoá thành sự náo nức của người dân thành thị đón chào một luồng gíó mới đầy hứng khởi, và khơi dậy niềm khát khao dân chủ tự do nơi không ít thành phần trí thức.
    Phong trào bùng phát mạnh mẽ, nhưng chỉ sau ba tháng đã bị dập tắt và phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trở thành vụ án Nhân Văn Giai Phẩm bởi tất cả những ai liên hệ sau đó đều chìm vào cơn ác mộng đoạ đầy suốt mấy chục năm.

    Một kỷ lục
    Báo Nhân văn và các ấn bản Giai Phẩm có mặt tại miền Bắc Việt nam, lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đúng 50 năm trước.
    Nhân Văn là một bán nguyệt san xuất bản tại Hà nội, và sống vỏn vẹn chưa đến ba tháng với năm số báo, tính từ số 1 ra ngày 15 tháng 9 năm 1956 và số sáu chưa in xong thì báo bị đóng cửa ngày 15 tháng chạp cùng năm.



    Trước đó, vào tháng hai năm 1956, đã xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng ấn bản này bị tịch thu ngay. Cuối tháng tám, xuất hiện Giai Phẩm mùa Thu, 10 ngày sau tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân, rồi cuối tháng 10, lại có Giai phẩm Mùa Thu tập 2. Qua tháng 11 thì có Giai Phẩm Mùa Thu tập 3 và đến tháng 12 là Giai Phẩm Mùa Đông.

    Phải nói thêm một tờ báo nữa xuất hiện đồng thời với Giai phẩm Mùa Thu tập 2, nhưng do giới sinh viên đại học thực hiện, và chỉ ra được đúng một số duy nhất, là tờ Đất Mới, và môt tờ báo khác cũng nương theo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm mà mạnh dạn ăn nói là tờ Trăm Hoa của nhà thơ Nguyễn Binh.


    Tính theo thời gian, thì tuổi thọ của Nhân Văn Giai Phẩm chưa đầy một năm. Nói chính xác là chỉ có hơn 10 tháng, kể từ lúc xuất hiện Giai Phẩm Mùa Xuân cho đến lúc báo Nhân Văn bị đóng cửa. Tính theo số ấn phẩm, thì chỉ có 10, gồm 5 Giai Phẩm và 5 số báo Nhân Văn.


    Tuy nhiên, Nhân Văn Giai Phẩm đã ghi lại những kỷ lục mà cho đến nay, với 61 năm lịch sử của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chưa có một diễn biến nào vượt qua được. Riêng nhà văn Hoàng Tiến trong bài viết gần cuối thế kỷ 20 đã gọi đây là một “vụ án văn học, có thể nói là kinh thiên động địa, chưa bao giờ xẩy ra ở Việt Nam với tầm vóc quy mô như thế.”

    Tác động mạnh mẽ đến xã hội
    Nhân Văn Giai Phẩm thường được nói đến như một phong trào, nhưng nếu coi đó là một phong trào, thì phải nói là thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo, và thiếu cả phương tiện.


    Mặc dù thế, Nhân Văn Giai Phẩm đã tác động mạnh mẽ đến xã hội đến nỗi ngày đầu tiên phát hành báo Nhân Văn tại Hà nội đã là một ngày hội của quần chúng, như lời nhà thơ Lê Đạt, một trong những người chủ trương kể lại, trong cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thụy Khuê thực hiện tại Paris năm 1999 cho tạp chí Văn học của đài RFI như sau:
    “Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả!


    Lúc đó tôi đứng đấy tôi nhìn thì tôi mới thấy đúng là ' ngày hội của quần chúng ', không biết ngày hội ấy có kéo dài nhiều không nhưng đúng là ngày hội của quần chúng thật, tức là: không thể đi được! Bản thân tôi, tôi cũng không đi được.


    Cứ ra thì người ta lấy hết báo, lại vào, lại cứ liên tục như thế mà chẳng phải quảng cáo gì cả. Số 1 báo Nhân Văn ấy, sau khi nó ra rồi, đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc lại hai câu thơ của tôi:


    Ðem bục công an đặt giữa trái tim người

    Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước
    Nhất là sinh viên ủng hộ rất nhiều. Tờ báo Nhân Văn số 1 lập tức là phải in lại sau đâu có một hai ngày gì đó.”

    Bị tiêu diệt, đầy đọa
    Đáp lại, nhà nước Cộng sản tại miền Bắc thời bấy giờ đã huy động toàn bộ lực lượng để đối phó, nói thẳng ra là để tiêu diệt. Người trực tiếp đứng ra thực hiện chiến dịch này là nhà thơ Tố Hữu, lúc ấy là trưởng ban Tuyên Huấn trung ương của đảng. Không có ai bị lãnh án tử hình theo nghĩa là đem ra pháp trường bắn, nhưng tất cả những ai liên quan đến Nhân Văn Giai Phẩm đều bị đầy đọa. Đầy đoạ nhiều ít tuỳ theo mức độ liên quan.
    Người liên quan nhiều thì bị đầy đọa nhiều, ít thì bị đầy đọa ít. Nhiều có nghĩa là bị đưa ra toà kết án tù, bị khóa sổ sáng tác, bị gạt ra ngoài lề mọi sinh họat văn học nghệ thuật và bị bao vây kinh tế - nghĩa là đói, còn ít thì bị đưa đi lao động cải tạo, gọi là để xâm nhập thực tế, rồi cho sống lay lất, và cũng bị gạt ra khỏi sinh họat văn học nghệ thuật, còn nếu chỉ đụng đến nhưng thật nhẹ, như là từng đọc qua một hai bài, từng phát biểu một ý kiến không tích cực chống, thì lý lịch cũng bị coi là có tì vết và ảnh huởng suốt đời.


    Số người nằm trong trường hợp này không phải là ít, nhưng không rõ là bao nhiêu. Mời quý thính giả nghe nhà thơ Lê Đạt nói về chuyện này như sau, cũng trong một cụôc phỏng vấn do nhà nghiên cứu Thuỵ Khuê thực hiện năm 1999:


    “Tất cả những ai, chỉ cần có một tờ Nhân Văn, đọc một tờ Nhân Văn hay là gửi tiền đến Nhân Văn, thì sau đó, khi Nhân Văn bị đánh rồi thì người đó coi như bị vào sổ đen hết. Có thể là anh phải chuyển công tác, có thể anh phải đi lao động, tôi đã gặp rất nhiều sinh viên, những cô sinh viên trẻ phải đi lao động rất lâu năm vì đã đọc Nhân Văn, thì cái số người ấy tôi không đếm xuể được.


    Chính bây giờ tôi cũng tự hỏi đấy: 'Không biết là mình đối với họ mình có tội gì không?' Lẽ dĩ nhiên là trong một cuộc đấu tranh cho cái mới thì chúng ta mỗi người phải chịu một ít. Nhưng họ, đúng là họ không có ý thức gì cả, họ chỉ ham muốn, ham muốn tự do, thì không có gì sai lầm cả; đọc một tờ báo, gửi một cái viện trợ... mà sau này nó kéo, nó kéo có khi cả một đời họ...


    Cho nên đến bây giờ tôi vẫn không biết là công mình nhiều hay tội mình nhiều và lúc nào tôi cũng nghĩ đến họ. Mà ở Việt Nam thì không có gì rõ ràng cả. Cái chữ nó rất neutre mà lại rất gay go, người ta gọi là liên quan. Liên quan là dính líu đấy thôi. Nhưng mà anh đã liên quan là anh... gay go lắm.


    Liên quan với Nhân Văn, liên quan với địa chủ, liên quan với tư sản... thì tất cả những người này cũng là một thứ liên quan mới; liên quan với Nhân Văn là khổ lắm, nhất là lớp sinh viên trẻ, đi lao động, đi cải tạo... mà có phải chỉ Hà Nội đâu, ở những các nơi, các tỉnh đều có người ủng hộ cả. Thì những người đó mình không bao giờ biết thân phận họ ra sao.”

    Một vụ án kỳ quặt
    Vì có người bị tù tội, bị trừng phạt, nên Nhân Văn Giai Phẩm còn là một vụ án. Chỉ có trên dưới một chục người bị lãnh án, và không một ai bị nêu tội danh là Nhân Văn Giai Phẩm, cả mặc dù ai cũng biết đó là lý do đích thực.
    Còn lại hầu hết không bị tuyên án chính thức, không bị bỏ tù, nhưng bị đưa đi lao động cải tạo tại các công nông trường. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sau này nhớ lại, trong cuộc chuyện trò với một phái viên của RFA:
    “Lúc bấy giờ là năm 1958. Chúng tôi năm người là Nguyễn Huy Tưởng, bí thư đảng đoàn hội nhà văn, Hùynh văn Đứng phụ trách hội Mỹ thuật, là đại biểu quốc hội, Nguyễn Tuân, phó chủ tịch hội nhà văn, Văn Cao và tôi được lệnh đi thực tế lao động ở quân khu Tây bắc.


    Khi đến nơi thì ông Chu Huy Mân đưa cho coi giấy của trung ương gửi, chỉ vỏn vẹn có mấy câu thôi, như thế này: Đây là năm người lãnh đạo có vấn đề, nhờ anh chăm sóc, dưới ký tên, Lành, tức là ông Tố Hữu. Đây là một chuyến đi lạ lùng vì văn nghệ sĩ chúng tôi không bao giờ phải đi lâu như thế cả, nhưng lần này là vì “có vấn đề”, vấn đề gì thì anh biết rồi đấy.”
    Ngoài ra, họ đều bị kết án tử hình tinh thần. Đối với những người trực tiếp liên quan, thì tác phẩm của họ không được xuất hiện với công chúng 30 năm, 40 năm, tức là suốt thời gian mà sức sáng tạo mạnh mẽ nhất, và có thể đóng góp nhiều nhất cho đời sống, cho xã hội. Khi họ được phục hồi trở lại, thì hầu hết sức khỏe đã tàn tạ và có những người tinh thần đã suy sụp.


    Nhà văn Hoàng Tiến 40 năm sau vụ án phát biểu: “Vụ án này thật là kỳ quái trong văn học sử Việt Nam, tức là bắt đi lao động cải tạo. Ngoài lao động cải tạo, thì những sáng tác phẩm của mình không được đâu sử dụng, tức là các báo, các tạp chí, các nhà xuất bản không đâu chịu in cho các ông Nhân Văn Giai Phẩm cả.


    Kéo dài hàng 30 năm trời. Không có cái vụ án nào mà kỳ quặc đến như thế. Đấy là cái nỗi oan khuất mà nhiều anh em văn nghệ sĩ trong giai đoạn ấy, tiếp quản Hà nội xong thì đến cái vụ Nhân Văn Giai Phẩm ấy thì không thể nào quên được.”

    Trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ
    Điều mà những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm mong muốn và đạo đạt lên Đảng Cộng Sản Việt Nam ngay từ đầu chỉ là trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ. Họ đạo đạt một cách rất nhẹ nhàng, lịch sự, có rào trước đón sau và luôn luôn xác nhận sự lãnh đạo của đảng, nhưng đáp lại, đảng đã quyết tâm tiêu diệt không chỉ Nhân Văn Giai Phẩm, mà cả những gì được gọi là “nọc độc của Nhân Văn Giai Phẩm” nữa.


    Không chỉ đánh tờ báo lúc nó đang sống, mà vài năm sau vẫn còn đánh. Không phải chỉ đánh bằng các biện pháp hành chính và cô lập, mà còn vận dụng tất cả mọi thế lực xã hội, từ các văn nghệ sĩ đến công nhân để dồn những ai dám chân thành góp ý, hay dám đồng tình với sự góp ý ấy vào chân tường. Còn yêu cầu được nêu ra từ 50 năm trước, thì nay, 50 năm sau vẫn chưa giải quyết, và những ai thẳng thắn góp ý xây dựng thì vẫn bị trù dập, mặc dù không toàn diện và triệt để như trước kia.


    Đó chính là lý do khiến ban Việt ngữ chúng tôi mở lại hồ sơ này, hồ sơ của những vấn đề cũ mà vẫn mới, của những người ôm mối oan khuất trong suốt mấy chục năm trời. Có những người đã chết, có những người đã suy sụp hoàn toàn, nhưng cũng có những người còn đang sống những năm tháng cuối cùng của cụôc đời, và cần một trái tim thanh thản để về với vĩnh cửu. Họ xứng đáng được như vậy, bởi họ đã hành động theo lương tri.

    ***
    Hình thức kỷ luật trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm
    Báo Nhân Văn bị đóng cửa vào giữa tháng 12 năm 1956. Hơn hai năm sau đó, những người liên quan đến Nhân Văn hay bị ảnh hưởng của Nhân Văn, mà nói theo ngôn ngữ thời đó, là bị “nọc độc của Nhân Văn” mới bị kỷ luật.
    Trong cuốn sách dày 370 trang mang tựa đề “Bọn Nhân Văn giai phẩm trứơc toà án dư luận” do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành vào tháng sáu năm 1959 tại Hà nội, nội dung chung của tất cả các bài viết ấy là những lời lên án, thóa mạ, hạ nhục không tiêc lời những nhà văn, nhà thơ Nhân Văn Giai Phẩm, từng có thời là bạn đồng hội đồng thuyền với các tác giả.
    Văn phong của họ khác nhau, và theo nhận xét của nhà nghiên cứu Thụy Khuê, thì qua những “văn bản tố, các tác giả đã để lại nhân cách trí thức của mình trong ký ức dân tộc.” Bà cũng ngậm ngùi nhận định rằng quyển sách đã “ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đạt tới đáy sâu của sự tha hóa”.
    Cuốn sách ghi rõ tên của 83 văn nghệ sĩ đã có những bài viết về Nhân Văn Giai Phẩm và những người chủ trương đựơc gọi là “bọn đầu sỏ nhóm Nhân Văn Giai Phẩm”.
    Những người bị kết án tù là Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Phùng Cung, Trần Thiếu Bảo chủ nhà xuất bản Minh Đức còn các văn nghệ sĩ đều bị đưa đi lao động cải tạo, bị cô lập và không có một tác phẩm nào được xuất hiện trước công chúng trong ít nhất 30 năm.

    Nhà thơ Hoàng Cầm thì kể lại với nhà nghiên cứu Thụy Khuê rằng không ngờ cái kỷ luật ấy kéo quá dài, chứ không phải chỉ ba năm lao động như đã tưởng lúc ban đầu. Ông nói là “thời gian cứ thể kéo đi, nó kéo thế nào mà cho đến năm 1988. Tức là kỷ luật suốt 30 năm. Năm người Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, và Hoàng Cầm, Đặng đình Hưng không đựơc in một cái gì cả trong suốt 30 năm, trong thời gian đó, nhà thơ phải lao động đủ mọi cách để sống còn, kể cả rủ Trần Dần đi làm nghề kéo xe bò. Một kết quả của những năm tháng đọa đầy đó là nhà thơ bị bệnh tâm thần, cụ thể là hỏang lọan và trầm uất mãi cho đến cuối năm 1988 mới tự phục hồi.
    Bệnh bắt đầu từ sau khi nhà thơ bị bắt giam 18 tháng sau vụ bản thảo “Về Kinh Bắc”. Lúc ấy, Lê Đạt đến thăm và ông mô tả lại rằng Hoàng Cầm đúng là “một cái rẻ rách”. Sau này, khi đã đựơc phục hồi về cả sức khỏe lẫn vị trí trong nền văn học, Nhà thơ vẫn không dấu đựơc ngậm ngùi khi nhìn lại quãng đời đã qua của mình.
    Nhà văn Phan Khôi và các giáo sư đại học như Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh đều bị cách chức, bao vây kinh tế và quản thúc cho đến khi qua đời. Nhưng đó không phải là hết.
    Còn không biết bao nhiêu người khác bị hệ lụy chỉ vì có liên quan nào đó với Nhân Văn Giai Phẩm mà sự liên quan đơn giản nhất có khi chỉ là đọc một tờ báo Nhân Văn thôi.
    Người bị đánh nhẹ nhất có lẽ là nhạc sĩ Văn Cao, bởi ông là tác giả của bản quốc ca. Ông chưa hề bị khai trừ khỏi đảng, chỉ phải đi lao động công nông trên Tây Bắc, nhưng một thời gian thì đựơc về vì xuất huyết bao tử. Ông liên quan vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm tại Hà nội trong năm 1956, nhưng đến tháng bẩy năm 1958, ông mới phải chịu đựng đợt kỷ luật đầu tiên, là “cho rút khỏi ban chấp hành hội nhạc sĩ” và sau đó đi thực tế lao động. Từ đó cho đến khi qua đời tại Hà nội vào năm 1995, ông không còn sáng tác được gì nữa.

    Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đưa đến vụ án Nhân Văn Giai phẩm với con số không nhỏ cả văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hoá lẫn người dân bình thường bị đầy đoạ vì có liên quan nhưng không rõ là bao nhiêu. Ảnh hưởng của vụ án Nhân Văn Giai Phẩm không chỉ trên bình diện cá nhân mà còn trên bình diện văn học và xã hội Việt Nam
    __________________________________
    Sau đây là lời kể của Ông Nguyễn Minh Cần 
    Ông Nguyễn Minh Cần là một nhân chứng tại chỗ vì lúc đó ông là phó bí thư thành ủy Hà nội phụ trách tuyên huấn, đồng thời là chủ nhiệm báo Thủ Đô. Để câu chuyện được liên tục, ông Cần bắt đầu bằng những chi tiết xẩy ra từ năm 1955, một năm trước khi Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời vào cuối tháng hai năm 1956.

    Ông Nguyễn Minh Cần kể: Phải nói thật rằng vụ Nhân Văn Giai Phẩm thì anh em Việt Nam lúc bấy giờ không hề có một tổ chức, một âm mưu, hay là một kế hoạch cụ thể để đấu tranh chống lại đảng lao động Việt Nam.
    Thật tâm mà nói thì họ không hề có ý định như vậy. Nhưng hoàn cảnh sau khi hòa bình lập lại, người văn nghệ sĩ cảm thấy cần có tự do sáng tác hơn, không phải bị chèn ép, kèm cặp như trước nữa.

    Chính vì vậy, cuối năm 1954 và đầu năm 1955, một nhóm nhỏ văn nghệ sĩ trong quân đội làm một bản đề nghị gọi là cải tiến công tác văn nghệ cấp quân đội, trong đó có nhiều điều với nội dung cơ bản chung là kêu gọi Ðảng giảm nhẹ việc kiểm soát, giảm bớt việc sửa chửa thô bạo đối với các tác phẩm văn nghệ, yêu cầu trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ.
    Nhưng mà những thành phần lãnh đạo khác, nhất là Tố Hữu, cho là những văn nghệ sĩ này là tư sản, thành phần phản động, dám chống lại sự lãnh đạo của Ðảng. Thêm nữa, Trần Dần hồi đó đang gặp một bi kịch lớn trong cuộc đời riêng của mình.Tức là khi về thành, anh lại yêu một phụ nữ ở vùng tạm chiếm, mà chị phụ nữ đó lại là người Công giáo, và được người ta chuyển giao lại một vài ngôi nhà nào đấy. Thế là Trần Dần bị nghi ngờ cho là mất lập trường, bị ảnh hưởng bởi tư sản, và nói theo lối nói thông thường hồi đó là bị “ăn viên đạn bọc đường”. Vì vậy, anh xin lập gia đình với chị ấy.

    Ông Nguyễn Minh Cần kể tiếp
    : Giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu nhưng người ta vẫn không nản chí. Ðến ngày 29-8-1956, lúc bấy giờ là tinh thần của đại hội 20 cộng thêm tinh thần sự sôi sục ở trong dân chúng và ở trong cán bộ về sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất. Tinh thần đòi hỏi có dân chủ, cho nên người ta ra một tác phẩm Giai phẩm mùa thu tập 1.
    Trong giai phẩm mùa thu tập 1 lần này có những bài khá mạnh hoặc là rất mạnh. Chẳng hạn như bài thứ nhất của Trương Tùng trong giới lãnh đạo văn nghệ. Bài thứ hai tức là “Bức thư gửi một người bạn cũ”. của Trần Lê Văn. Và bài thứ ba là chống tham ô lãng phí của Phùng Quán, bài này đánh vào giới lãnh đạo rất nhiều, làm cho người ta tức giận.

    Và đặc biệt là bài phê bình giới lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi thì người ta coi rằng bài này giống như một quả bom tạ rơi xuống hạ thành lúc bấy giờ, đấy là câu ở trong báo Thời Mới. Bởi vì ở trong đó, ông Phan Khôi vạch trần tình bè phái, việc bất công trong việc chấm giải thưởng của văn nghệ, việc bè phái binh che cho nhau trong văn nghệ.
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 31.05.2007 01:17:02

    Hồ sơ Nhân văn – Giai phẩm trên talawas

     
    Loạt bài: Hồ sơ Nhân văn-Giai phẩm
     45   2   67   89   1011   1213   1415   1617   1819   2021   2223   2425   2627   2829   3031   3233   3435   3637   3839   4041   4243   4445   4647   4849   5051   5253   5455   5657   5859   6061   6263   6465   6667   6869   7071   7273   7475   7677   7879   8081   8283   8485   8687   8889   9091   9293   9495   9697   9899   100101   102103   104105   106107   108109   110111   112113   114115   116117   118119   120121   122123   124125   126127   128129   130131   132133   134135   136137   138139   140141   142143   144145   146147   148149   150151   152153   154155   156157 
     19.1.2003Phạm Thị HoàiThủ lĩnh trong bóng tối Ðúng mười năm trước tôi được đưa đến ra mắt Trần Dần, sau khi ông đọc bản thảo một số truyện ngắn đầu tay chưa công bố của tôi. Làng văn Hà Nội khi ấy, trong đêm trước của cuộc cởi trói ngắn ngủi, có một không khí nhộn nhịp nhất định. Dân văn chạy ngược xuôi trong văn, không tất tả việc khác như bây giờ. Cả người viết lẫn người đọc đều chờ một cái gì không rõ, nhưng sẽ đến, và có lẽ vì thế mà háo hức, không lãnh-đạm-biết-rồi như hiện tại. Khi đó chưa nhà nào có điện thoại riêng, muốn trò chuyện phải tìm nhau tận mặt, rượu tây chưa phổ biến, thức nhắm còn nghèo nàn, thuốc lá Liên Xô Ấn Ðộ đã là sang, đi xe máy là ngoại hạng, và mọi người đều viết tay trên giấy xấu... Cảnh hàn vi đó nuôi lớn một thứ chủ nghĩa lãng mạn giản dị, đầy tính lý tưởng và cũng đầy ảo tưởng mà giờ đây đã biến mất. Hà Nội, khi Trần Dần qua đời, khác xa mười năm trước, khi tôi hồi hộp đến gặp ông như gặp một thủ lĩnh văn chương trong bóng tối.
     
    Không người viết nào muốn thuộc về phía tối của đời sống văn học, song khi phía được chiếu sáng quá tầm thường thì được khuất mặt có thể là một hãnh diện chính đáng. Trước khi ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đại náo làng văn thì Nhân Văn Giai Phẩm với mọi huyền thoại của mình đã luôn là một trong những cái chợ đuổi có sức mê hoặc lớn hơn cửa hàng văn học mậu dịch nhiều. Văn học của NVGP tập trung ở những tác giả và tác phẩm cụ thể của nhóm ấy thời ấy, nhưng tôi quan niệm tinh thần NVGP rộng hơn, bao trùm một số quan niệm, phong cách, nguyên tắc, thái độ ứng xử, đề tài... nhất định, có thể tìm thấy ở những chỗ khác thời khác, ở độc giả, ở các nhà phê bình, thậm chí ở những người từng quyết liệt chống NVGP hoặc rất sợ dính vào đó. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn luôn ký tên hàng đầu trong các bản án chống NVGP, song chính cái tinh thần NVGP trong ông được kết hợp ở thế chân kiềng với tài năng và lòng biết sợ đã tạo cho ông một đặc cách trong văn học chính thống. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự như vậy. Song sau nhiều chục năm, số tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh như thế không còn đọng lại bao nhiêu. Như thể không ai chết được nhiều lần, mà trong tinh thần NVGP ấy, các chiến sĩ ưu tú nhất đã ngã xuống cho những lý tưởng khác trước khi kịp hi sinh cho nghệ thuật. Khi tiếp xúc với thế giới của họ, tôi đã hy vọng là sẽ trèo qua nhanh cái nấc thang thứ nhất đương nhiên là rất quan trọng, vì nếu không thì chẳng vào với nhau được: đó là bi kịch mà ai cũng biết ít nhiều về NVGP. Trèo qua nhanh, vì đã bận tâm vào đó thì không thể chỉ rỏ nước mắt vào rửa những vết thương bên ngoài. Tôi hình dung rằng những vị tử vì đạo rất ghét kẻ nào chạy lăng xăng quanh nỗi đau của họ, ăn theo những thăng trầm của họ. Mà tôi lại chú tâm vào những bi kịch văn học hơn, cho nên nấc thang sau và sau nữa là cái đích của tôi.
     
    Văn học không chỉ sinh ra từ cuộc đời bên ngoài, mà còn sinh ra từ chính văn học. Khi bước vào nghề văn, tôi muốn biết cái nồi văn mà tôi đang nấu, hoặc định nấu, được kê bằng cái gì, được đun bằng cái gì. Trừ ngoại lệ lớn nhất và bền bỉ nhất là Trần Dần cùng một vài người chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông, tôi luôn có cảm giác rằng giữa những người theo tinh thần NVGP và tôi có trò chuyện, nhưng hầu như không có một đối thoại thật sự, và những cuộc trò chuyện giữa đôi bên bao giờ cũng chỉ dừng ở một chiều sâu lịch sự, dễ chịu, không thể đi quá một chút nào, và luôn luôn quanh quẩn ở cái nấc thang thứ nhất kia. Dường như thời gian ở chỗ họ từ lâu lắm rồi đã không nhích thêm gang tấc nào, tôi thì đầy sự nôn nóng của tuổi trẻ, mà lại phải rất cẩn thận để không làm tổn thương ai. Luật của chúng ta dường như là vậy. Ðày đọa, thanh trừng, xoá sổ kẻ khác thì được, nhưng làm mất lòng thì không. Tôi không thể nói thẳng với họ, rằng tôi không nhất thiết phải đọc họ chỉ để biết rằng, nhà văn cần yêu ai cứ nói là yêu, ghét ai cứ nói là ghét, điều đó tôi được học ở nhiều chỗ khác rồi, mà không phải là học qua văn chương. Nói như thế là bạc, là phản bội, là rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của người khác. Nhưng có lẽ tôi đã kỳ vọng ở họ nhiều quá. Khi tuổi trẻ bị bịt đường lên phía trước thì nó ngoảnh lại phía sau mãi như vậy và thành những ông cụ bà cụ non. Tôi đã tìm một lối để thoát khỏi văn học Việt Nam đương đại. Cái văn học đó  buồn tẻ, nhưng cuối cùng thì lối thoát của nó không phải là giật lùi về đỉnh cao của những năm 50. Cũng như vậy, văn học đổi mới hiện tại chẳng còn gì đáng nói nhiều nữa, song nó không nên ngoảnh lại tiếc nuối cao trào 1988-1989.
     
    Trong những điểm cốt yếu, văn học của nhóm NVGP cùng một bản chất với văn học chính thống sau này. Có thể coi đó là sơ kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Còn phần lớn các tác phẩm cuối những năm 80 mà trong nước tuy gọi đùa, nhưng có lý của nó, là Nhân Văn 2, ngoài nước gọi là văn học phản kháng, là mạt kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thực ra những người làm nhiệm vụ duy trì và bảo vệ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể yên tâm lâu dài: một mạt kỳ có thể kéo thêm cả thế kỷ, mà theo tôi thì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hoặc một cái gì na ná như vậy còn có tương lai vô tận ở Việt Nam. 500 hội viên này của Hội nhà văn Việt Nam có thể được thay bằng 500 hội viên khác, song 50 triệu người đọc thì không bãi đi để bầu mới nhanh như vậy được. Nền văn học này cũng đẻ ra một số tài năng và những tác phẩm có thể xúc động lòng người. Nhưng các tác giả và tác phẩm của nó giống nhau, hoàn toàn không có cá tính, đúng như Trần Dần đã nhận xét, năm 1955, về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rằng thậm chí những câu hay của Tố Hữu cũng không có chữ ký riêng, có thể ký ở dưới là Nguyễn Du, Tản Ðà, hay Ca Dao đều được. Những người có tên tuổi ở thời NVGP cũng không tránh được điều đó. Một số bài thơ của Lê Ðạt và Phùng Quán thuở ấy có thể ký lộn cho nhau, sau này thì Lê Ðạt tách hẳn ra để có một chữ ký độc đáo cho riêng mình, và lịch sử quả thật thích đùa khi ông bị Trần Mạnh Hảo, một nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa mạt kỳ phủ đầu, chính vì đoạn sau này. Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, hay Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đi vào lòng người vì những lý do khác, chứ không phải vì đạt tới cái mà Trần Dần đòi hỏi, ngay từ thuở ấy, rằng nhà thơ trước hết phải có được cái chữ ký riêng của mình. Ông cũng chua ngay rằng đương nhiên còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy. Lịch sử văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua cho thấy, cái tối thiểu mà Trần Dần yêu cầu ấy đã hầu như không đạt được. Cho nên phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm. Ở ông là một bi kịch văn học lớn mà cái bi kịch chính trị của NVGP chỉ là một trong những bè đệm, còn ở một số người khác thì NVGP là sân khấu, thậm chí có sự trình diễn của các vai nạn nhân, văn chương chỉ đóng một vai rất phụ. Cho nên, nói về ông bây giờ mà không qua cái nấc thang thứ nhất kia cùng là tí ti minh oan, tí ti phục hồi, tí ti thương cảm, thì khác nào nhổ sơ sơ vài ngọn cỏ cho sạch vài phân vách đá, nhưng đằng sau đó là Ăng-co, để dùng lại một biểu tượng mà ông ưa dùng. Bất hạnh lớn của Trần Dần là NVGP, nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông là ông đã quẳng gánh NVGP từ lâu lại sau lưng, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh mãi. Sự nghiệp của ông không chấm dứt với năm 1958, mà mở đầu từ đó, và đạt tới cao trào trong khoảng 15 năm, từ giữa những năm 70, nghĩa là liên quan không nhỏ tới việc Sài Gòn thất thủ, đến cuối những năm 80, khi ông ngã bệnh.
     
    Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua. Việc ông đi theo cuộc cách mạng của Ðảng cộng sản cho đến NVGP là việc dễ hiểu, bởi đôi bên khi ấy cùng chung nhau một chữ cách: cách mạng, cách tân, cùng chung nhau một ý tưởng đổi mới. Việc diễn ra sau đó đối với ông, theo tôi, cũng là một tất yếu. Tôi không cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu nhầm. Hiểu nhầm còn chữa lại được, không hiểu thì khó thay đổi hơn nhiều. Một người như thế sống ở bất kỳ đâu cũng khó. Còn ở một nơi mà tính đại chúng là tiêu chuẩn tối thượng của văn chương nghệ thuật, một nơi mà sự phục tùng tổ chức, quyền uy, thế lực là kim chỉ nam cho mọi hành vi văn chương thì một người như thế phải bị đày đọa, bị tảy chay, hoặc nhẹ nhất là bị bỏ qua. Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Ông có 4 kiểu chữ hoàn toàn khác cách nhau: cho giai đoạn đến NVGP những năm 50 là một, giai đoạn ngắn sau đó, đầu những năm 60 là hai, giai đoạn đến đầu những năm 80 là ba, từ đó đến nay tuy chung một kiểu chữ là bốn, nhưng ngay trong một kiểu này cũng có nhiều phát triển khác nhau, kèm theo một khoa chính tả khác thường và một thư pháp, hay thư họa rất đặc trưng Trần Dần. Chỉ riêng điều có thể coi là nhỏ nhặt trong cái khối khổng lồ là ông- để dùng lại chữ của Dương Tường- đã làm việc đọc ông rất phức tạp, mà lại càng không thể công bố nhiều tác phẩm của ông ở dạng in ấn bằng những con chữ thông thường.
     
    Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu.” Khi ông tuyên bố: “Cái đèm đẹp giết chết cái đẹp”, thì một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những ai chưa bao giờ nghĩ ngợi về cái “đèm đẹp”. Cái xinh xinh không thể đẹp, ý này có thể của ai khác, có thể từ tư duy trong tiếng nuớc ngoài, song vào tay Trần Dần thì thành cách nói đặc biệt Trần Dần, nhanh, mạnh, lột trần, độc đáo, không lặp lại ai và không tự lặp, rất Việt và rất hiện đại. Ðồng nghiệp của ông yêu cách nói này thì ít, mà sợ thì nhiều. Nguyễn Khải đã tả về hai con mắt “hiếp đáp thiên hạ” của Trần Dần. Không ít người suốt đời hậm hực về một lời phê thường cộc lốc nghiệt ngã của ông. Song một nhận định phát ra từ bóng tối và cõi im lặng của Trần Dần có cái uy dũng mà người ta tuy hãi nhưng thèm. Ai chịu trận được thì mang ơn ông mãi. Tôi được ông ưu ái khi vừa mon men vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi những bài học càng lâu càng ngấm.    
     
    Người ta coi Trần Dần là lập dị. Nhưng trong một môi trường mà chỉ riêng chiếc ba toong của cụ Nguyễn chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi là biểu tượng của khác thường, thì sự lập dị của Trần Dần là vượt ra mọi cách. Chúng ta có thể tôn sùng kẻ đứng đầu một cách, nhưng kẻ vượt ra mọi cách thì không có chỗ đứng. Cho nên Trần Dần nằm. Thơ ông là thơ nằm. Mọi bản thảo của ông là bản thảo nằm. Hàng chục sổ thơ của ông là sổ nằm, ông đặt tên là sổ bụi, và khi hết sổ phải dùng đến vở tự khâu, thì đấy là vở bụi. Vả lại, khí chất của Trần Dần là cái khí chất không thuận với mọi cách, may ra ông gần hơn cả, gần chứ không thuận, với cách thi trung hữu qủy, và tự gọi mình là một thi tặc. Tôi chưa thấy ai trong lịch sử thi ca Việt Nam dám như vậy, đường hoàng như vậy: Thi tặc! Thơ ca của chúng ta có hay thì cốt hay-mãi-ngàn-năm theo hướng thánh thi, tiên thi, đạo thi, có đẹp thì đẹp theo cách tròn đầy nhã nhặn mà Trần Dần tuy ghi nhận nhưng không rung động. Nếu ai hoảng sợ trước cái khái niệm thi tặc ấy thì tốt nhất đừng đọc Trần Dần. Còn đã quyết định đến với ông thì xin đừng coi trọng quá những hành trang tinh thần mà mình đương nhiên khuân theo, vì Trần Dần thật lắm bất ngờ. Và nhất là, ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa. Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới. Những người xung quanh ông, người nào cũng xin được, có khi trộm được, ít nhất là một vài con chữ từ cái lò luyện chữ của Trần Dần như vậy. Những chữ rất hiện đại và đầy truyền thống. Cách ông đối xử với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách “yêu ai thì người đó nhỏ lại” như ông đã từng phê rất đích đáng một nhà thơ nổi tiếng. Là những chữ rất hàn lâm uyên bác mà cực nôm. Cái sướng nôm của ông, nôm hiện đại của “1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú đít 1 lít nách”, lây mạnh sang những người xung quanh, thành những ca vô cùng đặc sắc, thành một thứ tiếng Việt hiện đại và đầy phiêu lưu kỳ thú. Ông thậm duy mỹ mà sâu xa và có một giác quan không thể đánh lừa cho mọi giá trị thực. Ðiều đó kéo theo sự trân trọng và ngưỡng mộ, rất bất chấp, rất hồn nhiên của ông trước những tài năng và nhân cách thật. Ông đã nâng niu thơ Ðặng Ðình Hưng như thơ ruột, dù quan hệ đôi bên không phải lúc nào cũng êm. Ðồng thời, sự thẳng thắn đến phũ phàng của ông trước những thứ của rởm cũng không chừa bạn bè thân thích. Trước những con chữ, lòng ông khăng khăng trong sạch. Chỉ có điều, tất cả những thứ ấy đóng kín trước một số đông, một số rất đông, không phải của riêng thời NVGP, mà cả bây giờ và sẽ rất lâu sau này vẫn thế. Bây giờ, nếu một phần di cảo của ông có được đưa ra nghiên cứu và sử dụng, cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay số người có thể đọc xuyên qua được những trang bản thảo ấy. Sau ba mươi lăm năm, một trong hơn ba chục tác phẩm của Trần Dần mới ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu thuyết Cổng Tỉnh, và được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sự công nhận muộn mằn này dừng lại ở mức một cử chỉ thiện chí, với một quá khứ oan khiên, với một nhà thơ lớn khi ấy đã gần đất xa trời. Song nó không mang lại cho Trần Dần nhiều người đọc hơn. Khi cái lưỡi của đám đông đã hoàn toàn thoái hoá thì cao lương mỹ vị bày ra cho ai? Một phần ba thế kỷ văn vần quốc doanh, văn xuôi mậu dịch trên môi và trong lòng người đọc Việt Nam đã khiến ít ai vượt qua chỉ cái tựa đề Cổng Tỉnh. Tôi mở trang đầu, đọc những dòng đầu mạnh mẽ mộc mạc:


    Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ!
    Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!
    Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương...
    qua những dòng bồng bột lạ lẫm:
    Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
    Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...
    những dòng ngọt lịm:
    Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
    Có sương sớm đọng trên đèn muộn...
    những dòng Trần Dần huyền thoại:
    Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp
    ò..ò đêm đi như một cỗ quan tài...
    những dòng tha thiết:
    Ở đâu? ở đâu có ngụm đèn xanh
    Rèm che nhoè cửa sổ?...
    Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây
    Ðừng sa sút lá
    Ðể ta còn khuyên gió...gió đừng rung cây...
    những dòng khinh bạc quay quắt:
    Tôi ơi! Tôi ơi!... Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù...
    Tôi càng đứng bơ vơ đầu cổng tỉnh..
    Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống
    Tôi không có đủ tình yêu
    Yêu trái đất lục đục thế này...
    rồi lại ngọt đắng:
    Gió ơi đừng vội tủi
    Khuya rồi! Hãy tới khóc ở hom sông...
    Có lẽ thu rồi em nhỉ
    Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa...

    Chỗ nào ông cũng thổi một sự sống khác thường vào những con chữ, chỗ nào cũng dành cho ta một bất ngờ. Biết bao giờ số đông người đọc Việt Nam mới dọn lòng, dành cho tài năng ghồ ghề jờ joạcx này một chỗ?
     
    Số phận của Trần Dần là số phận hoàn toàn cô đơn và trong bóng tối theo mọi nghĩa của một người dốc hết mình vào thửa ruộng thử nghiệm của văn học, đặc biệt là của thi ca, một người, để dùng lại chữ của NVGP mà chắc sau này ông cho là mauvais gout lắm, moi tim moi óc làm thơ, một Tư Mã-như tên ông đặt cho mình và bạn bè- suốt nửa thế kỷ không chịu lùi một ly chữ, để làm cái việc mà ông gọi là thồ thơ tự xứ này lên. Một người đi suốt ván chiêm bao của những cái bị nợ và tự nợ, đánh suốt một ván đời với cái biết và cái chưa biết. Ông nói rằng, cái biết là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.Tôi không dám nói ông đã thành công trong bao nhiêu mùa thử nghiệm của mình. Chỉ biết rằng, những ai may mắn đến lấy một hạt giống ở ông, rồi đem về đất của chính mình, đổ sức của chính mình vào đó thì ắt là thành công, trong những trường hợp hiếm hoi như Ðặng Ðình Hưng thì là một thành công lớn. Còn nếu không cũng được một mùa, theo chữ của ông, là mùa sạch.
     
    Trần Dần từng nói, “tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn chúng tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.” Nhưng trong một sổ bụi ông lại tự hỏi: lớp trẻ liệu có còn được một cơ hội mấy chục năm quốc nạn như mình không để làm cái việc ấy? Ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cũng linh cảm nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của quốc nạn. Văn chương bây giờ có vẻ như chưa cần đày đọa đã ngắc ngoải tự hủy, chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai?
     
    Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu tôi phải có được một văn cách.
     
    1997 Nguồn: Đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học, 1997 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=900&rb=0102 
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Trần Dần - 01.06.2007 01:24:31
    Trần Dần
    Thơ lảy
      tôi thú thật, tất cả chúng mình là những tồi năng 
     
    sinh ra tôi 
    chuyên đề thất vọng mọi người 
     

    thằng truồng bị vây trong vòng
    tròn. 
     
    sáng bảnh-bành-banh
    mày vẫn ngủ-ngù-ngu 
     

    sinh tôi làm gì
    tôi không hợp grammaire nào cả
    sinh tôi đã có grammaire cho tất cả
    ắt là không juýt cho tôi 
     

    tóm lấy tu từ vặn nghoẹo cổ
    viết như khạc nhổ mọi tu từ 
     
    tôi thích viết cái chưa biết
    mặc các ông viết cái đã biết 

    ai cũng có ngày
    ngày của mình
    tôi không có ngày nào hết 
     
    tôi còn trẻ tôi còn đi với ma quỷ
    cứ chia cho tôi những ma quỷ nào hung dữ nhất năm canh
    tôi kiếp trước tội gì thế nhỉ
    sao có quê hương thịt rất buồn? 
     
    đối với tôi, mất nước văn học là mất nước nhất 
     

    anh cứ mó thử một dấu phẩy văn phạm xã hội
    vuốt râu hùm xám còn đỡ nguy hơn 
     
    hiện thực là một hư cấu từ đầu chí cuối, từ dưới lên đầu 
     

    sáng tạo là một hành vi tổng lực và bất ngờ. Cả cái dái cũng tham gia sáng tạo.
    xây một tập thơ là phá một nhà tù 
     
    chân lí là một lỗi thời không buông tha nhân thế 
     

    mĩ học đòi hỏi các giấu diếm và thưởng lệ nó
    đạo lí đòi hỏi biểu lộ và trừng phạt giấu diếm 
     

    nói tao biết mày viết thế nào, tao sẽ nói mày sống chết ra sao 
     
    tôi thích những đàn ông vẫn cả đôi vai, cả đời mình, gánh vác một ý kiến, một giấc mơ 
     

    thà thắp một tia đom đóm
    còn hơn ngồi thở dài khan 
     
    rượu cay xé mồm (nhịn xé lồn) mới thích 
     

    tự do là vi phạm chứ không tuân theo tất yếu. 
     

    tôi như có lời hứa chưa xong. Có lời nguyền chưa trọn. Có câu thề còn trăn trở nơi tim. Thơ là trò rồ của những kẻ như tôi 
     

    tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng, mây phơi dằng dặc khắp chân trời

    văn chương lom khom
    sao lại cho tôi nhiều xương sống thế? 
     

    từ đó chó
    tốc đã đi qua một nước sủa 
     

    kể từ lăn lóc rôck
    vén váy văn chương chiều dọc
    cả nhà xô lắc lốc
    ngộc thần kinh 
     

    trang giấy trắng quá, trắng quá, đến nước chỉ có sữa mới đen hơn. 
     
    con trắng bước đi trắng, trắng đến nỗi chỉ bóng nó mới tím hơn
    hôm nay
    tôi vẫn crucifix mỏm - AH
    tôi sột soạt sóng ngắn
    tôi zột zoạt mộng vắn
                            mộng dài
                            tam thiên thế giới 
     

    hai mắt đen ngàn lệ nhé
    tôi vẫn thõng tay trong chợ bụi đông người 
     
    nhân loại- tôi không chơi với các anh nữa
    ván nào anh cũng ăn gian 
     
    cứ hai người đi với nhau, tôi gọi một hàn lâm 
      

    sờ mà xem không khí không
    có sẹo
    hoạ chăng đầu vú là những cái sẹo của tình mẫu tử, và
    mặt người
    toàn bộ cái mặt là
    sẹo ngoài của những cái sẹo
    cụ thể bên trong
     
    *
    ai xuất bản nhiều đêm thế nhỉ?
     
    *
    tôi đứng tuổi mà không đứng gió
     
    *
    lo quá
    phải lên Thiên Ðường
    một mình
    hết sức một mình 
     
    được ván cờ thua
    thu hoạch bụi hồng 
     
    chỗ nào Tư Mã cũng bơ vơ
    rồi một hôm, lỗ chỗ gió, buổi chiều như một chương trình đục lỗ
    nhà mồ Tư Mã cư tang

    ngán cho những ván đàn ông
    không hơn những kiếp anh hùng-lom khom 
     
    ai người bình giá cơn mưa 
     

    lời nói bao giờ cũng là một hối hận 
     

    mưa rơi không cần phiên dịch 
     

    thức khuya mới biết đêm ngắn
    kẻ ngỡ đêm dài là chửa thức khuya

    thế giới
    nơi con chữ lẩm bẩm
    buổi chiều lẩn thẩn
    nơi Tư Mã lẩm cẩm 
     

    làm lại thở dài
    làm lại thơ ngây 
     
    không khóc nước này cạn lộc
    khóc nước này cạn khát vọng mà thôi 
     

    ai chẳng có nhà nước của mình để khốn đốn với
    nó.
    ôi
    đi đâu thoát được mùa người? 
      

    tôi rủ tôi đi vào cửa khó
    dễ ăn, dễ ngủ
    siêu lạm phát
    động vật dễ dàng 
     

    ngày ngày nhấm nháp chân mây 
     

    mỗi ngày thu dọn một chân mây 
     
    mỗi ngày ăn vụng một mini 
     

    khi cây khóc hết lá
    ngày khóc hết khói
    tôi về 
     

    càng chết tôi càng bất tử
    eo ôi
    chết vẫn không yên

    cô gì đêm ấy
    bỏ chồng chưa? 
     

    thế là tôi vẫn lạc quan đen
    đâu phải tôi bôi đêm đen
    vào ánh sáng mọi điện đèn. 
     
    không khóc không cười tôi vẫn chỉ lạc quan đen 
     
    đen đến mức chỉ mỗi trắng mới óng ả hơn 
     
    đừng tha thứ cho tôi nếu một chiều nào yếu đuối
    tôi tắt tôi đi trong dàn nhạc áy náy các vì sao. 
     
    vắng lặng tôi ra khỏi trời.
    bước lặng tôi về tuổi muội. 
     
    gió tha người, ở các ngã ba. 
     
    tôi đau ở
    mỗi người một vụ án
    mỗi người
                chôn
                sống
    một chân mây
     
    tôi đau ở
            tôi thồ văn tự xứ này lên. 
     
    tất cả diễn ra trong khói một tia nhìn.
    tất cả diễn ra trong lá vắng một tia nhìn. 
     

    tôi đã hát những ngày mai - không hát
    bây giờ tôi hát - lạc quan đen 
     

    mất ngủ hàng đèn
    trong một thủ đô đen
     
    ngã ba đen
    ngã ba đen
    sự vật không đèn 
     

    noel
    hồ sơ đen
    màng nhện bóng đèn
    vẫn có nhưng mũ trùm đen đưa đám đám tang đen. 
     
    một đám ma đen đi mãi không tới huyệt 
     
    rồi ra tôi sẽ buồn như núi
    lặng như ngày
    đau đáu như mây 
     

    tuổi cuối đi về xứ cuối
    có còn tia cuối nào không?
     
    tim cuối lê về phố cuối
    hay là tia khói cuối đã tan đi? 
     

    nghi gì
    xá gì khi khói - cuối đã bay đi
                mây cuối của lòng
                con mắt cuối vẫn chong chong
     
    cho tôi ngồi phố khói
    ga khói của lòng, bướm khói liệng sân ga
    tầu khói
    chung nhau mầu tuổi khói
    đâu dè mắt khói chói chiêm bao/ mây bay
    chung đôi ngồi kể khói
    mưa rất xưa mà thu rất xanh
    mắt khói thế này - mắt khói để cho ai?                 
     
    hoa soi, hoa sói, hoa sòi
    hoa khói
    ga cuối của lòng
    tim cuối
    hai bàn chân cuối
    khóc đi thôi 
     
    ga cuối của lòng
                chẳng nói
    sợ rằng như khói
    nói bay đi
    sợ rằng như nói
    khói bay đi
    ga cuối của lòng

     Phạm Thị Hoài chọn và biên tập © 2003 talawas http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=901&rb=0102
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    LXMai
    • Số bài : 201
    • Điểm thưởng : 0
    • Từ: 15.04.2005
    • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
    Nhân Văn Giai Phẩm - 14.06.2007 18:54:15

    Post #: 18
     
    Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm
     
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    (Đổi hướng từ Nhân Văn - Giai Phẩm)
    Bước tới: menu, tìm kiếm
    Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là phong trào có xu hướng chính trị, đòi tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958
     
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_V%C4%83n_-_Giai_Ph%E1%BA%A9m
     
    >>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>
     

    dân chủ

     
    Dân chủ
    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Bước tới: menu, tìm kiếmDân chủ là một thể chế mà quyền thay đổi luật pháp và cơ cấu chính quyền thuộc về người dân. Trong hệ thống này, luật pháp được đặt ra do người dân hay những dân biểu được người dân bầu ra và mọi hoạt động xã hội đều tuân theo luật pháp.
     
     






    Mục lục
    //



     Định nghĩa
    Có rất nhiều biến thể của dân chủ, một số chỉ tồn tại trong giả thuyết và một số đã có thật.

     Dân chủ kiểu Athena



    Thờ AcropolisParthenon, đền của Athena, nữ thần bảo vệ thành phố Athena, nhìn xuống để theo dõi các bàn cãi chính trị. Ở dưới là bục giảng tại Pnyx, đất hội họp của hội đồng, ở đấy các tranh cãi chính trị lớn của Athena diễn ra trong "thời kỳ hoàng kim". Ở đây các chính khách của thành phố Athena đứng để biểu diễn, thí dụ PericlesAristides vào thế kỷ 5 TCNDemosthenesAeschines vào thế kỷ 4 TCN – cùng với rất nhiều người dân không có tiếng tăm.Từ "dân chủ" (tiếng Hy Lạp: δημοκρατíα) được đặt ra tại Athena (Hy Lạp) cổ trong thế kỷ thứ 5 TCN. Chính phủ đó được xem là hệ thống dân chủ đầu tiên. Tại đó, người dân bầu cho mọi việc. Nghĩa "dân chủ" này đã thay đổi qua thời gian, vì từ thế kỷ thứ 18 đã có nhiều chính phủ tự xưng là "dân chủ". Nhiều người không xem hệ thống tại Athena chỉ diễn tả một phần của nền dân chủ vì chỉ có một thiểu số được bầu cử, trong khi nữ giớidân nô lệ không được phép bầu.

     Bầu cử
    Việc bầu cử, tự nó, không phải là một điều kiện đủ cho nền dân chủ tồn tại.
    Nhiều chế độ độc đoán hay độc tài thường tổ chức bầu cử để giả mạo một chế độ dân chủ. Tuy nhiên, trong các cuộc bầu cử, họ đã đặt ra nhiều hạn chế:

    • hạn chế người đủ tiêu chuẩn ra ứng cử
    • hạn chế quyền hạn của những đại biểu, hay những chính sách họ có thể lựa chọn
    • bầu cử không tự do và công bằng (đe dọa những người bầu cho một ứng cử viên nào đó)
    • giả mạo kết quả
    Một số thí dụ trong lịch sử của những nền "dân chủ" này là Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trước khi sụp đổ trong năm 1991, Iraq dưới quyền Saddam Hussein, Philippines thời Ferdinand Marcos.

     Dân chủ tự do
    Theo định nghĩa ngày nay, "dân chủ" thường được hiểu là "dân chủ tự do". Trong khi dân chủ chỉ có nghĩa là một hệ thống chính phủ được thành lập và chính thống hoá bằng bầu cử, những nền dân chủ hiện đại còn được đặc trưng bởi những định chế sau đây:
    • Một hiến pháp để giới hạn các quyền và kiểm soát hoạt động của chính phủ, có thể là hiến pháp thành văn, bất thành văn hoặc hỗn hợp cả hai loại.
    • Bầu các ứng cử viên một cách tự do và công bằng.
    • Quyền bầu cử và ứng cử của người dân.
    • Quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội v.v.
    • Quyền tự do báo chí và quyền truy cập thông tin từ nhiều nguồn.
    • Quyền tự do giao thiệp.
    • Quyền công bằng trước pháp luật và xét xử tuân theo quy tắc của pháp luật.
    • Người dân được thông tin về quyền lợi và trách nhiệm dân sự.

    Nghĩa này thường có hạn chế. Không phải ai cũng được ứng cử trong các cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng cử. Thêm vào đó, không phải ai cũng được đi bầu. Hầu hết các nước dân chủ chỉ cho phép những người dân đủ tuổi (thường là 18) bầu. Một số quốc gia không cho một số người khác bầu (chẳng hạn như người phạm tội).
    Trong một số chính quyền, chế độ dân chủ tự do là chế độ thực tế, trong khi trong danh nghĩa là một chế độ khác; ví dụ Canada là một chế độ quân chủ, nhưng trong thực tế được lãnh đạo bởi một Nghị viện được bầu một cách dân chủ.
    Một số người định nghĩa dân chủ là một "chế độ của đa số với một số quyền cho thiểu số".

    "Dân chủ" và "Cộng hoà"
    Nghĩa của từ "dân chủ" đã thay đổi nhiều lần từ thời Hy Lạp cổ đến nay. Trong cách sử dụng ngày nay, từ "dân chủ" chỉ đến một chính phủ được dân chọn, không cần biết bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
    Chữ "dân chủ" còn có một định nghĩa khác, trong lý thuyết hiến pháp và trong thảo luận hồi xưa, đặc biệt là khi nghiên cứu về công việc của những "Khai quốc công thần Hoa Kỳ". Trong cách dùng này, thì chữ "dân chủ" để riêng chỉ đến "dân chủ trực tiếp", trong khi "dân chủ đại biểu" trong đó dân chúng bầu người thay mặt cai trị theo một hiến pháp thì lại dùng chữ "cộng hòa" (republic). Các danh từ cổ này vẫn còn chút thông dụng trong cách cuộc tranh biện giữa Phe bảo thủĐảng Libertarian tại Hoa Kỳ.
     
     
    Những nhà lập hiến nguyên thủy của Hiến pháp Hoa Kỳ được ghi nhận là đã biết điều mà họ cho là cái nguy hiểm của cách cai trị theo đa số, là có thể đàn áp tự do cá nhân. (Xem thêm bên dưới.) Thí dụ, James Madison, trong Federalist Papers số 10 đã cổ võ cho nền cộng hòa hơn là nền dân chủ chính là để bảo vệ cá nhân chống lại đa số. [1] Tuy vậy, trong thời điểm đó, các nhà lập hiến đã cẩn tâm dựng nên những cơ quan dân chủ và cải cách xã hội quan trọng trong khuôn khổ của hiến pháp và Dự luật Dân quyền (Bill of Rights). Họ giữ lại những yếu tố hay nhất của thể chế dân chủ, sau khi đã sửa sai bằng cách cân bằng quyền lực và với một cơ cấu liên bang nằm lên trên.
    Tuy nhiên, theo cách dùng hiện thời thì chữ "cộng hòa" dùng để chỉ bất cứ một quốc gia nào có một người quốc trưởng được bầu lên làm việc một thời gian có hạn, khác với hầu hết các chính phủ quân chủ cha truyền con nối hiện thời đều là các chính phủ dân biểu và hiến pháp quân chủ nhưng cai trị theo chế độ đại nghị (parliamentarism). (Các chế độ quân chủ đại biểu cũng không gọi là "cộng hòa".)
    Theo như cách nói mạnh mẽ và sắc sảo của Thomas Jefferson thì lời hứa của dân chủ là “được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

     Dân chủ xã hội chủ nghĩa
    Chủ nghĩa vô chính phủchủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cuối cùng trong tiến trình xã hội trong học thuyết Marx) là những học thuyết chính trị trong giả thuyết có nền dân chủ trực tiếp, và không có một chính quyền độc lập từ người dân. Tuy thế, những chính phủ dưới sự lãnh đạo của một đảng cộng sản hiện nay đã chưa đến giai đoạn đó và đảng cộng sản vẫn giữ độc quyền trong lúc cầm quyền.

     Văn hoá dân chủ
    Tại các quốc gia không có truyền thống vững chắc của nền dân chủ đa số, chỉ riêng tự do bầu cử thì hiếm khi chuyển đổi được chế độ độc tài thành dân chủ, mà còn cần phải có sự thay đổi lớn trong nền nếp sinh hoạt chính trị và có tạo dựng được những định chế của một chính phủ dân chủ. Ta thấy như trong trường hợp Cách mạng Pháp hay Uganda hay Iran ngày nay, đều là chỉ đạt được dân chủ giới hạn một thời gian, cho đến khi xuất hiện những thay đổi lớn thì mới có được thực trạng đa số dân quyền.
    Một yếu tố của nền nếp dân chủ là ý niệm "đối lập tốt, đối lập trung thành". Tại những quốc gia vốn vẫn thay đổi chính quyền bằng bạo lực, thì điều này hẳn nhiên rất khó. Danh từ này ý nói là mọi phe trong một quốc gia dân chủ đều một lòng chấp nhận một số giá trị căn bản. Tuy vẫn có bất đồng ý kiến, các phe tương tranh đều nhận chịu nhau và chấp nhận là mỗi phe đều có vai trò chính đáng, quan trọng. Những quy tắc căn bản của xã hội phải khuyến khích việc tranh cãi trong tinh thần chấp nhận và lịch sự. Trong những xã hội đó, người thua chấp nhận quyết xét của lá phiếu chung sau khi bầu cử, và trao chuyển quyền lực trong hòa bình. Người thua như vậy sẽ được yên lòng là sẽ không mất mạng hay mất tự do, và có thể tiếp tục tham dự vào công cuộc. Họ không phải là trung thành với những chính sách của chính phủ, mà là với căn bản hợp pháp của quốc gia và chính với tiến trình dân chủ.
     
    Một quyền cơ bản để tạo nên nền dân chủ là mọi cá nhân có quyền tự do hội họp, tự do tổ chức và thành lập các hội dưới nhiều dạng khác nhau của tổ chức phi chính phủ. Khi những người có cùng lợi ích tập hợp nhau lại, khi đó tiếng nói của họ sẽ được lắng nghe và cơ hội để gây ảnh hưởng đối với các cuộc tranh luận về chính trị sẽ được tăng lên. Như Alexis de Tocqueville, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng thế kỷ 19 đã viết: “Không có một đất nước nào mà sự đòi hỏi cấp thiết phải có các hiệp hội để chống lại sự chuyên chế bè cánh và sự độc đoán lãnh đạo như một đất nước được xây dựng theo kiểu dân chủ”.

     Đại biểu tỷ lệ hay đa số
    Vài hệ thống bầu cử, như các hình thức đại biểu tỷ lệ, muốn nhắm chắc được là tất cả các nhóm chính trị kể cả nhóm thiểu số của các đảng nhỏ đều được có mặt "đồng đều" trong các cơ quan lập pháp, theo tỷ lệ số phiếu trong tay; thay vì theo hình thức đại biểu đa số tức là theo tỷ số của toàn bộ cử tri mà họ chiếm được trong một vùng nào đó.
    Cái mâu thuẫn của tỷ lệ với đại biểu không phải chỉ là một vấn đề lý thuyết, vì thực ra cả hai hình thức rất thông dụng trên thế giới, mỗi hình thức dựng nên một loại chính phủ khác biệt. Một điểm chính hay được tranh biện là vấn đề có một người trực tiếp thay mặt cho vùng nho nhỏ của ta, trong quê nhà của ta, hay là để cho lá phiếu của mỗi người đều giống nhau, bất kể ta đang sống nơi nào trong quốc gia. Vài quốc gia như ĐứcTân Tây Lan muốn có cả đại biểu từng vùng lẫn đại biểu tỷ lệ, cả hai hiện diện song song mà không lấn át nhau. Hệ thống này thường được gọi là Mixed Member Proportional tạm dịch là Phân thân Tỷ lệ.

     Các luận điểm ủng hộ và chống đối

     Vai trò các đảng phái
    Có người chỉ trích là trong đại biểu dân chủ, các phe phái chính trị sẽ khiến cho các đại biểu phải tuân theo đường hướng của đảng, thay vì đi theo ý muốn của cử tri hoặc chính lương tâm. Nhưng chính ra ta có thể nói là cử tri đã tỏ ý muốn của mình qua cuộc bầu cử, đã chú trọng đến những chương trình của người tranh cử, thì chỉ cần theo đó mà làm thôi.
    Một khó khăn đang thấy trong các nền đại biểu dân chủ là phí tổn ngày càng cao của các mùa tranh cử, khiến cho ứng cử viên phải thương lượng với người giàu mua chuộc luật có lợi cho họ.
    Les Marshall, chuyên gia nghiên cứu về dân chủ cho các xứ vốn chưa có dân chủ, ghi nhận rằng "trên toàn cầu, ngoài chính thể đại biểu dân chủ đa đảng, không còn cách nào khác" cho các xứ này có thể tạo dựng dân chủ cả. Thật ra điều này chẳng có gì khúc mắc: đại biểu dân chủ là chính thể duy nhất được dùng trong các quốc gia "dân chủ".

     Đa số chuyên chế
    Xin xem thêm bài về Thể chế đa số (Majoritarianism).
    Người ta sợ rằng cai trị bằng đa số có thể đưa đến nạn "đa số chuyên chế", dù có được ủy quyền bởi số lớn từ mọi tầng lớp hay không. Đó là cái nạn xẩy ra khi một hệ thống dân chủ có thể trao quyền cho đại biểu dân cử để họ thay mặt hành động theo ý kiến của đa số, chống lại một thiểu số nào đó. Như vậy rõ ràng là có thể phá hỏng nguyện vọng dân chủ, là muốn trao quyền cho tất cả mọi công dân. Thí dụ, trên lý thuyết thì một chế độ dân chủ tự do có thể bầu lên những đại biểu và họ quyết định bắt tội một nhóm thiểu số (tôn giáo, chính trị, v.v.) nào đó, bằng cách trực hay gián tiếp.
    Sau đây là vài trường hợp tỷ dụ mà sự đối xử của đa số với thiểu số cần được phân tích:
    • Tại Pháp, có người cho rằng việc cấm biểu dương các dấu hiệu tôn giáo trong trường công là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng của người dân.
    • Tại Hoa Kỳ:
      • lưu hành tài liệu khiêu dâm được coi là bất hợp pháp nếu các tài liệu này vi phạm những "tiêu chuẩn cộng đồng" trong vấn đề công xúc tu sỉ.
      • các người sách động phe "duy sinh" (chống phá thai) gọi những đứa bé chưa sinh là một phe thiểu số vô cố vô thân bị áp bức.
      • trong cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, chế độ quân dịch bị chỉ trích là áp bức một thiểu số bị mất quyền, là các người 18 đến 21 tuổi. Đáp lại, người ta nâng tuổi quân dịch lên 19 tuổi và tuổi đi bầu hạ xuống khắp nước (cùng với tuổi được uống rượu tại vài tiểu bang). Như vậy, tuy không còn bị mất quyền, số người tuổi quân dịch càng bị ít đi hơn.

    • Phe đa số thường đánh thuế giới thiểu số giàu có với tỷ lệ cao hơn, với mục đích buộc giới giàu có phải gánh vác số thuế cao hơn để phục vụ những nhu cầu xã hội.
    • Tại nhiều nước trên thế giới, những nguời nghiện thuốc cho vui thì được coi là một thiểu số đáng kể đang bị đa số áp bức qua luật pháp bắt tội nghiệp ngập. Tại nhiều nước, phạm luật nghiện ngập còn bị mất quyền bỏ phiếu.
    • Trong vấn đề này, người ta cũng hay nói đến thái độ của xã hội với những người đồng tình luyến ái. Thí dụ là Anh Quốc trong thế kỷ 19 và hầu hết thế kỷ 20 đã ra hình sự hóa tôi tình dục của giới này, nổi tiếng nhất là vụ án Oscar WildeAlan Turing.
    • Viện cớ nghịch đạo, nghĩa là bất đồng ý, nền dân chủ Athena đã xử tử Socrates. Đến nay vẫn chưa quyết được là việc này có làm tổn hại gì đến cho dân chủ không.
    • Adolf Hitler đã đạt được nhiều nhất tổng số phiếu của các phe thiểu số trong nền dân chủ Cộng hòa Weimar năm 1933. Điều này đáng bàn đến vì Hitler đã chẳng bao giờ chiếm được đa số phiếu, cho nên vụ này có thể gọi là chuyên chế của một thiểu số. Sau khi hủy bỏ hệ thống dân chủ, thì chế độ này liền bắt đầu đàn áp.

    Phe đề xướng dân chủ bào chữa như sau:
    • Một thì nói là đã có hiến pháp bảo vệ phía sau chống lại nạn chuyên chế của đa số. Nói chung, muốn thay đổi hiến pháp cần phải có đa số tuyệt đối toàn đại biểu, hoặc cần thẩm phán và thẩm phán đoàn nhận là các tiêu chuẩn thủ tục và bằng cớ đã được thoả thuận, hoặc, trường hợp hiếm là cần một cuộc trưng cầu dân ý. Những điều kiện này thường được kết hợp với nhau.
    • Ngoài ra, sự phân quyền thành lập pháp, hành pháptư pháp làm thiểu số khó có thể làm theo ý riêng. Như vậy, đa số vẫn có thể bắt buộc thiểu số một cách hợp pháp (tuy có thể là phi đạo), nhưng thiểu số đó phải là ít người lắm, và trên thực tế thì phải có một số đông người đồng ý điều đó.
    • Một lý luận nữa là các nhóm, đa số hay thiểu số, tùy theo vấn đề, thường rất là những nhóm khác nhau; như vậy phe đa số phải cẩn thận cân nhắc ý kiến của thiểu số, đề phòng trường hợp tối hậu trở thành thiểu số.
    • Một lý luận thường nghe nữa là: tuy có những bất trắc, cai trị theo đa số vẫn tốt hơn các chính thể khác, và đa số chuyên chế dù sao thì cũng là khá hơn là thiểu số chuyên chế.

    Phe đề xướng dân chủ cho rằng bằng chứng theo thống kê rõ ràng chứng tỏ là càng nhiều dân chủ thì càng ít bạo động nội bộ và diệt chủng (democide). Điều này thường được gọi là Luật Rummel, rằng người dân càng ít tự do dân chủ thì càng dễ bị giới cai trị giết chết.

     Ổn định chính trị
    Vì hệ thống dân chủ cho phép công chúng có quyền tước bỏ giới cầm quyền mà không cần thay đổi căn bản luật pháp của chính thể, nó làm cho công dân tin rằng họ có thể bất đồng với chính sách hiện thời, nhưng sẽ luôn có cơ hội thay đổi giới cầm quyền, hoặc thay đổi chính sách. Điều này có thể giảm bớt những bất trắc và bất an chính trị hơn là thay đổi chính trị bằng bạo động.

     Nạn nghèo đói
    Nơi nào có dân chủ thì càng nâng cao Tổng sản phẩm quốc nội trên mỗi đầu người và chỉ số phát triển nhân sinh (human development index), và chỉ số nghèo thì càng thấp.
    Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý là những cái hay này là đều nhờ vào dân chủ. Có người cho là hầu hết chứng cớ lại đưa đến kết luận là chính nhờ tư bản (đo bằng Chỉ số Tự do Kinh tế chẳng hạn) đã tạo ra nhiều phát triển kinh tế làm dân giàu có hơn đưa đến dân chủ hóa.
    Kinh tế gia nổi tiếng Amartya Sen ghi nhận là chưa có một chế độ dân chủ thực sự đã từng bị nạn đói lớn, kể cả những nước dân chủ vốn không giàu có suốt lịch sử, như Ấn Độ.

     Chiến tranh
    Lý thuyết dân chủ hoà bình cho rằng chứng cớ thực tế cho thấy là hầu như không bao giờ có chiến tranh giữa các nước dân chủ.
    Thí dụ là một công trình nghiên cứu vế những chiến tranh từ 1816 đến 1991 -- định nghĩa chiến tranh là khi nào có quân lính đánh nhau làm cho hơn 1000 người chết trận, và định nghĩa dân chủ là khi hơn 2/3 đàn ông có quyền bầu cử. Nghiên cứu này tìm ra 198 chiến tranh giữa các nước không dân chủ, 155 giữa các nước dân chủ đánh với các nước không dân chủ, và không có chiến tranh nào giữa những nước dân chủ với nhau. [2]

     Dân chủ ở Việt Nam
    Theo điều 4 Hiến pháp 1992, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động của xã hội. Theo Hiến pháp thì người dân Việt Nam bầu ra Quốc hội là những người đại diện cho dân để họ bầu ra chủ tịch nước và chính phủ. Theo lời dẫn giải của Đảng Cộng Sản về dân chủ thì Việt Nam không có "tranh cử" mà chỉ chó "vận động bầu cử". (nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/05/070502_na_elex_webchat.shtml)

     http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7
    .......
    ....... Như-Ý * Trai Làng
    .........

    Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 47 bài trong đề mục