Phỏng dịch Đường Thi- NguyễnTâmHàn
Phù Phong hào sĩ ca
***
Lạc Dương tam nguyệt phi Hồ sa
Lạc Dương thành trung nhân oán ta
Thiên Tân lưu thuỷ tam xích huyết
Bạch cốt tương sanh như loạn ma
Ngã diệc Đông môn hướng Ngô quốc
Phù vân tứ tắc đạo lộ xa
Đông phương nhật xuất đề tảo nha
Thành môn nhân khai tảo lạc hoa
Ngô đồng dương liễu phất kim tỉnh
Lai tuý Phù Phong hào sỹ gia
Phù Phong hào sỹ thiên hạ kỳ
Ý khí tương khuynh sơn khả di
Tác nhân bất ý tướng quân thế
Ẩm tửu khởi cố thượng thư kỳ
Điêu bàn ỷ thực hội chứng khách
Ngô ca Triệu vũ hương phong xuy
Nguyên, Thường, Xuân, Lăng lục quốc thì
Khai tâm tả ý quân sở tri
Đường trung các hữu tam thiên sĩ
Minh nhật báo ân tri thị thuỳ
Phủ trường kiếm nhất dương mi
Thanh thuỷ bạch thạch hà ly ly
Thoát ngô mạo hướng quân tiếu
Ẩm quân tửu vị quân ngâm
Trương Lương vị tuỳ Xích tùng khứ
Kiều biên Hoàng Thạch tri ngã tâm. *** LyBach Bài Ca Hào Sĩ Phù Phong ***
Vào tháng ba cát Hồ tràn khắp nẻo Thành Lạc Dương tiếng oán thán kêu ca Bến Thiên Tân ba lần máu chan hòa Xương chồng chất như bụi tầm gai rối Ta theo người hướng đất Ngô tìm tới Mây mịt mờ đường diệu vợi xa xôi Tiếng quạ kêu, mặt trời đã lên rồi Nơi cửa ngõ, ngưòi quét hoa thong thả Chạm giếng vàng tiếng ngô,dương rộn rã Ghé Phù Phong vị hào sĩ … thăm chơi Bậc kỳ nhân trong trời đất hơn người Ý tương hợp, sức dời non, lấp biển Việc thiên hạ, chẳng tướng quân quyền biến Như vui say đâu cần hội quan trên Thức ăn ngon, bàn chạm, họp bạn hiền Điệu múa Triệu, hát Ngô, hương phảng phất Như Thân, Mạnh, Tín, Bình thời lục quốc Lòng mở ra chắc người đã hay rồi Cả ba ngàn kẻ sĩ thoả vui chơi Ngày sau biết có ai ơn đền trả Nhướng mi nhìn lên Vỗ kiếm mà ca Hỏi sao đá, nước cách xa Nhìn người lột mũ vứt ra tươi cười Khề khà vui hưởng rượu mời Vì ông ta hát vang trời ngân nga Xích Tùng chưa được Trương gia Bên cầu có kẻ hiểu ta …Thạch Hoàng *** NguyễnTâmHàn
山行
遠上寒山石徑斜
白雲生處有人家
停車坐愛楓林晚
霜葉紅于二月花
Sơn hành
Viễn thương hàn sơn thạch kính tà
Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia
Đình xa tọa ái phong lâm vãn
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa
Đõ Mục
Dịch nghĩa
Đi đường núi
Lên ngọn núi, đường đá chênh chênh
Giữa nơi lửng lơ mây trắng có nhà người ở
Dừng xe yêu cảnh rừng phong buổi chiều
Sương thu làm mầu lá đỏ hơn cả hoa tháng hai Đi đường Núi Chênh vênh đường đá chốn non cao Mây phủ mái tranh ẩn bóng chiều Dừng bước nơi rừng phong rực rỡ Thu sương nhuộm lá giữa hoang liêu NguyễnTâmHàn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2007 06:27:45 bởi hannguyen >
再經湖城縣
杜逡鶴
去歲曾經此縣城
縣民無口不冤聲
今来縣宰加朱紱
便是蒼生血冉成
Tái kinh Hồ Thành huyện
Đỗ Tuân Hạc
Khứ tuế tằng kinh thử huyện thành ,
Huyện dân vô khẩu bất oan thanh .
Kim lai huyện tể gia chu phất ,
Tiện thị thương sinh huyết nhiễm thành.
Dịch nghĩa :
Qua huyện Hồ Thành lần thứ hai
Năm ngoái ta từng đi qua huyện nầy
Không miệng người dân nào không cất tiếng kêu oan
Năm nay quan huyện lại được thưởng dây tua đỏ
Hẳn là do máu dân lành nhuộm nên Qua huyện Hồ Thành lần thứ hai Huyện này mới ghé một năm qua Tiếng oán , lời than khắp mọi nhà Tua đỏ năm nay giăng nhà huyện Hẳn mầu rực rỡ máu dân pha NguyễnTâmHàn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2007 10:05:09 bởi hannguyen >
青明
杜牧
青明時節雨紛紛
路上行人欲斷魂
借問酒家何處有
牧童搖指荇花村
Thanh minh
Đỗ Mục
Thanh minh thời tiết vũ phân phân ,
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn .
Tố vấn tửu gia hà xứ hữu ,
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn .
Dịch nghĩa:
Ngày thanh minh
Tiết thanh minh mưa lất phất rơi
Trên đường người buồn nát lòng
Hỏi thử nơi nào có quán rượu
Trẻ chăn trâu chỉ về xóm Hạnh Hoa * Ngày Thanh Minh Thanh minh lất phất mưa rơi Trên đường chân bước buốn tơi tả lòng Hỏi đâu bán rượu biết không ? Hướng về thôn Hạnh mục đồng chỉ ngay * NguyễnTâmHàn
Thiếp bạc mệnh
***
Hán đế trọng A Kiều
Trữ chi hoàng kim ốc
Khái thoá lạc cửu thiên
Tuỳ phong sinh châu ngọc
Sủng cực ái hoàn yết
Đố thâm tình khước sơ
Trường Môn nhất bộ địa
Bất khẳng tạm hồi xa
Vũ lạc bất thướng thiên
Thuỷ phúc trùng nan thâu
Quân tình dữ thiếp ý
Các tự đông tây lưu
Tích nhật phù dung hoa
Kim thành đoạn căn thảo
Dĩ sắc tự tha nhân
Năng đắc kỷ thời hảo *** LyBach ******** Bạc Mệnh
***
Nàng A Kiều được Hán Vương sủng ái
Đúc nhà vàng vua đãi ngộ giai nhân
Âm thanh cao như tự chín tầng xanh
Nào khác tiếng ngọc châu hoà trong gió
Thương nhường ấy, nhưng tình đâu gắn bó
Tuổi xuân tàn thì tình cũng lạt phai
Cung Trường Môn một bước chẳng xa vời
Nhưng xe đã đi qua không trở lại
Mưa vẫn rớt tự trời cao vời vợi
Nước đổ rồi làm sao hốt lại đây
Tình thiếp đông, tình chàng cuối trời tây
Xưa xuân thắm, hoa phù dung phong nhụy
Giờ héo úa như cỏ tàn đứt rễ
Tự cổ kim nhan sắc được mấy người
Duyên vuông tròn . . .
hay chuốc khổ mà thôi ? !
***
NguyễnTâmHàn
Cung oán
Liễu ảnh sâm si yểm hoạ lâu
Hiểu oanh đề tống mãn cung sầu
Niên niên hoa lạc vô nhân kiến
Không trục xuân toàn xuất ngự câu
Tư Mã Lễ
Dịch nghĩa
Nỗi hờn trong cung
Bóng liễu lơ thơ phủ lầu hoạ
Sáng sớm tiếng oanh hót xua nỗi buồn ngập cung điện
Hàng năm hoa cứ rụng chẳng ai màng tới
Liên miên mỗi độ xuân chảy ra theo dòng ngự
... NguyễnTâmHàn
HB họa theo bài dịch của NguyễnTâmHàn chút nghen! Liễu lơ thơ rũ phủ cung lâu Oanh yến hót vang tiễn biệt sầu Hoa rơi năm tháng không người ngắm Xuân thì theo nước ứơt chìm sâu HB
Mời Huyền Băng cứ tự nhiên ghé hoạ thơ cho vui.
HN
*************************
Thu tịch lữ hoài
*
Lương phong độ thu hải
Xuy ngã hương tứ phi
Liên sơn khứ vô tế
Lưu thủy hà thời qui
Mục cực phù vân sắc
Tâm đoạn minh nguyệt huy
Phương thảo yết nhu diệm
Bạch lộ thôi hàn y
Mộng trường Ngân Hán lạc
Giác bãi thiên tinh hy
Hàm bi tưởng cựu quốc
Khấp hạ thùy năng huy.
*
LyBach
***
Đêm Thu Nhớ Nhà
*
Ngọn gió thu về tự biển khơi
Tình quê dâng ngập khắp phương trời
Núi non trùng điệp dài hun hút
Nước chẩy nhìn theo luống rã rời
……….
Giăng mắc mây sầu khắp không trung
Trăng ơi có tỏ nỗi đoạn trường
Bâng khuâng thoảng nhẹ mùi hương cỏ
Áo lạnh mơ hồ sương trắng vương
………..
Mải mê tơ tưởng chốn Ngân Hà
Sao trời lác đác giữa bao la
Lòng dâng ngập nỗi sầu thương nước
Ai cản được dòng lệ xót xa
*
NguyễnTâmHàn
Thục đạo nan Y hu hi
Nguy hồ cao tai
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên
Tàm tùng cập Ngư phù
Khai quốc hà mang nhiên
Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế
Bất dữ Tần tái thông nhân yên
Tây đương Thái bạch hữu điểu đạo
Khả dĩ hoành tuyệt Nga Mi điên
Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử
Nhiên hậu thiên thê thạch sạn phương câu liên
Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu
Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc quá
Viên nhứu dục độ sầu phan viên
Thanh nê hà bàn bàn
Bách bộ cửu chiết oanh nham loan
Môn Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
Dĩ thủ phủ ưng tọa trường than
Vấn quân tây du hà thời hoàn
Úy đồ sàm nham bất khả phan
Đản kiến bi điểu hào cổ mộc
Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian
Hữu văn tử qui đề dạ nguyệt
Sầu Không san
Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên
Sử nhân thính thử điêu chu nhan
Liên phong khứ thiên bất doanh xích
Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích
Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi
Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi
Kỳ hiểm dã nhược thử
Ta nhĩ viễn đạo chi nhân
Hồ vi hồ lai tai
Kiếm các tranh vanh nhi thôi ngôi
Nhất phu đang quan
Vạn phu mạc khai
Sở thủ hoặc phi thân
Hóa vi lang dữ sài
Triều tị mãnh hổ
Tịch tị trường xà
Ma nha doãn huyết
Sát nhân như ma
Cẩm thành tuy vân lạc
Bất như tảo hoàn gia
Thục đạo chi nan nan ư hướng thanh thiên
Trắc thân tây vọng trường tư ta
LyBach
Đường vào Thục * Nguy hiểm quá ! Lối gập ghềnh cao ngất ! Đường gian nguy…tới Thục tựa lên trời Vua Tàm, Ngư tới nay quá xa vời Đã tám vạn bốn nghìn năm rồi đấy Mới rõ được nơi khói Tần biên ải Nằm phía tây núi Thái Thạch mịt mờ Có đường chim vắt tận đỉnh Nga Mi Tráng sĩ chết giữa đất truồi, núi sập Mới tìm được chốn thang trời đá móc Nối liền nhau lên tận đỉnh non cao Quanh mặt trời sáu rồng lượn theo nhau Là đà dưới một dòng sông uốn khúc Sóng xô rẽ ngược Cản lối hạc vàng Vượn, khỉ trèo cũng đầy những ngỡ ngàng Trước rặng núi Thanh Nghê đầy khuất khúc Chín ngả ngoặt trong chừng đâu trăm bước Ngất đỉnh trời tưởng mó được rặng Sâm Ngước trông lên núi Tỉnh bỗng lặng câm Tay xoa bụng Ngồi thở dài thườn thượt Xin hỏi bạn… biết bao giờ tới được Lối gập ghềnh, đầy nguy hiểm cheo leo Giữa hàng cây… ai oán tiếng chim kêu Từng cặp một lượn quanh nơi rừng núi Loài tứ quí kêu giữa trăng vời vợi Rừng vắng hoang, khung cảnh thấy buồn tênh Đường gian nguy Khó hơn vượt trời xanh Nghe nói tới …hắt hiu đời son trẻ Núi cao ngất sao sát trời quá thế Xác thông khô dựa vắt vẻo sườn cao Thác thét gầm Nước đua chẩy ào ào Đập vào núi làm rung triền vách đá Cả vạn suối nước hợp vang ầm ĩ Lối Thục kìa thật vạn nỗi hiểm nguy Thương cho người sao cố vượt . . . một khi Miền Kiếm Các núi ngất trời chót vót Một người giữ Muôn người qua không lọt Rủi gặp ngưòi gác ải chẳng thân quen Dạ sói lang là nguy ngập kề bên Ngày lánh cọp, đêm tránh trăn ẩn náu Loài quỉ dữ chuyên mài nanh hút máu Giết hại người như giống cỏ lắm gai Thành Cẩm Quan tuy có chút niềm vui Nhưng sao sánh bằng quê nhà yên ấm Đường vào Thục . . . Đường gian nguy thăm thẳm Vọng trời tây mà ai oán thở dài * NguyễnTâmHàn
送別其三
王維
送君南浦淚如絲,
君向東州使我悲。
為報故人憔悴盡,
如今不似洛陽時。
Tống biệt kỳ tam
Vương Duy
Tống quân Nam Phố lệ như ty,
Quân hướng Đông Châu sử ngã bi.
Vị báo cố nhân tiều tuỵ tận,
Như kim bất tự Lạc Dương thì. Tiễn người đi Nơi Nam Phố lệ tuôn như tơ chẩy Rã rượi buồn tiễn người đến Đông Châu Cố nhân ơi, lòng cố báo ân sâu Thời gian cũ Lạc Dương không còn nữa NguyễnTâmHàn
從军行
令狐楚
朔風惊里驚
漢月五更青
縱有還家夢
猶聞出塞聲
Tòng quân hành Lệnh Hồ Sở
Sóc phong thiên lý kinh ,
Hán nguyệt ngũ canh thanh .
Túng hữu hoàn gia mộng ,
Do văn xuất tái thanh .
Bài ca tòng quân Dặm ngàn gió chướng kinh hoàng Trăng vùng trời Hán rỡ ràng năm canh Đoàn viên chưa trọn giấc lành Bên tai văng vẳng lệnh hành quân xa * NguyễnTâmHàn
送前衛縣李審少府 高適 黄鸟翻翻楊柳垂 春風送客使人悲 怨別自惊千里外 論交卻憶十年時 雲開汶水孤帆远 路遶涼山匹馬踟 此地從來可乘興 留君不住益淒期 Tống tiền Vệ huyện Lý Thầm thiếu phủ
Hoàng điểu phiên phiên dương liễu thùy ,
Xuân phong tống khách sử nhân bi .
Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại ,
Luận giao khước ức thập niên thì .
Vân khai Vấn Thủy cô phàm viễn ,
Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì .
Thử địa tòng lai khả thừa hứng ,
Lưu quân bất trú, ích thê kỳ . Cao Thích Tiễn cựu Vệ huyện thiếu phủ Lý Thẩm Cành dương liễu oanh truyền thoăn thoắt Giữa gió Xuân tiễn khách dạ sầu Giận vì ngàn dặm xa nhau Đã mười năm có tình sâu nghĩa tròn Rẽ mây Vấn buồm con một bóng Quanh Lương Sơn ngựa lỏng dây cương Nơi đây cảnh trí thân thương Giữ người chẳng được lòng vương tơ sầu NguyễnT âmHàn
送韋諷上閬州錄事參軍
杜甫
國步猶艱難,兵革未衰息。
萬方哀嗷嗷,十載供軍食。
庶官務割剝,不暇憂反側。
誅求何多門,賢者貴為德。
韋生富春秋,洞徹有清識。
操持紀綱地,喜見朱絲直。
當令豪奪吏,自此無顏色。
必若救瘡痍,先應去蟊賊。
揮淚臨大江,高天意淒惻。
行行樹佳政,慰我深相憶。
Tống vi phúng thượng lãng châu lục sự tham quân Quốc bộ do gian nan,
Binh cách vị suy tức.
Vạn phương ai ngao ngao,
Thập tải cung quân thực.
Thứ quan vụ cát bác,
Bất hạ ưu phản trắc.
Tru cầu hà đa môn,
Hiền giả quý vị đức.
Vi sinh phú xuân thu,
Đỗng triệt hữu thanh thức.
Thao trì kỷ cương địa,
Hỷ kiến chu ty trực,
Đương kim hào đoạt lại,
Tự thử vô nhan sắc,
Tất nhược cứu sang di,
Tiên ưng khử mâu tặc.
Huy lệ lâm đại giang,
Cao thiên ý thê trắc.
Hành hành thụ giai chính,
Ủy ngã thâm tương ức.
Đỗ Phủ
***
Tiễn Vi Phúng đi làm quan ở Lãng Châu Đất nước vẫn điêu linh Chiến tranh nào đã dứt Nghe khắp chốn tiếng kêu ca thảm thiết Mười năm ròng nộp lương thực nuôi quân Đám quan lại vô nhân Chỉ tìm đường bớt xén Đâu thương xót lo cho đời tròn vẹn Bầy thêm trò moi móc của dân lành Vị già chút thanh danh Bác tuổi xuân đương sức Đã thông minh lại rộng đường kiến thức Hẳn chăm dân chính trực, kỷ cương Bọn sâu mọt vô lương Sẽ từ đây kiềng mặt Muốn hàn gắn niềm thương đau chất ngất Việc đầu tiên phải trừ đám yêu ma Nơi bờ sông bao la Lời thâm tình cao vợi Tiễn bác đi trong nỗi niềm mong đợi Giúp dân lành…đỡ tủi niềm riêng NguyễnTâmHàn
Tống Vũ Văn Lục
Nguyên tác: Thường Kiến
送武文淥
常建
花映垂楊溪水清
微風林裡一枝輕
即今江北還如此
愁殺江南離別情
Tống Vũ Văn Lục
Thường Kiến
Hoa ánh thùy dương,khê thủy thanh,
Vi phong lâm lý nhất chi khinh.
Tức kim Giang Bắc hoàn như thử,
Sầu sát Giang Nam ly biệt tình.
--Dịch nghĩa:--
Tiễn Vũ Văn Lục
Nước khe trong, hoa ánh màu dương liễu rủ
Gió hiu hiu, một cành trong rừng đang phất nhẹ nhàng
Hiện nay cảnh Giang Bắc (1) còn như vậy
Tình ly biệt xuống Giang Nam buồn biết chừng nào. Tiễn Vũ Văn Lục Nước trong suốt ánh mầu hoa dương liễu Cành phất phơ trong gió thoảng hiu hiu Giữa nơi đây cảnh Giang Bắc mỹ miều Tiễn người xuống Giang Nam buồn não nuột NguyễnTâmHàn
再遊玄都觀
劉禹錫
百畝庭中半是苔,
桃花並盡菜花開。
種桃道士歸何處?
前度劉郎今又來。
Tái du Huyền Đô quán
Lưu Vũ Tích
Bách mẫu đình trung bán thị đài,
Đào hoa tịnh tận thái hoa khai.
Chủng đào đạo sĩ quy hà xứ ?
Tiền độ Lưu lang kim hựu lai. Lưu Vũ Tích Trở lại quán Huyền Đô Bài 1 Trăm mẫu sân to nửa rêu mờ Đào tàn, hoa dại, cảnh tiêu xơ Về đâu đạo sĩ trồng đào cũ Để gã Lưu này đứng ngẩn ngơ Bài 2 Nửa khoảng sân to phủ rêu xanh Cỏ hoang, đào đứng xác xơ cành Đạo ông ngày cũ về đâu tá Để gã Lưu buồn giữa lạnh tanh bài 3 Nửa sân rộng phủ rêu xanh Hoa đồng, đào đứng trơ cành xác xơ Đạo ông chăm sóc cây xưa Lưu tôi trở lại, lão giờ chốn nao NguyễnTâmHàn
樂府
高適
燕歌行並序
開元二十六年,客有從御史大夫張公出塞而還者, 作燕歌行以示適,感征戍之事,因而和焉。
漢家煙塵在東北, 漢將辭家破殘賊。
男兒本自重橫行, 天子非常賜顏色。
摐金伐鼓下榆關, 旌旆逶迤碣石間。
校尉羽書飛瀚海, 單于獵火照狼山。
山川蕭條極邊土, 胡騎憑陵雜風雨。
戰士軍前半死生, 美人帳下猶歌舞。
大漠窮秋塞草衰, 孤城落日鬥兵稀。
身當恩遇常輕敵, 力盡關山未解圍。
鐵衣遠戍辛勤久, 玉筋應啼別離後。
少婦城南欲斷腸, 征人薊北空回首。
邊庭飄颻那可度? 絕域蒼茫更何有?
殺氣三時作陣雲, 寒聲一夜傳刁斗。
相看白刃血紛紛, 死節從來豈顧勳。
君不見沙場征戰苦? 至今猶憶李將軍。
Yên ca hành
Hán gia yên trần tại đông bắc,
Hán tướng từ gia phá tàn tặc.
Nam nhi bản tự trọng hoành hành,
Thiên tử phi thường tứ nhan sắc.
Song kim phạt cổ hạ Du Quan,
Tinh kỳ uy di Kiệt Thạch gian.
Hiệu úy vũ thư phi hãn hải,
Thiền Vu lạp hỏa chiếu Lang Sơn.
Sơn xuyên tiêu điều cực biên thổ,
Hồ kỵ bằng lăng tạp phong vũ.
Chiến sĩ quân tiền bán tử sinh,
Mỹ nhân trướng hạ do ca vũ.
Đại mạc cùng thu tái thảo suy,
Cô thành lạc nhật đấu binh hy.
Thân đương ân ngộ thường khinh địch,
Lực tận quan sơn vị giải vi.
Thiết y viễn thú tân cần cửu,
Ngọc trợ ưng đề biệt ly hậu.
Thiếu phụ thành nam dục đoạn trường,
Chinh nhân Kế Bắc không hồi thủ.
Biên đình phiêu dao na khả độ,
Tuyệt vực thương mang cánh hà hữu.
Sát khí tam thời tác trận vân,
Hàn thanh nhất dạ truyền điêu đẩu.
Tương khan bạch nhận tuyết phân phân,
Tử tiết tòng lai khởi cố huân !
Quân bất kiến sa trường chinh chiến khổ,
Chí kim do ức Lý tướng quân.
Cao Thích Yên ca hành Lửa binh dậy ngập bắc đông Hán quân lưng ngựa ra vùng biên cương Trai tài xông xáo chiến trương Khí hùng được đấng quân vương nể vì Trực Du Quan tiến thẳng đi Khắp vùng Kiệt Thạch quân kỳ tung mây Hiệu lông gà chạy như bay Thiền Vu lửa lệnh soi đầy Lang Sơn Khắp nơi xơ xác điêu tàn Ngựa Hồ xông xáo như làn gió giông Trận tiền sống chết như không Ca nhi múa tiễn anh hùng vui say Ải quan Thu lá rụng đầy Thành trơ, quân vắng trời Tây xuống dần Ân vua chẳng ngại việc quân Lực tàn ải vẫn chưa phần giải vây Chiến chinh ròng rã bao ngày Giọt sầu ly biệt đến nay đã tường Nam thành thiếu phụ đoạn trường Người đi Kế Bắc đau thương trông về Dễ gì tới chốn sơn khê Vực sâu rừng thẳm tứ bề quạnh hiu Mây trời tử khí vương theo Cầm canh tiếng mõ vọng đều suốt đêm Ánh gươm giữa tuyết đổ rền Chấp hành quân lệnh mà quên thân mình Thấy chăng chinh chiến tội tình Vẫn thương Lý tướng lừng danh một thời NguyễnTâmHàn
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: