Các nhà thơ Hy Lạp+Italia
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 17 bài trong đề mục
cacbac 08.12.2007 10:34:02 (permalink)





Sappho (tiếng Hy Lạp Attic: Σαπφώ, tiếng Hy Lạp Aeolic: Ψάπφω) - là nữ nhà thơ Hy Lạp cổ đại, nổi tiếng cho đến tận ngày nay. Có thể gọi Sappho là nhà thơ nữ đầu tiên của thế giới, người làm thơ ca ngợi tình yêu giữa phụ nữ và phụ nữ. Bà sống vào khoảng 630 – 570 trước Công nguyên.

Cuộc đời và sáng tác:
Về cuộc đời và thơ ca của nữ nhà thơ huyền thoại này chủ yếu là những thông tin truyền miệng, đôi khi còn mâu thuẫn với nhau. Chúng ta chỉ biết được rằng Sappho sinh ở đảo Lesbos, thuộc nòi giống quí tộc. Lấy chồng là một người đàn ông giàu có và có một con gái nhưng cả chồng và con đều mất sớm. Ngoài ra Sappho còn có một vài mối tình với những người đàn ông khác. Tuy vậy, những người sống xung quanh Sappho đều là phụ nữ, do tập quán thời đấy, đàn ông và phụ nữ có hội riêng. Sappho đứng đầu một nhóm phụ nữ quí tộc đam mê âm nhạc và khiêu vũ. Sau đó, những kẻ ác ý bày đặt (hay thực tế như vậy?), gán cho bà tình yêu với những cô gái quí tộc và trẻ tuổi. Vì thế mà sau này có từ Lesbian – xuất phát từ tên đảo Lesbos, quê hương của Sappho – dùng để chỉ quan hệ đồng tính luyến ái giữa các phụ nữ.

Theo truyền thuyết thì Sappho làm thơ bằng tiếng Aeolic. Thơ của bà ca ngợi vẻ đẹp của phụ nữ, ca ngợi vẻ quyến rũ và nữ tính. Trong thơ bà có một nỗi khao khát tình yêu, đam mê và cháy bỏng. Tiếc rằng thơ của Sappho chỉ còn lại rất ít. Cũng theo truyền thuyết thì những năm cuối đời Sappho lại yêu một người đàn ông nhưng tình yêu này không được đáp lại. Sappho nhảy từ vách núi đá xuống biển tự tử là cũng vì tình yêu. Câu nói nổi tiếng được người đời truyền tụng: “Giá như cái chết là tốt đẹp thì thánh thần đã không trở thành bất tử".



Một số bài thơ của Sappho:


GỬI NGƯỜI ĐẸP

Gần mặt trăng những ngôi sao mờ đục
Đem phủ lên gương mặt tấm khăn voan
Để trăng một mình trên mặt đất
Chiếu lên đầy đủ vẻ hào quang.




ĐỢI CHỜ

Trăng ghé vào, dải Ngân hà vụt biến
Chỉ mình em còn lại với đêm đen
Và đã trôi qua giờ hẹn…
Một mình em thiếp ngủ trên giường!
 




CHỈ NGƯỜI TÌNH

Ai yêu ngựa, ai yêu lính bộ binh
Ai yêu tàu thuyền xếp thành hàng dãy
Còn tôi – trên đời này yêu hơn hết thảy
Chỉ người tình!




#1
    cacbac 08.12.2007 10:36:39 (permalink)


    Anacreon (tiếng Hy Lạp: Ἀνακρέων) (570 tr. CN – 478 tr. CN) là nhà thơ Hy Lạp cổ đại.

    Tiểu sử:
    Anacreon sinh ở Teos, Ionian vùng Tiểu Á. Sau khi người Ba Tư chiếm được Tiểu Á, Anacreon về vùng Abdera, sau đó đến đảo Samos. Theo truyền thuyết, Anacreon là thầy của vua độc tài Polycrates. Sau khi Polycrates chết, ông đến Athens trở thành nhà thơ của vua Hipparchus. Năm 514 tr. CN, sau khi Hipparchus bị giết chết, Ancreon lại phải rời khỏi Athens. Những năm tháng sau đó không mấy ai biết. Người đời chỉ biết rằng, ông thường được các bậc vua chúa mời đến đọc thơ, còn những năm tháng cuối đời ông trở về quê hương ở Teos hoặc Abdera. Anacreon mất khoảng năm 478 tr. CN. Về sau người Teos lấy hình của Anacreon in trên đồng tiền của mình, còn ở Athens bên cạnh tượng của Xanthippus có bức tượng một người say ngất ngây, người đời cho đấy là tượng của Anacreon.

    Thơ của Anacreon còn lưu lại được qua ít ỏi, chủ yếu là phong cách của Anacreon qua thơ của các nhà thơ khác. Những mô-típ chính là rượu, tình yêu và một cuộc sống vui vẻ với những người đẹp – là những thứ mà từ cổ chí kim vẫn coi rằng đấy là phần thưởng của Tạo hóa ban cho con người sống ở cõi trần gian vốn đầy rẫy gian khó và nhọc nhằn. Về sau nhiều bài thơ của nhiều tác giả dân gian viết và gán cho đấy là thơ của Anacreon.

    Ảnh hưởng của thơ Anacreon:
    Thời Phục Hưng và Thế kỷ Ánh sáng ở châu Âu rất phổ biến những bài thơ mô phỏng theo Anacreon. Mô-típ của Anacreon được nhiều nhà thơ Pháp như Pierre de Ronsard, Pierre Jean de Beranger, Voltaire… Nhà thơ Ireland, Thomas Moore viết tập Thơ Anacreon, còn các nhà thơ Đức như Gotthold Ephraim Lessing, Johann Wolfgang von Goethe cũng viết nhiều bài thơ mô phỏng thơ của Anacreon.



    ***
    Tôi yêu mà có vẻ như không yêu
    Khi ngẩn ngơ, khi hiểu biết mọi điều.


    ***
    Kleobula, Kleobula, tôi yêu em
    Bên Kleobula tôi nằm xuống cuồng điên
    Bên Kleobula tôi cho đôi mắt uống.


    ***
    Đừng ngạo mạn cười tôi
    Rằng mái tóc đã bạc
    Em say đắm tuyệt vời
    Mắt ngó nhìn người khác.



    ***
    Chén của tôi sao lại cạn thế này
    Cô bán hàng hãy rót rượu vào đây
    Chỉ màu rượu đỏ bừng như đôi má
    Mang cho đời vẻ say đắm ngất ngây.

    Tôi không phải người Skythae, không yêu
    Kẻ khác say sưa, quậy phá đủ điều
    Không, bên chén rượu đầy tôi sẽ hát
    Rằng cuộc đời thật đáng sống, đáng yêu.


    ***
    Tóc hơi thưa rồi tóc bạc
    Trên mái đầu của tôi đây
    Ngọn lửa đã tàn trong đôi mắt
    Và những chiếc răng đã lung lay.

    Đời đã ngọt ngào hoặc đã đắng cay
    Chẳng qua chỉ ít ngày còn lại
    Thời gian tôi Ngài đang tính từng ngày
    Tôi sẽ về với người ta đang đợi.

    Không còn sự hồi sinh từ chốn ấy
    Nơi chìm trong quên lãng muôn đời
    Cửa mở ra cho tất cả mọi người
    Nhưng đã vào không còn quay trở lại.

    #2
      cacbac 08.12.2007 10:40:10 (permalink)
      Constantine P. Cavafy còn gọi là Konstantin hoặc Konstantinos Petrou Kavafis (tiếng Hy Lạp: Κωνσταντίνος Π. Καβάφης, 29 tháng 4 năm 1863 – 29 tháng 4 năm 1933) – nhà thơ Hy Lạp.

      Tiểu sử:
      Constantine P. Cavafy sinh ở Alexandria, Ai Cập. Bố là một thương gia, sau khi ông mất cả gia đình sang Anh. Từ năm 1875 Cavafy quay trở về sống ở Alexandria làm báo và làm công chức. In thơ từ năm 1891 nhưng chỉ một số ít người biết. Năm 1903 in ở một tạp chí thơ Athens thì bắt đầu được giới phê bình chú ý. Sau đó in 2 tập thơ vào năm 1904 và 1910 nhưng chỉ sau khi chết mới được người đời công nhận là một nhà thơ vĩ đại của Hy Lạp.
      Constantine P. Cavafy nổi tiếng ở châu Âu trước khi nổi tiếng ở Hy Lạp. Bài thơ quan trọng nhất Waiting for the Barbarians (Đợi chờ quân man rợ) được dịch sang tiếng Anh trở thành một hiện tượng. Nhà văn đoạt giải Nobel Văn học 2003 John Coetzee dùng ý và lấy tên của bài thơ đặt cho một tiểu thuyết của mình. Tập thơ dịch của nhà thơ đoạt giải Nobel Văn học năm 1986 Joseph Brodsky in ở Nga cũng lấy tên của bài thơ này. Cuộc đời và thơ của Cavafy trở thành nội dung xuyên suốt cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Alexandria Quartet của Lawrence Durrell. Thơ của ông được các nhạc sĩ phổ nhạc và các nhà điện ảnh dựng phim về ông. Constantine P. Cavafy có ảnh hưởng đến các nhà thơ lớn thế kỷ XX như Wystan Hugh Auden, Eugenio Montale, Czeslaw Milosz, Joseph Brodsky. Ông mất vì bệnh ung thư đúng vào ngày sinh nhật 70 tuổi của mình.

      Tác phẩm:
      *Ποιήματα (1935)
      *Άπαντα Τα Ποιήματα (2003)

      Thư mục:
      *The Complete Poems of Cavafy translated by Rae Dalven

      *C. P. Cavafy: Collected Poems translated by Edmund Keeley and Philip Sherrard, edited by George Savidis

      *Before Time Could Change Them: The Complete Poems of Constantine P.Cavafy translated by Theoharis C. Theoharis

      *Cavafy's Alexandria by Edmund Keeley

      *Cavafy: A Critical Biography by Robert Liddell
      *"Alexandria: City of Memory" by Michael Haag (published by Yale University Press, London and New Haven, 2004) provides a portrait of the city during the first half of the twentieth century and a biographical account of Cavafy and his influence on E.M. Forster and Lawrence Durrell.

      *Cavafy a literary form of the script of «Cavafy» the film, by Iannis Smaragdis
      *Liddell R. Cavafy: A Critical Biography. London: Gerald Duckworth & Co., 1974.
      *Keeley E. Cavafy’s Alexandria: Study of a Myth in Progress. Cambridge: Harvard UP, 1976.
      *The Mind and Art of C.P. Cavafy/ Denise Harvey, ed. Athens: Denise Harvey and Co., 1983.
      *Jusdanis G. The Poetics of Cavafy. Princeton: Princeton UP, 1987.
      *Rekonstruktionen lebendiger Vergangenheit : Projektionen ins dritte Jahrtausend / Hrsg. von H.-D. Blume und C. Lienau. Münster: Lienau, 2004.



      ĐỢI CHỜ QUÂN MAN RỢ


      Tại sao dân tình tụ tập ở đây?

      Vì hôm nay đến đây quân man rợ

      Thế tại sao nghị viện giờ đóng cửa?
      Nghị viện không làm luật nữa hay sao?

      Vì quân man rợ sẽ đến hôm nay
      Nghị viện ra luật làm gì cho uổng?
      Quân man rợ có luật riêng của chúng.

      Tại sao Hoàng đế dậy từ sáng sớm
      Và tại sao Hoàng đế ngoài cổng chính
      Mũ áo trang nghiêm ngự trên ngai vàng?

      Vì quân man rợ sẽ đến, và rằng
      Hoàng đế cần tiếp chuyện tên đầu sỏ
      Văn bản, giấy tờ sẽ trao cho nó
      Tước vị cao sang, toàn bộ chức quyền.

      Thế tại sao quan chấp chính, pháp quan
      Đội mũ khăn, mặc áo choàng màu đỏ
      Tại vì sao họ đeo xuyến thạch anh
      Và nhẫn ngọc lấp lánh trên tay họ?
      Tại sao những cây ba toong trang trí
      Bằng vẻ xa hoa của bạc của vàng?

      Vì quân man rợ sẽ đến, và thường
      Vẻ sang trọng làm cho lòa mắt chúng.

      Thế tại vì sao những nhà hùng biện
      Hôm nay không diễn thuyết như mọi ngày?

      Vì quân man rợ sẽ đến hôm nay
      Man rợ không ưa những lời hùng biện.

      Thế tại sao vẻ bồn chồn lo lắng
      Hiện ra trên gương mặt mọi người dân?
      Tại sao quảng trường, đường phố vắng tanh
      Tất cả lo đi về nhà trú ẩn?

      Và đêm buông, man rợ không thấy đến
      Từ biên cương ai đó mang tin về
      Rằng man rợ trên đời không còn nữa.

      Làm sao bây giờ, không còn man rợ?
      Dù sao, đấy là một giải pháp hay.

      #3
        cacbac 08.12.2007 10:43:36 (permalink)


        Giorgos Seferis (1900-1971) tên thật là Giorgos Stilianu Seferiadis - nhà thơ, nhà ngoại giao Hy Lạp, giải Nobel Văn học năm 1963. Sinh ngày 19-2-1900 tại Smyrna (nay là Thổ Nhĩ Kỳ). Lên 14 tuổi theo gia đình chuyển về Athen, năm 1918 theo bố sang Paris. Năm 1922 quân đội Thổ Nhĩ Kỳ chiếm Smyrna, người Hy Lạp từ giã vùng đất họ đã sống 2000 năm. Seferis học luật và say mê văn chương, làm việc tại Bộ ngoại giao Hoàng gia Hy Lạp. Trong thế chiến II Hy Lạp bị Đức chiếm đóng, Giorgos Seferis cùng chính phủ Hy Lạp sống lưu vong ở nước ngoài.

        Sau chiến tranh, G. Seferis tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại giao Hy Lạp, giữ các trọng trách ở Ankara (1948 - 1950), London (1951 - 1953), Lebanon, Syria, Jordan và Iraq (1953 - 1956) và là Đại sứ Hoàng gia Hy Lạp ở Anh từ năm 1957 tới 1961. Ông nhận được rất nhiều bằng danh dự và giải thưởng, trong đó có bằng Tiến sĩ danh dự của các trường đại học Cambridge (1960), Oxford (1964), Salonika (1964) và Princeton (1965).

        Tập thơ đầu tiên Điểm ngoặt (Strofi, 1931) chỉ in 150 bản, tên sách trong nguyên tác vừa có nghĩa "Khổ thơ", vừa có nghĩa "Điểm ngoặt", tượng trưng cho một bước chuyển mới trong thơ Hy Lạp. Tiếp đó là tập thơ trữ tình theo chủ nghĩa tượng trưng Cái bể nước (1932) đề cập đến những ước mơ trong sâu thẳm tâm hồn con người, những ước mơ bị quên lãng trong cuộc sống ngày thường. Trong những tác phẩm sau này, G. Seferis nói nhiều đến sự hiện hữu của quá khứ trong hiện tại, bắt đầu bằng Thần thoại (1935). Ngoài các tác phẩm thơ, năm 1962 ông xuất bản tập Tiểu luận, và năm 1965 là tuyển tập dịch thơ của các nhà thơ Anh, Pháp, Mỹ mang tên Bản sao. Sáng tác thơ của G.Seferis giai đoạn 1924 - 1955 được in cả ở Hy Lạp và Mỹ.
        Thơ của Seferis về những đề tài như: cái chết, sự mất mát và hỗn mang. Nhân vật trong thơ ông thường là những người lãng du muôn thuở buồn nhớ về thiên đường đã mất. Năm 1963 ông được trao giải Nobel Văn học “vì những tác phẩm thơ trữ tình xuất sắc”. Giorgos Seferis mất tại Athen ngày 20-9-1971.

        Tác phẩm:
        - Điểm ngoặt (Strofi, 1931), thơ
        - Cái bể nước (Sterna, 1932), thơ
        - Thần thoại (Mythistorema, 1935), thơ
        - Cuốn sách bài tập (Tetradio gymnasmaton, 1940), thơ
        - Nhật kí hải trình I (Imerologio Katastromatos I, 1940), thơ
        - Nhật kí hải trình II (Imerologio Katastromatos II, 1944), thơ
        - Xô đẩy (Kichli, 1947), thơ
        - Vua Assine và những bài thơ khác (The king of Assine and other poems, 1948)
        - Nhật kí hải trình III (Imerologio Katastromatos III, 1955), thơ [Logbook III].
        - Ba bài thơ bí mật (Tria Kryfa Poiimata, 1966), thơ
        - Tiểu luận (Dokimes, 1962), tiểu luận
        - Bản sao (Antigrafes, 1965), thơ dịch





        HÃY HÁT LÊN ĐÀN UKULELE(1)

        “Say it with a Ukulele…”

        “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
        Từ máy hát vang lên lời hát cũ
        Em yêu ơi, anh biết hát bài gì
        Để cho em hiểu rằng anh buồn bã.

        Kẻ hành khất chơi cây đàn phong cầm
        Tay chạm lên phím đàn rất cẩn trọng –
        Hãy đi xuống đây những thiên thần
        Nhưng thiên thần ngồi khóc trong lo lắng.

        Thiên thần đã sẵn sàng đi
        Nhưng mặt đất mây che kín
        Ta nghèo khó đến ngày cuối tận
        Bởi thiên thần quên đến với ta.

        Cuộc đời ta lạnh lùng như biển
        Sống ra sao ư? Như ở trong sương
        Chìm đắm những linh hồn
        Như đá chìm trong biển.

        Cây run rẩy tựa san hô
        Màu xanh trở thành màu xám
        Đang ngủ yên những chiếc xe thồ
        Từ lâu trên mặt đất quên lãng.

        “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
        Lời ca không còn sức mạnh nữa
        Tình yêu ơi, đâu ngôi đền của em muôn thuở?
        Sao nơi này ta lạnh lẽo nhường kia!

        Giá mà cuộc đời đi theo đường thẳng
        Anh và em không biết đến ưu phiền
        Nhưng trò chơi số phận
        Bước ngoặt trong đời thay đổi triền miên.

        Đợi đến khi nào? Không ai biết
        Lửa cháy lên trong sương khói hoàng hôn
        Trong màn sương ta đánh mất con đường
        Giữa hai ngọn lửa tâm hồn đau thắt.

        Số kiếp ta. Đâu hạnh phúc chúng mình
        Ngày chết dần trong vương quốc đêm tối
        Xung quanh bóng đêm. Em hãy đi tìm
        Hãy đi tìm cho con đường ngắn lại!

        “Hãy hát lên đàn Ukulele…”
        Những móng tay em ánh lên màu đỏ
        Dưới ánh sáng sao trời anh bỗng nhớ
        Vật trang sức bằng đá muộn màng kia.

        London, Giáng sinh 1924.
        __________________
        (1)SAY IT WITH A UKULELE
        Word & Music: Art Conrad
        Artist: Irving Politzer
        Shapiro, Bernstein & Co., New York.
        (tên đĩa hát hiện vẫn có bán trên mạng Internet)

        * Ukulele: Đàn ghi ta Hawaii.



        NỖI BẤT HẠNH DỊU DÀNG

        Nỗi bất hạnh dịu dàng
        Như cát trên bờ, màu trắng
        Cơn khát làm môi khô khan
        Nhưng mà nước mặn.

        Cái tên em màu trắng
        Anh viết khi ở trên bờ
        Những ngọn gió mang chữ đi xa
        Và thầm thĩ bên tai rằng: “quên lãng”.

        Nghe những lời trách cứ xì xào
        Từ mọi con đường: ta bước vào cuộc sống
        Con đường ta - đầy ắp những khát khao
        Nhưng ta sẽ làm đổi thay cuộc sống.


        TẮT GIỌNG NÓI CỦA EM

        Tắt giọng nói của em - ánh nắng chiều
        Hoàng hôn đã tắt
        Số phận của anh, ôi em yêu
        Đêm đến là em biến mất.

        Chỉ một lần, trong giờ khắc
        Thế giới hoang vu. Anh còn lại một mình
        Tình đã chết, còn lại chiếc bình
        Trong bình không giọt sương hay nước.

        Đêm đến, và đã không còn
        Cái miền quê em đã tắm
        Đâu rồi miền quê, đâu rồi bờ biển
        Vĩnh biệt em! Niềm hạnh phúc của anh.
        #4
          cacbac 08.12.2007 10:51:52 (permalink)
          Các nhà thơ Italia
           


          Gaius Valerius Catullus (84 tr. CN – 54 tr. CN) – nhà thơ La Mã cổ đại thế kỉ I tr. CN, người nổi tiếng nhất trong nhóm các nhà thơ mới (neoteroi).

          Tiểu sử:
          Catullus sinh ở Verona, miền bắc Ý. Gia đình có lẽ là rất giàu có vì sử sách còn chép là Caesar nhiều lần làm khách ở nhà bố của Catullus, còn Catullus cũng có một villa ở Sirmio, bên hồ Garda và một villa ở vùng đồi Sabina. Thời tuổi trẻ Catullus lên Roma, có ý định buôn bán tàu bè nhưng vì thiếu kinh nghiệm thực tế trong nghề này nên chỉ tập trung vào thơ ca. Catullus tham gia nhóm các nhà thơ mới (neoteroi) và trở thành nhà thơ xuất sắc nhất của nhóm này.
          Di sản thơ ca mà Catullus để lại còn đến ngày nay gồm 116 bài thơ dài ngắn khác nhau (từ 2 câu đến 480 câu). Nổi tiếng nhất là những bài thơ tình viết về người đẹp Lesbia. Tên thật của Lesbia là Clodia, vợ của một quan lớn trong triều và là chị gái của Publius Clodius Pulcher, địch thủ chính trị của Cicero. Theo truyền thuyết thì Lesbia là một phụ nữ xinh đẹp và đỏng đảnh, coi nhà thơ trẻ tuổi và tài năng Catullus là một người tình, nhưng với Catullus thì khổ sở vì mối tình này. Năm 56 tr. CN, em trai mất, Catullus viết một số bài thơ về sự kiện này. Đầu năm 57 tr. CN, Catullus đến thăm người bạn thơ Memmius ở Bithynia, vùng Tiểu Á. Catullus hy vọng nhiều vào chuyến đi này nhưng kết quả không được như mong muốn. Sự thất vọng này được thể hiện trong một số bài thơ viết về Memmius. Một năm sau, Catullus quay trở lại Roma, viết nhiều bài thơ về cuộc sống xã hội đương thời. Catullus mất ở Roma năm 30 tuổi, ngày tháng chính xác không rõ.



          LỜI THỀ CỦA PHỤ NỮ

          Em bảo tôi: em chỉ muốn trở thành người vợ của anh
          Ngay cả thần Jupiter không muốn điều như thế.
          Em nói vậy. Nhưng phụ nữ khi yêu bên tai người tình thỏ thẻ
          Những lời bay lên trời, chui xuống nước rồi vội vã trôi nhanh.


          TÔI CĂM THÙ – TÔI YÊU

          Tôi căm thù nhưng mà yêu. Xin đừng hỏi tôi tại vì sao như vậy
          Tự mình, tôi không biết tại vì sao, chỉ thấy mệt mỏi, rã rời.



          CẢ GHÉT VÀ YÊU

          Cả ghét và yêu sôi sục trong lòng tôi
          Người hỏi “tại vì sao” ư?. Tôi không biết
          Nhưng sức mạnh cả hai đều rất mãnh liệt
          Sôi sục trong tim này, tôi khổ lắm người ơi.


          CHỨNG CỚ CỦA TÌNH YÊU

          Lesbia chửi rủa tôi. Không im lặng dù chỉ trong
          khoảnh khắc.
          Tôi xin thề rằng em làm thế bởi vì yêu!
          Tôi cũng chửi rủa em. Bởi không thể nào làm khác
          Và xin thề rằng tôi làm thế cũng chỉ bởi vì yêu!




          HÃY SỐNG HÃY YÊU

          Lesbia, ta hãy sống, hãy yêu nhau
          Mặc ai già cả thở dài than vắn
          Ta sẽ không cho họ một cắc nào
          Mặc kệ mặt trời cứ lên rồi lặn.
          Em hãy nhớ rằng ngày của ta chóng tàn
          Ta về ngủ trong đêm dài vô tận
          Hãy hôn anh nghìn nụ hôn cháy bỏng
          Rồi lại một nghìn, rồi lại một trăm
          Còn khi đã hôn nhau cả trăm ngàn lần
          Không cần biết và ta không cần đếm
          Để ai ganh tỵ về ta đừng nói nhảm
          Rằng hai chúng mình…
          Đã hôn nhau cả vạn, cả ngàn.

          #5
            cacbac 08.12.2007 10:54:30 (permalink)


            Publius Vergilius Maro (15 tháng 10 năm 70 tr. CN – 21 tháng 9 năm 19 tr. CN) – nhà thơ lớn của La Mã cổ đại, người sáng tạo ra thể loại thơ sử thi, tác giả của Bucolics, Georgics, Aeneid (Bucolica, Georgica, Eneide) – những thiên sử thi ca tụng nguồn gốc huyền thoại của dân tộc La Mã.

            Tiểu sử:
            Publius Vergilius Maro thường được gọi ngắn gọn bằng tiếng Latin: Vergilius hoặc bằng tíếng Anh: Virgil. Người đời còn giải mã từ Maro là cách trao đổi các chữ cái của các từ: AMOR (tình yêu) và ROMA (Thành Rôma). Về cuộc đời của Virgil chủ yếu là qua những truyền thuyết. Một số ghi chép của người đời sau trong tác phẩm “Những cuộc đời song hành” và đặc biệt là qua tác phẩm “Thần khúc” nổi tiếng của Dante Alighieri.
            Virgil sinh ở làng Andes, gần Mantua (miền bắc Ý). Học văn học Hy Lạp và triết học ở Milan, Napoli. Năm 19 tuổi lên Roma học môn nghệ thuật hùng biện, một môn học bắt buộc đối với những ai muốn theo đuổi con đường chính trị. Say mê trường phái triết học của Epicurus, và đặc biệt tôn sùng Lucretius nhưng sau đó chịu ảnh hưởng triết học của Platon và các nhà triết học phái khắc kỷ (Stoism). Virgil bắt đầu làm thơ bằng những bài thơ ngắn gọi là Culex, làm quen với nhiều nhà thơ nổi tiếng đương thời. Thời kỳ sau đó ông viết những thiên sử thi nổi tiếng nhất của ông.
            Năm 19 tr. CN Virgil đi sang Hy Lạp. Ở Hy Lạp ông gặp Augustus và quyết dịnh không quay về Ý nhưng sau đó bị bệnh, trở về đến Brundisium, ông qua đời.
            Virgil đạt đến vinh quang khi còn sống. Các thời đại sau đấy được tôn sùng ông như một nhân vật huyền thoại, một nhà hiền triết, một bậc tiên tri. Từ thời cổ đại, tác phẩm của ông đã được giảng dạy ở nhà trường và đã được dịch sang tiếng Hy Lạp cổ. Người cổ đại dựng tượng và lập đền thờ. Thiên chúa giáo gọi ông là bậc tiên tri. Truyền thuyết kể rằng sứ đồ Paolus từng khóc nức nở bên mộ Virgil. Câu chuyện tình say đắm giữa Didone và Enea được khắc trên những lâu đài nổi tiếng. Những quyển sách viết về phép yêu thuật của Virgil được dịch ra tất cả các thứ tiếng châu Âu trung cổ. Cho đến tận ngày nay, phương pháp Sortes Vergilianae của Virgil vẫn được người đời sử dụng để bói toán. Ảnh hưởng của Virgil đến văn học và ngôn ngữ không thể nào kể hết. Ông là người thầy, người dẫn đường cho Dante Alighieri trong hai phần đầu của kiệt tác La Divina Commedia (Thần khúc).

            Tác phẩm:
            Bucolica được viết trong những năm 42 – 39 tr. CN; Georgica viết trong những năm 36 – 30 tr. CN; Eneide viết trong những năm 29 – 19 tr. CN.
            Ngoài 3 thiên sử thi nói trên, Virgil còn được coi là tác giả của một số trường ca tập hợp dưới tên gọi Appendix Vergiliana (tạm dịch: Phần phụ lục của Virgil) gồm : Ciris, Moretum và Сора.


            Tình yêu của Didone với Anea (IV, câu 1-22)

            Niềm say mê từ lâu xâm chiếm nữ hoàng
            Và đốt lên, một ngọn lửa kín thầm cháy bỏng
            Tất cả gợi lên vẻ đẹp người anh hùng
            Của nòi giống vinh quang, tâm hồn không yên lặng
            Lời nói và gương mặt chàng không để nàng yên.
            Cả mặt đất ngập tràn ánh sáng bình minh
            Chiếc bóng từ bầu trời chuyển động. Nàng bối rối
            Bằng những lời sau đây, nàng nói với cô em gái:
            “Anne! Những giấc mơ đáng sợ quấy rấy ta
            Về người đàn ông quyến rũ đang ở trong nhà
            Chàng oai nghiêm, thể xác tâm hồn đều quyến rũ
            Ta tin chàng xuất thân từ thánh thần bất tử.
            Linh hồn kỳ là xua đi nỗi kinh hoàng
            Của số phận, chàng kể về những cuộc chiến tranh.
            Lòng ta đã dứt khoát, từ lâu ta đã quyết
            Sẽ không còn yêu ai sau tình đầu oan nghiệt
            Chồng ta đã chết, tình yêu dối lừa ta
            Nếu ngọn đuốc hôn nhân quên hết hận thù
            Thì vẻ yếu đuối này sẽ trở nên can đảm
            Kể từ sau cái chết của người chồng bất hạnh
            Chết vì lưỡi gươm khát máu của người em
            Hồn ta ngã xuống bỗng được chàng nâng lên
            Ta nhận ra vết lửa tình ngày trước….

            #6
              cacbac 08.12.2007 10:56:59 (permalink)


              Dante Alighieri (1625-1321) – nhà thơ, nhà thần học Italia, tác giả của hai kiệt tác Thần khúc (La Divina Commedia) và Cuộc đời mới ((La Vita nuova).

              Tiểu sử:
              Dante sinh khoảng giữa 14 tháng 5 và 13 tháng 6 năm 1265 tại Firenze, miền trung Itakia. Mẹ của Dante, Bella degli Abati, mất khi ông 7 tuổi; ngay sau đó bố của Dante, Alighiero de Bellincione, cưới người vợ thứ hai, Lapa di Chiarissimo Cialuffi, và họ có hai con: em trai Francesco và em gái Gaetana của Dante. Thời trẻ, Dante được Brunetto Latini, một người có kiến thức uyên bác dạy tiếng Latinh và truyền cho Dante niềm thích thú văn chương. Thông qua tiếng Latinh mà Dante say mê thơ ca cổ đại và tôn sùng thơ Virgile. Dante còn học tiếng Pháp, tiếng Provence, đi sâu nghiên cứu thần học, triết học, thiên văn học và trở thành một người có kiến thức bách khoa uyên bác bậc nhất ở thời đại ông.
              Dante biết yêu và làm thơ từ rất sớm. Những bài thơ về mối tình tuổi thiếu niên sau này được gom lại thành tập Cuộc đời mới. Năm 1295 Dante tham gia hoạt động chính trị, đứng về phái Guelfi đối lập với phái Ghibellini. Năm 1289 phái Guelfi thắng thế nhưng rồi lại chia ra thành phe Đen và phe Trắng. Dante theo phe Trắng, kiên quyết chống lại đường lối dựa vào Giáo hoàng. Giáo hoàng cầu viện Hoàng tử Pháp Charles de Valois. Năm 1301 quân Pháp tiến vào Firenze, phe Đen lưu vong trở về tổ chức đàn áp phục thù. Dante bị kết án hai lần, phải rời bỏ quê hương đi sống lưu vong và mai danh ẩn tích. Thời kỳ này ông bắt đầu viết Thần khúc.
              Dante mất năm 1321 tại Ravenna.

              Tác phẩm:
              Dante là tác giả của các tập Thơ (Rime), Bữa tiệc (Il convivio), Về hùng biện đại chúng (De vulgari eloquentia), Về chế độ quân chủ ( De monarchia)… Tuy vậy, những tác phẩm này chỉ một số ít các nhà nghiên cứu quan tâm, còn bạn đọc khắp thế giới hầu như chỉ biết hai kiệt tác: Cuộc đời mới Thần khúc.

              Tác phẩm Cuộc đời mới bao gồm thơ và văn xuôi, viết về tình yêu của Dante đối với Beatrice Portinari. Tình yêu của Dante với Beatrice mang một qui mô vũ trụ. Nhà thơ nhìn thấy ở người con gái trần tục này một ý tưởng thánh thần được thể hiện trong những con số: “Số 3 là nguồn gốc của số 9, ba lần ba là chín. Như vậy, nếu 3 có thể sinh ra 9 thì điều kì diệu ở trong mình – Ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Đức Thánh Linh – ba trong một. Từ đó rút ra kết luận rằng: người con gái này là con số 9, nghĩa là điều kì diệu và nguồn gốc của điều kì diệu này là Tam vị nhất thể”. Những lập luận này thể hiện tinh thần của thời đại bấy giờ nhưng phải nói rằng nhà thơ đã dũng cảm khi đem người yêu của mình so sánh với Ba ngôi thần thánh.
              Dante gặp Beatrice lần đầu khi nàng lên 9 tuổi. “Linh hồn của cuộc sống” đã bao trùm lấy tâm hồn của cậu bé Dante. Beatrice chỉ khẽ nghiêng mái đầu cúi chào mà đã làm cho chàng trai Dante lâng lâng khôn tả. Chàng vội vàng đi về phòng riêng viết bài thơ đầu tiên… Chín năm sau hai người gặp lại nhau. Hễ nhìn thấy Beatrice là Dante lại luống cuống, xúc động, không thể làm chủ được bản thân và tự nhủ lòng sẽ không bao giờ tìm gặp Beatrice nữa… Những chi tiết này được Dante mô tả rất tỉ mỉ trong “Cuộc đời mới”. Sau đó Beatrice đi lấy chồng nhưng tình yêu của Dante đối với nàng vẫn không hề suy giảm. Ngược lại, tình yêu này là nguồn cảm hứng cho Dante viết ra hai kiệt tác “Cuộc đời mới” và “Thần khúc”. Beatrice mất năm 1290. Dante khóc suốt một năm ròng và những người đương thời kể rằng họ không bao giờ còn nhìn thấy Dante cười nữa. Dante và Beatrice trở thành một biểu tượng của tình yêu đôi lứa trong văn chương Thế giới như Petrarca và Laura, Tristan và Isolt, Romeo và Juliet.

              Thần khúc là một tác phẩm bằng thơ đồ sộ gồm ba phần: Địa ngục, Tĩnh ngục, Thiên đường. Mỗi phần có 33 khúc, cộng 1 khúc mở đầu, tất cả là 100 khúc với hơn 14.000 câu thơ. Người ta vẫn thường gọi Thần khúc là “Kinh Thánh của thời Trung cổ”. Trong tác phẩm vĩ đại này, Dante đặt ra cho mình một mục đích vĩ đại: giúp loài người thoát khỏi nỗi sợ hãi trước cái chết. Nhiệm vụ này ở thời bấy giờ là vô cùng quan trọng: trong linh hồn con người có một nỗi sợ về những cực hình ở Địa ngục mà người ta vẫn nghe qua những lời rao giảng và thuyết giáo. Khác với những nhà triết học theo trường phái Epicurus, Dante không khuyên người đời quên đi cái chết, hay như những nhà triết học thế kỉ Ánh sáng, khẳng định rằng Địa ngục là do các cha đạo nghĩ ra, Dante tin rằng Địa ngục là có thật và chỉ có sự Can đảm, Danh dự và Tình yêu có thể giúp con người thoát khỏi Địa ngục. Thần khúc mở đầu bằng những lời cay đắng về cái chết của Beatrice nhưng tác giả bỗng nhiên hiểu ra rằng nàng là con người cao thượng, trong trắng và không thể chết. Thế là linh hồn của Beatrice, với sự giúp đỡ của Virgile đã dẫn Dante, và cùng với Dante là bạn đọc, đi hết các tầng ngục, chứng kiến hết những nỗi kinh hoàng của Địa ngục. Trên cánh cổng vào Địa ngục có dòng chữ “kẻ vào đây hãy quên niềm hy vọng” nhưng Virgile khuyên Dante hãy quên nỗi sợ hãi, vì rằng chỉ với đôi mắt mở to thì con người mới có thể nhìn ra nguồn gốc của mọi cái ác. Cũng theo Dante thì linh hồn con người có thể bị đày xuống Địa ngục ngay cả khi thân xác còn sống nhởn nhơ nơi dương thế, bởi vì Địa ngục không phải là một địa điểm hay nơi chốn mà Địa ngục là một trạng thái của lòng người. Người nào sống trong lầm lỗi sẽ rơi vào trạng thái đó. Ngay cả lầm lỗi của lòng thù hận – cả người trả thù và nạn nhân của sự trả thù đều bị đày xuống Địa ngục, và một khi nạn nhân còn căm thù kẻ đã hành hạ mình thì vẫn chưa thể thoát ra khỏi Địa ngục. Bạn đọc có thể đọc thấy những điều này ở phần Địa ngục qua bản dịch tiếng Việt. Thần khúc lần đầu tiên được trích dịch ra tiếng Việt năm 1978. Đó là bản trích dịch 30 khúc của cả 3 phần ra văn xuôi có vần điệu của Khương Hữu Dụng và Lê Trí Viễn. Gần đây có bản dịch văn xuôi trọn phần Địa ngục của Nguyễn Văn Hoàn (2005) và bản dịch thơ trọn phần Địa ngục của Hồ Thượng Tuy (chưa in thành sách). Tác phẩm Cuộc đời mới có một bản dịch của Hồ Thượng Tuy.



              Vita Nuova
              Dante Alighieri
              CUỘC ĐỜI MỚI

              (Trích)

              LỜI MỞ ĐẦU

              Trong cuốn sách kỷ niệm của tôi chỉ một số trang có thể đọc được, có tựa đề là:
              “Incipit vita nova: Cuộc đời mới bắt đầu”Theo tựa đề này tôi tìm ra những lời đã viết mà tôi có ý định thuật lại trong cuốn sách nhỏ này, nếu không được tất cả, thì ít ra là ý nghĩa của chúng.

              I

              Đã chín lần, kể từ khi tôi sinh ra, bầu trời hầu như quay lại chỗ ban đầu trong vòng quay của mình, khi trước mắt tôi lần đầu tiên xuất hiện người con gái quang vinh của lòng tôi, nhiều người vẫn gọi tên nàng là Beatrice mà không biết rằng cần phải gọi tên nàng như vậy.
              Nàng đã có mặt ở cuộc đời này, khi đó bầu trời sao di chuyển về phía đông thêm một trong mười hai phân độ: nàng hiện ra trước mắt tôi trong buổi đầu năm thứ chín của cuộc đời tôi, còn tôi nhìn thấy nàng ở đoạn cuối năm thứ chín của cuộc đời tôi. Nàng trước mặt tôi mặc quần áo màu hồng, khiêm nhường và đúng mực, sắc phục tương xứng với tuổi trẻ của nàng. ở đây tôi thành thực xin nói rằng Linh hồn Cuộc sống từ sâu thẳm trái tim tôi bắt đầu rạo rực trong từng đường gân thớ thịt và thốt lên những lời: “Ecce deus fortior me, qui veniens dominabitur mihi: Thượng Đế mạnh hơn tôi, Người đi đến nhận lấy quyền sai khiến tôi”. Ở đây Linh hồn Thú vật ngự trị phần trên, nơi tình cảm thu nhận tri giác của mình, trở nên kinh ngạc và hướng về Linh hồn Thị giác nói những lời: “Apparuit iam beatitudo vestra: Đã hiện ra niềm hạnh phúc của ngươi”. Ở đây Linh hồn Thiên nhiên, nơi cung cấp dinh dưỡng, bắt đầu khóc lóc và thốt ra những lời: “Heu miser, quia, frequenter impeditus ero deinceps!: Khổ thân tôi, vì rằng phía trước sẽ thường xuyên gặp điều trở ngại!”. Kể từ đây về sau, tôi nói rằng Tình yêu đã ngự trị tâm hồn tôi, Tình yêu có quyền lực và sức mạnh mà sự tưởng tượng của tôi trao gửi và tôi đành phải thực hiện tất cả mọi mong muốn của tình. Rất nhiều lần tình ra lệnh cho tôi tìm gặp thiên thần trẻ trung này, vì rằng thời thơ ấu tôi vẫn đi tìm nàng, và tôi để ý thấy rằng hình dáng và phong thái của nàng rất cao thượng, quả là có thể dùng lời của nhà thơ Homer để nói về nàng: “Nàng có vẻ như con gái không phải của người trần, mà thần thánh”. Và dù hình bóng nàng thường xuyên ở bên tôi, trao cho tình sức mạnh để sai khiến tôi nhưng với những phẩm chất cao thượng, rằng đã nhiều lần hình bóng này không cho phép tình yêu cai trị tôi mà thiếu lời khuyên của lý trí, một khi những lời khuyên tương tự có ích để mà lắng nghe. Nhưng nếu tôi giữ lâu trong tình cảm và hành động của tuổi trẻ như thế thì câu chuyện của tôi thành ra bày đặt, bởi thế tôi bỏ qua điều này và bỏ qua nhiều thứ có thể lấy ra từ đó để đi đến những lời được ghi trong những chương tiếp theo của ký ức tôi.

              II

              Thời gian trôi qua đã bấy nhiêu ngày, tròn chín năm kể từ ngày Người con gái cao thượng nhất nói trên xuất hiện, vào ngày cuối cùng của những ngày này người đẹp tuyệt vời hiện ra trước mắt tôi trong bộ áo quần màu trắng, giữa hai người đẹp thanh cao khác, những người này lớn tuổi hơn nàng. Khi đi trên đường nàng nhìn về nơi tôi đứng một cách rụt rè và với thái độ nhã nhặn nàng cúi chào tôi, còn tôi khi đó cứ ngỡ như đang nhìn thấy tận cùng của hạnh phúc. Thời khắc của cái cúi chào ngọt ngào ấy chính xác vào chín giờ, và bởi vì lần đầu tiên những lời của nàng bay đến tai tôi nên tôi cảm nhận được vị ngọt tựa hồ như ngất ngây, tôi từ giã mọi người về phòng riêng của mình và bắt đầu suy nghĩ về Con người lịch sự nhất.

              III

              Và trong suy nghĩ về nàng có một giấc mơ ngọt ngào vây lấy tôi, trong giấc mơ này hiện ra một điều kỳ diệu: tôi có vẻ như nhìn thấy trong phòng mình một đám mây màu lửa, sau đám mây này tôi nhận ra hình dáng một người dàn ông nào đấy, vẻ ngoài của người này ai nhìn thấy sẽ vô cùng sợ hãi. Người đàn ông này có vẻ rất vui mừng và trong lời của mình người này nói nhiều điều nhưng tôi chỉ hiểu được ít, trong những lời này tôi hiểu: “Ego dominus tuus: Ta là chúa tể của ngươi”. Trên tay người này dường như có một sinh vật trần truồng đang ngủ được phủ một tấm vải mỏng, hình như có màu hồng. Ghé nhìn rất chăm chú, tôi nhận ra Người đẹp, người mà một ngày trước đã cúi chào tôi. Còn trong một bàn tay của người này có vẻ như đang giữ một vật gì đó cháy lên và tôi ngỡ như người này nói với tôi những lời: “Vide cor tuum: Hãy nhìn vào trái tim mình”. Sau khi đứng yên một lát, người này dường như thức cô gái đang ngủ dậy, đưa ra một lý lẽ đầy sức mạnh để bắt nàng nuốt cái vật đang cháy ở trên bàn tay kia, và cô gái sợ hãi nuốt vào. Sau một thời gian, vẻ vui nhộn của người này trở thành tiếng khóc cay đắng. Vừa khóc, người này vừa nâng người đẹp trên tay rồi cùng với nàng có vẻ như bay vào trời xanh. Tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi, giấc mơ yếu ớt của tôi không chịu nổi đã bị cắt đứt – và tôi tỉnh giấc. Ngay lúc đó tôi bắt đầu suy ngẫm và nhận thấy rằng cái giờ mà tôi trong mơ nhìn thấy là giờ thứ tư của đêm ấy, từ đó rõ một điều rằng đấy là giờ đầu tiên trong chín giờ cuối cùng của đêm.
              Suy nghĩ kỹ về điều thấy trong mơ tôi quyết định thông báo cho những người tuyên truyền nổi tiếng của thời ấy. Vì tôi đã bắt đầu để ý học cách làm thơ nên tôi quyết định viết một bài thơ mà trong đó tôi chào mừng tất cả những người chung thủy của Tình yêu và đề nghị họ giải thích về giấc mơ của tôi. Tôi giãi bày cho họ những gì tôi thấy trong giấc mơ của mình và bắt đầu bài thơ bằng những lời: “A ciascun´alma presa e gentil core: Hồn ai say…”

              Hồn ai say, tim ai đầy ánh sáng
              Thơ của tôi hiện ra trước mắt ai
              ý nghĩ sâu xa ai nói ra lời
              Vì tên gọi Tình yêu – tôi chào đón.

              Hai chục phút, khi hành tinh xuất hiện
              Tỏa hào quang và kết thúc đường mình
              Trước mắt tôi Tình yêu bỗng hiện lên
              Thật khủng khiếp khi lòng tôi nhớ đến.

              Tình đi trong hoan hỉ, và trên tay
              Giữ trái tim tôi, còn trong tay ấy
              Có một nàng Trinh Nữ ngủ rất say.

              Tình cho nếm mùi khi nàng thức dậy
              Từ trái tim – và cuống quít, rối bời
              Trong nước mắt, Tình biến mất sau đấy.


              Bài sonnê này chia làm hai phần: ở phần thứ nhất tôi chào đón và đề nghị câu trả lời; ở phần thứ hai, tôi chỉ ra điều cần trả lời. Phần thứ hai bắt đầu thế này: “Hai chục phút…” Có nhiều người trả lời bài thơ này và theo nhiều vẻ khác nhau, trong số này có một người tôi gọi là đầu tiên trong những người bạn của tôi; người này viết bài thơ bắt đầu bằng câu: “Anh thấy đấy, tôi mơ màng, tất cả rất hoàn mỹ…” Và diều này có vẻ như là sự bắt đầu của tình bạn chúng tôi, khi người này hiểu rằng tôi đã gửi bài thơ cho anh ấy. í nghĩa thật của giấc mơ kia, khi đó chưa ai biết, còn bây giờ thì đã rõ ràng và chất phác.

              IV

              Kể từ khi nhìn thấy, Linh hồn Thiên nhiên của tôi trở nên khó nhọc làm việc của mình, vì tất cả tâm hồn trao hết cho suy nghĩ về Người con gái cao thượng nhất; vì rằng trong phút chốc tôi trở nên yếu đuối và uể oải, rằng nhiều người bạn lấy làm buồn phiền cho dáng vẻ của tôi, một số khác thì ganh tỵ, muốn biết cái điều mà tôi giấu mọi người. Còn tôi, nhìn ra âm mưu nham hiểm trong những câu hỏi mà người ta hỏi tôi, hỏi ý chí của Tình yêu, theo lời khuyên của lí trí, đã trả lời họ rằng Tình yêu đang ngự trị tôi; tôi gọi là Tình yêu bởi vì tôi mang trên gương mặt của mình quá nhiều những dấu hiệu của tình yêu mà không thể nào che giấu được. Khi người ta hỏi tôi: “Tình yêu bắt ngươi đau khổ vì ai?…” – tôi cười, nhìn họ và không trả lời gì cả.

              V

              Một lần, Người con gái cao thượng nhất ngồi ở nơi có những lời vang lên về Nữ hoàng của vinh quang thì tôi cũng ở nơi để có thể nhìn thấy niềm hạnh phúc của mình; còn ở giữa tôi và nàng, theo một đường thẳng, có một người trinh nữ với vẻ mặt rất dễ chịu thường xuyên ngó nhìn tôi, lấy làm ngạc nhiên với ánh nhìn của tôi, bởi thế mọi người nhìn thấy ánh mắt của nàng. Và có nhiều người để ý nên khi tôi rời chỗ, nghe những lời nói sau lưng: “Xem kìa, người đẹp làm cho chàng trai kia đau khổ”. Và khi họ gọi tên nàng, tôi nghe những lời về người con gái ở giữa đường thẳng, bắt đầu từ người con gái cao thượng nhất Beatrice và kết thúc ở trong đôi mắt tôi. Khi đó tôi rất bình tĩnh và tin rằng, ngày ấy, vẻ bí mật của tôi chưa lộ ra qua vẻ bên ngoài. Và ngay lập tức tôi nghĩ rằng cần phải làm cho người con gái này trở thành điều che giấu sự thật. Trong thời khắc tôi đã làm được điều này và số đông những người nói về tôi đã biết điều bí mật này. Tôi tránh gặp người này mấy năm để cho những người khác thêm tin tưởng, tôi đã viết tặng nàng mấy bài thơ liền nhau, nhưng sau đấy tôi có ý định thể hiện những lời của mình về Beatrice và chỉ để ca ngợi nàng.

              VI

              Tôi nói rằng khi người con gái này che chở cho tôi bằng một tình yêu mạnh mẽ thì tôi có mong muốn nhắc tên người con gái cao thượng nhất cùng với tên những cô nương khác; tôi lấy tên sáu mươi cô nương đẹp nhất của thành phố, nơi nàng sinh ra theo ý của Đức Chúa Trời, và tôi viết bằng thể thơ serventese mà tôi sẽ không truyền đạt; tôi có lẽ đã không nhắc đến, nếu đã không cần thiết nói rằng có một điều kỳ diệu xảy ra là trong số tên các cô nương kia thì cô nương của tôi không thuộc về con số nào khác ngoài con số chín.

              VII

              Cô nương mà tôi có được sự che chở cho điều ao ước trong một thời gian dài kia phải đi đến một nơi xa; bởi thế tôi sợ đánh mất sự che chở tuyệt vời đã khiến tôi đau khổ mà trước đó tôi chưa hề biết được. Và tôi nghĩ rằng nếu tôi không nói về chuyến đi đau buồn thì mọi người sẽ nhận ra vẻ giả vờ của tôi, bởi thế tôi quyết định viết một bài thơ; tôi sẽ truyền đạt nó, vì rằng cô nương của tôi là nguyên nhân trực tiếp của nhiều lời trong bài thơ này, và người ta sẽ nhận ra nếu hiểu nó. Và tôi viết bài thơ bắt đầu như thế này: “O voi che par la via: Hỡi những ai với tình yêu trong đời..”

              Hỡi những ai với tình yêu trong đời
              Xin hãy lắng tai nghe và hãy nói
              Nỗi đau nào bằng đau đớn của tôi?

              Quả thực tình yêu theo chuỗi tháng ngày
              Xin hãy tha thứ cho điều ước muốn
              Mà những ngày qua đã rất hào phóng
              Với những lời tôi nghe được bên tai:
              “Hãy nhìn xem kìa, phải chăng số phận
              Ban cho anh ta niềm vui suốt cuộc đời?”

              Nay ở đâu rồi âu yếm vỗ về tôi?
              Ai trả cho tôi tình yêu cao thượng?
              Tôi mòn mỏi đợi chờ
              Trước tương lai cúi xuống.

              Ai đem niềm khát khao giấu diếm
              Vì xấu hổ, sự bố thí không mong –
              Gương mặt tôi luống cuống
              Và buồn đau, thổn thức trong lòng.


              Bài thơ này có hai phần chính: ở phần đầu tôi kêu gọi Tình yêu chung thủy bằng những lời của nhà tiên tri Jeremiah, nói rằng: “O vos omnes qui transitis per viam, attendite et videte si est dolor sicut meus”: “Hỡi những người đi trên đường, hãy lắng nghe và hãy nhìn xem có nỗi đau khổ nào như đau khổ của tôi”, và cầu xin để họ rủ lòng thương mà nghe tôi; phần thứ hai – tôi kể rằng từ đâu mà tình xuất hiện trong tôi, nhưng với một nghĩa khác, không phải như hai phần đầu và cuối của bài thơ, và tôi nói rằng tôi đã đánh mất nó. Phần thứ hai bắt đầu bằng những lời: “Amor non gia..." “Quả thực tình yêu…”

              VIII

              Sau khi cô nương cao thượng ra đi thì vị chúa tể của những thiên thần gọi về vinh quang của mình một cô nương nào đấy trẻ trung và có dáng vẻ rất cao quý, người được yêu mến ở thành phố nói trên; tôi nhìn thấy thân thể nàng nằm bất động giữa những cô nương đang khóc lóc đau khổ. Tôi bỗng nhớ lại, có một lần tôi từng thấy nàng đi cùng cô nương cao thượng nhất, tôi đã không cầm được dòng nước mắt và tôi quyết định nói đôi lời tưởng nhớ người mà tôi từng nhìn thấy đi cùng cô nương của mình. Vì thế, ai đọc phần cuối những lời tôi đã nói sẽ hiểu; tôi viết hai bài thơ, một bài bắt đầu bằng: “Piangete, amanti..." “Tình trong nước mắt..”, còn bài thứ hai: “Morte villana..." “Cái chết dữ dằn…”

              Tình trong nước mắt; ai yêu – khóc với Tình!
              Nỗi buồn tình yêu nặng nề không thể tả
              Giữa những người đẹp Tình yêu nức nở
              Và tôi nhận ra tiếng khóc của Tình.

              Cái chết dữ, bằng nghiệt ngã của mình
              Mang tàn úa đến cho con tim trẻ
              Và lấy đi vẻ yêu kiều tuyệt mỹ
              Chỉ một lời “không được!..” cứ kêu lên.

              Giờ Tình yêu tỏ ra nghe cái chết
              Tôi nhìn ra: Tình nức nở, bồi hồi
              Tình cúi mình trên tro tàn vẻ đẹp.

              Và thường xuyên ánh mắt hướng lên trời
              Nơi linh hồn đang dạo chơi hạnh phúc
              Trên mặt đất nhìn thấy trong niềm vui.


              Bài thứ nhất chia làm ba phần: ở phần một – tôi kêu gọi tất cả những ai chung thủy với Tình yêu hãy khóc và nói rằng vị chúa tể khóc than về họ, rằng “nỗi buồn tình yêu nặng nề không thể tả”, họ cần nói rằng cần phải nghe tôi; ở phần hai – tôi nêu nguyên nhân này; ở phần thứ ba – tôi nói về niềm vinh dự mà Tình yêu mang đến cho cô nương. Phần hai bắt đầu: “Amor sente: Giữa những người đẹp…”; còn phần ba: “Audite: Giờ Tình yêu…”

              Cái chết dữ dằn, kẻ thù của đau khổ
              Mẹ của nước mắt và của tiếng kêu than
              Vị quan xét xử cay nghiệt, chẳng xót thương
              Đốt con tim bằng nỗi buồn tưởng nhớ!
              Trong sự suy tư của phiêu bạt tha phương
              Ta sẽ không ngừng đem mi ra nguyền rủa.

              Chính vì thế mà ta không kín kẽ
              Bài ca của ta sẽ nói những lời ta
              Rằng mi là nguyên nhân cái ác và đau khổ
              Cứ để mặc thế gian biết ra sự thật là
              Cái sự thật chính nó là tội lỗi
              Vì ai không hề biết đến tình ta.

              Vẻ dịu dàng từ cuộc đời mang ra
              Tuyệt vời hơn trong con người cao cả
              Và ở trong chàng trai vô tư lự
              Niềm vui với tình đã vội bay xa.

              Cái chết ra sao, ta chẳng mở ra
              Những đường nét – trong bài ca ngắn ngủi
              Với đời muôn thuở là tên phản bội
              Thân xác diệu kỳ nó chẳng nhận ra.


              Bài thơ này chia làm bốn phần: ở phần một tôi gọi cái chết bằng những cái tên của nó; ở phần hai – tôi nói cùng cái chết, nêu ra cái nguyên nhân khiến tôi nguyền rủa nó; ở phần ba – xỉ vả nó; ở phần bốn – tôi nói với một nhân vật không cụ thể, tuy vậy tôi vẫn biết rõ. Phần thứ hai bắt đầu bằng: "poi che hai data..." “Đốt con tim…”; phần thứ ba: “E s’io di grazia..." “Chính vì thế…”; phần thứ tư: "Chi non merta salute..." “Với đời muôn thuở là tên phản bội…”

              #7
                cacbac 08.12.2007 10:59:10 (permalink)
                IX

                Mấy ngày sau cái chết của cô nương này có một điều làm tôi đi khỏi thành phố nói trên và đi đến nơi cô nương cao thượng, người đã từng che chở cho tôi, mặc dù con đường của tôi không xa bằng nơi nàng ở. Và, mặc dù có vẻ tôi cùng nhiều người, cuộc du hành tôi thấy khó chịu, những tiếng thở dài luống cuống vì con tim cảm thấy cách xa niềm hạnh phúc của mình. Và bỗng nhiên vị chúa tể ngọt ngào nhất điều khiển tôi vì những đức tính của cô nương cao thượng nhất, tôi hình dung ra trong vẻ của một người đồng hành, mặc quần áo nhẹ nhàng may bằng thứ vải thô. Người này có vẻ phiền muộn và nhìn xuống đất, chỉ thỉnh thoảng có vẻ nhìn dòng suối trong suốt, chảy nhanh và tuyệt đẹp chảy bên con đường mà tôi đi. Tôi ngỡ rằng người bạn đường – Tình yêu nhìn sang tôi và nói những lời sau: “Tôi từ cô nương mà nhiều ngày là sự che chở của anh, tôi biết rằng ít nữa nàng sẽ trở về; và con tim mà tôi buộc anh trao cho nàng, tôi vẫn mang theo, sẽ là sự che chở cho anh như người trước đây”. Người này gọi tên nên tôi biết rõ. “Tuy nhiên, nếu anh nghĩ rằng truyên đạt lời gì đó mà tôi đã nói với anh thì hãy truyền đạt sao cho khéo tình yêu mà anh cần hướng tới nàng”. Nói xong những lời này, hình bóng kia biến mất khỏi mắt tôi, vì thế tôi ngỡ rằng Tình yêu đã trao cho tôi một phần lớn. Một chút đổi thay trên nét mặt, tôi tiếp tục lên đường trong cái ngày này trầm tư và thường xuyên thở dài. Một ngày sau tôi bắt đầu viết bài thơ bắt đầu bằng: “Cavalcando".

                Một buổi chiều tôi rong ruổi trên đường
                Trong mỏi mệt đường xa và đau khổ
                Trên đường ấy tôi với Tình gặp gỡ
                Người lữ hành mặc chiếc áo giản đơn.

                Giống như người cần gì đó với nhau
                Tôi cứ ngỡ vẻ ngoài rất tội nghiệp
                Người thổn thức và vội bàn chân bước
                Trước người quen như cúi xuống mái đầu.

                Nhìn thấy tôi, người nói: “Xin giã biệt
                Đến muôn đời tôi về chốn xa xăm
                Nơi con tim ngươi phụng sự áng chừng

                Vì bây giờ phụng sự niềm vui khác…”
                Nghe những lời trên tôi thấy ngại ngùng
                Rồi người biến mất, tôi không biết được.


                Bài thơ này có ba phần: ở phần thứ nhất tôi kể rằng tôi đã gặp gỡ Tình yêu và ngỡ tình ra sao; ở phần thứ hai kể rằng Tình đã nói gì với tôi, mặc dù không phải tất cả vì sợ mở ra điều bí mật; ở phần thứ ba nói về Tình đã biến mất ra sao. Phần thứ hai bắt đầu bằng: “Quando mi vide" “Nhìn thấy tôi…”; phần thứ ba: “Allora presi.." “Nghe những lời…”.

                X

                Sau khi trở về tôi đi tìm cô nương mà vị chúa tể đã gọi tên cho tôi trên con đường thổn thức, nhưng để cho câu chuyện của tôi ngắn hơn, tôi chỉ nói rằng trong một thời gian ngắn tôi đã biến nàng thành sự che chở cho mình, rằng nhiều người hiểu điều này ngoài giới hạn của sự nhã nhặn mà tôi nhiều lần đã trầm tư suy nghĩ. Vì nguyên nhân này, nghĩa là vì sự xúc phạm mà người ta đồn đại về tôi, khiến người cô nương cao thượng nhất khi đi trên phố đã từ chối tôi bằng cái cúi chào ngọt ngào nhất, là tất cả hạnh phúc của tôi. Và để phần nào sáng tỏ điều bây giờ tôi đang nói, tôi muốn giải thích rằng cái cúi chào của nàng đã làm cho tôi hạnh phúc biết nhường nào.

                XI

                Tôi nói rằng: khi nàng xuất hiện bất kể từ phía nào thì niềm hy vọng về cái cúi chào xua đi tất cả mọi cái xấu trong tôi và làm đốt lên ngọn lửa của từ bi, bắt tôi tha thứ cho những ai đã xúc phạm đến tôi. Và nếu như người ta hỏi tôi điều gì khi đó thì câu trả lời của tôi chỉ có một: “Tình yêu…” – và gương mặt của tôi đầy vẻ nhún nhường. Và khi gần khoảnh khắc của sự cúi chào, linh hồn của tình yêu xua đuổi những linh hồn khác, xua đuổi những linh hồn yếu đuối của thị giác và nói rằng: “Hãy đến và tôn vinh danh sự cô nương” – còn tôi đứng yên tại chỗ. Và giá như ai đó muốn nhận thức tình yêu, thì người này có thể làm được điều này khi nhìn vào đôi mắt run rẩy của tôi. Khi cô nương cao thượng nhất cúi chào, Tình yêu không chỉ không cản trở một niềm hạnh phúc bao trùm lấy tôi mà còn ngọt ngào đến mức thân thể của tôi như chịu sự sai khiến của nàng, khi đó cử động có vẻ như một vật gì đó rất nặng nề và buồn tẻ. Từ đó rõ ràng một điều rằng trong cái cúi chào của nàng là niềm hạnh phúc của tôi và rất nhiều lần vượt quá sức lực của tôi.

                XII

                Bây giờ, trở lại với đối tượng của câu chuyện, tôi xin nói rằng sau khi niềm hạnh phúc của tôi bị từ chối thì có một nỗi buồn thương làm cho tôi chạy trốn mọi người để trút dòng nước mắt cay đắng, sau khi dòng nước mắt đã vơi bớt, tôi đi về phòng của mình, là nơi tôi đau khổ mà không sợ ai nghe thấy. Ở đây tôi cầu xin lòng thương của cô nương và thốt lên: “Tình yêu ơi hãy giúp người chung thủy!” – và tôi thiếp đi trong nước mắt giống như đứa trẻ bị đánh. Trong giấc ngủ, có vẻ tôi nhìn thấy một chàng trai trẻ trong nhà mình, ngồi gần bên, mặc áo quần màu trắng, nhìn với vẻ trầm tư và nói những lời: “Fili mi, tempus est ut praetermittantur simulacra nostra: Con trai ơi, đã đến lúc chia tay với những cái giả vờ”. Khi đó tôi ngỡ là tôi biết người này vì đã nhiều lần gọi tôi, tôi thấy người này có vẻ khóc và đợi câu trả lời của tôi, thế là tôi lấy can đảm và nói: “Vị chúa tể cao thượng ơi, tại sao ngươi khóc?” Và người này trả lời tôi: “Ego tanquam centrum circuli, cui simili modo se habent circumferentiae partes: tu autem non sic: Ta giống như trung tâm của vòng tròn, cách xa những phần bên; ngươi không giống như vậy”. Khi tôi suy nghĩ về những lời trên thì tôi ngỡ rằng người này trả lời rất mờ ảo, bởi thế, tôi buộc phải nói những lời sau: “Sao thế, vị chúa tể của tôi, ngươi trả lời tôi rất mờ ảo?” – thế là người này trả lời bằng lời thông thường: “Đừng hỏi nhiều, chẳng lẽ có ích gì cho ngươi”. Tôi trò chuyện với người này về cái cúi chào mà tôi bị từ chối và hỏi về nguyên nhân thì được trả lời: “Beatrice của chúng ta nghe người ta nói rằng cô nương mà ta đã nói với ngươi trên con đường thổn thức đã giận ngươi, bởi thế Cô nương – người trái ngược với những điều khiếm nhã không hạ cố đoái hoài đến sự chào đón của ngươi, e ngại bị rơi vào tình thế bất lịch sự. Vì rằng nàng có thể biết điều bí mật của ngươi vì đã biết ngươi từ lâu, nên ta muốn ngươi viết một bài thơ kể về sức mạnh của ta đối với ngươi thay vì nàng và rằng ngươi đã thuộc về nàng từ ngày thơ ấu. Để chứng kiến cho điều này, ngươi hãy gọi người biết chuyện và hãy nói rằng ngươi nhờ người ấy báo cho nàng biết. Vì rằng ta là người chứng kiến như vậy nên ta sẵn lòng giải thích để nàng biết mong muốn của ngươi và hiểu ra những lời đàm tiếu. Lời thơ ngươi hãy viết sao cho có vẻ hơi vòng vo một chút mà không nói thẳng trực tiếp với nàng, và không qua ta, ngươi chớ gửi đi đâu, những nơi mà nàng có thể nghe thấy, trang điểm lời thơ sao cho ngọt ngào để như mọi lần, khi ta cần đến”. Nói xong những lời này, người kia biến mất – và giấc mơ của tôi đứt quãng. Tôi nhớ lại những điều mơ thấy trong giờ thứ chín của ngày và quyết định trước khi ra khỏi phòng mình, viết một bài ballata, trong bài thơ này sẽ thể hiện những điều mà vị chúa tể đã ra lệnh cho tôi, bài ballata bắt đầu bằng “Ballata i’ voi…”

                Bài Ballad, hãy đi tìm Tình yêu
                Với Tình yêu trình diện cùng người đẹp
                Để nàng sẽ nghe ra, trong câu hát
                Chúa tể với nàng hãy nói đôi điều.

                Ngươi hãy dịu dàng, đằm thắm, yêu kiều
                Rằng ngươi chỉ một mình, không bè bạn
                Ở khắp nơi dám đương đầu nguy hiểm
                Nhưng nếu con tim lo âu
                Thì hãy đừng trì hoãn
                Hãy lên đường cùng với Tình yêu.
                Vì cho kẻ mà ngươi mang tin đến
                Ta biết rằng có điều chi thù hận
                Nếu ngươi chỉ đến một mình
                Có thể nàng không nghe lời cầu khẩn.
                Ngươi hãy đến và reo vui, sung sướng
                Rồi hãy lặng im khi đứng trước nàng
                Hãy gắng van vỉ và cầu xin:
                “Người đẹp ơi, cái người gửi tôi đến
                Chỉ ước ao, nếu như người vui
                Được làm kẻ bảo vệ cho người
                Vì Tình yêu khao khát
                Đổi thay vẻ ngoài nhờ sắc đẹp
                Tình sai phụng sự người khác kia
                Nhưng thủy chung, chỉ phục tùng người đẹp”.

                Và hãy nói với nàng: “Hỡi người đẹp
                Lòng chung thủy của người này
                Và ý nghĩ chỉ về người đẹp thôi
                Người này không cần ai khác”.
                Còn nếu như nàng không tin câu hát
                Thì để Tình yêu thú thật với nàng
                Vì nàng từng chối từ giã biệt
                Kẻ nô lệ trung thành đang ở trần gian
                Hãy để nàng đưa ta vào cõi chết.

                Hãy cầu xin nàng sự phục tùng
                Và hãy ngay lập tức quay lại
                Một khi lời nàng nói chưa xong:
                “Vì những dòng thơ ngọt ngào ca ngợi
                Đáp lại lời van vỉ cầu xin
                Nỗi lòng ta cứu giải”.
                Ngay khi nàng dứt lời nói
                Thì hãy vội vàng với vẻ hân hoan –
                Bài Ballad thân yêu, hãy lên đường
                Hãy bay đi, mang niềm vinh dự tới!


                Bài Ballad này chia làm ba phần: ở phần thứ nhất tôi nói bài thơ đi đâu và tán dương để nó tin tưởng ra đi, tôi nói bài thơ thuộc về người đồng hành nếu muốn được che chở khỏi nguy hiểm; ở phần thứ hai – tôi nói về điều cần làm; ở phần thứ ba – tôi cho phép nó lên đường khi muốn và trao con đường cho số phận. Phần thứ hai bắt đầu như vậy: ‘Con dolze sono..: Ngươi hãy đến và reo vui, sung sướng; phần thứ ba: ‘Gentil ballata..: Bài ballad thân yêu, hãy lên đường”.
                Ai đấy có thể trách tôi và nói rằng không hiểu những lời tôi nói với ai qua nhân vật thứ hai, vì rằng bài ballad chính là những lời tôi viết, và tôi nói rằng điều chưa rõ ràng này tôi sẽ giải thích ở phần sau của cuốn sách, khi đó thì ai ai cũng rõ, kể cả những người ở đây còn nghi ngờ và còn trách móc tôi.
                …………………………………………† ?……..

                …………………………………………† ?……….

                XLI

                Sau đó hai cô nương cao thượng yêu cầu tôi gửi cho họ những dòng thơ này. Suy nghĩ về vẻ cao thượng của họ, tôi quyết định gửi thơ cho họ và viết bài thơ mới để gửi cùng những bài khác và để thực hiện tốt lời yêu cầu của họ. Tôi viết bài sonetto nói về trạng thái của tôi và gửi cho họ cùng với những bài thơ khác bắt đầu bằng: ‘Venite a intender: Hãy đến để mà nghe”.
                Bài sonetto tôi viết khi đó bắt đầu bằng: Oltre la spera: Trên hình cầu” bao gồm năm phần. Ở phần thứ nhất tôi nói về ý nghĩ tôi đi đâu, gọi tên của hành động. Ở phần thứ hai tôi nói rằng tại sao ý nghĩ lên cao, nghĩa là ai dẫn lên đó. Ở phần ba tôi nói rằng thơ nhìn thấy gì, nhìn thấy cô nương nào ở trên cao và tôi gọi là “hồn lãng du” vì lên cao, tựa như người du hành ở xa quê hương mình và ở lại đấy. Ở phần bốn – tôi nói rằng hồn nhìn thấy nàng với những phẩm chất mà tôi không hiểu được, nghĩa là ý nghĩ của của tôi lên cao đến mức mà lý trí không nhận biết được, rằng trí tuệ của ta có thái độ với những linh hồn cao thượng tương tự như con mắt người yếu kém với mặt trời: chính điều này Nhà triết học nói đến trong quyển Siêu hình thứ hai. Ở phần năm – tôi nói rằng dù không hiểu được sự vật mà ý nghĩ tôi hướng đến, nghĩa là phẩm chất kỳ diệu nhưng tôi hiểu rằng tất cả những điều này là sự suy ngẫm về cô nương của tôi vì tôi thường xuyên nghe tên nàng trong ý nghĩ, và ở đoạn cuối của phần năm tôi nói ‘donna mie care: ôi những co nương ơi” để nói rằng tôi đang hướng về các cô nương. Phần hai bắt đầu bằng ‘intelligenza nova: một trí khôn rất mới..”; phần ba: ‘Quand´elli ố giunto: Trước sứ giả này..”; phần bốn ‘Vedela tal: Hồn nhìn ra..”; phần năm: ‘So io che parla: hồn đang nói về..”.
                Có thể chia ra các phần nhỏ hơn và giải thích một cách cặn kẽ hơn nhưng có thể không cần chia ra như thế, bởi vậy tôi sẽ không phân chia tiếp.

                Trên hình cầu, sứ giả của con tim
                Lượn vòng quanh, hơi thở tôi qua đấy:
                Với nỗi buồn, một Trí khôn rất mới
                Tình trao cho, đang vỗ cánh bay lên.

                Trước sứ giả này, một giới hạn ước mong
                Thấy người đẹp trong một niềm tôn kính
                Trong tốt đẹp, trong huy hoàng xán lạn
                Rằng hồn lãng du không thể không nhìn.

                Hồn nhìn ra, lên tiếng, nhưng mà tôi
                Không hiểu nghĩa của một lời láu lỉnh
                Dù hồn tôi chăm chú nghe điều tiếng

                Nhưng hiện ra: hồn đang nói về Người
                Tôi nghe ra cái tên: “Beatrice” –
                Và hiểu ra, ôi những cô nương ơi.


                XLII

                Sau bài thơ này có một hình ảnh tuyệt diệu mà trong đó tôi nhìn thấy những điều bắt buộc tôi quyết định không nói về con người cao thượng, cho đến khi tôi chưa thể tường thuật lại một cách xứng đáng hơn. Và, để đạt được điều này, tôi làm những gì có thể như chính nàng thực sự biết điều này. Vì thế, nếu con người rất sống động ấy vui lòng, để cuộc đời tôi kéo dài thêm một vài năm, tôi hy vọng được nói về nàng cái điều mà chưa bao giờ có ai từng nói như vậy về một con người. Còn sau đấy, hẳn là Thượng Đế bao dung sẽ vui lòng, để linh hồn tôi có thể bay lên và nhìn thấy vinh quang người Trinh Nữ của mình, là người tôi mang ơn, có tên Beatrice, người mà ai có vinh hạnh được ngắm nhìn gương mặt Nàng, qui est per omnia saecula benedictus (người đó đến trọn kiếp mang niềm ân huệ).

                #8
                  cacbac 08.12.2007 11:01:47 (permalink)


                  Francesco Petrarca (1304-1374) – nhà thơ Italia, người được coi là ông tổ của thơ mới châu Âu.

                  Tiểu sử:
                  Sinh ngày 20-7-1304 ở Arezzo. Bảy tháng sau gia đình chuyển đến Toscana. Năm 1312 cả nhà lại chuyển sang Avignon, Pháp. Năm 1320 Petrarca cùng anh trai sang Bologna học ngành luật. Sau khi bố mất, cả hai anh em trở lại Avignon. Năm 1327, trong ngày Thứ Sáu tốt lành, Petrarca gặp và yêu cô gái có tên là Laura ở nhà thờ Avignon. Chính Laura là nguồn cảm hứng cho Petrarca viết hàng trăm bài sonetto bất tử.

                  Tác phẩm:
                  Năm 1337 Petrarca viết thiên sử thi “Châu Phi” (Africa) về nhà chinh phục Scipio Africanus và cuốn “Về những người nổi tiếng” (De Viris Illustribus). Năm 1341 nghị viện La Mã trao tặng nhà thơ giải thưởng vòng nguyệt quế. Những năm 1342-1343 Petrarca viết cuốn “Bí mật của tôi” (Secretum Meum), các trường ca “Tình yêu lên ngôi” (Triumphus Cupidinis), “Trí tuệ lên ngôi” (Triumphus Pudicitie). Năm 1350 Petrarca làm quen với nhà thơ Boccaccio và viết thêm một số tác phẩm như: “Vinh quang lên ngôi” (Triumphus Fame), “Cái chết lên ngôi” (Triumphus Mortis)…
                  Tuy vậy, tác phẩm nổi tiếng nhất của Petrarca là “Quyển sách những bài ca” (Canzoniere). Đã bao thế kỉ trôi qua nhưng loài người vẫn mãi còn nhớ đến Petrarca với “Quyển sách những bài ca” gồm 317 bài sonetto và nhiều bài thơ khác. “Quyển sách những bài ca” bao gồm “Những bài ca về cuộc đời của người đẹp Laura” và “Những bài ca về cái chết của người đẹp Laura”. Petrarca nhìn thấy Laura buổi sáng ngày 6 tháng 4 năm 1327 ở Avignon. Đó là một ngày Thứ sáu định mệnh. Chàng thi sĩ 23 tuổi đang đắm mình trong những lời cầu nguyện bỗng nhiên bắt gặp ánh mắt nhìn của người đẹp Laura. Chàng thi sĩ đã yêu nàng ngay từ cái nhìn đầu tiên này như một thứ ánh sáng siêu nhiên ngoài trái đất. Khi đó Laura đã lấy chồng được 2 năm. Sau này nàng có 11 đứa con. Còn chàng thi sĩ sau lần gặp cái ánh mắt ấy suốt 21 năm trời ngồi làm thơ ca ngợi nàng như một thiếu nữ Trinh bạch và Thanh khiết. Chàng đã trút hết tình cảm của mình vào những dòng thơ ca ngợi nàng và cứ mỗi ngày mỗi mạnh. Dường như Laura cũng từng biết đến những bài thơ này, nhưng… "nhưng mà em đã thuộc về người khác". Năm 1348 nạn dịch hoành hành khắp châu Âu đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người, trong số đó có Laura. Nàng chết đúng vào giờ, ngày, tháng và ở thành phố – đúng thời gian và địa điểm, nơi mà những ánh mắt kia đã giao nhau. Cái chết của Laura đối với Petrarca là một mất mát không có gì bù đắp nổi. Ông mất ngày 18-7-1374 tại Arquà.



                  10 bài Sonetto

                  LXI

                  Ta cám ơn ngày tháng, phút giây
                  Và khoảnh khắc, khi ánh nhìn ta gặp
                  Ta trở thành kẻ tù binh của mắt
                  Ta cám ơn thành phố của ta đây.

                  Ta cám ơn nỗi đau, lần đầu tiên
                  Ta cảm nhận mà không hề nhìn thấy
                  Rằng mũi tên tình yêu sâu đến vậy
                  Đức Chúa Trời đã cắm nó vào tim!

                  Và thổn thức, nức nở, ta cám ơn
                  Trong giấc mơ rừng sồi ta nghe thấy
                  Thức dậy trong lòng ta một cái tên!

                  Ta cám ơn những bài thơ của mình
                  Đã hát lên ngợi ca con người ấy
                  ý nghĩ về nàng kết lại quang vinh.

                  LXII

                  Ngày lại ngày nối đuôi nhau thơ thẩn
                  Đêm mơ về người con gái ta yêu
                  Tại vì người ta chịu đựng đã nhiều
                  Những đường nét tuyệt vời ta say đắm.

                  Ta cầu Chúa bằng việc làm xứng đáng
                  Suy sụp của ta xin được đền bù
                  Và ta vây bắt loài quỉ sứ kia
                  Bằng lưới bện từ trong hang ổ chúng.

                  Năm thứ mười một bây giờ đang đến
                  Kể từ khi ta chịu cảnh tù đày
                  Sự nghiệt ngã được đóng bằng dấu triện.

                  Xin tha thứ cho kẻ không xứng đáng
                  Hãy nhắc ta nhớ ý nghĩ của mình
                  Như trong ngày Đức Chúa bị đóng đinh.

                  LXV

                  Bị tấn công tôi không hề chuẩn bị
                  Không biét rằng sẽ chịu cảnh tù đày
                  Rằng Thần Tình yêu – quyền lực tối cao
                  Có thêm tôi, thêm một người nô lệ.

                  Tôi không tin Thần Tình yêu như thế
                  Rằng con tim tôi đến nỗi yếu mềm
                  Để mất hết rồi cảm xúc đầu tiên
                  Ôi! Lòng tự tin sao mà nghiệt ngã.

                  Chỉ một điều tôi năn nỉ xin Thần
                  Dù một chút lòng thương, xin hãy giữ
                  Trước lời cầu, Thần có vẻ bao dung

                  Ô không, không phải để trong tim
                  Tắt lửa tình, mà xin đem chia sẻ
                  Đem cho nàng một nửa khối tình chung.



                  CXXXII

                  Cơn sốt này không phải tình yêu sao
                  Ta bị rét? Chính vì tình yêu đó
                  Tình tốt đẹp? Nhưng trời ơi đau khổ
                  Ngọn lửa ác?… Những đau khổ ngọt ngào.

                  Biết trách ai, ta tự bước chân vào
                  Vòng quyến rũ, thở than cho phí uổng
                  Trong đời: cái chết và tình yêu thật giống
                  Thật giống nhau khát vọng với nỗi đau.

                  Ta cầu cứu hay đành chịu nhận về
                  Quyền lực khác?… Lý trí ta lầm lẫn
                  Ta – con thuyền nhỏ trên bồng bềnh con sóng.

                  Không người lái, mạn đuôi thuyền trống rỗng
                  Ta dùng dằng – chẳng biết muốn điều chi
                  Trời rét – cháy lên, ta run – khi trời nóng.

                  CCXLVIII

                  Không hình dung nổi Thiên nhiên hậu hĩnh
                  Và trời xanh, nếu mắt chẳng thấy Người
                  Kẻ đối với ta đã hoá mặt trời
                  Mọi tinh cầu giữa trời xanh che kín.

                  Đừng trì hoãn khi người ta đi đến
                  Lấy những gì tốt đẹp, bỏ xấu xa
                  Và cái chết sẽ vun vút mang đi
                  Sau cái chết là tự do lựa chọn.

                  Đừng chậm trễ – và ngươi qua ánh mắt
                  Trong một niềm sáng tạo sẽ cùng ta
                  Mọi phẩm hạnh và muôn vàn vẻ đẹp.

                  Và nói rằng thơ của ta đã tắt
                  Rằng lí trí ta bất hạnh mù loà
                  Ai không kịp, sẽ rót đầy nước mắt.



                  CCXLIX

                  Tôi nhớ lại một ngày – và thờ thẫn
                  Lại thấy ánh nhìn tiễn biệt đau thương
                  Của người đẹp – và tuyệt vọng bao trùm
                  Tôi sung sướng được quên, nhưng mà chẳng.

                  Hình dáng buồn với hồn tôi kết đọng
                  ánh mắt kia thánh thiện đến muôn đời
                  Cảm thấy rằng người kinh tởm trò vui
                  Vây quanh người có một điều lo lắng.

                  Vẻ linh hoạt biến mất, và dấu vết
                  Màu áo quần tái nhợt và buồn đau
                  Màu sắc bài ca quên lãng từ lâu.

                  Tôi lo lắng trong lòng – và nhớ hết
                  Những giấc mơ, những linh cảm buồn thương
                  Tôi cầu Trời, nuôi những ý tưởng nhầm.

                  CCL

                  Vẻ thần tiên từ lâu trong xa ngái
                  An ủi tôi trong giấc mộng mà thôi
                  Người đẹp ơi, ân huệ ở đâu rồi?
                  Trong hồn tôi buồn đau và sợ hãi.

                  Thường xuyên hơn nỗi đau, lòng thương cảm
                  Tôi hình dung trên gương mặt của em
                  Tôi nghe theo, có vẻ thường xuyên hơn
                  Trong ngực này hi vọng không sưởi ấm.

                  “Cái buổi chiều, anh còn nhớ, chưa quên –
                  Người yêu dấu nói với tôi – khi đó
                  Em vội đi có làm anh phật ý?

                  Nhưng bấy giờ không thể nói cùng anh
                  Và em không muốn rằng anh lần cuối
                  Trong cõi đời chiều ấy nhận ra em”.

                  CCXCVIII

                  Nhìn tháng năm đã trôi về dĩ vãng
                  Làm tiêu tan những dự định của ta
                  Ngọn lửa hồng bây giờ đã phôi pha
                  Dấu lặng yên nghiệt ngã và cay đắng.

                  Giấc mơ tình tin vào ta đã chẳng
                  Đã tiêu tan hạnh phúc hai cuộc đời
                  Giờ một dưới đất, một ở trên trời
                  Chỉ còn lại một nỗi niềm cay đắng.

                  Ta khổ sở thấy mình rất nghèo túng
                  Ta tiếc thương cho số kiếp long đong
                  Ta thấy mình ta, sợ hãi vô cùng.

                  Số phận ơi ta đợi phút lâm chung
                  Và ngày trắng trên ngôi nhà tội nghiệp
                  Xin quật đổ và ta đây xin chết.

                  CCXCI

                  Đâu gương mặt sáng ngời, đâu ánh mắt
                  Tôi đi theo, trái với ý của mình
                  Chỉ lối tôi đi cái ánh mắt nhìn
                  Hai ngôi sao dẫn đường như châu ngọc?

                  Đâu trí tuệ, tiết trinh, đâu kiến thức
                  Đâu lời nói dịu êm, lời nói ngọt ngào?
                  Đâu sắc đẹp thần tiên, hình bóng từ lâu
                  Ta theo đuổi, say mê, giờ chợt mất?

                  Đâu nét dịu dàng của vầng trán cao
                  Trong cơn nóng cho ta hơi thở mát
                  Cho ý nghĩ thanh cao, ước mơ dịu ngọt?

                  Người dẫn dắt số phận ta giờ đâu?
                  Đời lầm than đã mất niềm hạnh phúc
                  Mắt ta u sầu, mù đi vì nước mắt.

                  CCC

                  Ta ghen tỵ với tro tàn trong mộ
                  Ngươi tham lam giấu người ấy ta buồn
                  Ngươi lấy đi người con gái yêu thương
                  Chỗ nương tựa trong cuộc đời đau khổ.

                  Và linh hồn trên trời ta ghen tỵ
                  Ngươi nhận về người con gái trẻ trung
                  Đem nàng về trong vòng sáng của mình
                  Còn ta đây vì sao ngươi chối bỏ.

                  Ta ghen tỵ với hạnh phúc của họ
                  Để giờ đây ta chiêm ngưỡng một mình
                  Vầng trán của nàng toả sáng linh thiêng.

                  Và ta ganh tỵ với ngươi – thần chết
                  Mang cuộc đời em về cõi của mình
                  Bỏ lại ta trên đời như sa mạc.

                  #9
                    cacbac 08.12.2007 11:04:07 (permalink)

                    Matteo Bandello (1485-1561)




                    ROMEO & JULIET

                    Câu chuyện bất hạnh và cái chết đau buồn của đôi tình nhân: một người chết vì uống thuốc độc, còn người kia – vì khổ đau quá mức.

                    Chàng tin rằng người dấu yêu đã chết
                    Người vợ hiền không còn nữa – thương ôi!
                    Bên xác vợ, chàng ngã xuống rụng rời
                    Romeo uống vào liều thuốc độc.

                    Khi tỉnh giấc, hiểu ra, Juliet
                    Nhìn người chồng bằng ánh mắt đau thương
                    Nàng thổn thức, nàng hướng về trời xanh
                    Hỏi trăng sao có thấu điều mất mát.

                    Đau đớn thay! Nhìn chàng nằm bất động
                    Gương mặt nàng trắng hơn cả áo quan:
                    “Con xin Trời cho con được theo chàng

                    Chỉ một điều, một điều con cầu khẩn
                    Hãy cho con xin được chết theo chàng!”
                    Và con tim nàng đau đớn vỡ tung.
                    __________
                    Bài thơ này khắc trên mộ chí của Romeo & Juliet. Rút từ câu chuyện tình “Romeo & Juliet” của Matteo Bandello. Dựa vào cốt truyện của câu chuyện này mà William Shakespeare đã viết nên bi kịch “Romeo & Juliet” nổi tiếng.

                    #10
                      cacbac 08.12.2007 11:07:13 (permalink)


                      Giosue Carducci (1835-1907) – nhà thơ, nhà văn Italia đoạt giải Nobel Văn học năm 1906. Giosue Carducci sinh ngày 27-7-1835 ở vùng tây - bắc tỉnh Toscana, Italia. Là con trai một bác sĩ, thành viên của một tổ chức bí mật đấu tranh thành lập chính thể lập hiến nên gia đình thường xuyên phải chuyển nơi ở. Từ năm 1848, gia đình chuyển đến Firenze, Carducci mới được đến trường. Cậu bé say mê văn học cổ điển, đọc nhiều, bắt đầu viết về đề tài lịch sử, làm thơ trào phúng, dịch khúc thứ 9 trong trường ca Iliad của Homer. Năm 1853 G. Carducci được học bổng vào trường Đại học Pisa, học triết và văn học, kết bạn với những người đồng chí hướng thuộc nhóm Văn Đàn.

                      Sau khi tốt nghiệp Đại học Pisa, ông làm giảng viên tại trường trung học thành phố Man-Miniato-al-Tedesco. Năm 1857 ông in tập thơ đầu tiên Thi vận, gồm những bài sonneto và ballata mang một tình cảm ái quốc sâu nặng, thiếu vắng hẳn những tình cảm ủy mị của chủ nghĩa lãng mạn. G. Carducci là một trong những người đứng đầu đã tập hợp quanh mình nhóm tác giả của tạp chí Phụ bản do Pietro Tuar ấn hành, coi nhiệm vụ của mình là bảo vệ nền thơ ca Italia thoát khỏi cái mà họ gọi là "ảnh hưởng nguy hại của chủ nghĩa lãng mạn". Những năm 1857-1858 G. Carducci gặp nhiều khó khăn: tài chính eo hẹp, anh trai tự tử, cha mất sau đó một năm. Sang năm 1859, ông lấy vợ, năm sau nhận được chức giảng viên khoa tiếng Hi Lạp tại trường Đại học Pistoja. Còn sau vài tháng, ông trở thành giáo sư Văn học Italia tại Đại học Bologna, giữ chức trưởng khoa đến khi về hưu vào năm 1904.

                      Di sản thơ của G. Carducci không nhiều, trong bộ tuyển 30 tập chỉ có 4 tập thơ, phần còn lại là khảo luận, chuyên luận khoa học và các bài tranh luận. Các tác phẩm thơ tiêu biểu của ông là Nhẹ nhàng và nghiêm trọng (1861-1868), Thơ mới (1861-1887), Những đoản thi man dại (ba tập, 1878-1889)... Những năm cuối đời G. Carducci, vốn nổi tiếng là một nhà hùng biện, được coi là nhà thơ dân tộc Italia, trở thành thượng nghị sĩ, ủng hộ chính sách bành trướng của Italia ở châu Phi.

                      Ngoài sáng tác thơ, G. Carducci còn nổi tiếng là một nhà phê bình và nhà ngôn ngữ học. Ông là tác giả của nhiều bài viết quan trọng và Dante, Petrarca, Boccaccio… Năm 1906 ông được trao giải Nobel Văn học vì “phong cách mới mẻ và sức mạnh trữ tình trong thơ”. Ông mất ngày 16-2-1907 tại Bologna, một năm sau khi nhận giải Nobel Văn học.

                      Tác phẩm:
                      *Thi vận (Rime, 1857), thơ
                      *Nhẹ nhàng và nghiêm trọng (Levia gravia, 1861-1868), thơ
                      *Thánh ca cho quỉ Satan (Inno a Satana, 1865), thơ
                      *Thơ Iambơ và epodes (Giambi ed epodi, 1882), thơ
                      *Thơ mới (Rime nuove, 1861-1887), thơ
                      *Những đoản thi man dại (Delle di barbare, 1878-1882, 1889), thơ
                      *Nghiên cứu về những thế kỉ đầu tiên của quá trình phát triển văn học Italia (Studii su la letteratura italianna dei primi secoli), khảo luận
                      *Về sự phát triển nền văn học dân tộc (Dello svolgimento della letteratura nazionale, 1868-1871), phê bình
                      *Nghiên cứu văn học (Studi letterati, 1874), khảo luận
                      *Phác thảo phê bình và tranh luận văn học (Bozetti critici e discorsi letterari, 1876), phê bình
                      *Thi vận và tiết điệu (Rime e ritmi, 1901), thơ



                      Ở VÙNG TERME DI CARACALLA

                      Những đám mây đen bay qua Aventino, Celio
                      ngọn gió buồn từ đồng bằng mang hơi ẩm
                      đằng xa – những ngọn đồi Anbani
                      đứng trong tuyết trắng.

                      Dưới màu tro của tấm khăn voan
                      dâng lên màu xanh, cô gái người Anh tìm trong sách
                      những cuộc tranh luận của thời xa lắc
                      và bầu trời với những viên đá thành Rôm.

                      Bầy quạ đen không ngừng tiếng kêu vang
                      quạ bay giữa trời như có vẻ
                      tiếng gọi của ai nghe rất dữ
                      và to lớn vô cùng.

                      Người khổng lồ cổ đại mơ tưởng, than phiền
                      bầy yêu tinh – với trời xanh tranh luận
                      từ Laterano nghiêm trang đổ xuống
                      một hồi chuông.

                      Kẻ lười biếng quấn vào chiếc áo choàng
                      miệng huýt gió, không nhìn ai hết
                      bây giờ ta gọi ngươi, bệnh sốt rét
                      ở đây, ngươi là thiên thần.

                      Nếu động đến ngươi giọt nước mắt tuyệt trần
                      và lời van xin của nhiều bà mẹ
                      chùi nước mắt cho bầy con trẻ
                      cúi mình xuống nhọc nhằn.

                      Động chạm đến Palazio vinh quang
                      cái bàn thờ xưa (ngọn đồi evandrio
                      Tebro trong buổi chiều vật vờ
                      khắp Campidoglio

                      hoặc Aventino, rồi trở về
                      ngắm mưa đá đang đổ xuống
                      và hát trong im lặng
                      bài ca Saturino).

                      Bệnh sốt rét, ngươi hãy xua đi
                      những kẻ xa lạ với điều bận rộn
                      điều khủng khiếp này, xin hãy kính trọng
                      thiên thần của thành Rôm

                      ở Palatino – kiêu hãnh ngẩng đầu lên
                      ở Aventino, Celio buông tay xuống
                      từ Capena đến Appia con đường lớn
                      giũ sạch bờ vai.


                      TIẾNG KHÓC

                      Cây lựu lại cúi mình
                      Trong im lặng của khu vườn hoang vắng
                      Và những chiếc lá lại vui mừng
                      Đón ánh nắng của mùa hè nóng bỏng.
                      Như bàn tay con trẻ, thường xuyên
                      Tiếng khóc đã từng giăng ra một thuở
                      Lên màu của những chiếc lá xanh
                      Và lên màu lá đỏ bừng như lửa.

                      Màu của cô đơn, màu cuối cùng
                      Màu của lá cành không đến nỗi
                      Màu của cuộc đời tôi không cần
                      Với ngươi, ta không còn gặp lại.
                      Ngươi ở trong đất đen lạnh lẽo
                      Mặt trời tháng sáu như ánh mắt nhìn
                      Niềm vui cho ngươi – không mang tới
                      Tình yêu cho ngươi – chẳng thức lên.
                       
                      #11
                        cacbac 08.12.2007 11:09:27 (permalink)


                        Salvatore Quasimodo sinh ngày 20-8-1901 tại Sicily, học ở các trường kỹ thuật theo ý muốn của cha mẹ nhưng từ năm 1938 dạy văn học ở Nhạc viện Milan. Năm 1916, S. Quasimodo vào học trường kĩ thuật ở Palermo và sau đó theo học trường Bách khoa ở Roma với mong muốn trở thành một kĩ sư. Ngoài ra, ông còn học tiếng Latinh và tiếng Hi Lạp tại đó. Tuy nhiên, vì lý do kinh tế, ông không thể hoàn thành việc học tập. Từ khi là học sinh ông đã say mê và đọc nhiều sách văn học, bắt đầu đăng báo những bài thơ đầu tiên, nhưng thời gian đầu do không tự tin lắm với khả năng văn học của mình nên ông đã vào làm việc ở Bộ Xây dựng. Năm 1930 S. Quasimodo xuất bản tập thơ đầu tiên Nước và Đất.

                        Trong giai đoạn từ 1930 tới 1938, ông làm quen với rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức nổi tiếng Italia, xuất bản hàng loạt tập thơ được chú ý. Năm 1938, ông xin thôi việc ở Bộ Xây dựng và làm biên tập viên cho tạp chí Tempo, 3 năm sau trở thành giáo sư văn học Italia ở Nhạc viện Milan.

                        Trong sáng tác thơ của ông cũng có nhiều sự thay đổi: đầu tiên theo chủ nghĩa hiện thực, những năm 30 theo trường phái Hermetic, khi chiến tranh thế giới II nổ ra lại hướng về những đề tài xã hội. Năm 1946 Salvatore Quasimodo gia nhập Đảng cộng sản nhưng sau đó đã ra khỏi đảng vì không muốn làm thơ về chính trị. Đối với S. Quasimodo, vai trò của nhà thơ phải mang tính tích cực: nhà thơ dùng tài năng của mình để tham gia vào cuộc đấu tranh trong xã hội hiện đại. Các tác phẩm về sau của S. Quasimodo càng thể hiện sự thay đổi, đi từ phản ánh nội tâm cá nhân sang tính xã hội, và hơn nữa còn khẳng định đặc điểm tích cực của cuộc sống thậm chí trong một thế giới mà cái chết là nỗi ám ảnh thường trực. Trong tập thơ Đất vô song (1958) ông đã phát triển một ngôn ngữ mới thể hiện hoạt động mới của con người và các khám phá mới.

                        Năm 1953 ông được trao giải thưởng Thơ quốc tế Etna Taormina, bằng danh dự Đại học Oxford và nhiều giải văn chương khác. Năm 1959, S. Quasimodo được trao giải Nobel vì “những tác phẩm thơ trữ tình xuất sắc phản ánh kinh nghiệm bi thảm của thời đại bằng một nghệ thuật trác tuyệt".
                        Ngoài sáng tác, Quasimodo còn là một dịch giả thơ nổi tiếng. Ông dịch thơ trữ tình Hy Lạp (I lirici greci), Shakespeare và nhiều nhà thơ đương đại của Thế giới. Salvatore Quasimodo mất ngày 14-7-1968 tại Naples (Napoli).

                        Tác phẩm:
                        - Nước và đất (Acque e terre, 1930), thơ.
                        - Kèn ô boa (Oboe sommerso, 1932), thơ.
                        - Hương khuynh diệp và các bài thơ khác (Odore di eucalyptus e altri versi, 1933), tập thơ.
                        - Thơ trữ tình Hy Lạp (I lirici greci, 1940), thơ dịch.
                        - Các bài thơ mới (Nuove poesie, 1942), thơ.
                        - Bàn chân kẻ xa lạ đặt trên trái tim tôi (Con il piede straniero sopra il coure, 1945), tập thơ.
                        - Ngày lại ngày (Giorno dopo giorno, 1946), thơ.
                        - Cuộc đời không phải là giấc mộng (La vita non è sogno, 1949), thơ.
                        - Màu xanh giả và màu xanh thật (Il fallo e vero verde, 1956), tập thơ.
                        - Bàn về thơ (Discorso sulla poesia, 1956), tiểu luận.
                        - Đất vô song (La terra impareggiabile, 1958), thơ .
                        - Nhà thơ, nhà chính trị và các tiểu luận khác (Il poeta, e il politico e altrri saggi, 1960), tiểu luận.
                        - Cho và có (Dare e avere, 1966), tập thơ.




                        MÀU MƯA VÀ RỈ SẮT

                        Ngươi nói rằng: sự im lặng, cái chết, sự cô đơn
                        cũng như người ta nói tình yêu và cuộc sống
                        đó là những lời trung chuyển.
                        Và ngọn gió mỗi buổi sáng rung lên
                        và màu mưa, rỉ sắt của thời gian
                        mang về trên đá
                        trên những lời nguyền rủa
                        đến sự thật hãy còn quá xa xôi.
                        Thì hãy nói cho ta nghe, con người
                        con người bị đóng đinh trên thập ác
                        và ngươi - đôi bàn tay máu còn dính chặt
                        ta biết trả lời làm sao những câu hỏi này?
                        và giờ đây
                        trước khi sự im lặng ùa vào đôi mắt
                        trước khi ngọn gió mới lại rung lên, và rỉ sắt
                        lại dâng đầy.


                        TUYẾT

                        Ngọn gió cúi xuống, chia tay với các ngươi
                        những bóng hình yêu quí của đất đai – cây cối
                        con người, súc vật
                        trùm lên những chiếc áo khoác
                        những bà mẹ không biết làm sao khóc lên
                        và như trăng, tuyết chiếu sáng cho ta từ những cánh đồng.
                        Ôi những linh hồn chết trong con tim gõ nhịp.
                        Dù cho ai đấy phá vỡ sự lặng im bằng tiếng khóc nức nở của mình,
                        như áo quan, màu tuyết trắng khắp nơi như màu chết.





                        TRÊN NHỮNG RẶNG LIỄU

                        Chẳng lẽ ta có thể hát lên dưới gót dày
                        của ngoại bang, khi mà trên những quảng
                        trường mùa đông chất đầy xác chết
                        đã nhiều ngày, và con tim tan nát
                        vì không im tiếng khóc, tiếng nức nở của
                        những mẹ già có những đứa con trai bị treo
                        trên dây thép? Lúc này ta phải hát làm sao?
                        Trên những rặng liễu, giữa đồng hoang và
                        những cây đàn của ta nhẹ tênh, đung đưa
                        trong ngọn gió giá băng vô cùng buồn bã.


                        HÒN ĐẢO ODYSSEY

                        Giọng nói cổ xưa quyết đoán
                        Và anh nghe theo tiếng vọng phù du
                        Cùng sự lãng quên đêm vắng
                        Giữa vực thẳm sao trời.

                        Từ ngọn lửa trời xanh
                        Hòn đảo Odyssey xuất hiện
                        Cây cối, bầu trời bơi trong đêm yên tĩnh
                        ở giữa bờ sông trăng.

                        Em yêu ơi, những con ong mang đến cho ta vàng
                        Thời gian âm thầm biến đổi.
                         
                        #12
                          cacbac 08.12.2007 11:13:40 (permalink)


                          Eugenio Montale (1896-1981) – nhà thơ, nhà phê bình văn học Italia đoạt giải Nobel Văn học 1975. Sinh ngày 12-10-1896 ở Gienova, Italia. Từ nhỏ bị ốm nặng không đến trường được nên đọc rất nhiều sách văn học, triết học, thu lượm nhiều kiến thức về văn hóa, âm nhạc, hội họa, tư tưởng nghệ thuật của những triết gia hàng đầu Châu Âu. Trong thế chiến I ông là sĩ quan bộ binh, chiến đấu ở mặt trận nước Áo 2 năm. Làm giám đốc thư viện Gabinetto Vieusseux trong 10 năm.

                          Năm 1925 ông xuất bản tập thơ đầu tiên Những chiếc mai cá mực được dư luận chú ý bởi giọng thơ cách tân khác biệt với những nhà thơ đương thời. Phong cách thơ của E. Montale gần gũi với T. S. Eliot, không ngẫu nhiên mà ông dịch Đất hoang của Eliot ra tiếng Italia. Năm 1948 ông bắt đầu viết phê bình văn học và âm nhạc cho tờ Corriere della Sera, một nhật báo uy tín ở Milan. Năm 1956 E. Montale cho ra đời tập thơ được đánh giá là tiêu biểu nhất của ông Giông tố và những bài thơ khác. Các tác phẩm của ông mang đậm vẻ đẹp của nền văn hóa Italia và nêu cao tinh thần chống chủ nghĩa phát xít. Ngôn ngữ thơ ông gần với tiếng Italia bình dân. Năm 1967, ông được bổ nhiệm là thượng nghị sĩ trọn đời của Quốc hội Italia. Năm 1975 E. Montale nhận giải Nobel vì các tác phẩm thơ ca đặc sắc thể hiện quan điểm và cảm xúc lớn lao về một cuộc sống bị tước bỏ ảo ảnh. Sự tìm tòi một ngôn ngữ thơ nguyên thủy khiến E. Montale trở thành một trong những nhà thơ lớn nhất của Italia trong thế kỷ XX. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Eugenio Montale mất ngày 12-9-1981 tại Milan.

                          Tác phẩm:
                          *Những chiếc mai cá mực (Ossi di seppia, 1925), thơ
                          *Ngôi nhà hải quan và các bài thơ khác (Lacasa dei doganieri edaltri versi, 1932), thơ.
                          *Cơ hội (Le Occasioni, 1939), thơ
                          *Cuối đất (Finisterre, 1943), thơ
                          *Giông tố và những bài thơ khác (La bufera e altro, 1956), thơ
                          *Xenia, (1966), thơ.
                          *Satura (1971), thơ.
                          *Nhật kí năm 71 và 72 (Diario del 71 del 72), thơ.
                          *Thơ mới (New poem, 1976), thơ.
                          *Sổ ghi chép trong bốn năm (Quaderno di quattro anni, 1977), thơ.



                          XENIA (1964-1966)*

                          1

                          Côn trùng dễ thương ơi, anh không biết
                          tại vì sao em lại gọi là ruồi
                          ngày hôm nay trời hầu như tối mịt
                          còn anh đọc quyển Deuteroisaia(1) phần hai
                          khi em lại hiện lên trước mặt anh đây
                          chỉ một điều em không đeo kính
                          nên em không thể nào nhìn ngắm
                          còn anh không thể thiếu kính này
                          để nhận ra em trong làn khói.

                          2

                          Không có râu ria, không có kính
                          không cánh bay, tội nghiệp quá em ơi
                          em chỉ bay trong giấc mộng mà thôi
                          bài hát cổ xưa trong Kinh Thánh
                          có quá ít điều thú vị và đêm đen
                          sấm chớp và sau đó mưa dông
                          không phải mưa dông, chẳng lẽ là em có thể
                          vội vàng ra đi
                          không nói năng một điều gì
                          dù anh vẫn nghĩ rằng đôi môi ngày ấy.

                          3

                          Khách sạn Saint James ở Pari anh cần thuê
                          phòng một người (họ không vui
                          khi khách đi lẻ), và thế rồi
                          ở khách sạn Bisanzio cũng thế
                          sau đó, khi đi tìm
                          cái phòng của những cô nhân viên điện thoại
                          là những người quen biết của em
                          thì đã không còn dây máy
                          khao khát có em
                          dù chỉ một cử chỉ, dù chỉ một thói quen.

                          4

                          Ta học theo cách, để sau khi chết hai ta
                          theo dấu này tìm ra nhau nhanh chóng.
                          Anh thử huýt gió lên với niềm hy vọng
                          rằng sự đã rồi, không biết rằng ta đã cõi hư vô.

                          5

                          Anh vẫn không hiểu rằng, có phải anh đã từng
                          là con chó trung thành của em đau ốm
                          và có phải em cũng vậy của anh.
                          Còn với những người khác em chỉ là côn trùng
                          bị đánh mất trong tiếng kêu rỉ rả
                          cao hơn thế gian. Trong sự giản dị
                          của những kẻ láu lỉnh, tinh ranh
                          rằng chúng chỉ là trò chơi trong tay em
                          trong bóng tối thấy rõ ràng không cần thêu dệt
                          với linh cảm của em chính xác
                          bằng sự định vị của chuột bay.

                          6

                          Em không nghĩ rằng sẽ để lại sau mình dấu vết
                          trong thơ văn mà em say đắm đã từng
                          chính vì thế mà sau này anh cảm thấy buồn nôn
                          chính vì thế mà anh sợ rằng em, sau đấy
                          quẳng anh vào nhóm các nhà thơ mới(2)
                          như cái đầm.

                           


                          7

                          Lòng thương mình, đau đớn tận cùng và buồn chán
                          của người yêu đất đai và hy vọng
                          (ai dám nói rằng “thế giới khác”?
                          ………………………………
                          “Lòng thương lạ lùng, kì quặc”(3) (Azucena, màn thứ hai).

                          8

                          Lời của em lảng bảng và khó khăn
                          những gì còn, cám ơn ngành bưu điện.
                          Nhưng bây giờ lời của em khó nhận
                          anh học cách phân biệt giọng nói của em
                          khi để ý lắng nghe tiếng tíc tắc của máy đánh tin
                          trong vòng khói bập bềnh của thuốc lá
                          từ Brissago(4).

                          9

                          Em có thể nhìn thấy bằng thính giác
                          tiền điện thoại sẽ giảm được rất nhiều.

                          10

                          “Cô ấy cầu nguyện không?” – “Vâng cô ấy cầu Thánh Antonio(5)
                          để tìm thấy chiếc ô mất và tìm thấy đồ
                          từ trong tủ của Thánh Ermete”
                          “chỉ thế thôi à?” – “Và cầu cho người đã chết
                          và cầu cho tôi”.
                          “Thế đủ rồi” – vị mục sư bảo thế.

                          11

                          Kí ức về tiếng khóc của em (gấp hai lần – của anh)
                          không che khuất tiếng cười xưa vui vẻ
                          có vẻ như báo trước ngày Tận thế
                          của riêng em, nhưng thật không may mắn, đã không thành.

                          12

                          Giống như con chuột chũi, rảo bước mùa xuân
                          anh đã không còn nghe em nói về chất độc
                          của thuốc kháng sinh, về nỗi đau thường xuyên trên cơ bắp
                          về sự may mắn, mà em yêu
                          không sưởi ấm được bao nhiêu.

                          Mùa xuân đến gần với những lớp sương mù
                          ngày dài hơn, và giờ không thể chịu
                          anh đã không còn nghe em đấu tranh với tiếng kêu ầm réo
                          của thời gian, của dấu hiệu không giải quyết được vấn đề
                          của mùa hè kia.

                          13

                          Bầy côn trùng từ trong đêm Strasburg
                          với dao chạm đi vào khe hở nhà thờ
                          Maison Rouge và chàng hầu bàn của em có tên là
                          Ruggero, hơi thọt chân và nhẹ nhàng, vui vẻ
                          còn Striggio, không rõ người ở đâu rất hay mổ
                          hắn bị người yêu phụ bạc – cô gái Thổ Nhĩ Kì
                          (mũi hắn đỏ lên vì xấu hổ
                          và nếu ai nhắc đến sự xấu hổ thì mặt hắn xéo đi vì
                          addition,(6) nhiều hơn trì hoãn không chịu nổi)
                          khi đó hiện ra trước mặt em những gì?
                          có thể chỉ vẩn vơ. Nhưng mà em chỉ nói
                          “Hãy uống thuốc ngủ vào” – là lời cuối
                          lời cuối cùng của em nói về anh.

                          14

                          Anh trai của em chết sớm, khi đó em
                          là cô gái tóc xù, rằng em đứng lặng
                          nhìn sang anh từ bức ảnh hình ôvan.
                          Anh ấy viết nhạc mà không ai nghe tiếng đàn
                          những bản nhạc này chưa in, giờ nằm trong tủ
                          hay thành giấy loại. Có thể là ai đó
                          viết lại những bản nhạc này mà không rõ
                          chúng đã từng được viết ra.
                          Dù chưa từng quen nhưng anh yêu anh ta
                          giờ về anh ấy, ngoài em, không ai còn nhớ
                          anh không đi tìm: bây giờ chuyện này vô bổ
                          sau em, anh là kẻ cuối cùng
                          nhớ về anh ấy. Nhưng anh ấy biết rằng
                          có thể yêu bóng hình, bởi ta cũng là chiếc bóng.

                          15

                          Người ta vẫn nói rằng thơ anh
                          không của ai, không thuộc về ai cả
                          nhưng đã từng của em, thì nghĩa là tất cả
                          là của em, bởi em không còn là bản chất, mà chỉ bóng hình.
                          Người ta nói rằng thơ ca trong mức độ của mình
                          vượt trội hơn tất cả
                          không thừa nhận rằng tia chớp lửa
                          có thể chậm hơn những chú rùa.
                          Chỉ em biết rằng sự chuyển động
                          không khác gì sự đứng yên
                          rằng trống rỗng là đầy, rằng tĩnh lặng
                          bầu trời trong – vẻ phổ biến của mây.
                          còn anh hiểu hơn về con đường dài
                          qua ngục tù thạch cao và vải gạc
                          nhưng không mang đến cho anh vẻ lặng yên, tĩnh mịch
                          rằng anh hoà nhập với em, dù một hoặc hai người.
                          __________
                          *Tập thơ “Xenia” là những kỉ niệm của Eugenio Montale về người vợ đã mất. “Xenia” – tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là “khách sạn”, là “món quà”.
                          (1) Sách tiên tri Ê-sai trong Kinh Cựu Ước.
                          (2) Các nhà thơ mới “neoteroi” – nhóm các nhà thơ La Mã thế kỉ I tr. CN, người nổi tiếng nhất là Gaius Valerius Catullus (87-54 tr. CN).
                          (3) “Lòng thương lạ lùng kì quặc”- lời cô gái Digan Azuccena, màn thứ hai trong một vở Opera của Giuseppe Verdi (1813-1901).
                          (4) Tên một loại thuốc lá và là địa danh ở Thuỵ Sĩ.
                          (5) Theo truyền thuyết Thánh Antonio giúp tìm ra đồ bị thất lạc.
                          (6) Ađition – sự thêm vào (tiếng Anh). Trong thơ của mình, đặc biệt là ở giai đoạn sau Eugenio Montale rất hay sử dụng tiếng Anh trong những bài thơ viết bằng tiếng Italia.




                          CÂY SẬY

                          Cây sậy
                          với chiếc quạt lông màu hồng
                          chia tay với mùa xuân
                          con đường ở dưới đáy mương
                          một bầy chuồn chuồn bay trên dòng nước đục
                          những con chó vô cùng gan góc
                          trèo lên những bụi cây gai

                          ngày hôm nay không có gì giống ở nơi này
                          nơi nọ, nơi cháy bừng lên ánh mặt trời
                          và đám mây ở dưới vẫn còn tiếp diễn
                          ánh mắt của em – hai tia nắng
                          giao nhau ở chốn xa xăm.

                          Và thời gian không đứng yên một chỗ.




                          NHƯ DẤU HIỆU TỐT LÀNH

                          Như dấu hiệu tốt lành
                          như cái tin về ngày mới
                          đường răng viền quanh lá cọ
                          qua ánh sáng chiếu lên tường.

                          Những ngôi nhà kính
                          đang thiu thiu ngủ mơ màng
                          bước chân rất nhẹ nhàng
                          tựa hồ như trên tuyết trắng…
                          Đấy là em – sự nhắc lại em ở trong anh.


                          TRONG KHÓI

                          Đã bao lần anh đợi em ở nhà ga
                          trong giá buốt, đấy là chưa nói gì sương khói!
                          đi tới đi lui, nhìn qua ngó lại
                          rồi hút thuốc, mua những tờ báo rẻ tiền
                          quả là anh thật ngớ ngẩn, phải không em?

                          Chuyến tàu đã bị hoãn hay đã đi nhầm đường
                          anh nhìn theo những chiếc xe chở đầy hành lý
                          xem thử có không hành lý của em
                          còn em luôn xuất hiện sau cùng
                          bước thản nhiên theo chiếc xe sau chót.
                          Cảnh tượng này luôn hiện ra trong giấc ngủ của anh.


                          CÁI ÁC VÀ CÁI THIỆN

                          Cái ác giữ vẻ bất di, bất dịch của mình
                          Khi như sông, khi như người chết đuối
                          Khi như lá vàng, khi như cá nổi
                          Khi lại như con ngựa bị cùng đường.

                          Còn cái Thiện tôi chưa biết một lần
                          Nếu có chăng, chỉ vô tình, ngẫu hứng
                          Khi trong mơ, khi trong mây xa thẳm
                          Khi như chim bay về chốn xa xăm.




                           
                          Nguyễn Viết Thắng giới thiệu và dịch "Các nhà thơ Hy Lạp+Italia"
                          #13
                            cacbac 27.08.2008 09:57:10 (permalink)


                            Dante Alighieri


                            LA DIVINA COMMEDIA
                            di Dante Alighieri
                            INFERNO


                            Inferno: Canto I


                            THẦN KHÚC. ĐỊA NGỤC

                            KHÚC I

                            Khúc mở đầu: Rừng rậm – Ba con thú – Viếcghiliô

                            Con đường đời tôi đã đi đến nửa
                            Bỗng thấy mình lạc lối ở trong rừng
                            Đường chính đạo đánh mất trong bóng tối!

                            4 Rừng hoang vu, rừng hiểm trở trập trùng
                            Nói sao hết bao điều cay đắng ấy
                            Nỗi kinh hoàng trong ký ức tôi mang!

                            7 Cái chết cũng không đắng cay nhường vậy
                            Nhưng vì điều hay trong đấy muôn năm
                            Tôi xin kể về những điều trông thấy.

                            10 Tôi không nhớ, sao đã lạc vào trong
                            Rừng hiểm trở vì chìm trong giấc ngủ
                            Khi lìa xa chính đạo một con đường.

                            13 Nhưng rồi bỗng tới một chân đồi nhỏ
                            Nơi có một thung lũng nhỏ bao quanh
                            Tim tôi thắt lại vì run và sợ.

                            16 Tôi nhìn ra khi ngước mắt trông lên
                            Ánh sáng mặt trời khắp nơi rực rỡ
                            Soi tỏ lối đi trên mọi con đường.

                            19 Khi đó trong lòng vơi đi nỗi sợ
                            Nỗi sợ dài lâu nén ở trong tôi
                            Như mặt nước hồ qua đêm mệt lử.

                            22 Và giống như kiệt sức một con người
                            Thoát lên bờ từ mênh mông biển cả
                            Ngoái lại nhìn và sợ hãi không thôi.

                            25 Trong lòng tôi hãy vẫn còn run sợ
                            Quãng đường đi qua, thử ngoái lại nhìn
                            Chưa từng có một ai đi thoát cả.

                            28 Khi đã nghỉ ngơi mỏi mệt tấm thân
                            Tôi bước tiếp trên con đường cát vắng
                            Tiếng xạc xào ở dưới những bàn chân.

                            31 Và kia, ngay trên đầu dốc dựng đứng
                            Có một con báo nước chạy lẹ làng
                            Trên bộ lông những vết hoa lốm đốm.

                            34 Cản bước tôi, con báo chạy vòng quanh
                            Tôi cảm thấy ở trong vòng nguy hiểm
                            Từng tính bài quay lại đã nhiều phen.

                            37 Và rồi đến lúc bình minh vừa rạng
                            Giữa những vì tinh tú mặt trời lên
                            Đang chuyển động một tình yêu thần thánh.

                            40 Khơi dậy điều tốt đẹp lần đầu tiên
                            Tôi cảm thấy mừng vui và hạnh phúc
                            Máu nóng không còn dồn dập trong tim.

                            43 Vẻ con thú có bộ lông vui mắt
                            Nhưng không lâu, với một vẻ kinh hoàng
                            Một con sư tử bờm cao trước mặt.

                            46 Có vẻ như nhằm vào tôi tấn công
                            Nó dữ dội gầm lên vì cơn đói
                            Cả không gian cũng sợ hãi rùng mình.

                            49 Cùng với sư tử một con sói cái
                            Dáng gầy gò, lộ đầy vẻ khát thèm
                            Từng làm cho biết bao hồn kinh hãi.

                            52 Nó làm tôi rời rụng cả tay chân
                            Vẻ đe dọa phát ra từ ánh mắt
                            Làm cho tôi hết hy vọng bước lên.

                            55 Như một kẻ máu mê thèm thắng bạc
                            Nhưng gặp hồi đen đủi chịu trắng tay
                            Chỉ còn biết khổ đau và khóc lóc.

                            58 Con thú kia cũng như thế với tôi
                            Đẩy lùi tôi dần dần theo chân bước
                            Dồn tôi vào nơi tối ánh mặt trời.

                            61 Trong khi tôi đang tuột dần xuống thấp
                            Một người đàn ông trước mặt hiện ra
                            Nhưng lặng lẽ, im lìm và mỏi mệt.

                            64 Vừa nhìn thấy giữa hoang vắng và xa
                            “Cứu tôi với, – tôi kêu lên buồn bã –
                            Dù là người còn sống hoặc bóng ma!”

                            67 “Ta không phải người, đúng hơn là đã
                            Từng là người, dân của Lômbácđô
                            Quê ở Mantua cả cha lẫn mẹ.

                            70 Ta sinh ra vào cuối thời Xêda
                            Lớn lên ở Rôma, dưới triều Augút
                            Thời người ta thần tượng vẫn tôn thờ.

                            73 Ta là thi sĩ, từng viết lời bài hát
                            Ca ngợi con trai Ankixê, người Tơroa
                            Khi thành Iliông kiêu hùng lửa đốt.

                            76 Còn ngươi sao trở về nơi chết chóc?
                            Sao không trèo lên đỉnh núi diệu kỳ
                            Nơi khởi nguồn của mọi điều cực lạc?”

                            79 “Có phải Người là Viếcghiliô
                            Là mạch nguồn của dòng thơ tuôn chảy?” –
                            Tôi trả lời mà thấy thẹn thùng ghê!

                            82 “Ôi ánh sáng của bao nhà thơ ấy
                            Và việc say mê sưu tập thơ Người
                            Đã giúp cho tôi miệt mài đến vậy!

                            85 Người là thầy, là gương sáng cho tôi
                            Chỉ có ở nơi Người tôi đã học
                            Cách tuyệt vời làm vinh dự thơ tôi!

                            88 Người xem kìa, thú dồn tôi vào góc
                            Hãy cứu tôi, bậc hiền giả lẫy lừng
                            Máu tôi run trong đường gân thớ thịt!”

                            91 “Ngươi cần đi tìm một con đường khác
                            Nếu muốn thoát ra ma dại nơi này –
                            Người trả lời, khi thấy tôi than khóc –

                            94 Con thú không cho ai thoát lối này
                            Nếu ngươi cứ đứng thét lên và khóc
                            Nó sẽ nhảy vào cắn chết ngươi ngay.

                            97 Con thú bản tính xấu xa, ác độc
                            Lòng tham của nó không bao giờ vơi
                            Càng ăn no lại càng thích ăn tiếp.

                            100 Cùng với nhiều con vật nó kết đôi
                            Và sẽ quyến rũ còn nhiều con nữa
                            Khi thần Khuyển đến nó sẽ đi đời.

                            103 Thần chẳng sống vì bạc tiền, tài sản
                            Mà vì tình yêu, danh dự, trí khôn
                            Thần sống giữa diệu huyền và cao thượng.

                            106 Thần là cứu tinh của nước Ý khiêm nhường
                            Vì nước này Camminla đồng trinh tuẫn nạn
                            Và Ơraliô, Tuốcnô, Nixô bị tử thương.

                            109 Dù cho bước chân thú kia mong muốn
                            Thần sẽ xua đuổi sói khỏi đô thành
                            Giam vào ngục, nơi có bao dục vọng.

                            112 Ta nói với ngươi theo lối của mình:
                            Hãy theo ta, ta là người hướng dẫn
                            Đưa ngươi từ đây về chốn vĩnh hằng.

                            115 Ngươi sẽ nghe những tiếng kêu tuyệt vọng
                            Của những hồn xưa muốn chết lần hai
                            Sẽ nghe những lời nguyện cầu đau đớn!

                            118 Ngươi sẽ thấy hết đau khổ những ai
                            Trong lửa ngục với một niềm hy vọng
                            Sống với những người hạnh phúc nay mai.

                            121 Còn nếu ngươi muốn cao hơn bay bổng
                            Thì đợi chờ ngươi có một linh hồn
                            Ta chia tay, ngươi theo hồn xứng đáng.

                            124 Đấng Thượng Đế ngự trị chốn cao sang
                            Chưa muốn cho ta bước chân lên đó
                            Vì luật của trời ta hãy chưa thông.

                            127 Ngài ở khắp nơi nhưng trên cao ngự trị
                            Là thành đô, là nơi chốn ngai vàng
                            Hạnh phúc cho ai vinh quang được mở!”

                            130 “Hỡi nhà thơ – lời của tôi vang lên –
                            Tôi cầu Đấng mà thầy chưa biết rõ
                            Thoát khỏi chốn này cùng cực nguy nan!

                            133 Hãy dẫn tôi đến nơi thầy nói đó
                            Cho tôi nhìn cửa Thánh Piêtơrô
                            Và những linh hồn muôn đời đau khổ”.

                            136 Người chuyển động, và tôi theo nhà thơ.


                            CHÚ THÍCH

                            KHÚC I

                            1. Con đường đời… đến nửa: Dante hình dung đường đời như một vòng cung (Bữa tiệc, IV, 23), điểm cao nhất là 35 tuổi. Dante đạt đến điểm này năm 1300.
                            13. Một chân đồi nhỏ: tức là trên khu rừng tội lỗi và lầm lạc có một ngọn đồi cứu rỗi nhô lên cao, nơi có ánh sáng mặt trời soi tỏ mội lối đi (câu 18).
                            17. Theo học thuyết của Plotemaioi (90 – 160), thời của Dante cũng vẫn như thế, thì mặt trời là một trong số các hành tinh quay xung quanh quả đất đứng yên một chỗ.
                            32. Con báo: biểu tượng của dục vọng, thói dâm đãng.
                            44. Con sư tử: biểu tượng của sự kiêu căng.
                            49. Con sói cái: biểu tượng của thói hám lợi, tham lam.
                            62. Một người đàn ông: Virgilio (Virgil), Marone Publio (70 – 19 tr. CN) – nhà thơ La Mã, tác giả của thiên anh hùng ca Eneide (Aeneid).
                            69. Mantua (Matova): thành phố ở đông nam khu Lombardia, miền bắc Italia.
                            70. Giulio Cesare (Gaius Julius Caesar)(100 – 44 tr. CN): Lúc Virgilio sinh thì Cesare đã 31 tuổi.
                            71. Dưới triều Augút – nghĩa là dưới triều Hoàng đế La Mã Augusto (63 tr. CN – 14 sau CN).
                            74. Con trai Ankixê, người Tơroa: tức Enea (Aeneas), thủ lĩnh người Tơroa, là con trai của Anchise.
                            91. Ngươi cần đi tìm một con đường khác: Dante hãy còn chưa thể vượt qua con sói để lên đến đỉnh đồi ngay được mà phải đi qua ba thế giới bên kia.
                            105. Câu này trong nguyên tác: tra feltro e feltro đang gây tranh cãi xưa nay. Có người giải thích “giữa thành phố Feltro và lâu đài Montefeltro”. Chúng tôi dịch như bản tiếng Việt của Nguyễn Văn Hoàn.
                            107 – 108. Cammila, Eurialo, Turno, Niso: tên những nhân vật trong tác phẩm của Virgilio. Họ thuộc về hai phe địch thủ của nhau nhưng Dante quan niệm sự hy sinh của cả hai phe đều cần cho sự ra đời Đế chế La Mã.
                            116. Muốn chết lần hai: những kẻ lầm lỗi ở Địa ngục đã chết về thể xác nhưng vẫn còn mong được chết cả linh hồn để chấm dứt đọa đầy, đau khổ.
                            123 – 126. Ngươi theo hồn xứng đáng: tức Beatrice. Virgilio chưa qua phép rửa tội nên không được đặt chân đến thiên đường.
                            134. Cửa Thánh Piêtơrô: cửa vào Tĩnh ngục.





                            KHÚC II

                            Mối nghi ngờ của Đantê – Khích lệ của Viếcghiliô

                            Bầu trời sẫm tối, một ngày sắp qua
                            Mọi sinh linh dần đi vào giấc mộng
                            Họ nghỉ ngơi, chỉ tôi kẻ không nhà.

                            4 Và tôi chuẩn bị bước vào cuộc chiến
                            Với chặng đường dài, khó nhọc, gian nan
                            Cuộc chiến mà tôi trung thành hồi tưởng.

                            7 Hỡi Nàng Thơ, giờ ta gọi tên Nàng
                            Hỡi trí tuệ và tài thơ cao thượng
                            Ghi lại những điều đã thấy, đã trông!

                            10 Tôi bắt đầu: “Hỡi nhà thơ hướng dẫn
                            Hãy xem tôi có đủ khả năng không
                            Trước khi vào cuộc du hành bí hiểm?

                            13 Thân sinh của Xinviô – Người từng kể rằng –
                            Khi hãy còn mang phàm thân tội lỗi
                            Thân xác trần đi vào chốn trường sinh.

                            16 Nhưng nếu vượt qua những điều lầm lỗi
                            Đến hạnh phúc, thì xét sự vinh quang
                            Ông là ai, và xét ra sao vậy?

                            19 Điều đó hình như không hợp với thiên lương
                            Nhưng ông được chọn trên trời cao ánh sáng
                            Làm Cha tinh thần của Đế chế, thành Rôm.

                            22 Đế chế, thành này được làm đất Thánh
                            Và người ta đã thiết lập ngai vàng
                            Cho người kế vị Thánh Piêtơrô tối thượng.

                            25 Ông từng biết rõ về mọi nguyên nhân
                            Với du hành thầy cho ông vinh dự
                            Và chiếc trượng giám mục của Giáo hoàng.

                            28 Cả Thánh Paolô cũng lên trên đó
                            Để gia thêm sức mạnh cho Đức Tin
                            Bước đầu tiên trên con đường thoát khổ.

                            31 Còn tôi lấy ai làm gương cho mình?
                            Tôi không phải Enêa hay Thánh Paolô ấy
                            Không một ai nghĩ tôi xứng với mình.

                            34 Và nếu như tôi bước vào xứ đấy
                            Tôi sợ rằng đó là chuyện điên rồ
                            Thầy anh minh, thấy rõ hơn tôi vậy”.

                            37 Như người xa lạ với ý muốn xưa
                            Một ý tưởng làm đổi thay kế hoạch
                            Vứt bỏ cái điều đã nghĩ đã suy.

                            40 Tôi như thế, trên bờ dốc tối mịt
                            Mới khởi đầu mà đã thấy gian nan
                            Càng nghĩ suy, càng tiêu tan kế hoạch.

                            43 “Ta hiểu đúng sự thật những lời con –
                            Chiếc bóng hào hiệp kia liền đáp –
                            Trĩu nặng hồn con vì sự đớn hèn!

                            46 Chớ để sợ hãi khiến sai đầu óc
                            Còn nếu không sẽ nhụt chí bước chân
                            Như con thú quẫn trí trong cảm giác.

                            49 Ta sẽ nói để giải thoát cho con
                            Về cái điều, những gì ta nghe được
                            Rằng từ đầu ta đã xót thương con.

                            52 Ta ở giữa cái thiện và cái ác
                            Đã gọi ta một người đẹp thanh cao
                            Ta có trách nhiệm phục tùng người đẹp.

                            55 Ánh mắt nàng lấp lánh, sáng hơn sao
                            Giọng nói của nàng khoan thai, êm ả
                            Như lời thần tiên toát giọng ngọt ngào:

                            58 “Hỡi linh hồn xứ Mantua tao nhã
                            Mà vinh quang còn lưu lại trần gian
                            Còn vọng mãi, vĩnh hằng cùng vũ trụ!

                            61 Một bạn tôi đang gặp phải nguy nan
                            Bạn không may mắn trên đường cát vắng
                            Nỗi sợ hãi giờ đang cản bước chàng!

                            64 Để cứu chàng tôi sợ mình đến muộn
                            Chuyện của chàng tôi nghe ở Thiên đình
                            Tôi sợ chàng gặp phải điều nguy hiểm.

                            67 Người hãy đến cùng vẻ đẹp từ ngôn
                            Bằng tất cả những gì Người có thể
                            Cứu vớt chàng cho tôi đặng bình tâm.

                            70 Tôi là Bêatơrít, tôi cầu Người đó
                            Tôi đến đây và mong sớm trở về
                            Tình yêu đã xui khiến tôi bộc lộ.

                            73 Khi nào trình diện trước Đức Chúa Trời
                            Mọi công lao của Người tôi ca tụng”.
                            Ta bày tỏ khi nàng đã ngưng lời:

                            76 “Hỡi người con gái Duy nhất, Cao thượng
                            Đức hạnh cao hơn tất cả mọi người
                            Được đặt vào trong bầu trời nhỏ nhắn.

                            79 Phụng sự Người là vinh hạnh cho tôi
                            Vâng lệnh ngay mà thấy còn chậm trễ
                            Tôi chỉ cần nghe mệnh lệnh của Người.

                            82 Nhưng Người xuống đây mà không thấy sợ
                            Trong bóng đêm của lòng đất kinh hoàng
                            Rồi trở về nơi từng ra đi đó?”

                            85 Nàng đáp: “Nếu ngươi muốn rõ nguồn cơn
                            Ta sẽ nói một đôi lời ngắn ngủi
                            Tại sao ta đi xuống chẳng kinh hoàng.

                            88 Ta chỉ sợ tiết lộ điều có hại
                            Sẽ làm cho phương hại đến người thân
                            Còn chẳng sợ gì những điều còn lại

                            91 Chúa tạo ra ta và ban ân huệ
                            Nỗi khổ trần gian không ám ảnh ta
                            Không thể nào bén đến ta ngọn lửa.

                            94 Trên trời cao nhân hậu một Đức Bà
                            Từng tiếc thương những ai đau khổ vậy
                            Tỏ lòng thương khi xét xử người ta.

                            97 Đức Bà cho gọi Lusia và nói:
                            Đang cần ngươi giúp đỡ một tín đồ
                            Ta uỷ thác việc này cho ngươi đấy.

                            100 Lusia đã tìm đến chỗ ta
                            Nơi ngày xưa Rakenlê ngồi cạnh
                            Và nói: – xin vâng lệnh Đức Bà!

                            103 Bà nói: Hỡi Bêatơrít, xin cố gắng
                            Cứu kẻ vì tình tìm đến với ngươi
                            Cố tách ra khỏi trần gian bận rộn.

                            106 Hay không nghe ra lời van vỉ của người?
                            Không thấy dòng sông dữ dằn hơn biển cả
                            Sẽ cướp mất đi cuộc sống của người? –

                            109 Không một ai vội vàng hơn ta cả
                            Ta khát khao tìm đến với niềm vui
                            Làm điều phúc và tránh xa điều họa.

                            112 Từ vinh quang hằng phúc ta xuống đây
                            Tin cậy người tài từ tâm ngôn luận
                            Biết nghe theo, làm vinh dự cho Người”.

                            115 Nàng nói vậy và mắt buồn nhìn xuống
                            Rồi nhìn ta trong nước mắt ngước lên
                            Giục giã ta bước vào con đường lớn.

                            118 Ta vội đến với con theo ý Nàng
                            Cứu con thoát thú dữ từng ngăn cản
                            Chỉ ra con đường ngắn đến đỉnh non.

                            121 Có chuyện gì? Tại vì sao bước chậm?
                            Tại vì sao bối rối ở trong lòng
                            Thiếu dũng khí và cả lòng kiêu hãnh?

                            124 Khi lên với ba hằng phúc Tiên nương
                            Trên Thiên đình có những người lo lắng
                            Và hứa với con bao chuyện tốt lành”.

                            127 Như cánh đồng hoa rũ cành khép cánh
                            Qua đêm trường với giá lạnh và sương
                            Bỗng bừng nở khi vừng dương tỏa sáng.

                            130 Tôi vươn lên từ dũng khí mỏi mòn
                            Máu can đảm bỗng bừng trong huyết quản
                            Tôi trả lời, tôi nói bạo dạn hơn:

                            133 “Ôi Tiên nương như một người giải phóng
                            Và thầy tôi, thầy hào hiệp biết bao!
                            Nàng bày tỏ và thực thi nhanh chóng.

                            136 Tôi sung sướng, lời thầy tôi nghe theo
                            Tôi khát khao được lên đường tiếp tục
                            Trở lại với bao dự định ban đầu.

                            139 Giờ hai người nhưng mục đích chỉ một
                            Thầy là người Hướng đạo, là Tôn sư”
                            Tôi nói thế, khi bóng người chuyển tiếp.

                            142 Tôi cũng bước vào hiểm trở hoang vu.


                            CHÚ THÍCH

                            KHÚC II

                            12. Cuộc du hành bí hiểm: nhiều bản dịch là khó khăn, gian khổ nhưng Dante cũng đã nói ở câu 8, khúc I là có “nhiều điều hay”.
                            13. Thân sinh của Xinviô: tức Enea, theo khúc VI của anh hùng ca Eneide, xuống Âm phủ được cha là Anchise chỉ cho xem linh hồn của hậu thế và báo trước cho tương lai vinh quang của Roma.
                            24. Người kế vị Thánh Piêtơrô tối thượng: Giáo hoàng thứ nhất.
                            25. Ông: tức Enea. Với du hành thầy cho ông vinh dự: tức cuộc du hành của Enea xuống Âm phủ mà Virgilio đã nói trong Eneide.
                            28. Cả Thánh Paolô cũng lên trên đó: tức Thánh tông đồ Paolô đã lên thiên đàng mà Kinh Thánh nói đến (Tân Ước_II Cô-rinh-tô 12: 2 – 4).
                            52. Ta ở giữa cái thiện và cái ác: những người sinh ra trước khi Chúa Giê-su ra đời, chưa qua lễ rửa tội.
                            58. Linh hồn xứ Mantua: tức Virgilio.
                            70. Tôi là Bêatờrít: Dante yêu Beatrice khi lên chín tuổi… Tình yêu này được Dante mô tả trong Cuộc đời mới. Beatrice chết năm 1290, lúc nàng mới 25 tuổi. Trong những dòng kết thúc Cuộc đời mới Dante đã hứa rằng “tôi hy vọng được nói về nàng cái điều mà chưa bao giờ có ai từng nói vậy về một con người”. Trong Thần khúc Beatrice cũng vẫn là người con gái mà Dante yêu thuở thiếu thời, nàng tượng trưng cho Trí tuệ của Chúa, cho sự giải thoát linh hồn.
                            78. Bầu trời nhỏ nhắn: chỉ tầng trời có mặt trăng, theo quan niệm thiên văn xưa, là tầng trời thấp nhất.
                            94. Một Đức Bà: chỉ Đức Mẹ đồng trinh Maria.
                            97. Lusia: Nữ thánh tử vì đạo ở Siracusana (thế kỉ VI sau CN), tượng trưng cho sự công bằng thần thánh. Đức Mẹ đồng trinh Maria phái Lusia đi báo cho Beatrice và Beatrice đã nhờ Virgilio đi cứu Dante.


                            #14
                              cacbac 24.12.2008 09:01:59 (permalink)



                              KHÚC III

                              Cửa vào Địa ngục – sông Akêrông – Carôngtê

                              Qua khỏi đây là xứ thảm sầu
                              Qua khỏi đây là đau thương vĩnh viễn
                              Là đi về những thế hệ khổ đau.


                              4 Công lý tạo hóa, quyền uy thánh thần
                              Đã tạo ra ta bằng sức mạnh của
                              Trí tuệ cao siêu, tình yêu đầu tiên.

                              7 Trước ta, chỉ những gì vĩnh viễn
                              Ta ngang bằng với giá trị vĩnh hằng
                              Kẻ vào đây hãy vứt niềm hy vọng.

                              10 Những dòng chữ viết bằng thứ mực đen
                              Khắc trên cổng ra vào tôi đọc được
                              “Ôi thầy ôi, sao quá đỗi dữ dằn!”

                              13 Như thông tỏ nỗi lòng tôi, thầy đáp:
                              “Đã tới đây – phải rũ bỏ đớn hèn
                              Đã tới đây – phải xua điều ngờ vực.

                              16 Chúng ta đến nơi ta đã nói trên
                              Con sẽ thấy những đám đông đau đớn
                              Vì muôn đời đã để mất trí khôn”.

                              19 Cho khỏi nghi ngờ, thầy đưa tay tôi nắm
                              Và hướng về tôi, vẻ mặt lặng yên
                              Dẫn tôi đi khám phá điều bí ẩn.

                              22 Đó đây nghe tiếng khóc, tiếng kêu rên
                              Không một vì sao nào trong bóng tối
                              Mới thoạt nghe, nước mắt đã trào lên.

                              25 Những giọng nói, những lời than hoang dại
                              Ngôn từ đớn đau, ngữ điệu điên khùng
                              Tiếng vỗ tay, tiếng kêu buồn tê tái.

                              28 Tất cả tạo nên náo động, quay cuồng
                              Trong không gian đã tối mù vĩnh viễn
                              Như bụi trong vòng bão tố cuồng điên.

                              31 Còn tôi đầu óc quay cuồng, u ám
                              Tôi hỏi: “Thầy ơi tiếng khóc của ai?
                              Họ là ai, tại vì sao đau đớn?”

                              34 Thầy bảo tôi: “Tình cảnh đớn đau này
                              Là số phận những linh hồn nhàm chán
                              Không biết nhục vinh của những kiếp người.

                              37 Chúng hòa theo đám thiên thần ngớ ngẩn
                              Không phản phúc mà cũng chẳng trung thành
                              Với Thượng Đế, mà chỉ vì mình chúng.

                              40 Trời xua chúng để Thượng giới đẹp hơn
                              Địa ngục sâu cũng chẳng thèm nhận chúng
                              Sợ tội đồ có cớ để vênh vang”.

                              43 Tôi hỏi: “Thầy ơi cái gì đè nặng
                              Mà chúng kêu khóc ghê gớm quá chừng?”
                              Thầy đáp: “Ta trả lời con ngắn gọn:

                              46 Đến cái chết, hy vọng cũng không còn
                              Chúng chỉ sống đời mù lòa, thấp kém
                              Nên ước ao một thứ nhẹ nhàng hơn.

                              49 Trên thế gian không còn ai nhớ chúng
                              Lòng xót thương, công lý cũng làm ngơ
                              Thôi đủ rồi, hãy nhìn lên, đi thẳng”.

                              52 Tôi nhìn quanh và thấy một lá cờ
                              Đang quay tròn như có sức lực ác
                              Cuốn là cờ trong đám bụi tròn vo.

                              55 Cuốn theo sau một đoàn người dằng dặc
                              Đông đến mức tôi không thể nào tin
                              Rằng đã nhanh tay nhường kia Thần chết.

                              58 Tôi nhận ra trong đám một bóng hình
                              Sau khi tìm hiểu ít nhiều khuôn mặt
                              Kẻ chối từ vì nhu nhược đáng khinh.

                              61 Lập tức tôi hiểu và tôi tin chắc
                              Đúng là lũ người hèn mạt, nhỏ nhen
                              Cả Chúa Trời, địch thủ đều khinh suất.

                              64 Đến muôn đời không sống lũ đáng thương
                              Chúng trần truồng, bị thường xuyên vây cắn
                              Những bầy ruồi và cả những bầy ong.

                              67 Máu, nước mắt từ trên gương mặt chúng
                              Chảy ròng ròng xuống dưới những bàn chân
                              Nơi dòi bọ thối tha đang chờ uống.

                              70 Nhìn ra xa tôi thấy một đám đông
                              Đang đứng chờ trên một bờ sông lớn
                              Tôi hỏi: “Thầy ơi, thầy biết rõ hơn:

                              73 Họ là ai và phải chăng số phận
                              Có vẻ như xua đuổi họ qua sông
                              Con nhận ra họ từ xa xôi lắm”.

                              76 Thầy trả lời: “Rồi con sẽ tự mình
                              Nhìn ra, khi mà chúng ta đi đến
                              Dòng sông sầu tên gọi Akêrông”.

                              79 Nhìn xuống đất, ánh mắt tôi luống cuống
                              Tôi ngại phiền thầy nên đã bước lên
                              Gần bờ sông và rồi tôi im lặng.

                              82 Về hướng chúng tôi có một chiếc thuyền
                              Một ông già tóc bạc phơ quát lớn:
                              “Đáng đời chưa! Độc ác những linh hồn.

                              85 Quên trời xanh đi, vì tao đi đến
                              Để chở chúng mày sang bờ bên kia
                              Vĩnh viễn đêm đen, lửa thiêu, giá lạnh.

                              88 Còn ngươi, linh hồn còn sống đến đây
                              Hãy tránh ra xa, chúng đều đã chết”.
                              Chúng tôi chưa đi, ông nói thế này:

                              91 “Hãy tìm đường khác, hãy tìm bến khác
                              Cũng mé sông này nhưng không phải đây
                              Cần tìm nhẹ nhàng một con đò khác”.

                              94 Thầy bảo: “Carôngtê, chớ phiền chúng tôi
                              Chúng tôi đến nơi chúng tôi mong muốn
                              Và chúng tôi xin cụ hãy ngưng lời!”

                              97 Tôi thấy mặt lão già hơi dịu xuống
                              Bộ mặt lông lá trên dòng sông đêm
                              Một vòng lửa quanh đôi mắt đỏ lựng.

                              100 Và những hồn ma mệt mỏi, trần truồng
                              Răng đánh lập cập, mặt mày tái mét
                              Khi nghe những lời ác độc vang lên.

                              103 Chúng nguyền rủa cả giống nòi, bộ tộc
                              Cả quê hương, tiên tổ, Đức Chúa Trời
                              Cả việc sinh ra loài người trên đất.

                              106 Rồi sau đó chúng trết cục vào nhau
                              Khóc ầm ĩ trên bờ sông quái ác
                              Đợi lũ người lòng sợ Chúa tắt lâu.

                              109 Carôngtê toé lửa trong con mắt
                              Ra hiệu nhanh lên những kẻ lỗi lầm
                              Nện mái chèo những kẻ nào chậm chạp.

                              112 Như mùa thu lá rơi rụng trong sương
                              Lá rụng xuống từng chùm cho đến lúc
                              Trả hết cho đất, trơ trụi giơ cành.

                              115 Bọn gieo hạt giống Ađam ác độc
                              Nối đuôi nhau, từng đứa nhảy lên bờ
                              Như bầy chim, theo người giơ roi quất.

                              118 Cứ như thế, bơi qua dòng nước đen
                              Và khi chúng sang bờ kia chưa kịp
                              Thì bên này một tốp mới đang chen.

                              121 Thầy tôi cặn kẽ với tôi giải thích:
                              “Những ai chết trong cơn giận Chúa Trời
                              Khắp tứ xứ đều về đây tụ tập.

                              124 Và rồi vội vã từng phút từng giây
                              Công lý thánh thần sẽ thúc ép họ
                              Nỗi sợ biến thành ham muốn liền ngay.

                              127 Chưa linh hồn tốt nào qua nơi đó
                              Nếu Carôngtê từng cáu kỉnh với con
                              Thì bây giờ chắc là con đã rõ”.

                              130 Thầy dứt lời thì không gian tối sầm
                              Toàn thân tôi bỗng rung lên dữ dội
                              Mồ hôi của tôi trên áo ướt đầm.

                              133 Và mặt đất bỗng đùng đùng gió nổi
                              Rồi ánh lên một chớp đỏ ngang trời
                              Cảm giác của tôi dường như tê dại.

                              136 Như người mê ngủ, tôi đổ xuống ngay.


                              CHÚ THÍCH

                              KHÚC III

                              1 – 9. Dòng chữ đề trên cổng vào Địa ngục – theo truyền thuyết của Thiên Chúa giáo, Địa ngục do một vị thần ba ngôi tạo ra: ngôi Cha (sức mạnh tối cao), ngôi Con (trí tuệ cao siêu), và ngôi Thánh linh (tình yêu đầu tiên). Địa ngục này để hành hình Lucifeo từ trên trời rơi xuống (khúc XXXIV) và tồn tại muôn thuở. Đọc hết Địa ngục ta sẽ hình dung ra Địa ngục của Dante có hình như một cái giếng khổng lồ cứ xuống thấp dần theo từng tầng ngục.
                              58. Tôi nhận ra trong đám một bóng hình: các bản chưa có chú giải thống nhất mà chỉ nói hoặc là Giáo hoàng Celestino V được bầu năm 1294, lúc đó ông đã 79 tuổi, đã xin thôi sau 5 tháng vì sợ không đảm đương nổi chức vụ. Hoặc là Pontius Pilate (tức quan xét xử Phi-lát), người đã định tha cho Giê-su vì không thấy tội đáng chết nhưng đám đông dân chúng vẫn nằng nặc yêu cầu tha cho tên cướp Ba-ra-ba và đóng đinh Giê-su trên cây thập tự nên đã nghe theo (Tân Ước_Lu-ca 23: 1 – 24).
                              78. Dòng sông Akêrông: là con sông dưới Địa ngục theo thần thoại Hy Lạp. Đây là con sông do nước mắt vua Creta tạo thành, có bản cho là do tội lỗi của con người (xem khúc XIV, 94 – 138). Đầu tiên có tên Acheronte, tiếng Hy Lạp nghĩa là đau thương, chảy quanh vùng ngục thứ nhất. Sau đó, chảy xuống thấp hơn thành đầm Stige, nghĩa là hận thù, nơi hành hình những kẻ cuồng nộ (xem khúc VII, 106). Thấp hơn nữa thành dòng sông máu Flegetonta, nghĩa là nóng bỏng, nơi trừng phạt những kẻ bạo hành, những kẻ hại người thân (xem khúc XII, 47). Tiếp tục vẫn dòng sông máu và tên Flegetonta (xem khúc XIV, 113) xuyên qua khu rừng của những kẻ tự tử và trảng cát có mưa lửa (xem khúc XIV, 76 – 90; khúc XV, 1 – 12). Từ đây nó tạo thành những dòng thác ầm ầm đổ vào trong (xem khúc XVI, 1 – 3; 92 – 105) tạo thành đầm Cocito, nghĩa là khóc than (xem khúc XIV, 119; khúc XXXI, 123; khúc XXXII, 22 – 30; khúc XXXIV, 52). Sông Lete, nghĩa là quên lãng được Dante đặt ở “ngoài vực” (xem khúc XIV, 136 – 138) để cho những âm hồn đến rửa ráy sau khi đã chuộc lỗi lầm, để dòng sông sẽ cuốn đi những kỷ niệm về những điều lầm lỗi. Con sông này sau đó còn chảy tiếp đến Tĩnh ngục…
                              83. Ông già Carôngtê: là người lái đò đưa các linh hồn sang bên kia thế giới theo thần thoại. Trong Thần khúc Dante biến ông này thành một quỷ sứ của Địa ngục.
                              93. Cần tìm một con đò khác: Carôngtê biết rằng Dante không có lỗi lầm để phải chịu cực hình của Địa ngục nên phải tìm một con đò nhẹ nhàng để các thiên thần đưa đến gần Tĩnh ngục.
                              115. Giống Ađam ác độc: theo Cựu Ước, Eva nghe lời xui của con rắn đã ăn trái cấm và trao cho chồng là Ađam cùng ăn, họ đã thành những kẻ có tội và bị Đức Chúa Trời đuổi khỏi thiên đàng.
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 17 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9