(url) “Nhân Văn Giai Phẩm”

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 47 trên tổng số 47 bài trong đề mục
Tác giả Bài
LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
cải cách ruộng đất - 19.06.2007 10:04:10
cải cách ruộng đất
 

Post #: 21
 
Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.

 
50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.
 
Nói đúng ra thì năm 1956 chỉ là năm cuối của giai đoạn 5, tức cũng là giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu bẩy năm trước đó. Tuy nhiên, mốc thời gian này đáng nhớ thứ nhất vì cuộc cải cách ruộng đất đến năm đó đã đụng trần, với những án tử hình thi hành tại chỗ, những án tù dài hạn, mà hầu hết nạn nhân đều chết trong khi đang bị giam cầm, và một bầu không khí nặng nề, đe doạ đã lan rộng khắp nơi, khiến ngừơi dân phải chìm đắm trong nỗi e sợ mênh mông.

“Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
 
Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.
 
Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.
 
Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”


Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org


Lời dặn “nhân ái”

Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng: “Nhục hình là lối dã man” và “ tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng.”
Căn cứ trên thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn “nhân ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai. Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người đã bao trùm toàn lãnh thổ.
 
Cũng xin nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành phố Hà nội kể lại: "Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn địa chủ thì không phải, đó là những ngừơi chống lại nhân dân, là kẻ địch của nhân dân."
 
Không chỉ những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô lập theo chính sách của đảng. Không chỉ gia đình của những người bị kết tội địa chủ phải chịu nhục nhằn, mà những cảnh tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó vẫn còn in dấu cả mấy chục năm sau nơi những chứng nhân.
 
Ngay trong đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956 mỗi khi nói đến các cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất cũng đều phải dùng hình dung từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của Cải cách ruộng đất.
 
Nhà văn Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại: "Đối với tôi, lý tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trứơc cổng nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa chủ. Sau lưng nhà tôi, đừơng tàu, cũng là xác một ngừơi tự tử chết bằng cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi tưới rau, tôi đã thấy những ngừơi chết đó, và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp."
 
Và nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát biểu: "Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì tôi đã đựơc chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp ngừơi ta, mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ ngừơi ta, mà không có xét xử công minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời đó tôi đã chứng kiến.
 
Gia đình nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư đựơc, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình phải chịu trận, cho nên rất là khổ."
 
Còn nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, đã nhớ lại lời bà cô của ông dặn dò như sau: "Tôi có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc đựơc thả về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà. Bà cô tôi chỉ nói, cháu ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy."

Vết thương chưa lành

Cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt 50 năm trước đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương chưa lành đối với quá nhiều con người dù có trực tiếp là chứng nhân hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù 50 năm đã qua đi, thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.
 
Đó là lý do khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.
 
Loạt bài sẽ bắt đầu với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng. Ông sẽ điểm lại tám đợt phát động quần chúng giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949. Sau đó, là lời kể lại của ông Nguyễn Minh Cần là người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.
 
Xen kẽ sẽ là lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân, của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất, lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy, của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan, tác giả màu tím hoa sim, vốn là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách ruộng đất.
 
Trước khi bắt đầu vào loạt bài cải cách ruộng đất kể từ buổi phát thanh tới, ban Việt ngữ trân trọng cảm ơn các vị vừa nêu tên đã nhiệt thành cộng tác và giúp đỡ chúng tôi trong cố gắng lật lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này.
 
Quý thính giả vừa nghe bài đầu tiên trong loạt chín bài về cuộc Cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước. Trong buổi phát thanh tới, nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng sẽ nói về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất kéo dài từ năm 1949 đến 1956. Mong quý thính giả đón nghe.

Thông tin trên mạng:

- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia
 


Theo dòng câu chuyện:
Những bài liên quan


http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/05/15/LandReform50YearsAgo_NAn/
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 12.07.2007 01:45:19

Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất

 
 
Cải Cách Ruộng Đất
Cải Cách Ruộng Đất
 
9 Bài Bình Luận Về Cộng Sản
Saturday, November 11, 2006 at 9:32 PM ICT
 

 Một tiền đề chỉ đạo của chủ nghĩa cộng sản là vô thần luận: cho rằng không có Phật, không có Đạo, không có đời trước, không có đời sau, và không có quả báo. Vì vậy, những người theo chủ nghĩa cộng sản ở các nước đều dạy những người nghèo và giai cấp vô sản lưu manh  rằng họ không cần tin vào Thần linh; họ không phải trả giá cho những gì họ đã làm; và họ không cần tôn trọng luật pháp trong hành động của mình. Ngược lại, họ nên dùng mưu kế và bạo lực để cưỡng đoạt của cải vật chất.


http://9binh.com/
Hình ảnh về cải cách ruộng đất do nhiếp ảnh gia Liên Xô Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp năm 1955 tại Việt Nam
 
 

 




 
http://caicachruongdat.blogsource.com/
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 17.07.2007 09:49:52
Cải cách ruộng đất (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
Bài này hoặc đoạn này được đề nghị hợp nhất với bài Cải cách ruộng đất tại Việt Nam, vì hai bài đều nói về Cải cách ruộng đất (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
 
 
Tại Việt Nam, cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 là việc tịch thu ruộng đất của địa chủ, phú nông và cả một số trung nông chia cho dân cày nghèo. Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc".
 
Tại kì họp thứ ba của Quốc hội, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ".
 
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
 
Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.
 
Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn nhận "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế" nhằm khẳng định đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh của đất nước.
 
Hai ông Bùi TínVũ Thư Hiên, từng là nhân chứng sống trong cải cách ruộng đất, tại buổi hội thảo "Những kinh nghiệm đau buồn từ 'Cải cách ruộng đất' ở đất Bắc 1953-1956" do Mạng lưới dân chủ tổ chức cuối tháng 6 năm 2003 tại thủ đô Berlin, cho biết sở dĩ chính sách cải cách ruộng đất có được là do chỉ thị của Liên XôTrung Quốc, nhất là học theo cách đấu tranh giai cấp của Trung Quốc, nên cuộc đấu tố đã diễn ra một cách tàn bạo, dã man chưa từng thấy.
 
Cũng trong hội thảo này, ông Bùi Tín - một người bất đồng quan điểm với chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cũng nêu lên con số nạn nhân là 500.000 người do Michel Tauriac, nhà văn - nhà báo người Pháp đưa ra. Bùi Tín cho rằng con số này cũng hợp lý nếu kể cả những người bị giết, bị chết trong tù, bị chết sau khi thả ra và tự tử.
 
Một ý kiến từ phía những người chống đối chính phủ cộng sản cho rằng sai lầm trong cải cách ruộng đất là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng người dân miền Bắc di cư vào miền Nam sau Hiệp định Genève 1954. Tuy nhiên, nhận định này khác rất nhiều với các ý kiến, nhận định về cuộc di cư năm 1954 trong các sách về lịch sử ở Việt Nam hiện nay.
Ông Vũ Thư Hiên, trong cuốn Đêm giữa ban ngày thì cho rằng con số nạn nhân là ít hơn co số năm chục vạn của ông Tín rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:
 
"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học."
 
Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”. Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể bị bắn tại chỗ hoặc bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
 
 
http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3i_c%C3%A1ch_ru%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BA%A5t_%28Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a%29
 
 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 22.07.2007 15:45:39
Việt Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm


Bài này nói về chính thể hiện nay có tên Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Để tìm hiểu các chính thể cận đại trước đây, xin xem Việt Nam (định hướng). Để tìm hiểu về quốc hiệu Việt Nam, xin xem bài Quốc hiệu Việt Nam.

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam









(Quốc kỳ)
(Quốc huy)

Khẩu hiệu quốc gia: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quốc ca: Tiến Quân Ca



Thủ đô
 Hà Nội

21°2′N 105°51′E


Thành phố lớn nhất
Thành phố Hồ Chí Minh

Ngôn ngữ chính thức
Tiếng Việt

Chính phủ
 • Chủ tịch nước
 • Thủ tướng
Xã hội chủ nghĩa một đảng
Nguyễn Minh Triết
Nguyễn Tấn Dũng

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
 • Tuyên bố
 • Công nhận
2 tháng 7, 1976

Diện tích
 • Tổng số
 • Nước (%)
 
331.690 km² (hạng 65)
1,3%

Dân số
 • Ước lượng năm 2005
 • Thống kê dân số
 • Mật độ
 
85,238,000 (hạng 13)

253 người/km² (hạng 31)

HDI (2004)
0,709 (hạng 109) – trung bình

GDP (2005)
 • Tổng số (PPP)
 • Trên đầu người (PPP)
 
251,8 tỷ đô la (hạng 36)
3,025 đô la (hạng 123)

Đơn vị tiền tệ
Đồng (₫, VND)

Múi giờ
 • Quy ước giờ mùa hè
ĐNÁ (UTC+7)
Không áp dụng

Tên miền Internet
.vn

Mã số điện thoại
+84

Việt Nam (tên chính thức Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là một quốc gia nằm phía đông của bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp với nước Trung Quốc ở phía bắc, nước Lào và nước Campuchia ở phía tây, vịnh Thái Lan ở phía tây nam và biển Đông ở phía đông và phía nam với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam (hiện nay) xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km²). Trên biển Đông có quần đảo Trường SaHoàng Sa mà Việt Nam khẳng định chủ quyền nhưng một số nước láng giềng khác cũng khẳng định chủ quyền toàn bộ hay từng phần các quần đảo này.
Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc giành được chiến thắng với Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai miền được thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 nước Việt Nam được đặt tên hiệu là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.






Mục lục
//



 Lịch sử



Xem chi tiết: Lịch sử Việt NamLịch sử Việt Nam được bắt nguồn từ sự định cư của các tộc người Việt cổ trong thời Văn Lang mà theo nhiều tài liệu là từ năm 2879 TCN. Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, các dân tộc này bị các tập đoàn phong kiến phương Bắc cai trị trong hơn 1000 năm. Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành, hoặc chỉ giành độc lập ngắn (60 năm thời Lý Bí), đến năm 938, Việt Nam giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng. Dân tộc Việt xây dựng nhà nước độc lập trên cơ sở học tập mô hình thể chế chính trị và xã hội, chữ viết (chữ Hán), nghệ thuật và văn hóa của người Trung Quốc. Trải qua các triều đại phong kiến, và với những lần mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, đất nước Việt Nam thống nhất với ranh giới địa lý gần như hiện nay vào năm 1802.
Đến giữa thế kỷ 19, cùng với Đông Dương, Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp. Trong Thế chiến thứ hai, phát xít Nhật chiếm Việt Nam và toàn thể Đông Dương, ngay sau khi hay tin quân Đồng Minh chiến thắng, Việt Minh đã cướp chính quyền từ tay phát xít Nhật. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại.
Sau Thế chiến thứ hai, người Pháp muốn chiếm lại thuộc địa Đông Dương nhưng vấp phải sự phản kháng quyết liệt của người Việt Nam. Sau chiến thắng của Việt Minh tại chiến trường Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương. Hiệp định Genève được ký kết, chấm dứt ách đô hộ gần một trăm năm của Pháp tại Việt Nam, đồng thời chia đôi nước Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, định sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử cả nước.
Tuy nhiên, vì nhiều tác nhân bên ngoài nên trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hiệp định Genève đã bị phá vỡ. Nước Việt Nam Cộng hòa được thành lập ở miền Nam được Hoa Kỳ và một số nước đồng minh hậu thuẫn và các nước trong thế giới tự do công nhận, với chính quyền trong tay những người không tham gia chống xâm lược Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo mô hình xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập tại miền Bắc là nước được Liên Xô, Trung Quốc hậu thuẫn và được các nước trong khối xã hội chủ nghĩa khác công nhận và giúp đỡ. Chính quyền miền Bắc có nòng cốt là Việt Minh.
Xung đột giữa hai miền mở ra một cuộc chiến tranh kéo dài suốt gần 2 thập kỷ. Năm 1964, Hoa Kỳ can thiệp, đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại chiến trường Việt Nam, và thực hiện các đợt ném bom miền Bắc bằng máy bay B-52. Đến tháng 1 năm 1973, sau những tổn thất vuợt ngưỡng chịu đựng trên chiến trường Việt Nam, cùng với những khó khăn trên chính trường Mỹ cộng với tác động của phong trào phản chiến trong nước và trên thế giới, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris, và rút quân khỏi Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam được coi như kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính quyền của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.
Năm 1976, nước Việt Nam thống nhất đổi tên hiệu là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sau chiến tranh, nhiều chính sách sai lầm đã đưa Việt Nam vào các khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội. Đại hội Đảng lần VI năm 1986 chấp thuận chính sách Đổi mới theo đó cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Giữa thập niên 1990, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Năm 1995, Việt Nam gia nhập khối ASEAN, sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ một năm trước đó. Hiện giờ Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN, APEC và trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 7 tháng 11 năm 2006 sau 11 năm đàm phán.

 Địa lý



Đèo Hải Vân, Huế - Đà Nẵng 
 

Thác Bản Giốc, Cao Bằng 

Xem chi tiết: Địa lý Việt Nam, Du lịch Việt Nam, và Đa dạng sinh học Việt Nam
Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo này; ngoài ra, Việt Nam luôn khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ lịch sử của mình. Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đôngvịnh Thái Lan.
Việt Nam có diện tích 331.688 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km². Địa thế có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Miền Bắc gồm có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng; miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ở miền nam với hai mùa (mùa mưa, từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 3) và khí hậu gió mùa ở miền bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hè, mùa thumùa đông). Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hoà một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, và nhiệt độ từ 5°C đến 37°C.
Việt Nam có nhiều mỏ khoáng sản trên đất liền, rừng tự nhiên và một số mỏ dầu, khí, quặng khoáng sản ngoài khơi. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bãolụt lội.

[sửa] Chính trị



Phủ chủ tịch

Xem chi tiết: Chính trị Việt Nam
Việt Nam hiện nay là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế cho đến nay (2007) các đại biểu là đảng viên trong Quốc hội có tỉ lệ từ 90% trở lên[1][2], những người dẫn đầu Chính Phủ và Quốc Hội đều là đảng viên kỳ cựu và được Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử.
Sau khi Việt Nam thống nhất Đảng Cộng sản chính thức không chấp nhận quan điểm đa nguyên, đa đảng để cạnh tranh chính trị thông qua bầu cử; Đảng Cộng sản Việt Namđộc quyền lãnh đạo theo quy định trong điều 4 của Hiến pháp. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là một Tổng bí thư.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch Quốc hội hiện nay (2007) là ông Nguyễn Phú Trọng.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước được Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến pháp trong đó quan trọng nhất là: công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay (2007) là ông Nguyễn Minh Triết.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị để Quốc hội bầu. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ hiện nay (2007) là ông Nguyễn Tấn Dũng.
Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Trung ương đảng quản lý.
Chính phủ Việt Nam có 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. Chính phủ còn quản lý 13 cơ quan trực thuộc như Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Tổng cục Du lịch và Tổng cục Thống kê.
Những người lãnh đạo như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, cũng như các bộ trưởng hay các vị trí quản lý chủ chốt trong bộ máy Nhà nước và Chính phủ đều do đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhiệm dù rằng hiến pháp không qui định.

 Chính sách đối ngoại
Theo các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lậpphát triển"[cần dẫn chứng].
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPAUPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004.
Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, nhóm các nước châu Á tại Liên Hiệp Quốc đã nhất trí thông qua quyết định đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất cho ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dành cho châu Á nhiệm kỳ 2008-2009.
Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặc lớn trong tiến trìn hội nhập với nền kinh tế quốc tế.

 Phân cấp hành chính



Bản đồ hành chính Việt Nam

Xem chi tiết: Các đơn vị hành chính Việt NamTỉnh Việt Nam
Việt Nam được chia ra 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương, (thủ đô là Hà Nội): An Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Dương, Bình Định, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Cần Thơ*, Đà Nẵng*, Đăk Lăk, Đăk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Nội*, Hà Tây, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng*, Hậu Giang, Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh*, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
Dưới cấp tỉnhthành phố trực thuộc trung ương, Việt Nam được chia thành 663 quận, huyện, thị xã hay thành phố trực thuộc tỉnh.


Xem chi tiết: Danh sách các đơn vị hành chính cấp huyện của Việt Nam

 Kinh tế


Xem chi tiết: Kinh tế Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nghèo và đông dân đang dần bình phục và phát triển sau sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát viện trợ tài chính từ khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, và sự yếu kém của nền kinh tế tập trung. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Tăng trưởng GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hoá nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.
Việt Nam đã hoàn thành việc xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập sau khi đã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc. Ngày 28 tháng 11, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tỷ lệ phiếu thuận 90,24%[3]. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007.

 Số liệu
Các số liệu dưới đây được dịch từ nguồn của Tổng cục Thống kê Việt Nam và Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA)[4].

GDP theo đầu người (2006)
  • Theo sức mua tương đương: 3.100 USD
  • Theo tỷ giá hối đoái: 720 USD


Tỷ lệ tăng trưởng GDP (2006)
8,17% so với 8,4% năm 2005, 7,69 % năm 2004 và 7,34 % năm 2003.

Tỷ lệ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm
(2001-2004) 7,25% so với 6,95% trong giai đoạn 1996-2000.

Tỷ trọng trong GDP
(2006)
  • Nông nghiệp: 15,97%
  • Lâm nghiệp: 1.2 %
  • Công nghiệp và xây dựng: 40.97%
  • Dịch vụ: 38,01%


Tỷ giá hối đoái
(trung bình năm 2006)*
  • 1USD = 16.025 VND


Tỷ lệ lạm phát
(năm 2006; tính theo năm): 6.6%; Mức tăng giá bình quân năm 2006 là 7.5%.

Tài chính công
(chính quyền trung ương, tính theo tỷ lệ % của GDP theo giá hiện hành, ước tính cho năm 2003)**
  • Thu: 22,66%
  • Chi: 24,70%
  • Thâm hụt: 2,04%


Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(đến 15 tháng 12 năm 2005) 3,9 tỷ USD trong các dự án đăng ký mới, chủ yếu tập trung vào công nghiệp và xây dựng. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng tăng thêm vốn 1,83 tỷ USD vào những dự án đang tồn tại.

Nợ nước ngoài
(% GDP, cuối 2005) 35,5%. Bộ Tài chính dự kiến mức này cho năm 2006 là 34%.

Cán cân thanh toán theo ngoại tệ chuyển đổi (2005)
  • Xuất khẩu (f.o.b): 32,23 tỉ USD, tăng 21,6% so với 2004
  • Nhập khẩu (c.i.f): 36,88 tỉ USD, tăng 15,4% so với 2004
  • Thâm hụt thương mại: 4,65 tỉ USD (giảm từ mức thâm hụt 5,45 tỷ USD năm 2004)


Các mặt hàng xuất khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch)
Dầu thô (23%), hàng dệt may (15 %), giày dép (9,3%), hải sản (8,5%), điện tử máy tính (4,5%), gạo (4,3%), cao su (2,4%), cà phê (2,2%).

Các mặt hàng nhập khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch)
Máy móc, thiết bị (14,2%), xăng dầu (13,5%), thép (8%), vải (6,5%), nguyên phụ liệu dệt may da (6,3%), điện tử máy tính (4,6%), phân bón (1,8%).

Các thị trường xuất khẩu chính (2003)
Hoa Kỳ (20%), Nhật Bản (14%), Trung Quốc (9%) Úc (7%), Singapore (5%), Đài Loan (4%), Đức (4%), Anh (4%), Pháp (2%), Hà Lan (2%), các nước khác (29%).

Các chỉ số



Chỉ số
Vị trí
Thay đổi

Năng lực cạnh tranh (***), (2005)
81
-4

Công nghệ
68

Chế công
62

Môi trường kinh tế vĩ mô
39

Phát triển mạng (xếp hạng trong 82 nước, 2002)
71



* Tỷ giá liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
** Theo ước tính của Bộ Tài chính
*** do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đánh giá xếp hạng trong 117 nước[5]

 8 vùng kinh tế
  1. Đông Bắc Bắc Bộ
  2. Tây Bắc Bắc Bộ
  3. Đồng Bằng Sông Hồng
  4. Bắc Trung Bộ
  5. Nam Trung Bộ
  6. Tây Nguyên
  7. Đông Nam Bộ
  8. Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long)


 Giáo dục và Khoa học
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang cố gắng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ở Việt Nam có 3 cấp học: tiểu học, trung học, đại học. Có một số trường đại học nổi tiếng như: Đại học Y Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội,Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh...

 Du lịch
Số lượng khách du lịch đến Việt Nam đã tăng lên khá nhanh trong vòng 10 năm qua. Khoảng 3.56 triệu khách quốc tế đã tới Việt Nam vào năm 2006, tăng 3.7% kể từ năm 2005. Chính quyền đang đầu tư vốn vào những vùng ven biển vốn đã nổi tiếng về những bãi tắm và những chuyến du lịch trên biển. Nhân viên khách sạn và hướng dẫn viên du lịch trong những vùng này nói tiếng Anh khá thông thạo.

......

 Văn hóa



Bia đá ghi danh tiến sĩ tại Quốc Tử Giám, Thăng Long

Xem chi tiết: Văn hóa Việt Nam, Văn học Việt Nam, và Âm nhạc Việt Nam
Việt Nam có một nền văn hoá rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc dân tộc vì có sự đóng góp của nhiều thành phần dân tộc trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam còn có một số yếu tố từ sự kết tinh giao thoa giữa nền văn hoá Trung QuốcẤn Độ cùng với nền văn minh lúa nước của người dân bản địa.

Dân tộc


Xem chi tiết: Dân tộc Việt Nam
Theo chính phủ Việt Nam, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 87%, tập trung ở những miền châu thổđồng bằng ven biển. Những dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, tập trung ở các vùng cao nguyên. Trong số người thiểu số, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi dân tộc có dân số khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất, với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây.

Tôn giáo


Xem chi tiết: Tôn giáo Việt Nam
Theo cuộc điều tra dân số năm 1999, 80,8% không theo tôn giáo, 9,3% theo Phật giáo, 6,7% theo Cơ đốc, 1,5% theo Hoà Hảo và 1,1% là tín đồ Cao Đài.
Nhưng theo các nguồn khác[cần chú thích], người dân Việt Nam đa số theo Khổng giáo, Đạo giáoPhật giáo đại thừa, và một số khá lớn tín đồ Công giáo La Mã, Tin lành; ngoài ra còn hai nhóm tôn giáo nhỏ Cao ĐàiHoà Hảo. Các nhà thờ công giáo (Công giáo La Mã - Thiên Chúa giáo) nổi tiếng Việt Nam Nhà thờ chính tòa Hà Nội, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Nhà thờ Phát Diệm, Nhà thờ Phú Nhai- Bùi Chu, nhà thờ Quần Phương - Hải Hậu - Nam Định và nhiều nhà thờ khác .... Các nhà thờ Tin lành lớn nhất ở Việt Nam là Nhà thờ phúc âm Việt NamNhà thờ phúc âm phái núi. Các tín đồ Hồi giáo SunniHồi giáo Bashi thường thuộc dân tộc Chăm thiểu số, nhưng cũng có một số người Việt theo Hồi giáo ở phía tây nam đất nước.

 Chữ viết


Xem chi tiết: Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam



Xem chi tiết: Thông tin nhân khẩu học Việt Nam

Trang thông tin về Việt Nam trong The World Factbook (CIA)
........






Các nước Đông Nam Á


Brunei | Campuchia | Đông Timor | Indonesia | Lào | Malaysia | Myanma | Philippines | Singapore | Thái Lan | Việt Nam


Vùng tranh chấp: Quần đảo Hoàng Sa | Quần đảo Trường Sa




Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)


Brunei | Campuchia | Indonesia | Lào | Malaysia | Myanma | Philippines | Singapore | Thái Lan | Việt Nam | Papua Tân Guinea (thành viên quan sát)




Các nướcchâu Á



Afghanistan | Ai Cập | Armenia1 | Azerbaijan1 | Ả Rập Xê Út | Ấn Độ | Bahrain | Bangladesh | Bhutan | Bờ Tây2 | Brunei | Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất | Campuchia | Dải Gaza2 | Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)4 | Đông Timor | Gruzia1 | Hàn Quốc | Hồng Kông3 | Indonesia | Iran | Iraq | Israel | Jordan | Kazakhstan1 | Kuwait | Kyrgyzstan | Lào | Liban | Ma Cao3 | Malaysia | Maldives | Mông Cổ | Myanma | Nepal | Nga1 | Nhật Bản | Oman | Pakistan | Palestin | Philippines | Qatar | Singapore | Síp1 | Sri Lanka | Syria | Tajikistan | Thái Lan | Thổ Nhĩ Kỳ1 | Triều Tiên | Trung Quốc | Turkmenistan | Uzbekistan | Việt Nam | Yemen
 


1. Thường gắn với châu Á về mặt địa lý, tuy nhiên cho là thuộc Châu Âu về mặt văn hóa và lịch sử. 2. Lãnh thổ do Israel kiểm soát, Chính quyền Palestin quản lý. 3. Khu hành chính đặc biệt của CHNDTH. 4. Xem thêm: Vị thế chính trị Đài Loan
 
http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam
 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 22.07.2007 15:52:42

Thác Bản Giốc, Cao Bằng


Chủ quyền thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam hay Trung Quốc, năm 2007?? Sau khi phân chia ranh giới Việt Nam và Trung Quốc????

>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>

Thác Bản Giốc là một thác nước thuộc xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Thác nước này cách huyện lỵ Trùng Khánh khoảng 20 km về phía đông bắc.

Thác nước này nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn bắt nguồn từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam tại Pò Peo thuộc xã Ngọc Khê. Từ xã Ngọc Khê, sông chảy qua các xã Đình Phong, Chí Viễn, khi đến xã Đàm Thuỷ, dòng sông lượn quanh dưới chân núi Cô Muông rồi qua các cánh đồng của Đàm Thuỷ, qua bãi ngô trên làng Bản Giốc rồi tách ra thành nhiều nhánh, đột ngột hạ thấp xuống khoảng 35 m, tạo thành thác Bản Giốc.

Giữa thác có một mô đất rộng phủ đầy cây, xẻ dòng sông thành ba luồng nước. Vào những ngày nắng, làn hơi nước bắn ra từ thác tạo thành cầu vồng. Dưới chân thác là mặt sông rộng, với bên bờ là những thảm cỏ và vạt rừng. Ở cạnh thác có động Ngườm Ngao, dài 3 km.

Thác Bản Giốc hiện nay là thắng cảnh du lịch. Do phía bên kia của thác là cột mốc 53 biên giới Việt-Trung, địa điểm này cũng là nơi sinh hoạt văn hoá của thanh niên nam nữ và đồng bào dân tộc hai nước. Thác Bản Giốc cũng đã đi vào nghệ thuật tạo hình với những tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh đặc sắc. Ngoài giá trị du lịch và nghệ thuật, thác cũng là một tiềm năng thủy điện.

Bài này còn sơ khai. Bạn có thể viết bổ sung. (Xin xem phần trợ giúp để biết thêm về cách sửa đổi bài.)

 Liên kết ngoài

Lấy từ “http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1c_B%E1%BA%A3n_Gi%E1%BB%91c

Thể loại: Stub | Cao Bằng | Thác nước Việt Nam


http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1c_B%E1%BA%A3n_Gi%E1%BB%91c

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2007 15:55:07 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 22.07.2007 15:59:05
Thác Bản Giốc, Cao Bằng
 
 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
RE: Cải Cách Ruộng Đất - 26.07.2007 02:19:49
Trích từ talawas
Xét lại "hồ sơ" của giai cấp địa chủ
Trần Huy Liệu
     Ngay từ tháng 3.1954, khi cuộc Cải cách ruộng đất đang ở thời kì khắc nghiệt nhất, Trần Huy Liệu đã viết thư cho ông Hoàng Quốc Việt, một trong những người lãnh đạo Cải cách ruộng đất, nêu ý kiến cho rằng ở Việt Nam, khác với Trung Quốc, địa chủ đa số là bậc trung và bậc tiểu, mà phần đông lại là yêu nước. Vì vậy, cần có sách lược đối xử đúng mức trong Cải cách ruộng đất, không nên gộp tất cả là kẻ địch. Bài này của Trần Huy Liệu đăng trên tập san Văn Sử Địa số 25, quý I-1957, kí tên Hải Khách, bút danh của ông thời Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939). Nó phản ánh nhận thức của Trần Huy Liệu - lúc đó là trưởng ban nghiên cứu Văn Sử Địa - sau cuộc Cải cách ruộng đất và thời kì sửa sai. Ngay sau khi bài được đăng, trong một cuộc họp ở câu lạc bộ Đoàn kết, ông Trường Chinh đã nhận xét là bài có sự "mơ hồ giai cấp".

Đặt vấn đề
Sau những sai lầm nghiêm trọng về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đã đến lúc chúng ta cần phải xét lại một số nhận định từ trước về tính chất giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp và đối tượng chủ yếu của cách mạng, các lực lượng tham gia cách mạng trong quá trình cách mạng Việt Nam. Việc này chúng tôi đã bắt đầu làm trong mấy số tập san gần đây. Một nhận thức chung là xã hội Việt Nam trong thời Pháp thuộc là một xứ thuộc địa và nửa phong kiến, do đó, nó có những đặc điểm mà chúng ta phải tìm ra để biết đến để sắp xếp lực lượng, định một chiến lược cho thật đúng.

Với bài này, tôi nói về giai cấp phong kiến địa chủ và trước hết, hãy trang trải về danh từ. Còn nhớ năm 1935, trong cuộc bút chiến giữa Phan Khôi và Hải Triều, một vấn đề đã được nêu lên là nước Việt Nam ta còn có chế độ phong kiến không. Ông Phan Khôi căn cứ vào mấy chữ định nghĩa "phong hầu kiến ấp" ngày trước để đi đến chỗ phủ nhận phong kiến còn tồn tại ở Việt Nam. Trái lại ông Hải Triều căn cứ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất của phong kiến, hình thức bóc lột địa tô của địa chủ để đi đến kết luận là phong kiến vẫn tồn tại ở Việt Nam. Cuộc bút chiến hồi đó, cũng như nhiều cuộc bút chiến khác, không có trọng tài để phân giải ai phải ai trái một cách rõ ràng. Nhưng với một nhận thức căn bản về quan hệ tư liệu sản xuất, cụ thể là ruộng đất, không ai chối cãi được là nước Việt Nam có chế độ phong kiến, có giai cấp phong kiến mà một trong những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ bọn phong kiến, tay sai của đế quốc và quét sạch tàn tích phong kiến. Trong cuộc giảm tô và cải cách ruộng đất vừa qua, đối tượng của nông dân là giai cấp điạ chủ. Nhưng trong đó còn có những trường hợp phiền phức như: có những người về địa vị và danh vọng thuộc giai cấp phong kiến, nhưng không có ruộng cho thu tô, không bóc lột theo lối phong kiến. Liệt họ vào giai cấp nông dân thì cố nhiên họ không phải là nông dân. Cũng có người nói họ là chủ của một ít ruộng đất, tức là tiểu tư hữu nằm trong cơ sở của chế độ tư sản. Vấn đề rất phức tạp, cần phải nghiên cứu nhiều. Ngay đến việc quy định thành phần địa chủ trong cuộc cải cách vừa qua cũng còn nhiều điểm phải bàn lại.

Vì vấn đề phức tạp, mục đích của bài này chưa đi sâu vào nội dung sinh hoạt của giai cấp, cũng không tách khỏi địa chủ với phong kiến, mà chỉ kiểm điểm thái độ chính trị của họ, nghĩa là xét lại "hồ sơ" của họ. Cùng với việc nghiên cứu các giai cấp khác, tôi muốn biết đặc điểm của giai cấp phong kiến thuộc địa trong một xứ thuộc địa khác với giai cấp phong kiến địa chủ trong một nước độc lập và cũng do đó, chúng ta càng nhận rõ bạn thù trong từng giai đoạn lịch sử nhất định trên lập trường giai cấp và lập trường dân tộc.
Bài này viết ra tôi mới trình bày những ý kiến sơ bộ và còn tiếp tục nghiên cứu.
Kiểm điểm thái độ chính trị của giai cấp phong kiến địa chủ qua các thời kì
Cần phải "phân bua" rằng: xét lại "hồ sơ" của giai cấp địa chủ, một giai cấp đã bị lên án, liệt vào đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ, tôi không có ý định làm "thầy cãi " cho một tội nhân đã có tội chứng rành rành, mà chỉ tìm trong đó những tình tiết đáng chú ý, những trường hợp cần thẩm tra lại, làm nổi bật lên tính chất của địa chủ ở một xứ thuộc địa nửa phong kiến.

Không như các giai cấp tư sản dân tộc, tiểu tư sản và công nhân mới xuất hiện trong thời kì Pháp thuộc, giai cấp phong kiến địa chủ nước ta xuất hiện và nắm quyền thống trị từ lâu. Trước ngày thực dân Pháp đánh chiếm nước ta thì mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ phong kiến đã phải nhường chỗ chủ yếu cho mâu thuẫn giữa toàn dân Việt Nam, trong đó có giai cấp phong kiến địa chủ, với bọn xâm lược cướp nước. Cũng từ lúc này sự phân hóa trong giai cấp phong kiến địa chủ biểu hiện thái độ chính trị với bọn xâm lược đã diễn ra không ngừng. Đầu tiên là sự phân chia giữa phái chủ hòa, nói đúng hơn là phái đầu hàng, đã đứng trên lập trường giai cấp của chúng, muốn thỏa thuận với giặc ngoại xâm để duy trì quyền lợi một phần nào của chúng khỏi bị đổ vỡ trước phong trào ngày càng lớn mạnh của nông dân. Phái chủ chiến đứng trên lập trường giai cấp từ trước cũng như lập trường dân tộc, thấy không thỏa hiệp được với giặc ngoại xâm, không can tâm làm nô lệ nên chủ trương chiến đấu. Sau khi phái chủ chiến đã chiến bại và triều đình Huế đã đầu hàng, công nhận sự đô hộ của thực dân Pháp thì sự phân chia lại một lần nữa diễn ra giữa bọn phong kiến tại triều và một số văn thân kháng chiến. Nếu chúng ta điểm mặt những lãnh tụ khởi nghĩa bấy giờ thì hầu hết là những hưu quan, những nhà khao mục ở các địa phương. Họ không những không có đặc quyền đặc lợi gì, mà phần nhiều thuộc loại "tiếng cả nhà thanh", nghĩa là danh vọng thì lớn nhưng tài sản thì ít. Một điểm đáng nghi là: ngoài chỗ dựa vào nông dân, những phần tử trung kiên trong các cuộc khởi nghĩa đa số là những nhà Nho nghèo. Về danh nghĩa họ thuộc giai cấp phong kiến, nhưng không phải là điạ chủ sống bằng địa tô. Chính những người này là động lực của cuộc khởi nghĩa kháng Pháp và nối liền những tập đoàn lãnh đạo khởi nghĩa với nông dân địa phương.

Nói đến cuộc lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn đầu, có người thấy giai cấp địa chủ là đối tượng của cách mạng ngày nay rồi chực phủ nhận cả một bộ phận phong kiến đã có lúc lãnh đạo cách mạng. Có người dựa vào lí luận nói giai cấp phong kiến địa chủ là kẻ thù của nông dân thì làm thế nào lãnh đạo được giai cấp nông dân. Những người này đã xa lìa thực tế, không đặt giai cấp phong kiến địa chủ vào khung cảnh thuộc địa, lại cũng không thấy mâu thuẫn dân tộc ở một xứ thuộc địa bao trùm cả mâu thuẫn giai cấp, mặc dù mâu thuẫn dân tộc về thực chất vẫn là mâu thuẫn giai cấp. Nhìn vào giai đoạn lịch sử này, chúng ta phải phân biệt bọn đại phong kiến có những đặc quyền đặc lợi tại triều đình với những lớp phong kiến nghèo và những trung, tiểu phong kiến ở thôn quê đã biểu lộ nhưng thái độ khác hẳn nhau. Chúng ta một mặt ghi điểm phản động của giai cấp phong kiến với chế độ chiếm hữu ruộng đất bóc lột địa tô, một mặt đừng quên ghi điểm tiến bộ của những văn thân yêu nước chống giặc. Một ngày nào họ chưa đầu hàng đế quốc, còn đứng trên lập trường dân tộc, còn lãnh đạo chống Pháp thì nhân dân vẫn ủng hộ họ. Nói cho cùng những cuộc vũ trang khởi nghĩa từ khi thực dân Pháp bắt đầu đánh chiếm Nam Kì qua phong trào Cần Vương đến cuối thế kỉ XIX, trừ một vài trường hợp đặc biệt không kể nếu chúng ta cố ý phủ nhận sự lãnh đạo cho giai cấp nào? Hôm trước, trong cuộc thảo luận giữa tôi và một đồng chí Liên Xô nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, đồng chí bạn có đặt ra một câu nghi vấn xem có một nhóm văn thân vào lúc ấy đã có khuynh hướng tư sản chưa? Tôi căn cứ vào sử liệu mà trả lời rằng: chủ trương của các văn thân hồi đó rõ ràng là bình Tây, là Cần Vương, là khôi phục chế độ cũ, chớ chưa biểu lộ ra khía cạnh nào có xu hướng dân chủ cả. Vả chăng, xu hướng dân chủ tư sản chỉ có thể sản ra với một điều kiện xã hội Việt Nam có đủ một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và những tầng lớp tư sản mới.

Qua hai lần phân chia kể trên, đến đầu thế kỉ XX, giai cấp phong kiến lại một lần phân hóa nữa. Lúc này, sau những cuộc khởi nghĩa thất bại, một bộ phận phong kiến đã bị phá sản.Trong các cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp, kinh tế tư bản chủ nghĩa đã dần dần có cơ sở. Tầng lớp tư sản mới đã bắt đầu xuất hiện tại các thành thị. Trào lưu tư tưởng của thế giới tràn vào thông qua các yếu tố mới đương nẩy nở trong nước làm cho ý thức hệ của giai cấp phong kiến bị rạn nứt, rung động. Lần này phân hóa diễn ra giữa hai phái sĩ phu: một phái thủ cựu vẫn ôm riết lấy ý thức hệ phong kiến, và một phái có khuynh hướng dân chủ tư sản tới một mức độ nào. Những phong trào đầu thế kỉ XX như: Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân... do một số sĩ phu tiến bộ trong giai cấp phong kiến lãnh đạo đã nói lên một biến động lớn về tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng cũng như về hệ thống tư tưởng của đẳng cấp sĩ phu. Sau đó giai cấp phong kiến cho đến hết cuộc đại chiến thứ nhất, nói chung, đã hết vai trò lãnh đạo chống thực dân Pháp, nhưng một bộ phận trong phái sĩ phu tiến bộ mà tiêu biểu của nó là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã dần đi vào khuynh hướng tư sản dân chủ của những tầng lớp đang cấu thành giai cấp và phong trào tư sản sắp chính thức bắt đầu. Một bộ phận khác như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... lãnh tụ đảng Tân Việt sau này, còn tiến xa hơn nữa, trút bỏ hết những nếp tư tưởng, đường lối đấu tranh của giai cấp phong kiến, giai cấp gốc rễ của họ để hòa mình vào trào lưu mới chẳng những có tính chất dân chủ, mà còn có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở trên tôi đã đánh dấu vai trò lãnh đạo chống thực dân Pháp của giai cấp phong kiến, mặc dầu là một bộ phận, đã chấm dứt từ sau cuộc đại chiến thứ nhất. Nhưng vấn đề đặt ra là: có phải từ đó trở đi, giai cấp phong kiến địa chủ đã trở nên hoàn toàn phản động, cấu kết với thực dân Pháp để chống lại dân tộc không? Chúng ta phải xét lại sự nhận định ấy đúng đến đâu, đến mức độ nào? Tốt hơn hết là chúng ta hãy trình bày những sự thực diễn ra qua các thời kì để làm cơ sở cho nhận xét khách quan.

Thực ra, ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta, một bộ phận phong kiến, chủ yếu là phong kiến cầm quyền tại triều đình Huế, đã câu kết với giặc, làm tay sai cho giặc để giết hại đồng bào, phản lại Tổ quốc. Những tên đại Việt gian như Trần Đình Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải... chẳng những là kẻ thù dân tộc, mà còn là kẻ thù của phe phong kiến chống Pháp lúc bấy giờ. Trong hai bức thư trao đổi giữa Hoàng Cao Khải và Phan Đình Phùng, chúng ta thấy rõ hai người cùng một giai cấp mà đứng trên hai lập trường, phân biệt rõ rệt người phong kiến yêu nước. Từ sau cuộc đại chiến thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam hình thành. Nhưng một đặc điểm của xứ thuộc địa, xứ nông nghiệp mà chúng ta đừng quên là: những nhà tư sản lớp trên đa số xuất thân từ giai cấp phong kiến cũng như số công thương gia kiêm địa chủ hay địa chủ kiêm công thương gia khá nhiều. Đảng Lập hiến ở Nam kì là một tập đoàn đại địa chủ tư sản hóa vừa có hàng nghìn hàng vạn mẫu ruộng thu tô vừa có những nhà máy gạo, máy dệt, hãng làm xà phòng, thuốc lá ở thành thị, đến cả nhà Việt Nam ngân hàng. Do đó, khuynh hướng chính trị của họ biểu lộ ra từ khoảng những năm 1922-1926 là đòi tự do dân chủ, tán thành cải lương để rồi đi đến "Pháp Việt đề huề", sát cánh với bọn đại biểu của tư sản Pháp trong các nghị trường và cuối cùng là chống lại phong trào đấu tranh của nhân dân ngày một lên cao. Từ năm 1930 trở đi, đối tượng cách mạng chẳng những chĩa vào thực dân Pháp mà còn chĩa vào giai cấp phong kiến địa chủ thì thái độ bọn địa chủ, trong đó đa số là quan lại và chính khách cũng tỏ ra quyết liệt, không còn miếng đất nào có thể hòa giải với cách mạng. Đảng Lý Nhân mà hồi đó người ta nhắc đến ở Nam kì cũng như ở Nghệ Tĩnh là một đảng chống lại cách mạng. Cho tới nay chúng tôi vẫn chưa tìm được tài liệu cụ thể về đảng này, chỉ biết rằng hồi đó bọn thống trị Pháp âm mưu lập một tổ chức dựa vào phong kiến địa chủ để đàn áp cách mạng. Thái độ phản cách mạng của bọn đại địa chủ đã rõ rệt, nhưng chỗ mà chúng ta cần đi sâu vào là thái độ của tầng lớp trung, tiểu địa chủ ra sao? Tài liệu về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 cho biết rằng: những ngày đầu nhiều địa chủ phú nông cũng hưởng ứng theo phong trào, sẵn sàng đem thóc gạo trong nhà đem cống ra xã hội. Nhưng với khẩu hiệu "Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ", những người lãnh đạo phong trào hồi đó đã không nắm vững đường lối chính trị của đảng, đã làm cho công, nông bị cô lập và mặt trận thống nhất dân tộc bị tan rã và không tranh thủ được trung tiểu địa chủ còn có thể đi được với cách mạng đến một chừng mực nào, trong một phạm vi nào.

Tiếp đến phong trào Mặt trận Bình dân 1936-1939. Vì là một phong trào đấu tranh công khai và hợp pháp mà chương trình tối thiểu của Đảng Cộng sản đề ra là chống phản động thuộc địa, đòi tự do dân chủ và cải thiện dân sinh, nên sự phản ứng của giai cấp địa chủ không rõ rệt. Chỉ biết: trong tổ chức cũng như công tác đều có những thành phần nhỏ địa chủ tham gia. Những "giáp mới" và "hội hiếu", "hội hỷ" bấy giờ, những hình thức vừa để đoàn kết nông thôn vừa là "hội biến tướng của cách mạng" đều có mặt cả trung, tiểu địa chủ. Nhưng đến năm 1939, trong âm mưu trở lại hiệp ước 1884, chúng ta thấy rõ một lần nữa, thực dân Pháp câu kết với bọn phong kiến mà Phạm Quỳnh và Phạm Lê Bổng là chủ mưu, đã muốn khôi phục uy quyền của bọn phong kiến Nam triều để đàn áp phong trào nhân dân đương sôi nổi, kẻ phản động rõ rệt chống lại nhân dân vẫn là bọn vua quan phong kiến.

Tháng 6 năm 1940, sau khi quân Nhật kéo vào Đông Dương, nhân dân Đông Dương nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng bị một cổ hai tròng. Những việc cướp đất làm trường bay hay khu quân sự, nhổ ngô lúa trồng đay, gai và bắt nộp thóc tạ... chẳng phải chỉ trút lên đầu nông dân, mà chính nhiều địa chủ phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề. Do đó, không kể bọn đại địa chủ và bọn bám theo Nhật hoặc bám theo Pháp, một số trung, tiểu địa chủ đều ngã theo cách mạng, theo chủ trương đánh Pháp đuổi Nhật của Đảng Cộng sản Đông Dương. Biểu hiện rõ rệt nhất là khởi nghĩa Nam kì tháng 11.1940. Trước tình thế mới, vài quyền lợi cấp thiết của cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, Đảng Cộng sản Đông Dương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày, thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian phản quốc chia cho dân cày. Tôi còn nhớ lúc ấy một cuộc hội thảo sôi nổi đã nêu lên giữa các đảng viên: thay chiến lược hay thay chiến thuật. Chỗ này quan hệ lắm, nếu thay đổi theo chiến thuật thì đó chỉ là cách ứng phó thích nghi của một hoàn cảnh nhất thời; trái lại thay đổi chiến lược là thay đổi cả đối tượng cách mạng và cách bố trí lực lượng cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Kết quả, theo lời giải thích của trung ương, thì đây không phải là thay đổi chiến thuật mà là thay đổi chiến lược. Có điều đây là chiến lược ngắn chuyển trọng tâm sang cuộc giải phóng dân tộc. Nó vẫn nằm trong chiến lược dài, nghĩa là chiến lược cách mạng dân chủ tư sản với hai nhiệm vụ là phản đế và phản phong.

Thế rồi, Mặt trận Việt Minh thành lập (5.1941) và một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi hơn hết từ trước đến bây giờ so với mặt trận phản đế và Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Trong bản chương trình điều lệ nêu rõ chủ trương cứu nước của mặt trận Việt Minh là liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân... làm cho xứ Việt Nam và cả xứ Đông Dương được hoàn toàn độc lập. Về mặt kinh tế, bản điều lệ chỉ nêu lên tịch thu hết tài sản của phát xít Nhật, Pháp và bọn Việt gian, Hán gian... chia lại công điền, giảm địa tô. Đối với tầng lớp nhân dân bản điều lệ ghi rõ quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ vẫn được coi trọng. Về tổ chức, địa chủ được gia nhập Việt Nam cứu quốc hội. Ở đây chúng ta chưa bàn đến chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua mặt trận Việt Minh, mà chỉ cần ghi rằng: theo chiến lược ngắn này, thì, trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai cấp địa chủ cho đến bây giờ chưa phải đã là hoàn toàn câu kết với đế quốc. Về mặt kinh tế, nói rõ hơn là về mặt sản xuất, họ là phản động, nhưng về mặt chính trị, trừ bọn đại địa chủ hay địa chủ quan lại, những trung và tiểu địa chủ còn có thể góp sức vào công cuộc cứu quốc tới một mức độ nào. Chính cũng vì dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được mọi lực lượng của các tầng lớp nhân dân, đưa đến cuộc cách mạng Tháng Tám thành công. Cuộc cách mạng Tháng Tám, tính chất dân tộc của nó đã nổi lên.

Có lẽ tôi không phải nói nhiều về thái độ của giai cấp địa chủ nói chung, tầng lớp tiểu địa chủ nói riêng. Từ sau cách mạng Tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến, sự thật thì có một số đại điạ chủ, nhất là địa chủ quan lại, đã quây quần xung quanh bọn phản động Quốc Dân Đảng ở ngoài Bắc, Nguyễn Văn Thinh của "Nam kì quốc", và sau hết là bù nhìn Bảo Đại. Nhưng sự thật cũng là đại đa số trung tiểu địa chủ, ngay cả một vài đại địa chủ, đã đứng trong Mặt trận Liên Việt, dự vào cuộc toàn dân kháng chiến, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng ta không đòi hỏi nhiệt tình và công sức của đại địa chủ ngang với công nông và trí thức, mà chỉ đặt mức độ tối thiểu là không theo giặc phản nước và tham gia kháng chiến trong một phạm vi nào đó. Đành rằng trong chính sách đối đãi cũng như quy định thành phần nông dân, chúng ta có phân biệt giai cấp địa chủ với những nhân sĩ yêu nước. Nhưng nhân sĩ yêu nước chỉ là một con số rất nhỏ, địa chủ kháng chiến là con số lớn.

Đề nghị xét lại một vài nhận định từ trước
Trở lên trên, bằng những sự việc chứng thực, tôi đã trình bày về thái độ chính trị của giai cấp phong kiến địa chủ qua các thời kì để đi đến mấy nhận xét sơ bộ.

Nhận xét thứ nhất là vì địa vị, quyền lợi của các tầng lớp trong giai cấp phong kiến địa chủ có chỗ khác nhau nên thái độ với đế quốc cũng không phải đều giống nhau. Bọn đại địa chủ, nhất là bọn địa chủ quan lại thì từ trước tới sau, đại đa số làm tay sai cho đế quốc, hay ngã về đế quốc. Chúng là kẻ thù của dân tộc, không ai có quyền bênh vực. Nhưng ngoài những văn thân yêu nước đánh giặc, tầng lớp trung tiểu địa chủ cũng bị áp bức dưới ách đế quốc, nên một số đã đứng trong mặt trận dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc.

Nhận xét thứ hai, nước ta từ trước là một nước nông nghiệp, ngoài một số ruộng đất tập trung vào địa chủ, những ruộng đất bị phân tán linh tinh. Theo bảng quy định thành phần trong dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc, số trung tiểu địa chủ chiếm đa số trong giai cấp địa chủ và số ruộng đất chiếm hữu của mỗi người không nhiều. Nếu đem số ruộng đất chiếm hữu của mỗi trung, tiểu địa chủ xứ ta so với điạ chủ nhiều nước khác thì thấy cách biệt nhau quá. Do đó sinh hoạt và tính chất của họ cũng không giống như đại địa chủ.

Nhận xét thứ ba, mà là nhận xét chủ yếu: giai cấp địa chủ Việt Nam từ sau khi Pháp thuộc, là giai cấp của một xứ thuộc địa, cho nên thái độ chính trị của họ cũng có khác giai cấp địa chủ các nước không phải thuộc địa. Tôi đồng ý với ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng về công tác cải cách ruộng đất trước Quốc hội khóa thứ 6 vừa qua, trong đó có câu: giai cấp điạ chủ, đứng về giai cấp mà nói, là phản động cần phải đánh đổ. Nhưng đi sâu vào thái độ chính trị của từng cá nhân địa chủ thì có một số người tuy về kinh tế bóc lột theo lối phong kiến, nhưng về chính trị thì có tinh thần dân tộc đến một trình độ nhất định. Tôi thấy cần phải đi sâu như thế thì mới thấy được những chỗ khác nhau giữa giai cấp địa chủ Việt Nam với giai cấp địa chủ nước khác không phải thuộc địa và mới thấy được một trong những đặc điểm của cách mạng Việt Nam.

Như vậy, những quan điểm từ trước cho rằng toàn bộ giai cấp phong kiến địa chủ đã đầu hàng địch, đã câu kết với địch, phủ nhận đặc điểm của xã hội Việt Nam, phủ nhận sự thật lịch sử, tôi thấy cần phải xét lại. Không cần phải nhắc lại những sai lầm trong cải cách ruộng đất vừa qua không phân biệt địa chủ kháng chiến với địa chủ khác, coi tất cả địa chủ là địch là máy móc. Dù sao, trong khi đi sâu vào việc kiểm điểm thái độ chính trị của tầng lớp phong kiến địa chủ qua các thời kì, chúng ta không nên đi đến chỗ phủ nhận đối tượng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là đế quốc và phong kiến địa chủ. Dứt khoát là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp phong kiến, bóc lột phong kiến cũng như giai cấp phong kiến địa chủ phải hoàn toàn thủ tiêu. Chúng ta chỉ cần nhắc lại là: vì xã hội nước ta trước đây là xã hội thuộc địa và nửa phong kiến nên nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là chống đế quốc chủ nghĩa và quét sạch tàn tích phong kiến; nhưng đừng quên giữa hai mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn dân tộc với chủ nghĩa đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến thì mâu thuẫn dân tộc ta với đế quốc vẫn là chủ yếu nhất. Có nắm vững được quan điểm này thì đem thi hành ra chính sách mới không sai lệch.

Hiện nay nhiệm vụ phản phong tại miền Bắc về căn bản đã hoàn thành, giai cấp phong kiến địa chủ tại miền Bắc nước ta về căn bản đã ra đời. Đề ra việc xét lại "hồ sơ" của giai cấp phong kiến địa chủ, tôi chú ý vào việc nghiên cứu để mong dựng lại một sự thật lịch sử, đồng thời mong cống hiến một phần nào cho công tác sửa sai lúc này.
Hải Khách
8.3.1957

Nguồn: Tập san Văn Sử Địa số 25, quý I -1957

 
http://hqvnch.net/default.asp?id=711&lstid=4
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 16.08.2007 01:58:57
Trích từ talawas
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT : Sửa sai và tiến lên 
Trường Chinh
 
     Chúng ta vừa căn bản hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc, nhưng đồng thời cũng vừa phạm những sai lầm nghiêm trọng trong công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Những sai lầm ấy đã được Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng phê phán một cách sâu sắc.
Trong bài này, để giải thích thêm về tinh thần nghị quyết của Hội nghị Trung ương, tôi sẽ trình bày một số ý kiến, góp vào việc đánh giá công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, nhận định về tính chất những khuyết điểm sai lầm của ta trong các công tác ấy, bàn về nguyên nhân sai lầm và trách nhiệm, đồng thời rút ra mấy bài học kinh nghiệm lớn trong vấn đề này và giúp cán bộ, đảng viên chúng ta nhận rõ nhiệm vụ trung tâm đột xuất của Đảng hiện nay là sửa sai và tiến lên.

Nhiệm vụ cách mạng phản phong kiến đã căn bản hoàn thành ở miền Bắc


Cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân của ta có hai nhiệm vụ chiến lược:
       • đánh đổ chủ nghĩa đế quốc,
       • xóa bỏ chế độ phong kiến.


Đế quốc và phong kiến là hai lực lượng phản động nhất câu kết với nhau để thống trị Việt-nam đã hơn 80 năm. Chính bọn phong kiến nhà Nguyễn bán nước cho đế quốc Pháp, và sau khi đế quốc Pháp chiếm nước ta, chúng đã biến thành ngụy quyền, làm tay sai cho đế quốc. Đế quốc dùng phong kiến làm chỗ dựa để xâm lược Việt-nam, phong kiến Việt-nam ôm chân đế quốc để duy trì quyền lợi ích kỷ. Tập đoàn thống trị nhà Nguyễn trước đây nói chung tiêu biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến phản dân tộc. Chính quyền Ngô-đình-Diệm ở miền Nam hiện nay đại biểu cho tầng lớp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ, hiện đang phá hoại thống nhất Việt-nam, hòng biến miền Nam nước ta thành một thứ thuộc địa và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Đế quốc và phong kiến là hai đối tượng chính của cách mạng Việt-nam, hai kẻ thù chính của nhân dân Việt-nam.



Muốn đánh đổ đế quốc phải đồng thời đánh đổ phong kiến. Ngược lại, muốn đánh đổ phong kiến phải đồng thời đánh đổ đế quốc. Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến không thể tách rời.

Cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân của ta là một cuộc cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến, một cuộc cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nghĩa là của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc và những nhân sĩ dân chủ, thân sĩ yêu nước do giai cấp công nhân lãnh đạo, dựa trên cơ sở công nông liên minh. Mục đích của cuộc cách mạng đó là giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ nhân dân, tạo điều kiện tiến tới chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng tháng Tám và kháng chiến đánh đổ đế quốc ở miền Bắc và làm yếu thế lực phong kiến ở nước ta. Cải cách ruộng đất đánh đổ giai cấp địa chủ và xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất ở miền Bắc. Cách mạng tháng Tám giành được chính quyền nhân dân, lập nên nước Việt-nam dân chủ cộng hòa. Kháng chiến thắng lợi tiêu diệt lực lượng đế quốc và ngụy quyền ở miền Bắc, hoàn toàn giải phóng một nửa nước ta. Cải cách ruộng đất tiếp tục nhiệm vụ cách mạng phản phong kiến của nhân dân ta từ trước đến nay, đánh đổ giai cấp địa chủ ở miền Bắc đưa nông dân lên làm chủ thật sự ở nông thôn, thực hiện người cày có ruộng. Đó là những thắng lợi về chiến lược, thắng lợi của quần chúng nhân dân nước ta đấu tranh gian khổ và anh dũng trong bao nhiêu năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạt được những thắng lợi đó tức là hoàn thành nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân ở miền Bắc.

Lực lượng cách mạng ở nước ta là nhân dân mà 87% là nông dân. Sự nghiệp dân tộc giải phóng muốn thành công, kháng chiến muốn thắng lợi, chủ yếu phải dựa vào nông dân. “Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân”. Nông dân trực tiếp bị giai cấp địa chủ phong kiến áp bức bóc lột. Cơ sở của phong kiến ở nước ta là chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, nó làm cho tuyệt đại đa số nhân dân nước ta là nông dân khổ cực, đồng thời kìm hãm nông nghiệp, cản trở công thương nghiệp nước ta phát triển, giữ nước ta ở trình độ nông nghiệp lạc hậu, không tiến lên trình độ công nghiệp hóa hiện đại được. Vì vậy mà nước ta nghèo, dân ta khổ. Cho nên cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất là chính nghĩa, là nhân đạo. Cách mạng tháng Tám, kháng chiến trường kỳ và cải cách ruộng đất là ba sự kiện lịch sử lớn nhất của nước ta trong vòng mười một năm nay. Nó quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc-dân chủ nhân dân ở miền Bắc nước ta.

Với cải cách ruộng đất căn bản hoàn thành ở miền Bắc, nhiệm vụ cách mạng phản phong kiến ở miền Bắc cũng căn bản hoàn thành.


Những sai lầm của phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất nghiêm trọng, nhưng không có nghĩa là chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt-nam và của Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hòa là sai. Những sai lầm ấy hạn chế thắng lợi của sự nghiệp cách mạng phản phong kiến ở miền Bắc chứ không xóa bỏ thắng lợi đó.

Phát động quần chúng để thực hiện cải cách ruộng đất là đúng và cần thiết


Gần đây, có ý kiến cho rằng không cần phát động quần chúng cũng thực hiện cải cách ruộng đất được, hoặc muốn thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng chỉ cần vận động địa chủ hiến ruộng đất cũng đủ. Ý kiến ấy có đúng không? Không đúng.


Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng, là sự nghiệp của hàng triệu quần chúng nông dân do Đảng lãnh đạo. Bất kể cuộc cách mạng lớn nhỏ nào, không phát động quần chúng đều không thể làm được.

Có hai cách thực hiện cải cách ruộng đất: hòa bình cải cách ruộng đất và phát động quần chúng cải cách ruộng đất. Ta đã phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất; như thế là đúng và cần thiết vì những lẽ dưới đây:
       • Nước ta là một nước do đế quốc và phong kiến thống trị từ lâu đời. Trải qua hàng chục thế kỷ, nông dân nước ta bị địa chủ phong kiến áp bức bóc lột, không ngóc đầu lên được. Nay phải phát động quần chúng nông dân mới dám mạnh dạn vươn mình, đấu tranh đánh đổ địa chủ, tự tay mình giành lại ruộng đất cho mình.
       • Phát động quần chúng là làm cho quần chúng tự giác, tự nguyện tham gia cách mạng ruộng đất, huy động lực lượng quần chúng nổi dậy đập tan chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân lao động. Chính quyền và cán bộ không thể và không nên làm thay và ban ơn cho nông dân.
       • Có phát động quần chúng mới làm cho giai cấp địa chủ chịu khuất phục trước sức mạnh vùng lên của quần chúng nông dân, và quần chúng nông dân mới tự tin ở lực lượng của bản thân mình. Đó là điều rất cần để giành lại ruộng đất và giữ được ruộng đất.

Có người nói: ta vận động hiến ruộng cũng đủ ruộng đất chia cho nông dân. Tôi xin trả lời: trong hoàn cảnh nước ta có thể vận động cả giai cấp địa chủ hiến ruộng. Một giai cấp xã hội không bao giờ tự nguyện nhường tư liệu sản xuất mà nó đã chiếm giữ từ lâu đời cho một giai cấp bị nó bóc lột bao giờ. Hòa bình cải cách ruộng đất bằng cách vận động hiến ruộng là một ảo tưởng.

Có người cho rằng: ta đã có chính quyền từ Cách mạng tháng Tám; ta có thể dùng biện pháp chính quyền mà lấy lại ruộng đất cho nông dân, không phải phát động quần chúng làm gì cho phiền phức. Hoặc có người hỏi: tại sao ta không thực hiện cải cách ruộng đất theo kiểu một vài nước anh em, như thế có nhanh và gọn hơn không? Sự thật là ta có kết hợp biện pháp hành chính của chính quyền với đấu tranh quần chúng trong cải cách ruộng đất. Nhưng trong khi phát động quần chúng, ta có coi nhẹ biện pháp chính quyền (ví dụ ta coi nhẹ việc phối hợp công an, tư pháp với phát động quần chúng, coi nhẹ những biện pháp hỏi cung, đối chiếu tang chứng, sử dụng tòa án nhân dân đặc biệt một cách không đúng, v.v…). Dùng riêng biện pháp chính quyền mà cải cách ruộng đất thì đương nhiên là không đủ, phải kết hợp chặt chẽ đấu tranh của quần chúng từ dưới lên với mệnh lệnh của chính quyền từ trên xuống, và phải coi đấu tranh quần chúng là chủ yếu thì mới thực hiện cải cách ruộng đất được tốt.
Sai lầm không phải tại ta đã phát động quần chúng, mà chính vì càng về sau này, cán bộ các đội không thật sự phát động quần chúng, không tin ở quần chúng, mà lần truy bức, nhục hình, bắt bớ tràn lan để thay cho phát động quần chúng, và trong phát động quần chúng, ta đã không sử dụng biện pháp chính quyền một cách đầy đủ.

Có người nói: phát động quần chúng để thực hiện cải cách ruộng đất là đúng, nhưng phát động theo kiểu “đấu tố” như thế là sai. Nhưng cần nhớ rằng cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp, trong đó ta phát động tư tưởng quần chúng nông dân bằng cách lấy khổ gợi khổ, qua tố khổ mà giáo dục ý thức giai cấp cho nông dân, tổ chức nông dân để nông dân có đủ lực lượng đấu tranh đánh đổ địa chủ; đó là một việc hoàn toàn đúng. Sai lầm của cán bộ cải cách ruộng đất là không thật sự phóng tay phát động quần chúng, lại gò ép quần chúng tố khổ; thành ra bên cạnh những người tố đúng đã có một số người tố sai. Hơn nữa, nhiều cán bộ mù quáng, mất cảnh giác, dựa vào những phần tử xấu mà không tự giác, rồi nghe những lời bịa đặt của chúng mà đánh lầm vào một số người tốt của ta. Lỗi đó tại cán bộ ta làm sai mà lãnh đạo không kịp thời phát hiện sai lầm để ngăn chặn và sửa chữa, chứ không phải tại chủ trương phát động quần chúng “đấu tố”.

Phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất đã đạt được những yêu cầu gì?

Hiện nay, người thì nói cải cách ruộng đất thành công, người thì nói cải cách ruộng đất thất bại, thậm chí có xu trào chỉ dám nói thất bại mà không dám nói thành công. Đương nhiên, tình hình ấy chỉ có lợi cho bọn phản cách mạng, bọn địa chủ vừa bị đánh đổ ở miền Bắc, chúng đang lợi dụng việc Đảng ta tự phê bình về những khuyết điểm, sai lầm trong cải cách ruộng đất và sửa sai để hòng đả kích và “cô lập” Đảng ta, đả kích bần cố nông và cốt cán của họ, và xóa bỏ những thành quả của cải cách ruộng đất.

Thật ra, muốn đánh giá đúng thành công và thất bại của cải cách ruộng đất phải đợi khi nào tổng kết toàn bộ công tác phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất. Bây giờ, chúng ta hãy kiểm điểm xem phát động quần chúng đã đạt được những mục đích yêu cầu gì? Mục đích yêu cầu của phát động quần chúng cải cách ruộng đất là:
   a. Đánh đổ giai cấp địa chủ, đập tan uy thế chính trị của giai cấp địa chủ, thực hiện ưu thế chính chị của nông dân lao động ở nông thôn, thực hiện nông dân làm chủ nông thôn.
   b. Xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân lao động, thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn.
   c. Giáo dục cho nông dân về mặt tư tưởng và chính trị, làm cho nông dân nhận rõ bọn thực dân đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến là kẻ địch, nhận rõ Đảng lao động Việt-nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thật thà mang lại quyền lợi cho mình; nhận rõ chính quyền nhân dân là của mình, v.v…
   d. Kết hợp chỉnh đốn tổ chức ở nông thôn, chỉnh đốn chi bộ, nông hội, chính quyền, dân quân du kích, chi đoàn thanh niên cứu quốc Việt-nam, chi hội Liên hiệp phụ nữ Việt-nam; bồi dưỡng cán bộ cơ sở.

Hãy xét xem trong khi thực hiện những mục đích yêu cầu ấy của phát động quần chúng, ta đã đạt được những gì, không đạt được những gì?


Về yêu cầu thứ nhất, trong phát động quần chúng cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ phong kiến về căn bản đã vĩnh viễn bị đánh đổ ở miền Bắc, nói chung ưu thế chính trị của nông dân lao động đã được xây dựng ở nông thôn. Tuy vậy, một số phú nông hoặc nông dân lao động lại bị vạch lầm là địa chủ, là phản động và bị đả kích nặng. Đó là một điều rất đáng tiếc. Nhưng phải nhận rằng nông dân vẫn làm chủ nông thôn.

Có người nói: nông dân đã làm chủ nông thôn từ Cách mạng tháng Tám, và ở vùng mới giải phóng, quân đội viễn chính Pháp rút đi đến đâu là nông dân làm chủ đến đó rồi. Song thật ra chưa cải cách ruộng đất, chưa xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất thì chưa có thể chấm dứt được tình trạng địa chủ khống chế nông thôn, nhất là ở vùng sau lưng địch trước đây, và nông dân vẫn chưa thể thật sự làm chủ nông thôn.

Về yêu cầu thứ hai, xóa bỏ chế độ phong kiến, chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân lao động, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, việc đó ta đã thực hiện được trong cải cách ruộng đất. Tuy vậy một số nông dân bị vạch lầm là địa chủ, do đó đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất và chỉ được chia một phần ruộng đất xấp xỉ với số bình quân chiếm hữu của nông dân ở địa phương, nhưng không được chia ruộng nguyên canh, tốt và gần.

Có người bảo: nông dân đã làm chủ ruộng đất từ Cách mạng tháng Tám hay từ kháng chiến rồi. Thật ra có nơi nông dân chỉ tạm sử dụng ruộng đất vắng chủ theo lối ai cày người ấy được hưởng và được chia lại công điền; qua cải cách ruộng đất, họ mới thật sự có quyền sở hữu ruộng đất.

Về yêu cầu thứ ba, trong phát động quần chúng, nông dân đã được giáo dục về tư tưởng và chính trị. Họ đã nhận rõ đế quốc và phong kiến là thù địch. Nói chung họ đã tự tin ở lực lượng đoàn kết đấu tranh của họ, tin ở sự lãnh đạo của Đảng. Họ nhận rõ từ trước đến nay ở nước ta chỉ có Đảng ta và chế độ ta mới mang lại ruộng đất cho họ. Tuy vậy, những sai lầm của ta đã làm cho uy tín của Đảng và chính phủ tạm thời bị giảm sút một phần nào (với mức độ khác nhau tùy từng nơi) dù rằng quần chúng nông dân nói chung vẫn tin tưởng ở Đảng và Chính phủ.

Có người cho rằng nông dân miền Bắc đã được giáo dục nhiều về tư tưởng và chính trị trong tám năm kháng chiến toàn quốc. Điều đó đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Không phát động quần chúng thì không thể giáo dục giai cấp, không thể giáo dục lập trường, tư tưởng một cách sâu sắc cho quần chúng nông dân được, cũng chưa thể hạ uy thế chính trị của giai cấp địa chủ ở nông thôn.

Về yêu cầu thứ tư, việc kết hợp với phát động quần chúng cải cách ruộng đất mà chỉnh đốn tổ chức có làm được phần nào. Đó là làm cho thành phần các tổ chức ở nông thôn tương đối trong sạch, nhưng chưa thể nói là vững mạnh (địa chủ, cường hào đã bị đuổi ra khỏi tổ chức, hàng vạn cốt cán đã được đào tạo và bồi dưỡng trong phong trào; những cốt cán đó nói chung thành phần trong sạch, nhưng phần lớn trình độ chính trị và kinh nghiệm công tác còn non kém; cũng có một số phần tử xấu được đưa lầm nên thành cốt cán và được kết nạp vào tổ chức, nhưng đó chỉ là số rất ít). Có hàng trăm xã vùng mới giải phóng trước đây chưa có chi bộ, nay ta xây dựng được chi bộ mới.

Nhưng thất bại của chỉnh đốn tổ chức thì rất nặng; càng về những đợt sau này, sai lầm càng lớn. Đau đớn nhất là đánh lầm vào nội bộ Đảng và nội bộ các tổ chức quần chúng ở cơ sở cũng như vào nội bộ nông dân, khiến cho một số cán bộ, đảng viên và nông dân cách mạng có thành tích bị xử oan.

Tóm lại, phần quan trọng của những mục đích, yêu cầu của phát động quần chúng nói chung đã đạt. Những sai lầm của ta có hạn chế những kết quả đã thu được, nhưng ta không thể không khẳng định thắng lợi của cải cách ruộng đất. Chính vì thế nên Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng đã đánh giá cải cách ruộng đất “là một cuộc chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội” [1]
.
Đánh giá sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức


Sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức thể hiện trên mấy mặt công tác dưới đây:
       • đánh địch và trấn áp bọn phá hoại hiện hành,
       • qui định thành phần giai cấp,
       • tịch thu, trưng thu, trưng mua.
       • định diện tích và sản lượng,
       • chỉnh đốn tổ chức Đảng, chính, quân, dân ở cơ sở, v.v…

Những sai lầm ấy đã vi phạm đường lối chung của Đảng ở nông thôn trong cải cách ruộng đất: “dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú ông, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất một cách có phân biệt, có từng bước, có kế hoạch, có trật tự, có lãnh đạo”. Hậu quả của những sai lầm ấy rất tai hại:
   1. Nó đã làm giảm một phần uy tín của Đảng lao động Việt-nam và của Chính phủ Việt-nam dân chủ cộng hòa, tổn thất một phần đến cơ sở của Đảng, của Mặt trận và chính quyền nhân dân.
   2. Nó làm cho nông thôn hiện nay thiếu đoàn kết, ảnh hưởng không tốt đến thành thị, ảnh hưởng không tốt đến khối đại đoàn kết dân tộc.
   3. Những sai lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã ảnh hưởng đến quân đội, đụng đến một số gia đình quân nhân cách mạng; cơ sở quân dân du kích nhiều nơi bị sứt mẻ.
   4. Về vấn đề phát triển sản xuất nông nghiệp, cải cách ruộng đất tức là giải phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi xiềng xích phong kiến, thực hiện người cày có ruộng thì tất nhiên nói chung là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp nước ta phát triển. Nhưng sai lầm của ta cũng tạm thời làm cho nhiều nông dân được đất mà chưa thật phấn khởi sản xuất, vì diện tích và sản lượng bị kích lên quá cao.
   5. Vì những lẽ trên đây, cho nên đối với vấn đề củng cố miền Bắc hiện nay tình hình nhiều nơi ở miền Bắc chưa được ổn định, chưa được củng cố. Đối với vấn đề tranh thủ miền Nam thì ảnh hưởng không tốt đến việc tranh thủ các tầng lớp rộng rãi, nhất là các tầng lớp trên ở miền Nam, không lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Tóm lại, sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã vi phạm đường lối chung của Đảng ở nông thôn, vi phạm chính sách, nguyên tắc và điều lệ của Đảng, vi phạm chế độ pháp trị dân chủ và cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt-nam, và ảnh hưởng một phần nào đến việc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1956.

Một hiện tượng trái ngược là cải cách ruộng đất đáng lẽ củng cố đoàn kết toàn dân, nhưng vì sai lầm của ta, nên hiện nay tạm thời đoàn kết bị giảm; đáng lẽ nâng cao uy tín của Đảng và Chính phủ, nhưng hiện nay tạm thời uy tín đó bị sút kém một phần nào. Ta sửa chữa sai lầm có kết quả tốt thì sẽ phát huy được những nhân tố tích cực sẵn có do cải cách ruộng đất tạo ra, đồng thời thu hẹp và đi đến thủ tiêu được những nhân tố tiêu cực, có hại do sai lầm của ta mang lại.

Tính chất và đặc điểm của sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức có thể tóm tắt lại như sau:
   a. Sai lầm có tính chất “tả” khuynh, biểu hiện ở chỗ “thái quá” trong việc đánh địch, trong việc trấn áp bọn phá hoại; vạch thành phần giai cấp; kích diện tích và sản lượng, tìm phản động trong tổ chức của ta, v.v… (Tuy vậy, bên cạnh những sai lầm “tả” khuynh vẫn còn tồn tại một số sai lầm có tính chất hữu khuynh, như rón rén, sợ địch, không dám phát động quần chúng đến nơi đến chốn; hoặc có một số biểu hiện “tả” khuynh lại chính là bóng đen của tư tưởng hữu khuynh: đánh giá lực lượng địch quá cao, đánh giá tổ chức của ta quá thấp, v.v…)
   b. Sai lầm có tính chất nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài (truy bức nhục hình, đánh địch tràn lan, không chấp hành đúng đường lối chung của Đảng ở nông thôn, v.v…). Tuy vậy cũng phải nhận rằng: lấy một xã mà xét thì sai lầm vẫn là từng phần, không phải toàn thể (ví dụ: vạch sai thành phần một số nông dân, không phải vạch sai tất cả nông dân; xử trí oan một số người, không phải oan tất cả, v.v…). Về các đợt sau này, sai lầm phổ biến nhất là truy bức, nhục hình, đả kích tràn lan và kích diện tích và sản lượng.
   c. Sai lầm về sách lược và phương châm, chính sách cụ thể không phải sai lầm về chiến lược cách mạng, về đường lối cách mạng nói chung. Tuy vậy, có một số sai lầm thuộc về nguyên tắc, ví dụ: không chấp hành đúng đường lối của Đảng ở nông thôn, đánh lầm vào nội bộ tổ chức của ta, đả kích sai vào một số nông dân lao động, tác phong không tôn trọng tập thể và dân chủ, v.v…
   d. Sai lầm trong khi ta đã có chính quyền, quân đội xâm lược của bọn đế quốc và ngụy quân, ngụy quyền đã bị quét sạch khỏi miền Bắc, cách mạng đã và đang thu được những thắng lợi về mọi mặt (quân sự, chính trị , kinh tế, văn hóa) và trong khi cách mạng Việt-nam đang ở thời kỳ tiến lên, chứ không phải ở thời kỳ thoái trào.

Tóm lại, những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức rất nghiêm trọng, nhưng nhất định có thể sửa chữa. Chỉ có tổn thất do những cán bộ, đảng viên và quần chúng bị hy sinh oan uổng thì không có cách nào cứu vãn được. Đó là một điều vô cùng đau xót cho Đảng và cho nhân dân. Nhưng dù sao những sai lầm ấy không phá bỏ thắng lợi về chiến lược của cải cách ruộng đất; nó không dẫn đến thất bại về chiến lược cách mạng chống phong kiến ở miền Bắc nước ta.

Nguyên nhân, khuyết điểm, sai lầm


Muốn tìm ra nguyên nhân sai lầm, chúng tôi thấy trước hết cần nhận rõ trong điều kiện nào đã phạm phải những sai lầm ấy. Trong những điều kiện dưới đây:
   a. Cũng như bất cứ giai cấp bóc lột nào trong lịch sử, giai cấp địa chủ nước ta đến lúc bị đánh đổ thì tìm mọi cách chống lại cải cách ruộng đất; phân tán tài sản, mua chuộc nông dân, thủ tiêu khổ chủ, ám hại, mua chuộc cán bộ ta, truy bức thì khai vấy vào tổ chức ta, v.v… Có người nói: ở nước ta giai cấp địa chủ dựa vào đế quốc, nay ở miền Bắc đế quốc bị đánh đổ thì chúng cũng khắc đổ, không thể chống lại ta. Nói như thế là không đúng. Sự thật kháng chiến thành công, quân đội thực dân bị quét sạch ở miền Bắc thì một số ít địa chủ (bọn đại địa chủ) theo đế quốc vào Nam; một bọn đầu hàng ta, nhưng một bọn vẫn tìm cách chống lại ta, chống lại cải cách ruộng đất (ngay trong số địa chủ đã ủng hộ kháng chiến cũng có một số bị đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi trong cải cách ruộng đất cho nên đã phá hoại phát động quần chúng bằng cách này hay cách khác). Bọn kiên quyết chống lại thường dựa vào thế lực phản động đội lốt tôn giáo hoặc câu kết với bọn tay sai đế quốc và bọn phá hoại hiện hành còn lẩn lút ở miền Bắc. 



   b. Bị địa chủ phong kiến áp bức bóc lột từ hàng chục thế kỷ nay, giai cấp nông dân nước ta thường hay tiêu cực, bị động, mê tín, nhưng đôi khi khổ quá không nhẫn nhục được nữa phải đấu tranh tự phát, phiêu lưu, mạo hiểm, manh động; có khi hành động lẻ tẻ, có khi hành động tập thể. Nay được phát động, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo, họ nhận rõ kẻ thù, nhận rõ lối thoát, thì vùng dậy đấu tranh quyết liệt, đè bẹp kẻ thù giai cấp; lúc đó lãnh đạo không cứng thì dễ sinh ra tình trạng hỗn loạn, đấu tranh quá trớn.
   c. Cán bộ ta phần đông là tiểu tư sản, trước kia phần nhiều hữu khuynh đối với địa chủ, nặng về đoàn kết rộng rãi, thuyết phục một chiều, nhẹ về đấu tranh giai cấp. Nay nhận rõ sai lầm cũ thì dễ lệch sang “tả”, còn tư tưởng “thà tả còn hơn hữu”, cho rằng “tả đỡ hại hơn hữu”, v.v… Một số cán bộ xuất thân gia đình địa chủ vì sợ bị hiểu lầm, sợ bị truy là mất lập trường, v.v… nên thấy sai nhiều khi cũng không dám đề đạt ý kiến, hoặc đề đạt một cách rất yếu ớt, dè dặt.
   d. Ta vừa thắng lợi lớn trong kháng chiến, lại bắt đầu bước sang thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta ở sát Trung-quốc, là một nước đang tiến những bước khổng lồ lên chủ nghĩa xã hội. Tình hình ấy một mặt đã tạo ra không khí say sưa thắng lợi, cán bộ dễ sinh chủ quan, tự mãn; một mặt dễ sinh ra tư tưởng nóng vội, muốn tiến mau lên chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà.

Chính trong những điều kiện ấy, lãnh đạo, nhất là cơ quan chỉ đạo thực hiện (như Ủy ban cải cách ruộng đất các cấp, các đoàn ủy. Ban tổ chức Trung ương) đã phạm những sai lầm nghiêm trọng.

Song, nói như thế không phải chúng ta đổ tại hoàn cảnh khách quan, mà chính là để nhận rõ trong hoàn cảnh như thế nào chúng ta đã phạm sai lầm. Nguyên chính vẫn là do chủ quan ta có khuyết điểm. Thật thế, do chỗ không xuất phát đầy đủ từ thực tế Việt-nam, không nghiên cứu kỹ những đặc điểm của tình hình Việt-nam (Việt-nam là một nước nông nghiệp bị đế quốc áp bức bóc lột trong một thời gian khá lâu; nước ta chia làm hai miền, v.v…), do chỗ không nẵm vững yêu cầu khách quan của nhiệm vụ cách mạng Việt-nam trong giai đoạn hiện tại (củng cố miền Bắc, nhưng đồng thời phải tranh thủ miền Nam v.v…) cho nên cơ quan lãnh đạo và nhất là cơ quan chỉ đạo thực hiện đã có những chủ trương chính sách không đúng: 


       • Nặng về chống hữu, nhẹ về chống “tả”, tư tưởng chỉ đạo lệch một chiều;
       • Chủ trương kết hợp bọn phá hoại trong cải cách ruộng đất, căn bản làm tan rã tổ chức phản động ở xã và thanh trừ phản động ra khỏi tổ chức cơ sở (yêu cầu quá cao);
       • Chủ trương căn bản hòan thành cải cách ruộng đất trước 20-7-1956 (thời gian quá gấp);
       • Nhận định không đúng về sức phản ứng của địch, về tổ chức cũ của ta (cho là tổ chức của ta bị địch lũng đoạn, chi bộ địch lồng vào chi bộ ta, v.v…);
       • Chỉnh đốn tỉnh, huyện một cách thiếu thận trọng; phương châm, phương pháp đều có chỗ không đúng;
       • Để cho tổ chức chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất thành một hệ thống riêng với quyền hạn quá rộng, nhưng lại thiếu kiểm tra đôn đốc chặt chẽ.

Ngoài ra, tác phong lãnh đạo lại quan liêu, thiếu tập thể, dân chủ; cơ quan chỉ đạo chủ quan, tự mãn, độc đoán, chuyên quyền, cho nên mới có tình trạng một số chỉ thị do cá nhân trong Thường trực Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương và trong Ban Tổ chức Trung ương đề ra mà không thông qua tổ chức bàn định trước, và không trình Trung ương phê chuẩn. Tình hình sai lầm đã trở nên nghiêm trọng từ đợt 8 giảm tô và đợt 4 cải cách ruộng đất rồi mà mãi đến giữa bước hai cải cách ruộng đất đợt 5 mới phát hiện và bắt đầu sửa chữa.
Trách nhiệm của các cơ qian lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện chính sách
Đường lối cách mạng phản đế và phản phong kiến (dân tộc-dân chủ nhân dân) của Đảng nói chung là đúng, cho nên mới có Cách mạng tháng Tám và kháng chiến thắng lợi, mới hoàn toàn giải phóng được miền Bắc và thực hiện người cày có ruộng trên một nửa nước ta, điều mà từ bao nhiêu đời nay mới thành sự thật. Nhưng về chủ trương chính sách cụ thể, Đảng có khuyết điểm sai lầm. Đảng thành khẩn tự phê bình và kiên quyết sửa chữa để đưa toàn dân ta tiến lên.
Lê-nin nói:
“Thái độ của một chính đảng đứng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để nhận xét xem đảng ấy có đứng đắn hay không và nó có thật làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Thành thật nhận sai lầm, phân tích trường hợp đã đẻ ra những sai lầm ấy, xét kỹ những biện pháp sửa chữa sai lầm, đó là dấu hiệu của một đảng đứng đắn, đó cũng là cách đảng ấy làm tròn nghĩa vụ của mình, giáo dục và huấn luyện giai cấp mình và sau nữa giáo dục và huấn luyện quần chúng.” (Bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản)
Trong sai lầm lần này, Đảng có trách nhiệm trước nhân dân, vì dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã xẩy ra những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng để tổn hại đến sinh mệnh, tài sản của nhân dân, tổn thương đến việc thực hiện cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, đến sự nghiệp củng cố miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Cơ quan lãnh đạo của Đảng có trách nhiệm, vì đã thông qua một số chủ trương, chính sách xét ra thiếu sót hoặc có chỗ không đúng, không nắm thật vững công tác cải cách ruộng đất là công tác trọng tâm số một trong toàn bộ công tác củng cố miền Bắc.
Sở dĩ Đảng có khuyết điểm như trên, một phần do cơ quan lãnh đạo (Trung ương và Bộ chính trị) thiếu điều tra, nghiên cứu nên không xuất phát đầy đủ từ tình hình thực tế Việt-nam; thiếu kiểm tra đôn đốc, làm việc thiếu tập thể; và một phần do cơ quan chỉ đạo thực hiện (cụ thể là Thường trực Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương và Ban Tổ chức Trung ương của Đảng) không báo cáo đúng và kịp thời, không kịp thời phát hiện sai lầm và đề nghị chính sách và biện pháp sửa chữa thích đáng.
Vì vậy, lãnh đạo có trách nhiệm, nhưng trách nhiệm trực tiếp và quan trọng là do chỉ đạo thực hiện đã có những sai lầm, khuyết điểm cụ thể dưới đây:
a. Chỉ đạo tư tưởng lệch một chiều, nặng chống hữu, nhẹ chống “tả” và phòng “tả”, đẩy cán bộ đã “tả” khuynh lại “tả” khuynh thêm.
b. Không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Vì thiếu điều tra nghiên cứu nên đã đề nghị một số chủ trương chính sách không đúng.
c. Việc giáo dục cán bộ có nhiều khuyết điểm, làm cho cán bộ tự mãn, lộng hành, không nắm chính sách, không tôn trọng 10 điều kỷ luật trong phát động quần chúng. (Một số ít phần tử xấu đã phá hoại chính sách của Đảng và Chính phủ bằng những hành động vô nguyên tắc ở xã.)
d. Tác phong quan liêu, độc đoán, thoát ly quần chúng, thoát ly thực tế, chủ quan, tự mãn, không nhìn ra sai lầm nghiêm trọng để kịp thời sửa chữa.



Hội nghị Trung ương lần thứ 10 của Đảng đã phân tích, phê phán sai lầm, tìm ra nguyên nhân, định rõ trách nhiệm, và định ra phương châm, chính sách và kế hoạch sửa chữa. [1]


Có đồng chí hỏi: phải chăng Trung ương đùn trách nhiệm cho mấy đồng chí Ủy viên Trung ương trực tiếp phụ trách cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức? Vấn đề không phải là Trung ương đùn đẩy trách nhiệm cho người này hay người khác. Trung ương nhận phần trách nhiệm của mình. Nhưng tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cho nên trách nhiệm trực tiếp vẫn phải quy vào cá nhân những đồng chí đã lĩnh trách nhiệm trước Trung ương.
Có người bảo: kỷ luật thi hành với những đồng chí có trách nhiệm trực tiếp nhẹ quá. Trung ương thi hành kỷ luật cán bộ làm sai là theo phương châm chữa bệnh cứu người, cho nên đối với những đồng chí đã làm sai, Đảng lấy giáo dục làm chính. Đương nhiên kỷ luật đối với từng người có nặng nhẹ khác nhau, tùy theo những điểm dưới đây mà quyết định:
• trách nhiệm nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp;
• tác hại của những sai lầm lớn hay nhỏ;
• động cơ phạm sai lầm tốt xấu như thế nào;
• thái độ nhận sai lầm thành khẩn hay không, thành khẩn nhiều hay ít, v.v…

Việc thi hành kỷ luật với một số đồng chí phạm sai lầm là cần thiết: nhưng Đảng ta thi hành một chính sách sửa sai chứ không thi hành một chính sách báo thù.
Mấy bài học kinh nghiệm
Sai lầm lần này dạy cho ta mấy bài học kinh nghiệm lớn dưới đây:
1. Về giai cấp đấu tranh
Giai cấp đấu tranh là một sự cần thiết và tất nhiên trong xã hội phân chia giai cấp. Khi ta chưa có chính quyền thì hình thức giai cấp đấu tranh có khác với khi ta đã có chính quyền. Từ Cách mạng tháng Tám, ta đã có chính quyền Nhà nước dân chủ nhân dân; đó là một thứ vũ khí đấu tranh giai cấp của ta. Ta phải tận dụng khả năng của chính quyền trong cuộc đấu tranh chống giai cấp địa chủ.
Trong cải cách ruộng đất ta phải dùng chính quyền ban hành những luật lệ, những điều quy định cần thiết, có tính chất bắt buộc đối với giai cấp địa chủ. Đồng thời, muốn cho giai cấp địa chủ thi hành đúng chính sách, phải phát động quần chúng nông dân đấu tranh buộc địa chủ phải tuân theo pháp luật. Những sắc lệnh và nghị định của Chính phủ có hiệu lực nhất định của nó. Nhưng trong nhiều trường hợp nếu ta không vận động quần chúng đấu tranh thì không thể đảm bảo những sắc lệnh và nghị định ấy được hoàn toàn tôn trọng. Không thể ngồi bàn giấy ra lệnh mà giải quyết được vấn đề cải cách ruộng đất. Cán bộ Đảng và chính quyền cũng không thể làm thay và ban ơn cho nông dân. Cho nên phải kết hợp chính quyền ra lệnh với quần chúng đấu tranh. Phải phát động quần chúng đấu tranh và phải coi đó là biện pháp chủ yếu để cải cách ruộng đất.
Một trong những sai lầm của ta trong cải cách ruộng đất là đã coi nhẹ việc sử dụng biện pháp chính quyền.
Đối với giai cấp thù địch thì nhất định ta phải đánh đổ. Nhưng giai cấp địa chủ nước ta đã bị phân hóa, ta phải phân biệt đối xử với từng hạng địa chủ. Năm 1953, Trung ương đã nói:
“Ta thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, nên phải đấu tranh trên hai mặt trận: mặt trận chống đế quốc và mặt trận chống phong kiến. Ta lại có Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Vì vậy càng bớt được kẻ địch càng tốt, càng cô lập và phân hóa được giai cấp địa chủ càng hay. Diện đả kích không nên quá rộng.” [2]
Ta đã có chính quyền ở miền Bắc, lực lượng của ta mạnh hơn hẳn lực lượng của giai cấp địa chủ phong kiến. Bọn địa chủ nào kháng cự lại thì ta mới trấn áp. Bọn nào đầu hàng thì ta để cho chúng thi hành chính sách, phục tùng nông dân; ta không dùng bạo lực đối với chúng, trái lại ta mở đường cho chúng lao động cải tạo, trở thành những con người mới. Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên-xô đã nhắc nhở ta về vai trò của bạo lực trong lịch sử, nhưng đồng thời cũng chỉ rõ người cộng sản không phải là thích dùng bạo lực. Đằng này, do các cơ quan thực hiện có tư tưởng chỉ đạo lệch lạc, do cán bộ ta phần lớn thiếu kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, cho nên khi xuống xã, đứng trước tình hình phức tạp, họ rối trí, đi đến trấn áp tràn lan, đánh địch mà đánh cả vào tổ chức của mình, có lúc đã dùng bạo lực không cần thiết và không đúng chỗ.


2. Về nhân dân dân chủ chuyên chính
Nhân dân dân chủ chuyên chính là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Nhưng nhân dân là ai, kẻ thù của nhân dân là ai? Đó là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nếu không nhận rõ điều đó thì có khi dân chủ cả với kẻ thù của nhân dân và chuyên chính không nhắm đúng đối tượng, mũi nhọn chuyên chính có thể không chĩa vào kẻ địch. Đối với nhân dân ta phải bảo đảm quyền tự do dân chủ, phải mở rộng dân chủ một cách đúng mức. Nhưng đối với kẻ thù của nhân dân thì phải kiên quyết thi hành chuyên chính, không thể nhu nhược.
Trong cải cách ruộng đất, cán bộ ta đã vạch lầm một số nông dân lên địa chủ hay cường hào gian ác, đã vạch một số cán bộ, đảng viên là phản động và đả kích nặng, gây ra tình trạng hỗn loạn, rất nguy hiểm. Đồng thời đã vi phạm chế độ pháp trị, vi phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân, gây ra không khí khủng bố ở nông thôn.
Việc mở rộng dân chủ ở thành thị và nông thôn bảo đảm sự tôn trọng chế độ pháp trị là rất cần thiết. Sống lâu ngày dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta ngày nay được giải phóng, rất khao khát tự do. Ta phải phát triển dân chủ để có thể phát huy tính tích cực của nhân dân, làm cho nhân dân tích cực tham gia vào công tác quản lý Nhà nước; nhưng đồng thời cũng phải chuyên chính đúng mức, đối với bọn phản cách mạng hiện hành thì kịp thời trấn áp. Vì vậy một mặt cần giáo dục cho quần chúng nhân dân nhận rõ mình là chủ nhân của nước nhà, mình có nghĩa vụ và quyền lợi rõ ràng, dứt khoát; mình phải được hưởng quyền dân chủ của mình, nhưng đồng thời cũng phải biết sử dụng đúng quyền đó, không làm ẩu, làm bừa, để gây khó khăn cho chính quyền và địch có thể lợi dụng. Mặt khác, phải kiện toàn không ngừng bộ máy chuyên chính, củng cố công an và quốc phòng, nắm vững lực lượng của ta, không nhu nhược với bọn phản cách mạng hiện hành, muốn nhân những khuyết điểm sai lầm của ta mà lừa phỉnh quần chúng, tổ chức âm mưu nhằm đạt những mục đích đen tối của chúng.
3. Về lãnh đạo
Ta thường nói lãnh đạo đúng là:
• tìm ra cách giải quyết đúng vấn đề;
• tổ chức thực hiện cách giải quyết đúng;
• tổ chức việc kiểm tra.

Song muốn tìm ra cách giải quyết đúng vấn đề thì phải điều tra nghiên cứu tình hình, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nghĩa là phải xuất phát từ thực tế; đồng thời phải nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kết hợp chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lê-nin với thực tiễn cách mạng nước ta, nếu không sẽ phạm phải chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ nghĩa giáo điều. Phải tôn trọng nguyên tắc tập thể dân chủ, nếu không định ra phương châm, chính sách sẽ thiếu sót, thậm chí sai lầm nữa.
Muốn tổ chức việc thực hiện cách giải quyết đúng phải đưa cách giải quyết đó xuống quần chúng, bàn bạc với quần chúng, làm cho quần chúng thông suốt cách giải quyết đó và tự giác tự nguyện chấp hành, phát huy tính tích cực và trí sáng tạo của quần chúng. Không thế thì sẽ phạm phải chủ nghĩa quan liêu, mệnh lệnh và sẽ thất bại đau đớn. Lãnh đạo đúng là lãnh đạo theo đường lối quần chúng: từ quần chúng mà ra, trở về nơi quần chúng.
Trong khi chấp hành chủ trương chính sách, phải kiểm tra đôn đốc, theo dõi sát tình hình, kịp thời phát hiện vấn đề, tổng kết kinh nghiệm, sửa chữa sai lầm, phát huy thành tích. Muốn thế phải phát triển phê bình tự phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phê bình tự phê bình là liều linh đan chữa bệnh quan liêu và chủ quan, tự mãn của các cơ quan lãnh đạo và của cán bộ.
Trong phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất vừa rồi, cơ quan lãnh đạo cũng như cơ quan chỉ đạo thực hiện nhiều khi đã không nắm vững cách lãnh đạo đó. Vì vậy mà đã phạm sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng.
 
Sửa sai và tiến lên
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng đã nêu rõ: “Nhiệm vụ và phương châm trước mặt của chúng ta là: kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy những kết quả và thắng lợi đã thu được. Trong lúc thực hiện nhiệm vụ đó thì dựa trên đường lối nông thôn của Đảng, dựa trên tinh thần tin tưởng và truyền thống đoàn kết của Đảng ta và của nhân dân ta; thi hành đúng chính sách cụ thể sửa chữa sai lầm, nhằm đoàn kết nội bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt công tác cải cách ruộng đất và trên cơ sở đó đẩy mạnh công cuộc củng cố miền Bắc, tranh thủ miền Nam và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.”
Sai lầm này nghiêm trọng, nhưng không phải sai lầm về chiến lược. Đảng và Chính phủ đã phát hiện sai lầm và quyết tâm sửa sai, đã định rõ phương châm, chính sách và kế hoạch sửa sai một cách thiết thực. Nhân dân ta sẵn có truyền thống đoàn kết, nói chung vẫn tin tưởng ở lãnh đạo và sẵn sàng góp sức vào việc sửa sai.
Vì vậy ta có đủ điều kiện sửa sai và tiến lên.
Muốn sửa sai cần khắc phục những tư tưởng sai lầm chính dưới đây:
• bảo thủ, tự mãn, không chịu nhận hết sai lầm, không kiên quyết sửa sai;
• bi quan, tiêu cực, nhìn mọi cái đều hỏng, không tin ở phần thắng lợi của cải cách ruộng đất, không tin có thể sửa sai được tốt;
• bàng quan, vô trách nhiệm, không quan tâm đến việc sửa sai.
• Những nhân tố thắng lợi chủ yếu của cách mạng ta (Đảng, Mặt trận, quân đội, chính quyền) có chịu ảnh hưởng không tốt vì những sai lầm vừa qua, nhưng chỉ trong một phạm vi nhất định. Vì thế ta có đủ lý do tin tưởng ở thắng lợi của công tác sửa sai.

Tuy vậy, cũng cần nhận rõ những khó khăn đang gặp trong việc sửa sai. Chủ yếu có khó khăn dưới đây:
• bọn phản động đội lốt tôn giáo và bọn địa chủ ngoan cố, bọn đầu sỏ trong số tề ngụy cũ đang ngo ngoe ngóc đầu dậy, phá rối ta;
• vấn đề sửa sai rất phức tạp, diện sửa sai khá rộng;
• việc lãnh đạo sửa sai chưa được thật tăng cường; nội bộ Đảng hiện còn thiếu đoàn kết và thống nhất.

Muốn sửa sai tốt, cần khắc phục những khó khăn đó.
Gần đây một số những người bị tố oan là phản động hoặc bị quy sai thành phần, sốt ruột chờ sửa sai, đã tự phát báo thù. Một số địa chủ và bọn phản động, lưu manh lợi dụng cơ hội lôi kéo quần chúng bất mãn, gây ra những vụ lộn xộn trong nông thôn. Đáng chú ý nhất là mới đây bọn phản động đội lốt tôn giáo đã gây ra những vụ phá rối trật tự an ninh ở tại một vài vùng giáo dân ở tập trung. Chúng lợi dụng lòng tin của một số quần chúng tín đồ mà lấy lại những quyền lợi nông dân đã giành được trong cải cách ruộng đất. Rõ ràng là chúng đang ra sức phá hoại những thành tựu của cải cách ruộng đất và phá hoại việc sửa chữa của ta. Vì vậy, muốn sửa sai tốt, phải ngăn ngừa những hành động tự phát, báo thù. Đồng thời phải trấn áp bọn phản động, bọn quấy rối, không để cho chúng làm mưa làm gió.
Chính sách sửa sai đã công bố chưa được thật cụ thể. Tình hình thực tế ở nông thôn phức tạp hơn ta tưởng. Cho nên cần rút kinh nghiệm ở một số địa phương để bổ sung chính sách đó.
Diện sửa sai khá rộng. Cần có kế hoạch sửa sai để tiến hành từng bước. Kế hoạch ấy phải căn cứ vào chỉ thị của Trung ương về sửa sai nói chung, đồng thời cũng phải căn cứ vào yêu cầu cấp bách sửa sai của từng địa phương và căn cứ vào thời vụ mà đặt ra cho sát.
Theo nghị quyết của Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, việc sửa sai sẽ giao cho Đảng bộ và chính quyền các cấp trực tiếp phụ trách. Cho nên phải kiện toàn bộ máy lãnh đạo các cấp để cho nó gánh được trách nhiệm sửa sai theo đúng phương châm, chính sách mà Trung ương Đảng và Chính phủ đã đề ra.
Việc kiện toàn các cấp cần phải đạt yêu cầu thống nhất tư tưởng và nhận thức về thắng lợi của cải cách ruộng đất cũng như về những khuyết điểm sai lầm và nhiệm vụ sửa sai. Trung ương Đảng và Chính phủ quyết tâm sửa sai, nhân dân mong chờ sửa sai. Có nhiều vấn đề sửa sai liên hệ mật thiết với chiêm này, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết gấp rút. Chúng ta phải xiết chặt hàng ngũ, lao mình vào công tác sửa sai.
Qua các cuộc hội nghị nghiên cứu nghị quyết của Trung ương Đảng, tư tưởng cán bộ, đảng viên đã được nhất trí trên những vấn đề chính. Đương nhiên, vẫn còn một số vấn đề tồn tại giữa cán bộ, đảng viên cũ và cán bộ, đảng viên mới, cán bộ bị xử trí và cán bộ không bị xử trí, cán bộ đã tham gia cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức với cán bộ không tham gia cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, v.v… Tư tưởng chưa được thống nhất thì hành động trong việc sửa sai cũng sẽ không được thống nhất. Vì vậy, phải qua việc hoàn thành phổ biến nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng xuống đến tận xã mà làm cho tư tưởng và nhận thức của cán bộ và đảng viên thống nhất hơn. Cần làm cho toàn Đảng trên cơ sở thấu suốt tinh thần nghị quyết của Trung ương Đảng và nâng cao ý thức về trách nhiệm trước việc sửa sai mà tăng cường đoàn kết trong Đảng. Do Đảng được đoàn kết, thống nhất mà tăng cường đoàn kết giữa các Đảng ta và các đảng phái, các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận, giữa Đảng ta và quần chúng nhân dân nói chung. Đó là một điều kiện cần thiết cho việc sửa sai có kết quả.
Công tác cách mạng của chúng ta có thành tích và cũng có sai lầm. Điều cốt yếu là Đảng ta tránh được những sai lầm về đường lối cách mạng, và một khi phạm sai lầm dù lớn hay nhỏ đều thành khẩn nhận hết sai lầm và kiên quyết sửa chữa.
Sai lầm của ta trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức không có nghĩa là đường lối cách mạng Việt- nam do Đảng ta vạch ra là sai, cũng không có nghĩa là chế độ dân chủ nhân dân của ta là không tốt. Vì đường lối cách mạng của Đảng ta đúng, bản chất chế độ ta tốt, quần chúng nhân dân ta nói chung vẫn tin tưởng ở Đảng ta và Chính phủ ta, cho nên ta có điều kiện tốt để sửa sai và tiến lên.
Mỗi cán bộ và đảng viên chúng ta cần tin tưởng và hăng hái gánh một phần trách nhiệm trong việc sửa sai, biến những đau xót của chúng ta trước những sai lầm thành sức mạnh vật chất đặng tiến hành tốt công tác sửa chữa sai lầm, phát huy thành tích, củng cố công nông liên minh, giữ vững và phát triển thắng lợi của cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Do đó chúng ta làm cho miền Bắc được thật sự củng cố, chế độ ở miền Bắc càng tốt đẹp hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.


________________________________________
Chú Thích
[1]Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng.
Nguồn: Học Tập, tạp chí lý luận và chính trị của Đảng Lao động Việt Nam, số 11, tháng 11 & 12 1956, tr. 9-23.
[1]Về trách nhiệm cá nhân ở cấp Trung ương thì xem thông cáo của Trung ương đăng trên báo Nhân dân ngày 30-10-1956.
[2]Nghị quyết của Bộ chính trị tháng 8 năm 1953.
Nguồn: Học Tập, tạp chí lý luận và chính trị của Đảng Lao động Việt Nam, số 11, tháng 11 & 12 1956, tr. 9-23. Bản điện tử do talawas thực hiện.

17-05-2006



 Sử LiệuTư liệu của Cộng Sản VNCải Cách Ruộng Đất:Sửa sai

http://hqvnch.net/default.asp?id=709
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.08.2007 02:06:01 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 17.08.2007 01:04:02
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Cải Cách Ruộng Đất - 23.08.2007 01:56:32
VIỆT NAM NGÀY NAY: Cuộc Cải Cách Ruộng Đất Mới
 
Phan Văn Song
 
    Nhắc lại miền Nam, Nguyễn khắc Toàn viết: “... Mô hình chế độ chính trị Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây, khi ở miền Bắc tôi đã được tuyên truyền rằng, đó là một loại hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới do Ðế Quốc Mỹ dựng lên và làm bàn đạp để tiến công miền Bắc và phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc là những nước đứng đầu. Và các cơ quan tuyên truyền của miền Bắc còn nói về kinh tế miền Nam Việt Nam là thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Ðây cũng là nơi Mỹ và các đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân về văn hóa, xã hội, giáo dục... thì mảnh đất màu mỡ ở miền Nam Việt Nam là nơi để gieo mầm nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở phát triển. Trên báo đài phát thanh sách vở giao khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc thì đầy dẫy những tuyên truyền về một nhà tù lớn, một trại tập trung khổng lồ. Ở nông thôn thì nông dân bị kềm kẹp trong ấp chiến lược với lớp lớp hàng hàng rào dây thép gai bao quanh, với nhiều chòi canh có lính canh với sáng đạn tối tân canh gác đêm ngày...”.
    Hơn mười ngày nay, hàng loat người từ các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long cũng như  một số tỉnh miền Trung ồ ạt kéo về Saigòn đòi gặp các vị trách nhiệm Văn Phòng Quốc hội 2 để khiếu nại bị lừa gạt trong những vụ việc bồi thường đất đai.
    Từ nhiều năm nay, các cơ quan giải tỏa đất đai cho quy hoạch xây cất, mở mang thành phố, mở mang xí nghiệp theo nhu cầu kỹ nghệ hóa đất nước và do xây dựng nhà cửa cho ngoại nhơn đầu tư vào Việt Nam cư ngụ, đất đai ở những vùng ngoại biên các thành phố lên giá vùn vụt. Một miếng ruộng nho nhỏ đã biến thành mỏ vàng. Người nông dân có đất đai ở trong vòng quy hoạch được đề nghị bồi thường một - đương nhiên món tiền bồi thường này không thỏa đáng, vì còn dưới xa giá trị đích thực về công sức khai thác, về lợi tức thu hoạch của sở hữu chủ - nhưng liền đó, mảnh vườn, miếng đất mà người nông dân “khổ chủ” nghĩ rằng chánh quyền sẽ xây cất theo nhu cầu phát triển đất nước, thì … được bán lại cho Tây, cho Tàu với giá cao gấp trăm, gấp ngàn lần giá bồi thường. Nông dân thấy mình bị đảng viên có chức có quyền địa phương lừa đảo trắng trợn, nên ức lòng đi kiện. Thế là đã xãy ra hàng hàng lớp lớp dân oan kéo nhau đi Hà nội khiếu kiện, rồi bao nhiêu cảnh thương tâm xảy ra cho những người dân bị đuổi nhà cướp đất phải ăn dầm nằm vạ tháng này qua năm khác ở Vuờn Hoa Mai Xuân Thưởng, và ngày nay, tình trạng này đang tiếp diễn ở Sàigon.

ĐÂY LÀ MỘT VỤ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT MỚI ...THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA !
    Hồi năm 1952 đến 1956, Đảng cộng sản Hànội phát động chiến dịch Cải cách ruộng đất để đánh Địa chủ cường hào, lấy đất đai của Địa chủ đem chia cho Bần cố nông. Sau đợt sửa sai năm 1957, Đảng “hợp tác xã hóa” đất đai để tước quyền làm chủ của Bần cố nông. Sau 1975, đảng cộng sản vào Nam, định làm lại cuộc Cải cách ruộng đất nhưng không thực hiện được vì chánh sách “hợp tác xã hóa” thất bại. Đảng cộng sản chỉ đánh được Tư sản, Tiểu thương, Tiểu chủ, tước quyền tư hữu để đem tài sản cướp đoạt được của nhân dân về cho đảng sở hữu, mà thực tế là làm giàu cho đảng viên. Ngày nay, nhờ đầu tư ngoại quốc vào, nhà cầm quyền tìm mọi cách vừa thu mua rẻ đất đai của nông dân, vừa trắng trợn cướp đoạt, bán lại cho Tư bản để làm giàu cho đảng viên.
    Lần này người dân thật sự trở thành Bần cố nông trắng tay. Đảng cộng sản vốn là Đảng Lao động nên lột sạch sành sanh Nông dân, Tiểu chủ, và đảng cộng sản trở thành địa chủ, tư sản, tư bản, cả mại bản.
    Nếu xem đây là cuộc Cải cách ruộng đất, thì lần này Đảng sẽ biến Nông dân trở thành Công nhân rẻ tiền phục vụ cho tư bản ngoại quốc, vì Việt Nam, thành viên thứ 150 của WTO, đang cần một “giai cấp” Công nhân rẻ tiền và dễ sai.

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT ĐỂ CHUYỂN GIAI CẤP NÔNG DÂN THÀNH GIAI CẤP CÔNG NHƠN.
    Phát triển Việt Nam ngày nay, theo chiêu thức “Kinh tế thị trường”, tức là tạo những công nhơn cho một công nghệ gia công lắp ráp, tạo những công nhân may mặc, dán hồ đế giày thể thao … một công nghệ không chất xám, thiếu kỹ thuật, thiếu sáng tạo, thiếu khoa học mũi nhọn. Và nguy hiểm hơn, với chiêu thức “Kinh tế thị trường” thòng thêm cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa”, tức là làm kinh tế một cách bừa bãi, tùy tiện, độc đoán, như mua của nông dân với giá rẻ, bán với giá mắc cho ngoại quốc, chiêu thức này sẽ lột sạch sành sanh nhân dân. Tất cả những kẻ “ăn trên ngồi trước” đều là cán bộ đảng viên cộng sản, miệng lúc nào cũng nói xoen xoét “làm cho Việt Nam”, nhưng không bao giờ họ thật sự “làm cho người Việt Nam, cho dân Việt Nam”. Nếu là cấp lãnh đạo lương thiện, có chút liêm sĩ, khi nói bồi thường theo giá thị trường, thì phải giải quyết đúng đắn là trả bù khoản tiền sai biệt cho những chủ nhơn đất đai bị quy hoạch khi giá được bán lên cao.

CÔNG NHƠN PHỤC VỤ GIAI CẤP THỐNG TRỊ TRUNG GIAN VÀ BẢO VỆ GIỚI TƯ BẢN ĐẦU TƯ NGOẠI QUỐC
    Đảng cộng sản Việt Nam hiện là chủ nhơn của đất nước Việt Nam, đang cần có một giai cấp công nhơn rẻ tiền để phục vụ các nhà đầu tư ngoại quốc.Điển hình là ông Nguyễn Minh Triết, người Chủ tịch vô trách nhiệm, rất thờ ơ về điều kiện lao động của công nhơnViệt Nam. Suốt thời gian rao hàng ở Hoa kỳ, ông đã trả lời bao nhiêu phỏng vần và ký kết không biết bao nhiêu hợp đồng thương mại, nhưng chưa bao giờ nghe ông Triết tuyên bố một câu về tình trạng làm việc cũng như đìều kiện lao động của công nhơn Việt Nam mà ông đang xử dụng quyền đại diện.
    Trước khi ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ, là người đứng đầu Nhà Nước, chắc chắn ông có theo dõi, biết rất rõ là từ đầu năm 2006 và cả đầu năm 2007, ở Việt Nam, đặc biệt ở ngoại ô Sài gòn cũng như ở tỉnh Bình Dương - quê hương chôn nhao cắt rún của ông - đã liên tục diễn ra bao nhiêu cuộc biểu tình. Những cuộc biểu tình của công nhơn các tỉnh miền Nam, trong đó có công nhơn tỉnh Bình Dương. Những người biểu tình này chỉ đòi hỏi quyền lợi chánh đáng, quyền lợi đương nhiên được hưởng, của bất cứ công nhơn một nước văn minh nào có đầy đủ chủ quyền.
    Ông Nguyễn Minh Triết ký kết và “hồ hỡi” mang về Việt Nam … những lời hứa sẽ đầu tư 11 tỷ của các doanh nhơn Mỹ. Chúng tôi thử hỏi ông hứa cung ứng những gì cho doanh nhơn Mỹ để họ hăm hở mang vốn vào Việt Nam ?:
        - Óc sáng tạo của người Việt Nam?
        - Kỹ thuật và tay nghề người Việt Nam?
        - Việt Nam có nhiều người lãnh giải Nobel hoặc nhiều bằng sáng chế?
    Tất cả đều không phải, vậy ông hứa những gì ? Phải chăng ông đã hãnh diện hứa chắc chắn như đinh đóng cột, là công nhơn Việt Nam rất cần cù, ngoan ngoản dễ sai, dễ bảo mà lương thì rẻ nhứt thế giới, vì luôn luôn có một bộ máy Công An đắc lực, một Công đoàn hữu hiệu, nên công nhơn không thể đình công hay thắc mắc gì hết ?!.
   Một Nghiệp đoàn công nhơn, sản phẩm của Đảng cầm quyền, là một thứ quái thai đối với các nước văn minh trên thế giới ngày nay. Loại quái thai này chỉ sanh tồn ở những nước Cộng sản. Ở Pháp, Nghiệp đoàn CGT trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp đấy, nhưng Đảng Cộng sản Pháp có lúc nào được cầm quyền đâu ?
    Nên nhớ, chức năng của một Nghiệp đoàn Công Nhơn là bảo vệ người công nhơn, ấy thế mà ở Việt Nam ngày nay, Công đoàn Lao động trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc - một ngoại vi của Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền. Thử hỏi công đoàn này làm sao bảo vệ Công nhơn Lao động được hữu hiệu? Khi công nhơn được nhận vào làm việc, ai là người ký hợp đồng với giới chủ nhơn tư bản nước ngoài? Bằng chứng là ngày hôm nay, ở Việt Nam, các cấp lãnh đạo các Nghiệp đoàn tự do và độc lập (ngoài Công đoàn của Đảng Cộng sản) đều bị giam cầm, bị truy nả hay phải lưu vong.
    Luật của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết tội thành lập một Nghiệp đoàn công nhơn đoàn độc lập thành tội gián điệp phản quốc, có thể bị xử tử hình, trong lúc Hiến Pháp Việt Nam cho phép người dân được tổ chức hội đoàn.
    Trong các cuộc phỏng vấn - phỏng vấn gì mà phải gởi 15 câu hỏi trước - không thấy anh nhà báo nào đặt câu hỏi vể các điều kiện làm việc  của công nhơn tương lai ở Việt Nam. Tất cả các Hợp đồng thương mại được ký kết, hầu hết là hợp đồng đầu tư. Đầu tư kỹ nghệ là mở nhà máy, thế mà không thấy một điều khoản thương thuyết nào về điều kiện của công nhơn lao động Việt Nam? Vì mở nhà máy tức nhiên là cần công nhơn. Những ai quan tâm về nhân quyền đều thất vọng, không nghe ông Triết cùng phái đoàn hùng hậu và ưu việt của ông nêu những câu hỏi cần thiết như: Phẩm chất về kỹ thuật? Chuyên ngành? Công nghệ nặng? Công nghệ biến hóa? Dịch vụ? Chức năng sinh ngữ? Hạ tầng kỹ thuật? Chức năng huấn luyện (hệ thống giáo dục, tiểu học, trung học, đại học, đại học chuyên nghiệp, bản năng hội nhập kỹ thuật …). Lương tối thiểu là bao nhiêu? Số giờ lao động bao nhiêu? Đầu tư chất xám thế nào? Huấn nghiệp và luyện tay nghề ra sao? Ngày nghỉ, thời gian huấn luyện, quỷ hưu trí, quỷ xã hội, ai trách nhiệm, và bao nhiêu phần trăm của chủ, bao nhiêu phần trăm của nhà nước Việt Nam, bao nhiêu của công nhơn. Bấy nhiêu câu hỏi thường thức mà người đi thương thuyết cho một hợp đồng thương mại thường phải được đặt ra, thế mà ông Triết lẫn phái đoàn ưu việt của ông phớt lờ. Tất cả những thắc mắc đều được ngụy trang dưới một lá chắn mỵ dân do Đảng ra lịnh cho giới truyền thông thuộc phe nhà: “Ông Triết chắc chắn là người tử tế, vì có một giọng nói đầy chất mộc mạc của người Nam bộ”. !
    Nếu ông Triết thực sự là dân chịu chơi theo phong cách miền Nam, biết “U-Tê-Cu” (Uống Trà Quạu) biết hiên ngang đứng thẳng, thì trước khi đi Mỹ, ông Triết đã hổng thèm xin phép anh Ba “Tàu”. Đằng này, sau khi qua Bắc Kinh cúc cung triều kiến, ông còn phải tiếp viên Tướng của quân đội Tàu Cộng, rồi … ông mới đi Mỹ. Ông yếu quá ! Phong cách này đâu phải của dân chịu chơi Nam bộ! Ông khéo đóng kịch và “chôm” giọng nói chất phác của người dân Nam bộ để hoàn tất vở kịch mỵ dân và rao hàng. Đúng là “nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thảo nào dân Việt nam bị ông bán dễ dàng, bị ông lần lượt đưa vào tròng để tiếp tục làm đủ trò nô lệ: thợ nô lệ theo thợ, gái nô lệ theo gái, trai nô lệ theo trai, con nít nô lệ theo con nít, nông dân nô lệ theo nông dân, có vườn bán vườn, có đất bán đất, thiếu nữ nhà lành vì nghèo phải “bày hàng” cái vốn của cha mẹ sanh hy vọng kiếm tấm chồng Đại Hàn, Đài Loan,… để giúp đỡ cha mẹ, còn thuộc hạ đảng cầm quyền Ba Đình thì nô lệ đô-la, tập tành tiêu thụ theo giai cấp thượng lưu, nào là xe hai cầu, điện thoại viễn liên, máy hình điện tử…cả bọn tranh nhau tham nhũng để có, để mua, để xài đồ “Xịn”, tức tiêu dùng hàng ngoại nhập.
    Ông Nguyễn Minh Triết không phải là một nhà lãnh đạo thật lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu dân tộc. Ông thiếu cái đạo đức mà tôi gọi là đạo đức cách mạng “cho dân và vì dân”. Ông chẳng bao giờ có được cái đạo đức cách mạng, bởi ông là người của Đảng Cộng sản. Mà Đảng Cộng sản có bao giờ yêu dân, yêu nước đâu? Đảng Cộng sản chỉ yêu Đảng Cộng sản và chỉ phục vụ Đảng Cộng sản thôi. Bằng chứng, nếu yêu thực sự Dân Việt Nam thì làm sao có Cải Cách Ruộng Đất những năm 1953 -1956, đấu tố mấy trăm ngàn nạn nhơn. Làm sao có thảm trạng Tết Mậu Thân 1968 – chà đạp cam kết hưu chiến, xua quân đánh chiếm, thảm sát đồng bào trong những ngày thiêng liêng nhứt của dân tộc Việt Nam – với trên 5000 thường dân bị giết hại, chỉ riêng ở Huế. Nếu có nhân tính thì đâu bày ra cảnh “đuổi người ra biển để cướp vàng” vào những năm 1978/1979, và ngày nay, lại tiếp tục “cướp đất cướp ruộng” để tư hữu hóa Đảng và thuộc hạ ?!.
    Ông Nguyễn Minh Triết và Đảng Cộng sản Việt Nam, nay phải hoàn toàn trách nhiệm về các mặt hàng, về gạo, về thủy sản xuất khẩu bị nhiểm độc. Tất cả chỉ vì lãnh đạo tồi,  quản lý dở, giải quyết tùy tiện, bừa bãi, độc tôn, độc đoán. Bởi khăng khăng ngoan cố vì tham quyền cố vị, không chấp nhận chế độ đa đảng. Bởi không có một hay nhiều đảng đối lập với đảng cầm quyền để được kiểm soát và tự kềm chế, nên đảng cộng sản Việt Nam tự tung, tự tác, xem trời bằng vung, tự cho mình là đỉnh cao trí tuệ loài người, cho nên chỉ mới hơn ba mươi năm thống trị đất nước, trong hòa bình trong những điều kiện lý tưởng để xây dựng và phát triển,  mà từ nền tảng đạo lý truyền thống ngàn đời của dân tộc đang trên đà hủy diệt, đến quê hương lâm cảnh điêu tàn. Đối ngoại thì biên giới bị xói mòn, cắt đất liền, cắt hải phận cúc cung dâng hiến thiên triều để được che giữ mạng sống cho đảng. Đối nội thì phá rừng bừa bãi, xử dụng vô tội vạ các loại thuốc chống rầy, thuốc chống muổi, DDT, phân hóa học ... làm hư đất, không xử lý chất thải hoá chất từ hàng ngàn xí nghiệp công kỹ nghệ tuông xả, làm hủy hoại môi sinh, môi trường, gây nên vô vàn dị bịnh. Bệnh AIDS, bệnh Sốt xuất huyết vẫn hằng năm hoành hành, cướp đi không biết bao nhiêu sanh mạng trẻ con; tệ nạn xã hội đầy dẫy, con trẻ, đang tuổi đến trường, đi bán thuốc lá, bán vé số để phụ giúp cha mẹ. Tuần qua, các trường công lập Sài gòn tuyên bố tăng giá học phí, mỗi học sanh nay phải trả 400.000 đồng một tháng, trong lúc Nhà Nước buộc các hảng tư nhơn ngoại quốc chỉ trả cho công nhơn 800.000 đồng lương tháng. Lương người cha công nhơn chỉ có 800 ngàn (50 US $) mà phải trả học phí cho mỗi đứa con 400 ngàn, chúng tôi không dám nghĩ đến tình trạng của một gia đình công nhơn có nhiều con !...  
    Mới bước vào WTO mà hàng hóa đã bị trả lại vì chứa đầy chất độc, không đúng tiêu chuẩn. Tất cả tiềm lực thương mại chỉ còn vỏn vẹn có mỗi chiêu bài “Công nhơn đồng lương rẻ”, hàm nghĩa là công nhơn sẽ sẵn sàng làm nô lệ.
    Chế độ Miền nam đã mất từ hơn ba mươi năm, hiện Đảng Cộng sản Hà nội đang thao túng quyền thống trị trên ba miền đất nước, vậy, khi đọc đoạn viết của Ông Nguyễn khắc Toàn kể lại những tuyên truyền về hình ảnh chế độ miền Nam, chúng ta có cảm nghĩ Ông Toàn đang tả đúng hình ảnh của Việt Nam ngày nay, nếu bỏ đi những câu chuyên về miền Nam, chúng ta sẽ đọc như vầy: “Mô hình chế độ chính trị là một loại hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới do Ðế Quốc Mỹ( !?), hay do Staline, Mao Trach Đông( ?!) dựng lên. Việt Nam là thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Ðây cũng là nơi Mỹ, Trung Quốc và các đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân về văn hóa, xã hội, giáo dục... thì mảnh đất màu mỡ ở Việt Nam là nơi để gieo mầm nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở phát triển ”…..
    Công nhơn ngày nay phải đình công để đòi cho kỳ được những điều kiện làm việc đàng hoàng với chủ nhơn ngoại quốc. Nông dân ngày nay đang đi kiện Nhà nước, vì đất đai đã bị cướp đoạt ngang ngược. Hôm nay Công nhơn nô lệ và Nông dân bị cướp đất chưa cùng sát cánh tranh đấu. Công nhơn và Nông dân còn lý luận riêng rẽ, mỗi thành phần chỉ nhìn thấy và đòi hỏi những quyền lợi riêng cho mình. Đây chỉ mới là những đòi hỏi về Công lý và Công bằng thôi, quan niệm đấu tranh chánh trị về Dân chủ và Nhân quyền chưa được đặt ra. 
    Nhưng hãy coi chừng ngày mai, những người tranh đấu cho Dân chủ, sỹ phu, trí thức, thực sự yêu nước có ý thức đấu tranh chánh trị - sẽ nói chuyện được với giới công nhơn đang bị bóc lột sức lao động như người nô lệ; - sẽ bắt tay được với dân oan bị ăn cắp, bị cướp đoạt đất đai… và ngày ấy …, ngày ấy…  sẽ  không xa lắm đâu !
    Sẽ có một cuộc đấu tranh chánh trị toàn bộ của giai cấp bị trị với giai cấp thống trị. Vì, sau cuộc Cải cách ruộng đất mới này, ở Việt Nam sẽ rõ ràng có hai giai cấp và một cuộc đấu tranh giai cấp phải được diễn ra. Đảng cộng sản lần này đứng vào vai trò của kẻ thống trị, kẻ thù của giai cấp Công Nông. Và, Đảng cộng sản ngày nay đang vừa ở cả tư thế của các quan thầy Thuộc địa Thực dân (cướp đất của Nông dân) và cũng vừa ở cả vai trò của Đế quốc (Bảo vệ Tư bản ngoại nhơn, bóc lột sức lao động của Công nhơn địa phương).
    Vậy, Đảng cộng sản: 
        - Hãy mau mau đối thoại với nhân dân để may ra còn kịp có cơ hội tồn tại.
        - Hãy mau mau trả lại đầy đủ quyền công dân cho nhân dân Việt Nam.
        - Hãy mau mau trả quyền quản lý đất nước cho nhân dân Việt Nam.
    Đừng chần chờ nữa !

 
Hồi Nhơn Sơn, ngày 7 tháng 7 năm 2007
Phan Văn Song


http://hqvnch.net/default.asp?id=1018

20-07-2007
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
Nhân Văn Giai Phẩm - 24.08.2007 01:07:57







"Đấu tố" nhóm Nhân Văn Giai Phẩm (phần thứ nhất)
Ngược dòng lịch sử
Xuân Diệu
 Lời tòa soạn X-cafe: Xin giới thiệu tới độc giả một số bài viết "đấu tố" nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Những bài viết này chứa đầy lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được là chúng xuất phát từ ngòi bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ", là đồng nghiệp và bạn hữu của những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm. Chúng ghi lại một thời kỳ mà nhân cách con người đã đạt tới đáy sâu của sự tha hoá. Ngày nay, chúng ta vẫn còn được chứng kiến những bài viết kiểu như thế này trên các tờ báo Đảng, và đối tượng đả kích vẫn là những người đấu tranh cho dân chủ...
Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản qua thơ Lê ĐạtNhà thơ Pháp A-ra-gông (Aragon) có lúc (1943) đã phải cay đắng thốt ra rằng: sao mình lại phải lấy những vần thơ tiếng Pháp để mà nói những cái trại tù đầy của Quốc xã Đức! Tôi xin thú thật rằng: phải mấy lần viết về cái gọi là văn thơ của nhóm phá hoại Nhân văn–Giai phẩm, tôi chẳng lý thú gì; tôi thích dùng tiếng mẹ đẻ để ca hát, nói nỗi lòng tôi rung động với Tổ Quốc, với nhân dân, hơn là để xâu lại một chuỗi dài dơ dáng những thứ thơ xấu xa phản trắc. Nhưng, những Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt… đã cố ý làm xú độc cái không khí văn thơ của ta, nên chúng ta phải quét cho sạch, phải tẩy độc; thực ra, người không thể yên ổn mà làm việc tốt được, khi ma quỷ hãy còn lẩn với người. Nhóm Nhân văn–Giai phẩm có cả một kế hoạch dùng ngòi bút phá hoại ta; chúng ta đã vạch cái chân tướng phản động về chính trị của họ; tuy nhiên, có người còn có thể lầm, cho rằng “sáng tác” của bọn họ còn có cái hay. Tôi hãy lấy thơ Lê Đạt làm một ví dụ để vạch ra cả một hệ thống nghệ thuật thoái hoá, suy đồi, vạch cái cờ gian bạc bịp đã lừa được một số nhỏ người nhẹ dạ trong ba năm nay; thơ Lê Đạt là một hệ thống khá tiêu biểu trong thứ “văn nghệ” Nhân văn–Giai phẩm.

Một cuộc tàng hình

Những kẻ ăn cướp lại cứ muốn đánh trống la làng lên trước; chúng tung khói giả ra làm sương mù, để dễ bề làm ăn. Nhóm phá hoại Nhân văn–Giaiphẩm muốn “cao tay”; trong cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc (1955), họ làm ra bộ rất cách mạng; Hoàng Cầm khinh thơ Tố Hữu là “ít chất sống thực tế”, là “đao to búa lớn”, là “trống rỗng”, là “hồn thơ yếu ớt, chênh vênh”; Lê Đạt lấy tính chất của giai cấp công nhân ra để chê trách thơ Tố Hữu; bọn họ làm như là mình cứng cáp, vững vàng lắm, mới nghe nói Hắt hiu lau xám, Bâng khuâng trong dạ, Bồn chồn bước đi trong bài thơ “Việt Bắc”, đã buộc cho Tố Hữu là gieo rắc cái bùi ngùi, cái buồn! Nhưng trong thực tế ba năm qua, chính họ đã rơi thảm hại vào những điều mà họ nói vu cho người khác! Lê Đạt phất ngọn cờ “Học tập Mai-a-kốp-ski phát huy sức sống mới của thơ ca Việt Nam” [1] đã dám lấy cái giọng của chính nghĩa, hô to: “Chúng ta chưa vạch được bộ mặt đểu cáng của kẻ thù bên trong, chưa lột mặt nạ được những tư tưởng lạc hậu đội lốt cách mạng, chưa lên án chúng”. Vâng, câu này đúng lắm, nhưng nó chỉ đúng cho chúng ta, những nhà văn chân chính và quần chúng cách mạng, trước đợt đấu tranh này, trong những năm 1955, 56 và 57, còn quá đoàn kết một chiều, nhượng bộ hữu khuynh với bọn chống chế độ, là bọn Nhân văn–Giai phẩm, trong đó Lê Đạt là một tay quan trọng. Ấy thế mà Lê Đạt lại dám đánh trống lên! Rõ đúng là: cần phải xem món hàng thật giả thế nào, chứ đừng có nghe chiêu bài quảng cáo!

Tục ngữ nói: Thức lâu mới biết đêm dài… Lấy một Lê Đạt làm ví dụ, theo dõi hành tung trên một chặng dài, ta thấy hiện rõ quá trình của một kẻ ẩn núp, tàng hình, đã từng quay quắt được một thời gian, nhưng rốt cục cái bản chất phản lại giai cấp vô sản lòi ra mồn một.

Trong kháng chiến, Lê Đạt cũng công tác, cũng làm thơ, lúc mới Hoà bình, cũng ra tập thơ Thế giới này là của chúng ta gồm những bài thơ làm từ 1950 đến 1955, với nhiều lời ca ngợi chế độ. Những người tinh một chút, xem tập thơ này (12-1955), đã thấy ngờ ngợ và khó chịu: sao mà thơ cứ phều phào, vội vã, làm bằng trí khôn chứ không phải làm bằng tình cảm; - trên đời này, ai còn nhầm được những lời yêu đương chân thực với những lời hẹn thề xoen xoét!


Lớp trước lớp sau
Mồ mả ông cha còn đấy
Từng ngọn cỏ hôm nay nóng rẫy
Những lời gửi gắm hôm qua
Nước chúng ta
Dân chúng ta bất diệt
Sông núi mấy nghìn năm tha thiết
Vẫn thầm thì hai tiếng Việt Nam

Những xóm những làng
Những cây đa cổ thụ
Những bờ tre gốc lúa
Những giếng nước dòng sông
Những câu dân ca như chảy máu lòng…

Kể ra, những lời thơ như trên này, - vào hạng tốt nhất của tập thơ – cũng khó mà bắt bẻ được; nó có đủ cả, đưa cả mồ mả cha ông, người chết người sống, sông núi, tên của Tổ quốc v.v…; nhưng sao nó nói nhanh thế! Nó nói nhiều thế! Vanh vách kể đủ thứ, đưa ra cả một ít máu chảy ở lòng! “Tinh hoa phát tiết ra ngoài”, cái lối chàng Sở Khanh đấm ngực: “Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng!”, lộ liễu phanh phui trên tập thơ. Người ta để ý hơn cả, là Lê Đạt nói rất nhiều đến Đảng; dễ chưa người làm thơ nào lại viết nhiều về Đảng bằng Lê Đạt trong tập thơ này; không phải những người làm thơ khác kém yêu Đảng, nhưng người ta muốn tình nhiều lời ít, nói một cái gì cho thấm, sắc, chân thực, vì Đảng không phải chuyện đưa ra bô bô. Trong bài thơ: “Đảng cứu sống chúng ta”, Lê Đạt reo:


Việt Minh về đây rồi!
Việt Minh về đây rồi…
… Chi bộ kết nạp anh vào Đảng

Trong bài “Người đảng viên”, Lê Đạt nhắc:


Anh im lặng cúi đầu
Anh nhớ ngày vào Đảng…

Và Lê Đạt phất “Ngọn cờ Đảng bay trên đầu phơi phới – Lời thề còn vẳng bên tai”; và Lê Đạt “Mang đất nước trong lòng – Miệng hát bài ca cộng sản”, Lê Đạt “Vần trái đất theo đường đi của Đảng”; và Lê Đạt hùng dũng: “Tuổi trẻ chúng ta – Sống chết đi trên đường cộng sản – đứng đầu ghềnh Cách mạng – hộ vệ cho cuộc đời”; Lê Đạt làm ồn nhiều quá! Mời mọi người“Cùng với chúng tôi – Phất mạnh ngọn cờ của Đảng”, v.v…

Người đọc, ngay cuối năm 1995, đã bắt mạch thơ Lê Đạt và nghi hoặc tự hỏi: - Sao anh này nói nhiều thế? Một bạn thơ, đọc xong tập Thế giới này là của chúng ta, ngay lúc đó đã bảo với tôi: - “Người ta thì khéo tay, còn Lê Đạt thì khéo óc.” Chúng tôi đã cùng nhau cảm thấy một cái gì không thật, một cái gì xoen xoét; và mặc dầu Lê Đạt nói đủ cả, làm thơ về những anh công nhân kháng chiến mùa đông đứng bên máy tiện, về vợ chồng anh làm thuốc đen, mặc dầu Lê Đạt làm thơ về nông dân nhận trâu, nhận ruộng, làm thơ đón bộ đội miền Nam ra tập kết, mặc dầu trong thơ Lê Đạt cũng có những người khóc, những người chết, chúng tôi vẫn không tin. Khi Lê Đạt viết bài: “Chống hoà bình chủ nghĩa”, tôi lại càng ngờ vực. Sao lại huênh hoang đến thế, hình ảnh gì mà lại lố như vậy:


Đường cách mạng còn dài
Nhiều ngã ba, ngã bảy
Không chúng ta đứng đấy
Ai chỉ đường
Cho trái đất quay?…
…Trái đất
Không chúng ta
Ngơ ngác trước mù loà
Chống gậy
bước đi loạng choạng

Chẳng bao lâu, cái thắc mắc của người đọc đã được trả lời. Thế giới này là của chúng ta phát hành tháng 12-1955, thì chỉ hai tháng sau Giai phẩm mùa Xuân ra đời (tháng 2-1956). Đã rõ rệt như ban ngày, tập Giai phẩm mùa Xuân 1956 phất lá cờ đầu tiên chống Đảng, chống chế độ, và Lê Đạt là nhà lý luận trong đó. Lê Đạt mở đầu Giai phẩm với cái tuyên ngôn: “Trích Thơ gửi người yêu”, thì chính Lê Đạt đã in một đoạn “Trích Thơ gửi người yêu” ngay đầu tập Thế giới này là của chúng ta: một cái tuyên ngôn mà dùng chung cho một tập “ca ngợi” chế độ và một tập chống chế độ! Trong “Thơ gửi người yêu” đó, đã lộ mặt cái anh hùng chủ nghĩa đáng tức cười của Lê Đạt:


Một người lực sĩ
Chỉ mang nổi ngàn cân
Anh suốt tháng suốt năm
Mang quả địa cầu trong óc,

đã lộ ra cái khinh người vô căn cứ, tự cho mình là đẻ ra cái thai to quá: “Ăn nằm với cuộc đời – thai nghén đất trời – sinh ra sự sống”, lộ rõ cái nói dóc trắng trợn, rẻ tiền.

Và với bài thơ tuyên ngôn thứ hai: “Mới”, đăng trong Giai phẩm, Lê Đạt đã nhanh như cắt, tự lột toạc vứt xuống đất cái mặt dối trá của mình đã đeo từ trong kháng chiến; Lê Đạt không cần mai phục nữa, tự vạch cái giả vờ của tập thơ cơ hội Thế giới này là của chúng ta, xé nát nó ra, đứng lên trên nó mà giày xéo một cách căm giận:


Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm hại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
Tim chết cứng trong lề thói
Những đêm trắng tấy lên trong dữ dội
Không muốn nhìn mặt mình

Thật là rõ quá! Mấy câu này đã cắt nghĩa cho người đọc hiểu tại sao mà thơ Lê Đạt trước kia cứ nói nhiều đến Đảng, mà lại cứ như nước đổ lá môn, trôi tuột đi! Thôi, từ những bài thơ Giai phẩm này trở đi, Lê Đạt sẽ được là Lê Đạt, sẽ “thành thật” là mình, sẽ sang một chặng đường khác, sẽ đến một chân trời “mới”, say sưa cầm một cán cờ khác, nhất quyết dương lá cờ “mới” đó lên!


Những biến hoá của chủ nghĩa cá nhân tư sản

Lê Đạt đã rít lên tiếng nói từ thâm tâm, từ bản chất của mình ra, nó đích là tiếng đòi “tự do” của chủ nghĩa cá nhân tư sản, nó là ý muốn của tồn tại và phát triển của hệ thống tư tưởng tư sản! Nó không chịu nổi sự chuyên chính của tư tưởng vô sản yêu cầu chủ nghĩa cá nhân phải tự nguyện phục tùng lợi ích của tập thể, phục tùng kỷ luật cách mạng. Nhưng chủ nghĩa cá nhân tư sản ranh mãnh lắm; nó quyết kéo lẽ phải về nó; nó tự xưng nó là đại diện cho “con người”, ai dồn ép nó, tức là xúc phạm con người: Lê Đạt mị dân, kêu to lên: “tôi mới hai mươi lăm tuổi” (1956), hòng tập hợp thanh niên quanh mình, kích những “tuổi hai mươi” lên, nói khích họ, gãi vào cái máu anh hùng chủ nghĩa của tiểu tư sản, cái tính ham mới chuộng lạ của thanh niên. Lê Đạt đưa ra cái tà thuyết rạch đôi các sự vật ra làm hai: hễ cái gì “mới” là cách mạng, hễ cái gì “cũ” là đeo kính vào viện hàn lâm, là mệt mỏi, lối mòn, vết già nua, lề đường han rỉ… Nhưng chúng ta thì đặt tiêu chuẩn một cách khác; có một cái mới căn bản trong thời đại chúng ta: là giai cấp vô sản chiến thắng, là cách mạng xã hội chủ nghĩa; ngoài ra, những sự vật khác, thì chúng ta rạch ra làm hai: những cái gì có lợi cho giai cấp vô sản và chủ nghĩa xã hội là tốt, những cái gì chống lại, là xấu, bậy, phản động. Chứ chúng ta không câu nệ trong vấn đề mới, cũ. Khi chế độ phong kiến và chủ nghĩa đế quốc còn canh ty nhau trị vì trên đất nước ta, thì đi ngược chiều đó, là mới, và cái mới này là tốt. Nhưng khi, trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đời sống dân chủ nhân dân vững mạnh được mười ba, mười bốn năm, và đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà nhóm phá hoại Nhân văn–Giai phẩm lại cho mười ba, mười bốn năm không thay chiều đổi hướng, tức là cũ, là “công thức xỏ dây vào mũi”, thì ta không để yên cho họ đi tìm cái “mới” khác đâu! Chúng ta quyết bảo vệ cái “một chiều xã hội chủ nghĩa” này, và quét tất cả những thứ “mới” của họ vào hố rác!

Lê Đạt, “những đêm trắng tấy lên dữ dội”, đã đẻ ra một quái thai: chủ nghĩa cá nhân phát cuồng, tự phải lòng mình quá đáng, và tự nói phét về mình không chút ngượng mồm. Lê Đạt là một anh hùng quân đội chăng? Một anh hùng lao động chăng? Một thi sĩ đại tài chăng? Anh ta làm một số bài thơ xoàng ca ngợi chế độ, thì anh ta đã lại phủ nhận tất cả rồi. Nhưng Lê Đạt cứ vênh váo, lấy dáng điệu vĩ nhân, thấy bóng đầu mình lù lù quá to trên trang sách nhỏ, “đất nước đêm nay chĩa đầu ngòi bút”, mà ngòi bút thì nặng hàng vạn vần thơ. Ai muốn tìm cảm giác lạ, thì hãy đến xem! Lê Đạt ban ơn ban phước cho đời sống cách mạng này, “moi óc làm thơ, moi tim làm thơ” đến nỗi “từng từng giọt mồ hôi đẫm bản đồ chính sách”, trong khi đó thì đùng một cái, Lê Đạt bất ngờ nổ súng “vào đầu dĩ vãng” làm cho thiên hạ giật mình!

Trong bài “Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi Kế hoạch Nhà nước 1956” người ta thấy Lê Đạt gợi lại cái dáng điệu đánh cối xay gió của anh chàng Đông Ky-sốt, nhưng lại không có cái đáng mến của Đông Ky-sốt:


Ta nắm cổ thời gian
Quất cho phi nước đại
Kéo ngày mai gần lại
Thúc vào lưng cuộc đời
Mở máy đến chân trời cộng sản

Chúng ta cũng thấy rõ cái “tôi”, khi nó tự thổi phồng mình, đã hoá ra buồn cười như thế nào, Nhưng, còn hơn thế nữa. Lê Đạt thấy người chung quanh không tin anh ta khi anh ta huếch hoác, thì Lê Đạt chuyển ngay giọng vênh váo ra giọng đau khổ. Làm anh hùng không đắt, Lê Đạt bèn chuyển sang làm tử-vì-đạo trong bài “Cửa hàng Lê Đạt”. Phương pháp nào cũng tốt, miễn là tự đề cao được mình, làm cho thiên hạ chú mắt vào ta! Qua cửa miệng Lê Đạt, cái chủ nghĩa cá nhân tử sản bị dồn ép, cất lên những lời thảm thương, hấp hối; nó tự làm ra vẻ đang bị thương, máu me lênh láng, và nó đau, tức là cả nhân loại đau; nhưng ở miền Bắc này, nó muốn có người nghe, thì nó vẫn cứ phải nói là nó yêu chế độ:


Có những ngày
tôi chỉ còn muốn chết
Nhưng yêu vợ,
yêu thơ,
yêu chế độ
Tôi không thể đi
Và cho dù có nằm sâu dưới mộ
Bất công đè nặng trên đầu
Tôi vẫn gào lên…

Lê Đạt cho mình là người chủ chốt của báo Nhân văn, tham mưu cho cả báo, tự tay sửa chữa nhiều bài đả kích chế độ ta rất cay độc, chính mình vu khống thiên hạ, thế mà lại đập đầu ăn vạ kêu rằng thiên hạ bất công với mình. Cứ một đà ấy, Lê Đạt tự khóc mình rất lâm ly, cho rằng sở dĩ mình khổ đau, là vì mình ôm lấy nghĩa lớn, sự vờ khóc này là một cách rất tinh vi buộc tội vào cho chế độ ta:


Tôi đã sống những ngày dầu dãi
Quên ngủ, quên ăn
Mắt lõm sâu
như huyệt chôn người chết
Tôi đã chịu đau thương
bất công nhọc mệt
Tuổi thơ
làm hại tuổi giời
Mà nhiệm vụ
tôi vẫn làm chưa trọn…

Càng nói càng tự say lấy lời nói của mình, Lê Đạt không chịu đứng dừng ở cái cương vị tử-vì-đạo, mà tham vọng hơn. Cái “bệnh vĩ đại” [2] đang lên cơn sốt cao độ, Lê Đạt thấy như mình là một đấng cứu thế nào đây, tự căng mình lên cái mức vũ trụ:


Vũ trụ ơi
tha cho tôi
Tất cả những gì
thơ tôi chưa làm được
Khi tắt thở
mắt tôi đừng ai vuốt
Còn gì buồn hơn
không được thấy cuộc đời
Bác sĩ ơi
hãy khoét mắt tôi
lắp cho những người cần nó
Để chết rồi
mắt tôi vẫn mở
Vẫn tham gia phục vụ
loài người

Người nào hay mủi lòng và mất cảnh giác thì rất dễ bị lừa với những cách nói “tha thiết” như trên đây. Dưới các chế độ áp bức bóc lột trước, trong văn học và trong cuộc đời, đã có những người mang một thành tâm muốn lấy tất cả nước mắt mình, và nếu cần, lấy tất cả máu mình tưới cho tắt bớt cái ngọn lửa khổ đau đốt thiêu nhân loại; ta rất cảm kích những nỗi chân thành đó, vì trước khi có Đảng của giai cấp vô sản, họ không cầm được một vũ khí nào thực sự có hiệu quả đầy đủ. Một vĩ nhân như Nguyễn Trãi:


Tuổi già, tóc bạc, cái râu bạc,
Nhà ngặt, [3] đèn xanh, con mắt xanh,

âu lo cho cả cuộc đời dưới chế độ phong kiến; Nguyễn Du muốn khóc liền cho ba trăm năm; chúng ta kính cẩn nâng nhận các tấm lòng cứu nhân độ thế như vậy. Nhưng Lê Đạt?

Cuộc đấu tranh hiện nay đã vạch rõ cái mặt dạn dày của Lê Đạt trong nhóm Nhân văn–Giai phẩm, có chủ trương, có kế hoạch phá hoại chế độ ta, trước hết là trên mặt trận tinh thần; chân tướng chính trị của Lê Đạt xấu xa như vậy, mà Lê Đạt cứ ba hoa, khóc lóc đòi cứu thế, thì ai mà không bật cười cho được? Ai mà không tức giận?

Từ mười ba, mười bốn năm nay, tiếp theo Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi vĩ đại, cuộc xây dựng đất nước còn nhiều thành tích lớn, có phải là ở dưới thời Pháp thuộc, còn có người chưa biết Đảng nữa đâu; tại sao Lê Đạt bây giờ còn rướn người lên như Lê Đạt đây dẫn dắt cuộc đời? Tại sao nhân dân quần chúng đã nắm lấy chính quyền của mình qua sự lãnh đạo của Đảng, mà Lê Đạt vẫn không chịu tích cực và cụ thể làm việc, lại cứ rên siết ăn vạ, nếu chẳng phải là Lê Đạt không chịu công nhận cuộc đời mới này mà chúng ta đang xây dựng? Gần đây, Lê Đạt đã thú nhận rằng Lê Đạt đã tự cho chính mình là lương tâm của thời đại, chính mình thông minh hơn Đảng. Trước khi con ễnh ương vỡ bụng, thì đã có lúc nó kêu to ì ộp!

Cùng với Trần Dần, Lê Đạt đã mở sách ra đọc, học đòi Mai-a-kốp-ski một cách lố bịch. Mai-a-kốp-ski là một nhà thơ lớn, cần phải học cái nhiệt tình yêu Đảng, bảo vệ chế độ Xô Viết của ông; mặt khác, theo tôi nghĩ, chúng ta sống sau Mai-a-kốp-ski ba mươi năm, chủ nghĩa cộng sản và những tác phong cách mạng đã có những bước tiến bộ mới; sao cứ nhại cho được “cá tính” của Mai-a-kốp-ski? Mai-a phải đâu là không có những nhược điểm mà chúng ta không nên học? Chẳng qua là Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm lợi dụng Mai-a một cách tội lỗi; Lê Đạt đã xoen xoét ca ngợi được Đảng để rồi phản bội, thì họ có từ một cái gì! “Bệnh vĩ đại” của Lê Đạt quả là to! Sau khi nói đến Mai-a-kốp-ski và Beethoven, Lê Đạt tự vỗ vào ngực: “Thật là an ủi và sung sướng được làm người cùng với những con người như thế”. Chúng ta nói: “Những người như thế làm vinh dự cho con người” [4] . Nhưng Lê Đạt thì lại chỉ muốn làm người cùng với những cỡ như Mai-a và Beethoven thôi, chứ còn với quần chúng bình thường vô danh, thì Lê Đạt không muốn cùng làm người. Bây giờ chúng ta có thể tạm đếm lại những thứ áo mà chủ nghĩa cá nhân ở Lê Đạt đã vơ lấy đắp vào thân: áo chiến sĩ, áo đảng viên, áo anh hùng, áo cứu thế, áo thiên tài…


Còn nhiều biến hoá

Ở đây, tôi không nói lại nữa về trường hợp bài thơ vu khống chế độ ta: bài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” nằm to tướng trên số 1 báo Nhân văn; một bài thơ chính trị phừng phừng một căm thù giai cấp đối với chế độ, mà nhiều người đã vạch ra rồi.

Trong bài “Cửa hàng Lê Đạt”, cái hằn thù giai cấp đó còn bốc lên ác liệt hơn, tinh vi và toàn diện hơn; chủ nghĩa cá nhân tư sản của Lê Đạt, trong bài này, không phải chỉ thương thân tủi phận, mà chính trong lúc đó nó làm như đang hấp hối rẫy chết, cũng là lúc nó hằn học, xỉa xói, dùng nhiều mánh khóe giảo quyệt chống đối chế độ. Những mánh khóe này không ai còn lạ gì. Cái lưỡi Nhân văn sáng tạo ra quay quắt khá nhiều thứ giọng. Thoạt đầu là giọng thách thức, khiêu khích:


Lê Đạt nào?
Chán thơ thẩn rồi sao
mà lại về mở hiệu
Hay vợ đau con yếu
Làm thơ không đủ tiêu
Hay bị phê bình, kiểm thảo
Giờ như chim phải tên
Động thấy cây cong là sợ
Hay thơ tồi
không người tiêu thụ
Phải bán ki lô

Rồi Lê Đạt chặn họng ngay những người nào sẽ phê bình anh ta, gọi họ là “mác-xít thiên binh”, là lang băm chứ không phải ngành y tế. Trước đây, ở tập Thế giới này là của chúng ta, trong khi Lê Đạt mới về thủ đô, đã vội vàng bán văn cho tên lái Minh Đức, viết ngay một tập sách đứng lên làm lãnh tụ giáo dục thanh niên, và khi bị báo Tiền phong vạch ra, thì Lê Đạt cứ ngang nhiên chửi người khác là hoà bình chủ nghĩa, “chết đuối trong đũng quần đàn bà”. Ở “Cửa hàng Lê Đạt”, Lê Đạt đang lừa đảo người ta, Lê Đạt dõng dạc kêu:


Đồng chí ở sở thuế
Hãy phạt nặng bọn lái văn “Mỹ ký” [5]
Chuyên buôn giả tình người

Mới mở “cửa hàng” ra, Lê Đạt đã theo đúng quy luật tư bản chủ nghĩa, rêu rao cạnh tranh: “Bao nhiêu chỗ ngon người ta cắm trước”; đã dèm pha các “hiệu” cũ hai, ba mươi năm; chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng: “Chưa có tiếng tăm – rồi sẽ có tiếng tăm”; ấy thế mà Lê Đạt lại kêu người ta ghen ghét mình:


Dưới mặt trời
thiếu gì chỗ đứng
Mà phải nguýt lườm
Phải huých lẫn nhau

Thật đúng là bọn Nhân văn, lấy sự gian dối làm khuôn, làm phép! Và Lê Đạt doạ Đảng là mình đây có lực lượng, khoe rằng phe cánh của mình đông, có nhiều “nhân tài”; Lê Đạt ra ở riêng, thì nào “Ôm lấy bóng đèn Văn Cao vẽ một con mắt đỏ”, nào “ngoài cửa hàng Trần Dần treo quả tim đồ sộ”, nào “hôm khai trương Hoàng Cầm giọng oanh vàng đất Bắc sẽ đến ngâm thơ”, nào “Phùng Quán Vượt Côn Đảo về”, v.v… bao nhiêu là kẻ “còn tim đòi rung, còn đầu đòi nghĩ”! Và Lê Đạt mị dân, khêu gợi vào đời sống hiện nay còn eo hẹp của cán bộ, làm như chăm sóc cho họ hơn là Đảng và Chính phủ; Lê Đạt lại ca tụng cửa hàng của mình là rộng rãi phóng khoáng, có đủ thứ vui thú cần dùng, “mới về nhiều thứ thuốc chữa liệt tim”; và bao trùm tất cả, vẫn là cái kiêu ngạo bảo thiên hạ “mang thơ tôi làm gậy chống lên đường”. Tất cả bài thơ là giọng lưỡi của một kẻ khiêu khích, khi bù lu bù loa thảm thiết, khi cười sằng sặc, khi trợn mắt tức giận, khi phồng mồm huênh hoang, có doạ dẫm, có van vỉ, tận dụng cái kỹ thuật “tác động tinh thần”.

Có một điểm hay hay, chứng minh cho quy luật trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa, là trong khi Lê Đạt hươi kiếm múa những loại thơ như trên kia, thì Phan Khôi đứng vỗ tay; ông già tỏ ra thích chơi chống bỏi, làm ra bộ “mới” lắm, gần với thanh niên; Lê Đạt tung, thì Phan Khôi hứng: “Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ này cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt; Những kiếp người sống lâu trăm tuổi, - Ỳ như một cái bình vôi…” [6] Thật là vinh dự cho Lê Đạt, được Phan Khôi che tàn!

Trên đây, tôi vạch những cái đội lốt của Lê Đạt, những phương pháp, mánh khóe của một kẻ cờ gian bạc bịp biến hoá lắm trò. Nhưng tôi cần phải nhắc lại, nhấn mạnh vào cái bản chất tư tưởng tư sản, cái bản chất giai cấp tư sản của Lê Đạt; dù biến hoá thế nào, dù có tung ra nhiều bọt nước miếng để giả làm mây, thậm chí giả làm cầu vồng lắm màu, chủ chốt vẫn là một cái lưỡi cày không thay đổi: lập trường tư sản phản động, trước hết chống đối chế độ ta về chính trị. Câu kết trong nhóm Nhân văn–Giai phẩm, Lê Đạt say sưa chống Đảng ta, bản chất tư tưởng của Lê Đạt không dung hoà, không đội trời chung với giai cấp vô sản. Cho nên khi Lê Đạt làm thơ “ca ngợi” chế độ, thì thật là giả tạo ra khắp các lỗ chân lông; đến khi làm thơ đả kích chế độ ta, thì thật là say sưa xuất phát tự đáy lòng, một cái lòng đen tối, bạc ác. Đứng lên lập nhóm Giai phẩm mùa xuân, cùng với Nguyễn Hữu Đang làm bộ óc của báo Nhân văn, đứng làm “nhà lý luận” của bọn chống chế độ, Lê Đạt là một tay cổ vũ trong bọn đó, bởi “nhiệt tình” chống Đảng sâu sắc của mình. Sau khi báo Nhân văn bị cấm, Lê Đạt liên lạc, câu kết với Thụy An, Lê Đạt đóng vai trò quan trọng trong việc lũng đoạn Hội Nhà văn, Lê Đạt tích cực dùng ngòi bút viết lối văn hai mặt; Lê Đạt luôn luôn giữ một cương vị đứng chủ trường phái; mãi đến trong lớp học văn nghệ lần thứ hai (tháng 3 và 4-1958) vẫn còn tìm cách quay quắt. Cho nên, xét Lê Đạt, ta phải nhìn thấy cho hết, rằng Lê Đạt chống đối ta, phá hoại ta từ trong bản chất giai cấp thù địch.


Rơi trên ghế đá

Trong thời gian qua, Nhân văn–Giai phẩm tung ra một tập tục mà một số bạn trẻ nhẹ dạ cũng bắt chước, là: làm thơ về sự làm thơ, tự tán dương mình là thi sĩ thế này thế nọ, một cuộc “tự cho mình đi tàu bay”! Hồ Chủ tịch, trong Đại hội Văn nghệ lần thứ hai, có khuyên văn nghệ sĩ lấy đức tính khiêm tốn làm đầu. Nhóm Nhân văn–Giai phẩm thì thực hiện một cái đạo đức hoàn toàn ngược lại: nói khoác, kiêu ngạo càng nhiều càng hay! Lê Đạt cùng với Trần Dần, là hai người dùng ngực mình làm phèng phèng hăng nhất: theo sau, Phùng Quán cũng tự thổi kèn về mình. Họ thuyết rất nhiều về bản thân thi sĩ siêu nhân của họ, về thơ của họ làm lớn con người. Trần Dần nói: “Tôi đứng mênh mông chỉ mặt ngài Ngô”, nhưng thực chất, Trần Dần có chỉ mặt ngài Ngô đâu! Chỉ thấy anh ta “đứng mênh mông” như một cái bong bóng to bằng quả đất. Lê Đạt đòi Đảng điều động anh “vào bộ tâm hồn quần chúng”, trong khi Lê Đạt thực tế làm y hệt những công việc “tác động tinh thần”. Cái núi giả chuyển bụng ầm ỹ và đẻ ra một con chuột chù.

Nếu Bài thơ trên ghế đá chỉ là một tâm trạng bi quan, dao động, thì chúng ta phê bình giúp đỡ, coi như cái bệnh thường mắc phải của người tiểu tư sản sợ thực tế. Nhưng tập thơ này là cả một hệ thống có ý thức phá hoại tinh thần từ đầu chí cuối. Chúng ta thấy, với cái chế độ chính nghĩa, nhân đạo của ta, biết bao nhiêu người xưa kia trộm cướp đã bỏ tà qui chính, những gái điếm cũng kiếm nghề lao động, những kẻ trước đây cờ gian bạc lận cũng tự mình làm ăn lương thiện: sống trong chế độ ta, họ không chịu giở những ngón lừa dối mà họ đã dùng với chế độ cũ. Lê Đạt thì trái lại; anh ta vẫn cứ “đầu thai nhầm chế độ”; giữa nền văn học cách mạng của ta, cứ làm hệt như dưới thời Pháp thuộc, coi cách mạng chưa hề có, xã hội chưa hề thay đổi; cố tình tiêu tiền chế độ cũ trong chế độ mới của ta: rõ ràng là Lê Đạt ngang nhiên gian lận!

Ví dụ bài “Đu”. Trong thời Pháp thuộc, nếu có đôi trai gái nào đang đánh đu, nghĩ rằng giá hai người bay bổng luôn trên trời, thì đó có thể là một ý ngộ nghĩnh [7] , tìm một giải thoát tiêu cực. Nhưng giữa miền Bắc nước ta hiện nay, Lê Đạt đánh đu bay tuốt như thế, dụng ý gì? Lại còn bảo rằng sẽ hoá hiện thành hai ngôi sao mới không có trong sách thiên văn. Đó là một sự khiêu khích!

Người ta ai cũng có lúc buồn; buồn mà bao hàm một ý muốn cố vươn lên, thì lại có ý nghĩa giáo dục. Nhưng cái buồn thảm, cái mòn mỏi trong Bài thơ ghế đá là một cuộc đánh tiêu hao vào nghị lực, vào tin tưởng. Chủ nghĩa nhân văn cộng sản của ta là một chủ nghĩa nhân văn cao nhất, bởi nó ca ngợi hàng triệu triệu những con người trung bình, đặt vinh quang vào những công việc vô danh, những phấn đấu hàng ngày; chúng ta rất hiểu cái bếp nước của cuộc đời cách mạng, giải quyết những cái mắm muối nhất, rau dưa nhất, mà không coi thế là tủn mủn. Chúng ta là những người làm ăn rất cụ thể, chúng ta không sợ những đống tã của cuộc sống, của tình yêu, của gia đình! Người nào muốn lớn, thì phải tổ chức được, cải tạo, chiến thắng được những cái nhỏ đó! Nhưng Lê Đạt thì đưa đống tã ra mà doạ thiên hạ: “Chết đuối trong những lo toan nhỏ nhặt”, “Một củ dưa hành một chai nước mắm – Cái soong cái chảo tính cộng trừ - Chắp nối cho vừa khít hai đầu tháng”, “Nhiều dự định sa lầy trong đống tã”, “tình yêu bị những cái hàng ngày bóp cổ”. (Bài “Gia đình”). Nếu không có cái đời sống bình thường hàng ngày, thì hôm nào cũng đẻ ra trái đất như Lê Đạt chăng? Cái vấn đề là phải nâng đời sống hàng ngày ấy lên, bằng tăng hiệu suất lao động, bắng sắp xếp hợp lý những việc trong nhà, bằng giáo dục một phương pháp tư tưởng, một nhân sinh quan độ lượng, phóng khoáng, bằng cách chữa cái tính eo sèo tẹp nhẹp tiểu tư sản, nghĩa là bằng phấn đấu cụ thể hằng ngày; chứ không phải chết khiếp trước củ dưa hành, hay chai nước mắm. Vì những người như nhóm Nhân văn–Giai phẩm thì có con đường bán hồn cho giai cấp tư sản, đi tìm say sưa giải thoát ở các tiệm trà, tiệm rượu, ở quanh bàn đèn thuốc phiện; chứ nhân dân lao động bình thường, bảo họ vứt đời sống thường ngày khiêm tốn của họ, thì họ đi tìm xa hoa, lộng lẫy ở đâu? Đời sống của họ tuy còn eo hẹp, khó khăn, nhưng chính bàn tay họ sẽ dần dần tự cải thiện, còn đẹp đẽ gấp mấy nghìn lần cái máu tham, cái bệnh khát vàng của giai cấp tư sản! Lê Đạt kêu rêu như vậy, dụng ý gì? Những bài thơ xông thẳng vào những cái đau khổ mà nói, mà phấn đấu, chúng ta rất yêu, và đòi hỏi có nhiều thơ thể hiện ở mức cao như vậy. Nhưng Lê Đạt đưa những xót xa đau đớn ra và cho nó thắng trận, bắt chị chỉ huy du kích dũng cảm trong kháng chiến, bây giờ lấy chồng rồi, thì “len lét cúi nhìn xuống đất”, “chồng đánh chửi như cơm bữa”; bắt một chị phụ nữ sau một năm lấy chồng không hợp, không thể nào yêu chồng được nữa, mà không dám ly dị, “mỗi ngày qua là mỗi ngày tự tử - bóng tối trùm lên như nấm mộ - nghe hơi sống trên người lạnh đầu”, dựng lên những người đầu hàng, chết đứng như vậy. Lê Đạt đưa người ta vào con đường tuyệt lộ, tắc tỵ: hai người yêu nhau mà không nói, mỗi người lấy vợ, lấy chồng, có con, Lê Đạt bắt một người chết đi, để cho người kia đến thăm mộ mới nói được mối tình! Chủ nghĩa cá nhân tư sản miệng thì hùng hổ cho mình là ghê gớm, vĩ nhân, óc khỏe hơn tất cả những người lực sĩ mang nặng, khai lối mở đường cho loài người, nhưng trong ruột chỉ có sự trống rỗng, sự nhát hèn, chỉ cần bị một mỗi kim chích cho, là quả bong bóng nằm bẹp dí thảm hại. Lê Đạt đã lộ hết cái cốt yếu hèn của mình, trong thơ chỉ doạ chết với lăm le: “Cổ họng mơ lưỡi dao ngọt sắc”. Hơi tử khí xông lên. Trong bài “Biển với người”, tưởng rằng con người lướt gió cưỡi sóng ra sao, té ra: Biển gặp người trên con tàu, thì cho gọi gió về, và tung sóng lên “bắt người về với biển”:


Xác chết không còn tình
Biển lạnh càng thêm lạnh

Tư tưởng của những giai cấp bóc lột, khi bị quần chúng dồn vào chân tường, thì một là phá hoại điên cuồng, hai là tìm cái chết trong những khoái lạc cuối cùng. Bài thơ trên ghế đá đầy một điệu hưởng lạc, chết lịm trong tình yêu. Cái con người đòi vần trái đất theo con đường cộng sản ấy, đưa ra cái hình ảnh Trình Giảo Kim xưa “mỗi lần ngửi hơi đất mẹ, lại thấy gấp muôn lần khỏe”, tưởng anh ta sẽ ví với người cán bộ mỗi khi hoà mình vào quần chúng, lại thấy sức lực hồi lại nghìn lần; đó là bài học cổ điển của người cộng sản; nhưng không! Cái “đất mẹ” của Lê Đạt không phải là nhân dân mà chỉ là “em”, em tiếp hơi cháy bỏng cho! Lê Đạt đã từng đề ra một châm ngôn [8] : “Ăn như tư sản – Sống như Lão, Trang – Viết như vô sản”. Ăn thật khoái mồm, sống thật bàng quan, và viết thật cách mạng. Đó là tâm lý con buôn trắng trợn, giành lấy phần sướng, phần lợi nhất trong mọi lĩnh vực. Kiểu tìm cái sướng của Lê Đạt là lối hưởng lạc trối già, trối già không phải của tuổi tác, mà trối già của những giai cấp rẫy chết, bị lịch sử lên án. Trong bản thảo đánh máy của Bài thơ trên ghế đá đưa nhà xuất bản Hội Nhà văn, có bài thơ “Trong hầm bí mật” về sau không in vào sách, rất tiêu biểu cho cái triết lý “máu, sướng và chết” của Lê Đạt. Lê Đạt bày ra một cảnh đôi trai gái gặp nhau trong hầm bí mật, trong khi tiếng cuốc của giặc phá hầm rào rào trên đầu. Trước cái nguy cơ đó, đáng lẽ người ta chuẩn bị một mất một còn với giặc; nhưng Lê Đạt thì lại cho hai người ôm ghì lấy nhau, lấy cái chết ở trên đầu làm một cái kích thích bệnh hoạn!

Lê Đạt vẽ ra một cán bộ xa vợ lâu ngày, đêm nằm hầm bí mật, nghĩ đến vợ, “Quên mặt, sợ mơ nhầm người khác”. Một câu thơ lộ hết cái mặt gian xảo của Lê Đạt. Những hình ảnh Lê Đạt đưa ra cũng làm người ta ghê rợn; không còn một chút trang trọng tối thiểu đối với cơ thể người phụ nữ: “Con cái sắp hàng dưới vú”, “Gầy guộc vú dài theo kháng chiến”. Đó là tôi chưa nói Lê Đạt lố bịch về phương diện thẩm mỹ, ví dụ:


Như có cô văn công nào
múa nhảy
trong lòng

Khi người ta nói: có một con chim hót ở trong lòng, thì hình ảnh xinh và hợp; trái tim, tấm lòng chỉ vừa đựng một con chim bay bổng nhẹ nhàng. Chứ còn cái tấm lòng của Lê Đạt, mà có cả một cô văn công múa nhảy ở trong, thì có hoạ là sân khấu Nhà hát nhân dân!

Bài thơ trên ghế đá còn có dã tâm gì nữa? Có dã tâm đả kích Đảng. Cho Đảng là phao phí nhân tài (“Con búp bê”, “Tình người”); ví Đảng như một anh thợ cầu già chưa vợ, bắc rất nhiều cầu, xây dựng kinh tế được nhiều đấy, nhưng “chưa bắc qua được một lòng người”. Hàng triệu lòng người đã nhờ Đảng mà tái sinh, yêu Đảng sâu sắc; nhưng cố nhiên lòng của bọn Nhân văn–Giai phẩm thì chỉ có giai cấp tư sản phản động mới bắc được cầu.

Đọc tập thơ này, ta chỉ có thể nói là: y hệt như công việc “tác động tinh thần” của địch. Rơi thảm hại xuống như thế.


Một bài học

Nhà xuất bản Hội Nhà văn, dưới sự lũng đoạn của Hoàng Cầm, in tập thơ Ghế đá, chúng ta không lạ. Nhưng một luồng thơ xấu như thơ Lê Đạt, bị công chúng căm về nội dung, ghét về hình thức, mà tại sao vẫn còn một nhóm người thưa thớt nào đó ra vẻ ưa thích? Điều này cũng dễ hiểu thôi. Đây là một vấn đề giai cấp xã hội, vấn đề hệ loại tư tưởng. Một anh cán bộ văn hoá đã bộc lộ rằng khi anh đọc thơ Lê Đạt cho một số thanh niên cao bồi ở Hà Nội, thì họ mới nghe thoáng qua, chưa hiểu rõ từng câu, họ đã thích ngay. Cái màu cá nhân anh hùng rẻ tiền, càn quấy ngổ ngáo của cao bồi đã gặp Lê Đạt là phát ngôn nhân của họ. Thơ Lê Đạt rất nhiều “cá tính”, thích đập phá vô chính phủ, bán trời không văn tự, chống đối lập trường và kỷ luật xã hội chủ nghĩa, thì nhất định là được cao bồi, những sản phẩm còn rớt lại của văn hoá Mỹ, đồng thanh tương ứng. Một sinh viên khi kiểm điểm mình đã bị nọc độc Nhân văn, cũng nói: “… Lê Đạt mới thật là ‘nhà thơ của mọi thời đại’. Nhìn anh tôi thấy thích thích. Râu ria tua tủa không thèm biết cái lưỡi dao bào, áo quần xốc xếch như tôi, như tất cả những người còn bận tâm vì lý tưởng, nói ba hoa, cười hơ hớ. Đúng là dáng dấp của một nhà thơ”. Nhưng Lê Đạt và nhóm phá hoại Nhân văn–Giai phẩm không dựa được trên chân lý, trên chính nghĩa; cái cơ sở giai cấp mà họ đưa vào cũng đang phân hoá; những cao bồi đã học tập ba nên hai chống; một số ít sinh viên lầm lạc sau khi học tập cải tạo chính trị, đã tỉnh ngộ; các văn nghệ sĩ vạch chân tướng của bọn phá hoại. Văn nghệ là nơi đòi hỏi sự chân thật hơn ở đâu hết, một chút giả dối nào chóng chầy cũng tòi ra. Những con người như Lê Đạt không thể kiếm chác lâu, lừa bịp lâu được.

Lấy một Lê Đạt ra làm ví dụ của thứ “văn nghệ” Nhân văn–Giai phẩm, chúng ta đã rút một bài học cảnh giác với chủ nghĩa cá nhân tư sản có nhiều biến hoá mưu mánh. Rút kinh nghiệm cuộc đấu tranh này, chúng ta sẽ vạch tính cách giai cấp phản động của nó, bất cứ nó lẩn lút ở đâu; chúng ta cần tiếp tục quét tan chủ nghĩa xét lại và tư tưởng của nhóm phá hoại Nhân văn–Giai phẩm để xây dựng nền văn học cách mạng.

5-58


_______________________________________________________

[1] Tuần báo Văn nghệ số 69 và 70 (tháng 4 và 5-1955)

[2] Tiếng Pháp có chữ délire de grandeur, một thứ bệnh tâm lý thích tự cho mình là lớn lao vĩ đại, ví dụ: tưởng mình là Nã Phá Luân, v.v…

[3] Ngặt: nghèo ngặt.

[4] “Tựa” tập thơ dịch Mai-a-kốp-ski (Nhà xuất bản Hội Nhà văn)

[5] Mỹ ký: là một hiệu ở Hà Nội, làm hàng mạ vàng, mạ bạc rất khéo, y như thật.

[6] Bài “Ông bình vôi” của Phan Khôi (Giai phẩm mùa Thu tập II)

[7] Nguyên văn chính tả: ngộ nhĩnh. Chúng tôi cho rằng văn bản gốc có thể có lỗi in ấn (talawas).
[8]Nguyên văn: trâm ngôn. Chúng tôi cho rằng văn bản gốc có thể có lỗi in ấn (talawas).

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ, số 13, tháng 6 năm 1958, trang 33-45. Bản điện tử do talawas thực hiện.  Nguồn: Talawas.org http://www.x-cafevn.org/node/397 
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT - 30.08.2007 01:25:04
Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1)

50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.

Nói đúng ra thì năm 1956 chỉ là năm cuối của giai đoạn 5, tức cũng là giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất đã bắt đầu bẩy năm trước đó. Tuy nhiên, mốc thời gian này đáng nhớ thứ nhất vì cuộc cải cách ruộng đất đến năm đó đã đụng trần, với những án tử hình thi hành tại chỗ, những án tù dài hạn, mà hầu hết nạn nhân đều chết trong khi đang bị giam cầm, và một bầu không khí nặng nề, đe doạ đã lan rộng khắp nơi, khiến ngừơi dân phải chìm đắm trong nỗi e sợ mênh mông.

“Đào tận gốc, trốc tận rễ”

Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.

Con số này có thể không chính xác, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành, và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thừơng thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản muôn năm.

Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong số 172.008 ngừơi bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%. Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.

Nhà thơ Tố Hữu lúc bấy giờ là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”



Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org



Lời dặn “nhân ái”

Trong “Nội san cải cách ruộng đất” số ra ngày 25 tháng hai năm 1956, có đăng toàn văn lời căn dặn của ông Hồ Chí Minh rằng: “Nhục hình là lối dã man” và “ tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của đảng, của chính phủ, trái tác phong của cách mạng.”
Căn cứ trên thời gian phát hành của báo, thì lời căn dặn “nhân ái” này được đưa ra bốn năm sau khi bắt đầu thực hiện thí điểm, và chỉ ba tháng trước khi cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt bằng đợt sửa sai. Khi đó, nhục hình đã phổ biến khắp nơi và sự sợ hãi đến mụ mẫm cả người đã bao trùm toàn lãnh thổ.

Cũng xin nhắc rằng ngay từ khi thực hiện thí điểm, địa chủ đã bị xác định là kẻ thù của nhân dân, như lời ông Nguyễn Minh Cần, nguyên phó chủ tịch thành phố Hà nội kể lại: "Trước đây, chúng ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, nhưng bây giờ thì không phải như vậy rồi. Bây giờ thì địa chủ không phải là nhân dân. Nhân dân chỉ là nhân dân thôi, còn địa chủ thì không phải, đó là những ngừơi chống lại nhân dân, là kẻ địch của nhân dân."
 
Không chỉ những nạn nhân đau đớn, mà gia đình họ cũng chịu hoạ lây vì bị xã hội cô lập theo chính sách của đảng. Không chỉ gia đình của những người bị kết tội địa chủ phải chịu nhục nhằn, mà những cảnh tượng diễn ra hàng ngày ở mọi nơi những năm đó vẫn còn in dấu cả mấy chục năm sau nơi những chứng nhân.

Ngay trong đề cương báo cáo của bộ chính trị đảng năm 1956 mỗi khi nói đến các cuộc thanh trừng thời cải cách ruộng đất cũng đều phải dùng hình dung từ “tàn khốc” để nói lên những gì xẩy ra hàng ngày, hàng giờ tại miền bắc trong suốt mấy năm trời cao điểm của Cải cách ruộng đất.
Nhà văn Dương Thu Hương trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái của Little Saigon Radio mới đây vẫn còn nhắc lại: "Đối với tôi, lý tưởng Cộng sản là một cái gì đó khủng khiếp và xa lạ. Vì ngay trứơc cổng nhà tôi là một người chết treo năm cải cách ruộng đất, và tám tuổi, tôi đã phải đi theo các đoàn học sinh để chứng kiến những cụôc đấu đá địa chủ. Sau lưng nhà tôi, đừơng tàu, cũng là xác một ngừơi tự tử chết bằng cách tự đặt cổ mình vào đường ray. Khi tôi tám tuổi, buổi sáng tôi đi tưới rau, tôi đã thấy những ngừơi chết đó, và điều đó làm cho tôi vô cùng khủng khiếp."
 
Và nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng trong một cuộc phỏng vấn của ký giả Đinh Quang Anh Thái, khi nói lên lý do tại sao ông muốn từ bỏ chủ nghĩa Mác đã phát biểu: "Tôi nhận ra cái điều này cũng lâu rồi, mà nhận từ từ, bởi vì tôi đã đựơc chứng kiến cụôc cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc mà gia đình tôi là nạn nhân. Tôi thấy nó rất là khủng khiếp. Tôi không hiểu cái chủ nghĩa gì mà nó chỉ có một biện pháp duy nhất là trấn áp ngừơi ta, mang người ta ra đấu tố và bắn bỏ ngừơi ta, mà không có xét xử công minh, cũng không có bằng cớ gì cả. Cuộc cải cách ruộng đất là một cuộc diệt chủng như là Pon Pot và Yeng Sari (đã làm bên xứ chùa Tháp) mà thời đó tôi đã chứng kiến.
 
Gia đình nhà tôi may mắn là ông nội tôi và các chú các cô, toàn bộ đã di cư vào nam. Bố tôi là con trưởng nên phải ở lại để giữ đất, cho nên không di cư đựơc, phải gánh chịu cái tai hoạ của ông nỗi cũng như các chú, một mình phải chịu trận, cho nên rất là khổ."
 
Còn nhà văn Vũ Thư Hiên mới đây, khi nói chuyện về cuộc cải cách ruộng đất với đài Á châu tự do, đã nhớ lại lời bà cô của ông dặn dò như sau: "Tôi có một bà cô ruột ấy, chồng bà cũng bị đấu, mà ông ấy là chủ nhiệm Việt Minh của một xã, mà lại có chân trong Liên Việt huyện, Liên Việt tức là Mặt Trận Tổ Quốc bây giờ. Ông ấy bị đấu, bị giam trong chuồng trâu chuồng bò, nói chung là khổ lắm, rồi ăn uống kém cỏi, đến lúc đựơc thả về nhà thì ông ấy chết, chết tại nhà. Bà cô tôi chỉ nói, cháu ạ, mình phải lựa bạn mà chơi. Cái bọn Cộng sản nó gian ác và bất nhân lắm đấy. Tôi nói, nhưng bố cháu là Cộng sản cơ mà! (Bà cô trả lời) Thì bố cháu không hiểu, bố cháu mới đi với bọn ấy."

Vết thương chưa lành

Cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt 50 năm trước đây quả nhiên vẫn còn là một vết thương chưa lành đối với quá nhiều con người dù có trực tiếp là chứng nhân hay không. Đáng tiếc là những sách báo viết về giai đoạn ấy quá ít, lại thường bị tịch thu ngay sau khi phát hành, và dù 50 năm đã qua đi, thì cải cách ruộng đất vẫn còn là một đề tài cấm kỵ, trong khi những chứng nhân cứ già đi và chết đi dần.

Đó là lý do khiến ban Việt ngữ đài Á châu tự do chúng tôi quyết định thực hiện một loạt bài về cuộc cải cách ruộng đất để vẽ lại bức tranh thực xẩy ra của một thời mà không ai không xót xa khi nhớ lại.

Loạt bài sẽ bắt đầu với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng. Ông sẽ điểm lại tám đợt phát động quần chúng giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất kéo dài suốt bẩy năm kể từ năm 1949. Sau đó, là lời kể lại của ông Nguyễn Minh Cần là người từng trực tiếp tham gia đoàn cải cách ruộng đất cũng như công tác sửa sai.

Xen kẽ sẽ là lời kể của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện từng chứng kiến từ đầu đến cuối một phiên xử của toà án nhân dân, của ông Trần Anh Kim có ông nội và bố đều là nạn nhân của Cải cách ruộng đất, lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên khi ông có dịp qua những nơi đã diễn ra cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” ấy, của nhạc sĩ Trịnh Hưng là người bạn chí cốt của nhà thơ Hữu Loan, tác giả màu tím hoa sim, vốn là người mà những biến chuyển của đời sống gắn liền với cuộc cải cách ruộng đất.

Trước khi bắt đầu vào loạt bài cải cách ruộng đất kể từ buổi phát thanh tới, ban Việt ngữ trân trọng cảm ơn các vị vừa nêu tên đã nhiệt thành cộng tác và giúp đỡ chúng tôi trong cố gắng lật lại bộ hồ sơ đầy oan khuất này.

Quý thính giả vừa nghe bài đầu tiên trong loạt chín bài về cuộc Cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước. Trong buổi phát thanh tới, nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng sẽ nói về các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất kéo dài từ năm 1949 đến 1956. Mong quý thính giả đón nghe.

Thông tin trên mạng:

- Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất
- Cải cách ruộng đất - Wikipedia
- Land Reform in China and North Vietnam
- A Special Supplement: In North Vietnam (The New York Review of Book)
- The Solzhenitsyn of Vietnam
- Statistics Of Vietnamese Genocide And Mass Murder



Theo dòng câu chuyện:


http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/05/15/LandReform50YearsAgo_NAn/


<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.08.2007 02:16:13 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT - 31.08.2007 02:20:46
Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất : Phương Pháp Tiến Hành
    Trần Gia Phụng








 
Lời ngỏ : Ngày 25/1/2006, Hội Ðồng Âu Châu đã thông qua Nghị Quyết 1481 nhằm kêu gọi thế giới lên án những tội ác của các chế độ độc tài toàn trị cộng sản. Ðiều 7 của Nghị Quyết này đã viết : "Việc đánh giá về đạo đức và lên án các tội ác đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ trẻ".
 
Dưới sự thống trị của đảng CSVN từ hơn 60 năm qua tại miền Bắc và từ hơn 30 năm trên cả nước, dân tộc Việt Nam đã và đang là nạn nhân của một chế độ với những chính sách cai trị vô cùng khắc nghiệt như: Cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, cuộc tàn sát Tết Mậu Thân, chính sách tù cải tạo, đàn áp những tiếng nói dân chủ v.v....
 
Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Ðảng mong được góp phần cùng đồng bào trong việc phổ biến những tài liệu tố cáo tội ác của đảng CSVN.






 
Xã hội Việt Nam, cho đến nay, vẫn là một xã hội dựa trên căn bản nông nghiệp. Bất cứ nhà cầm quyền nào tại nước ta đều phải giải quyết những vấn đề do nền nông nghiệp lạc hậu của chúng ta đặt ra, hầu tìm kiếm những giải pháp thích hợp để thăng tiến đời sống của nông dân, một thành phần chiếm khoảng 70% dân số hoạt động. Cộng sản Việt Nam lại càng chú trọng đến vấn đề nầy hơn nữa, vì lý thuyết Mác xít dùng yếu tố kinh tế để giải thích những vận động của lịch sử. Căn bản của yếu tố nầy là quan hệ sản xuất giữa chủ và thợ, mà ứng dụng vào xã hội nông nghiệp là quan hệ giữa chủ đất (điền chủ hay địa chủ) và dân cày (nông dân hay tá điền). Hơn nữa, do ảnh hưởng chủ thuyết của Mao Trạch Ðông, lấy nông thôn bao vây thành thị, nên khi nắm quyền tới đâu, cộng sản Việt Nam tổ chức cải cách ruộng đất (CCRÐ) tới đó, để tập họp sức mạnh nông dân và cô lập giới phú hào.

Trần Gia Phụng
 
>>>>>>>>>>>>>>>>
 
Từ 1949 đến 1956, Việt Minh (VM) cộng sản mở năm đợt cải cách ruộng đất (CCRÐ). Sau mỗi đợt, VM tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu (1949 và 1950), VM thực hiện cải CCRÐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh chiến tranh.
 
Năm 1949, Mao Trạch Ðông và đảng Cộng Sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH). Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh (Beijing) và Mạc Tư Khoa (Moscow) xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc:
  thứ nhất tái công khai đảng cộng sản
  thứ hai đẩy mạnh CCRÐ theo đường lối cộng sản. Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang CHNDTH học tập phương pháp CCRÐ triệt để vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn bình thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới CHNDTH.
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Ðại hội lần 2 đảng Cộng Sản Ðông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao Ðộng (LÐ) ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong Ðại hội nầy, Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Ðộng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Ðông làm kim chỉ nam... Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin." (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 150,152.) Chẳng những thế, cũng trong Ðại hội này, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: "Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể sai được." (Nguyễn Minh Cần, Ðảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63).
 
Ðể tiến hành CCRÐ, sau Ðại hội 2, VM cử người sang CHNDTH tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lê-nin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng Sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRÐ theo đường lối CHNDTH. Phái đoàn này trở về liền được đảng LÐ gởi tổ chức thí điểm CCRÐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức"(1) ở vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
 
Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản cao cấp miền Nam tập kết ra Bắc, đã có mặt trong phái đoàn Việt Nam sang Bắc Kinh học tập CCRÐ. Về nước, ông Trấn tham gia công tác tại thí điểm Thanh Hóa, và nhận xét rằng cuộc phát động CCRÐ tại Thanh Hóa xem ra không thành công. (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 164.) Sau lần thử nghiệm ở các thí điểm trên, VM rút kinh nghiệm và chuẩn bị kỹ lưỡng bài bản thực hiện cuộc CCRÐ một cách chu đáo triệt để.
 
Trong khi đó, từ năm 1949, ban lãnh đạo VM đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh quân" trong quân đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. "Rèn cán chỉnh quân" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. "Rèn cán chỉnh cơ" là rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn cơ quan. Phong trào nầy không đạt được những mục tiêu do VM đề ra. Việt Minh liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của CHNDTH, tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm 1950.
CHỈNH HUẤN:
Theo nghĩa tầm nguyên, "chỉnh" là sửa đổi, sắp xếp; "huấn" là dạy dỗ. Chỉnh huấn có nghĩa là dạy dỗ, huấn luyện và sửa đổi (con người) cho đúng hơn, tốt hơn theo đường lối cộng sản. Phong trào "chỉnh huấn" của CSVN nhắm mục đích thanh lọc đảng viên, củng cố tư tưởng chuyên chính vô sản, và hỗ trợ cho cuộc CCRÐ. Lúc đó VM nhận định: "Phần lớn [cán bộ, đảng viên lúc đó] là tiểu tư sản trí thức, công chức cũ, có người xuất thân giai cấp bóc lột, và không loại trừ người "hai mặt chui vào đảng". Nói chung, anh em ta, trót đã thụ hưởng giáo dục của đế quốc tư bản thì sự tham gia cách mạng không khỏi có phức tạp. Huống chi nay lại còn có Cải cách ruộng đất để bồi dưỡng cho nông dân để đảm bảo cho cuộc kháng chiến thắng lợi, thì biết đâu tư tưởng của họ không biến đổi phức tạp hơn nữa. Vậy nên Trung ương cho mở cuộc vận động chỉnh huấn nầy để tiếp tục giáo dục, để cải tạo họ một cách triệt để, cho họ phân rõ địch ta trong tư tưởng, cho họ...cho họ nào là tự mình cắt đứt mối liên hệ với thành phần xuất thân, dứt khoát từ bỏ các thứ tư tưởng cầu an hưởng lạc, tự tư tự lợi..." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 171-172).
 
Nói theo ngôn ngữ của cộng sản, chỉnh huấn là tự phê, tự kiểm. Như vậy chỉnh huấn có nghĩa là tự suy nghĩ và nhận xét về những tư tưởng, hành động cũ của mình trong đời sống đã qua, mà không thích hợp với đường lối cộng sản. Những tư tưởng và hành động này bị xem là sai lầm, tội lỗi, được từng cá nhân tự giác ngộ, tự khai trình, và tự đề ra những biện pháp sửa chữa. Nói cách khác, chỉnh huấn là đoạn tuyệt với quá khứ và tự nguyện sống theo nguyên tắc cộng sản, hay cũng theo ngôn ngữ cộng sản, là lột xác để trở thành con người cộng sản. Những văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Xuân Khoát... đã tự phỉ báng mình, và nguyện theo cộng sản suốt đời. Sau đây là tâm tư của Xuân Diệu đáp lại lá thư của ông Hồ trong cuộc học tập chỉnh huấn:
 






  "Chúng con thề nguyện một lời,
Quyết tâm thành khẩn... lột người từ đây..."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn 1959, tr. 22)
Phong trào chỉnh huấn đã gây nhiều điêu đứng cho giới trí thức, văn nghệ sĩ. Một trong những điêu đứng rất mỉa mai, như lời ông Nguyễn Văn Trấn viết, đó là: "Họ nói khổ sở không phải là nói ra lỗi lầm, mà khổ sở là phải bịa ra lỗi lầm để bản kiểm thảo được coi là thành khẩn." (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 173.)
THÀNH PHẦN NÔNG THÔN:
Ðối với các thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các thành phần xã hội ở nông thôn như sau : (Bernard Fall, sđd. tr. 283)
 
Ðịa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực tiếp canh tác. Ðịa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc), địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Ðại Việt, hay thân Pháp.
Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác. Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).
Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô. Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc, không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống (Lâm Thanh Liêm, bđd. sđd. tt. 187-188).
Ðường lối đấu tranh cải cách là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ.
VẬN ÐộNG QUẦN CHÚNG:
Ðể lôi cuốn nông dân hưởng ứng cuộc CCRÐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:
  Thứ nhất: khích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ về thực hiện "tam cùng" hay "tam đồng" với bần nông, để "thăm nghèo hỏi khổ" và sau đó "bắt rễ, xâu chuỗi".
Theo VM, cán bộ cần phải tam cùng tức "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với dân chúng, để "thăm nghèo hỏi khổ", mới khám phá được rõ ràng những gia đình nghèo khổ, bần cố nông. Cũng theo VM, bần nông nghèo khổ nợ nần và sợ sệt các địa chủ, không dám nói lên sự thật, nên cán bộ phải "tam cùng" để họ thổ lộ tâm can, mới có thể "bắt rễ xâu chuỗi", tạo ra liên minh đấu tranh cải cách. "Bắt rễ" có nghĩa là tìm ra những bần cố nông có tinh thần đấu tranh, thường thường là những tên đầu trộm đuôi cướp hung hãn. Sau khi tìm ra "rễ", thì khuyến khích "rễ" tìm thêm đồng bọn, gọi là "xâu chuỗi". Một khi đã "bắt rễ xâu chuỗi", cán bộ sẽ cho bần nông biết là họ được nhà cầm quyền VM hỗ trợ để chống lại địa chủ.
 
  Thứ hai: Sau khi len lỏi "bắt rễ xâu chuỗi", và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy, nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Ủy ban hành chánh địa phương sắp xếp theo sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Ðây là cơ hội giải quyết những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho nặng tội.
 
  Thứ ba: Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Ðể việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LÐ, các bần nông được tổ chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.
 
Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRÐ, nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc, chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi ký kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRÐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ đình hoãn chứ không bãi bỏ.
 
Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng LÐ cai trị phía bắc vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng LÐ mở lại cuộc CCRÐ giai đoạn 5. Lần nầy việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Uỷ ban CCRÐ đứng đầu.
Ủy BAN CẢI CÁCH RUộNG ÐẤT:
Gồm hai cấp trung ương và địa phương.
Cấp trung ương:
Do tổng bí thư đảng LÐ là Trường Chinh Ðặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là Ủy viên Bộ chính Trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học CHNDTH, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.
 
Cấp tỉnh:
Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức các đoàn CCRÐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Ðội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm tham gia các CCRÐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh thẳng từ Uỷ ban CCRÐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó "nhất đội nhì trời", được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước. (Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185.)
 
Nguyên tắc hành động căn bản của các ủy ban CCRÐ là câu khẩu hiệu: "Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch." (2) Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu lương dân vô tội.
 
Ðoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRÐ hoạt động giống như thần chết: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật hành động... và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.




 


TÒA ÁN NHÂN DÂN:
Sắc lệnh năm 1953 cũng như sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những tội phạm trong CCRÐ. Tòa án này được tổ chức ở những vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lý (công tố) là một nông dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân, tá điền...) trong nhà của bị cáo, biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa này chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Ðặc biệt trong tòa án nhân dân không có người đóng vai trò luật sư biện hộ, và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ tòa án và những người tham dự đều là những người do cộng sản sắp đặt trước, hò hét khuyến khích người đóng vai "công tố", bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo thêm những "tội ác" của nạn nhân để làm bằng chứng.
 
Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu lý, rồi đấu lực, đến đấu pháp; có khi còn cả đấu ảnh nữa. Ðấu lý là đưa ra những bằng chứng hoặc có thực, hoặc bịa đặt để tố cáo nạn nhân. Ðấu lực là dùng sức mạnh để trấn áp (cộng sản mạo xưng là sức mạnh quần chúng), với cực hình tra khảo, đánh đập nạn nhân và bắt buộc nạn nhân phải nhận tất cả tội lỗi đã được đưa ra, dầu nạn nhân không phạm phải. Cuối cùng là đấu pháp tức đưa nạn nhân ra trước "pháp luật", tức tòa án nhân dân. Việc xét xử không dựa trên luật pháp của nhà nước, mà dựa trên những đòi hỏi tại chỗ của "quần chúng", tức là những người tổ chức và hiện diện tại "phiên tòa", nghĩa là chẳng có luật pháp gì cả, mà chỉ theo quyết định của đội cải cách.
 
Những người chứng kiến các cảnh đấu tố hiện còn sống kể lại nhiều cảnh tra tấn nạn nhân mà trong hoàn cảnh bình thường ngày nay không ai có thể tưởng tượng nổi: từ bỏ đói, bỏ khát, sỉ nhục, mắng chửi, hành hạ, thậm chí đào một cái hố bắt nạn nhân nằm xuống, rồi tiểu đại tiện lên người nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, đến dìm nước (rồi kéo lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn đâm xuyên thủng tay chân, thân thể...
 
Sau khi nạn nhân chịu khuất phục, đội cải cách cho tập dượt trước việc xét xử. Họ bắt buộc "chánh án, biện lý" và nạn nhân học thuộc tất cả những lời đối đáp qua lại, cho đến khi cả ba thành phần nầy (chánh án, biện lý và nạn nhân) nhuần nhuyễn, thuộc lòng mọi việc, mới chính thức mở phiên tòa xét xử công khai trước quần chúng.
Phiên tòa được tổ chức tại một địa điểm công cộng trong làng. Mọi người trong làng đều phải tham dự, kể cả gia đình nạn nhân. Nạn nhân bị trói thúc ké, tay quặt ra đàng sau lưng, quỳ trước mặt bàn quan tòa, đầu cúi xuống. Sau khi tòa lấy khẩu cung xong, dân chúng và nhân chứng đứng ra tố cáo "tội ác" của nạn nhân. Họ sỉ vả chửi rủa, nhổ nước bọt, hành hạ đánh đập nạn nhân. Ðôi khi ngay những người trong gia đình nạn nhân, cũng bị bắt buộc phải phụ họa với tòa án, tố cáo nạn nhân.
 
Cuối cùng viên "biện lý" dựa vào "bằng chứng" nhân dân vừa tố cáo, đứng ra buộc tội nạn nhân và đề nghị một bản án thích đáng. Thật ra, bản án này đã được đội CCRÐ quyết định trước rồi. Ðể có vẻ dân chủ, viên chánh án còn đưa bản án ra "hỏi ý kiến" nhân dân. Những nhân viên ban cải cách, các chức quyền làng xã, các quân sĩ bảo vệ phiên tòa có mặt tại hiện trường, liền tỏ ý hưởng ứng bằng cách vỗ tay, la hét, đưa vũ khí lên để ủng hộ. Dân chúng chẳng đặng đừng phải làm theo.
Bản án của tòa án nhân dân có tính cách chung thẩm. Nạn nhân không được kháng án, không được khiếu tố khiếu nại với ai cả. Nạn nhân không có cách gì để tự biện hộ, và chỉ cúi đầu chấp nhận kết quả bản án. Vì đã được thao dượt trước, nhiều nạn nhân biết trước kết quả bản án, nên có người đã tự tử trước khi tòa án thực sự tiến hành, để tránh kéo dài sự nhục nhã và đau đớn. Nhiều nạn nhân tự tử hoặc không chịu nổi những đòn tra tấn mà chết, nhưng gia đình không được đem đi chôn, để phơi nắng, phơi mưa giữa các cánh đồng. Gia đình nạn nhân đau lòng quá, hoặc phải hối lộ đội cải cách để được đem xác thân nhân đi chôn, hoặc ban đêm kiếm cách đánh cắp đem chôn một cách bí mật.
 




 

Nạn nhân tuy đã tự tử (chết) vẫn tiếp tục bị đấu tố, gọi là "đấu ảnh". "Ðấu ảnh" là đặt tấm ảnh của nạn nhân trên một bục đất, nếu không có ảnh thì đặt một di vật của nạn nhân như mũ, áo..., nơi chỗ nạn nhân bị trói, và người ta đứng ra tố cáo, sỉ vả nạn nhân như là người nầy vẫn còn sống.
Câu chuyện do ông Lê Nhân, một cựu cán bộ đảng viên, kể lại trong lá thư ông gởi cho ông Phan Văn Khải, thủ tướng nhà cầm quyền Hà Nội, viết từ Hà Nội ngày 5-12-2005, có thể xem là một trường hợp đấu ảnh điển hình.
 
"Bạn của Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Ðàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan." (trích Ðàn Chim Việt ngày 5-12-2005, người trích in đậm.)
 
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhân vật lịch sử vĩ đại tầm cỡ quốc gia và quốc tế, gốc người Nghệ An. Cụ là niềm hãnh diện của toàn thể dân chúng tỉnh Nghệ An, trong đó có cả những đảng viên cao cấp trong đảng LÐ. Phan Bội Châu lại cùng quê với Hồ Chí Minh. Khi Hồ Chí Minh qua Trung Hoa hoạt động năm 1924, Phan Bội Châu cũng hoạt động tại đây. Bề ngoài Hồ Chí Minh kính cẩn gọi cụ Phan bằng bác, để rồi sau đó chính Hồ Chí Minh (lúc đó có tên là Lý Thụy) đã hợp tác cùng Lâm Ðức Thụ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu ngày 1-7-1925 khi cụ Phan vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải (Trung Hoa). (3) Pháp bí mật đưa cụ Phan về Hà Nội để đưa ra tòa án, rồi quyết định an trí cụ Phan ở Huế cho đến khi cụ từ trần ngày 29-10-1940.
Phan Bội Châu từ trần trước cuộc CCRÐ 15 năm, mà vẫn bị đem ra đấu tố. Việc đấu tố một nhân vật tầm cỡ như Phan Bội Châu, một người được dân chúng Nghệ An kính mến và trân trọng, không thể là một hành động tự phát tại chỗ của đội CCRÐ địa phương, mà phải có mật lệnh từ cấp trên, mà cấp trên nầy phải là một người lãnh đạo cao cấp. Người lãnh đạo cao cấp nầy không thể ai khác hơn là Hồ Chí Minh, nên đội CCRÐ Nghệ An mới dám chà đạp lên Phan Bội Châu, thần tượng của quê hương Nghệ An. Như thế, chính Hồ Chí Minh đã hai lần ném đá giấu tay triệt hạ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu.
 
Trở lại với chuyện CCRÐ. Sau đây là hoạt cảnh đấu tố qua một bài "thơ" của Xuân Diệu. Trước năm 1945, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng. Sau năm 1945 Xuân Diệu cũng rất nổi tiếng vì ông là một bồi bút cộng sản:
 
"Anh em ơi! quyết chung lưng
Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù,
Ðịa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi..."

 
Tóm lại, trong cuộc CCRÐ, cộng sản đã không từ nan bất cứ một phương pháp nào để hạ nhục và hạ gục đối tượng bị đem ra đấu tố, đồng thời để làm cho dân chúng nông thôn khiếp hãi mà phải phục tòng theo mệnh lệnh của cộng sản một cách tuyệt đối. Từ đó cộng sản mới thực hiện những âm mưu đen tối của họ, mà gần nhất là dễ dàng áp đặt nông dân vào tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, để bóc lột nông dân một cách khoa học và tàn bạo hơn bao giờ cả.
 
Trần Gia Phụng
Toronto, Canada
 
Chú thích:
1. "Giảm tô, giảm tức": Tô: tiền thuê đất mà tá điền (nông dân cày ruộng) trả cho chủ đất (điền chủ hay địa chủ). Tức : lãi trên số tiền hay trên số lúa tá điền vay của chủ điền. Số lãi nầy nặng hay nhẹ tùy theo sự thỏa thuận giữa người cho vay và người xin vay, thường thường là rất nặng, lại lũy tiến, nên có lúc tiền lãi cao hơn tiền vay.
2. Hoàng Văn Chí, sđd. tt. 293-315, trích đăng lại bài "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo" của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, tt. 293-315. Trong bài này, luật sư Tường nhắc lại câu khẩu hiệu trên đây của Ủy ban CCRÐ.
 
3. Tưởng Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả [chữ Trung Hoa], Taipei (Ðài Bắc): Nxb. Truyện Ký Văn Học, 1972; bản dịch của Thượng Huyền, Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999, tt. 84-85.
 
http://www.viettan.org/article.php3?id_article=2161
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

LXMai
  • Số bài : 201
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.04.2005
  • Nơi: Sài Gòn, Gia Định
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT - 07.09.2007 02:26:32
Vài khía cạnh của vụ "Cải Cách Ruộng Ðất"


From:
knguyen@NRCan.gc.ca (Kim Nguyen)
 
Lý thuyết và thực hành cách xa một trời một vực trong thế giới CS, nhất là qua vụ "cải cách ruộng đất" ở Bắc Việt trong các năm 1953-1956-1958. Ðây là một cảnh tượng hãi hùng mà người Việt Nam chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử cận đại của dân tộc. Ngoài số thiệt hại lớn về nhân mạng, người ta còn thấy một sự hủy diệt về tình cảm, phong tục, tập quán và cả bản chất hiền hòa muôn đời của người nông dân VN.

Ngọn lửa thù hận giai cấp do đảng CSVN khơi mào đã thổi qua các đồng lúa miền Bắc và làm sụp đổ nền tảng kinh tế và phong tục, văn hóa của đất nước nhỏ bé này. Kể từ ngày chế độ CS xuất hiện, không một quốc gia nào "đón nhận" nó mà không bị thiệt hại nặng nề về lâu về dài ở đủ mọi ph+ơng diện. Cho dù mới đây, tại VNCS, từ 1986, sự "đổi mới kinh tê" đã đem lại chút đỉnh tiến bộ, nhưng mức độ tàn phá đất nước về người và của của CS trong mấy chục năm qua đã quá sâu xa tới nổi "đổi mới" vẫn không kéo lại nổi sự sung túc thật sự cho dân Việt Với GNP gia tăng vào khoảng hơn 8% môĩ năm mà VN vẫn nghèo, trong khi các quốc gia Ðông Nam Á chỉ cần 2.5% gia tăng là có thể được gọi là trù phú. Tại sao ? Lý do dễ hiểu là ngoài do sự thiệt hại nói trên, còn có nguyên nhân khác nửa, đó là cấu trúc CS còn tồn tại : nó đã bòn rút tiền tài và vật lực của đất nước, nó chính là trở ngại duy nhất cho tiến bộ và giàu có do nền kinh tế thị trường đem lại.

Một trong những thiệt hại đầu tiên do CS gây ra khi họ nắm chính quyền ("dành độc lập") vào năm 1954 ở đất Bắc là vụ "cải cách ruộng đất". Hậu quả và tai tiếng của nó vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, vì một số người bị đưa đi "cải tạo" vẫn còn sống chưa được tự dọ
Khi Hồ Chí Minh nêu ra tiêu lịnh cho Trường Chinh Ðặng Xuân Khu, Tổng Bí Thư Ðảng CS, phải phát động phong trào cải cách ruộng đất để tiêu diệt lớp điền chủ và trung nông -- nói chung là những người có 2 mẫu ruộng trở lên -- để cướp ruộng đất, tài sản, của cải của họ, thì Trường Chinh đã không làm một cách giản dị. Chinh đã được học qua cuộc cải cách này từ "chiến dịch Mao Trạch Ðông" - một cuộc cải cách ruộng đất của Mao vài năm trước đó.

Chinh đã gởi Hồ Viết Thắng, Thứ trưởng phụ trách Cải Cách Ruộng Ðất, qua Trung Cộng để học hỏi thêm về chiến dịch này. Sau đó, Chinh ra lịnh tổ chức hàng ngàn "Ðội Cải cách ruộng đất" để đi khắp các làng, các tổng, các huyện để với "sát lịnh tuyệt đối", tổ chức các cuộc "đấu tố" tiêu diệt phú nông và thành phần nông dân khá giả mà Hồ và Chinh gọi là "cường hào, ác bá, địa chủ tàn ác" để cả nước có thể tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc tới chủ nghĩa xã hội.

"Ðấu tố" có nghĩa là tiêu diệt giai cấp trí thức, phú nông, công thần, kẻ khá giả hay là tất cả những người không thuộc giai cấp bần cố nông. Khi tiêu diệt những giai cấp "khá hơn" giai cấp bần cố nông thì tự nhiên tài sản ruộng đất của họ "thuộc về" đảng CS quang vinh và Nhà Nước xã hội chủ nghĩa. Cướp của giết người giữa ban ngày trên qui mô rộng lớn của cả miền Bắc với hàng triệu người bằng "lệnh" của "Bác Hồ" và Ðảng CS là như thế. Hồ cũng cao tay là đã làm cho người Việt còn sống sót thấy "chỉ làm chủ" một mảnh ruộng nhỏ mà còn bị Bác Hồ ưu ái đấu tố giết chết thì "bố thằng nào" dám tính chuyện sở hữu hay tư hữu !
Nhưng các địa chủ không có tội tình gì thì sao ? Lại còn một số không phải là địa chủ mà chỉ làm chủ một vài sào ruộng thì sao ? Tên trưởng đội cải cách đến một làng nào thì được dân làng đó coi như ác quỷ hiện hình. Tên này liệt kê các thành phần nông dân, lưng chừng, công thần, không tích cực ủng hộ Việt Minh, v.v... Tất cả đều có thể được coi là địa chủ. Tên đội trưởng đội đấu tố coi như được Bác Hồ và cụ Trường Chinh cho toàn quyền sinh sát. Y muốn cho ai lên danh sách bị đấu tố thì chọ Y bắt cả làng phải "học tập" về các "tội ác do cụ Hồ bày biểu bịa đặt" cho yï Y đã học thuộc để khi mang những người nông dân xấu số này ra "đấu trường" thì mọi người phải đứng ra kể tội.

Sự kể tội này mà y gọi là "đấu tố địa chủ". "Tội" có nhiều thứ bỉ ổi mà chỉ có Bác Hồ kính yêu mới có thể bày ra vì chính Bác Hồ kính mến mới có khả năng bày ra, chỉ vẻ khá rành rẽ cho đến khi Bác chết. Phần nhiều các "tội" được "kể lể" ra và nạn nhân bị xỉa xói, nhổ nước bọt vào mặt với những câu như : "Con này, thằng kia ngày xưa mày hãm hiếp bà, mày đè bà hãm hiếp ngoài đồng, mày cho vay lãi cắt cổ, mày bắt bà phải ngủ với mày để trừ nợ, mày đến nhà bà mày bắt con bà về làm nông nô cho mày để trừ nợ, v.v..." Nhiều khi người bị chửi đã quá già và người chửi quá trẻ, không thể có những chuyện như vậy.

Thật là một cảnh tượng rùng rợn của địa ngục trần gian mà chỉ có CS mới có thể tạo ra như vậy. Ðội đấu tố là ác quỉ. Ðội trưởng là "thượng quỉ". Nhân dân thì xanh lè mặt mũi vì không biết ngày mai sẽ đến lượt mình hay ai khác. Cuộc đấu tố ở mỗi làng kéo dài hàng năm cho đến khi giết hết những đối tượng nhân dân mà 2 cụ Hồ và Chinh muốn họ ra đi.

Muốn cho sự kể tội được xôm trò, tên đội trưởng đội cải cách bắt luôn cả con cái nông dân ra xỉa xói chửi bới kể những "tội bịa đặt" vào mặt cha hay mẹ chúng, có khi cả cha lẫn mẹ, cho đến khi mọi ngườ đều hết hơi, mỏi mệt.

Các nông dân "địa chủ" bị buộc phải kêu mọi người bằng "ông" và "bà" và xưng là "con" kể cả với con cái mình. Lúc đó tên đội trưởng mới phán quyết bản án của y : tử hình, giết ngay tại chỗ bằng bừa đứt đầu hay bắn súng, v.v... Nhà cửa bị tịch thu và gỡ ra chia cho Ðội trưởng đội cải cách và Ủy ban nhân dân xã. Con cái địa chủ sau khi bị bắt buộc đấu tố chửi bới cha mẹ của chúng xong cũng bị đuổi ra sống nơi bờ sông bãi xú và vĩnh viễn không được đi học, không được thu nhận làm cán bộ hay công nhân viên nhà nước. Về việc đấu tố này, ông Nguyễn Chí Thiện có làm bài thơ sau đây :

Ðược nghe Bà kể khổ
Con thấy đời con thực là đáng chết !
Con đã đi bốc lột để nuôi Bà !
Con bây giờ không dám nhận là cha
Dù Bà là do con đẻ ra !
Con, thành phần địa chủ thối tha
Trước Nhân Dân, trước Ðảng, trước Bà
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội !
Ðó là lời của một cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội
Trước đấu trường giăng giối với con !


Nguyễn Chí Thiện

Ông Nguyễn Chí Thiện cũng tả Hồ Chí Minh và Trường Chinh trong chiến dịch đấu tố trong bài thơ vịnh khẩu hiệu "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của tên trùm Việt gian CS Hồ Chí Minh :

Không có gì quý hơn độc lập tự do
..."Nó", gọi Tầu, Nga là cha anh "nó"
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh !
Nó tận thu từ quả trứng, quả chanh !
Cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên
Ðương diễn ra triền miên ghê gớm đó
Cũng là do Nga giật, Tầu co
Tiếp nhiên liệu gây mồ cho nó !
Súng, tăng, tên lửa, tầu bay !
Nếu không, nó đánh bằng tay ?
Ôi thứ độc lập không có gì quý hơn của nó !
Tôi biết rõ, đồng bào miền Bắc này biết rõ
Việc nó làm, tội phạm nó ra sao ?
Nó là tên trùm đao phủ năm nào
Hồi cải cách đã đem tù đem bắn
Ðộ nửa triệu nông dân rồi bảo là nhầm lẫn !
Ðường nó đi trùng điệp bất nhân !
Hầm hập trời đêm nguyên thủy !
Ðói khổ dựng cờ đại súy !
Con cá, lá rau nát nhầu quản lý !
Tiếng thớt, tiếng dao vọng từ hồi ký !
Tiếng thở lời than đan họa úp vào thân !
Nó tập trung (cải tạo) hàng chục vạn ngụy quân
Nạn nhân của đường lối khoan hồng chí nhân của nó...

Nguyễn Chí Thiện

HCM ra lịnh đấu tố, Truờng Chinh chỉ hành sự. Chinh giao cho các Ðội trưởng đội đấu tố toàn quyền đấu tố và giết bất cứ ai theo kiểu "tiền trảm hậu tấu". Dụng ý khác của Hồ là chỉ thị cho Trường Chinh tiêu diệt hết các chiến sĩ và gia đình có công với kháng chiến chống Pháp không thuộc giai cấp bần cố nông. Hồ sợ những người này sẽ phẫn uất vì không được thưởng công lao vào sinh ra tử chiến đấu trong vòng 10 năm chống Pháp với Hồ. Giờ đây, khi mục đích đã đạt, Hồ và Chinh lại gọi những người này là "mắc bịnh công thần" và sợ họ nổi dậy chống lại. Hồ muốn quịt công họ và đã giết họ. Theo lời của Bùi Tín thì ít nhất 11,000 sĩ quan và binh sĩ thuộc loại này đã bị Hồ cho đi mò tôm...

Cái hiểm độc ở đây còn là việc Hồ và Chinh buộc nhân dân phải bất hiếu chửi mắng kể tội cha mẹ của mình. Ðiều nầy dân miền Nam sau 30/4/1975 đã bắt đầu hiểu được khi con cái của họ được đoàn ngũ hóa trong nhóm "thiếu nhi quàng khăn đỏ". Các em bé này nghe lịnh "cô, thầy" ở trường để dòm ngó cha mẹ chúng.

Làm xong vụ này, Hồ cũng thấy "hối hận" lắm. Năm 1958, nhân dân miền Bắc phẫn nộ muốn làm loạn vì thấy Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Ðồng cứ nhỡn nhợ Hồ thấy nhân dân nổi giận liền mắng (đóng kịch) Chinh là "sai" và trừng phạt Chinh bằng cách "đày" làm Chủ tịch Quốc Hội, kiêm Chủ tịch Thường vụ Quốc hội, kiêm luôn cả chức vụ chỉ định các bộ trưởng chính phủ cho tới khi chết, gần khảng 30 năm saụ Sau đó, Hồ liền ra lịnh ngưng đấu tố và bắt đầu "sửa sai". Sau "sửa sai" là chiến dịch "hợp tác hoá" nông nghiệp , biến đảng thành chủ điền lớn nhất nước. Các giai đoạn đấu tố - sửa sai - hợp tác hoá nông nghiệp thực ra đều là các giai đoạn mà Mao Trạch Ðông đã nghĩ ra từ "Chiến dịch Mao Trạch Ðông". Hồ, Chinh, Ðồng, Giáp và đảng đã biết từ trước họ sẽ làm gì và đối xử ra sao với dân miền Bắc để đạt tới mô hình XHCN. Dĩ nhiên dân miền Bắc làm gì thấy được mưu sâu của họ. "Sửa sai" để làm gì khi hàng trăm ngàn người đã ngỏm củ tì từ khuyạ Sửa sai hay không thì biết bao oan hồn đã bay đi quanh quất khắp miền Bắc. Sửa sai để làm gì vì rốt cuộc ruộng đất không bao giờ trở về tay của các nông dân bị kết án saị Trong vụ "cải cách" này, Hồ đã bắt khoảng 100,000 người cho đi cải tạo. Sau vụ sửa sai và lời "xin lỗi" của Hồ, số được thả đã trở về quê "làm thịt" lại những người bịa đặt đổ tội lên đầu họ. Thế là máu lại chảy rạ..

Sống trong thời giam u ám này cũng như những thời gian sau đó, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện không khỏi thốt ra những dòng thơ sau đây :

Ðồng lầy
Ngày ấy, tuy xa mà như còn đấy
Tuổi hai mươi, tuổi bước vào đời
Hồn lộng cao, gió thổi chơi vơi
Bốn phía bao la chỉ thấy
Chân mây, rộng mới tuyệt vời !
Ngất ngây, làm sao ngờ tới
Bùn đọng hồ ao mạn dưới phục chờ !
Tuổi hai mươi, tuổi của không ngờ
Không sợ !
Viển vông đẹp tựa bài thơ
Mơ ước
Ðợi chờ
Vĩ đại ...

Nhưng rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi hai mươi mất nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ sao rực rỡ
Tô thắm màu xứ sở yêu thương.
Có ngờ đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo phá bờ kim cổ
Tiếng mối giường rung đổ chuyển non sông
Mật trời sự sống
Thổ ra từng vũng máu hồng
Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trồng
Một mùa thu nước lũ
Trở thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp sóng hồng man dại
Chìm trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ, mồ hôi, rớt rãi
Ði về ai nhận ra ai !
Khiếp sợ, sững sờ, tê dại !
Lịch sử quay tít vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn rết công khai
Ngàn vạn đấu trường mọc dậy giữa ban mai
Ðúng lúc đất trời nhợt nhạt
Bọn giết người giảo hoạt
Nâng cốc mừng thắng lợi liên hoan
Ðiệu nhạc cơ hàn thăm thẳm miên man
Ðiệp khúc lìa tan thúc dục
Ngục tù cất bước oan khiên
Thành thị thôn quê sơn hải trăm miền
Hội tụ !
Bãi sú, bờ lau, rừng rú
Thây người vun bón nuôi cây,
Ðạo lý tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa thầy, phản bạn
Và tuyệt đối trung thành vô hạn
Với Ðảng, với Ðoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng
Họa, phúc toàn quyền của Ðảng
Dần dà năm tháng
Mắt ngả sắc vàng, da sắc xám
Ði về ai nhận ra ai ?
Ôi ngàn hoa run tái !
Ðáng thương giữa chốn đồng lầy
Sậy úa lau gầy, lạc loài thảm hại
Rồi đây, khi mặt trời thức dậy
Chắc là hoa đã tàn phai
Chẳng còn được thấy !
Tôi vẫn ngồi yên mơ màng như vậy
Mặc cho đàn muỗi quấy rầy
Bóng tối lan đầy khắp lối
Không còn phân biệt nổi
Trâu hay người lặn lội phía bờ xa
Gai ốc nổi trên da
Cái họa áo cơm không chừa ai hết !
Buồn nghĩ tới chuyện xưa Thần chết
Cùng lão tiều đốn củi già nua
Tôi ngước trông xem có một ngôi chùa
Ngôi chùa đã trở thành huyễn mộng.

Con ác điểu hoài nghi xù đôi cánh rộng
Truy lùng mồ mả cha ông
Thánh thất miếu đường xáo động
Con thuyền chở đạo nghiêng chao
Sóng gió thét gào, man rợ
Tiếng sinh linh nức nở, âm thầm
Mặt đất tím bầm, tiết đọng
Lá cờ lật lọng
Nhân buổi dương tàn âm thịnh cao bay !
Thần tượng cuồng quay, hình thay lốt rũ
Hang Pắc-Bó hoá thành hang ác thú
Bác Hồ già hoá dạng bác Hồ Ly
Ðôi dép lốp nặng bằng trăm đôi dép sắt
Bộ ka-ki vàng, vàng như mắt dân đen
Qủy quái, đê hèn, lừa đảo !
Gia tài tra khảo cướp trơn tay
Từ buổi Qủy vương hớn hở mặt mày
Ðứng trước Ðảng kỳ trịnh trọng
Ðọc lời khai mạc thủa hoang sơ
Tụ tập đảng viên đại hội dưới cờ
Nguyện đem cuộc đời hơi thở
Ðạp bằng, phá vỡ
Ngàn năm văn hiến ông chạ
Ảo vọng dựng lên một thứ sơn hà
Mê muội, nặng nề không hề nghiêng ngả
Nó lùa, nó thả
Lũ mặt người dạ thú xông ra
Khiến đồng xa
Nơi mấp mô mồ mả
Các hồn ma cũng hả vong linh
Vì thấy địa ngục của mình
Còn ít nhục hình hơn dương thế !
Mạng sống không bằng con giun con dế
Ðầu ngửng lên tuy nhìn thấy trời xanh
Mà chân không thể nào rút khỏi
Vũng lầy man mọi hôi tanh
Ma qủy rình canh, nghiệt ngã
Rau cháo cầm hơi, mồ hôi tầm tã
Bọn sậy lau đã chán cả chờ trông
Hầu cam phận sống trong bùn xám
Ðời càng u ám
Quỷ vương càng đình đám liên hồi
Ôi, dần dà tôi không phải là tôi
Một khối rũ mòn nhức nhối
Mang đầy mộng ước thiu ôị
Nếu tôi đổ mồ hôi
Mồ hôi sẽ hòa máu phổi
Nhưng những niêu cơm quá vơi mà Ðảng đem phân phối
Không nhường thịt gân một chỗ để đàn hồi !
Bao đêm rồi tôi nguyện luyện hồn tôi
Trút bỏ buồn đau tiếc hối
Nén dập hờn câm dữ dội
Ngày đêm dìm luộc thân tôi
Nhão nhừ, nóng hổi !
Nhưng làm sao trút và nén nổi
Nhưng làm sao điếc, mù, câm nổi
Khi con người chưa sống được bao nhiêu
Cũng như khi chưa yêu mến thật nhiều
Làm sao biết ghét !
Chỉ quả bóng xì hơi đã bẹp
Mới để cho Người - Ðịnh mệnh - dẫm lên trên
Còn những đại dương sóng dậy vang rền
Chỉ dịu lắng khi mệt vì bão táp !
Tôi ngồi yên nghe thời gian chậm chạp
Mang tâm hồn thấm hết cảnh trăng xuông
Trên đồng không nước lội sương buông
Cây cỏ lạnh mờ, hoang vắng
Ôi những bờ xa, lời xanh nhạc nắng
Nếu có kẻ cho đời là cay đắng
Hãy vào đây nếm thử vị đồng lầy
Cho dạ dầy, óc, tim, lưỡi, cổ
Biết biệt phân tân khổ ngọt bùi !
Giữa biển vui không hiểu tiếng cười
Là những kẻ cuộc đời chưa dậy sóng
Trời cao biển rộng có cũng như không !
Một tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi nhơn nhơn từng đàn vang tiếng động
Những con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng !
Ếch nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy lau còm cõi đứng chen
Hơi có gió là cúi đầu rạp hết
Bát ngát xung quanh một mầu khô chết
Ðồng lầy mỏi mệt
Lặng câm, lũ kiến đi về
Ôi, cuộc đời hay một cơn mê
Mà người, ngựa, trâu, bò giống nhau đến thế !
Những chiếc sơ mi bỏ ngoài để che bụng phệ
Ði về chễm chệ xe "dim"
Lúc vuốt xoa
Lúc hăm dọa
Lúc gật gù
Với một lũ lù lù rác rơm ẩm mốc
Những loài thảo mộc
Ngu ngốc, ù lì, nhẫn nhục
Nằm đợi ngày tàn mục thối tha
Mặc cuốc kêu thê thảm đêm ngày
Xác gầy, khổ não !
Bọn gỗ đó phải chờ giông bão
Mới chịu ào ào nhổ rễ đứng lên
Nhưng hình như Trời đã bỏ quên
Mảnh đất đồng lầy xám ngắt
Như tôi vẫn ngồi đây héo hắt
Mắt thâm quầng trông ngóng trời xanh
Bốn chung quanh ếch nhái vẫn đồng thanh
La ó mong làm hỏng tim hư óc.
Ðể trai tráng say mùi chết chóc
Ðể người già yên vui tang tóc
Tóm lại là để tình nguyện ly tan
Nhưng mặt trời mùa thu mà như tiết đại hàn
Súng ống từng đoàn run run, nhớn nhác
Ðảng lùa đi tan tác thương vong
Mái ngói, mái gianh lệ thảm ròng ròng
Nhỏ xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Ðảng dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc liệt, bậy xằng, ức oan,cay đắng
Dân đen tay trắng cam đành
Từ rừng núi hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Màu áo vàng cảnh sát
Tràn lan, nhợt nhạt cả màu xanh
Cuộc sống đồng lầy rợp rát, nhoét tanh
Bom đạn chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm
hại
Cái cảnh mười đi, hai ba trở lại
Cái cảnh một trai giành nhau chín gái
Ðương diễn ra và sẽ còn diễn mãi
Nếu Ðảng còn nắm vận mạng tương laị
Lũ sậy lau xưa chỉ biết thở dài
Cũng phải ngước trông đất trời, vấn hỏi ?

Trăng lặn... sao tàn ...
Bình minh không mong mỏi
Từ từ xuất hiện trong sương
Một bình minh héo hắt thảm thương
Ðẩy dân tộc trên giường xuống đất
Hãy lắng nghe một điều chân thật !
Bình minh đây đau khổ nhất địa cầu
Nó báo hiệu một ngày không một phút
Thảnh thơi, thoải mái, ngẩng đầu.
Bình minh đấy muôn thủa một mầu
Nó báo hiệu mồ hôi kiệt quệ
Những con người, không, những chiếc máy thảm thê
Không dầu, không mỡ
Hỏng vỡ trước thời gian
Hãy coi chừng phải giữ vẻ hân hoan
Tiếng khóc, tiếng than làm yêu ma run sợ
Tội chúng phạm vô cùng man rợ
Lộ ra, ai để chúng sinh tồn ?
Nên lo âu, hốt hoảng, bồn chồn
Chúng nghe ngóng, bỏ tù tiếng nói
Hỡi tất cả những chân trời sáng chói !
Hãy hiểu rằng yên lặng nơi đây
Giữa chốn đồng lầy
Là tiếng gọi lâm ly đầy tuyệt vọng
Biết bao giờ mùa thu lật lọng
Bị lôi lên dàn lửa trời hè !
Tôi vẫn chờ trông muôn vạn tiếng ve
Dạo khúc tưng bừng báo trước
Mùa hè khắp nơi đang tiến bước
Tiêu diệt thu đông
Lấy lại sắc hồng
Phá cũi sổ lồng cho đàn chim bất hạnh
Nhưng giờ đây thu lạnh
Vẫn thỏa sức tung hoành
Giết hại màu xanh
Sặc sụa mùi tanh
Nó dùng máu hãm những hàng nước mất
Vắt những giọt mồ hôi
Bịt tiếng người câm bặt
Mong bốn phương lặng ngắt giữa cơ hàn !
Ðể nó tự do vang dạo khúc đàn
Yêu ma !
Lừa bịp người xa
Buốt óc người gần
Trời đất ơi, nếu có quỷ thần
Qủy thần sao dung tha mãi nó?
Ðôi lúc nghe mơ hồ trong gió
Tiếng đời qua sóng đỏ vọng về đây
Bao ước mơ chìm chết đã lâu ngày
Lại nghẹn ngào trỗi dậy
Ðau xót, thương tâm.
Bên ngoài kia cuộc sống vang ầm
Sao đây mãi âm thầm trong nấm mộ?
Phẫn nộ oằn lên, bao khổ !
Không gian hỡi, hãy tan tành sụp đổ
Cho thời gian đừng làm khổ con người
Cho đười ươi, khỉ đột hết reo cười
Trong tối đen đầy đọa
Ôi, cái buổi đất trời giáng họa
Cũng là ngày hể hả trái tim đau !
Nhưng gió kể làm gì chuyện bốn bể năm châu
Chuyện những chân trời bấy lâu yêu dấu
Tuyết ấm rơi, lòng người đôn hậu
Ðảo thần ngời sáng ngọc châụ
Gió hãy thương kẻ bị đóng trên tọa độ thảm sầu
Giấc chân trời mòn mỏi thương đau
Bốn phía trước sau toàn bóng
Những người trâu đầm mình trong bùn đọng
Hoặc trong hầm trong xưởng rũa gân xương
Ðể tối về theo lệnh Diêm Vương
Vác bụng đói tới nghe bầy quỷ dữ
Giả danh nghĩa là những vì thiên xứ
Ðặt chương trình hút máu mài xương
Nhưng lấy tên xây dựng thiên đường
Ðể mong mộ thêm nhiều nô lệ mới.
Tôi không hiểu loài ễnh ương ca ngợi
Cái thiên đường khủng khiếp của ma yêu
Ðược chúng cho công xá bao nhiêu
Mà đêm tối to mồm, đinh nhức óc
Ấy cơm cá ma vương đầy xương hóc
Hãy coi chừng kẻo nuốt khó trôi qua
Cứ ca đi, hơi lạc điệu bài ca
Là Ðảng ném toàn gia vào hỏa ngục !
Tháng năm trôi mùa thu ô nhục
Vẫn kéo dài ngang nửa dãy Trường Sơn.
Chúng tôi tuy chìm ngụp giữa bùn trơn
Song sức sống con người hơn tất cả
Trước sau sẽ vùng lên quật ngã
Lũ qủy yêu xuống tận đáy đồng lầy
Huyệt chôn vùi thu nhục nhã là đây
Hè xuân sẽ huy hoàng đứng dậy
Dù chúng tôi hẩm hiu không được thấy
Màu hè xuân thì đời của chúng tôi
Cũng làm cho nhân loại đổ mồ hôi
Khi tưởng tới bóng cờ ma đỏ ối !
Mặt trời lên cao, lòng tôi nhức nhối
Muốn cắt ngay cái phần hôi thối
Trên thân mình dằng dặc của thời gian
Nhưng nổi tiếng lì gan
Thời gian thản nhiên từ khước
Tháng năm lặng nề lê bước
Xót xa, ô nhục, đọa đầy.
Tôi muốn kêu to trong câm lặng đen dày
Cho nhân loại trăm miền nghe thấy
Ồ ạt đổ về đây
Lấp hộ đồng lầy
Diệt bầy muỗi độc
Ngày đêm phá hủy hồng cầu
Nhưng giữa bùn sâu ngập cổ ngập đầu
Tiếng kêu cứu khò khè trong cuống họng !
Trong khi ấy những lời lật lọng
Của muôn ngàn ếch nhái vẫn vang ngân
Bịp bợm xa gần
Năm châu bốn bể
Tôi biết thế, nên càng không thể để
Cho thời gian trì trệ nhấc tôi lên
Tôi xiết rên, quằn quại, tự tìm đường
Dù có phải bồi thường bằng xương thịt
Tôi không thể an tâm nằm hít
Mùi bùn đen tanh tưởi khiếp kinh
Bốn chung quanh yêu quỷ nấp canh rình
Súng ống sẵn sàng nhả đạn
Con người tôi tiêu điều nứt rạn
Có sợ gì viên đạn oan khiên
Giải thoát bao đau khổ triền miên
Hồn tôi tới trời quên bay bổng
Màn thép kia dù không lỗ hổng
Tôi sẽ dùng răng cắn đứt một khâu
Dù qủy yêu bắt được quẳng vạc dầu
Tôi vẫn sẽ lao đầu không hối hận
Dưới bùn sâu, người trâu lận đận
Ðuổi bắt mặt trời theo lệnh ma vương
Lũ tiểu yêu ngang dọc đầy đường
Ðốc thúc, nghe rình lời than tiếng thở
Thằng này, sao mặt mày không hớn hở ?
Thằng kia, sao dám thở dài ?
Lũ chúng bay phải làm việc bằng hai
Ðể qủy chúa mừng sống dai trăm tuổi
Giữa thời gian muôn người đương chết đuối
Lòng cầu sao nhanh chóng khắp địa cầu
Ðứng đều lên, ồ tới đánh toang đầu
Con rắn đỏ vô cùng hung hiểm
Nó sinh ra lớn lên nhờ súc siểm
Nhả nọc hận thù, phờ phỉnh công phu
Khéo léo đầu cơ lòng yêu nước đui mù
Lạy lục Tầu Nga không nề điếm nhục
Ðủ hơi sức nó hiện hình phản phúc
Ngóc đầu, phì rít, bất nhân
Cắn cổ lê dân, quăng quật mộ phần
Phá đạo, phá đời, uống khô sông suối !
Ôi thằng Tây mà trước kia người dân không tiếc máu
xương đánh đuổi
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hoá ra êm ả !
Lòng ái quốc bị lừa còn đương nằm buồn bã
Ðảng gian ma mong kiếm chác thêm gì?
Bay tha hồ viện tới Lý, Trần, Lê
Người dân đã chán chê với cái trò hề chiến tranh
cách mạng
Cái họ được là khăn tang và nạng
Cái mất đi ánh sáng cuộc đời
Ðảng bắt câm, bắt nói, bắt khóc, bắt cười
Bắt đói, bắt làm, hé răng oán thán
Là tù ngục mục xương độc đoán
Phải chăng đó giá công lao huyết hãn
Mấy ngàn ngày đánh Pháp những năm xưa ?
Biết là bao ô uế, lọc lừa
Người dân đã có thừa kinh nghiệm
Bùa phép yêu ma không còn linh nghie^.m
Bạo lực đen ngòm trắng nhởn nhe nanh
Trại lính, trại tù xây lũy thép vây quanh
Song bạo lực cũng đành bất lực
Trước sự chán chường tột bực của nhân tâm !
Có những con người giả đui điếc thầm câm
Song rất thính và nhìn xa rất tốt
Ðã thấy rõ ngày đồng lầy mai một
Con rắn hồng dù lột xác cũng không
Thoát khỏi lưới Trời lồng lộng mênh mông !
Lẽ cùng thông huyền bí vô chừng
Giờ phút lâm chung qủy yêu làm sao ngờ nổi !
Rồi đây
Khi đất trời gió nổi
Tàn hung ơi, bão lửa, trốn vào đâu ? Bám vào đâu ?
Lũ chúng bay dù cho có điên đầu
Lo âu, phòng bị
Bàn bạc cùng nhau
Chính đám sậy lau
Sẽ thiêu tất lũ bay thành tro xám !
Học thuyết Mác, một linh hồn u ám
Không gốc rễ gì trên mảnh đất ông cha
Mấy chục năm phá nước, phá nhà
Ðã tới lúc tông đồ phải lôi ra pháp trường tất cả !
Song bay vẫn tiệc tùng nhật dạ
Tưởng loài cây to khoẻ chặt đi rồi
Không gì nghi ngại nữa !
Bay có hay sậy lau gặp lửa
Còn bùng to hơn cả đề, đa
Những con người chỉ có xương da
Sức bật lật nhào, tung hết !

Hoa cuộc sống Ðảng xéo dày, mong nát chết
Nhưng mà không, sông núi vẫn lưu hương
Mỗi bờ tre, góc phố, vạn nẻo đường
Hương yêu dấu còn thầm vương thấm thiết
Nếu tất cả những tâm hồn rên xiết
Không cúi đầu cam chịu sống đau thương
Nếu chúng ta quyết định một con đường
Con đường máu, con đường giải thoát
Dù có phải xương tan thịt nát
Trong lửa thiêng trừng phạt bọn gian ma
Dù chết chưa trông thấy nở mùa hoa
Thì cũng sống cuộc đời không nhục nhã
Thì cũng sống cuộc đời oanh liệt đã !
Nếu chúng ta đồng tâm tất cả
Lấy máu đào tươi thắm tưới cho hoa
Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa
Hoa sẽ nở muôn nhà muôn vạn đóa
Hoa hạnh phúc tự do vô giá,
Máu căm hờn phun đẫm mới đâm bông !
Ðất nước sa vào trong một hầm chông
Không phải một ngày thoát ra được đó
Con thuyền ra khơi phải chờ lộng gió
Phá xích, phá xiềng phải sức búa đao
Còn chúng ta phải lấy xác làm bè
Lấy máu trút ra tạo thành sóng nước
Mới mong nổi lên vùng lầy tàn ngược
Nắm lấy cây sào cứu nạn trên cao
Tiếp súng, tiếp gươm bè bạn viện vào
Phá núi, vén mây, đón chào bão lộng
Mới có thể tiến vào hang động
Tiêu diệt yêu ma, thu lại đất trời
Thu lại màu xanh, ánh sáng, cuộc đời.
Chuyện lâu dài, sự sống ngắn, chao ơi !
Nỗi chờ mong thấm thiết mãi trong tôị
Tôi mong mãi một tiếng gì như biển ầm vang dội
Một tiếng gì sôi nổi con tim
Ðã bao năm rồi teo chết nằm im
Trong những quan tài hình hài hèn đớn
Âm tiếng đó dội lan qua các trại tù, trại tập trung
rùng rợn
Làm suy nghĩ lũ quân thù trâu lợn
Tái tạo niềm tin cho tất cả những ai
Ðã gần như tuyệt vọng ở ngày mai
Lũ lau gầy, sậy úa, cỏ tàn phai
Náo nức, reo hò, trông ngó
Âm tiếng đó gây thành giông gió
Khắp đại dương cùng khổ âm u
Chớp xé trời đen, báo hiệu lũ quân thù
Giờ hủy thể !
Tôi mong mãi một tiếng gì như tiếng ầm vang của bể
Ðồng bào tôi cũng mong như thế
Tôi lắng nghe
Hình như tiếng đó đã bất đầu
Nhưng tôi hiểu rằng đó là tiếng của lịch sử dài
lâụ
Nên trời đêm dù thăm thẳm ngòm sâu
Dường như vô giới hạn ở trên đầu,
Tôi vẫn nguyện cầu
Vẫn sống, và tin
Bình minh tới, bình minh sẽ tới.
Cờ vô đạo đương ngang trời phấp phới
Tôi vẫn mơ chân lý tận xa vời
Tôi lùa tan ngàn vực tối trên đời
Trong hào quang dữ dội hiển linh !
Muôn ầm ầm chấn động trời thinh
Báo hiệu bình minh sét nổ
Ôi, ghê sợ cả một trời phẫn nộ
Cả một trời đau khổ khôn lường
Ðã bao ngày nén xuống thảm thương
Dưới tận đáy đồng lầy tủi hổ
Sẽ tràn dâng như sóng gầm thác đổ
Bọn qủy yêu sẽ tới ngày tận số
Xác lũ bay sẽ ngập đường ngập phố
Máu lũ bay hoen ố cả nền trời
Kèn tự do đắc thắng nơi nơi
Khai mạc bình minh khôi phục cuộc đời.
Ôi tôi sống và tôi chờ đợi
Ngày triệu triệu trái tim bùng nổ tung trời !
Ðêm đồng lầy lõm bõm sương rơi
Cú rúc, Trăng buồn
Rười rượi ...


Nguyễn Chí Thiện, 1972

http://hungviet.org/suthatccrd.htm

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.09.2007 02:29:04 bởi LXMai >
.......
....... Như-Ý * Trai Làng
.........

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
RE: Nhân Văn Giai Phẩm - 23.02.2008 10:22:14
 
Xin trích đăng một bài viết về vụ án văn học này
Nhân Văn Giai Phẩm

Trần Minh
Khóc Phùng Quán

 
........
 
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=334339&mpage=1&key=&#334409

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
RE: cải cách ruộng đất - 27.02.2008 07:00:28
26 Tháng 2 2008 - Cập nhật 13h50 GMT
Rắc rối cho thơ Trần Dần
 
Chỉ vài ngày sau khi tập thơ Trần Dần được phát hành ở Việt Nam, đã lan đi tin đồn rằng cuốn sách có thể bị thu hồi.
 
Nửa thế kỷ từ sau biến cố Nhân văn - Giai phẩm, cuốn Thơ Trần Dần dày gần 500 trang, do NXB Đà Nẵng và Công ty Nhã Nam ấn hành, được xem là tác phẩm bề thế nhất từ trước tới nay của nhà thơ được in chính thức ở Việt Nam.
 
Tuy nhiên, trong ngày thứ Ba 26-2, tin đồn về chuyện tập thơ vừa mới xuất bản của Trần Dần có thể bị thu hồi trở thành đề tài liên tục được các blogger trên mạng bàn tán.
 
Gây chú ý
 
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói với BBC rằng ông nghe tin trong chiều nay đã có buổi làm việc giữa đoàn liên ngành của Bộ Văn hóa với công ty Nhã Nam.
 
"Tôi nghe nói cuốn sách bị tạm thời chưa cho phát hành, áp dụng cho số sách còn nằm trong kho của Nhã Nam. Lý do vì sao, tôi chưa rõ. Có nguồn tin nói lý do liên quan quy trình sản xuất cuốn sách, chứ không phải vì nội dung."
 







 Tôi nghe nói cuốn sách bị tạm thời chưa cho phát hành, áp dụng cho số sách còn nằm trong kho của Nhã Nam Phạm Xuân Nguyên
Nhà sách Nhã Nam đã dành khá nhiều công sức cho việc giới thiệu quyển thơ của Trần Dần, nhân vật được coi là đi đầu trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, một thời gian dài bị lên án, bị cấm tại Việt Nam, nhưng gần đây được công nhận trở lại, được đánh giá công trạng.
 
Tuy vậy, thái độ của giới lãnh đạo văn nghệ tại Việt Nam có vẻ vẫn còn ít nhiều e dè với cả lý lịch lẫn tư tưởng cách tân của nhà thơ Trần Dần.
Ông Phạm Xuân Nguyên cho biết trong Ngày Thơ Việt Nam ở Văn Miếu hôm 21-2, tập Thơ Trần Dần đã không được phép bày bán tại đây.
Trước mắt, tin đồn trên mạng khiến một số người yêu thơ chạy đi mua những quyển thơ đang còn nằm trong hiệu sách.
Từ Hà Nội, những người có trách nhiệm ở nhà sách Nhã Nam từ chối trả lời chính thức bất cứ câu hỏi nào của BBC.
Đây là sản phẩm do Nhã Nam cộng tác với NXB Đà Nẵng. Ông Nguyễn Đức Hùng, phó giám đốc NXB Đà Nẵng và cũng là người chịu trách nhiệm biên tập di cảo thơ của Trần Dần, không khẳng định với BBC là tập thơ có bị thu hồi hay không.







 Nếu có động tác thu hồi, đó là quyết định cực kỳ sai lầm  Nguyễn Đức Hùng
Nhưng ông nhấn mạnh nếu có quyết định thu hồi, thì đó là quyết định sai lầm.
"Tất cả quy trình chuẩn bị cho việc xuất bản tập thơ được làm rất kỹ và đúng luật. Bản thảo giao cho chúng tôi là 2006, nay mới xuất hiện. Không có lý do gì mà thu hồi cuốn sách. Trần Dần là nhà cách tân lớn của văn học Việt Nam. Cho nên nếu có động tác thu hồi, theo tôi, đó là quyết định cực kỳ sai lầm và sẽ gặp sự phản đối rất mạnh mẽ."
 
Truân chuyên
Trong phong trào Nhân văn - Giai phẩm đòi tự do ngôn luận trong thập niên 1950 ở miền Bắc, Trần Dần là một trong những gương mặt quan trọng nhất.
Bài thơ 'Nhất định thắng' của ông, in ở Giai phẩm mùa xuân tháng Hai 1956, bị phê phán nặng nề.
 
Trong thời gian bị bắt giam ba tháng, Trần Dần từng dùng dao lam cứa cổ trong một khoảnh khắc muốn tự sát.
Tháng Bảy 1958, Trần Dần, cùng một số người khác, bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, mở đầu giai đoạn suốt 30 năm bị gạt ra khỏi sinh hoạt chính thống.
 
Năm ngoái, 10 năm sau khi Trần Dần qua đời, Giải thưởng Nhà nước trao cho bốn người - Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán (mất năm 1995) và Trần Dần - được xem là sự tôn vinh chính thức của chính quyền đối với những người từng liên lụy vì Nhân văn - Giai phẩm.
 
Việc xuất bản di cảo của Trần Dần không hẳn đã suôn sẻ.
Tác phẩm Thơ Trần Dần từng được gửi cho NXB Hội Nhà Văn năm 2006, nhưng bị trả lại.
 
Để được ra mắt đầu năm 2008, cuốn sách đã phải bỏ bớt một vài bài thơ của tác giả.
Tuy vậy, không phải tất cả những người quan tâm ở Việt Nam đều cho rằng tin về việc thu hồi tập thơ là vì những lý do liên quan nhà thơ hay nội dung sách.
Theo một người quen thuộc với vụ việc, thì cũng có tin nói rằng rắc rối cho tập thơ lại xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ trong NXB Đà Nẵng.
Nguồn tin này nhận xét "ở Việt Nam, người ta cứ hay quy kết mọi chuyện theo góc độ chính trị, nhưng đôi khi lý do nằm ở những chỗ khác."
Những ý kiến trong giới văn học nói với BBC bộc lộ hai luồng khác nhau.
Một phía lo ngại cho số phận cuốn di cảo của một nhà cách tân mà cho đến hôm nay vẫn chưa được đánh giá đầy đủ.
 
Phía khác lại cho rằng sau những ồn ào, cuốn sách rồi vẫn sẽ tiếp tục có mặt ở những tiệm sách tại Sài Gòn, Hà Nội.
 
Điều có thể thấy được là trong những ngày qua, Thơ Trần Dần đã được nhiều người đọc tìm mua ráo riết.
 
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/02/080226_tran_dan_book.shtml

HongYen
  • Số bài : 7536
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.07.2003
  • Nơi: Sài Gòn
Nhân Văn - 27.02.2008 13:04:48


Trần Dần và vợ -
người bảo bọc, chở che,
giúp đỡ ông suốt cuộc đời.

 

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 47 trên tổng số 47 bài trong đề mục