Phỏng Dịch Đường Thi - SongNguyễn HànTú
Cảm Tác
*
Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tri
Tác giả giai thù biệt
Thanh danh khởi lãng thùy.
Đỗ Phủ
Dich Nghia
(viết ra theo cảm xúc)
(sự nghiệp văn chương tự ngàn xưa)
(thành hay không thành tự trong lòng đã biết rồi)
(các người viết mỗi người mỗi lối viết riêng)
.(tiếng thơm để lại há do khinh xuất mà có sao?)
*******
Cảm Tác
*
Bài 1
Văn chương lưu truyền mãi
Thành đạt thật do tâm
Văn mỗi người mỗi vẻ
Chớ coi thường tiếng tăm
***
Bài 2
Văn chương để mãi đến ngàn sau
Tim óc kết thành phải dễ đâu
Trong chốn văn chương người mỗi vẻ
Danh đến muôn đời ráng chuốt chau
*
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2007 01:38:22 bởi hannguyen >
Cận Thí ThướngTrương Thủy Bộ
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc
Đãi hiểu đường tiền bái cữu co
Trang bài đê thanh vấn phu tế
Họa mi thâm thiển nhập thời vô
Chu Kha'nh Du*
Sắp Đi Thi Dâng Thơ Lên Quan Thủy Bộ Họ Trương
Đêm thâu tắt ngọn đèn khuya
Đợi bình minh rạng lạy thưa song đường
Phấn son trang điểm trước gương
Này chàng . . .
Nét liễu dễ thương không nào ?
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2007 01:41:12 bởi hannguyen >
Chá Cô
***
Noãn hý yên vô cẩm dực tề
Phẩm lưu ưng đắc cận sơn kê
Vũ hôn thanh thảo hồ biên quá
Hoa lạc Hoàng Lăng miếu lý đề
Du tử sạ văn chinh tụ thấp
Giai nhân tài xướng thúy mi đê
Tương hô tương hoán Tương giang khúc
Khổ trúc tùng thâm xuân nhật tê.
Trịnh Cốc
***
Dich Nghia
(chim chá cô)
(xòe đôi cánh gấm, chim vui đùa trong đám cỏ mờ sương khói)
(phẩm cách giống như các loại gà hoang gần núi)
(chim bay lại đám cỏ xanh bên bờ hồ)
(mà kêu trước miếu Hoàng Lăng đầy hoa rụng)
(kẻ lãng du vừa nghe thấy tiếng kêu đã rơi lệ ướt tay áo)
(giai nhân cất lời thở than, khép mi lại)
( líu lo gọi nhau trên khúc sông Tương này)
(mặt trời xuân xế tây in bóng rặng trúc cằn cỗi rậm rạp)
Ghi chú: Chim Chá Cô, giống như chim đa đa, gà gô...của ta; chúng hay kêu, và giọng
kêu rất thê lương, ai oán. Hoàng Lăng Miếu là miếu thờ hai Hoàng hậu của
vua Nghiêu (thời thượng cổ Trung Hoa) lập bên bờ sông Tương (huyện Tương
Âm, tỉnh Hà Nam ngày nay) là chỗ hai bà bị chết đuối.
*****
Chá Cô
*
Chim nhẩy nhót trên cỏ hoang sương phủ
Cánh giương cao tựa gà núi oai hùng
Bay qua bờ giữa mưa gió mịt mùng
Kêu trong miếu đầy hoa rơi lả tả
Khách đa tình nghe tiếng chim ướt lệ
Qua giọng buồn mỹ nữ rủ mi xanh
Khúc sông Tương chim réo gọi duyên tình
Trúc nghiêng ngả cảnh trời tây bóng xế
***
SongNguyễn HànTú
Chí Đức Nhị Tải, Phủ Tự Kinh
Kim Quang Môn Xuất Gian Đạo Quy
Phụng Tường. Càn Nguyên sơ, Tòng Tả
Thập Di, Hoa Châu Duyện...
Dữ Thân Cố Biệt, Nhân Thử Môn,
Hữu Bi Vãng Sự
***
Thử đạo tích quy thuận
Tây giao Hồ chính phồn
Chí kim tàn phá đảm
Ưng hữu vị chiêu hồn
Cận thị quy kinh ấp
Di quan khởi chí tôn
Vô tài nhật suy lão
Trú mã vọng thiên môn.
Đỗ Phủ
*
Dich nghĩa
(Năm Chí Đức thứ 2 [756] Phủ ta từ kinh đô (bị giặc chiếm)
trốn khỏi cửa Kim Quang đến triều kiến vua mới
ở Phụng Tường. Năm đầu Càn Nguyên [758]
từ chức Tả Thập Di ta bị giáng xuống làm
quan nhỏ ở Hoa Châu, cùng người thân từ biệt,
nhân qua cửa này, chạnh lòng nhớ chuyện cũ)
(chỗ này [kinh đô] xưa hàng giặc)
(giặc Hồ đóng đông đảo ở phía tây)
(đến nay ta còn sợ vỡ mật)
(hồn vía như vẫn chưa hoàn)
(khi vua sủng ái, ta được về thăm nhà)
(nay vua đày ta làm quan nhỏ nơi xa)
(tài không có, sức mỗi ngày mỗi yếu)
(ta dừng ngựa nhìn nhà nhà [từ biệt]}
Qua Cửa Kim Quang
Xưa kia cũng tại nơi đây
Giặc Hồ đóng ở phía tây ngập tràn
Nghĩ nay còn sợ bở gan
Hồn như vẫn chửa thập toàn an nhiên
Xưa vua thương được bình yên
Nay theo quân lệnh về miền xa xôi
Tài thô, bệnh tật rã rời
Kéo cương ghìm ngựa ngậm ngùi từ ly
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2007 01:49:28 bởi hannguyen >
Chiết Dương Liễu Chi Từ
*
Chi chi giao ảnh tỏa Trường Môn
Nộn sắc tằng triêm vũ lộ ân
Phụng liễn bất lai xuân dục tận
Không lưu oanh ngữ đáo hoàng hôn
*
Đoàn Thành Thức
Dich nghĩa
*
(bài ca “Cành Dương Liễu Gãy”)
([cung nữ như]những cành liễu phủ kín cung Trường Môn)
(lúc còn tươi trẻ từng được hưởng ơn mưa móc [của vua])
(xe phượng [chở vua] không đến, xuân sắc gần tàn phai)
(chiều đến, chỉ còn tiếng chim oanh trên không trung)
*******
Cành Dương Liễu Gãy
***
Phủ kín Trường Môn liễu thắm màu
Nét thơ xưa đã thấm ơn sâu
Xuân gần tàn úa, không xe phượng
Vẳng tiếng chim oanh giọng nhuốm sầu
***
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2007 01:51:34 bởi hannguyen >
Chiêu Quân Từ
***
Hán sứ khước hồi bằng ký ngữ
Hoàng kim hà nhật thục nga mi
Quân vương nhược vần thiếp nhan sắc
Mạc đạo bất như cung lý thời.
***
Bạch Cư Dị
Dich nghĩa:
(Chiêu Quân nhắn lời)
(Sứ giả [nhà Hán} có về nước, xin cho nhắn lời)
(đến ngày nào mới đem vàng tới chuộc thiếp [mày ngài] về)
(nếu Đức Vua có hỏi tới nhan sắc của thiếp)
(xin đừng nói là thiếp không được như hồi ở trong cung)
***
Ghi chú: Chiêu Quân là tự của Vương Tường, người đương thời với Hán Nguyên Đế (thế kỷ thứ 1 trước công nguyên). Là người có sắc nước hương trời,
được tuyển vào cung, nhưng con nhà nghèo, không có tiền đút lót
thái giám, nên không được vua biết đến. Khi Hung Nô đòi mỹ nữ,
nàng lại bị chọn làm “vật hi sinh”. Lúc vua triệu vào để từ biệt
mới biết đến nàng thì đã trễ. Nàng chết trên đất Hung Nô,
mộ tọa lạc tại huyện Tuy Quy, tỉnh Tuy Viễn ngày nay.
Nàng để lại nhạc khúc cho đàn tì bà, gửi vào đó tất cả nỗi niềm bi ai của minh.
***
Chiêu Quân Nhắn Lời
***
Này Hán sứ người về cho thiếp nhắn
Xin vua đem vàng bạc chuộc tôi về
Nếu Ngài truy nhan sắc có như xưa
Xin đừng nói không bằng trong cung nhé
***
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2007 01:55:34 bởi hannguyen >
Chinh Nhân Oán
*
Tuế tuế Kim hà phục Ngọc quan
Triêu triêu mã sách dữ đao hoàn
Tam xuân bạch tuyết quyThanh Trũng
Vạn lý Hoàng Hà nhiễu Hắc San
*
Liễu Trung Dung
*
Dich Nghia
(nỗi oán của người lính trận)
(năm lại năm, hết sông Kim tới ải Ngọc)
(sáng tới sáng, nào roi ngựa, nào đao cung)
(ba năm về Thanh Trũng đầy tuyết trắng)
(vượt cả vạn dặm sông Hoàng Hà chảy quanh Hắc San)
*******
Nỗi Oán Của Người Lính Trận
*
Bài 1
Hết vùng ải Ngọc tới Kim Hà
Sớm hôm lưng ngựa giữa can qua
Ba năm tuyết trắng trên Thanh Trũng
Núi Hắc, sông Hoàng quyện dặm xa
***
Bài 2
Kim Hà rồi tới Ngọc Quan
Gươm đao lưng ngựa võ vàng sớm hôm
Ba năm Thanh Trũng tuyết dồn
Sông Hoàng, núi Hắc quyện muôn dặm dài
***
SongNguyễn HànTú
Chu Trung Dạ Vũ
*
Giang vân ám du du
Giang phong lãnh tu tu
Dạ vũ trích thuyền bối
Dạ lãng đả thuyền đầu
Thuyền trung hữu bệnh khách
Tả giáng hướng Giang Châu
*
Bạch Cư Dị
*
Dich nghia:
(đêm mưa ở trong thuyền)
( trên sông mây u ám)
(gió lạnh thổi vù vù)
(mưa đêm dột qua mui thuyền)
(sóng tung tóe trước mũi thuyền)
(thuyền chở một người khách âu sầu)
(vì bị giáng chức, đày đi Giang Châu)
***
Ghi chú: Năm 814, Bạch Cư Dị 38 tuổi, đang giữ chức Thái tử tả tán thiện ở kinh đô. Nhưng có ngườI đặt điều mưu hại, ông bị biềm ra làm Tư mã tạ Giang Châu (huyện Cửu Giang, tỉnh Giang tây ngày nay).
*******
Mưa Đêm Trên Thuyền
*
Trời vần vũ ngập mây mù
Gió gầm cuồng loạn vù vù trêm sông
Qua mui mưa dột ròng ròng
Rì rào sóng vỗ ngang hông, mũi thuyền
Trong khoang khách ốm ưu phiền
Giáng làm quan mọn tận miền Giang Châu
*
Songnguyễn HànTú
Chu Trung Dạ Tuyết Hữu Hoài Lư Vu Tứ Thị Ngự Đệ
***
Sóc phong xuy Quế thủy
Đại tuyết dạ phân phân
Ám độ nam lâu nguyệt
Hàn thâm bắc chử vân
Chúc tà sơ cận kiến
Chu trọng cánh vô văn
Bất thức sơn âm đạo
Thính kê cánh ức quân
Đỗ Phủ
*
Dich nghia:
(đêm có đổ tuyết, ngồi trong thuyền nhớ em làm quan Thị Ngự, tên là Lư Vu Tứ)
(gió bắc thỗi trên sông Quế)
(ban đêm, tuyết rơi lớn, tới tấp)
(mặt trăng khuất sau tòa lầu cao phía nam)
(mây ở bãi sông lạnh lẽo phía bắc)
(chỉ thấy qua loa vì ánh đèn soi nghiêng)
(thuyền đông người quá, chẳng nghe gì được)
(không biết gì về con đường bên mặt bắc dãy núi)
(nghe gà gáy lại càng nhớ em)
***
Nhớ Lư Vu Tứ
*
Sông Quế heo may quá lạnh lùng
Tuyết rơi mờ mịt khắp không trung
Lầu nam một mảnh trăng mờ nhạt
Bãi bắc mây giăng lạnh tái lòng
Nhớ buổi bên đèn nghiêng gặp gỡ
Chẳng nghe gì được lúc thuyền đông
Núi bên sườn bắc đường chưa biết
Nghe tiếng gà khuya dạ não nùng
*
SongNguyễn HànTú
Chư Tướng
kỳ nhất
Lạc Dương cung điện hoá vi phong
Hưu đạo Tần quan bách nhị trùng
Thương Hải vị toàn quy Vũ cống
Kế Môn hà xứ mích Nghiêu phong
Triều đình cổn chức thùy tranh bổ
Thiên hạ quân trừ bất tự cung
Sảo hỉ lâm biên Vương tướng quốc
Khẳng tiêu kim giáp sự xuân nông
Đỗ Phủ
*
Dich nghia
(các tướng)
(cung điện ở thành Lạc Dương ngập trong khói lửa)
(hết còn bảo cửa ải Tần là nơi hiểm yếu nữa)
(đất Thương Hải chưa hoàn toàn dâng cho vua Vũ)
(miền Kế Môn nào đã phong cho vua Nghiêu đâu
(chức tước ở triều đình ai đang tranh dành nhau?)
(binh sĩ trong nước chưa đủ số dùng được)
(may là có Tướng quân họ Vương ở biên cương)
(cho rèn binh khí thành nông cụ làm vụ lúa xuân)
*******
Chư Tướng
*
kỳ 1
Thành Lạc Dương ngút trời khói lửa
Ải Tần đâu phải chổ hiễm nghèo
Đất Thương ắt đã thuận theo
Kế Môn chưa hẳn thuộc Nghiêu thủa nào
Nơi triều chính công hầu dành dựt
Quân giữ thành chả được bao nhiêu
May Vương tướng quốc mưu cao
Lệnh truyền đao, kiếm dùng vào vụ xuân
***
SongNguyễn HànTú
Chư Tướng
*
Kỳ nhị
Hồi thủ Phù Tang đồng trụ tiêu
Minh minh phân tẩm vị toàn tiêu
Việt Thường phí thúy vô tiêu tức
Nam Hải minh châu thất tịch liêu
Thù tích tằng vi đại Tư mã
Tổng nhung giai sáp thị trung diêu
Viêm phong sóc tuyết thiên vương địa
Chỉ tại trung thần dực thánh triều
*
Đỗ Phủ
Dich nghĩa
(các tướng)
(quay đầu nhìn lại cột đồng miền Phù Tang)
(thấy chướng khí u ám chưa tan hết)
(không có tin tức gì về chim bói cá đất Việt Thường)
(ngọc quý ở Nam Hải không còn thiếu vắng)
(quan chức lớn thì đã từng làm Đại tư mã)
(binh quyền đều do bọn hầu cận vua nắm giữ)
(gió nam hay tuyết bắc đâu đâu cũng là đất vua cả)
(chỉ còn trông mong vào các trung thần trong triều đình)
*******
Chư Tướng
***
Kỳ 2
Đất Phù Tang quay nhìn nơi cột đứng
Mây mịt mờ bàng bạc một màu sương
Bặt tin loài bói cá đất Việt Thưòng
Ngọc Nam Hải chắc cũng đà tìm tới
Đại Tư Mã chức quyền xưa cao vợi
Điều binh quyền để một đám thị trung
Dù gió nam hay tuyết bắc đất công
Khắp bờ cõi các trung thần giữ nước
***
SongNguyễn HànTú
Chức Phụ Từ
*
Phu thị điền trung lang
Thiếp thị điền trung nữ
Đương niên giá đắc quân
Vị quân bỉnh cơ trữ
Cân lực nhật dĩ bì
Bất tức song hạ ki
Như hà chức hoàn tố
Thân trước lam lũ y
Quan gia bảng thôn lộ
Cánh sách tài tang thụ
*
Mạnh Giao
*
Dich Nghia
(lời phụ nữ dệt cửi)
(chàng là trai cày ruộng)
(thiếp là gái cấy đồng)
(từ ngày lấy được chàng)
(vì chàng mà thiếp lo toan dệt cửi)
(gân cốt ngày càng mỏi mệt)
(làm không nghỉ khung cửi bên cửa sổ)
(nhưng sao dệt được lụa là tráng tinh)
(mà thân mặc toàn đồ lam lũ)
(quan trên còn đang yết bảng ngoài đường)
(đòi hỏi nhà nhà phải trồng cây dâu nữa)
*****
Lời Người Dệt Vải
Chàng là trai đồng ruộng
Thiếp thân gái làng quê
Từ khi là dâu mới
Canh cửi vẫn giữ nghề
Sức ngày càng suy yếu
Vẫn bên khung cận kề
Lụa mình dệt trắng toát
Quần áo mặc thảm thê
Bảng quan treo đầy xóm
Bắt trồng dâu nộp về
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2007 01:51:39 bởi hannguyen >
Chung Nam Vọng Dư Tuyết
*
Chung Nam âm lĩnh tú
Tích tuyết phù vân đoan
Lâm biểu minh tễ sắc
Thành trung tăng mộ hàn.
*
Tổ Vịnh
*
Dich nghia
(ngắm tuyết chưa tan ở núi Chung Nam)
(sườn râm mát của núi Chung Nam đẹp)
(tuyết đọng giống như mây trôi)
(sau cơn mưa rừng như tươi sáng lên)
(trong thành trời chiều lạnh hơn)
Ghi chú: Chung Nam, là tên ngọn núi, ở phía nam kinh đô Trường An
*****
Tuyết Núi
*
Xa xa đỉnh núi Chung Nam
Tuyết giăng trắng ngỡ mây đan cuối trời
Mưa chừng như đã tạnh rồi
Bìa rừng rực sáng, chiều rơi lạnh lùng
*
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2007 02:02:17 bởi hannguyen >
Chương Đài Dạ Tứ
*
Thanh sắt oán dao dạ
Nhiễu huyền phong vũ ai
Cô đăng văn Sở giác
Tàn nguyệt há Chương Đài
Phương thảo dĩ vân mộ
Cố nhân thù vị lai
Hương thư bất khả ký
Thu nhạn hựu nam hồi.
*
Vi Trang
*
Dich Nghia:
(đêm thao thức ở Chương Đài)
(đêm dài, tiếng đàn réo rắt như oán hận)
(dây đàn rung những âm thanh bi ai trong mưa gió)
(bên ngọn đèn leo lét thoảng nghe tiếng kèn thổi điệu Sở)
(trăng tàn hạ thấp trên lầu cổ Chương Đài)
(cỏ thơm đã tàn úa cả rồi)
(mà bạn cũ vẫn chưa trở lại)
(thư gửi về nhà không gửi đi được)
(nhằm tiết thu chim nhạn lại bay về nam
Ghi chú: Chương Đài, là tên cung điện cũ xây từ đời Tần thời Chiến Quốc,
nay thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây.
*******
Nỗi Niềm Đêm Nơi Chương Đài
***
Âm nghe trách giận đêm dài
Trời khuya mưa gió ngậm ngùi đàn rung
Điệu kèn Sở gợi nhớ nhung
Chưong Đài hiu hắt giữa vùng trăng tan
Cỏ thơm sắc đã úa tàn
Bạn xưa chẳng thấy chứa chan nỗi niềm
Nhớ nhà không gửi được tin
Thu về nhạn đã xuôi miền trời nam
***
SongNguyễn HànTú
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2007 02:05:07 bởi hannguyen >
Cổ Biệt Ly
*
Dục biệt khiên lang y
Lang kim đáo hà xứ
Bất hận quy lai trì
Mạc hướng Lâm Ngang khứ
*
Mạnh Giao
Dich Nghia
(xa nhau thời xưa)
(lúc sắp chia tay, níu áo chàng nói)
(nay dù chàng có đi đến đâu)
(thiếp sẽ không buồn vì chàng về trễ)
(chỉ xin chàng đừng có ghé Lâm Ngang)
Ghi chú: Lâm Ngang, tên đất nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi Trác Văn Quân (góa phụ nhà giàu) bỏ nhà đi theo Tư Mã Tương Như (nghệ sĩ nghèo). Chuyện xảy ra thời nhà Hán, thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Ý thơ nói đó là nơi có phụ nữ lẳng lơ dễ theo trai.
*******
Xa Nhau Thời Cổ
***
Níu chàng lúc sắp chia ly
Thiếp xin dược hỏi chàng đi phương nào?
Dù chàng về muộn chẳng sao
Chỉ xin chàng chớ ghé vào Lâm Ngang
*
SongNguyễn HànTú
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: